Dư luận về chuyến thăm Việt Nam của Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc
Ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc, hôm nay đến Việt
Nam tham gia phiên họp thứ bảy, Ủy ban Chỉ đạo Song Phương Việt Nam-
Trung Quốc.
Phiên họp diễn ra trong lúc tình hình Biển Đông căng thẳng không có dấu hiệu giảm bớt khiến dư luận trong nước không mấy lạc quan về lần gặp này.
Phiên họp được chờ đợi?
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 5, cũng như tại cuộc họp báo quốc tế lần thứ tư hôm ngày 5 tháng 6 vừa qua, phía Việt Nam cho biết đã có hơn 30 cuộc điện đàm các cấp với phía Trung Quốc nhằm giải quyết vấn đề giàn khoan Hải Dương 981 hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Tin tức từ nước ngoài cũng cho hay tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam muốn được sang gặp lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh để nói chuyện giàn khoan Hải Dương 981; thế nhưng phía Trung Quốc từ chối.
Nay ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc, sang Hà Nội. Mục đính chính được nói là tham gia phiên họp thứ 7, Ủy ban Chỉ đạo Song Phương Việt Nam- Trung Quốc. Phiên họp này lẽ ra phải diễn ra hồi tháng 5, sau một năm phiên họp thứ 6 diễn ra ở Bắc Kinh hồi năm ngoái, tuy nhiên do căng thẳng giàn khoan HD981 giữa hai phía nên nay mới được tiến hành.
Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nguyên đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, nhắc lại bối cảnh tình hình từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại vùng thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam và suy luận về tầm quan trọng của phiên họp lần này:
Ai cũng biết ông Dương Khiết Trì và ông Phạm Bình Minh đã có cuộc điện đàm rất gay gắt, mỗi bên đều bảo vệ quan điểm của mình. Còn tình hình thì căng lên thôi chứ không giảm đi. Trong cuộc họp báo hôm qua (16/6) Việt Nam cũng đưa ra những tố cáo.
Ông này cấp cao hơn là ủy viên quốc vụ phụ trách vấn đề đối ngoại nên cuộc họp lần này sẽ có nhiều vấn đề hệ trọng chứ không phải đơn giản.
Ông Đinh Kim Phúc một nhà nghiên cứu Biển Đông từ Sài Gòn đưa ra nhận định về chuyến đến Việt Nam của ông Dương Khiết Trì kỳ này như sau:
Tôi thấy rằng với quyết tâm giải quyết việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam mà Việt Nam đã nhiều lần kêu gọi Trung Quốc giải quyết, bằng cách đối thoại kể cả cấp cao thì đợt ông Dương Khiết Trì sang, tôi nghĩ danh nghĩa Ủy ban Hỗn hợp Hai Bên chỉ là lý do. Có khả năng Trung Quốc rất sợ Việt Nam đưa vấn đề này ra tòa án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế thì Trung Quốc sẽ bẽ mặt.
Và tôi nghĩ rằng đây là một cơ hội rất tốt để phía Việt Nam trình bày tất cả những chính kiến của mình. Đây là một dịp may ‘ngàn năm có một’ để đấu tranh với Trung Quốc. Còn nếu chuyến này vì lý do ‘tinh thần 4 tốt, 16 chữ vàng’… mà Việt Nam tiếp tục nhượng bộ Trung Quốc thì tôi nghĩ rằng chẳng những giàn khoan 981 không được kéo đi, hoặc có kéo đi rồi 982, 943,944 lại đưa vào, muôn đời sẽ không giải quyết được chuyện trên Biển Đông và Việt Nam sẽ mất trắng, chẳng những bị xâm phạm chủ quyền mà khả năng còn mất trắng cả Trường Sa với những âm mưu và thủ đoạn của Trung Quốc.
Theo tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng phiên họp lần này chưa thể có hứa hẹn gì và ông nhắc lại cuộc đấu tranh với Trung Quốc của dân tộc Việt Nam như lịch sử chứng minh là một cuộc đấu tranh lâu dài với bao thăng trầm của nó. Việt Nam cần phải tận dụng mọi biện pháp tổng hợp trong cuộc đấu tranh này.
Kêu gọi đối với Đảng và chính phủ
Hôm nay, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh trước kia, đã có thư ngỏ gửi cho tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Theo thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thì tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng quá tin giới lãnh đạo Trung Quốc, quá trung thành với phương châm 16 chữ vàng, tinh thần 4 tốt do chính phía Trung quốc đề ra. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nói thẳng với tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là quá tin vào cơ sở hai đảng cùng chung ý thức hệ cộng sản và đã không làm gì khiến họ mất lòng.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh khẳng định lại là từ khi ông Đặng Tiểu Bình lên tiếng phát biểu rằng ‘mèo trắng hay mèo đen, miễn bắt được chuột là tốt’. Như thế Trung Quốc đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; mặc dù về mặt lý thuyết Bắc Kinh vẫn nói là ‘xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc.
Điều này cũng được thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nói với chúng tôi trong một cuộc phỏng vấn trước đây:
Tôi thấy cái mới của phía Trung Quốc là họ bỏ chủ nghĩa Mác- Lê Nin đi rồi, và tư tưởng Mao Trạch Đông cũng bỏ đi rồi. Thế nhưng ông tổng bí thư của chúng tôi lúc nào cũng nói chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Tôi không biết tới đây thế nào, nhưng Trung Quốc đã bỏ câu ấy rồi, đáng lẽ từ lâu rồi kia, từ khi Đặng Tiểu Bình nói rằng ‘mèo trắng cũng như mèo đen, miễn là bắt được chuột đều là mèo tốt’.
Nghĩa là Đặng Tiểu Bình đã đi con đường tư bản chủ nghĩa rồi. Hiện nay xã hội Trung Quốc cũng là xã hội tư bản, họ chỉ nói tiếng là ‘xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc’ là bịp thế thôi. Còn thực chất không còn xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc nữa, mà là xã hội tư bản rồi.
Trong thư ngỏ gửi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nói rõ ông không phản đối tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, nhưng ông phản đối các thế hệ cầm quyền của Trung Quốc luôn ấp ủ mưu đồ nô dịch Việt Nam.
Ông Nguyễn Trung, cựu đại sứ Việt Nam tại Thái Lan và nguyên thành viên ban cố vấn của cưu thủ tướng Phan Văn Khải, trong bài viết hôm ngày 15 tháng 6 vừa qua, kêu gọi mọi người phải ‘mở mắt to ra’.
Xin mượn câu kêu gọi trong bài đó của ông Nguyễn Trung để kết thúc phần trình bày này:
“Đất nước ta dứt khoát phải thoát ra khỏi sự kìm kẹp của ý thức hệ, vươn lên tự do dân chủ để tìm đường đi vào một thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã chuyển giai đoạn và trong tình hình Trung Quốc đang đặt nước ta trước những thách thức mới’.
Gia Minh, biên tập viên RFA 2014-06-17
Cánh Cò - Hãy tỉnh táo để nhìn Đảng
Người dân Việt Nam trong hơn tháng qua kể từ ngày Trung Quốc ngang nhiên
kéo giàn khoan vào sâu trong vùng biển đặc quyền kinh tế, mỗi người một
cách biểu lộ phản ứng của mình. Đến người hiền lành nhất cũng cảm nhận
bị đe dọa bởi quân xâm lược. Ra chợ sẽ thấy, những khuôn mặt lấm lem của
người mua gánh bán bưng luôn loáng thoáng nỗi lo âu chiến tranh và
trong ngôn ngữ thường ngày người ta không ít lần nghe đến hai chữ "giàn
khoan" cùng hàng ngàn bàn tán.
Những bàn tán rất đời thường trong quán cà phê, nơi công sở thậm chí
ngay trong các bàn tiệc quan hôn tang tế lộ ra một điều: mọi sự đã phơi
bày trước bàn dân thiên hạ về ý đồ xâm lăng của Trung Quốc. Khởi đầu thì
người ta lo ngại, dần dà là sự tức giận và cuối cùng là cay đắng, xấu
hỗ.
Lo ngại vì Trung Quốc mạnh và tham vọng bá quyền. Tức giận vì Việt Nam
gần như cô độc trong vùng, ngoại trừ Philippines, số còn lại trong khối
ASEAN hầu như im lặng không một lời phê phán. Và cuối cùng là cay đắng,
xấu hỗ khi Trung Quốc công bố một loạt những bằng chứng về Công hàm Phạm
Văn Đồng ký năm 1958. Sách giáo khoa địa lớp 9 của Việt Nam xuất bản
năm 1974 rồi bản đồ thế giới do Cục Đo đạc Bản đồ Việt Nam in năm 1972
công nhận Hoàng Sa - Trường Sa là của Trung Quốc. Cả nước chết lặng, cổ
đắng họng khan, nghẹn ngào khi biết ra rằng cả một hệ thống cầm quyền từ
xưa tới nay đã lạc vào mê hồn trận do Trung Quốc sắp đặt.
Câu hỏi từ mấy năm qua: tại sao không đem Hoàng Sa - Trường Sa vào sách
giáo khoa đã có lời giải. Một lời nguyền thì đúng hơn, bởi nó chứa đựng
một chính sách nhất quán sai lầm của nhiều đời Tổng Bí thư. Ngay cả Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng không nhận ra lòng tham vô tận của người anh em mà
ông ăn nằm và tin cẩn như ruột thịt.
Ruột thịt ấy đã quay mặt với ông từ lâu và đến hôm nay thì giọt nước
cuối cùng trong chiếc ly đen tối mang tên hữu nghị đã rơi xuống đất.
Kinh thánh Thiên chúa giáo có nhân vật Giu Da cả gan bán Chúa cho quân
Do Thái để lấy 30 đồng bạc sao mà giống câu chuyện của Đảng cộng sản
Việt Nam công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Quốc đến thế.
Giu Da lập luận rằng Chúa của ông là quyền năng vô tận không một thế lực
nào có thể bắt và giết ngài, vì vậy lừa bọn Do Thái để lấy 30 đồng bạc
là một hành động thông minh có khi còn được khen thưởng. Giu Da không
ngờ ý Chúa đã muốn cứu chuộc nhân loại và hành động của y như một bài
học cho con người về sự phản phúc chứ không thể xem là khôn ngoan.
Ông Phạm Văn Đồng rơi đúng vào trường hợp này khi nghĩ rằng ký công hàm
không phải là xác nhận chủ quyền vào tay Trung Quốc. Chữ ký ấy chỉ có ý
nghĩa làm vui lòng một thế lực đang giúp Việt Nam chiến đấu chống Mỹ và
do đó có thể cho là một sự khôn khéo của ngoại giao.
Ông Đồng và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đi theo vết xe của Giu Da bán
Chúa. Thay vì bán một thánh nhân thì ông và Đảng cộng sản đã đem đất
nước ra đặt cược với Trung Quốc. Từ tờ công hàm ấy, Việt Nam trượt dài
dưới áp lực của phương Bắc để có thêm hai hành động mê muội theo sau
khiến Trung Quốc không dại gì mà không khai thác.
Ba chi tiết dẫn đến mất nước ấy không ai có khả năng phản biện vì càng cố phản biện thì sự ngụy biện càng lộ rõ hơn.
Bây giờ thì mọi câu hỏi trong quá khứ đã có lời giải thỏa đáng. Đảng và
nhà nước Việt Nam ý thức công hàm Phạm Văn Đồng là lưỡi gươm Damocles
luôn lơ lủng trên đầu nên khi dân chúng biểu tình chống Trung Quốc thì
chính quyền đàn áp không thương tiếc. Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập do
nhà nước cố tình làm ngơ. Nhà thầu Trung Quốc chiếm mọi cuộc thầu lớn
nhỏ, nhập siêu của Trung Quốc mỗi năm mỗi cao hơn...là những biều hiện
lấy lòng để Trung Quốc quên đi chuyện cũ...
Thế nhưng Việt Nam mới là kẻ mau quên. Quên Trung Quốc là một anh bạn
lật lọng và sẵn sàng làm mọi chuyện để đạt mục đích của họ. Nhường nhịn
như vậy nhưng Việt Nam vẫn không bịt được mồm của một kẻ quen thói lu
loa nhất là lu loa để lấy hết biển Đông thì dù có làm hơn thế trăm lần
Trung Quốc cũng sẽ theo đến cùng cuộc chiến tranh mồm mép.
Còn một chút niềm tin vào Chủ nghĩa Xã hội cũng bị Trung Quốc dày xéo
lên luôn, thế là Đảng và nhà nước Việt Nam đành quay mặt vào... nhau tìm
phương kế thoát ra tiếng xấu ngàn đời.
Báo chí rõ ràng không dám đổ tội cho Phạm Văn Đồng, vì làm như thế là
chấp nhận công hàm bán nước. Nhưng dù không chấp nhận cũng khó mà tranh
cãi giữa tòa án quốc tế, nơi bài học Giu Da bán Chúa đã được các ông bà
thẩm phán người phương Tây thuộc lòng từ khi mới sinh ra.
Những bằng chứng ấy phải được can đảm chấp nhận và biện pháp duy nhất
giải độc nó là nhận lỗi trước nhân dân cả nước về sai lầm này.
Nhận lỗi không phải để tiếp tục cầm quyền mà phải rút lui ra khỏi cương
vị hiện nay vì tất cả các ông/bà trong Bộ chính trị không ai xứng đáng
đại diện cho nhân dân Việt Nam cả. Liên đới trách nhiệm buộc những người
đang đi dưới lá cờ của Đảng cộng sản Việt Nam phải thấy đó là sự sỉ
nhục chung không thể bào chữa. Nếu còn lương tri hãy vứt thẻ đảng để lo
cứu nước còn hơn ôm một mớ ảo tưởng ngồi đó chờ ngày người dân đến tước
thẻ của mình.
Nếu sau chiến tranh đảng viên được cho là những người có công với cách
mạng, đất nước thì công hàm Phạm Văn Đồng và sách giáo khoa, bản đổ do
Việt Nam phát hành phải được xem là hành động làm cho mất nước. Người
đảng viên đi dưới lá cờ của Đảng cộng sản không thể vô can và vì vậy
không được tiếp tục nhắm mắt đi theo đường của đảng vẽ ra, kể cả con
đường chống giặc Tàu nếu có.
Khi chữ Đảng không còn linh thiêng nữa thì hãy trở về với lòng yêu nước
còn sót lại hiếm hoi trong tim các vị. Đã đến lúc phải chấp nhận rằng
Đảng không còn chút giá trị gì khi nhận vai trò lãnh đạo chống ngoại
xâm. Chính Đảng mới là lực cản của toàn bộ sức mạnh dân tộc.
Đảng không còn tỉnh táo để hướng dẫn bất cứ ai vì ngay người nắm vận mệnh của nó đã không còn đủ sáng suốt từ nhiều năm qua.
Hãy nhìn ông Nguyễn Phú Trọng thì thấy ngay mặt trái của đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay. Hơn ba triệu đảng viên Cộng sản dưới quyền của ông
Trọng đã có phát biểu nào cho ra hồn khi chính ông thủ lĩnh không thèm
nói một lời chống giặc?
Hay ông chờ cho tới ngày 15 tháng Tám khi giàn khoan 981 rút đi vì bão
tố, sóng dữ thì trở lại vai trò nhạc trưởng, đưa chiếc gậy chỉ huy lên
cho toàn đảng của ông cất lên bài ca núi liền núi sông liền sông, Việt
Nam luôn trọng tình hữu nghị?
Cánh Cò
(Blog Cánh Cò)
Mâu thuẫn đối nội luôn quan trọng hơn mâu thuẫn đối ngoại
Khái
niệm đối nội, đối ngoại ở đây được hiểu một cách tương đối. Mâu thuẫn
đối nội không bao giờ trở thành thứ yếu so với mâu thuẫn đối ngoại,
ngoại trừ sự vật thay đổi, nó không còn là nó. Đây là vấn đề chung mang
tính quy luật của sự vật; trong lĩnh vực lợi ích chính trị, quyền lực
nhà nước, chính thể nói riêng cũng như vậy. Lịch sử đấu tranh của các tổ
chức chính trị, các cá nhân có quyền lực chính trị trong xã hội đã
chứng minh nguyên tắc này. Như các dẫn chứng lịch sử sau đây.
Không ít các thế lực chính trị trong các triều đại phong kiến Việt Nam do nhu cầu tranh giành quyền lực của phe nhóm hay vì mâu thuẫn đối nội mà đã sẵn sang cầu viện thế lực bên ngoài. Họ sẵn sàng hy sinh lợi ích của quốc gia, lợi ích của dân tộc để rước giặc vào nhà chỉ vì lợi ích của phe nhóm hoặc vì lợi ích một số cá nhân. Đến khi vì lợi ích cá nhân, Hoàng hậu có thể giết Vua để thay con chấp chính, con giết cha, em giết anh để tranh giành ngôi báu…
Liên Xô trước khi chiến tranh với Phát-xít Đức nổ ra, thay vì phải tập hợp, đoàn kết mọi sức mạnh ở trong nước để chống Phát-xít Đức, việc làm đầu tiên của Stalin đã thanh trừng ngay hơn 30% số sỹ quan của quân đội mà Stalin vì cho rằng họ không đáng tin cậy, không trung thành với ông ta.
Trung Quốc, trong thời kỳ chiến tranh chống Phát-xít Nhật thì Đảng Cộng sản Trung Quốc tuy liên minh với Quốc dân Đảng để kháng Nhật, nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn có âm mưu lợi dụng quân Nhật để triệt hạ lực lượng của Quốc dân Đảng và luôn coi Quốc dân Đảng là mối nguy hại hơn cả quân Nhật. Trong nội bộ, sau này giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc các cá nhân cũng luôn sẵn sàng thủ tiêu, giết hại đẫm máu lẫn nhau để tranh giành quyền lực.
Hoặc trong phe Xã hội chủ nghĩa trước đây, khi Trung Quốc và Liên Xô có mâu thuẫn, tuy rằng cùng ý thức hệ Mác-Lê Nin nhưng Trung Quốc sẵn sàng vì lợi ích của mình, tranh giành ngôi bá chủ trong phe với Liên Xô; Trung Quốc đã từng bắt tay với Mỹ để chống Liên Xô trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Các cá nhân lãnh đạo, các phe phái, thế lực chính trị trong một đất nước trong một tổ chức luôn lợi dụng mâu thuẫn bên ngoài như là một hiện tượng thiên tai, hiện tượng của thời tiết để tiêu diệt, triệt hạ lẫn nhau. Họ có thể sẵn sàng bắt tay với bên ngoài thậm trí làm tay sai, lệ thuộc để duy trì hoặc tranh giành quyền lực ở trong nước, trong đảng.
Mâu thuẫn đối nội luôn quan trọng hơn mâu thuẫn đối ngoại. Bằng là nhiều cuộc chiến tranh lân bang giữa các quốc gia, mâu thuẫn giữa các quốc gia đã khép lại nhưng mâu thuẫn nội tộc lại không thể hàn gắn. Lịch sử đã có nhiều gia đình hoàng tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam phải lưu vong đã mãi không bao giờ hồi hương… Do vậy, khi đất nước bị lâm nguy, sinh mệnh dân tộc bị đe dọa thì không ai khác chính nhân dân phải là người thức tỉnh trước bài học mang tính quy luật này. Ảo tưởng vì sự đoàn kết chống giặc ngoại xâm, mất cảnh giác vì cùng huyết thống, cùng giống nòi như An Dương Vương đã là bài học lịch sử muôn đời cho dân tộc Việt Nam.
Hà Nội, ngày 18/06/2014
Hà Huy Sơn
Tác giả gửi BVN
Không ít các thế lực chính trị trong các triều đại phong kiến Việt Nam do nhu cầu tranh giành quyền lực của phe nhóm hay vì mâu thuẫn đối nội mà đã sẵn sang cầu viện thế lực bên ngoài. Họ sẵn sàng hy sinh lợi ích của quốc gia, lợi ích của dân tộc để rước giặc vào nhà chỉ vì lợi ích của phe nhóm hoặc vì lợi ích một số cá nhân. Đến khi vì lợi ích cá nhân, Hoàng hậu có thể giết Vua để thay con chấp chính, con giết cha, em giết anh để tranh giành ngôi báu…
Liên Xô trước khi chiến tranh với Phát-xít Đức nổ ra, thay vì phải tập hợp, đoàn kết mọi sức mạnh ở trong nước để chống Phát-xít Đức, việc làm đầu tiên của Stalin đã thanh trừng ngay hơn 30% số sỹ quan của quân đội mà Stalin vì cho rằng họ không đáng tin cậy, không trung thành với ông ta.
Trung Quốc, trong thời kỳ chiến tranh chống Phát-xít Nhật thì Đảng Cộng sản Trung Quốc tuy liên minh với Quốc dân Đảng để kháng Nhật, nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn có âm mưu lợi dụng quân Nhật để triệt hạ lực lượng của Quốc dân Đảng và luôn coi Quốc dân Đảng là mối nguy hại hơn cả quân Nhật. Trong nội bộ, sau này giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc các cá nhân cũng luôn sẵn sàng thủ tiêu, giết hại đẫm máu lẫn nhau để tranh giành quyền lực.
Hoặc trong phe Xã hội chủ nghĩa trước đây, khi Trung Quốc và Liên Xô có mâu thuẫn, tuy rằng cùng ý thức hệ Mác-Lê Nin nhưng Trung Quốc sẵn sàng vì lợi ích của mình, tranh giành ngôi bá chủ trong phe với Liên Xô; Trung Quốc đã từng bắt tay với Mỹ để chống Liên Xô trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Các cá nhân lãnh đạo, các phe phái, thế lực chính trị trong một đất nước trong một tổ chức luôn lợi dụng mâu thuẫn bên ngoài như là một hiện tượng thiên tai, hiện tượng của thời tiết để tiêu diệt, triệt hạ lẫn nhau. Họ có thể sẵn sàng bắt tay với bên ngoài thậm trí làm tay sai, lệ thuộc để duy trì hoặc tranh giành quyền lực ở trong nước, trong đảng.
Mâu thuẫn đối nội luôn quan trọng hơn mâu thuẫn đối ngoại. Bằng là nhiều cuộc chiến tranh lân bang giữa các quốc gia, mâu thuẫn giữa các quốc gia đã khép lại nhưng mâu thuẫn nội tộc lại không thể hàn gắn. Lịch sử đã có nhiều gia đình hoàng tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam phải lưu vong đã mãi không bao giờ hồi hương… Do vậy, khi đất nước bị lâm nguy, sinh mệnh dân tộc bị đe dọa thì không ai khác chính nhân dân phải là người thức tỉnh trước bài học mang tính quy luật này. Ảo tưởng vì sự đoàn kết chống giặc ngoại xâm, mất cảnh giác vì cùng huyết thống, cùng giống nòi như An Dương Vương đã là bài học lịch sử muôn đời cho dân tộc Việt Nam.
Hà Nội, ngày 18/06/2014
Hà Huy Sơn
Tác giả gửi BVN
Hậu quả của một nền giáo dục duy ý thức hệ
Các bản đồ cổ được trưng bày tại một cuộc triển lãm về Trường Sa và Hoàng Sa tại Bảo tàng Quân đội Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 2013. |
Ngày 9/6/2014 Trung Quốc tung một đòn mới trên phương diện pháp lý và
ngoại giao nhằm củng cố vị thế của họ trong các tranh chấp chủ quyền ở
biển Đông. Đó là việc họ đề nghị lưu hành tại Liên hiệp Quốc các tài
liệu bản đồ và sách giáo khoa được nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
phát hành, tức là miền Bắc Việt Nam lúc đất nước chưa thống nhất. Nội
dung các tài liệu này được Trung Quốc diễn dịch rằng Việt Nam công nhận
chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng sa và Trường sa, mà tên
theo Trung Quốc gọi là Tây sa và Nam sa.
Nguyên văn đoạn văn trong cuốn sách giáo khoa địa lý lớp chín mà TQ đưa ra như sau:
“Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây sa đến các đảo Đài Loan, Hải
Nam, quần đảo Hoàng bồ Châu sơn,… làm thành một bức Trường thành bảo vệ
lục địa Trung Quốc.”
Trong cuộc họp báo chiều ngày 16/6/2014, các viên chức ngoại giao Việt
Nam tiếp tục đưa các tài liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các
quần đảo tranh chấp, tuy nhiên vẫn chưa có lời giải thích chính thức
nào được đưa ra để giải thích nội dung cuốn sách giáo khoa địa lý lớp
chín mà TQ đang viện dẫn.
Một cựu quan chức bộ ngoại giao Việt Nam là Trần Công Trục trong một bài
trả lời báo Giáo dục nói rằng đó chỉ là những tài liệu dùng để dạy học.
Giáo sư Trần Hữu Dũng từ Hoa Kỳ có nhận định về lý lẽ của ông Trục
rằng:
“Trong một Quốc gia mà chính nhà nước sọan, in và phân phát những tài
liệu này thì khó lòng mà nói rằng đó không phải là chủ trương của nhà
nước.”
Trong phần cuối của bài đăng trên báo Giáo dục, Tiến sĩ Trần Công Trục còn nói:
“Trong đó không thể không nói đến tư duy ý thức hệ được hình thành và liên kết trong thời kỳ chiến tranh lạnh…”
Câu phát biểu này của ông Trục được minh họa bằng đoạn sau đây trong
cuốn sách giáo khoa mà Trung Quốc dùng làm chứng cớ chuyện Việt Nam công
nhận chủ quyền của họ:
“Hiện nay Đài Loan và các đảo xung quanh còn bị đế Quốc Hoa kỳ và bọn
tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền
an ninh của Trung Quốc, của Viễn Đông và miền Tây Thái Bình Dương.”
Tuy nhiên khó có thể lấy lý do cho việc tranh chấp chủ quyền bằng …Ý thức hệ.
Ông Phùng Hoài Ngọc, một người học tập và lớn lên ở miền Bắc trước năm
1975, nguyên trưởng khoa ngữ văn đại học An giang nói với chúng tôi về
việc chi phối của ý thức hệ trong nền giáo dục Việt Nam, nhất là ở miền
Bắc trước kia:
“Các môn khoa học xã hội nhân văn ở miền Bắc rõ ràng mang tính chính
trị quá nặng, rõ ràng là nó bị chính trị áp đặt quá nặng rồi. Cái điều
này là quá rõ.”
Và theo ông Ngọc thì môn Địa lý vẫn thường được xem là một môn nằm trong khối khoa học xã hội nhân văn.
Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFA, kỹ sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một
người rất quan tâm đến ngành giáo dục Việt Nam cho rằng tính chính trị
hóa là một trong nững điểm yếu kém của giáo dục Việt Nam hiện tại. Một
nhà giáo khác là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nói về mục tiêu giáo dục của ngành
giáo dục Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam như sau:
“Đảng mở ra cái giáo dục chẳng qua là để đào tạo những công cụ, những người phục vụ cho cái công cuộc mà Đảng chủ trương.”
Dĩ nhiên sách giáo khoa làm ra là để phục vụ cho mục tiêu giáo dục.
Trong trường hợp của nước Việt Nam cộng sản là phục vụ cho các chủ
trương của đảng. Điều này đảng cộng sản Việt Nam cũng không hề giấu giếm
trong các tuyên bố của các quan chức của họ. Một trong những mục tiêu
của đảng trong những năm chiến tranh lạnh chính là quan hệ đồng minh ý
thức hệ với Trung Quốc.
Trớ trêu thay người đồng minh ý thức hệ đó vào năm 1979 đã phát động một
cuộc chiến tranh biên giới ngắn nhưng đẫm máu với người anh em cùng lý
tưởng của mình. Năm 2014 về nguyên tắc cả hai Quốc gia vẫn là đồng minh ý
thức hệ của nhau, và đối lập với họ, vẫn là đế Quốc Hoa kỳ và tay sai
như trong sách giáo khoa địa lý của năm 1974. Nhưng cũng chính người
đồng minh ý thức hệ từ Bắc Kinh nay lại giương cao trang sách địa lý
thấm đẫm nghĩa tình ý thức hệ mà đòi biển đảo.
Thực tế đã diễn ra không như ý thức hệ, nước Việt Nam 40 năm sau ngày in
cuốn sách giáo khoa ấy đã khác, sách giáo khoa địa lý lớp chín hiện nay
cũng không còn những dòng chữ đó. Nhưng sự bao trùm của ý thức hệ trong
giáo dục Việt Nam đã để lại hệ lụy khó lường cho Việt Nam hiện nay, vì
theo như lời Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn từ Úc nói rằng cái cách biện giải
giấy tờ, tài liệu có liên quan đến chủ quyền theo kiểu ý thức hệ là
không thuyết phục.
Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-17
Hồi ký Clinton: TQ 'quá đà'
Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ
Hillary Clinton nói trong hồi ký mới xuất bản, 'Lựa chọn Khó khăn' rằng
Trung Quốc đã 'đi quá đà' ở châu Á.
Hồi ký nói các vụ chạm trán giữa tàu Trung Quốc và tàu của Philippines, Việt Nam và Nhật Bản thực tế đã diễn ra sau vụ đối đầu giữa tàu hải quân Hoa Kỳ Impeccable với năm tàu của Trung Quốc hồi năm 2009.
Hồi ký nói các vụ chạm trán giữa tàu Trung Quốc và tàu của Philippines, Việt Nam và Nhật Bản thực tế đã diễn ra sau vụ đối đầu giữa tàu hải quân Hoa Kỳ Impeccable với năm tàu của Trung Quốc hồi năm 2009.
Trong sự cố xảy ra cách đảo Hải Nam
chừng 120km, các thủy thủ Trung Quốc đã ném những tấm gỗ xuống nước để
chặn tàu Impeccable và tàu này đáp lại bằng phun vòi cứu hỏa vào thủy
thủ Trung Quốc khiến có thủy thủ bị nước xối bay hết quần áo chỉ còn xà
lỏn.
Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói Trung Quốc đã ngày càng hung hăng (aggressive) với các nước láng giềng thay vì cải thiện quan hệ với họ giữa lúc Bắc Kinh cho rằng Hoa Kỳ đang vắng bóng ở châu Á và còn đang bị chi phối bởi hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan.
Bà nói sự hung hăng của Trung Quốc sẽ có thể đẩy các nước, nhất là các nước Đông Á nhỏ vào những liên minh quân sự đắt đỏ trong vùng mà cho tới nay Hoa Kỳ chỉ có hiệp ước bảo vệ Nhật Bản và Philippines khi hai nước này bị tấn công.
Nhưng Việt Nam chính là nơi hồi năm 2010 bà đã có phát biểu mạnh mẽ nhấn mạnh chuyện tự do hàng hải là "lợi ích quốc gia" của Hoa Kỳ để đối trọng với "lợi ích cốt lõi" mà Trung Quốc gắn cho Biển Đông, bà Clinton viết trong sách.
Bà nói thêm phát biểu của bà tại cuộc họp của khối ASEAN ở Hà Nội đã khiến Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc khi đó Dương Khiết Trì "giận tái người" và đề nghị giải lao một giờ trước khi trở lại với bài phát biểu hùng hồn của ông.
"Nhìn chằm chằm vào tôi, ông ấy gạt đi những xung đột ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và cảnh cáo sự can thiệp của bên ngoài," bà viết.
Bà Clinton cũng nói ông Dương nhắc cử tọa rằng "Trung Quốc là nước lớn. Lớn hơn bất cứ nước nào ở đây."
'Cơ hội độc đáo'
Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói Trung Quốc đã ngày càng hung hăng (aggressive) với các nước láng giềng thay vì cải thiện quan hệ với họ giữa lúc Bắc Kinh cho rằng Hoa Kỳ đang vắng bóng ở châu Á và còn đang bị chi phối bởi hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan.
Bà nói sự hung hăng của Trung Quốc sẽ có thể đẩy các nước, nhất là các nước Đông Á nhỏ vào những liên minh quân sự đắt đỏ trong vùng mà cho tới nay Hoa Kỳ chỉ có hiệp ước bảo vệ Nhật Bản và Philippines khi hai nước này bị tấn công.
"Nhìn chằm chằm vào tôi, ông ấy gạt đi những xung đột ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và cảnh cáo sự can thiệp của bên ngoài." - Bà Clinton nói về ông Dương Khiết Trì tại cuộc họp ở Hà Nội hồi năm 2010Trong sách bà Clinton nói nhiều tới Trung Quốc, từ được nhắc tới hơn 300 lần trong hồi ký so với khoảng 10 lần đối với từ Việt Nam.
Nhưng Việt Nam chính là nơi hồi năm 2010 bà đã có phát biểu mạnh mẽ nhấn mạnh chuyện tự do hàng hải là "lợi ích quốc gia" của Hoa Kỳ để đối trọng với "lợi ích cốt lõi" mà Trung Quốc gắn cho Biển Đông, bà Clinton viết trong sách.
Bà nói thêm phát biểu của bà tại cuộc họp của khối ASEAN ở Hà Nội đã khiến Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc khi đó Dương Khiết Trì "giận tái người" và đề nghị giải lao một giờ trước khi trở lại với bài phát biểu hùng hồn của ông.
"Nhìn chằm chằm vào tôi, ông ấy gạt đi những xung đột ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và cảnh cáo sự can thiệp của bên ngoài," bà viết.
Bà Clinton cũng nói ông Dương nhắc cử tọa rằng "Trung Quốc là nước lớn. Lớn hơn bất cứ nước nào ở đây."
Liên quan tới Việt Nam, vị cựu ngoại trưởng nhớ lại chuyến tháp tùng chồng, Tổng thống Bill Clinton, tới Việt Nam hồi năm 2000 và nói rằng họ đã chuẩn bị sẵn để đương đầu với sự căm phẫn hay thậm chí thù nghịch nhưng đông đảo người dân Việt Nam đã xếp hàng chào đón.
Mười năm sau bà trở lại trong cương vị ngoại trưởng để chứng kiến thương mại song phương đạt gần 20 tỷ đôla, tăng đáng kể từ mức 250 triệu đôla trước khi quan hệ được bình thường hóa năm 1995.
Bà nhận xét: "Việt Nam là cơ hội độc đáo chiến lược cho dù đầy thách thức.
"Một mặt đây vẫn là quốc gia độc đoán với tình trạng nhân quyền kém, nhất là tự do báo chí.
"Mặt khác họ đang dần dần mở cửa kinh tế và cố gắng có vai trò lớn hơn trong khu vực."
Bà Clinton nói hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương là một trong những công cụ quan trọng để kết nối với Việt Nam.
Hiệp ước, hiện vẫn đang được đàm phán, có mục tiêu hạn chế các rào cản thương mại trong khi nâng cao tiêu chuẩn lao động, môi trường và sở hữu trí tuệ.
Bà Clinton cũng nói trong tư cách ngoại trưởng bà đã nêu những lo ngại cụ thể của Hoa Kỳ về chuyện Việt Nam áp đặt hạn chế tùy tiện đối với các quyền tự do căn bản trong đó có các vụ bắt bớ và mức án nặng dành cho giới luật sư, blogger, những người bất đồng chính trị, các nhà hoạt động Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo.
"Mặt khác họ đang dần dần mở cửa kinh tế và cố gắng có vai trò lớn hơn trong khu vực."
Bà Clinton nói hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương là một trong những công cụ quan trọng để kết nối với Việt Nam.
Hiệp ước, hiện vẫn đang được đàm phán, có mục tiêu hạn chế các rào cản thương mại trong khi nâng cao tiêu chuẩn lao động, môi trường và sở hữu trí tuệ.
Bà Clinton cũng nói trong tư cách ngoại trưởng bà đã nêu những lo ngại cụ thể của Hoa Kỳ về chuyện Việt Nam áp đặt hạn chế tùy tiện đối với các quyền tự do căn bản trong đó có các vụ bắt bớ và mức án nặng dành cho giới luật sư, blogger, những người bất đồng chính trị, các nhà hoạt động Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo.
(BBC)
Dương Khiết Trì sẽ ép Việt Nam không nên tìm kiếm hỗ trợ từ Mỹ
(GDVN) - Ông Trì sẽ nhắc lại sự phản đối (vô lý) của Trung Quốc với những nỗ lực của Việt Nam tìm kiếm sự ủng hộ quốc tế.
Ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc. |
The New York Times hôm nay đưa tin, ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc sẽ hội đàm với Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh ngày hôm nay, trong đó 2 bên sẽ đề cập đến vụ giàn khoan 981 (Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam).
Dương Khiết Trì là quan chức đứng đầu về đối ngoại trong chính phủ Trung Quốc, ông được biết đến như người theo đuổi việc quảng bá các hoạt động bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông bằng lý sự cùn và ít khả năng đưa ra các nhượng bộ hay một bước đột phá trong tình hình căng thẳng, The New York Times dẫn lời các nhà ngoại giao giấu tên nhận xét.
Theo họ, rất có thể ông Trì sẽ nhắc lại sự phản đối (vô lý) của Trung Quốc với những nỗ lực của Việt Nam tìm kiếm sự ủng hộ quốc tế trong việc phản đối Bắc Kinh xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam trong vụ giàn khoan 981.
Ông Trì sẽ nhấn mạnh rằng Việt Nam không nên tìm kiếm sự hỗ trợ tinh thần hay vật chất nào từ Hoa Kỳ, các nhà ngoại giao cho biết. Chính quyền Tổng thống Obama đã lên án vụ hạ đặt trái phép giàn khoan 981 là hành động khiêu khích, bày tỏ sự không hài lòng với động thái đơn phương (gây hấn) của Trung Quốc.
Trong vài tuần quan, tình hình ở khu vực giàn khoan dường như đã rơi vào "sự ổn định nguy hiểm", một quan chức chính quyền Mỹ thông thạo tình hình quan hệ Việt - Trung nói với The New York Times.
Theo Reuters, các chuyên gia cho rằng mặc dù việc ông Trì sang Việt Nam là một dấu hiệu 2 bên muốn giảm bớt căng thẳng nhưng có nhiều trở ngại để khôi phục mối quan hệ.
Hãng Reuters cho biết sau hội đàm với Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, ông Dương Khiết Trì sẽ hội kiến với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Bà Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã hạ giọng khi bày tỏ: "Chúng tôi hy vọng rằng Việt Nam nên có cái nhìn đại cục, cùng với Trung Quốc hướng tới mục tiêu giải quyết tình hình hiện nay một cách thích hợp". Tuy nhiên, Tân Hoa Xã vẫn luận điệu cũ vu cáo và xuyên tạc khi trích dẫn lời ông Trì trước đó yêu cầu Việt Nam "ngừng quấy rối các hoạt động bình thường của giàn khoan Trung Quốc"?!
The Diplomat ngày 18/6 bình luận, cuộc gặp giữa ông Dương Khiết Trì với đối tác Việt Nam là một dấu hiệu tích cực đầu tiên trong quan hệ Việt - Trung kể từ khi xảy ra khủng hoảng 981, nhưng hiện tại dường như có rất ít chỗ cho 1 sự thỏa hiệp.
Trung Quốc nhiều lần tuyên bố rằng họ sẽ không chấp nhận thỏa hiệp dù chỉ 1 tấc về cái gọi là "chủ quyền lãnh thổ", không chấp nhận rút giàn khoan trong khi dư luận Việt Nam đã rất phẫn nộ trước hành động khiêu khích của phía Trung Quốc.
Cuộc tiếp xúc này mặc dù không phải phương thuốc vạn năng chữa bách bệnh nhưng vẫn là một điều kiện tiên quyết cho việc xử lý khủng hoảng. Điều thú vị là ở chỗ, bản thân cuộc khủng hoảng giàn khoan 981 tự nó sẽ kết thúc vào ngày 15/8 khi hết thời hạn thăm dò.
Trung Quốc có thể hy vọng chỉ đơn giản là duy trì căng thẳng (thu hút sự chú ý) trong vụ giàn khoan cho đến lúc 981 được rút (để rảnh tay âm thầm, lén lút biến đá thành đảo một cách bất hợp pháp ở Trường Sa?
Hồng Thủy
Kiến nghị xử lý quyết liệt vụ khai man hồ sơ anh hùng ở Huế
Các cựu chiến binh vẫn hết sức bức xúc
Tại trụ sở Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế chiều 16.6, các cựu chiến binh, cán
bộ hưu trí - những người từng tố cáo ông Hồ Xuân Mãn, nguyên Bí thư Tỉnh
ủy Thừa Thiên - Huế khai man hồ sơ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân, đã có buổi làm việc với Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế.
Đại
diện Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế, có: ông Bùi Thanh Hà, Chủ nhiệm Ủy ban
kiểm tra Tỉnh ủy; Phan Văn Quang, Trưởng ban Nội chính và thư ký Trần
Ngọc Hà.
Các
cựu chiến binh gồm các ông: Hoàng Phước Sum, Hoàng Tiến Dũng, Hoàng Văn
Phận, Thái Bình Dương… yêu cầu đại diện Thường vụ Tỉnh ủy trả lời về
tiến độ hủy bỏ danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của ông
Mãn; các cá nhân, cơ quan có liên quan đã để xảy ra các vi phạm, khuyết
điểm trong việc xét hồ sơ cho ông Mãn.
Tại
buổi làm việc, các cựu chiến binh (CCB) cùng bày tỏ bức xúc và thắc mắc
việc 6 tháng kể từ khi Ủy ban Kiểm tra trung ương có kết luận (tháng
1-2014), Ban thường vụ Tỉnh ủy vẫn không thực hiện kiểm điểm trách nhiệm
tập thể và các cá nhân để xảy ra sai phạm trong việc xét đề nghị phong
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho ông Mãn.
Trước
đó, ngày 18.12.2013, Ban Bí thư cũng đã có Quyết định 6963 giao cho Ban
thi đua khen thưởng T.Ư và các cơ quan chức năng xem xét hủy bỏ quyết
định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho ông
Mãn; đồng thời xem xét và xử lý các cá nhân, đơn vị liên quan đến việc
xét duyệt hồ sơ cho ông Mãn.
Tuy nhiên, đã 6 tháng trôi qua, Quyết định này vẫn chưa được thực hiện. Ông Mãn vẫn đang là anh hùng.
Các
CCB còn kiến nghị Thường vụ Tỉnh ủy cho biết kết quả thẩm tra, xác minh
việc nhiều CCB, cán bộ hưu trí tố cáo ông Mãn bị đe dọa, khủng bố tinh
thần, đánh đập.
Đặc
biệt, các CCB còn yêu cầu Thường vụ Tỉnh ủy và các cơ quan chức năng
xem xét, xác minh lại hồ sơ, lý lịch đảng viên của ông Mãn. “Mãn có thật
là đảng viên không? Ông Mãn kết nạp Đảng lúc nào, ở đâu, chi bộ nào, vì
theo lý lịch ông Mãn khai có những mâu thuẫn".
Ông
Bùi Thanh Hà trả lời các CCB: “Buổi làm việc hôm nay, chúng tôi nghe là
chính rồi về báo cáo cho lãnh đạo Thường vụ Tỉnh ủy để có hướng giải
quyết. Chúng tôi sẽ tiếp tục thẩm tra, xác minh về các băn khoăn, kiến
nghị của các bác”.
“Ông
Mãn được phong anh hùng do Thường vụ Tỉnh ủy đề xuất, làm hồ sơ. Việc
hủy quyết định này thì Thường vụ Tỉnh ủy cũng phải có ý kiến, đề xuất
chứ không thể trả lời kiểu né tránh, phủi trách nhiệm được. Trước Tết
nguyên đán 2014, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Ngọc Thiện cho biết dự kiến ra
tết, Tỉnh ủy sẽ xem xét sai sót, vi phạm các cơ quan, cá nhân trong tỉnh
theo kết luận của Ban Bí thư; đồng thời tiến hành kiểm điểm Thường vụ
Tỉnh ủy và các cá nhân liên quan. Tuy nhiên, đã qua mùa xuân rồi sắp hết
mùa hạ vẫn chưa thực hiện. Chúng tôi tiếp tục gửi đơn thư, kiến nghị ra
Trung ương”, CCB Hoàng Tiến Dũng nói.
15/17 thành tích là không đúng sự thật
Trước đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương (UBKT T.Ư) đã có buổi làm việc với một số cựu chiến binh đứng đơn tố cáo ông Mãn. Theo
đó, trong số 17 thành tích mà ông Mãn khai tại bản kê khai của mình,
kết quả thẩm tra, xác minh cho thấy có đến 15 thành tích không đúng thực
tế.
Cụ
thể, trong số 17 thành tích của ông Mãn, có 8 thành tích báo cáo không
đúng, 4 thành tích không đủ cơ sở để xác định, 3 thành tích ông Mãn khai
mình là người chỉ huy đơn vị lập công nhưng thực tế chỉ là người tham
gia phối hợp...
Trong
số 15 thành tích không đúng thực tế của ông Mãn, có nhiều thành tích mà
ông này khai man. Đơn cử như ở thành tích thứ 8, ông Mãn khai, từ năm
1969 đến ngày 26.3.1975, ông tổ chức đơn vị đánh gần 100 trận lớn nhỏ,
tiêu diệt 150 tên Mỹ ngụy, phá hủy 1 máy bay, 37 xe quân sự; trong khi
thành tích này không có trong thực tế.
Ông
này còn bịa thành tích thứ 12 rằng, vào tháng 11.1971, ông đã mưu trí
dùng mìn tự tạo nghi binh dụ địch vào ổ phục kích, tiêu diệt gọn 27/28
tên địa phương quân…
Trong
số 17 thành tích mà ông Hồ Xuân Mãn khai tại bản thành tích của mình,
kết quả thẩm tra, xác minh cho thấy có đến 15 thành tích không đúng thực
tế.
Đoàn
UBKT TƯ cho biết, trên cơ sở kết quả thẩm tra, xác minh đơn tố cáo, Ban
Bí thư chỉ đạo Ban Thi đua - Khen thưởng T.Ư báo cáo các cơ quan chức
năng có thẩm quyền xem xét hủy bỏ quyết định phong tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân và thu hồi hiện vật, tiền thưởng đối
với ông Mãn theo đúng quy định của Luật Thi đua - Khen thưởng.
Ban
Bí thư cũng yêu cầu UBKT T.Ư chỉ đạo các cơ quan liên quan làm rõ trách
nhiệm và xử lý theo quy định đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan
để xảy ra vi phạm, khuyết điểm trong việc xét tặng danh hiệu trên cho
ông Mãn.
Nguyễn Phương
(Một thế giới)
So với những người trong nhóm, sau khi đến bến bờ tự do, ông Toại còn chút lương tri của con người, đã can đảm lên tiếng thú nhận sự ngây thơ, mù quáng và bài học kinh nghiệm CS của mình. Tuy lời trần tình sám hối nầy được viết và đăng trên New York Time khá lâu, nhưng nhân đại Hội Việt Kiều được CS Hà Nội vừa tổ chức năm 2009, lời mật ngọt, ma mánh của chúng vẫn còn mê hoặc được một số người nên chúng tôi xin đăng lại bài học ê chề của một người trong cuộc. Bản chất thật của CS không bao giờ thay đổi, "con tắc kè" có thể thay đổi màu nhưng bản chất xù xì của nó vẫn còn nguyên vẹn. (CTNB)
Đoàn Văn Toại
Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam.
Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?
Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.
Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.
Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.
Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình.
Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.
Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?” Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).
Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, và đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ nhiên.
Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản.
Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra. Sau khi Sài Gòn thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầmn quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN.
Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.
Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông.
Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978, “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.” Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!
Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thứ ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.
Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.
Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.
Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo. Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.
Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam.
Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản. Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. Kunstler nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, “Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.
Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô. Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam.Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:
(Đời đời nhớ ông - Tố Hữu).
Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.
Hơn thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết, “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”.
Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.
Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles. Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ. Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông, “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury, “Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam.
Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975, Lê Duẩn đã nói, “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”.
Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói, “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.
Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. Ngày nay,trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời.
Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông. Ông cụ đã hỏi ông, “Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.
Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong cuộc họp báo. “Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”.
Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị, “Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền. Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay, “Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.
Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.
Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.
Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi, “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. Ông ta đã kết luận, “Yếu tổ chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.
Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu.
Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”. Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi, 'Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.
Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ. Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.
Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.
Thổn thức cho Việt Nam - Đoàn Văn Toại
Đoàn Văn Toại là một trong một số người trong Ban Chấp Hành của Tổng
Hội Sinh Viên Sài gòn vào những năm cuối thập niên 1960-1970. Mê muội
tin vào những lời tuyên truyền của Cộng sản, ông Toại gia nhập làm cán
bộ nằm vùng, hoạt động cho họ. Lợi dụng sinh hoạt dân chủ của chánh
quyền VNCH, tuân theo lệnh của CS, ông hô hào, phát động những cuộc
xuống đường, biểu tình chống đối chánh quyền đương thời. Đến khi chiếm
xong Miền Nam, bộ mặt thật, bản chất thật của CSBV đã lộ thật rõ: tàn
ác, dã man, gian trá, cướp bóc đã làm cho ông và những người đồng chí
của ông vỡ mộng. Chính ông và những đồng chí của ông khám phá thêm bản
chất vô lương cùng thành tích giết, và sẵn sàng giết với chủ trương
"giết lầm hơn bỏ sót" của CS. May cho ông và một một số đồng chí của ông
đã đạt được ước nguyện thoát thân.
So với những người trong nhóm, sau khi đến bến bờ tự do, ông Toại còn chút lương tri của con người, đã can đảm lên tiếng thú nhận sự ngây thơ, mù quáng và bài học kinh nghiệm CS của mình. Tuy lời trần tình sám hối nầy được viết và đăng trên New York Time khá lâu, nhưng nhân đại Hội Việt Kiều được CS Hà Nội vừa tổ chức năm 2009, lời mật ngọt, ma mánh của chúng vẫn còn mê hoặc được một số người nên chúng tôi xin đăng lại bài học ê chề của một người trong cuộc. Bản chất thật của CS không bao giờ thay đổi, "con tắc kè" có thể thay đổi màu nhưng bản chất xù xì của nó vẫn còn nguyên vẹn. (CTNB)
Thổn thức cho Việt Nam
Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam.
Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?
Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.
Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.
Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.
Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình.
Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.
Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?” Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).
Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, và đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ nhiên.
Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản.
Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra. Sau khi Sài Gòn thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầmn quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN.
Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.
Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông.
Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978, “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.” Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!
Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thứ ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.
Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.
Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.
Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo. Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.
Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam.
Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản. Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. Kunstler nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, “Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.
Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô. Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam.Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:
‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười.’
(Đời đời nhớ ông - Tố Hữu).
Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.
Hơn thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết, “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”.
Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.
Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles. Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ. Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông, “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury, “Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam.
Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975, Lê Duẩn đã nói, “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”.
Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói, “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.
Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. Ngày nay,trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời.
Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông. Ông cụ đã hỏi ông, “Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.
Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong cuộc họp báo. “Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”.
Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị, “Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền. Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay, “Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.
Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.
Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.
Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi, “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. Ông ta đã kết luận, “Yếu tổ chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.
Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu.
Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”. Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi, 'Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.
Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ. Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.
Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.
Đoàn Văn Toại
Nguồn: Cao Trào Nhân Bản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét