Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Vườn Nước từ nay không còn đại thụ - Chủ nghĩa Mác – Lênin: Bộ máy hoàn hảo cho chiến tranh & Câu lưu Bloggers và quy luật “nhập kho – xuất kho”

Phạm Quế Dương – Sóng gió của Đại tướng Võ Nguyên Gíáp

Chiến dịch Điện biên Phủ, tôi là chính trị viên đại đội pháo (Tô Vĩnh Diện) đã được gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên. Đại tướng rất thân tình với anh em. Chúng tôi kính mến lắm. Khi Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc, tôi làm Tổng Biên tập báo Phòng không, Không quân. Năm 1970 tôi làm phó chính ủy trung đoàn bảo vệ cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa), rồi đưa cả đơn vị vào bảo vệ Trường Sơn. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi lại được chiến đấu ở biên giới phía Bắc.
Từ ngày lãnh trách nhiệm Tổng Biên tập tạp chí Lịch Sử Quân Sự (1982) tôi nhiều lần được gặp Đại tướng để xin ý kiến. Trong các buổi gặp bao giờ Đại tướng cũng rất thân tình, cung cấp nhiều tư liệu quý giá với những chỉ bảo thật căn kẽ, thấu đáo.
Tôi rất khâm phục trí tuệ uyên thâm, uyên bác và sức làm việc hết sức dẻo dai của Đại tướng nhưng rất thắc mắc là tại sao năm 1980 Đại tướng đã thôi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và năm 1982 đã thôi Uỷ viên Bộ Chính Trị.
Đôi lần trong bối cảnh thân tình tôi đã định hỏi trực tiếp Đại tướng nhưng rồi lại ngần ngại, lần lữa.
Một hôm, trong một bữa cơm thân mật tại nhà thượng tướng Trần Văn Trà tôi nêu câu hỏi vì sao Đảng không tận dụng tài thao lược và trí tuệ siêu việt của Đai tướng Võ Nguyên Giáp trong lĩnh vực quốc phòng mà lại bắt Đại tướng phụ trách việc sinh đẻ có kế hoạch?
Thượng tướng bảo tôi: Chủ yếu là do mâu thuẫn với anh Ba (Lê Duẩn) nhiều việc:
“Từ những năm 1950 anh Văn đã không đồng tình đánh Nhân Văn Giai Phẩm và ngay thời gian đó vẫn thường thăm hỏi, sẻ chia chân tình với một số nhà văn có tài”.
Anh Tư (tên thường gọi của Thượng tướng Trần Văn Trà) kể tiếp: “Khi đánh xét lại anh Văn bị coi như trùm trưởng dấu mặt. Đối với cải cách ruộng đất và cải tạo công thương tư doanh cả ở miền Bắc và sau này ở miền Nam anh Văn cũng không tán thành.
Mâu thuẫn với anh Ba càng sâu sắc hơn khi sau ngày 30/4/1975 anh Ba chủ trương bắt chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn đi cải tạo trong khi mình thì nhất trí với anh Văn là nên phân biệt hàng binh và tù binh, nên đối xử với những người bại trân như nước Mỹ thế kỷ 18 trong chiến tranh Nam – Bắc. Phía Bắc thắng, phía Nam đầu hàng mà không bị xử lý gì. Cha ông ta xưa cũng từng đối xử với giặc Tàu bại trận như vậy”.
(Văn bia Vĩnh Lăng kể về chiến công Lê Lợi- Nguyễn Trãi đánh thắng quân Minh còn ghi rõ: “Những quân giặc bị bắt và những quân đầu hàng có đến mười vạn người, đều tha cho về cả. Đường thủy thì cấp cho hơn 500 thuyền, đường bộ thì cấp cho lương ăn và ngựa; răn cấm quân sỹ (của ta) không được xâm phạm mảy may (đến quân giặc)”).
Một hôm, tôi đến hỏi Đại tướng để xác minh lời kể của thượng Tướng Trần Văn Trà. Đại tướng dẫn tôi ra ngoài vườn vì sợ trong nhà bị đặt máy ghi âm. Đi hết mấy vòng sân vườn, Đại tướng xác nhận: Các điều anh Tư nói đều đúng hết. Nhưng thôi đừng quan tâm. Lịch sử rồi sẽ minh xét như vụ án Lệ Chi Viên, cụ Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc nhưng lịch sử đã minh oan lâu rồi.
Hôm ấy Đại tướng đã ký tặng tôi tấm ảnh chụp giữa hai người.
Tháng Hai năm 1984 Hội đồng Khoa học Hoàng gia Anh chọn 10 danh tướng trong số 90 vị tướng nổi tiếng từ Cổ đại đến hiện đại .Việt Nam vinh dự được chọn 2 vị: Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Đại tướng Võ Nguyên Gíap. Năm 1994 , kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin nhờ tôi làm chủ biên xuất bản cuốn sách “10 danh tướng thế giới”.
Tôi viết hai phần: “Lời nói đầu” và “Đại tướng Võ Nguyên Giáp”. Về Đại tướng Võ Nguyên Giáp tôi lấy tài liệu của Bách Khoa Toàn Thư về quân sự và quốc phòng của Mỹ (International military Defende Encyclopedia). Họ ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp hết lời với nhiều tài liệu xác thực. Sách phát hành, tôi bị người của Ban Tuyên Giáo Trung Ương đến nhà 4, 5 lần quy kết tôi bịa đặt, quá đề cao Tướng Giáp.
Tin Đại Tướng ra đi làm tôi quá xúc động nên có dấu hiệu bị tai biến mạch máu não. May nhờ cấp cứu kịp thời và chỉ xuất huyết nhẹ nên đã qua khỏi.
Người đến viếng nhà Đại tướng quá đông. Tivi đưa tin hàng trăm ngàn người. Xem tivi thấy các phố đông kín người. Tôi rất lo không đi viếng được. May mà có cháu của Đại Tướng đến đón nên 8 giờ sáng mồng 10/10, vợ chồng tôi đã được vào lễ. Tôi phúng bức trướng ghi: “Kính Viếng Đại Tướng Võ Nguyên Giáp Đại Danh Nhân Danh Tướng Thế Gian – Đời Đời Kiếp Kiếp Lưu Danh Thiên Tài”.
Phạm Quế Dương Hội Viên Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam.

Trần Đăng Tuấn - Vườn Nước từ nay không còn đại thụ

Ngày 10.10.2013
 Hình ảnh cuối cùng lưu lại trong mình từ ngày cuối của Cuộc Dân Viếng Vĩ Đại này là cảnh những em bé vừa từ nhà Cụ Đại Tướng đi ra



 Dân tộc đã có những lúc tưởng như cạn máu, cạn nước mắt, và lúc tưởng chừng no ấm lại cạn niềm tin vô tư …Nhưng bên hương trầm thờ triệu sinh linh vì nước vong thân, những mầm non vẫn nhú. Thái bĩ, tỏ mờ, lên xuống …là vận. Nhưng thời nào, thịnh hay suy thì cũng ” Còn da lông còn mọc, còn chồi còn nảy cây”.
Dân là gốc cho chồi nở lại. Dân là da để thay lông đổi cánh Phụng Hoàng.

Ngày 10.10.2013


Dân lặng lẽ, thân tình bên nhau trong một vòng tròn vĩ đại dài theo bốn đường phố, quây trọn Hoàng Thành xưa.


Dân không khóc, không cố bộc lộ điều gì cho đúng lễ tang. Họ cười với trẻ con, họ hỏi han nhau khi người bên cạnh mệt, họ đọc báo để kiên nhẫn đợi. Đa phần họ im lặng và suy tư.
Dân- thức suốt đêm dán hình Đại tướng, rồi mang đến, kể lạc cả giọng cho thanh niên biết về những ngày khói lửa đã xa.

Dân – lo cho nhau những bình nước uống miễn phí, chạy xe máy chở bánh mỳ đến mời nhau, đem đến cho nhau những bó hoa.

Dân- không một vỏ bao bánh vất lên hè, lo để mọi thứ gọn gàng, chu tất trong ngày thế này.
Dân- tất tả gọi cứu thương khi người già ốm mệt. Dân – chia cho nhau dải băng tang để phủ lên tấm ảnh. Dân – đang đứng xếp hàng, cả tiếng đồng hồ nhích lên được đoạn ngắn, chỉ cho cô bảo mẫu dắt các cháu lối “vào cửa sau” để viếng.
Dân – xe đông hơn ngày thường, người đông hơn ngày thường, mà chẳng cần nhiều công điều khiển của công an, chẳng có ùn tắc.


Khi chúng ta- người Việt- cùng vào một việc gì do thôi thúc tự tâm can, chúng ta bộc lộ một tính kỷ luật, chu đáo, sáng tạo và đoàn kết đến kỳ lạ. Một bàn tay vô hình của tình yêu và lý trí sắp xếp , hơn bất cứ một bộ óc tổ chức nào.
Tôi đã thấy ánh mắt nhiều khách nước ngoài nhìn dòng người hôm nay. Lạ kỳ trong ngày tang, mà ta nghẹn nỗi niềm hạnh phúc.
Dân là biển.
“Biển ấy, chỉ ai tin thì mới hiểu”
(Chế Lan Viên)
 Ngày 9.10.2013
Đứng trong hàng, có lúc sụt sùi với nhau ” Thương Cụ ấy quá, rõ khổ !”, có lúc lại rôm rả chuyện con chuyện cháu; Có lúc kêu nắng quá, than sáng đi không cầm theo quạt. Có lúc rì rầm nghi ngờ : Nước miễn phí uống có đau bụng không?. Có lúc nhấp nhổm muốn gửi chỗ xếp hàng để đi mua bó hoa cúc vàng mới tươi hơn viếng Cụ. Có lúc bực bội: Hay trên kia có chen ngang nên mình lâu chẳng nhích được tẹo nào ? . 
Dân mà.
                                                                                                
Dậy từ đêm rời nhà đến đợi, hay đi về Hà Nội vượt năm bảy trăm cây số , chân đi dép đen tổ ong , tay xách nải hỏi đường về nhà Đại Tướng ; Kiên tâm lấy ô, lấy quạt, lấy tờ báo che nắng, nén nhịn ( Huyết áp cao? Thoái hoá cột sống ? Đau thần kinh toạ ? Hạ đường huyết…) hàng giờ không rời hàng một phút. Để được vài mươi giây vái người cả đời chưa được gặp…
Dân đấy.

” Ăn của đất, uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho người mình tin “
( Trích từ bài thơ “Thường Dân ” của Nguyễn Long )

Ngày 9.10.2013


Không phải một lần, tại các buổi gặp hàng ngàn cựu chiến binh, trong binh phục chỉnh tề của bậc Đại Tướng, Cụ nói như thể đang cùng với nhóm bạn già quanh bàn nước:
” Chúng ta hôm nay nhìn thấy nhau thế này là quý rồi ! ! !”
Viết đến đây, tôi lại bật cười nhớ chuyện vài người viết rằng Cụ không phải người hùng biện. Cụ có thể nói rất sắc sảo, khi cần ( có tư liệu để ta thấy điều này ). Nhưng Cụ đâu có cần thành người hùng biện. Các vị Đại Tướng thực thụ trong lịch sử ít khi giỏi khoa hùng biện. Họ nhường cho người khác cái tài này.
Đằng sau và bên trong câu nói ” Hôm nay nhìn thấy nhau là quý rồi !” là những năm, những thập kỷ chinh chiến Cụ có bằng cả mấy đời Tướng cộng lại, là không kể được bao máu và cái chết, là bao khuôn mặt đồng đội già, trẻ. Dẫu có gắng giữ gìn dè sẻn đến bao nhiêu, khó mà có chiến thắng bằng giá rẻ. Rồi thời bình, cũng dằng dặc những lúc nhục vinh, sống hay chết về tinh thần cách nhau gang tấc. Bạn hãy lặng yên nếu gặp Vị Tướng ngồi thiền.
Không có câu nói nào trĩu nặng hơn câu nói đó, câu nói thốt lên từ đôi môi run run của Người Lính Già tóc bạc hơn tuyết, và chỉ thốt lên mỗi khi gặp những người đồng đội còn lại sau chiến tranh và nay nguyên vẹn hình hài vào thời bình.
Có thể ít phút nữa thôi, đoàn chiến binh tóc bạc này khi bước vào nhà số 30, đứng trước Cụ, lại nghe thấy câu nói quen thuộc ấy :
“CHÚNG TA HÔM NAY NHÌN THẤY NHAU THẾ NÀY LÀ QUÝ RỒI !”
Ngày 9.10.2013
Trước cổng nhà số 30, sáng nay 9.10
Người tràn xuống lòng đường, chỗ xe cộ vẫn chạy qua. Những chiếc xe bus kềnh càng mà im lặng khẽ khàng lách người đi qua, như thể xe cũng đi nhẹ nói khẽ. Đám đông và sắc phục cảnh sát- có cả hai mà không gây âu lo, chỉ đầm ấm. Hàng rào an ninh là những cánh tay mềm mại nữ sinh. Dọc hè phố là các bình nước miễn phí. Mọi người tự rẽ ra nhường lối cho trẻ em và người già. Xung quanh, cách vài dãy phố, nhiều tốp người nhìn biết chắc mới xuống bến tàu xe, vừa đi vừa hỏi thăm nhà Ông Giáp. Anh Công an rảnh rỗi, xoa đầu bé mầm non vừa được cô giáo dắt vào viếng Cụ. nhiều thanh niên cầm quạt giấy che và quạt cho các bậc sinh thành trong hàng người dài hàng cây số.

                                                                                      
                                                            

Tất cả những điều ấy giản dị. Mọi cái hiếm hoi đều giản dị.



Bạn hãy đến đây, để nhìn, để cảm nhận những điều tưởng đã không còn có nữa.

Ngày 9.10.2013


 Đến viếng người lính già là những người lính không còn trẻ nữa. Đường hành quân lần này chỉ từ góc phố này tới góc phố kia. Một sáng thu Hà Nội nắng vàng và hoa cúc vàng. Nỗi xúc động khó nói lên lời bởi sự giao hoà hiếm hoi nơi nhân thế.

Ngày 8.10.2013

Dòng người viếng Cụ là minh chứng : Cuối cùng, Cụ lại thắng.
Nếu cuộc đời công bằng với Cụ, có thể dòng người vẫn đông nhưng những giọt nước mắt thanh lọc hồn người và (hy vọng) thanh lọc một phần xã hội sẽ ít hơn.
Nếu cuộc đời công bằng, dòng đời sẽ không còn lý do chảy tiếp. Nhưng lòng người xét đến cùng, thì luôn công bằng. Xét đến cùng. Không có điều ấy thì khó tìm được lý do gì để gửi gắm niềm tin vào dòng đời.
Cụ lại thắng. Những lần trước cho tất cả, có Cụ trong đó. Lần này thì Cụ chẳng cần gì cho mình. Con dân đang sống mới cần.
Vấn đề là chiến thắng ấy, được Cụ giao cho, người sống giữ được không? Giữ được bao lâu.
Khi dân tộc này đang rất cần phải thắng.

Trần Đăng Tuấn
(Blog Trần Đăng Tuấn)

Vi phạm pháp luật trong công tác tổ chức lễ Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp


Mấy ngày qua, hàng trăm nghìn người dân đã tự lặn lội từ mọi miền Tổ quốc trực tiếp đến viếng Đại tướng tại nhà 30 Hoàng Diệu. Hàng chục triệu người khác từ khắp đất nước và trên thế giới bày tỏ lòng tiếc thương Đại tướng đồng thời từng giờ, từng phút theo dõi tin tức về tang lễ Đại tướng qua các phương tiện thông tin đại chúng. Vậy mà, phụ tấm lòng của nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam đã ngang nhiên vi phạm Nghị định 105/2012/NĐ-CP khi tự ý không truyền hình trực tiếp Lễ viếng Đại tướng tổ chức vào sáng nay 12/10/2013 tại Nhà tang lễ quốc gia.

Nghị định 105/2012/NĐ-CP ngày 17/12/2012 quy định công tác tổ chức lễ tang cho cán bộ. Chương 2 về Lễ Quốc tang, tại tiết b, khoản 2, điều 9 quy định rõ: Đài Truyền hình Việt Nam TRUYỀN HÌNH TRỰC TIẾP Lễ viếng, Lễ truy điệu và Lễ an táng.

Được biết, hàng chục triệu người dân Việt Nam và hàng triệu kiều bào, bạn bè quốc tế, sáng nay 12/10/2013 chờ bên ti-vi những mong theo dõi trực tiếp Lễ viếng vị Đại tướng vô cùng kính yêu nhưng chỉ được xem những tin tức vụn vặt hàng ngày.

Với số lượng nhân dân đến viếng Người lên tới nửa triệu trong vài ngày (dự kiến sẽ có hàng triệu người đứng dọc các tuyến đường để vĩnh biệt Người trong ngày đưa tang), Đại tướng trở thành nhân vật được kính yêu nhất trong lịch sử cận và đương đại Việt Nam. Uy tín của Người trong dân gian vượt quá xa so với các lãnh tụ khác tại Việt Nam cùng thời.

Một số tin tức nội bộ cho hay trong số các cựu nguyên thủ đến viếng Đại tướng có vắng bóng một đồng chí và người ta không thấy vòng hoa viếng tang của đồng chí này trong Lễ viếng (đồng chí này được coi là liên quan tới việc cáo buộc Đại tướng trong vụ 4T – Sáu Sứ). Thư ký riêng một thời của đồng chí này hiện là lãnh đạo ngành thông tin truyền thông của cả nước.

Đại tướng mất đi, Ban chấp hành Trung ương Đảng mấy khóa mà đứng đầu là các Tổng Bí thư vẫn nợ Người, nợ lịch sử, nợ dân tộc và nhân dân Việt Nam một món nợ lớn. Đó là làm rõ vụ 4T – Sáu Sứ để trả lại thanh danh cho Đại tướng – vị lãnh tụ trung với nước, hiếu với dân, được toàn dân kính yêu và tôn thờ.
 
12/10/2013  
  Cầu Nhật Tân

Lê Diễn Đức - Vĩnh biệt đại tướng, người hùng và bi kịch

Cây cổ thụ cuối cùng của thế hệ Hồ Chí Minh đã đổ. Không phải vì một trận cuồng phong, bão tố, mà vì đã sống mòn mỏi quá lâu, sang năm thứ 102. Không bất ngờ. Cái bóng hoàng kim phủ rợp một thời của ông cũng đi theo xuống mồ.

Nhất tướng công thành vạn cốt khô


Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền tên tuổi mình với chiến thắng Điên Biên Phủ chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ra khỏi Đông Dương, trở thành bài học quân sự của thế giới.

Những năm 50-75 của thế kỷ trước là một thời rực rỡ của một danh tướng không thông qua trường lớp quân sự nào, từ một trí thức bình dân trở thành đại tướng. Ông là biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc, bất khuất chống ngoại xâm, với kẻ thù mạnh hơn nhiều lần vẫn quyết tâm "chiến thắng bằng mọi giá".

Học giả, chính khách nước ngoài đã có những đánh giá tích cực về ông, nhưng bên cạnh cũng có những phân tích khác.

Hãng thông tấn AP:

"Võ Nguyên Giáp, vị tướng tự đào tạo tài ba, người đã đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Việt Nam, giải phóng nước này khỏi chế độ thực dân và sau đó khiến người Mỹ phải từ bỏ nỗ lực cứu vãn Việt Nam khỏi chủ nghĩa cộng sản, đã qua đời. Ở tuổi 102, ông là người vệ binh cách mạng cuối cùng thuộc thế hệ cũ của Việt Nam".

Chia buồn trước sự ra đi của tướng Giáp, ngày 5/10, Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius ca ngợi ông là "một người yêu nước vĩ đại", "một người lính vĩ đại" và "một con người phi thường" trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.

Tờ New York Times mô tả ông là "một người rất lôi cuốn và hoạt bát, một nhà quân sự uyên bác và một người theo chủ nghĩa dân tộc quyết liệt. Ông có thể dùng sức hút của bản thân để lên tinh thần cho quân sĩ, làm bùng cháy trong họ sự sẵn sàng cống hiến cho đất nước. Những người hâm mộ ông đặt ông ngang hàng với MacArthur, Rommel và những chỉ huy quân sự vĩ đại khác của thế kỷ 20".

Edward Miller, Phó Giáo sư, khoa Lịch sử, Damourth Collage, Hoa Kỳ:

"Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ lâu được ca ngợi ở Việt Nam và cả trên thế giới như thiên tài quân sự. Không thể phủ nhận các thành tích chiến trường của ông thật phi thường. Ông đóng vai trò chủ chốt khi Việt Minh giành quyền lực hồi Cách mạng tháng Tám 1945. Đó là cuộc cách mạng cộng sản thành công thứ hai trong lịch sử, sau Cách mạng Nga 1917".

"Bên cạnh đó, thắng lợi của ông Giáp ở trận Điện Biên Phủ năm 1954 là sự kiện bước ngoặt không chỉ trong lịch sử Việt Nam hiện đại mà cả trong lịch sử phi thực dân hóa của các nước miền nam (chỉ châu Phi, châu Á và Mỹ Latin)".

Trong khi đó, Jay Elwes trong bài "Võ Nguyên Giáp" trên Prospect Magazine, Anh quốc:

"Giáp là một chiến lược gia quân sự tự học tài năng bao la và nhà một lãnh đạo, người đã giành chiến thắng và giải pháp chính trị vào năm 1954, tạo các tình huống dẫn đến cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ 1965-1975. Như vậy, ông là trung tâm của cuộc xung đột mạnh nhất, gây nên tổn hại và tranh cãi của Chiến tranh Lạnh.

Ông cũng là một nhà tư tưởng tàn bạo, người đã nướng một số lượng lính rất lớn trong việc áp dụng chiến thuuật biển người hoang phí. Cuộc sống của tướng Giáp được làm nên bởi cuộc cách mạng, chiến tranh và sự mất mát và đau khổ gần như không thể tưởng tượng. Nhưng ông cũng là người chiến thắng".

Tờ Edward Miller:

"Chúng ta nên nhớ rằng Tướng Giáp, giống như nhiều viên tướng vĩ đại trước ông, đã mua các chiến thắng với giá khổng lồ, và cũng suýt thất bại. Nghiên cứu gần đây cho thấy lực lượng Việt Minh chịu thương vong to lớn ở Điện Biên Phủ và suýt nữa bị đánh bại tại đó, giống như trong trận tấn công thất bại mà ông Giáp tiến hành ở đồng bằng Sông Hồng năm 1951".

Tiến sĩ François Guillemot, sử gia Pháp:

"Võ Nguyên Giáp với nhiều người Việt Nam khác, những người chống cộng và lưu vong, xuất hiện như kẻ chủ mưu của một cuộc chiến nhắm vào các đảng phái quốc gia dân tộc cạnh tranh với Việt Minh trong giai đoạn 1945-1946".

"Chiến lược quân sự của ông vốn tiêu tốn nhiều sinh mạng phụ nữ (cần nhấn mạnh điều này) và nam giới, ngày nay vẫn được thế hệ trẻ đặt dấu hỏi. Bởi vì Điện Biên Phủ, bất chấp chiến tích, là một cuộc xay thịt với cả hai bên và người Việt Nam đã trả một giá đắt cho trận chiến này...".

"Chiến lược của ông không phải là "chiến lược hòa bình" như ông đã nói với Dominique Bari, một nhà báo của tờ Nhân Đạo (l’Humanité, tờ báo của Đảng Cộng sản Pháp) vào năm 2004, mà chiến lược của ông là để giành chiến thắng trong dài hạn cùng với một cái giá về hy sinh nhân mạng cao không gì có thể so sánh được".

Tướng William C.Westmoreland cho rằng, ông Giáp thành công vì "ông ta sẵn sàng chịu tổn thất lớn để theo đuổi chiến thắng". "Bất kỳ một tổng tư lệnh nào của Hoa Kỳ mà chịu tổn thất lớn như Tướng Giáp đều sẽ bị cách chức ngay tức khắc", Westmoreland nói.

Dù thế nào đi nữa, bất luận có nhờ trợ giúp của các cố vấn Trung Quốc, Nga, hay quyết định tập thể của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) hay không, là Tổng tư lệnh tối cao, Võ Nguyên Giáp đã đạt kết quả cuối cùng trong cuộc chiến. Danh vọng của ông cao hơn cả núi xương máu của dân tộc. Cuộc chiến chống Mỹ 1954-1975 mà thực chất là cuộc đỏ hoá miền Nam, kết thúc vào ngày 30/04/1975 với cái chết của khoảng 3,5 triệu lính và dân thường, cùng với nửa triệu người khác đã bỏ mình trên biển từ hàng triệu người chạy trốn khỏi chế độ mà ông đã góp phần tạo dựng.

Một thời nhẫn nhục

Năm 1967, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ Nguyên Giáp.

Trong tiểu luận “Lê Duẩn, the American War, and the Creation of an Independent Vietnamese State” Judith Stowe nói rằng "do quá nguy hiểm nếu công kích cá nhân ông Giáp, nên ông Lê Duẩn nhắm đến đội ngũ ủng hộ tướng Giáp, đặc biệt những người thân cận và trung thành nhất trong hàng ngũ cấp cao của đảng và chính phủ".

Năm 1982 ra ông Giáp bị ra khỏi Bộ Chính Trị, năm 1983 được phân công làm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch và về hưu năm 1991.

Từ 1983, suốt 30 năm cuối cuộc đời, tướng Giáp sống cam phận, bị gạt ra ngoài mọi quyết định quan trọng nhất của ĐCSVN.

Thực ra ông hoàn toàn có thể khước từ chức vụ "coi đẻ" để giữ nhân cách và khí phách. Nhưng không, ông vẫn muốn tồn tại, được yên thân trong những mưu mô và thủ đoạn tranh giành ảnh hưởng quyền lực của đồng chí mình. Ông im lặng trước sự bất công đối với các chiến hữu, xa lánh họ, dù họ rất cần đến tiếng nói bảo vệ của ông khi hoạn nạn.

Bởi vì ông biết rằng, bất kỳ sự kháng cự nào cũng sẽ bị phản công kịch liệt bởi các đối thủ chính trị, và vòng nguyệt quế của ông sẽ bị tước bỏ. Thân phận ông sẽ thảm hại chằng kém gì các chiến hữu bị đày đoạ trong lao tù mà không biết nguyên do, không án, thời gian vô định. Chí ít ông cũng sẽ như trung tướng Trần Độ, một người bị khai trừ ra khỏi đảng và trong lễ tang bị gỡ đi chữ "vô cùng thương tiếc" trên các vòng hoa viếng. Ông đã lựa chọn cách sống nhẫn nhục đến mức hèn nhát.

Tiến sĩ François Guillemot đã viết:

"Ông cúi mình trước tất cả các thử thách của đảng để không bao giờ phản bội Hồ Chí Minh. Đó là đường lối hành xử của ông cho đến hết đời, gần như một nỗi ám ảnh. Sống đúng với giá trị và cam kết của mình".

Vào lúc cuối đời, tướng Giáp có trăn trở với những sự kiện xảy ra trên đất nước, ông ủng hộ kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội.

Ông tỏ ra mềm mỏng hơn sau khi chấm dứt cuộc chiến và Việt Nam thống nhất, ủng hộ cải cách kinh tế và bắt tay với Hoa Kỳ, đồng thời công khai cảnh báo về ảnh hưởng lan rộng của Trung Quốc và cái giá phải trả về môi trường cho công nghiệp hoá ở Việt Nam. Vì thế ông đã ba lần viết thư gửi quốc hội đề nghị không khai thác bauxite Tây Nguyên. Ông cũng không tán thành việc mở rộng thành phố Hà Nội ra Hà Tây và phá bỏ Hội trường Ba Đình lịch sử. Tuy nhiên những đề nghị của ông đã bị bỏ ngoài tai. Chẳng ai nghe ông. Người ta vẫn làm khác ý ông để trục lợi.

Bi kịch đất nước

Phóng viên Hoa Kỳ Tim Karr nói:

"Thật đáng tiếc là ông đã không sử dụng uy tín vững như bàn thạch trong lịch sử dân tộc để đôi khi chỉ trích hay đi chệch khỏi đường lối của đảng. Có vẻ như một phần đáng kể của lịch sử hiện đại Việt Nam đã mất đi cùng với sự ra đi trong yên lặng của ông".

Ban lễ tang với những lãnh đạo đảng và nhà nước cao nhất cũng không thể nào bù được sự hành xử bạc bẽo và thái độ coi thuờng của họ với tướng Giáp.

Nhưng họ cũng đã khôn ngoan tận dụng cơ thể khô héo của ông những ngày nằm viện và làm quốc tang ầm ĩ, tốn kém chẳng phải tử tế gì với ông, mà muốn được chú ý tới thành tích chống Pháp-Mỹ trong quá khứ và gỡ gạc tính chính đáng của mình trong bối cảnh uy tín của ĐCSVN đang rệu rã.

Trong dòng người xếp hàng viếng tướng Giáp tại Hà Nội, tôi tin rằng rất nhiều người bị u mê bởi chính sách tuyên truyền về huyền thoại tướng Giáp, nhưng chắc chắn cũng có nhiều người khác quý trọng ông thực sự, tiễn ông đi và nhớ lại ký ức của một khoảng thời gian lý tưởng chẳng bao giờ còn nữa.

Sau chiến tranh gần 40 năm, đất nước bị cai trị bởi một tập đoàn sâu mọt tham nhũng, làm hao mòn sinh lực nền kinh tế, còn chủ quyền bị Trung Quốc đe doạ nghiêm trọng.

ĐCSVN hiện tại đã phản bội lại mọi giá trị mà tướng Giáp đã chọn. Ông là vị tướng thất bại cay đắng trong thời bình. 30 năm cuối cuộc đời ông là bi kịch, như bi kịch của dân tộc. Ông sống khắc khoải đến chết và để lại bi kịch này.

Vĩnh biệt ông, vĩnh biệt "Napoleon đỏ", một nhân vật bi hùng của lịch sử Việt Nam đau thương!
© Lê Diễn Đức - RFA

Chống lệnh Quốc tang: TP Hạ Long "tưng bừng" tổ chức Đại hội TDTT

TP Hạ Long cho tổ chức Đại hội thể dục thể thao Hạ Long lần thứ VII năm 2013 đúng ngày diễn ra Lễ Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp.Khoảng 14h chiều ngày 11/10 – thời điểm cả nước chính thức Lễ Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thì tại Nhà sinh hoạt văn hóa thể thao công nhân của Công ty Cổ phần than Núi Béo, đóng trên địa bàn phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long đã diễn ra Đại hội TDTT lần thứ VII.
Ghi nhận của phóng viên, đường phố treo rất nhiều băng rôn đỏ với dòng chữ “Nhiệt liệt chào mừng Đại hội thể dục thể thao Hạ Long lần thứ VII năm 2013”.
  Nơi diễn ra Đại hội TDTT tại thành phố Hạ Long.
Nơi diễn ra Đại hội TDTT tại thành phố Hạ Long.
Tại nơi diễn ra Đại hội thể dục thể thao, băng rôn, hoa "tưng bừng", loa đài mở rất lớn, nhạc rộn ràng. Ngoài ra Đại hội còn có sự tham gia của hàng chục đơn vị đoàn thể, cơ quan khác.
Hoạt động vẫn diễn ra tấp nập mặc dù BCH Trung ương Đảng đã thông báo, trong hai ngày tang lễ Đại tướng Võ Nguyên Giáp (từ 12h ngày 11/10 đến 12h ngày 13/10/2013), các công sở, các nơi công cộng treo cờ rủ và ngừng hoạt động vui chơi giải trí.

  Nhiều đơn vị đoàn thể đã tới tham dự sự kiện này.
Nhiều đơn vị đoàn thể đã tới tham dự sự kiện này.
Theo đó, việc treo cờ được thực hiện như sau: Cờ có dải băng tang với kích thước bằng 1/10 chiều rộng và chiều dài bằng chiều dài lá cờ. Cờ chỉ được kéo lên đến 2/3 của cột cờ và có dải băng vải đen buộc để cờ không bay.

Ngoài việc để diễn ra Đại hội thể dục thể thao, trên địa bàn thành phố Hạ Long tính đến 16h vẫn còn có nhiều cơ quan, đơn vị vẫn để cờ bay phấp phới.

  Nhiều doanh nghiệp không thực hiện việc treo cờ <span class=
Nhiều doanh nghiệp không thực hiện việc treo cờ rủ ngày Quốc tang.
Cụ thể: Công ty TNHH MTV Kinh doanh nước sạch Quảng Ninh; Cửa hàng xăng dầu thuộc Xí nghiệp Vật tư Hòn Gai; Công ty CP Phát triển và xây dựng nhà ở Quảng Ninh; Bảo hiểm Bảo Long Quảng Ninh, Ngân hàng Tecombank và Ngân Hàng Đông Á nằm trên đường Nguyễn Văn Cừ và trước cổng chào treo cờ các tổ Dân phố trên địa bàn phường Hồng Hải, trên đường phố trung tâm Nguyễn Văn Cừ, TP Hạ Long…

Sau khi nhận được thông tin phản ánh của PV, ông Đỗ Thông – Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã chỉ đạo kiểm tra và cho dừng ngay hoạt động Đại hội thể dục thể thao.

Còn ông Đào Xuân Đan - Chủ tịch UBND TP Hạ Long lại nói: “Đó là diễn tập quân sự đấy chứ”. Khi PV khẳng định là đại hội thể dục thể thao thì ông nói để “kiểm tra lại”.

Còn việc Quốc tang, ông Đan nói rằng: “Quốc tang là ngày 12 chứ có phải hôm nay đâu”.

Về việc quy định treo cờ rủ trên địa bàn, ông Đan cho biết, Thành phố đã có thông báo chỉ đạo đến tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức đóng trên địa bàn. Các cơ quan trụ sở nào không thực hiện việc treo cờ rủ để tang Đại tướng Võ Nguyễn Giáp thì thủ trưởng cơ quan đơn vị ấy phải chịu trách nhiệm.
 
Chống lệnh Quốc tang, TP Hạ Long "tưng bừng" tổ chức Đại hội TDTT
  Doanh nghiệp không thực hiện lệnh ban hành ngày Quốc tang.
Doanh nghiệp không thực hiện lệnh ban hành ngày Quốc tang.
  Băng rôn treo trên các con đường tại TP Hạ Long.
Băng rôn treo trên các con đường tại TP Hạ Long.
Chống lệnh Quốc tang, TP Hạ Long "tưng bừng" tổ chức Đại hội TDTT
Chống lệnh Quốc tang, TP Hạ Long "tưng bừng" tổ chức Đại hội TDTT

(Soha.vn)

Kami - Không chỉ là vấn đề lý lẽ, mà còn là đạo lý!


Trong những ngày này, tin tức xung quanh việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần hưởng thọ 103 tuổi trên mạng internet luôn được chú ý. Cũng dễ hiểu, vì ông là một vị tướng của huyền thoại xa cõi đời ở cái tuổi "Đại Thọ Bách Niên", mà lâu nay cái tên Võ Nguyên Giáp trở thành một cái hoài niệm của không ít người về thế hệ những người Cộng sản "tử tế", mà có lẽ ông đã là người chót của thế hệ cuối cùng.
Công lao hay sự vĩ đại của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có thể không thuyết phục nhiều người thông qua sự ra đời của một nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, hay sự kiện Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu" cũng là điều bình thường và dễ hiểu. Vì phàm là con người tất nhiên là có kẻ yêu người ghét, không phải là đến các bậc thần thánh cũng còn bị không ít kẻ nguyền rủa hay sao? Tuy nhiên việc những ngày vừa rồi ở Hà nội, trong nhiều ngày đêm, đã có hàng vạn người đã xếp hàng dài nối đuôi nhau vào viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại tư gia số 30 đường Hoàng Diệu  để bày tỏ sự thương tiếc của mình đối với vị tướng huyền thoại. Và đặc biệt trong một ngày đã có tới hơn 11.000 người tới viếng cũng nói lên tất cả sự kính trọng mà người dân Việt nam trong và ngoài nước dành cho ông. Đó là điều mà có người cho rằng chỉ có hai (lần) mà không có lần thứ ba khi người dân Việt nam tự nguyện làm cái việc xếp hàng vào viếng, lần trước đó là họ dành cho ông Hồ Chí Minh. Không chỉ thế, tên tuổi và uy tín của Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn vượt qua biên giới và cái tên Võ Nguyên Giáp trở thành tên của một trong những tướng lĩnh của lịch sử thế giới. Khi này thì chuyện có người bảo rằng nhà nước bắt dân khóc (vờ) hay phát ớt cho dân bôi vào mắt ai đó nói ra thì không ai nghe và tin. Bởi sự thật ở thời buổi này không như trước, rất dễ được kiểm chứng trong tích tắc.

Nhưng số phận của con người ấy - Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng không thoát được cái số phận của con người. Khi cái "Chữ tài liền với chữ tai một vần" gắn chặt với số phận ông, những gì trong quá khức các đồng chí và đồng đội đối với ông hôm nay không có gì là bí mật. Việc đảng và chính quyền tổ chức quốc tang cho ông bằng những nghi thức trọng thị hình như cũng là thay cho sự ăn năn của họ. Nhưng không ngoài mục đích lợi dụng tên tuổi của ông. Những cái đó cũng chính là nguyên nhân để người dân quý ông, và họ quý ông vì thương ông nhiều hơn là vì trọng cái tài, cái đức của tướng Gíáp. Đối với tầng lớp trí thức trong nước thì họ coi ông là điểm tựa tinh thần trong bối cảnh xã hội bất bình thường, khi trí thức bị coi rẻ. Những cái đó đã khiến tên tuổi và con người của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gần gũi với mọi người dân trên mọi vùng của tổ quốc, đặc biệt là những người dân tỉnh Quảng bình quê  hương ông. 

Nhưng cũng trong những ngày này, chúng ta thấy các ý kiến trái chiều về Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên mạng xã hội facebook cũng không phải là hiếm. Có những ý kiến cho rằng ông Giáp là đồ tể, là tướng nướng quân..., còn nhiều và nặng nề hơn thế mà ở đây tôi không dám trích dẫn. Cũng có ý kiến bốc đồng thái quá, tới mức phong cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp là bậc "Thánh tướng", mà quên không tìm hiểu nghĩa của từ này là gì v.v.... Xin đừng quên "Nghĩa tử là nghĩa tận" và quan trọng của một đời con người khi lìa xa cõi đời thì "Khi lìa trần có mấy người đưa". Những điều tai nghe, mắt thấy trong đám tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không có lẽ không thức tỉnh nổi ngọn lửa đạo lý hay tình con người trong tâm thức của những người này. Không có lẽ hàng chục vạn người đến viếng họ đều là những kẻ u mê vì bị nhồi sọ như một số người cố tình suy diễn?

Đành rằng yêu ai, ghét ai là quyền của mỗi người chẳng ai có quyền ngăn cấm. Song cũng xin được nói ra đây cho rõ: Một số người không hiểu đã vội dựa vào câu "Một tướng công thành vạn cốt khô" để rêu rao rằng "ông Giáp là đồ tể, là tướng nướng quân...". Mà họ không biết rằng đây là câu cuối trong bài thơ thất ngôn "Kỉ Hợi tuế nhị thủ " của Tào Tùng, nhà thơ Trung quốc đời Đường. Câu đó có nghĩa là: Một ông tướng đến khi công thành danh toại thì sẽ dẫn đến cả vạn bộ xương binh lính chết khô. Để thấy cái đó là chân lý của ngàn đời nay, cái chân lý đó có trước khi ông Giáp sinh ra và hơn thế nữa đó là sự thật không thể chối cãi cho mọi ông tướng (võ) cầm quân ra trận chứ không riêng gì ông Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điều đó nó cũng luôn là chân lý tất yếu, cũng như câu "Thời thế, thế thời phải thế" cũng vậy.Đó là chưa kể nếu quý vị đọc bài "Chuyện tướng Giáp và Điện Biên Phủ" của nhà báo ở hải ngoại Vũ Qúy Hạo Nhiên sẽ rõ hơn điều mà các quý vị hiểu sai. Cũng như từ "Thánh tướng" có nghĩa là "(Khẩu ngữ) tài giỏi, có khả năng hơn người" được dùng với hàm ý mỉa mai. Nếu hiểu như thế sao lại dùng từ ấy cho tướng Giáp được?
Có lẽ cũng bất bình nên facbooker Nguyễn Thiện có viết trên trang của ông "Nói thật nhé, thái độ đối với nhà người khác khi họ có tang nói lên văn hóa của mình đấy ! Nếu mình không thích thì đừng đến viếng chứ không nên dè bỉu, xúc xiểm chút nào !". Xin mượn lời bác Nguyễn Thiện viết ra đây cũng chỉ nhằm để dạy cho con cháu, với mong muốn chúng nó sau này trở thành người tử tế. Con trẻ sau này chúng nó có thể mang me, mang khế... chua đến đám ma để trêu mấy ông thợ kèn theo lối nghịch ngợm của trẻ nhỏ, chứ chắc chúng nó sẽ không đến nhà có tang để chửi đổng người đã khuất. Trời đánh còn tránh bữa ăn chứ huống chi là tang lễ của một con người.

Điều đó đối với người Việt dẫu có tư tưởng đa nguyên, tôn trọng sự khác biệt là hoàn toàn đúng về lý nhưng hình như chưa thuận về tình nếu việc đó diễn ra trong lúc này, những ngày tang gia bối rối mà ai đó với những lời lẽ xúc xiểm, dè bửu mang tính hằn học và thỏa mãn trước cái chết của một vĩ nhân như Đại tướng Võ Nguyên Giáp là điều không nên. Tóm lại vấn đề là thời điểm. Thiếu gì lúc để nói, nói ra lúc này thiết nghĩ nó lạc lõng và hơn nữa nó không có khả năng thuyết phục trong việc thu phục nhân tâm.
Viết ngắn vài dòng chả nhằm chê trách hay công kích ai, mà chỉ sợ không nói ra rồi cái cảnh "Chống lệnh Quốc tang: TP Hạ Long "tưng bừng" tổ chức Đại hội TDTT" sẽ thành phổ biến.

Vấn đề này không chỉ là vấn đề lý lẽ, mà là phạm trù của đạo đức con người. Cái mà người ta gọi là đạo lý.

Ngày 12 tháng 10 năm 2013
© Kami
(Blog Kami)

Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh nói gì về vụ "chống lệnh Quốc tang"

Nói về việc TP.Hạ Long chống lệnh Quốc tang, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh cho hay: "Đâu có tổ chức Đại hội thể dục thể thao. Họ đã hoãn sang thứ 2 và có báo cáo tôi rồi”.
Liên quan đến thông tin TP. Hạ Long "chống lệnh Quốc tang" tổ chức Đại hội Thể dục, thể thao Hạ Long lần thứ VII đúng ngày diễn ra Lê Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng như việc trên địa bàn thành phố Hạ Long tính đến 16h ngày 11/10 vẫn còn có nhiều cơ quan, đơn vị vẫn để cờ bay phấp phới…, chúng tôi đã có cuộc trao đổi nhanh với ông Phạm Minh Chính – Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ninh về vấn đề này.
  Đại hội Thể dục thể thao vẫn được tổ chức tại TP. Hạ Long trong ngày Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đại hội Thể dục thể thao vẫn được tổ chức tại TP. Hạ Long trong ngày Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Ông Phạm Minh Chính cho hay: “Đâu có tổ chức Đại hội thể dục thể thao. Họ đã hoãn sang thứ 2 và có báo cáo tôi rồi. Họ đang chuẩn bị tổ chức lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập TP. Hà Long và 50 năm thành lập tỉnh. Khi có thông báo Quốc tang thì phải tháo (các băng rôn – PV) ra, thực hiên nghiêm chỉnh. Tôi đề nghị chiều nay, 16h, Hạ Long tổ chức họp báo về vấn đề này”.

Trước đó, trao đổi với chúng tôi về việc TP. Hà Long vẫn tổ chức Đại hội thể dục thể thao bất chấp quy định của Quốc tang, ông Nguyễn Văn Đọc cho hay chưa nắm được nội dung này.

Trước đó, như đã đưa tin, khoảng 14h chiều ngày 11/10 – thời điểm cả nước chính thức Lễ Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thì tại Nhà sinh hoạt văn hóa thể thao công nhân của Công ty Cổ phần than Núi Béo, đóng trên địa bàn phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long đã diễn ra Đại hội TDTT lần thứ VII.

Trên đường phố treo rất nhiều băng rôn đỏ với dòng chữ “Nhiệt liệt chào mừng Đại hội thể dục thể thao Hạ Long lần thứ VII năm 2013”. Tại nơi diễn ra Đại hội thể dục thể thao, băng rôn, hoa "tưng bừng", loa đài mở rất lớn, nhạc rộn ràng. Ngoài ra Đại hội còn có sự tham gia của hàng chục đơn vị đoàn thể, cơ quan khác.

Hoạt động vẫn diễn ra tấp nập mặc dù BCH Trung ương Đảng đã thông báo, trong 2 ngày tang lễ Đại tướng Võ Nguyên Giáp (từ 12h ngày 11/10 đến 12h ngày 13/10/2013), các công sở, các nơi công cộng treo cờ rủ và ngừng hoạt động vui chơi giải trí....
(Soha)

Những góc nhìn trái chiều về Đại tướng

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

2013-10-12
000_Hkg9079246-305.jpg
Người dân xếp hàng bên ngoài nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp hôm 9 tháng 10 năm 2013. -AFP
Cái chết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong tuần lễ vừa qua đang khuấy động xã hội miền Bắc một cách tích cực hơn bao giờ hết. Từ Quảng Bình ra tới Hà Nội, người dân xôn xao với những cảm nghĩ vừa giống lại vừa khác nhau, nhưng nhìn chung là sự tiếc thương thành thật một danh tướng Việt Nam vừa vĩnh viễn ra đi, mặc dù ông đã sống vượt sự tưởng tượng của rất nhiều người: 103 tuổi.

Một danh tướng cô đơn

Ông mất vào buổi chiều ngày 4 tháng 10 nên suốt đêm đầu tiên không có một biểu hiện gì đáng kể. Thế mà sáng hôm sau, bắt đầu từ chiếc cổng màu vàng quen thuộc của căn nhà số 30 đường Hoàng Diệu Hà Nội, người dân bắt đầu tập trung ngày một đông dần. Ban đầu là len lén nhìn, sau đó là áp sát vào chiếc cổng cũ kỹ mà chừng như gần một thế kỷ trôi qua không được trùng tu. Cái cổng nhà ấy làm người biết ông càng chạnh lòng hơn khi so sánh nó với ông khác nào những hoang phế lịch sử. Chiếc cổng còn đó tiếp tục làm vật chứng khi chủ của nó đã ra đi mang những mẩu chuyện riêng tư của ông trở về cát bụi.
Những câu chuyện tư riêng buồn bã ấy đã theo ông hơn 50 năm. Ngắt nửa đời còn lại của ngôi sao Điện Biên Phủ và nhấn chìm nó vào sự lãng quên. Thế lực chính trị từ thời đại Lê Duẩn trở đi đã vùi dập một con người mà hàng trăm nhân chứng còn sống tới nay sẵn lòng lên tiếng khi được hỏi.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nằm xuống cũng là dịp cho báo chí lấy công chuộc lại những sai lầm của họ từ nhiều chục năm qua. Sự im lặng do bị cấm đoán từ Ban Tuyên giáo của nhiều đời Tổng bí thư đã khiến báo chí trở thành giấy bản và trên ấy người ta không thể tìm ra ba chữ Võ Nguyên Giáp ngay cả những dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ quan trọng. Có lẽ do im lặng quá lâu nên khi được nói những điều cần nói, báo chí vận dụng hết tất cả ngôn ngữ hay ho, có cánh nhất để viết về một vị danh tướng cô đơn, đã làm nên lịch sử và cũng bị chính lịch sử ấy cùng với đồng lõa của nó bỏ quên.
Chúng ta khóc cho việc sau này chẳng còn ai đủ lớn để dân còn có thể thương chung, khóc cùng. Cúi đầu trước ông, cũng đồng nghĩa bày tỏ thái độ với những ông quan còn đang sống.
-Nhà Văn Nguyễn Ngọc Tư
Điều làm người đọc báo ngạc nhiên trong mấy ngày qua khi hai từ đúng nhất dành cho ông là “danh tướng” lại không thấy báo chí sử dụng vào những cái tít, mà thay vào đó là những câu chữ hết sức lạc điệu nếu không muốn nói là quá đáng. Những cụm từ nâng cao ông lên nhưng không chứng minh hay thuyết phục được người đọc có nhãn quan trung tính khiến câu chữ mất hết tác dụng. Chỉ là một nhà giáo hiền lành sống cuộc đời đạm bạc sau khi bị cô lập, nay người ta nâng ông lên thành “nhà văn hóa” khiến nhiều người ngạc nhiên tự hỏi liệu sự vượt cấp này sẽ làm một người chứng ngộ như ông cảm thấy ra sao?
Như chưa đủ thỏa mãn, một tờ báo lớn phong thánh cho ông qua cái tựa “Nhân dân sẽ tôn thờ ông như một vị thánh” Giáo sư sử học Lê Văn Lan thì cho rằng “từ nhân tướng, ông sẽ trở thành thánh tướng sau này”.
Cũng phong thánh nhưng nhà thơ Ngô Minh phong trong một ý nghĩa khác, thánh đối trọng với quỷ, những con quỷ đã hãm hại người hiền:
“Mở mắt ra mà nhìn hỡi kẻ tị hiềm
Ngững ngày này cho đến muôn sau
Tướng Giáp đã thành Thánh
Thánh trên TRỜI
Thánh giữa LÒNG DÂN

Hãy nhìn những dòng người trẻ già trai gái Hà Nội, Mường Phăng,
Nước mắt mặn nối nhau về 30-Hoàng Diệu
Dòng người chợ Tréo, Đông Hà, Đồng Hới, Huế, Trường Sơn,
Nước mắt mặn dắt nhau về bờ Kiến Giang An Xá
Nấc nở khóc vị tướng của lòng mình
Khóc một MẶT TRỜI vừa tắt !

Hãy mở mắt to ra mà nhìn hõi kẻ tỵ hiềm
Các vị còn sống đấy chứ? Nếu chết rồi thì con cháu hãy ghi
Một thời tim khô mắt tròn mắt dẹt
Dở thói côn đồ vu vạ anh hùng
Bôi đen lịch sử, đổi tráo tuổi tên…
Toan đánh hạ tướng uy danh lừng lẫy”

Báo chí với những nhận định ưu ái nhưng khó tránh tranh cãi ấy ngày một nhiều hơn trên các trang mạng xã hội hay trang blog nổi tiếng. Ban đầu còn ít, càng gần ngày quốc táng sự tranh cãi gay gắt càng nhiều hơn nhất là hiện tượng được gọi là “nhẫn” nơi vị tướng lừng danh này.

Giữ gìn sự đoàn kết cho đại cuộc

000_Hkg9064931-250.jpg
Báo chí Việt Nam đăng tải hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ảnh chụp ngày 05 tháng 10 năm 2013 tại Hà Nội. AFP PHOTO.
Câu chuyện Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị cô lập và hãm hại qua hai vụ án được nhiều người biết đến rất mù mờ trước đây được nhà báo Huy Đức hé bức màn “Vụ án xét lại chống đảng” và “Năm Châu – Sáu Sứ” chi tiết hơn khiến nhiều người nổi giận. Vừa thương vừa trách. Người ta không thể hiểu được tại sao ông im lặng chịu đựng những năm tháng lao lý và cả những cái chết oan khuất của các đồng chí dưới quyền nhưng vẫn không lên tiếng minh oan cho họ.
Trong vai trò Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch, người ta không tin vào chữ “nhẫn” mà đại tướng từng xác định. Sự im lặng kéo dài được hiểu là “cam chịu”, một trạng thái rất gần với “hạ mình”, nhịn nhục. Vài người còn lớn tiếng gom vào một tính từ “nhục”.
Những hạt sạn ấy làm rất nhiều người cảm thấy bất an. Cả hai bên, viên sạn “vụ án xét lại chống đảng” và chức vụ “nhục là chính” làm người ta thương và trách ông. Lý tính và cảm tính không thể đồng hành, cả hai vẫn mạnh ai nấy giữ tình cảm ẩn chút xót xa đối với vị tướng đã một thời oanh liệt.
Một trong những comment rất kiềm chế xuất hiện trước tiên sau khi đại tướng mất là của nhà báo Đoan Trang. Trên trang blog cá nhân của mình cô viết:
“Ông đã chọn cách im lặng, không phải vì ông hèn, mà vì ông là trí thức, và vì ông thấy cần phải giữ gìn sự đoàn kết cho đại cuộc” – một người thân của ông có lần nói với tôi như thế.
-Nhà báo Đoan Trang
“Nhiều người thắc mắc về thời kỳ Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch. Người ta tự hỏi, vì sao một vị tướng lẫy lừng của Quân đội Nhân dân Việt Nam lại chấp nhận một cương vị công tác có vẻ “thấp” đến thế so với tài năng và danh tiếng của ông? Có lẽ đây sẽ là một vấn đề để mai sau này lịch sử xem xét lại, nhưng nếu nhìn ở một khía cạnh khác, cũng đã có những ý kiến cho rằng một người trí thức cộng sản là phải như thế: Luôn luôn vì cái chung, vì đại cục. Bởi, sẽ ra sao nếu vào những ngày tháng khó khăn sau chiến tranh đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sử dụng ảnh hưởng của mình trong quân đội để đối đầu với những đồng chí của ông, nhằm giữ cho ông một cương vị, chức vụ cao hơn?
“Ông đã chọn cách im lặng, không phải vì ông hèn, mà vì ông là trí thức, và vì ông thấy cần phải giữ gìn sự đoàn kết cho đại cuộc” – một người thân của ông có lần nói với tôi như thế.
Tôi không có ý kiến. Vì tôi không ủng hộ lối tư duy “nhẫn nhịn, im lặng trước cái xấu, vì đại cuộc”. Nhưng tôi lại cũng nghĩ,nếu Võ Nguyên Giáp lên tiếng mạnh mẽ từ những năm ấy, ông chắc sẽ không tránh khỏi số phận của Trung tướng Trần Độ sau này.”
Không nhẹ nhàng như Đoan Trang, nhà báo Phạm Thành cũng là một chiến binh Điện Biên Phủ, có những giòng chữ cay đắng hơn, tuy nhiên trong cái cay đắng ấy người ta nghe được mùi mặn của máu và nước mắt:
“Đại tướng ra đi, người lính năm xưa của Đại tướng thấy mừng hơn là buồn. Cứ tưởng tượng đến các tướng lĩnh dưới trướng Đại tướng, mấy triệu binh sĩ trong đội quân của Đại tướng, ở dưới âm phủ đợi Đại tướng đã lâu, nay quân, tướng được gặp mặt nhau, “tay bắt mặt mừng”, nói nói cười cười, tâm tâm tư tư… thì Đại tướng như trở về Đại gia đình binh sĩ, chỉ có vui chứ làm gì có buồn?
000_Hkg9079240(1)-250.jpg
Người dân Hà Nội xếp hàng viếng tướng Giáp hôm 09/10/2013. AFP photo
Vui, nhưng Đại tướng đừng quên, có lúc Đại tướng làm Trưởng ban Dân số, lo sinh, lo đẻ đúng kế hoạch cho dân nước mình nữa đấy.
Chúc cho Đại tướng, dù ở đâu cũng là nhà quân sự tài ba, đánh nhau giỏi; nhà kiến trúc lỗi lạc, chăm lo cho dân nước mình sinh đẻ đúng kế hoạch.
Âm phủ như thế là vẹn cả đôi đường. Có tướng tài, có người làm lính cho Đại tướng cầm quân đi đánh nhau, lo gì cách mạng xã nghĩa của nước mình không tiến lên đến thế giới đại đồng, lo gì nhân dân không ngưỡng mộ, lo gì thế giới không ngợi khen?
Người lính năm xưa của Đại tướng chỉ lưu ý với Đại tướng một điều, Đại tưởng chớ đem chữ “Nhẫn” ra dạy cho sĩ quan và binh lính để hưởng sự yên ổn, thái bình. Đại tướng mà dạy như thế chẳng ai chịu đi lính, chẳng ai chịu hy sinh cho Đại tướng nữa đâu. Như thế Đại tướng lấy đâu quân lính, lấy đâu ra “nhất tướng công thành vạn cốt khô” để Đại tướng làm Đại tướng, làm Tổng Tư lệnh? Như thế sự nghiệp chấn hưng Chủ nghĩa xã hội dưới âm phủ của Đại tướng sẽ không thành.”

Cả triệu người chung một niềm mất mát

Trong khi Hà Nội tràn ngập những nhánh hoa thương tiếc, Quảng Bình cố giấu những tiếng nấc vào trong tim thì Sài Gòn tỏ ra không mấy sinh động trước biến cố này. Người Sài Gòn vẫn gạo chợ nước sông, trôi theo vòng quay miếng cơm manh áo. Hình như cái chết của danh tướng Võ Nguyên Giáp không đủ sức lay động trái tim của người Sài Gòn vì cái tên của ông không làm cho số lớn người dân miền Nam hãnh diện. Nhiều người biết đến Điện Biên Phủ như một chiến thắng chung của cả nước và Võ Nguyên Giáp nằm trong lòng họ chỉ là cái tên của một vị tướng tài không hơn không kém. Một phần do chính quyền miền Nam không khuếch tán chiến thắng của miền Bắc, một phần khác người dân chưa quen với cung cách tôn sùng lãnh tụ mà Hà Nội vẫn dùng ngay cả sau khi Sài Gòn giải phóng.
Chỗ này chỗ kia, tiếng khóc chưa bao giờ tạnh của những người trót sinh ra trên đời này, nhưng không mấy khi cả triệu người cùng chung một niềm mất mát.
-Nhà Văn Nguyễn Ngọc Tư
Giòng chảy lịch sử bị chặn lại từ vĩ tuyến 17 khiến Sài Gòn hững hờ với Điện Biên, hay nói đúng hơn hờ hững với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông không chiếm lĩnh quả tim dân chúng miền Nam trọn vẹn cũng là điều dễ hiểu. Nhưng với bản tính cởi mở, người miền Nam có thể rơi nước mắt khi hay tin một người như ông vừa chết tại Hà Nội. Hai chữ đồng bào hình như gắn bó với phương Nam hơn hai vùng còn lại.
Nguyễn Ngọc Tư có cái nhìn theo góc của ngữ nghĩa này. Tác giả “Cánh đồng bất tận” quan sát những diễn biến của người Sài Gòn và trải lên giấy những hình ảnh xao động cảm xúc của người dân vốn ngoại cuộc với chính trị nhưng luôn mở lòng ra với những điều đơn sơ xảy ra chung quanh như chúng vẫn thế:
“Mà ông tướng đó cũng không phải ruột thịt, hay họ hàng xa, hay láng giềng ở cạnh nhà. Ông giỏi thì khỏi nói, cái đó cả thế giới chịu rồi, “nhưng tụi mình đâu phải thương chỉ mỗi chuyện đó”, bạn quệt cùi tay chùi nước mắt, nói “nghĩ tới ông như là nghĩ tới ông nội mình, không hề có cảm giác xa xôi vĩ đại”. Bàn bên mấy anh đòi nợ mướn cũng thôi chửi thề một con nợ khó nhằn, một anh buột miệng “nhìn ổng hiền như con cọp ăn chay”. Màn hình đông chừng mười lăm giây nụ cười hồn hậu của ông tướng. Tự biết trong lòng người dân, hình ảnh ấy còn đọng lại rất lâu.
Bạn tôi tin hồi tại thế ông sống như mình có, không cố ý sống sao cho dân phải khóc khi lìa cõi tục. Tự nhiên từ khí chất. Thấy ông tưới phong lan, cũng lui cui như ông già kế bên nhà. Thấy nụ cười, biết rằng những oan khuất nhục vinh đã bị ông phẩy tay bỏ lại. Chỉ dân là ông không quên, khi thỉnh thoảng gửi báo những bài viết tâm huyết đóng góp cho chính sách dân sinh.
Mấy hôm trước cà phê sáng với nhau bạn còn kêu xã hội nhìn đâu cũng rẽ chia xáo xác. Sẵn sàng cãi nhau vì một cuốn sách, ông xài điện thoại Mỹ tôi dùng điện thoại Hàn, vì em mê nhạc sến anh thích sang. Cảm giác loạn lạc từ chính trường cho tới từng mái ấm, từng cái tổ của mỗi người. Đi bên bờ vực ai không chịu được nấy rơi, tưởng không có gì ngăn lại được dòng người chèn lấn. Bỗng tất thảy họ dừng lại chỉ vì một hơi thở vừa dứt vô phương nối lại. Bạn rươm rướm nói, ông tặng cái chết của mình cho người dân như một cơn mưa phúc lành. Họ, cũng như bọn tôi, ẩn nỗi tiếc thương ông già rực rỡ đó, thấy tâm hồn mình bỗng dưng liền sẹo, bâng khuâng vì ý nghĩ mình cũng còn khả năng khóc cho một người dưng.
Cách khóc mỗi người mỗi khác, có người tận nhà ông già cúi đầu đặt bó hoa, người ở xa ngồi trước tivi lén kéo chéo áo lau đuôi mắt, người nuốt trộng vào lòng, người lại thở hắt ngậm ngùi “rồi ai cũng về, người ở đến gần một trăm lẻ ba năm chớ đâu ít ỏi gì, mà sao ai cũng tiếc, lại có người ở mới sáu mươi mà dân ngán ngẩm thôi rồi”. Chỗ này chỗ kia, tiếng khóc chưa bao giờ tạnh của những người trót sinh ra trên đời này, nhưng không mấy khi cả triệu người cùng chung một niềm mất mát.
Bạn nói có bốn trong mười phần nước mắt đã chảy ra, chúng ta khóc cho việc sau này chẳng còn ai đủ lớn để dân còn có thể thương chung, khóc cùng. Cúi đầu trước ông, cũng đồng nghĩa bày tỏ thái độ với những ông quan còn đang sống.”
Đúng như Nguyễn Ngọc Tư nhận xét, một sự ra đi gây thương tiếc cho nhiều người như thế không dễ gì được lập lại trong vài mươi năm tới. Hiền tài không có, nước mắt người dân lại phải cứ đổ ra cho gia đình, con cháu và bản thân mình ngày một nhiều thì còn đâu dành dụm được cho các lãnh tụ về sau, kể cả khi minh quân xuất hiện?

Võ Nguyên Giáp – người con của nhân dân

Trần Nguyễn Hoàng

Cập nhật: 03:08 GMT – thứ bảy, 12 tháng 10, 2013

Hàng nghìn người đã đến viếng tướng Giáp tại nhà riêng
Tôi không định viết bài này để ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp vì những lời tốt đẹp nhất về ông mọi người đã nói cả rồi. Tôi chỉ xin bàn đến vấn đề vai trò cá nhân nên được xem xét như thế nào trong lịch sử Việt Nam hiện đại qua câu chuyện Võ Nguyên Giáp.
Nếu nói ông là vị tướng lỗi lạc, tài ba nhất trong thế kỷ 20, hay so sánh ông với Napoleon… thì tôi nghĩ rằng hơn ai hết, Đảng Cộng sản Việt Nam không đồng ý với điều này.
Trong hai cuộc chiến tranh, mọi đường lối và quyết định quan trọng đều là của tập thể những người lãnh đạo.
Ở Việt Nam, trừ Hồ Chí Minh, vai trò cá nhân, dù là một cá nhân xuất chúng, rất khó được thừa nhận. Nếu bạn quá khác biệt, nếu bạn quá ưu tú, bạn sẽ bị các đồng chí mình tìm cách hạ bạn xuống. Hầu như không một quyết định quan trọng nào đưa ra được gắn với tên tuổi một cá nhân, mà đều dán chung một nhãn hiệu là “quyết định của Ban Chấp hành Trung ương”, “của Bộ Chính trị”, hay của Đảng…
Thế nên, ở Việt Nam, khi thất bại, người ta cũng rất khó đổ lỗi cho riêng một ai đó, trừ khi người đó hành động một mình. Thật là một cơ chế tuyệt vời để bảo vệ tất cả những người có lỗi! Nếu có lỗi tập thể, yên tâm, sẽ không sao, tập thể sẽ gánh cho bạn. Trong một kiểu lãnh đạo như thế, làm một ngôi sao sáng quá sẽ lẻ loi và thật sự nguy hiểm.
Tôi tin Võ Nguyên Giáp đã là một ngôi sao như thế.
Trong cơ chế tập thể lãnh đạo, kể cả người lãnh đạo cao nhất cũng không chịu trách nhiệm một mình, thì hành động cá nhân, quyết định cá nhân, các tư tưởng riêng của một con người, kể cả nếu đúng, cũng đều có nghĩa là tự loại mình ra khỏi ra khỏi tập thể, ra khỏi con đường tập thể đã chọn, và đồng nghĩa với kết liễu sự nghiệp cá nhân.
Cả Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sau kháng chiến chống Pháp đều dần dần bị “tập thể” tìm cách cô lập. Trần Xuân Bách tuột hết sự nghiệp là một bằng chứng rõ ràng nhất khi ông có tư tưởng riêng và hành động cấp tiến một mình.

Cái đẹp không thể hủy diệt

Thái độ của người dân đối với cái chết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn là một cách thể hiện thái độ của họ đối với nhà cầm quyền và Đảng CSVN rằng cái gì mới là cái họ tin yêu và đi theo.
Không ghi trong lịch sử chính thống, nhưng ai cũng biết Võ Nguyên Giáp bị đối xử như thế nào trong thời gian chiến tranh chống Mỹ.
Nhiều kẻ muốn vô hiệu hóa ông, thậm chí bôi nhọ ông. Ông từng bị Lê Duẩn chỉ tay đuổi không cho dự một cuộc họp, từng đi thăm chiến trường mà bị ngầm chỉ đạo để địa phương không tiếp đón, từng bị đẩy làm “thống chế đi đặt vòng”, từng đối mặt với nguy cơ bị thủ tiêu…
Nhưng trong tất cả những năm ấy, không ai chứng kiến ở bất kỳ đâu Võ Nguyên Giáp ứng xử với lòng thù hận, hay xuất hiện trước nhân dân nói những lời thất thố, xúc phạm.
Ông đã khiêm nhường, luôn đặt nhân dân mình lên cao nhất. Sau Hồ Chí Minh, không chính trị gia Việt Nam nào làm được điều đó, ngoài ông.
Nếu mọi người ca ngợi và nhấn mạnh tài năng quân sự của ông trong hai cuộc chiến tranh, tôi muốn nhấn mạnh sự vĩ đại của ông ở những khía cạnh khác hơn: khía cạnh nhân cách và con người ở một vị tướng.
Võ Nguyên Giáp là biểu tượng cao cả của cái đẹp. Ông là một vị tướng, nhưng không võ biền mà trí tuệ, đức độ, hào hoa, phong nhã, nhu nhẫn, điềm đạm, hài hòa…
Từng ấy phẩm chất ở một vị tướng làm nên vẻ đẹp tinh thần tuyệt vời của ông.
Nhưng cũng có thể vì cốt cách ấy, ông đã bị bao kẻ muốn hại ông, hạ nhục ông, và họ đã làm như thế. Những kẻ mưu hại ông không hiểu được rằng vì ông đặt nhân dân lên cao nhất nên nhân dân đã đặt ông lên cao nhất.
Võ Nguyên Giáp về quê nhà, không nằm ở Mai Dịch. Gia đình ông mở cửa cho nhân dân vào viếng ông – Võ Nguyên Giáp và gia đình ông đã hiểu nhân dân và rằng ông thuộc về nhân dân.

Biểu tượng cuối cùng của niềm tin

Các chính trị gia bấy lâu nay chỉ muốn hủy hoại thanh danh Võ Nguyên Giáp, nay thấy thái độ của nhân dân, để khỏi bị cô lập, vội đục nước béo cò
Đọc bình luận của bạn tôi trên facebook “Nhân dân không thờ ai sai bao giờ”, tôi giật mình. Bạn nói đúng.
Thái độ của nhân dân trước sự ra đi của Đại tướng cho thấy người dân đồng lòng cái gì, tôn thờ cái gì, tin tưởng cái gì, yêu mến cái gì, hướng về cái gì, cho dù họ già, hay trẻ, hay là đàn ông, hay đàn bà. Đó hoàn toàn không phải cái chính quyền bấy lâu nay răn dạy họ, dùng đủ mọi phương tiện truyền thông hùng hậu trong tay hòng nhồi sọ họ.
Nhân dân thật sáng suốt! Họ không lẫn lộn vàng, thau, không lẫn lộn trắng đen. Họ không chấp nhận sự dối trá.
Trong một xã hội có quá nhiều tham lam, đầy rẫy bất công xã hội và tiêu cực như hiện nay, thái độ của người dân đối với cái chết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn là một cách thể hiện thái độ của họ đối với nhà cầm quyền và Đảng CSVN rằng cái gì mới là cái họ tin yêu và đi theo.
Hãy nghe một người lái xe taxi quê mùa, ít học cũng có thể bình luận: “Chỉ còn ông ấy là người dân thương tiếc, tiễn đưa, chứ còn những người khác à, chết đi cho nhanh để nhân dân được nhờ”!
Các chính trị gia bấy lâu chỉ muốn hủy hoại thanh danh Võ Nguyên Giáp, nay thấy thái độ của nhân dân, để khỏi bị cô lập, vội đục nước béo cò. Người ngây thơ nhất cũng có thể hiểu những kẻ đã muốn hạ ông xuống nay lại đóng kịch nâng ông lên. Thật là một thái độ và hành động thớ lợ!
Nhân dân không cần điều ấy. Họ tự đi viếng ông. Ông đã thuộc về nhân dân, ông thực sự là người con vĩ đại của nhân dân.
Bài phản ánh quan điểm và văn phong của tác giả, hiện sống ở Hà Nội.

Trần Kinh Nghị – Việt Nam được mất gì từ quan hệ với Trung Quốc?

Danluan


Trần Kinh Nghị

Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường sẽ đến Việt Nam ngày 13/10 trong một chuyến thăm chính thức cấp cao nhất kể từ cuộc chiến tranh biên giới 1979. Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên là chuyến thăm bắt đầu vào ngày cuối quốc tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp-biểu tượng cuối cùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam. Sự trùng hợp này có thể gây ra một vài khó khăn trong việc thu xếp nghi thức sao cho phù hợp và tránh gây hiểu nhầm. Nhưng vấn đề đáng nói là thời điểm sự kiện khiến người ta nghĩ đến sự chín mùi để nhìn lại quá quá trình quan hệ Việt-Trung và định hình cho nó trong tương lại. Bài viết ngắn này không có tham vọng trình bày cặn kẻ toàn bộ chủ đề rộng lớn này mà chỉ đề cập một khía cạnh thiết thực: Việt Nam được-mất gì từ quan hệ với nước lớn láng giềng phương Bắc?
Quan hệ bất bình đẳng
Nhiều người coi sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam đã hoàn thành bằng việc đánh đuổi thực dân Pháp và can thiệp Mĩ. Nhưng thực ra đó chỉ là một giai đoạn của toàn bộ quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc vẫn chưa hoàn thành từ thời tiền sử đến nay. Đây là cách hiểu khá phổ biến đối với người Trung Quốc, điển hình là vị Giáo sư-tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh khi ông này hùng hồn tuyên bố trước Hội thảo quốc tế về Biển Đông tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 10/2010: “Cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Và ông ta sử dung luận cứ này để biện minh cho đường ranh giới dứt đoạn hình lưỡi bò bao trọn 80% diện tích Biển Đông với phần phía Tây giống như một hàng rào thô sơ dựng lên bởi một gã địa chủ tham lam trước cửa nhà người láng giềng Việt Nam. Điều trớ trêu là đường lưỡi bò này vừa được Bắc Kinh lôi ra từ sọt rác tư liệu vốn chỉ là một đường chấm phá ngẫu hứng của một viên tướng vô danh thời Tưởng Giới Thạch. Cách hiểu này giải thích tại sao Bắc Kinh đã rất sẵn sàng hậu thuẫn Việt Nam chống Pháp, Nhật, Mĩ và cả Nga. Đó cũng là lý do tại sao Việt Nam sau khi chiến thắng và thống nhất đất nước đã lập tức bị chính người đồng chí hôm qua tấn công từ biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc, từ Hoàng Sa xuống Trường Sa.
Về phần mình, người Việt Nam tự hào đã đánh bại thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mĩ và coi đó là hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì thế, ngay sau ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Tổng Bí thư Lê Duẩn từng đánh giá (đại ý): Từ nay không kẻ nào dám đánh Việt Nam nữa! Nhưng nhận định đó đã lập tức cho thấy là viễn vông bởi nước Trung Quốc bao la vẫn còn đó và không bao giờ dung túng cho tiểu quốc phiên thuộc này được độc lập tự do. Đó là thông điệp chính mà nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã muốn “dạy” người Viêt Nam. Qua đó thấy rằng, không chỉ thời Vương triều xa xưa mà thời cộng sản Trung Quốc vẫn tồn tại cách hiểu khác nhau về chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ giữa hai nước. Mặc cho Ngô Quyền tuyên bố “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”, các triều đại phương Bắc vẫn tìm mọi cách hòng duy trì quy chế phiên thuộc đối với vùng Giao Chỉ. Rõ ràng có sự khác biệt hoàn toàn về khái niệm độc lập và toàn vẹn lãnh thổ giữa hai quốc gia dân tộc chủ nghĩa này. Và điều này khiến rất khó (nếu không nói là không thể) có mối quan hệ thật sự lành mạnh giữa hai nước. Nó không giống quan hệ Mỹ – Mêhicô, cũng không giống quan hệ Mỹ-Cu Ba; đó là một loại quan hệ gượng ép và bất bình đẳng mà trong đó phía Việt Nam luôn phải tỏ ra khiêm nhường theo kiểu “tránh voi chẳng xấu mặt nào” trong khi phía Trung Quốc bao giờ cũng muốn áp đặt và khuất phục bằng sức mạnh. .
Muốn độc lập và phát triển Việt Nam phải giữ khoảng cách trong quan hệ với Trung Quốc
Vẫn biết quan hệ với Trung Quốc là cần thiết. Nhưng đó là mối quan hệ vì mục đích tồn tại hơn là để phát triển Người Việt có câu ngạn ngữ mang tính thực dụng “Bán anh em xa, mua láng giêng gần” đồng thời cũng có một câu bổ bả nhưng thâm thúy “Xa thơm, gần thối”. Cả hai câu tạo thành triết lý sống của người Việt không chỉ trên quy mô làng xã mà cả quy mô quốc gia, quốc tế. Nó hiện thân thành thế tiến thoái lưỡng nan trong quan hệ với nước lớn láng giềng phương Bắc trong suốt chiều dài lịch sử. Có lẽ từ nhận thức này các chí sĩ thuộc nhiều thế hệ người Việt vẫn lấn bấn tìm lối thoát, điển hình gần đây là phong trào Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy tân, tư tưởng “thoát Á”…., và ngày nay phương châm “Làm bạn với tất cả”. Ngày nay sau khi đuổi Pháp thắng Mĩ người Việt nam chợt nhận ra rằng nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ vẫn bị dọa bởi “nước ngoài”- một cách diễn đạt mơ hồ vì những lý do chính trị mặc dù ai cũng biết nó đến từ phương Bắc. Đây thực sự là vấn đề của bản thân người Việt Nam chừng nào vẫn tin rằng thế núi liền núi sông liền sông buộc quan hệ Việt-Trung muôn đời không thể khác. Tuy nhiên, trãi qua “nghìn năm Bắc thuộc” và “trăm năm Pháp thuộc” cho thấy không sự lệ thuộc ngoại bang nào là tốt cả, nhưng cũng cho thấy thực tế hiển nhiên là, trong thời kỳ Pháp thuộc bờ cõi đất nước được củng cố và giữ vững từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Về cơ hội phát triển cũng thấy hiện tượng tương tự, đó là những cơ sở hạ tầng và công-thương nghiệp dù hạn chế do “cách bóc lột bủn xỉn” của người Pháp vẫn tao ra những khác biệt so với láng giêng phương Bắc. Thực tế cũng cho thấy viện trợ của Trung Quốc có thể giúp Việt Nam duy trì chiến tranh nhưng không giúp Việt Nam phát triển. Nền kinh tế Việt Nam chỉ thực sự khởi sắc sau khi bị Trung Quốc cắt viện trợ. Những năm gần đây khi hai nước “bình thường hóa quan hệ” đã lại xuất hiện tình trạng trì trệ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ và khoa học-kĩ thuật vì Trung Quốc toàn đưa sang các trang thiết bị lạc hậu cùng những thủ đoạn kiềm chế mà người Trung Quốc lúc nào cũng sẵn có. Dự án khai thác bauxit Tây Nguyên và hàng loạt các công trình nhiệt điện hoặc khai thác tài nguyên khoáng sản v.v… là những ví dụ. Sự tràn ngập hàng hóa thứ cấp rẽ tiền và hàng có độc tố xuyên qua biên giới đang thực sự là mối đe dọa đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong cơn sốt vốn đầu tư hiện nay, không loại trừ khả năng một ngày kia khi tĩnh dậy người Việt Nam nhận ra rằng nhà máy, hầm mỏ, ruộng đồng và rừng, biển đang nằm trong tay các ông chủ người Trung Quốc. Chẳng hay các nhà lãnh đạo và doanh nhân của đất nước có nhận ra nguy cơ càng xích gần với Trung Quốc sẽ càng hạn chế cơ hội tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới?. Về điểm này Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á. Và nên nhớ rằng ngay cả khi đã được coi là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc vẫn là nước lạc hậu về công nghệ.
Bẫy “chia để trị”
Xin quay lại với chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường. Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên với diễn biến tình hình tranh chấp Biển Đông đang có lợi “giấc mơ Trung Hoa” khi nước Mĩ rơi vào thế “bỉ cực” khiến Chính phủ Liên bang phải đóng cửa ngừng hoạt động….do hết tiền tiêu (!), đến nỗi bản thân Tổng thống Obama không thể tham dự những sự kiện quốc tế quan trong là Hội nghị cấp cao APEC và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAC). Ngược lại, Trung Quốc gặt hái được nhiều thành quả kinh tế tài chính và giờ đây có thể tung ra để mua những đối tác đang đói vốn trong khu vực và thực hiện tham vọng bá quyền ấp ủ bấy lâu. Nhờ đó Chủ tịch Tập Cận Bình đã đạt được thỏa thuận hợp tác rất lớn với Indonessia, trong đó đáng chú ý là hợp tác đánh cá xuyên Biển Đông, đã kí “đối tác chiến lược” với Malaysia v.v… Cùng với việc Thái Lan, Lào Singapore đã được “tranh thủ” và Campuchia bị khống chế, đến nay chỉ còn Philipin và Việt Nam là hai nạn nhân trực tiếp đang phải chật vật tìm cách đi riêng trong việc đối phó với kẻ thù chung. Có thể nói Bắc Kinh đã cơ bản hiện thực hóa âm mưu “chia để trị” đối với khối ASEAN – điều mà cách đây vài năm tưởng còn xa vời. Và cũng có thể nói, chủ trương “xoay trục” của Mĩ tỏ ra không khác nào “đánh trống bỏ dùi”!
Chính trong bối cảnh đó không khó để đoán biết sứ mệnh của chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc đến Việt Nam sẽ là gì. Nếu nhìn bề ngoài ta tưởng chiến thuật khôn khéo với thái độ khiêm nhường chịu đựng của Việt Nam đang được đáp lại bằng việc giảm bớt cường độ lấn chiếm từ phía Trung Quốc. Nhưng đó chỉ là một cử chỉ hoàn toàn mang tính chiến thuật có chủ định của Bắc Kinh mà thôi. Nói cách khác, Bắc Kinh đang chủ động thực hiện kịch bản mà họ đã dàn dựng và tranh thủ cơ hội để đạt mục tiêu “lợi ích cốt lõi” là độc chiếm Biển Đông. Trong kịch bản đó Việt Nam dù giữa vị thế một vai diễn chính nhưng đang diễn theo kịch bản của đạo diễn.
Hãy cảnh giác
Chuyến đi chưa thực dự diễn ra nên chưa biết Thủ tướng Trung Quốc sẽ mang sang Việt Nam những gì và trong hầu bao có bao nhiêu…nhưng điều chắc chắn ai cũng biết đó là nhằm tiếp tục “nắn dòng” nền chính trị và kinh tế của Việt Nam vào quỹ đạo của Trung Quốc- điều mà Bắc Kinh chưa làm được bằng đường lối cứng rắn, kể cả bằng biện pháp chiến tranh nóng trong thời gian qua. Xem ra đây mới là thời kỳ thử thánh cam go hơn đối với Việt Nam khi mà thế hệ dầy dạn kinh nghiệm đã hoàn toàn ra đi.
Trần Kinh Nghị

Phạm An Biên – Người đứng đầu không bao giờ sai!

Danluan

Phạm An Biên

Dân Luận: Hãy tưởng tượng thế giới chỉ có một mình iPhone, không có Samsung, Nokia, LG… Hãy tưởng tượng Apple dùng 1/3 ngân sách của mình để theo dõi và bịt miệng những người dám nói “iPhone như shit”. Hãy thử tưởng tượng Apple dùng 1/3 ngân sách của mình để báo đài suốt ngày ca ngợi các sản phẩm đấy sáng suốt của Apple.
Theo bạn trong một môi trường không có cạnh tranh, chỉ có bịt miệng, đàn áp và thiếu trung thực như thế, quyền lợi của khách hàng có được đảm bảo không? Apple có ngồi lắng nghe và tiếp thu ý kiến góp ý của khách hàng không? Và Apple có trở thành một công ty hàng đầu về công nghệ không, hay là thành một cơ quan tuyên truyền và nói láo khổng lồ, còn sản phẩm thực tế tới tay người tiêu dùng thì như shit?
Thật quá ngây thơ khi nghĩ rằng, những nhà sáng lập và kiến tạo nên một thể chế là vĩ đại, còn di sản tồi chỉ là vì kẻ thừa hành, thế hệ sau thực hiện tồi mà thôi.
Bạn hãy hình dung thế này. Bạn mua phải một cái iPhone củ chuối, bạn mang đến hãng đòi đổi hoặc bảo hành. Nhân viên Apple nói rằng máy lỗi là do lỗi của người công nhân lắp ráp của Foxconn, chứ hãng vô can. Vì người đứng đầu là Steve Jobs luôn đúng.
Nếu bạn mà có số điện thoại của thằng cha nào đó tên là Steve Jobs, chắc chắn bạn sẽ gọi điện thẳng đến cha đó mà chửi thốc vào mặt.
Không may là chả công ty nào công khai số điện thoại của người đứng đầu cả. Nhưng các công ty kiến tạo để bền vững luôn có bộ phận chăm sóc khách hàng, bộ phận bảo hành để tiếp nhận ý kiến người sử dụng, và chịu trách nhiệm về sản phẩm mang thương hiệu của mình, bất kể là công ty nào khác chế tạo ra nó, người công nhân nào lắp ráp nên nó.
Nếu các bộ phận đó không đáp ứng được đòi hỏi quyền lợi chính đáng từ khách hàng, truyền thông sẽ vào cuộc, hình ảnh công ty sẽ bị bôi xấu, bán hàng và lợi nhuận hay giá trị cổ phiếu sẽ bị tụt giảm, và cha nào đó tên là Steve Jobs sẽ bị phế truất, dù ông ta chẳng chế tạo ra linh kiện lỗi hay lắp ráp nên chiếc iPhone củ chuối của bạn.
Sự thật thì điều đó không bao giờ xảy ra với iPhone, và vì thế mà nó là iPhone, là Apple, và là Steve Jobs. Dù vậy, từng có lần Steve Jobs bị phế truất khỏi chính công ty mà ông sáng lập, vì từng ko thỏa mãn ý nguyện của nhà đầu tư.
Còn xã hội ta toàn phải xài “iPhone” lởm, mất tiền nhưng còn bị chửi, thậm chí bị tống tiền thêm. Vì Steve Jobs của chúng ta là vĩ đại, Apple của chúng ta không bao giờ nhận sai lầm, và chỉ đổ lỗi cho công nhân hay đối tác. Không có gì ngạc nhiên bởi Steve Jobs của chúng ta không bao giờ kinh doanh cả, không đủ trình để làm một công chức quèn trong chế độ thuộc địa. Dĩ nhiên, người như thế thì chỉ tuyển lũ du thủ du thực về dưới trướng nếu ôm mộng lớn. Và vì ko hiểu thế nào là quy trình hay thể chế nên sẽ chỉ lãnh đạo bằng thủ đoạn và quyền thuật.
Một ngày kia bị lũ đó đoạt quyền, tổ chức hỗn loạn, xa rời mục tiêu ban đầu thì không có gì lạ.
Nhưng chúng vẫn tồn tại, vẫn vĩ đại, bởi hầu hết dân chúng vẫn đủ ngây thơ để tin rằng, sản phẩm lỗi là do đối tác và do người công nhân, mà không biết tìm thằng gây lỗi đó ở đâu!

“Ai có thể sai chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao trạch Đông không thể sai được!”

Nguyễn Văn Thạnh – Chủ nghĩa Mác – Lênin: Bộ máy hoàn hảo cho chiến tranh

Chúng ta thường hay nghe câu khẩu hiệu “chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch muôn năm”. Với hàng mấy chục năm quá độ trầy trật, đói rạt người để tiến lên ảo ảnh CNXH, đặc biệt là tình hình kinh tế-xã hội bi đát hiện nay, hẳn nhiều người cho câu khẩu hiện trên là bốc phét, tuyên truyền dối trá trong thể chế độc tôn về truyền thông.
image001_30.jpg
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của tôi-một kỹ sư-luôn nhìn sự vật ở tính hệ thống, thì tôi thấy họ nói đúng chứ không phải tuyên truyền dối trá. Chúng ta hãy cùng nhau phân tích:
Chủ nghĩa Mác-Lênin đưa đến một xã hội có kết cấu như sau (điều tôi trình bày ở đây là mô hình nguyên thủy, hiện nay đã có vài biến tướng):
- Về chính trị: chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo là đảng cộng sản. Đảng cộng sản được tổ chức từ cấp chi bộ phường, xã trở lên. Không chỉ lãnh đạo chính quyền, ĐCS còn nắm giữ, điều khiển tất cả các tổ chức lớn bé của xã hội: từ hội nông dân, hội phụ nữ, công đoàn, đoàn thanh niên, đến các tổ chức từ thiện, giáo dục, y tế, buôn bán, kinh doanh,…. Nguyên tắc của tổ chức ĐCS là cấp dưới chấp hành tuyệt đối cấp trên. Trên cùng của hệ thống là bộ chính trị, đại diện là vị tổng bí thư. Nhân viên công lực chấp hành nghị quyết Đảng tuyệt đối, không bàn cãi, nghiêm còn hơn tinh thần thượng tôn pháp luật. Nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo có nhận định: CNCS cai trị xã hội gần như một tôn giáo với giáo chủ là tổng bí thư.
- Về kinh tế: Đảng thông qua nhà nước nắm toàn bộ kế sinh nhai, đất đai, xí nghiệp, kho tàn,…. Người dân bị nắm dạ dày: gạo, mắn, thịt, vải vóc, chất đốt,…qua chế độ tem phiếu.
- Về văn hóa, thông tin: nhà nước nắm độc quyền, người dân chỉ được nghe những gì nhà cầm quyền muốn. Ở rất nhiều nước CS, có thảm cảnh dân làng này chết đói rất nhiều nhưng dân làng bên cạnh không hay biết và ngỡ là mình đang sống trong một thiên đường. Câu chuyện này có thể tìm thấy bằng chứng ở Liên Xô và Trung Quốc. Chế độ xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lê nin đã thật sự chọc mù con mắt, làm thủng lỗ tai con người, biến con người thành con cừu.
- Về xã hội: thực hiện chuyên chính vô sản, ai không nghe thì bỏ tù, khủng bố tinh thần gia đình. Người dân bị quản lý thông qua chế độ hộ khẩu và lý lịch. Xã hội vận hành trên nghị quyết đảng, đảng nắm hết tam quyền và đệ tứ quyền, không có tam quyền phân lập ở đây. Một chỉ thị miệng như tịch thu nhà, tống giam người dân như Z30 vẫn được thực hiện, không cần bàn cãi. Hệ thống làm cho con người sống trong tâm trạng lo sợ và trở nên hèn hạ. (ở Liên Xô, sau khi gây ra thảm kịch làm 7 triệu dân Ukraina chết đói nhưng ngay cả một ủy viên bộ chính trị lúc đó cũng ngậm miệng không dám nói vì sợ).
- Về quan hệ quốc tế: các nước trong khối CS có thể viện trợ nhau tối đa mà không bị nhân dân hay quốc hội nước đó đặt câu hỏi hay cản trở. Câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông là có thể hy sinh nửa số dân TQ (tầm 300 triệu người) để xây dựng CNXH trên toàn thế giới.
Đó là những nét chấm phá của hệ thống nhà nước theo chủ nghĩa Mac lenin. Trong hệ thống đó, mọi tầng lớp nhân dân từ bình dân đến tinh hoa trí thức, văn nghệ sĩ như những con cừu chỉ biết tuân theo cây gậy chỉ hy của nhà cầm quyền. Mỗi cá nhân như con ốc vít, hoàn toàn không có quyền công dân, thậm chí nhiều trường hợp việc kết hôn, cưới xin nhiều khi còn do chi bộ Đảng ủy quyết định.
Tôi không phủ nhận rằng, nhiều người tham gia chiến tranh vì yêu nước nhưng có một sự thực là rất nhiều người trong số họ không có thông tin đầy đủ. Thực tế cho thấy, yêu nước thiếu thông tin là loại yêu nước mù quáng và hồ đồ. Nữ văn sĩ Dương Thu Hương khi vào Sài Gòn đã phải thốt lên “Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ”. Người nghệ sĩ, người trí thức yêu nước cuồng si cũng vì bị bịt mắt.
Trong bộ máy ấy, ngoài hình ảnh người dân ra chiến trường vui như đi hội vì bị nhồi sọ, bị bưng bít thông tin, họ còn phải ra chiến trường vì kế sinh nhai. Nhiều người, trong đó có ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện từng nói “người ta đi lính đơn giản vì vào đó còn có cái ăn và không vào thì cả nhà chết đói”.
Nếu ai ý thức được sự tàn bạo của hệ thống mà lên tiếng thì số phận rất bi thảm. Cuộc đời các vị: Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Chí Thiện, Trần Dần,… là minh chứng.
Trong cái hệ thống nghiệt ngã đó, từ văn nghệ sĩ, trí thức, người có lương tâm cũng phải trở nên hèn đi và sống giả dối. Họ không còn lựa chọn khác ngoài việc dùng tài năng, gắng sức ngày đêm để nặn ra tác phẩm ca ngợi lãnh tụ và động viên nhân dân ra chiến trường.
Mậu thân, 2000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết của 2000 người đó?
Tôi! Tôi, người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi lúc xung phong

(Chế Lan Viên)
Trên chiến trường, phóng viên phía bên kia có thể tự do đưa tin nên dân chúng có thể thấy được sự khủng khiếp của chiến tranh, thấy được sự hy sinh mất mát mà lên tiếng phản đối, vãn hồi chiến tranh (Nếu không có tự do báo chí và sự tự do của phóng viên chiến trường VNCH thì mãi mãi chúng ta gồm cả người VN và người Mỹ không thể biết điều gì thực sự đang xảy ra trên chiến trường). Còn với phe cộng sản, tin tức được đưa theo định hướng, chỉ có chiến thắng, sự thật có bao nhiêu tổn thất, bao nhiêu người chết, dân miền Bắc không bao giờ được biết. Ông Hồ Chí Minh từng nói với người Pháp “các ông giết 10 người chúng tôi, chúng tôi chỉ giết 1 người các ông, nhưng rốt cuộc các ông sẽ chán nản bỏ cuộc trước”. Đây là tư tưởng xuyên suốt trong chiến tranh từ đánh Pháp, đánh Mỹ rồi đánh Campuchia, đánh TQ. Hệ quả là khắp dải đất nhỏ hẹp Việt Nam, không có xã nào là không có nghĩa trang liệt sĩ với bạt ngàn mộ trắng.
image003_17.jpg
Người thì liên tục sinh nở, 17 năm sau thì có thể cầm súng ra chiến trường (rất nhiều quân nhân miền bắc thậm chí tầm 15-16 tuổi), hết lớp này chết thì bổ sung lớp khác. Súng đạn thì đồng minh viện trợ không thiếu. Lương thực thì thì đồng minh chở sang (rất nhiều quân lương dùng trong chiến tranh là do người TQ viện trợ).
Người cầm quyền chỉ nắm chặt truyền thông và dạ dày dân chúng là có thể vận hành được hệ thống theo ý mình. Trong hệ thống được kết cấu như vậy thì kẻ thù nào cũng đánh thắng. Và cũng không cần người tài giỏi vận hành mới chiến thắng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin thật sự vô địch nhưng nó vô địch trong chiến tranh chứ không phải trong hòa bình, mang lại cơm no áo ấm cho mọi người! Đó là lý do vì sao chúng ta vô địch trong chiến tranh và lụn bại trong hòa bình.
Nguyễn Văn Thạnh

Tại sao có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt Nam và người Nhật?

Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới. Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ quá) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.

Kể từ đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu Thái Dương Thần Nữ.

Càng biết thêm về họ tôi càng phục họ hơn. Đó là một dân tộc có nhiều điểm rất đặc biệt. Một dân tộc luôn tự hào về những giá trị truyền thống nhưng khi cần cũng sẵn sàng dứt bỏ những gì đã lỗi thời. Một dân tộc mang niềm kiêu hãnh lớn lao nhưng đồng thời cũng luôn biết học hỏi cái hay của người khác. Một dân tộc đã từng đánh bại các đế quốc Mông Cổ, Trung Hoa và Nga Sô nhưng cũng biết nuốt cái nhục bại trận để vươn lên thành một cường quốc kinh tế. Một dân tộc ít khi ồn ào lớn tiếng, và luôn xem trọng sự ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng đặc biệt hơn cả – đó là một dân tộc chưa bao giờ biết đầu hàng trước nghịch cảnh.

Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của một người Việt sống lâu năm tại Nhật, quên mất tên tác giả, trong đó ông có nêu ra một chi tiết để phân biệt giữa người Nhật bản địa và người ngoại quốc sống ở Nhật – đó là nhìn qua cách phơi quần áo. Người ngoại quốc phơi lung tung, còn người Nhật phơi theo thứ tự, quần theo quần, áo theo áo….
Hai người Nhật chào nhau

Đúng như nhà văn Haruki Murakami đã nhận định: “Người Nhật là kho tàng của nước Nhật”. Tôi rất cám ơn đất nước này vì chính người Nhật đã cho tôi một niềm tin rằng bất cứ một đất nước nào, dù nhỏ, dù bị bất lợi về địa lý, tài nguyên… nhưng nếu dân tộc đó có một nhân sinh quan đúng đắn thì vẫn có thể trở thành một dân tộc giàu mạnh.

***

Thiên tai động đất và sóng thần xảy ra ở Nhật cách đây 2 tháng, mặc dầu những tin tức liên quan đến biến cố này không còn được nhắc đến nữa, nhưng đối với những người Việt Nam còn quan tâm đến đất nước thì những dư âm của nó vẫn còn để lại nhiều vương vấn suy tư. Cùng là hai nước nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh nào đã đưa đẩy hai dân tộc khác biệt nhau quá xa. Một dân tộc mà mỗi khi nhắc tới, từ Đông sang Tây, đều phải ngã mũ bái phục, còn dân tộc kia thì ít khi được nhắc đến, hay nếu có thì thường là những điều không lấy gì làm vinh dự cho lắm.

Sau biến cố này đã có hàng ngàn ý kiến xuất hiện trên các diễn đàn Internet đặt câu hỏi: “Tại sao lại có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt và người Nhật”, phần lớn những ý kiến này xuất phát từ những người trẻ đang sống ở Việt Nam. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy có nhiều người Việt Nam đang thao thức muốn thay đổi số phận của đất nước mình.

Đây là một đề tài rất lớn và đòi hỏi sự suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc của nhiều người nhất là những nhà trí thức. Bài viết này để chia sẻ câu hỏi đó và chỉ nên xem như những lời góp ý rất khiêm tốn.

Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn “Niên Biểu” cụ Phan bội Châu đã kể lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm đường cứu nước (lần đầu tiên vào năm 1905). Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ rất phục tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu: “Than ôi! trình độ trí thức dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!”.

Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm. Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy biến.

Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã làm cho 130,000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo bị tiêu hủy. Trong quyển “Thảm nạn Nhật Bản” (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật lại: ”Từng cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia đình”chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.

Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000 người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều không thể chịu đựng nỗi”.

Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.

Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ “Phép lạ kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này.

Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of the Allied Powers) – vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị tướng này muốn biến nước Nhật trở thành một “Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu. Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người Nhật không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật được như ngày nay có công đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.

Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn bài viết ca ngợi tinh thần của người Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: “Người Nhật: Một Dân Tộc Vĩ Đại”. Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra ngày 20 tháng 3 đăng bài “Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta” của ký giả Nicholas Kriftoff.

Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân tộc, và mỗi con người, khi bị thử thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng hay không”.

Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình.

Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại.

Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những căn nhà đổ nát không ai màng tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của. Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ này.”

Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau bắt tay xây dựng lại.

Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối.

Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ một tuần sau, ngày 17/3 các công nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày sau xa lộ này đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ lục này.

Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường dân đều tự tin rằng: “Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm trong quá khứ. Cho đến hôm nay (18/5) theo những tin mà chúng ta đọc được trên Internet thì những nơi bị tàn phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm sau nếu có dịp đến đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.

Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với người viết – chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất nước. Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần kỹ luật và lễ phép.

Những em nhỏ, có em còn được bồng trên tay, có em ngồi bên cạnh mẹ trong các nơi tạm cư, mặc dầu đói khát từ mấy ngày qua nhưng nét mặt của các em vẫm bình thản chờ đợi thức ăn mang đến. Những em bé này được dạy dỗ từ nhỏ tinh thần kỷ luật, tự trọng, danh dự và khắc kỷ… không phải chỉ học ở trường hay qua sách vở mà còn qua những tấm gương của người lớn trong những hoàn cảnh thực tế và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Mai đây nếu có một cuốn sách giới thiệu những nét đẹp nhất, cao thượng nhất của con người sống trên hành tinh này thì cuốn sách đó không thể thiếu được những hình ảnh của người Nhật trong thiên tai vừa qua.

Trông người lại nghĩ đến ta!

Trong bài “Góc ảnh chiếu từ nước Nhật”, nhạc sĩ Tuấn Khanh (ở VN) đã viết một câu thật thấm thía:

“Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật, người ta bừng sáng hy vọng và đôi khi sống giữa những điều được gọi tên là bình yên của đất nước mình, một người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh chiếu sắc cạnh của sự hoang tàn”.

Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại VN thì chuyện gì sẽ xảy ra? Bà Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:

- Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết thêm nghìn nữa.

- Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày kia.

- Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp giật nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ.

- Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ chen lấn, thì “bố cho mày mấy chưởng”.

- Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ, cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.

- Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều.

- Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.

- Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào dân đen sinh sống thì cứu sau.

- Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn khổ.

- Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý của Mặt trận Tổ quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng.

…v.v….

Tôi không nghĩ là bà Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào. Nói chung nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay “khôn nhờ dại chịu”, còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.

Ngay tại hải ngoại, nếu thiên tai xảy ra tại những nơi tập trung đông đúc người Việt, phản ứng của người dân có thể không tệ như trong nước nhưng chắc chắn bức tranh đó cũng sẽ không được đẹp đẽ cho lắm.

Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác và rẻ rúng thân phận của mình – vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với những quan điểm như thế.

Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc mình, người viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người VN. Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu và cần phải làm những gì. Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh. Gần một trăm năm nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng như “AQ chính truyện”, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với “Người Trung Quốc xấu xí” cũng được nhiều đồng bào của ông cho đó là một đóng góp đáng kể. Cuộc cách mạnh Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công phu “Người Nhật xấu xa” xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra khỏi căn bệnh lạc hậu.

Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng ngược như những liều thuốc an thần.

Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như những gì mà người CS đã làm đối với dân VN trong hơn nửa thế kỷ qua, và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.

Người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một tinh thần vọng ngoại mù quáng. Chúng ta thù ghét sự hiện diện của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào người ngoại quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.

Mỗi khi nói về những tệ hại của đất nước VN hiện nay đa số chúng ta thường hay đổ hết trách nhiệm cho người Cộng Sản. Thật sự CS không phải là thành phần duy nhất chịu trách nhiệm cho những bi kịch của đất nước hôm nay, họ chỉ là sản phẩm đương nhiên của một nền văn hóa thiếu lành mạnh. Nếu CS là nguyên nhân của mọi sự xấu xa thì thành phần người Việt đang sống tại những quốc gia văn minh và giàu có nhất thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Úc… phải là những người thể hiện nếp sống văn hóa cao xứng đáng với xã hội văn minh mà họ thừa hưởng. Nhưng không, những người Việt đó, tuy khá hơn người trong nước nhưng vẫn thua kém nhiều sắc dân khác, vẫn mang tất cả những khuyết tật mà cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã nêu ra gần một trăm năm trước. Vẫn chia rẽ, vẫn tỵ hiềm nhau, vẫn xâu xé lẫn nhau, có khi chỉ vì bất đồng quan điểm, có khi chỉ vì một quyền lợi thật nhỏ, thậm chí có khi chỉ vì một hư danh.

Không phải là một tình cờ của lịch sử mà chủ nghĩa CS đã dành được những thắng lợi trong cuộc cách mạng mùa thu năm 1945, và luôn luôn giữ thế thượng phong trên đất nước VN từ đó đến nay. Dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh thay vì Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim… hoàn toàn không phải vì Hồ Chí Minh giỏi hơn, yêu nước hơn, nhiệt tình hơn những người kia, nhưng chỉ vì Hồ Chí Minh đáp ứng đúng tâm lý của người Việt – đó là tâm lý tôn thờ bạo lực. Chắc chắn không có nước nào trên thế giới này mà bài Quốc Ca có câu sắt máu như thế này: “Thề phanh thây uống máu quân thù”, mà “quân thù” đó bất cần là ngoại bang hay đồng bào ruột thịt, nghe mà rợn người. Khẩu hiệu của phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930, 31 do đảng CS lãnh đạo là: Trí, phú, địa, hào – Đào tận gốc trốc tận rễ.

Đối với người VN bạo lực có sức quyến rũ hơn là nhu cầu khai sáng trí tuệ để giải quyết vấn đề một cách ôn hòa. Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa CS dựa trên bạo lực cách mạng và đấu tranh giai cấp. Giải pháp bạo lực này đòi hỏi phải luôn tồn tại một kẻ thù làm đối tượng. Hết kẻ thù thực dân phải tìm ra một kẻ thù khác để có lý do hành động, chính vì thế cho nên máu và nước mắt vẫn tiếp tục rơi trên đất nước VN trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.

Hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh, Phan Chu Trinh chọn giải pháp Khai Dân trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh. Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ. Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình thức khác.

Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, ông là một trong những người Việt hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong văn hóa, từ văn hóa mà ra.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến có gần 30 nước dành được độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có vài nước chọn chủ nghĩa CS trong đó có VN, phải trả bằng máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới. Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc, của VN chớ không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Người Cộng sản biến dân tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp giữa hai khối CS và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân tộc “bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng”.

Hà Sĩ Phu đã có nhận xét rất đúng là giữa Hồ Chí Minh và Phan Chu Trinh, dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh và những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự chọn lựa đó.

Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ Phan Bội Châu – một đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan điểm của cụ.

Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa dối mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có thật. Ông là người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc cứu chữa.

Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng nói nhân bản như ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.

Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy (127 triệu so với 87 triệu), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa hai đất nước. Sự khác biệt về kinh tế, sự giàu có tiện nghi không phải là điều quan trọng, chủ yếu là sự khác biệt về cách suy nghĩ (mentality) giữa hai dân tộc. Vào thời điểm 1858, khi người Pháp bắt đầu xăm lăng VN thì dân ta vẫn còn u mê bám vào những giá trị đã lỗi thời, người Nhật tức thời bỏ những truyền thống hủ lậu, học hỏi những cái hay của Tây Phương để bắt kịp họ. Đến thời điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, VN muốn trở thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, người Nhật biết nuốt nhục của kẻ thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận dụng lòng mã thượng của kẻ chiến thắng, dồn mọi sinh lực dân tộc để vươn lên thành một cường quốc kinh tế.

Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Những nghiên cứu công phu và nghiêm chỉnh của các cơ quan quốc tế gần đây như Cơ quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations Development Program – UNDP) đã chứng minh một cách thuyết phục rằng sự chênh lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ yếu không phải do yếu tố địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tôn giáo, chủng tộc… mà chủ yếu là do yếu tố văn hóa. Văn hóa quyết định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ (mentality) của mỗi dân tộc, và chính nếp suy nghĩ này làm cho mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau khi đương đầu với cùng một thử thách. Tại sao có những dân tộc mà quan chức chính phủ tham nhũng cả hàng triệu đô la như ở các nước Phi Châu hay VN ngày nay mà mọi người vẫn xem đó là chuyện bình thường, trong lúc đó tại một nước khác – một bộ trưởng chỉ vì nhầm lẫn nhận 600 đô cho quỹ tranh cử đã phải xin lỗi quốc dân rồi từ chức (1)? tại sao một quốc gia nhỏ bé như Do Thái chưa tới 3 triệu dân (2) có thể chiến thắng cả khối Á Rập trong cuộc chiến năm 1967 và tồn tại vững mạnh cho đến ngày hôm nay? Trong lúc đó có những nền văn minh đã từng một thời ngự trị thế giới mà ngày nay biến mất … và còn cả ngàn thí dụ khác để chứng minh rằng chính yếu tố văn hóa quyết định sự tồn vong và sự lớn bé của mỗi dân tộc.

Những dân tộc như Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Hoa Kỳ… cho dù bị thiên tai tàn phá đến đâu, cho dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có thể vươn trở thành những nước giàu mạnh, trái lại những xứ như Iraq, Nigeria, Venezuela, Angola, Libya… mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn là những nước nghèo.

Bước ngoặt quan trọng nhất đã làm thay đổi khoảng cách giữa ta và Nhật chính là cuộc cách mạng Duy Tân tại Nhật bắt đầu từ năm 1868. Trong lúc người Nhật tức thời thay đổi thì các vua chúa VN vẫn còn ngủ mê bên trong các bức tường cung điện ở Huế. Họ không thấy được thế giới đã thay đổi, vẫn tiếp tục tôn sùng và thần tượng Trung Quốc trong lúc nước này đã bị thua thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương.

Vào tháng 7 năm 1853 khi triều đình Tokugawa từ chối không cho Thuyền trưởng người Mỹ Mathew Perry lên bờ để trao bức thư của Tổng Thống Fillmore, ông ra lệnh bắn vào thành phố Edo (Tokyo ngày nay). Những quả đại bác này đã làm cho người Nhật thức tỉnh ngay. Lòng ái quốc và niềm tự hào dân tộc đã làm cho họ đoàn kết lại để tìm cách giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự thức tỉnh này đã mở đầu cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân kéo dài 44 năm. Đó là một cuộc cách mạnh đúng nghĩa, một cuộc cách mạng triệt để, họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi Mỹ, người đi Âu Châu, kẻ đi chính thức người đi lậu bằng cách trốn xuống tàu buôn Tây Phương như trường hợp của thần đồng Yoshida Shôin, tất cả đều cùng một mục đích là tìm đến tận nguồn cội của nền văn minh để học hỏi những cái tinh túy mang về thay đổi đất nước. Họ từ bỏ một cách dứt khoát tất cả những cái cũ không còn hợp nhưng không để mất tinh thần độc lập. Họ không phải chỉ có một ông vua Minh Trị hết lòng yêu nước mà cả trăm ngàn những tấm lòng như thế quyết tâm đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với các nước Tây Phương.

Khi nói đến cuộc Duy Tân Minh Trị nhiều người vẫn lầm tưởng đó là cuộc cách mạng kỹ nghệ, mở cửa để giao thương và học hỏi kỹ thuật của Phương Tây. Thật sự không phải như thế, học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt nổi, chủ yếu là người Nhật học hỏi những tinh túy về tư tưởng của người Tây Phương để khai sáng trí tuệ cho dân tộc của họ.

Chỉ có vài quả bom của Thuyền Trưởng Mathew Perry đã làm cho người Nhật thức tỉnh, trong lúc đó nhìn lại đất nước chúng ta, kể từ thời điểm 1853 cho đến hôm nay đã có hàng trăm ngàn quả bom đã rơi xuống đất nước Việt Nam, không những chỉ tàn phá hình hài đất nước mà còn làm tan nát tâm hồn dân tộc với bao sự ngậm ngùi, nhục nhã đắng cay của một dân tộc nhược tiểu. Nhưng tất cả những nỗi đau đó vẫn chưa đủ để làm cho người Việt thức tỉnh, để thấy cần phải có một nhu cầu thay đổi cần thiết như người Nhật đã làm từ giữa thế kỷ thứ kỷ 19.

Vào tháng 8 năm 1858 người Pháp bắt đầu cuộc chiến xăm lăng đất nước VN, trước đó vào mùa thu năm 1847 để phản đối chính sách cấm đạo của vua Thiệu Trị, Trung tướng Rigault de Genouilly đã bắn chìm 5 chiếc thuyền của Việt Nam, năm 1842 Trung Quốc đã bại trận thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương trong cuộc chiến Nha Phiến. Nhưng tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo đó vẫn chưa đủ để làm cho triều đình nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc đó họ vẫn không nhận ra rằng đất nước đang đứng trước khúc quanh của lịch sử. Từ thời điểm năm 1842 hay 1847 cho đến 1858, đó là một khoảng thời gian rất dài (14 năm), nếu các vua nhà Nguyễn thức thời, khôn khéo như các vua chúa Nhật Bản thì đất nước chúng ta đâu phải chịu 80 năm đô hộ của người Pháp và đâu phải chịu tai họa Cộng Sản kéo dài đến hôm nay.

© Phạm Hoài Nam

————————–
Ghi chú:
(1) Ngoại trưởng Nhật Seiji Maehara từ chức ngày 6 Tháng Ba 2011 vì nhận 600 Mỹ kim cho quỹ chính trị từ một người ngoại quốc.
(2) Dân số Do Thái vào thời điểm 1967 là 2.7 triệu người.
(Việt luận)

Câu lưu Bloggers và quy luật “nhập kho – xuất kho”

Phạm Chí Dũng  -RFA

2013-10-12
16-305.jpg
Các Bloggers có mặt tại sân bay Tân Sơn Nhất để yêu cầu trả tự do cho những học viên đã đi học xã hội dân sự ở Philippines trở về còn bị tạm giữ hôm 6/10/2013.  -Citizen photo
Xu hướng đối ngoại càng rõ thì góc mở chính trị đối nội càng rộng, từ đó dẫn đến một quy luật chính trị khác và ứng nghiệm với tình hình mới: khi chính thể mạnh, “nhập kho” tăng và “xuất kho” giảm; nhưng khi chính thể yếu đi, “nhập kho” giảm còn “xuất kho” lại tăng.

Sẽ trấn áp nặng nề?

Mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và giới blogger “đường phố” lại một lần nữa trở nên “manh động”, cùng và sau khi diễn ra hội nghị trung ương 8 của Đảng.
Tháng 10/2013, chỉ ba ngày sau vụ xét xử luật sư công giáo Lê Quốc Quân với bản án sơ thẩm 30 tháng tù giam cho điều bị xem là “trốn thuế”, các blogger trẻ Việt Nam đã tiếp tục phải “trả giá” với hàng chục người bị câu lưu ở sân bay Tân Sơn Nhất ngay sau khi kết thúc một khóa học ở Philippines về xã hội dân sự.
Bức tranh sinh động trên lại chỉ xảy ra khoảng 10 ngày sau vụ tấn công của công an vào nhà blogger Nguyễn Tường Thụy ở Hà Nội mà đã dẫn tới kết quả câu lưu một số blogger trong 3-4 tiếng đồng hồ.
Rõ ràng, đang có một “chiến dịch” mới tập trung vào giới blogger hành động. Tính hành động nổi bật và mang dấu ấn thách thức nhất đối với chính quyền chính là hoạt động trao “công hàm” phản đối điều luật hình sự 258 về “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” cho nhiều tổ chức dân chủ và cơ quan đại diện ngoại giao quốc tế ở Bangkok và ngay tại Hà Nội.
Hẳn nhiên, hoạt động của Mạng lưới blogger Việt Nam là chuyện không thể chấp nhận được trong não trạng của tất cả các cơ quan an ninh. Việc những người đại diện của giới blogger này còn được tự do vẫn đang là một dấu hỏi trong đầu những người thường chịu ấn tượng bắt bớ nặng nề vào những năm trước trong khi ít quan tâm đến tính xu hướng của tình hình mới vào năm 2013.
Vụ việc câu lưu các blogger ở sân bay Tân Sơn Nhất cũng một lần nữa dội lên câu hỏi về việc tại sao các thành viên của xã hội dân sự lại được cơ quan an ninh nhanh chóng “phóng thích” chỉ sau một ngày tạm giữ.
Câu hỏi tiếp nối là hành động “bắt cóc bỏ dĩa” từ vụ nhà blogger Nguyễn Tường Thụy cho đến vụ việc sân bay Tân Sơn Nhất có thể phản ánh một động thái đối nội nào từ phía chính quyền, và động thái này có liên quan gì với những chuyển biến trên chính trường đối nội cũng như xu thế đối ngoại?
Và tất nhiên, câu hỏi còn lại luôn là sau các vụ “bắt giữ” vừa qua, liệu có xảy ra một chiến dịch bắt bớ diện rộng đối với giới blogger trong thời gian tới hay không, và chiến dịch này sẽ đi đến “tận cùng” hay chỉ mang dáng dấp của chủ nghĩa “chiết trung”.

Xã hội dân sự kiểu Việt Nam?

Khác rất nhiều với vụ bắt giữ và lôi ra truy tố 14 thanh niên công giáo và tin lành vào nửa cuối năm 2011, tính chất “câu lưu” có lẽ là phù hợp nhất đối với những vụ việc xảy đến với các blogger trong nửa cuối năm 2013.
xhds-250.jpg
Ba bạn trẻ Phạm Trần Quân, Trương Quỳnh Như và Bùi Thị Diện, chụp ảnh tại Philippines khi đang theo học về Xã hội dân sự hồi đầu tháng 10. Citizen photo.
Cũng khác hẳn với trường hợp 14 thanh niên công giáo, tin lành bị nhà cầm quyền ghép vào hành vi quan hệ với đảng “khủng bố” Việt Tân, khóa học về “xã hội dân sự ở Philippines” của các blogger bị câu lưu ở sân bay Tân Sơn Nhất lại được tổ chức do Asian Bridge (Nhịp cầu châu Á), một tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Quezon, Philippines. Do đó ít nhất, các blogger khi tham dự khóa học này cũng mang trên mình tính chính danh. Hơn nữa, đó lại là một sự chính danh đậm nét quốc tế.
Tuy nhiên, vấn đề có thể được chứng nghiệm không ít lần là mô thức xã hội dân sự vẫn luôn bị coi như “một thủ đoạn của diễn biến hòa bình” – theo ít nhất một bài xã luận trên báo Nhân Dân vào cuối năm 2012.
Chứng nghiệm trên kéo dài cho đến khi Viện Những vấn đề phát triển (VIDS) của tiến sĩ Nguyễn Quang A phải tự giải tán, được cho rằng dưới áp lực của Chính phủ. Song song với không khí thoái trào dân sự như vậy, nhiều trí thức cũng công khai phản ứng về việc nhà cầm quyền đã “khuôn” hoạt động của xã hội dân sự tại Việt Nam chỉ ở mức hội thảo, để phần lớn còn lại phải dành “đất” cho chủ trương “phòng, chống diễn biến hòa bình”.
Chỉ đến đầu năm 2013, khi hoạt động “Kiến nghị 72” thành hình và đề cập đến những chủ đề trực tiếp và thâm sâu hơn nhiều so với xã hội dân sự, loại bài viết “phản tuyên truyền” trên báo đảng đối với xã hội dân sự mới giảm bớt. Thời gian này lại khớp với một xu thế mới đang mở ra tại Việt Nam: một số chuyến ngoại giao song phương và đa phương đã dẫn tới việc tái lập đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ, đối thoại nhân quyền Việt Nam – Cộng đồng châu Âu, cũng như điều được xem là “cơ hội” cho Việt Nam trước viễn cảnh tham gia vào khung trời Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Và chắc chắn cả tương lai hứa hẹn về “đối tác chiến lược toàn diện” với người Mỹ.
Hai chuyến đi Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang và ông Nguyễn Tấn Dũng đều không ngoài những mục tiêu trên.
Trong bối cảnh ấy, sau khi Diễn đàn xã hội dân sự được một nhóm nhân sĩ, trí thức khởi xướng ở Việt Nam, sức phản kháng của báo đảng lại yếu ớt một cách đáng ngạc nhiên. Thay vì công kích toàn bộ xã hội dân sự, giới dư luận viên tỏ ra e ấp hơn khi chỉ đề cập đến “xã hội dân sự theo tiêu chí phương Tây”. Hiển nhiên, dư luận có thể suy diễn đang hoặc sẽ có một “xã hội dân sự theo kiểu Việt Nam”, thậm chí còn được chấp nhận bởi Nhà nước.
Và có lẽ đó cũng là lý do vì sao một khi hành động “tạm giữ hành chính” của cơ quan an ninh không được phép kéo dài quá 24 giờ, việc chấp hành này đã được giám sát và thúc đẩy đắc lực bởi cuộc biểu tình đòi người của hàng chục blogger chưa bị câu lưu tại sân bay Tân Sơn Nhất vào đầu tháng 10/2013.
Cuộc biểu tình trên, tuy chỉ mang tính “mini”, nhưng lại tạo thêm một tiền lệ nữa, tiếp theo các vụ biểu tình của hàng trăm người đòi trả tự do cho Phương Uyên tại Long An vào tháng 8/2013 và cuộc biểu tình của hàng ngàn giáo dân tại Hà Nội trong vụ xét xử Lê Quốc Quân vào đầu tháng 10/2013, mô phác cho một sắc thái mới mẻ trong mối quan hệ “ngoại giao đa phương hóa” của không chỉ chính quyền mà ứng với cả phong trào dân chủ còn manh nha tại Việt Nam.

“Nhập kho” giảm, “xuất kho” tăng

Nếu hệ thống lại những gì vừa kín đáo vừa lộ diện diễn ra từ đầu năm 2013 đến nay, không quá khó để nhận ra rằng mối tương quan đối ngoại đang có chiều hướng tác động dần mạnh mẽ đối với quan điểm cai trị dân chúng của Nhà nước, trong đó có chủ đề dân chủ và nhân quyền – vốn đang được xem là điều kiện đặc trưng của TPP và “đối tác chiến lược toàn diện” với người Mỹ.
Chiều hướng lại có ảnh hưởng đến hoạt động “nhập kho – xuất kho”. Xu hướng đối ngoại càng rõ thì góc mở chính trị đối nội càng rộng, từ đó dẫn đến một quy luật chính trị khác và ứng nghiệm với tình hình mới: khi chính thể mạnh, “nhập kho” tăng và “xuất kho” giảm; nhưng khi chính thể yếu đi, “nhập kho” giảm còn “xuất kho” lại tăng.
Có lẽ đó là lý do vì sao từ đầu năm 2013 đến nay, ngoài một ít trường hợp blogger bị bắt giữ mà nhiều khả năng liên quan đến động thái tranh đấu nội bộ, giới blogger hoạt động dân chủ không mấy bị hề hấn, cho dù hoạt động của họ đã mang tính trực diện hơn nhiều và có cả chiều sâu so với những năm trước.
Không khí, cách thức bắt giữ và cách thả đối với các blogger trong vụ việc nhà Nguyễn Tường Thụy đều phảng phất hoặc lặp lại những gì mà nhà cầm quyền đối phó với các cuộc biểu tình chống Trung Quốc vào giữa năm 2011.
Nhưng đặc biệt hơn, vụ tấn công vào nhà blogger Nguyễn Tường Thụy lại xảy đúng vào thời điểm Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang ở Paris và sắp đến New York cho một sứ mệnh quan trọng của chính thể và các cá nhân trong chính thể. Không có bất kỳ nguyên do nào để bắt và cũng chẳng có bất cứ lý do nào để thả, cánh an ninh Hà Nội cứ như muốn biến vụ việc thành một sự kiện để mọi người đều biết và phải biết.
Cách thức đậm đặc sắc màu “PR” như thế đã ngay lập tức có tác dụng: hầu hết các đài Việt ngữ quốc tế đều thông tin và lên tiếng, đặc biệt nhấn mạnh đến trường hợp nữ sinh Phương Uyên bị đánh gây thương tích. Người ta cũng tự hỏi với cách gợi tin và truyền tin quá lộ liễu như thế, không hiểu Tổng thống Pháp Hollande có “càm ràm” gì với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trên bàn đàm phán về những chiếc Airbus hay không.
Tiếp theo lời cam kết cấp bộ trưởng vào tháng 4/2013, lộ trình “đối tác chiến lược toàn diện” Việt – Pháp coi như tạm ổn thỏa vào cuối năm nay. Đó cũng là một cú nhấp mới của Nhà nước Việt Nam trong chiến dịch chinh phục các đối tác khác, mà đỉnh cao cuối cùng là người Mỹ.
Chừng nào lộ trình mở cửa đối ngoại vẫn tiếp diễn, cho dù với diễn tiến chậm, góc mở chính trị đối nội cũng phải tuân theo xu thế đó. Chính yếu tố này đang và sẽ tiếp tục trả lời cho câu hỏi: liệu có diễn ra chiến dịch bắt giữ blogger ở Việt Nam hay không?
“Tạm giữ để điều tra”, “tạm giam để điều tra” là những thuật ngữ khác rất nhiều về bản chất với phương án “truy tố” và “xét xử”. Cho tới nay, vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy chính quyền và các cơ quan an ninh tìm cách “xé rào” để chuyển hoạt động tố tụng hình sự sang vế thứ hai – quyết liệt hơn.
Phần lớn động thái “bảo vệ an ninh quốc gia”, cho đến nay, có lẽ vẫn xoay quanh mục đích “răn đe”.
Ngay cả trường hợp hai blogger Phạm Viết Đào và Trương Duy Nhất bị bắt giam vào giữa năm nay cũng có thể đang có chiều hướng “nhẹ” đi.
Nếu quy luật “nhập kho giảm, xuất kho tăng” được ứng nghiệm trong cuối năm nay và có thể cả trong năm sau, người ta hy vọng “anh em công an” sẽ nương tay hơn, để sẽ không hoặc khó có blogger bị truy tố. Ngược lại, sẽ diễn ra những cuộc trùng phùng không được thông báo trước.
Phạm Chí Dũng

Đào Tuấn - Dạy luật cho Bò, giáo dục Lô cốt phải yêu đồng bào

Nhà nước phải bồi thường về những tổn thất mình gây ra cho dân. Đó là chuyện hoàn toàn bình thường

“Anh P, cán bộ một doanh nghiệp tử nạn trên một con đường thuộc Khu Thành phố Mới- Bình Dương. Tại hiện trường, cơ quan điều tra phát hiện xe máy của nạn nhân có dính một cọng vừa cứng vừa mềm nghi là lông, lông này có màu hung vàng. Bên cạnh nơi nạn nhân té đập đầu xuống đất, nghi phạm gây tai, nạn thân thể chảy ra một dung dịch màu đỏ, nghi là máu, không thèm bỏ trốn, vẫn đang nằm gần đó. Thậm chí nghi phạm vẫn thản nhiêm bỏm bẻm nhai thứ gì đó. Cơ quan điều tra đã dùng xe cẩu cẩu nghi phạm về trụ sở để làm rõ chủ sở hữu của thủ phạm gây tai nạn”.

Đây là một đoạn mô tả trên mạng xã hội về sự kiện mà báo chí giật tít: “Chuyện động trời Việt Nam: “Tạm giam” con bò gây TNGT chết người”.

Nghi phạm, ra là một con bò, của một ai đó thả rông nằm ệch ra giữa đường. Và cho đến giờ, chưa ai nhận là chủ sở hữu của nghi phạm.
Ở TP HCM, cũng là một “chuyện lạ”, nhưng Tòa án đã chỉ chấp nhận một phần đơn kiện của một công dân trong “vụ kiện lô cốt”.

Đại ý nguyên đơn 81 tuổi đã đâm đơn ra tòa, kiện Sở GTVT TP HCM đòi bồi thường 477 triệu đồng tiền sửa nhà, mất thu nhập do quán ăn của gia đình bị “lô cốt” của Sở án ngữ nhiều tháng giời. Tòa chấp nhận khoản tiền sửa nhà 31,5 triệu, nhưng lắc đầu với khoản “mất thu nhập” do không kinh doanh buôn bán được. Lắc đầu, vì đây là khoản thiệt hại không có “hóa đơn”.

2 câu chuyện này có lạ không. Có.

Nhưng lạ hơn, phải là chuyện tòa đòi hóa đơn đối với một khoản thu nhập bị mất, vì những cái lô cốt.

Và lạ nhất phải là việc dư luận xã hội coi đây là chuyện lạ.

Không thể có chuyện dạy luật giao thông cho bò hay giáo dục sự đồng cảm với đồng bào cho lô cốt, nhưng rõ ràng, khi con bò thả rông gây tai nạn chết người, chủ sở hữu, nói như dân mạng, đang ngồi xổm trên luật Giao thông, để nhăn nhở cười trừ trước cái chết oan ức của một người khác.

Tương tự như thế, câu chuyện những cái lô cốt, thích là dựng, bất kể người dân sống khốn khổ thế nào, bất biết cái cần câu cơm của họ bị ảnh hưởng ra sao, rõ ràng, lại là chuyện không đáng, không nên nói đến bằng một chữ lạ.

Bởi nếu câu chuyện “Tạm giam” con bò gây tai nạn chết người có cái kết là việc chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm hình sự, bị buộc phải bồi thường thì trong tương lai mới hy vọng không xảy ra những cái chết oan ức đau lòng chỉ vì “Còn bò nằm giữa đường, người chủ ngồi xổm trên luật”. Bởi nếu những khoản thiệt hại “không có hóa đơn” được chấp nhận thì mới có thể hy vọng những “cái lô cốt” biết tôn trọng dân.

Tháng 6 năm nay, người chủ một con vẹt ở hạt Ayrshire, Scotland đã được Bộ Quốc phòng Anh đồng ý bồi thường 2.200 bảng. Nguyên do, tiếng gầm của một phi cơ phản lực bay thấp đã khiến một con vẹt giật mình và ngã từ sào chết tốt.

Có phải là chuyện lạ không?

Không. Nhà nước phải bồi thường về những tổn thất mình gây ra cho dân. Đó là chuyện hoàn toàn bình thường.

Có lẽ, khi nào mà những chuyện lạ không còn được coi là lạ nữa thì tinh thần thượng tôn pháp luật trong một nhà nước pháp quyền mới trở thành kỷ cương để bảo vệ cho chính người dân.
 
Đào Tuấn
 

Nguyễn Văn Mỹ - Hà Nội trong mắt ai? *

Hà Nội vừa tổng kết 5 năm nghị quyết 15 của Quốc Hội “về việc mở rộng thủ đô”. Trực tiếp chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng đến dự và hồ hởi đánh giá “Diện mạo Hà Nội khang trang hơn, đàng hoàng hơn”. 5 năm trước, việc mở rộng Hà Nội không phải ai cũng đồnh tình. Phe ủng hộ cho rằng mở rộng để xứng tầm thủ đô ?, để có thêm quỹ đất cho giáo dục, y tế, dân sinh, kinh tế…Các nhà phản biện thì e rằng càng to càng khó quản lý, chất Tràng An càng dễ phôi pha. Hà Nội có thể thuê đất các tỉnh…

Ngay từ lúc còn bàn luận, nhiều người đã không tin vào mục đích thật sự của việc mở rộng. Càng nghi ngờ khả năng quản lý. Quan trọng hơn, việc mở rộng thủ đô đi ngược lại xu thế của thời đại. Để xứng tầm về địa lý thì rất dễ, chỉ cần to. Còn xứng tầm về văn hóa và nhiều thứ khác thì cực khó, càng to càng khó. Malaysia là minh chứng cụ thể. Thủ đô Kuala Lumpur rộng 243 km2, dân số gần 1.700.000 người; cũng tầm cỡ châu Á nhưng họ vẫn dời đô và thu hẹp diện tích. Thủ đô mới Putrajaya chỉ rộng 50 km2, dân số 350.000 người nhưng mang tầm vóc thế giới. Putrajaya là thủ đô resort vì chỉ xây dựng 25% diện tích, 75% còn lại là công viên và các công trình công cộng, trong đó hồ nước chiếm 10 km2. Putrajaya là thành phố điện tử, không ai dùng bút giấy kể cả học sinh tiểu học…


Hà Nội xưa nổi tiếng thanh lịch. Đó là Hà Nội trước 1954, còn nguyên vẹn 36 phố phường. Dù diện tích chỉ 153 km2 và dân số khoảng 54.000 người nhưng đậm đặc chất Tràng An. Năm 1978, Hà Nội “đại nhảy vọt” lên 2.136 km2 và dân số gần 2.700.000 người vào năm 2007. Chưa bằng lòng, năm 2008, Hà Nội tiếp tục “tăng đột biến” lên 3.345 km2 và dân số gần 8 triệu. Lập tức, Hà Nội trở thành thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới nhưng ì ạch nhất thiên hạ. Ai ra Hà Nội lần đầu vào thập niên 80 thế kỷ trước đều hơi thất vọng vì Hà Nội không như tưởng tượng. Mấy năm gần đây, ra Hà Nội càng thất vọng.Thủ đô, trái tim của cả nước, thường đi trước và gương mẫu về mọi mặt để các tỉnh noi theo. Nhưng Hà Nội thì ngược lại. Du khách từ phía Nam, trừ khi kết hợp thăm người nhà hoặc bạn thân, không ghé Hà Nôi lần thứ 2. Xuống sân bay Nội Bài là đi thẳng lên các tuyến Việt Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc. Lúc về cũng vậy, bay thẳng vào Sài Gòn.


Hà Nội xưa nói tiếng Việt giọng chuẩn nhất nước. Giờ thì ngọng líu lo. Dân Hà Nội chính gốc chỉ còn thiểu số vì đã vào Sài Gòn hoặc tỏa đi các nước. Các tệ nạn xã hội xuất hiện trên báo đài thì Hà Nội chiếm hơn 1/3. Thủ đô mà có vùng dân chưa có điện, chưa có đường, chưa có nước sạch. Trẻ con đi học phải đu dây đến trường (xã Mỹ Hưng, Thanh Oai), trường học chưa có nhà vệ sinh (xã Hữu Bằng, Thạch Thất), người sống ở chung với người chết (phường Quan Hoa, Cầu Giấy). Cứ tưởng miền Nam mới có Nhà Bè, ai dè ngay giữa thủ đô, dưới chân cầu Long Biên, có cả “làng chị Dậu”. Giao thông thì ôi thôi, hỗn loạn. Thanh niên chạy xe máy nghênh ngang, không thèm đội nón bảo hiểm. Xe buýt thì tùy tiện đậu, dừng. Các xe bảng số Hà Nội và TW vào Sài Gòn vẫn quen thói thủ đô, giành đường, lấn tuyến…

Nhiều người cho rằng, nếu không mở rộng, Hà Nội sẽ khá hơn bây giờ, ít kẹt xe hơn, ít tệ nạn hơn. Cái gọi là “Khang trang hơn, đàng hoàng hơn” chỉ là bề ngoài, phần xác. Phần hồn mới quan trọng thì không ai nhắc tới. Thử làm bài toán so sánh xem, 5 năm qua, Hà Nội mất và được gì? Cụ thể bằng số liệu, chứ không đánh giá cảm tính. Không mở rộng thì các công trình 1.000 năm Thăng Long vẫn được tiến hành và Hà Nội vẫn phát triển, thậm chí nhanh hơn. Có điều chắc chắn là giá đất những vùng sau khi sát nhập thủ đô đã tăng vụt, làm giàu cho không ít người biết trước thời cơ. Ở đây, không phủ nhận những nỗ lực của thủ đô, cả người dân lẫn nhà nước nhưng muốn là một chuyện, làm được hay không là chuyện khác vì “Lực bất tòng tâm”.

Mọi việc đều phải theo qui luật. Vấn đề là “Hà Nội trong mắt ai?” mà có cách nhìn tương ứng. Nhiều người suy đoán, trong tương lai, hoặc phải chọn thủ đô mới hoặc phải thu hẹp diện tích thủ đô để phát triển theo qui luật.

Nguyễn Văn Mỹ.

* Tên bô phim do Trần văn Thủy làm đạo diễn, sản xuất năm 1982, bị cấm chiếu đến năm 1987 và sau đó giàng giả Bông Sen Vàng phim tài liệu của Điện ảnh Việt Nam.

Nguyễn Văn Mỹ
(Blog Huỳnh Ngọc Chênh) 

Cục diện Trung Á hậu Hoa Kỳ

http://static.kienthuc.net.vn:81/Images/Contents/hoangthao/20130322/1-22-3-lehoimuaxuan.jpg

Trung Quốc vào Trung Á khi Hoa Kỳ ra khỏi A Phú Hãn...
Hoa Kỳ nhất quyết triệt thoái khỏi A Phú Hãn (Afghanistan) vào cuối năm tới. Một ẩn số còn lại là việc Hoa Kỳ cùng các đồng minh trong Minh Ước NATO sẽ rút hết (Mỹ gọi là “Zero Option”) hay còn giữ lại một số đơn vị với lý do huấn luyện cho quân đội và an ninh của chính quyền Afghanistan tại Kabul? Sau năm 2014, Tổng Thống Hamid Karai cũng hết nhiệm kỳ và xứ này sẽ có lãnh đạo mới, phù hợp với tình hình chính trị mới, trong đó vai trò của lực lượng Taliban là yếu tố đáng kể nhất. Nhưng dù sao, hết năm 2014, Hoa Kỳ cũng hết hiện diện tại Trung Á và tình hình khu vực này sẽ có thay đổi. Mà Trung Á lại là khu vực đang được Trung Quốc chiếu cố vì lý do an ninh lẫn năng lượng. Tiếp theo kỳ trước, “Hồ Sơ Người Việt” sẽ tổng hợp các dữ kiện làm bối cảnh cho một cục diện mới.
Trung Á và A Phú Hãn
Khi Hoa Kỳ triệt thoái thì A Phú Hãn sẽ có thay đổi. Dễ hiểu nhất và có xác suất cao nhất là vai trò quan trọng hơn của lực lượng Taliban, về cả mặt an ninh và chính trị. Nhưng trong nội tình xứ này còn có nhiều lực lượng tôn giáo và sắc tộc khác, cho nên đấu tranh sẽ bùng nổ bên trong. Cũng vì vậy, lực lượng Taliban đang đàm phán với Hoa Kỳ để nhờ sự thu xếp của nước Mỹ mà họ sẽ có thêm tư thế so với các lực lượng khác. Việc đàm phán ấy cũng trực tiếp liên quan đến giải pháp “Zero Option” mà Hoa Kỳ đang dàn xếp với chế độ Karzai hiện nay. Nói tóm tắt thì Hoa Kỳ vẫn còn một chút ảnh hưởng trong chính quyền “hòa giải hòa hợp” sau này, miễn là quân lực và dân chúng Mỹ hết còn phải lo về chuyện A Phú Hãn nữa.
Nhưng bên ngoài A Phú Hãn còn các nước láng giềng Trung Á.
Các nước này không muốn Hoa Kỳ mãi mãi có mặt, nhưng cũng lại sợ là sau khi Mỹ rút, họ sẽ gặp một chế độ Taliban quá mạnh ở Kabul và chế độ này có thể hợp tác với các lực lượng Hồi Giáo quá khích tương tự như lực lượng al-Qeada.
Ðó là một chuyện đáng lo.
Chuyện đáng lo kia là ngoài Taliban, các nhóm dân quân võ trang thuộc các sắc tộc hay hệ phái khác tiếp tục gây loạn trong vùng biên giới giữa A Phú Hãn với các lân bang. Trong các nhóm này, nếu pPhong trào Hồi Giáo Uzbekistan đã bị suy yếu thì còn nhiều nhóm khác, với khí giới và ma túy á phiện sẽ là võ khí. Sau khi Mỹ rút lui, các lực lượng dân quân Hồi giáo đó có thể từ A Phú Hãn bung ra tung hoành ở xứ khác.
Các nước khác, như Uzbekistan, Takijistan hay Kyrgyzstan, đều mới chỉ giành lại độc lập từ khi Liên Bang Xô Viết tan rã năm 1991 và mất 10 năm xây dựng một cơ chế chính trị khác với rất nhiều nhược điểm. Việc xây dựng đó chưa hoàn tất thì có vụ khủng bố 9-11 tại Hoa Kỳ khiến nước Mỹ nhập cuộc. Một số quốc gia, kể cả Liên Bang Nga lẫn Iran và vài nước Trung Á đã công khai hay kín đáo hợp tác với Mỹ trong chiến dịch A Phú Hãn chính là để nhờ tay Mỹ triệt hạ bớt các lực lượng Hồi Giáo quá khích hay các nhóm dân quân chuyên đánh du kích và quấy phá vùng biên giới.
Hơn 10 năm sau là ngày nay, tình hình tương đối đã khả quan hơn cho các nước Trung Á.
Trước hết, họ có nền móng và định chế chính trị vững hơn xưa. Thứ hai, nhiều cường quốc ở xa đã quan tâm đến khu vực này và không muốn khủng bố, ma túy hay du kích sẽ tràn vào Trung Á để tái diễn một hoàn cảnh A Phú Hãn khác. Những quốc gia đó là Liên Bang Nga, Iran, Turkey, Trung Quốc và tất nhiên là Hoa Kỳ cùng các nước Âu Châu. Vả lại, dù có trở về Kabul, lực lượng Taliban cũng không mạnh như xưa, nhất là ở miền Bắc Afghanistan và họ cũng chẳng dại dột yểm trợ quân khủng bố hay các lực lượng dân quân phiến loạn tại Trung Á. Vì vậy, mối lo của các nước Trung Á thì vẫn còn, nhưng một sự bùng phát của các phong trào dân quân hay khủng bố lại có xác suất thấp hơn, hoặc sẽ xảy ra chậm hơn.
Tuy nhiên, bên trong từng nước Trung Á như Uzbekistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Tajikistan lại có những bất ổn riêng vì chưa hẳn là đã xây dựng được nền dân chủ hoàn chỉnh, và có nước thật ra vẫn còn chế độ độc tài. Vì vậy, khi cái chốt Hoa Kỳ được rút khỏi A Phú Hãn, các lực lượng cực đoan vẫn có cơ hội gây rối trong từng nước.
Sau cùng, người ta không quên rằng trong cả khu vực bao trùm lên A Phú Hãn và hàng loạt quốc gia họ “stan,” từ Pakistan tới Turkmenistan và Kazakhstan, v.v... thì hàng hóa, á phiện, võ khí lẫn các nhóm võ trang vẫn thường đi lại. Họ hợp tác hay giết hại lẫn nhau từ nhiều năm nay, và bị chặn nơi này thì lẩn qua nơi khác.
Khi sen đầm quốc tế là Hoa Kỳ rút lui, ngần ấy yếu tố bạo động lại dễ xảy ra.
Trong các cường quốc khu vực, Trung Quốc thấy có lợi nhất vì nước Mỹ mắc bận mà khỏi ngó ngàng đến Ðông Hải của Bắc Kinh. Và trong khi Hoa Kỳ bận rộn tại A Phú Hãn thì cũng mặc nhiên giải quyết cho Bắc Kinh mối nguy khủng bố!
Tình trạng ấy đang chấm dứt.
Trung Quốc thèm Trung Á
Tháng Chín vừa qua, khi lãnh đạo Hoa Kỳ còn lúng túng về vụ Syria, Chủ Tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc lại rất bận.
Ông dành 10 ngày thăm bốn nước Cộng Hòa Trung Á là Turkmenistan, Kazakhstan, Uzbekistan và Kyrgyzstan, qua Nga dự Thượng Ðỉnh G-20 tại St. Peterburg và tới thủ đô Bishkek của dân Kyrgyz dự Thượng Ðỉnh SCO (Shanghai Cooperation Organisation). SCO là tổ chức hợp tác giữa bốn nước Trung Á là Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan với hai lân bang Nga-Hoa để cùng bảo vệ an ninh trong một vùng bát ngát ít được Tây phương chú ý.
Lần này, đến xứ nào họ Tập cũng đưa ra những cam kết tài chánh hấp dẫn để nâng cấp hợp tác ngoại giao, năng lượng và an ninh lên tầm chiến lược. Tại Turkmenistan, ông khánh thành một trung tâm khí đốt, tại Kazakhstan thì hứa 30 tỷ đô la cho các dự án năng lượng và vận tải. Tại Uzbekistan và Kyrgyzstan cũng vậy, Tập Cận Bình đề nghị những kế hoạch đầu tư to tát cho nhiều năm tới. Hôm mùng bảy, tại thủ phủ Astana của Kazakhstan, họ Tập nói về viễn kiến của mình: xây dựng “Vòng Ðai Kinh Tế Trên Con Ðường Tơ Lụa” chạy dài từ Tân Cương đến Trung Á.
Vì truyền thông Hoa Kỳ không để ý đến chuyện xa xôi đó, còn truyền thông của ta thì chú ý đến Ðông Hải, “Hồ Sơ Người Việt” mới dành hai kỳ cho viễn kiến này của Trung Quốc.
Dù có lãnh thổ bát ngát rộng bằng Hoa Kỳ, Trung Quốc vẫn thiếu năng lượng và nguyên liệu gốc kim loại cho công cuộc kỹ nghệ hóa. Từ 15 năm nay họ trở thành nước nhập cảng số một thế giới về than đá, quặng sắt, đồng, kền và nhôm aluminum, và số hai (sau Hoa Kỳ) về dầu thô. Ngày nay, 85% lượng ngoại thương và 80% số nhiên liệu nhập phải dùng đường thủy.
Là một xứ lệ thuộc vào xuất cảng hàng hóa và nhập cảng nguyên nhiên vật liệu, Trung Quốc ý thức được những bất trắc trên đường hàng hải qua các đại dương lớn để thông thương với Ðông Nam Á, Úc, Âu Châu, Hoa Kỳ và các khu vực khác. Dù đã phát triển hải quân từ hơn 20 năm qua và ngày càng bành trướng ra Ðông hải (của Trung Quốc tại Ðông Bắc Á và của Việt Nam tại vùng biển Ðông Nam Á), họ vẫn sợ là thương thuyền bị hải tặc hay khủng bố tấn công. Hoặc có thể bị Mỹ và nhiều nước khác phong toả qua những dòng hải lưu và eo biển vùng Ðông Nam Á.
Vì vậy, từ mấy năm nay, Bắc Kinh muốn vạch ra những con đường huyết mạch khác.
Con đường tơ lụa thời xưa đang được Bắc Kinh vẽ lại và khuếch trương để nối liền khu vực Tân Cương với Trung Á, từ đó có thể tiến tới Trung Ðông và Âu Châu. Song song, ở phía Bắc và về hàng hóa mua bán với Âu Châu, Trung Quốc đã nghĩ tới và lập ra đường thiết lộ.
Hôm 17 Tháng Bảy, lãnh đạo Bắc Kinh khánh thành đường hỏa xa nối liền thành phố Trịnh Châu của tỉnh Hà Nam với Hamburg của Ðức để đưa sản phẩm điện tử của hãng Foxconn của Ðài Loan ở đấy vào tới trung tâm Âu Châu. Dù rằng có vận chuyển bằng đường hỏa xa có đắt hơn đường thủy khoảng 25%, nhưng thời gian tiết kiệm được là 40% (ba tuần thay vì năm tuần nếu đi bằng tầu thủy qua biển Ðông Nam Á). Ðó là tiết kiệm cho các doanh nghiệp quốc tế đầu tư vào nội địa Trung Quốc, thí dụ như Foxconn, HP hay DHL...
Trở lại chuyện năng lượng, năm 2012, Trung Quốc nhập từ Turkmenistan hơn 21 tỷ thước khối khí đốt với chỉ tiêu là 65 tỷ vào năm 2020. Từ Kazakhstan, họ sẽ mua dầu thô, từ Uzbekistan thì mua khí đốt và họ cũng đã mau mắn đầu tư vào các dự án dầu khí hay kim loại tại Afghanistan, dưới sự bảo vệ của Hoa Kỳ là liên quân quốc tế.
Chuyến đi của Tập Cận Bình chính là để khai triển những dự án này trong một kế hoạch lớn lao là phát triển Tân Cương, khai thác Trung Á và qua ngả Trung Á mở đường nối kết cả đại lục Âu-Á mà khỏi phải bị ai bắt bí ngoài Thái Bình Dương hay Ấn Ðộ Dương.
Nhưng dù có tiền và có người, Bắc Kinh vẫn khó vượt qua nhiều chướng ngại tại Trung Á.
Từ Thiên San tới những gian nan khác
Như tên gọi, Tân Cương là vùng biên vực mới mà Trung Quốc chỉ kiểm soát được một phần từ đời Thanh và chiếm đoạt từ thời Mao Trạch Ðông. Khu vực này rộng bằng phân nửa Ấn Ðộ mà chỉ có 22 triệu dân (17% diện tích toàn quốc cho 2% dân số toàn quốc). Bên trong thì đã có mầm loạn vì sắc tộc và tôn giáo, như mọi người đều nghe nói đến.
Vượt rặng Thiên San thì mới đến Kazakhstan và Kyrgyzstan qua những đường vận chuyển hiểm trở và phải đầu tư rất tốn kém. Qua đến Trung Á thì sự thể còn bất trắc hơn vì cho dù có mua chuộc được các chính quyền - chuyện không đương nhiên và không đương nhiên được Liên Bang Nga thiết tha yểm trợ - chuyện làm ăn của Trung Quốc vẫn có thể bị các lực lượng dân quân tự trị hay nhóm đặc công khủng bố phá hoại. Hoặc làm tiền.
Mà xưa nay, các sắc tộc Trung Á đã có ác cảm và nghi ngờ Hán tộc.
Trong hơn 10 năm, những tỵ hiềm hay thù hận của họ có thể tập trung vào Hoa Kỳ tại A Phú Hãn, tương tự như phản ứng của họ với Hồng Quân Liên Xô trước đó. Nhưng một khi nước Mỹ rút quân, tình hình của cả khu vực từ A Phú Hãn qua đến Tân Cương, có thể gặp bất ổn lớn. Trong khu vực nhiễu nhương này, ý thức căn thuộc vào sắc tộc thật ra vẫn mạnh và có khi còn mạnh hơn ý thức quốc gia. Và cương vực của các quốc gia xưa nay cũng chẳng rõ rệt.
Với sự xuất hiện của Trung Quốc, theo lề lối làm ăn và cư xử của Hán tộc giữa đám dị tộc mà họ coi thường, hiềm khích và bạo động sẽ có động lực và đối tượng mới. Qua những lời kể của dân Duy Ngô Nhĩ theo Hồi giáo đang bị đàn áp tại Tân Cương, các lực lượng dân quân hay nhóm khủng bố sẽ nhìn kiều dân Trung Quốc với con mắt thù nghịch.
Bắc Kinh ít nhiều thấm được kinh nghiệm qua dự án nối liền ốc đảo Kashar của họ tại Tân Cương với quân cảng Gwadar của Pakistan bên Biển Á Rập: xa lộ vĩ đại này phải đi qua tỉnh Balochistan mà an ninh của Pakistan không bảo vệ được vì bị các sắc tộc địa phương tấn công. Một kinh nghiệm khác của Bắc Kinh chính là hai dự án dầu thô và đồng ở A Phú Hãn.
Bị gián đoạn vì thiếu an ninh và vì mâu thuẫn với chính quyền Kabul lẫn các nước Trung Á láng giềng của A Phú Hãn.
Khi đã phát triển các dự án sinh tử cho năng lượng của mình, Trung Quốc sẽ đổ người vào đông hơn và đám công nhân hay dân công của Thiên triều rất dễ trở thành mục tiêu của khủng bố.
Kết luận ở đây là gì?
Không có Hoa Kỳ lãnh đạn thì các Hoa kiều sẽ khó làm ăn tại Trung Á.
Lợi dụng khoảng trống do nước Mỹ để lại ở A Phú Hãn, Trung Quốc có thể mở đường vào Trung Á, rồi mới khám phá những gian nan khi vượt khỏi rặng Thiên San.
Cùng với chuyện Ðông Hải, chúng ta cũng nên theo dõi các động thái của Trung Quốc. Quả thật là lãnh đạo xứ này muốn bành trướng, nhưng không phải cứ muốn là được.
Hùng Tâm
(Người Việt)

Vụ nổ pháo hoa: đã có 98 người thương vong


Báo cáo của Sở Y tế Phú Thọ cho hay, tính đến thời điểm này, vụ tai nạn nổ pháo hoa đã gây thương vong cho 98 người. Trong đó số nạn nhân tử vong tiếp tục tăng do người bị thương nặng rất nhiều.
Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ Hoàng Dân Mạc đã đến tận hiện trường vụ nổ pháo hoa trong khi nhiều xe quân đội tiếp tục đến hiện trường cứu hộ. PV Tuổi Trẻ xin gửi đến bạn đọc loạt ảnh mới nhất từ hiện trướng vụ nổ pháo hoa ờ Phú Thọ.
Chánh Văn phòng Bộ Y tế Nguyễn Xuân Trường cho biết Bộ Y tế đã điều ba kíp cứu thương từ các Bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai và Viện Bỏng quốc gia lên hỗ trợ cứu nạn cho nạn nhân vụ nổ ở Phú Thọ. Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh Bộ Y tế Cao Hưng Thái cũng đã lên Phú Thọ, trực tiếp đánh giá và làm đầu mối về hỗ trợ cấp cứu.
Theo ông Trường, báo cáo của Sở Y tế Phú Thọ gửi Bộ Y tế cho biết cho đến nay đã có 98 người thương vong trong vụ nổ. Số người chết không ngừng tăng lên do nhiều người bị thương nặng.

ĐỨC BÌNH

(Tuổi trẻ)
DHK- Trang Thông Tin Đa Chiều. Tất cả bài đăng tải trên thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả không phản ảnh quan điểm hay lập trường của DHK
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét