Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Quốc hội cuối 2013: “Sở hữu đất đai” có mảy may tiến hóa? & Mỗi người Việt nam gánh hơn 851 USD nợ công

Chỉ còn biết lên tiếng kêu cứu với thế giới

Ông Ngô Hào tại phiên tòa, Phú Yên, 11/09/2013. Source xaluan.com
Nghe phỏng vấn
 "<EMBED...>" plugin was removed by WebWarper antivirus 
kêu cứu với thế giới hay nêu vấn đề với các cơ quan ngoại giao tại Việt Nam của một số người dân phải đi khiếu kiện dai dẳng mà không được cơ quan chức năng các cấp giải quyết hay có người thân bị xét xử oan sai tại Việt Nam là cách thức cuối cùng của họ.
 
Tuy vậy, phương sách cuối cùng như thế của những người cùng đường tuyệt vọng lại gặp phải biện pháp đáp trả tiêu cực từ phía cơ quan chức năng.

Công an làm việc vì kêu cứu quốc tế

Một tù nhân chính trị ít được nhiều người biết đến là ông Ngô Hào ở thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên bị đưa ra xét xử với bản án nặng nề lên đến 15 năm tù giam về tội danh hoạt động âm mưu lật đổ chính quyền.

Ông này có bà vợ bị bệnh ung thư và hai người con: một đang học tại Sài Gòn và một ở Tuy Hòa phải bỏ học từ khi người cha bị bắt hồi ngày 8 tháng 2 năm nay.

Phiên xử sơ thẩm ông Ngô Hào diễn ra hồi ngày 11 tháng 9 vừa qua chỉ có một người con được tham dự, bà vợ cũng không được có mặt. Luật sư bào chữa do cơ quan tố tụng chỉ định.

Sau phiên xử, bà Nguyễn thị Kim Lan, vợ ông Ngô Hào đã làm đơn kêu cứu đến các cơ quan nhân quyền quốc tế, các tổ chức và đoàn thể giúp giải oan cho người chồng. Việc kêu cứu như thế khiến bà Nguyễn thị Kim Lan bị công an và cơ quan chức năng tỉnh Phú Yên làm việc từ ngày 7 tháng 10 cho đến nay như lời bà trình bày sau đây:


Sáng ngày mai họ tới nữa kêu tôi đi, nhưng tôi nói bệnh lắm không đi được. Tuần trước, suốt ngày họ cứ sáng tới, chiều tới. Tuần này, hôm qua thứ hai họ cũng sáng tới, chiều tới. Hôm nay, thứ ba họ đến rất đông, đủ hết: công an tỉnh, công an phường, khu phố, phụ nữ phường… Họ đến đông lắm

» bà Nguyễn thị Kim Lan

Hôm đó tôi lên làm việc một lần trên cơ quan, nhưng tôi mệt quá xin về, họ nói chiều đi làm việc tiếp nhưng tôi không đi. Tôi nói tôi mệt không đi được. Sáng ngày mai họ tới nữa kêu tôi đi, nhưng tôi nói bệnh lắm không đi được. Tuần trước, suốt ngày họ cứ sáng tới, chiều tới. Tuần này, hôm qua thứ hai họ cũng sáng tới, chiều tới. Hôm nay, thứ ba họ đến rất đông, đủ hết: công an tỉnh, công an phường, khu phố, phụ nữ phường… Họ đến đông lắm. Tôi nói tôi bệnh lắm không làm việc được, sức khỏe yếu lắm không tiếp; nếu vào nhà tôi là vi phạm quyền tự do cá nhân của gia đình tôi. 

Nhưng họ nói họ đến đầy đủ các ban ngành, họ vào cần làm việc. Họ đọc cái này, cái kia; rồi yêu cầu tôi viết, ký biên bản này kia nọ, đủ thứ. Họ bảo tôi không liên lạc với nước ngoài, dạy dỗ con không cho liên lạc những người bên nước ngoài, nghe lời tuyên truyền xuyên tạc. Họ nói tôi không được trả lời phỏng vấn, tại sao trên đài phỏng vấn nói thế kia, thế nọ. Tại sao kêu cứu mà không nói gì với họ mà lên mạng đưa qua bên kia. Họ nói tôi nghe lời tầm bậy, nói bậy nói bạ Họ nói nhiều lắm, tôi không nhớ hết được.

Chị Trần Ngọc Anh ở bệnh viện Saint Paul hôm 19-11-2012
Bị đánh vì đến với sứ quán Hoa Kỳ

Một trường hợp dân oan khác là bà Trần Ngọc Anh từ Vũng Tàu lặn lội ra Hà Nội và tìm cách lọt vào Đại sứ quán Hoa Kỳ để trình bày sự việc suốt nhiều năm qua phải đi kêu oan mà không được giải quyết trái lại còn bị hành hung, tù tội.

Bà Trần Ngọc Anh kể lại việc được Đại sứ quán Hoa Kỳ tiếp hồi ngày 4 tháng 10 vừa qua như sau:
Khi tôi vào đến đó, công an bảo vệ tại Đại sứ quán Mỹ kéo tôi ra; nhưng tôi cứ lao đến chỗ camera. Bên trong họ thấy được khi tôi kéo áo ngoài ra và áo trong có dòng chữ “Việt Nam không có nhân quyền’. Lúc đó có hai người đàn ông trong Đại sứ quán Mỹ ra, họ yêu cầu công an đứng qua một bên, rồi họ yêu cầu người thông dịch viên hỏi tôi đến đó có việc gì, và tôi là thế nào. Tôi nói tôi là dân oan từ miền nam ra đến đây nhờ Đại sứ quán Mỹ giúp cho thoát khỏi ách nô lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam này. Hiện quyền sống, quyền làm người của chúng tôi bị chính quyền Cộng sản Việt Nam chà đạp một cách thô bạo. Đấu tranh chúng tôi không biết trông cậy vào đâu hết. Chính quyền Việt Nam đàn áp, bắt bớ, bỏ tù chúng tôi.


Tên Tú chụp đầu tôi kéo mạnh xuống, hai công an chạy lại ôm hai cánh tay tôi bóp để cho tên Tú đó đấm đá, rồi họ vật tôi đầu đập xuống nền công viên Lý Tự Trọng. Lúc đó tôi bất tỉnh

» bà Trần Ngọc Anh

Sau đó hai người nói tôi chờ hai phút; hai phút sau họ mời tôi vào. Tôi vào ngồi chờ hai phút nữa, có một cô người Mỹ nói tiếng Việt rất thành thạo chào tôi. Tôi cũng chào và xưng là dân oan Trần Ngọc Anh, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Tôi kể lại sự việc cho cô người Mỹ đó nghe, và có một cô thông dịch viên, nếu có gì không hiểu thì cô thông dịch đó nói ra.

Tuy nhiên cũng theo lời bà Trần Ngọc Anh kể lại thì sau khi từ Đại sứ quán Hoa Kỳ trở về Vườn hoa Lý Tự Trọng, nơi mà những dân oan như bà phải ăn chực nằm chờ lâu nay, đã bị những thành phần bất hảo gây sự và tấn công bà đến thương tích.

Tên Tú chụp đầu tôi kéo mạnh xuống, hai công an chạy lại ôm hai cánh tay tôi bóp để cho tên Tú đó đấm đá, rồi họ vật tôi đầu đập xuống nền công viên Lý Tự Trọng. Lúc đó tôi bất tỉnh. Tôi nghe bà con nói lúc đó họ không đưa tôi đi bệnh viện mà những dân oan đưa tôi đi. Lúc đó chị Ly ở tỉnh Long An và chị Huệ tỉnh Bình Dương đưa tôi đến bệnh viện Saint Paul cấp cứu; nhưng đến bệnh viện công an khống chế họ không điều trị cho tôi.

Chiều ngày 5 tháng 10, anh Trương Văn Dũng đến thăm thấy sức khỏe của tôi quá trầm trọng, rất nguy kịch. Anh cùng với hai chị Huệ và chị Ly đưa tôi đi khám tại phòng khám quốc tế Việt- Minh.

Sau 10 ngày khi sức khỏe tạm ổn, bà Trần Ngọc Anh chia xẻ mong mỏi của bà:

Tôi vào Đại sứ quán Mỹ không phải để nói về tình trạng của một mình tôi mà của hằng ngàn ngàn người Việt Nam khác cùng chung số phận như tôi. Thành thử tôi viết lá thư đó, tiếng kêu thảm thiết của dân oan để Đại sứ quán Mỹ can thiệp giúp đỡ. Chúng tôi chỉ muốn một cuộc sống bình yên như những dân tộc khác.Chúng tôi muốn Việt Nam sánh vai với năm châu, có một đất nước tự do, nhân quyền thực sự chứ không phải lời nói suông như của Đảng Cộng sản này.

Vụ việc qua lời kể của bà Nguyễn thị Kim Lan, vợ tù nhân chính trị Ngô Hào, và dân oan Trần Ngọc Anh không phải là chuyện cá biệt đối với hai người, mà hiện nay nhiều thân nhân của các tù nhân lương tâm và những dân oan không chịu cam chịu cách hành xử của nhà cầm quyền lên tiếng kêu cứu với các tổ chức quốc tế cũng gặp tình cảnh tương tự như thế.

Gia Minh,
biên tập viên RFA, Bangkok
Theo RFA
===========
Nghe bài này

“Bảo đảm an sinh xã hội:” Những hạn chế của mô hình báo chí đảng

Xinloiong blog    by
Ngày 4/10/2013, báo Nhân Dân đăng một bài với tựa đề “Bảo đảm an sinh xã hội – điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam”. Tác giả lấy bút danh là “NGUYỄN TRẦN” (Xin hỏi: Đến bao giờ nhà báo Việt Nam sẽ sử dụng tên thật?).
Dù là một người hay một nhóm người, tôi thấy bài viết rất hay về nhiều mặt và liên quan trực tiếp đến những vấn đề tôi đặc biệt quan tâm. Bài nay cũng minh họa rõ những hạn chế cơ bản của mô hình ‘thơ báo đảng’ và văn hóa chính trị ở Việt Nam đến hôm nay.
Bài viết dành nhiều mục nhất để nêu những thành tích và nêu một số vấn đề quan trọng. Bài cũng đã chê một số vấn đề khác mà chúng ta nên chú ý. Dù tôi muốn bình luận về nội dung trong bài, có lẽ quan trọng hơn cả là bài này tạo ra một cơ hội để can thiệp vảo những tranh luận xoay quanh vấn đề nhân quyền ở Việt Nam; Trong đó có vấn đề tự do báo chí và vấn đề tôi gọi là “văn hóa chính trị” của Việt Nam.
“Bảo đảm an sinh xã hội – điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam”
Tôi thấy dù nhiều nội dung của bàì hay, thú vị. Nhưng ấn tượng nhất là về những giả thuyết và những kết luận trong bài… từ mặt này bài có vấn đề . Cụ thể, việc đạt được những thành tích to lớn ở Việt Nam trong 20 năm qua không nên được hiểu là không có những vấn đề bức xúc đối với những thể chế xã hội của Việt Nam. Đồng thời, việc có những người phê bình những chính sách xã hội và nhân quyền chẳng có nghĩa là họ là “những thế lực thù địch” của đất nước.
Dưới đây, tôi sẽ đề cập nội dung của bài để thể hiện một cách suy nghĩ cách về những vấn đề đã được nêu ra và đồng thời phân tích một số đặc điểm của văn hóa chính trị tại Việt Nam nên được xét lại trong thời đại mới. Để cho dễ đọc. tôi sẽ đánh số và trả lời từng đoạn một của bài.
1. Bảo đảm an sinh xã hội là yêu cầu và điều kiện cần thiết của sự ổn định, phát triển đất nước, góp phần hiện thực hóa các quyền xã hội của mọi người dân. Vượt qua khó khăn, thách thức, kể cả sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước Việt Nam, hoạt động bảo đảm an sinh xã hội ngày càng được triển khai có hiệu quả, trở thành một điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam…
Vâng, hoàn toàn đồng ý là “bảo đảm an sinh xã hội là yêu cầu và điều kiện cần thiết của sự ổn định, phát triển đất nước, góp phần hiện thực hóa các quyền xã hội của mọi người dân. Vượt qua khó khăn, thách thức…”. NHƯNG, ngay từ đâu tôi hỏi: có thực sự cần thiết khi báo động về “sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí”.
Câu tiếp “dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước Việt Nam hoạt động bảo đảm an sinh xã hội ngày càng được triển khai có hiệu quả, trở thành một điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam…”. Ngoài việc là một câu quá dài, xin hỏi hai câu. Thứ nhất, tại sao viết “Đảng…Việt Nam”? Tôi chưa thấy một đảng nào có tên đó. Thứ hai, đúng ra những hoạt động bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam đã phát triển một cách đáng khích lệ trong một số mặt NHƯNG để giả định những hoạt động này là “ngày càng được triển khai có hiệu quả” là một cách viết cảm tính hơn là phân tích khách quan. Tôi quá biết báo Nhân Dân là báo có chức năng định hướng dư luận. Chính vì thế số người đọc báo Nhân Dân ngày càng ít. Tốt nhất là trong những năm tới báo Nhân Dân nên cố gắng chuyển sang một mô hình hiện đại hơn.
2. Con người là trung tâm, động lực và mục tiêu của phát triển. Công nhận các quyền con người về dân sự, chính trị và về kinh tế, xã hội, văn hóa; đặc biệt, quyền có việc làm, thu nhập, nhà ở, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, dùng nước sạch, sống trong môi trường an toàn và mưu cầu hạnh phúc xứng đáng với phẩm giá con người ngày càng trở thành những yêu cầu cơ bản, thiết thực. Bảo đảm quyền con người trở thành lý tưởng chung mà các quốc gia, dân tộc cần đạt tới và là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Ðó cũng là Ðiều 25 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của LHQ nhấn mạnh: Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có mức sống tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội, bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác. Theo ILO (Tổ chức Lao động quốc tế), an sinh xã hội là chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ…
Hay quá, hay quá!!!! Tôi hoàn toàn ủng hộ những giá trị này. Hay ra phết!
3. Là thành viên có trách nhiệm của LHQ và cộng đồng thế giới, Việt Nam luôn chia sẻ, tôn trọng các yêu cầu và cam kết quốc tế về nhân quyền nói trên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Việt Nam coi việc phát triển bảo đảm an sinh xã hội (BÐASXH), bảo đảm chất lượng sống cho người dân ngày càng được an toàn và cải thiện là nội dung, cách thức thiết thực nhất thực hiện các quyền xã hội của mọi người dân; đồng thời, cũng là động lực và mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trải qua mấy chục năm chiến tranh tàn khốc, phải chịu hơn 17 triệu tấn bom đạn, hơn 70 triệu lít hóa chất chứa dioxin, Việt Nam hiện có hơn bốn triệu người khuyết tật, tàn tật do bom đạn, chất độc, cùng hàng triệu người có công, người già và trẻ em không nơi nương tựa, nghèo, cô đơn. Việt Nam còn chịu áp lực mỗi năm thêm hàng triệu người bước vào độ tuổi lao động và hàng chục triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, dễ bị tổn thương… Vì vậy, Việt Nam luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình, ổn định để có điều kiện phát triển cuộc sống của toàn dân, bù đắp cho những người bị thiệt thòi, và cũng vì thế, Việt Nam coi hệ thống BÐASXH đa dạng, có tính chia sẻ và hiệu quả theo chiến lược tổng thể quốc gia là sự nghiệp của toàn hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thế hà? Trước hết, câu “là thành viên có trách nhiệm của LHQ” mang tính chất chủ động. Hơn nữa, để khẳng định “(nhà nước) Việt Nam luôn chia sẻ, tôn trọng các yêu cầu và cam kết quốc tế về nhân quyền nói trên” thì tôi rất ái ngại cho sức khỏe tâm lý của tác giả. Rõ rằng dù có những tiến bộ đáng mừng về những quyền xã hội, Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề đối với các quyền chính trị, kinh tế, văn hóa và ai mà phủ nhận điều đó rõ ràng là có một quan điểm hết sức kỳ lạ.
Câu mà đọc “Việt Nam coi việc phát triển bảo đảm an sinh xã hội (BÐASXH), bảo đảm chất lượng sống cho người dân ngày càng được an toàn và cải thiện là nội dung, cách thức thiết thực nhất thực hiện các quyền xã hội của mọi người dân; đồng thời, cũng là động lực và mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp đổi mới đất nước” dù dài dòng cũng là một câu tôi hoàn toàn ủng hộ. Đọc đến câu “Trải qua mấy chục năm chiến tranh tàn khốc…” thì không có ai phủ nhận. Khi khẳng định “mỗi năm thêm hàng triệu người bước vào độ tuổi lao động” thì quả là phóng đại một chút vì theo tôi hiểu mỗi năm có hơn một triệu chứ (cũng theo ILO). Nhưng việc VN còn có “hàng chục triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, dễ bị tổn thương” là có thật và đáng lo ngại.
Câu cuối cùng trong đoạn này cho rằng: “…vì thế Việt Nam coi hệ thống BÐASXH đa dạng, có tính chia sẻ và hiệu quả theo chiến lược tổng thể quốc gia là sự nghiệp của toàn hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Về câu này tôi không có vấn đề gì hết.
4. Ðối với vấn đề xóa đói, giảm nghèo, Việt Nam coi đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài và quan trọng hàng đầu trong BÐASXH. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa VII chỉ rõ: “Trợ giúp người nghèo chủ yếu bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn. Hình thành quỹ xóa đói, giảm nghèo ở từng địa phương trên cơ sở dân giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong nước và quốc tế. Phấn đấu tăng số hộ giàu, đi đôi với xóa đói, giảm nghèo”. Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng tiếp tục khẳng định: “Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân”. Lấy ngày 17-10 hằng năm là “Ngày vì người nghèo” (cùng với ngày “Thế giới chống đói nghèo” do Liên hợp quốc khởi xướng), từ năm 1995 đến nay, tất cả các tỉnh, thành phố đều thành lập các ban chỉ đạo, triển khai hàng chục chương trình và chính sách đầu tư, cho vay phát triển hạ tầng, việc làm, hỗ trợ hộ nghèo, hộ đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, kinh doanh; khuyến khích các hoạt động cộng đồng, tương thân, tương ái, từ thiện, đền ơn đáp nghĩa. Tháng 5-2002, Chính phủ chính thức triển khai “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo” phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của LHQ. Từ năm 2003 tới năm 2012, ngân sách Nhà nước chiếm  hơn 51% tổng chi cho BÐASXH, bình quân khoảng 6,6% GDP/năm. Riêng giai đoạn 2006 – 2012, Chính phủ đã đầu tư hơn 700 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ cho gần 3.000 dự án giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục nhằm tăng cường hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo; trong đó, riêng các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được ngân sách Nhà nước đầu tư hơn 54.770 tỷ đồng. Hằng năm, Nhà nước chi trợ cấp xã hội thường xuyên tới khoảng 2% dân số, trợ cấp đột xuất khoảng 0,5% – 0,6% GDP cho khắc phục hậu quả các vùng bị thiên tai. Giai đoạn 2010 – 2013, thực hiện Nghị định 41/2010/NÐ-CP về chính sách đẩy mạnh tín dụng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tổng dư nợ tín dụng cho nông nghiệp đã tăng 2,1 lần (từ 292 nghìn tỷ đồng, lên gần 622 nghìn tỷ đồng). Nhà nước còn thực hiện giao quản lý đất và rừng ổn định; vận động người dân tộc thiểu số sống định canh, định cư và tái định cư ở những địa bàn phù hợp, vì lợi ích kinh tế – xã hội và môi trường cộng đồng và quốc gia.
Vì đoạn này rất dài chỉ nêu rõ một số vấn đề đáng bàn. Một là, trong câu đầu tiên có ghi “Việt Nam coi…”. Đề nghị nên nói cụ thể là nhà nước Việt Nam thay vì “Việt Nam” (Việt Nam là một đất nước, không phải là một tổ chức chính trị như câu này hàm ý). Tôi cũng biết ít nhiều về những vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam và đã từng tham gia những công trình phục vụ nhà nước Việt Nam. Về những thông tin trên tôi không cần tranh luận. Mục tiêu cơ bản phải là năng cao an sinh xã hội và “an ninh kinh tế” của của người dân Việt Nam. Nêu ra những chỉ số thực sự là không hữu ích chút nào vì chúng ta thiếu thông tin ở đây để đánh giá ý nghĩa của những chỉ số này. Mặt khác, một lần nữa tôi không có vấn đề lớn lắm về những mực tiêu và ý định kể trên, dù e rằng nếu coi nhà nước Việt Nam là một tổ chức nhân đạo vì những khoản tiền mà nhà nước chi tiêu lại đến từ tiền thuế của dân.
5. Khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân ngày càng được cải thiện cũng là một điểm nhấn trong BÐASXH ở Việt Nam. Cuối năm 2012, khoảng 90,7% số người nghèo nhất đã được sử dụng điện lưới; hơn 85% số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% số xã có trạm y tế, trong đó 78% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 100% số xã có đường giao thông đến trung tâm; 67,5% số xã có công trình thủy lợi nhỏ. Hàng nghìn nhà tình nghĩa và hàng trăm dự án nhà ở xã hội được triển khai trên toàn quốc, góp phần đáp ứng nhu cầu cho hàng triệu người dân thuộc đối tượng chính sách. Từ năm 2010, cả nước đã cơ bản hoàn thành phổ cập THCS với 100% số xã có đủ trường tiểu học, THCS. Tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học là 97,7% và bậc trung học cơ sở là 87,2%. Mỗi năm, 1,8 triệu lao động được dạy nghề qua hệ thống 10 nghìn trường, trung tâm học tập cộng đồng và gần 700 trung tâm giáo dục thường xuyên. Riêng hai năm 2011 – 2012, ngân sách Nhà nước đã hỗ trợ 11.844 tỷ đồng tiền miễn, giảm học phí, trợ cấp học bổng, hỗ trợ tiền ăn trưa cho bốn triệu lượt học sinh con của hộ nghèo, hộ chính sách và trẻ đến 5 tuổi. Theo Quyết định 36/2013/QÐ-TTg, từ ngày 15-3-2013, Nhà nước thực hiện hỗ trợ 15kg gạo/tháng (chín tháng/năm học) cho mỗi học sinh tiểu học và THCS người dân tộc thuộc khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
Vâng, “khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân ngày càng được cải thiện cũng là một điểm nhấn trong BÐASXH ở Việt Nam” là điều đáng mừng. Tôi và không ít người khác đang lo là việc có “khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản” rất dễ đánh mất ý nghĩa tích cực nếu dân phải bỏ biết bao nhiêu tiền để đảm bảo chất lượng dịch vụ là trên mức có thể chấp nhận được. Vâng, Việt Nam đã thấy nhiều tiến bộ đối với việc mở rộng các dịch vụ cơ bản là điểm tốt.
Tôi hoàn toàn đồng ý rằng, Đảng Công Sản Việt Nàm và nhà nước CHXHCNVN lâu nay đã quan tâm đến những vấn đề này. Nhưng vấn đề này đâu có nghĩa là không có vấn đề nghiêm trọng chúng ta phải chú ý đến. Mục đích của bài này là gì? Nêu mãi những chỉ số như trên không có nghĩa lắm.
6. Các loại hình bảo hiểm cho người dân ngày càng mở rộng với sản phẩm ngày càng đa dạng. Ðối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ngày càng tăng và được hưởng các chế độ và quyền lợi kịp thời, đầy đủ, an toàn, đúng quy định. Năm 2012, hơn 60,5 triệu người tham gia BHXH, BHYT tăng 5,9% so với năm 2011. Tính đến năm 2011, BHXH bắt buộc  đã thu hút được 20% lực lượng lao động và 70% đối tượng liên quan. BHXH tự nguyện thu hút được hơn 0,22% số lao động thuộc diện tham gia. BHTN đã có hơn 8,1 triệu người tham gia. Chỉ riêng hai năm 2011 – 2012, NSNN đã hỗ trợ hơn 22 nghìn tỷ đồng cấp thẻ BHYT miễn phí cho 29 triệu lượt người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi; hỗ trợ bằng 70% mệnh giá thẻ mua BHYT cho người dân thuộc diện cận nghèo (với mức 3% lương tối thiểu chung). Hơn 90% số trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ. Chênh lệch tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giữa nông thôn và thành thị đã giảm xuống còn 14,3%, so với 20,3% năm 2001. Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ tử vong mẹ đều thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia có cùng điều kiện kinh tế. Tuổi thọ bình quân của Việt Nam hiện đạt 73-74 tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước liên tục giảm, chỉ còn gần 9,64% vào cuối năm 2012, so với 22% năm 2006. Tỷ lệ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã giảm từ trung bình 47% năm 2006, xuống còn 28,55% năm 2012 ở vùng Tây Bắc, Ðông Bắc – 17,39%, Tây Nguyên -15,58%, Bắc Trung Bộ – 15,01%. Thu nhập bình quân của hộ nghèo năm 2010 tăng 2,3 lần so với năm 2005; bình quân GDP tăng từ 1.024 USD/người năm 2008 lên 1.540 USD/người năm 2012.
Vâng, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đáng mừng. Tuy nhiên, chế độ bảo hiểm y tế còn quá nhiều vấn đề. Hy vọng những vấn đề này sẽ được giải quyết trong tương lai. Đời sống của hàng triệu người đã được cải thiện, nhưng hàng triệu người khác vẫn nghèo và dễ bị rơi vào khủng hoảng vì tình trạng mất ổn định trong nền kinh tế. Hơn nữa, mức sống tối thiểu ở Việt Nam còn quá thấp. Nên chúng ta phải cần thận trọng khi quá lạc quan về tinh hình an sinh xã hội. Nghèo tuyệt đối (absolute poverty) đang giảm chậm hơn so với trước trong khi đó sự nghèo tương đối (relative poverty) đang tăng là những xu hướng đáng lo. Tóm lại, việc Việt Nam đã có nhiều tiến bộ là đáng mừng nhưng cũng phải nhắc đến những vấn đề vẫn còn và nếu không viết như thế này chỉ phản ánh bệnh thành tích vẫn còn ở Viẹt Nam.
7. Với những nỗ lực nói trên, Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn tất cả các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015 nên đã được Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới trao giải thưởng thành tích xuất sắc trong xóa đói, giảm nghèo. Tại Hội nghị cấp cao “Kêu gọi hành động vì sự sống còn của trẻ em” tổ chức ở Hoa Kỳ năm 2012, LHQ và nhiều tổ chức quốc tế đã đánh giá Việt Nam thuộc tám quốc gia đạt tiến độ thực hiện Mục tiêu MDG 4 về giảm tử vong trẻ em; thuộc chín quốc gia đạt tiến độ thực hiện về Mục tiêu MDG 5 về giảm tử vong mẹ; xếp thứ 27 trong số 101 nước đang phát triển về năng lực giảm nghèo của các quốc gia (gọi tắt là CPM), trên cả In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Thái-lan…
Ở đây, tôi không có bình luận gì.
8. Bằng việc thông qua và triển khai Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Việt Nam phấn đấu đến năm 2020, hệ thống BÐASXH sẽ bao phủ toàn dân; đặt trọng tâm vào các mục tiêu giảm nghèo đa chiều bền vững; tiếp cận và thụ hưởng công bằng các dịch vụ và các phúc lợi xã hội, các nguồn lực, cơ hội và thành quả phát triển cho người dân, ưu tiên người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn, người dân nông thôn, công nhân làm việc tại các khu công nghiệp và sinh viên; tăng cường nhận thức của cộng đồng, trợ giúp pháp lý, năng lực của cơ quan thực thi pháp luật về quyền con người. Những chủ trương, chính sách, kết quả hoạt động thực tế và định hướng, mục tiêu phấn đấu nêu trên khẳng định sự nhất quán và những nỗ lực không mệt mỏi trong công tác BÐASXH của Việt Nam. Ðó còn là bằng chứng mạnh mẽ bác bỏ luận điệu của những người cố tình xuyên tạc, phủ nhận vai trò của Nhà nước Việt Nam trong công tác BÐASXH. Ðồng thời, những sự thật hiển nhiên này cũng bác bỏ dứt khoát sự vu khống, bịa đặt trắng trợn và suy diễn méo mó của một số kẻ cho rằng, đâu đó trên đất nước Việt Nam còn có hiện tượng kỳ thị dân tộc và bỏ rơi người nghèo, nhất là ở nông thôn, người dân tộc thiểu số, miền núi. BÐASXH tốt hơn, xã hội dân chủ, cởi mở và đồng thuận hơn đã, đang và sẽ góp phần quan trọng để phát triển đất nước, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đoạn cuối không có nhiều vấn đề chưa đề cập đến trước đây và nói chung tôi ủng hộ định hướng (dù có ý kiến khác một chút về cách thực hiện). Mặt khác, câu khẳng định “Ðó còn là bằng chứng mạnh mẽ bác bỏ luận điệu của những người cố tình xuyên tạc, phủ nhận vai trò của Nhà nước Việt Nam trong công tác BÐASXH” thật ngây ngô. Ai là người phủ nhận vai trò của Nhà nước Việt Nam trong công tác BÐASXH? Chắc chắn không phải là tôi hay ai biết nhiều về chính sách xã hội ở Việt Nam. Tôi thích câu cuối cùng: “BÐASXH tốt hơn, xã hội dân chủ, cởi mở và đồng thuận hơn đã, đang và sẽ góp phần quan trọng để phát triển đất nước, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.” Lạc quan quá!
Kết luận gì?
Như vậy, chúng ta có thể kết luận gì về bài viết này? Đối với tôi, một người quan tâm nhiều về những vấn đề xã hội ở Việt Nam và cũng ủng hộ Việt Nam trong quá trình cải cách những thể chế chính trị-xã hội, tôi lo nhất về giọng văn trong bài này.
Nó giả định chỉ có một quan điểm duy nhất mà có giá trị và ai suy nghĩ cách về tình hình ở Việt Nam nói chung và đối với BĐASXH nói riêng là những kẻ thù địch. Chính vì thế tôi thấy trong bài này là một vấn đề ‘văn hóa’ Việt Nam nói chung và cụ thể hơn chính quyền Việt Nam phải chấp nhận.
Ai cũng biết mực đích và chúc năng của báo Nhân Dân chính là để đầy mạnh đường lối của Đảng. Luôn luôn giả định đường lối hiện giờ là đúng, dù là thời kỳ Lê Duẩn hay thời kỳ hiện nay. Nhưng muốn có một Việt Nam tốt đẹp hơn, xã hội dân chủ, cởi mở và đồng thuận hơn phải thực bảo đảm những quyền xã hội, chính trị, dân sự. Phải xóa văn hóa chính trị một chiều. Phải bình thường hóa việc có tranh luận trên báo chí. Phải thực sự cởi mở về những vấn đề quan trọng mà đất nước đang phải đương đầu.
JL

Tại sao báo QĐND lại phải đăng cả những bài của Nguyễn Văn Minh …

XHDS

Dao Thanh Huong
Ví dụ bàiCảnh giác trước lời kêu gọi ‘tạm dừng’ sửa đổi Hiến pháp“?
Hãy phân tích ngay đoạn đầu trong bài này để thấy báo QĐND phải sử dụng tới lý sự của Nguyễn Văn Minh là đã cùng quẫn về lý lẽ lắm rồi.
Minh viết blog, đăng bài trên báo… muốn lan tỏa quan điểm. Điều đó là bình thường, chính đáng. Minh muốn vậy, thì tôi cũng muốn vậy. Tôi cũng muốn bài này lan tỏa.
Nhưng điều bất thường, phân biệt CHÍNH với TÀ, lương thiện và bất lương, là bài của Minh được phía đối lập sẵn sàng đăng lên. Bài Cảnh giác trước lời kêu gọi “tạm dừng” sửa đổi Hiến pháp của Minh (gốc ở QQĐND) nhằm đả kích những người chủ trương trang Xã Hội Dân Sự, lại được chính trang Xã Hội Dân Sự đăng lại nguyên văn, lấy từ QĐND và đưa xuất xứ rõ ràng. Tôi đọc bài của Minh ở đó, chứ không phải nơi đăng gốc – là QĐND. Điều thú vị, là nhờ đọc bài của Minh, tôi biết thêm: báo QĐND là hạng báo nào.
Điều không lương thiện là các ý kiến phản bác bài của Minh thì – dù gửi thẳng cho QĐND, hoặc là đã được đăng bất cứ đâu – cũng không bao giờ được đăng ở chính cái nơi Minh lên tiếng đả kích người khác. Đã quá đủ tuổi để suy xét, Minh hãy dùng lương tri bình thường để nhận ra điều bất thường này ở báo QĐNH, ND, Tạp chí CS và các báo khác cùng một duộc.
Về luận điểm của Minh
Chỉ xin trích một câu (nguyên văn) ở phần đầu trong bài của Minh.
Một ví dụ điển hình của trào lưu “tát nước theo mưa” là Tuyên bố xã hội dân sự ra đời ngày 23-9-2013, có nội dung cốt lõi liên quan đến sửa đổi Hiến pháp. Tại tuyên bố xã hội dân sự, họ đòi hỏi Đảng ta phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ chế độ “toàn trị” sang “dân chủ”, mở đầu bằng việc sửa đổi Hiến pháp. Họ kiến nghị Quốc hội dừng thông qua bản Hiến pháp sửa đổi, kéo dài thời gian thảo luận về Hiến pháp để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm tinh thần từ những bản Dự thảo khác do chính các “nhà dân chủ, cấp tiến” biên soạn.
Đoạn này của Minh tố cáo đảng CS hơi nhiều.
Lẽ ra, Minh phải bênh “cái đảng ta” của Minh bằng cách giải thích số liệu điều tra khách quan cho thấy có tới 40% số dân chưa bao giờ nghe từ “hiến pháp”, còn số người biết đến hiến pháp là nhờ “đọc các khẩu hiệu” chiếm tỷ lệ không nhỏ. Cai trị 70 năm mà để dân trí như vậy thì “ngu dân” quả là một chủ trương.
Lẽ ra, Minh phải lý lẽ để thanh minh cho “đảng ta” không toàn trị, tuy rằng trên thực tế (thanh thiên bạch nhật) mọi chức vụ cao-thấp hầu hết do đảng viên nắm giữ; tới 90% đại biểu của dân, 90% bọn tham nhũng khi lộ mặt đều mang danh hiệu đảng viên.
Lẽ ra, Minh phải giúp “đảng ta” chứng minh rằng xây dựng xã hội dân sự – và ai “tuyên bố thực thi quyền dân sự” – là đi ngược với dân chủ, nhân quyền… để những người chủ trương (ra Tuyên Bố) phải ngượng vì thấy sai, mà rút lui. Đằng này, Minh đem cái khái niệm “thế lực thù địch” để đối xử với họ. Cái lý sự này phô bày trên mặt QĐND chỉ khiến nó thêm nhem nhuốc.
Lẽ ra, Minh phải phân tích nội dung để chứng tỏ rằng những bản hiến pháp do các cá nhân và tổ chức đưa ra đã thua xa khi so sánh với bản “chính thống”, thì Minh lại đả kích vào những cá nhân – sử dụng quyền dân chủ, tự do ngôn luận của họ – để đưa ra các hiến pháp cạnh tranh. Đọc cả bài, chẳng thấy chỗ nào Minh nói nửa ý, rằng: Dân VN, mỗi người phái có một phiếu quyết định số phận hiến pháp.
Báo QĐND phải dùng đến lý sự của Minh hẳn là đã khốn cùng lắm rồi.
Minh không dám chửi; rồi vẫn quay lại chửi ngay cùng một đối tượng
Bản kiến nghị của 72 nhân sĩ thì – cho ăn kẹo – Minh và những cấp trên cao nhất của Minh cũng không dám tỏ thái độ vô lễ. Một lý do mà Minh đưa ra: GS Ngô Bảo Châu không phản đối việc có nhiều dự thảo hiến pháp.
Mỗi người trong số nhóm 72 này có tuổi đời, tuổi đảng (nếu là đảng viên), sự liêm khiết, chính trực, và lòng yêu nước… hơn bất cứ cá nhân nào của Bộ Chính Trị. Thời gian và thực tế đã xác nhận. Còn những người chủ trương xây dựng Xã Hội Dân Sự và tuyên bố thực thi quyền của mình, bị Minh mạt sát, vẫn chẳng phải ai khác. Đông đảo các vị 72, vẫn có mặt trong bản Tuyên Bố mà Minh căm ghét. Và Minh đã hỗn với họ.
Báo QĐND phải dùng đến lý sự của Minh hẳn là đã khốn cùng lắm rồi.

Viện Khổng Tử hay cuộc xâm lăng văn hóa Trung Quốc ? (trong khi đó thì SGK lại vắng bóng tướng Giáp (văn với chả hóa)- đọc bài sau bài này)

Muốn đem lại một sự đề kháng đối với sự xâm lăng văn hóa của bên ngoài, thì trước hết cần phải khơi dậy, giáo dục sự hiểu biết cho lớp trẻ về văn hóa của cha ông. Trong mạnh, thì ngoài mới không xâm lăng vào được. Khi người ta yêu quý những nét văn hóa đẹp đó, thì người ta mới dốc sức gìn giữ nó, tạo nên một lớp áo giáp bảo vệ trước sự xâm lăng từ bên ngoài.

Học sinh Trung Quốc mặc trang phục truyền thống làm lễ tại đền Khổng Tử ở Giang Tô 01/09/2013 - Reuters
Nghe bài này
 "<EMBED...>" plugin was removed by WebWarper antivirus 
Trong bản tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc nhân chuyến viếng thăm của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường tại Hà Nội giữa tháng 10 vừa qua, hai quốc gia đã thông báo « nhất trí » thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam.

Thật ra, Viện Khổng tử đã được Trung Quốc thành lập ở rất nhiều nước khác trên thế giới. Việc thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam đã được chính phủ Hà Nội quyết định từ năm 2009, nhưng thông báo chính thức về việc thành lập viện này đã một lần nữa gây lo ngại cho giới nhân sĩ trí thức Việt Nam về nguy cơ xâm lăng văn hóa của Trung Quốc, trong bối cảnh mà phim ảnh Trung Quốc từ nhiều năm qua tràn ngập các đài truyền hình Việt Nam và văn hóa Trung Qu ốc chi phối ngày càng nhiều đời sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là trong kiến trúc đền chùa.

Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội nêu lên những nguy cơ tiềm ẩn từ Viện Khổng tử sẽ được thành lập ở Việt Nam :

RFI : Xin kính chào tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện. Thưa ông, những nước như Pháp hay Đức cũng đã có những trung tâm văn hóa ở Việt Nam như Alliance Française hay Viện Goethe. Nhưng vì sao việc thành lập Viện Khổng tử của Trung Quốc lại gây lo ngại như vậy ?

TS Nguyễn Xuân Diện : Việc thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam không phải chỉ mới được đặt ra trong chuyến viếng thăm của thủ tướng Lý Khắc Cường, mà từ năm 2009, ông Tập Cận Bình, khi ấy là phó chủ tịch Trung Quốc, khi đi thăm Việt Nam đã thúc giục Việt Nam thành lập Viện Khổng tử để tăng cường hợp tác văn hóa, giáo dục.

Theo tôi biết, trên thế giới hiện đã có hơn 40 nước có tổng cộng hàng trăm Học viện Khổng tử. Riêng Thái Lan thì đã có 13 Học viện Khổng tử. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có nét tương đồng nhau về mặt văn hóa và gần đây là người ta có nhắc đến tương đồng về chính trị, nhưng đến bây giờ mới xúc tiến mạnh việc thành lập Viện Khổng tử ở Việt Nam. Theo tôi biết, học viện này sẽ được đặt trong Đại học Hà Nội (Đại học Ngoại ngữ cũ).

Từ khi nhận được tin này, những nhà nghiên cứu, những nhân sĩ, trí thức rất là lo lắng. Lo lắng nhiều hơn là vui mừng. Nhiều nước đã đặt các học viện, các trung tâm văn hóa ở Việt Nam, nhưng những học viện, những trung tâm đó không gây lo ngại nhiều như Học viện Khổng tử này. Lý do là vì trong người dân Việt Nam luôn thường trực một tinh thần phản kháng, một sự tự đề kháng đối với văn hóa Trung Quốc, mặc dù là tư tưởng của Khổng tử, các thiết chế, mô hình Nhà nước theo kiểu Nho giáo của Khổng tử đã có mặt trên đất nước Việt Nam từ rất lâu rồi.

Chúng tôi rất lo lắng bởi vì Viện Khổng tử này chắc chắn không phải được lập nên để tuyên truyền về giáo lý, tinh thần triết học hay cuộc đời và sự nghiệp của Khổng tử, cũng như về Nho học : Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Tam Tòng Tứ Đức ...

RFI : Theo ông biết thì Viện Khổng tử của Trung Qu ốc ở Việt Nam sẽ hoạt động như thế nào ?

Thực chất đây sẽ là một trung tâm văn hóa và ngôn ngữ, nhằm giới thiệu, quảng bá về văn hóa Trung Quốc : thi ca, âm nhạc, ẩm thực, trà đạo..., và sẽ có những giao lưu văn hóa giữa các nghệ sĩ Việt Nam và Trung Quốc. Đằng sau đó luôn là những hoạt động tư vấn về du học, tức là kéo thanh niên Việt Nam đến Trung Quốc du học ngày càng nhiều. Đây cũng sẽ là trung tâm dạy Trung văn, tức là tiếng Hoa.

Đó là những hoạt động bề nổi, còn đằng sau nó chắc chắn sẽ là những hoạt động tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về mặt văn hóa và tư tưởng về một nước Trung Hoa hiện đại. Chính vì vậy nhiều nhà quan sát cho rằng việc thành lập Viện Khổng tử chính một sự thể hiện quyền lực mềm của Trung Quốc, hoặc có người gay gắt hơn thì nói rằng đấy là bước đầu đặt cơ sở cho việc bành trướng văn hóa.

Điều này thật đáng lo ngại, bởi vì sức ép và sự tuyên truyền văn hóa của văn hóa Trung Quốc hiện đại lên Việt Nam hiện nay rất là mạnh mẽ. Nhân dân đã không được những người làm công tác văn hóa dẫn dắt, cho nên, họ có sự sùng bái văn hóa Trung Quốc rất là quá đáng.

Ví dụ ngôi chùa đạt nhiều kỷ lục ở Việt Nam và Đông Nam Á là chùa Bái Đính ở Ninh Bình. Ngôi chùa ấy chẳng có dáng dấp gì mang bản sắc Việt Nam, mà thực chất là một ngôi chùa Tàu, mà hàng năm lại thu hút hàng triệu du khách. Các phim ảnh Trung Quốc thì chiếu tràn lan trên các kênh truyền hình trung ương và địa phương. Rồi thì việc dựng các tượng sư tử Trung Quốc ở các đình chùa, đền miếu, cũng như ở trụ sở các tổng công ty. Rồi thì hàng hóa, đèn lồng Trung Quốc cũng tràn lan.

Chính những điều đó khiến người ta lo rằng là với Viện Khổng tử, Trung Quốc coi như đã đặt một bàn chân xâm lăng văn hóa đối với Việt Nam. Chưa bao giờ sức mạnh văn hóa Việt Nam suy yếu nhiều như hiện nay. Khi nào mà chúng ta không chống lại được xâm lăng về văn hóa, thì chúng ta sẽ không còn gì là nền tảng của nước Việt Nam nữa và sẽ bị đồng hóa. Đây sẽ là một điều vô cùng nguy hiểm. Xâm lăng về văn hóa còn nguy hiểm hơn là xâm lăng về quân sự. Cho nên tôi thấy rất lo ngại.

RFI : Nhưng trong sự xâm lăng văn hóa này phải chăng cũng có sự tiếp tay của các lãnh đạo văn hóa, đã cho chiếu quá nhiều phim ảnh Trung Quốc trên truyền hình quốc gia, đến mức giới trẻ Việt Nam bây giờ thuộc sử Tàu hơn là sử Việt ?

Đúng là bây giờ trẻ con cấp 1, cấp 2, cấp 3 thuộc sử Tàu hơn là sử Việt. Văn hóa Trung Quốc ảnh hưởng rất nhiều đến ngôn ngữ thường ngày của các em. Sóng truyền hình Trung Quốc tràn lan như vậy. Không những thế các bộ phim của cũng thế. Chúng ta thấy rằng là năm 2010, phim kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tức là phim Đường tới thành Thăng Long, từ kịch bản, đạo diễn, cho đến diễn viên và vai quần chúng, cũng như bối cảnh, hậu kỳ, trang phục đều là do người Trung Quốc làm.
Bộ phim mang tính phản văn hóa như vậy cho nên các nhà nghiên cứu, các học giả đã yêu cầu không được chiếu bộ phim đó trong đại lễ 1000 năm Thăng Long. Về sau người ta mới phát hiện bộ phim đó không chỉ mang tính phản văn hóa, mà còn phản quốc, vì những nội dung lịch sử đã bị bóp méo và làm sai lạc.

Chúng tôi lo ngại vì giới lãnh đạo văn hóa Việt Nam hiện nay hiễu một cách rất là ấu trĩ và vô cùng hạn chế về văn hóa Trung Quốc. Vì vậy, họ không phát động được trong cán bộ, công chức trên toàn quốc về việc phải có một sự đề kháng như thế nào đối với văn hóa Trung Quốc.

Hậu quả là vào những dịp Tết trong những năm gần đây, có khi cả thành phố, thị trấn thắp toàn đèn lồng Trung Quốc. Hà Nội gần đây đã phải phát động việc dẹp bỏ các tượng đá sư tử ở các đền chùa. Như vậy tức là họ cũng đã thấy được một phần rồi, nhưng những cái mà họ thấy được, nhưng so với những cái mà những người lãnh đạo cần phải có là chưa tương xứng. Chính vì vậy, những người tha thiết với truyền thống, với văn hóa Việt Nam đang rất là lo lắng.

RFI : Thưa tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, để cưỡng lại sự xâm lăng về văn hóa đó, liệu chúng ta có thể phát động một chiến dịch giống như chiến dịch kêu gọi người Việt dùng hàng Việt, để tẩy chay hàng Trung Quốc, cho dù chúng ta vẫn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp của văn hóa Trung Quốc ?

TS Nguyễn Xuân Diện : Cách đây vài năm Bộ Chính trị đã phát động phong trào người Việt dùng hàng Việt. Lúc ấy báo chí cũng làm rùm beng một vài sự hưởng ứng đó. Nhưng bây giờ chuyện ấy đã chìm đi rồi. Người ta cũng không nghĩ đến chuyện giữ gìn những phong trào đó hay phát động một lần nữa.

Nhưng trong nhân dân, nhất là trong giới trẻ đã ngấm ngầm một phong trào muốn tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, trước hết là hàng thực phẩm và thuốc chữa bệnh, nhưng đó cũng chỉ là những phong trào tự phát, chứ không phải là được phát động sâu rộng, được truyền thông Nhà nước cổ vũ, khuyến khích.

Tôi nghĩ rằng nên khơi dậy một tinh thần dân tộc và một tinh thần bài Hoa đúng mức. Bài Hoa đây không phải là bác bỏ hết những gì có nguồn gốc từ Trung Quốc, một nền văn minh lớn của nhân loại. Nằm cạnh một nền văn minh lớn như thế, Việt Nam cần tiếp thu, thừa hưởng những giá trị văn hóa, những tác phẩm lớn của Trung Quốc mà đã mang tầm mức nhân loại.

Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải giới thiệu trong dân chúng, nhất là cho lớp trẻ, những nét đẹp của văn hóa Việt Nam, những giá trị thẩm mỹ thuần Việt, những tác phẩm văn học, mỹ thuật Việt Nam, những văn hóa chùa, làng...

Muốn đem lại một sự đề kháng đối với sự xâm lăng văn hóa của bên ngoài, thì trước hết cần phải khơi dậy, giáo dục sự hiểu biết cho lớp trẻ về văn hóa của cha ông. Trong mạnh, thì ngoài mới không xâm lăng vào được. Khi người ta yêu quý những nét văn hóa đẹp đó, thì người ta mới dốc sức gìn giữ nó, tạo nên một lớp áo giáp bảo vệ trước sự xâm lăng từ bên ngoài.

Mặc dù Việt Nam đã bị Trung Quốc đô hộ cả ngàn năm, liên miên bị Trung Quốc xâm lược như vậy, mặc dù người Trung Quốc đã truyền chữ Hán vào Việt Nam, thiết lập chế độ cai trị, áp đặt văn hóa lễ nghi, nhưng đã không thể đồng hóa Việt Nam.

Lý do là vì văn hóa Việt Nam trong mấy nghìn năm qua được dựa trên một nền tảng vững bền của văn hóa Việt gốc ở Đông Nam Á, mà điểm son mà văn hóa làng, chống lại được sự xâm lăng về mặt văn hóa, giữ được những giá trị văn hóa và chính những giá trị văn hóa đó trở lại làm nên sức mạnh của dân tộc, đánh thắng được những trận lừng lẫy trong lịch sử.

RFI : Xin cám ơn tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện.
Thanh Phương
Theo RFI

Sách giáo khoa vắng bóng Tướng Giáp


Báo chí trong nước nói sách giáo khoa 'bỏ quên' Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp không được nhắc đến trong sách giáo khoa (SGK) dành cho học sinh ở Việt Nam, theo truyền thông Việt Nam.

Phát hiện này dường như là bằng chứng cho thấy vị tướng huyền thoại đã có thời gian bị thất sủng, bất chấp các chiến công quân sự của ông.

Báo Thanh Niên cho biết ở SGK Lịch sử lớp 9, có nêu diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ nhưng “không câu từ nào nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.

SGK Lịch sử lớp 12, cũng trong phần nói về Điện Biên Phủ, “không một lần” nhắc tên vị tướng.

Bà Nguyễn Ái Hằng - nguyên Tổ trưởng bộ môn Sử, Trường THPT Trần Phú (Q.Tân Phú, TP.HCM) – nói: “Trong SGK lịch sử ở cấp 3, những bài chính đều không nhắc tới Đại tướng.”

“Ở những bài phần tham khảo, đọc thêm có thể hiện một số nhân vật lịch sử, nhưng cũng không có thông tin nào xoay quanh Đại tướng Võ Nguyên Giáp,” bà nói.

Cùng ngày 21/10, tờ PetroTimes cũng nói vị tướng lừng danh “không hề có mặt trong các sách giáo khoa (SGK) phổ thông”.

Tờ này dẫn lời Phó giáo sư Lê Mậu Hãn cho rằng đây là “một sai lầm rất lớn”.
“Sách giáo khoa sẽ được đổi mới vào năm 2015, đây là cơ hội tốt để các nhà viết sách lịch sử có thể sửa chữa sai lầm,” ông nhận định.

Sử gia Đinh Xuân Lâm, Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đồng tình rằng “việc này thể hiện sự thiếu tôn trọng lịch sử”.

Trong khi đó, một học sinh nói trên báo Thanh Niên: “Suốt 12 năm phổ thông, em không được học gì về Đại tướng. Đến khi Đại tướng mất, thông qua báo đài, em mới thật sự hiểu biết về cuộc đời của ông.”
(BBC)

Bão Nari ở miền trung: Nhiều dân đói khát, trực thăng cứu hộ không đến


Cư dân thu nhặt các vật dụng còn sót lại từ đóng đổ nát của nhà cửa sau trận bão Nari tại Đà Nẵng.

21.10.2013
Truyền thông trong nước cho hay nhiều nơi ở miền Trung, các nạn nhân trong trận bão Nari phải chịu cảnh đói khát giữa nước lũ trong nhiều ngày không được cứu hộ, tiếp tế lương thực vì đường sá bị ngập lụt, thiếu phương tiện vận chuyển.

Cô Dương là người tham gia công tác từ thiện của Hội thánh Tin lành Baptist Việt Nam-Nam Phương trong mấy ngày nay tìm cách đưa phẩm vật tiếp tế của giáo hội đến các vùng bị ảnh hưởng nặng nề tại Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Nam.

Cô Dương cho VOA Việt ngữ biết phái đoàn của cô cố gắng lắm cũng chỉ cứu trợ được cho các nơi  có thể đến được bằng thuyền, còn nhiều nơi xa xôi, hiểm trở hay bị nước xoáy, thì đành chịu thua, chỉ trông chờ sự giúp đỡ từ chính quyền với đầy đủ phương tiện hơn. Cô Dương nói:

“Bão lũ làm nhiều nơi bị ngập hết, có nhiều nhà tốc mái, sập, hay bị nước cuốn. Có nhà bị nước ngập lên tới phân nửa, nước lũ dâng lên đến 4 mét. Phương tiện di chuyển bây giờ mình cho ghe thuyền đến. Phía chính quyền, do nhiều nơi giao thông bị bế tắc, nước lũ cuốn hoặc nước xoáy, nên họ không đến kịp thời, dân rất khó khăn. Chúng tôi chỉ có thể đến thăm viếng, hỗ trợ những nơi thuận lợi thôi, còn những nơi khó khăn di chuyển thì mình cũng không đến được. Chính quyền họ có trách nhiệm lo cho từng địa phương.”

Bão lũ làm nhiều nơi bị ngập hết, có nhiều nhà tốc mái, sập, hay bị nước cuốn. Có nhà bị nước ngập lên tới phân nửa, nước lũ dâng lên đến 4 mét.
Người dân nhiều nơi bức xúc trước việc chính quyền không điều động trực thăng cứu hộ đến các khu vực đang bị cô lập giữa biển nước.

Trả lời VTC News về thắc mắc này, ông Phạm Lâm Hoàng, Trực ban Trung tâm quốc gia điều hành tìm kiếm cứu nạn thuộc Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn, giải thích vì địa phương thông báo vẫn kiểm soát được tình hình, chưa có ý kiến xin trợ giúp bằng trực thăng cứu hộ hay các phương tiện hỗ trợ cấp cao.

Ông Hoàng cũng cho biết thêm hiện người dân tại 5 xã ở huyện Lương Sơn (Hà Tĩnh) bao gồm Sơn Long, Sơn Mỹ, Sơn Trà, Sơn An, và Sơn Tiến dân đang bị chìm trong lũ, dưới mực nước gần 1 mét, không có lương thực và nước uống.

Tuy nhiên, theo lời ông, vẫn chưa nhận được đơn xin ứng cứu từ lãnh đạo các địa phương cho nên trực thăng tiếp tế chưa được điều động để cứu trợ nạn nhân thiên tai. Giới chức này không cho biết các phương án hỗ trợ cụ thể sẽ như thế nào ngoài việc nhấn mạnh ‘trực thăng cứu hộ phải xuất phát từ nhu cầu, mong muốn của địa phương’.

Ông Hoàng nói tính tới nay, ít nhất có 21 người thiệt mạng vì bão lũ do Nari gây ra. Hiện còn 5 người mất tích. Số bị thương lên tới hàng trăm nạn nhân. Ngoài ra, hàng trăm căn nhà bị sập, hơn 31 ngàn nhà cử bị hư hại, tốc mái. Hàng chục ngàn nhà cửa bị ngập chìm. Hàng ngàn diện tích nuôi trồng, mùa màng bị tàn phá nặng nề. Thiệt hại kinh tế ước tính lên tới cả ngàn tỷ đồng.

Giới hữu trách cho hay hơn 130 ngàn cư dân các tỉnh miền Trung đã được sơ tán tránh bão.
Trà Mi-VOA
 

Hà Huy Toàn - Quyền dân sự chính trị vẫn xa lạ với xã hội ta

(Trả lời bài của Vĩnh An: “Quyền dân sự chính trị không xa lạ với xã hội ta” trên Báo Quân đội Nhân dân điện tử)


Công ước Quốc tế Về các Quyền Dân sự Và Chính trị (Anh văn: International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt: ICCPR) đã được thông qua vào năm 1966 bởi Đại Hội đồng Liên hiệp Quốc khẳng định mỗi cá nhân phải có đầy đủ tất cả các quyền dân sự và chính trị, trong đó bao gồm các quyền: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do bầu cử, tự do ứng cử, biểu tình ôn hòa, v. v.. Công ước này đòi hỏi phải có pháp luật cùng với cơ chế tương ứng mới có thể được thực thi nghiêm túc.

Pháp luật là những quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung đối với mọi cá nhân cấu thành xã hội được quy định đồng thời được bảo đảm thực hiện bởi nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật làm cho nó cũng chỉ có thể tồn tại được bằng pháp luật.
Như trên đã nói, pháp luật đòi hỏi phải có cơ chế tương ứng mới có thể tồn tại được. Cơ chế đó chính là nhà nước pháp quyền. Nhà nước này phải làm điều kiện cho pháp luật tồn tại.
Pháp luật đòi hỏi nhà nước pháp quyền phải dựa trên ba thiết chế cơ bản: 
1/ Quy chế phân lập tam quyền, theo đó nhà nước pháp quyền phải được phân chia độc lập về nhân sự thành ba cơ quan khác nhau để thực hiện ba loại quyền lực tương ứng: cơ quan lập pháp thực hiện quyền lực lập pháp, cơ quan hành pháp thực hiện quyền lực hành pháp và cơ quan tư pháp thực hiện quyền lực tư pháp; sự phân chia quyền lực như vậy làm cho các nhà cầm quyền không thể lạm dụng được quyền lực nhà nước. 
2/ Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng, theo đó nhà nước pháp quyền phải bị kiểm sát chặt chẽ bởi nhiều tổ chức độc lập để ngăn ngừa các điều luật bất công dẫn đến tai hoạ cho dân chúng, cũng như phương tiện giao thông phải có phanh hãm thật tốt để phòng tránh tai nạn giao thông
3/ Chế độ bầu cử tự do, theo đó mọi cá nhân đều phải được tham gia lựa chọn những người có cả tài năng lẫn đức hạnh làm người lãnh đạo đồng thời cũng đều phải được ứng cử làm người lãnh đạo, nhưng chỉ được ứng cử vào một trong ba cơ quan khác nhau: lập pháphành pháp và tư pháp, nếu ứng cử vào cơ quan này thì không được ứng cử vào hai cơ quan kia hoặc nếu đắc cử vào cơ quan này thì phải từ bỏ chức vụ ở hai cơ quan kia để người đắc cử chỉ nắm được một trong ba loại quyền lực khác nhau: lập pháphành pháp và tư pháp
Quy chế phân lập tam quyền ngăn ngừa được các nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực nhà nước. Nguyên tắc đa nguyên bình đẳng bảo đảm cho nhân dân làm chủ được các nhà cầm quyền. Chế độ bầu cử tự do làm cho nhà nước pháp quyền phải phụ thuộc vào nhân dân mà phục vụ nhân dân.
Ba thiết chế đó bổ sung cho nhau đồng thời cùng nhau bảo tồn pháp luật làm cho nhà nước pháp quyền trở thành nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Với ba thiết chế đó, nhà nước pháp quyền bảo đảm cho Công ước Quốc tế Về các Quyền Dân sự Và Chính trị được thực thi nghiêm túc.
Nhiều quốc gia khác nhau trên khắp thế giới đã ký kết tham gia Công ước Quốc tế Về các Quyền Dân sự Và Chính trị. Tuy nhiên chỉ những quốc gia nào đã có nhà nước pháp quyền mới có thể thực thi nghiêm túc công ước này. Còn lại các quốc gia khác cho dù cũng đã ký kết tham gia với thái độ trân trọng khi trân trọng ghi nhận công ước này, nhưng vì chưa có nhà nước pháp quyền nên sẽ khó hoặc thậm chí không thể thực thi nghiêm túc công ước này. Cần nhớ rằng trân trọng ghi nhận khác hẳn với nghiêm túc thực thi. Đối với các quốc gia đó, trân trọng ghi nhận là một chuyện, nhưng nghiêm túc thực thi lại là chuyện khác. Trân trọng ghi nhận có thể không bao hàm nghiêm túc thực thi nhưng nghiêm túc thực thi nhất định phải bao hàm cả trân trọng ghi nhận.
Việt Nam đã ký kết tham gia Công ước Quốc tế Về các Quyền Dân sự Và Chính trị vào năm 1982 nhưng thật đáng tiếc, vì vẫn chưa có nhà nước pháp quyền mà mới chỉ đang phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên Việt nam mới chỉ trân trọng ghi nhận mà chưa thể nghiêm túc thực thi công ước này.
Cái vẫn được gọi là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về thực chất chỉ là nhà nước toàn trị, trong đó Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện đối với xã hội về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa – tư tưởng, v. v.. Trong một thời gian dài, nhà nước này đã được gọi đích danh là nền Chuyên chính Vô sản, trong đó “Chuyên chính” được chuyển dịch lắt léo từ “Dictatorship”, có nghĩa là Độc tài.  Chỉ đến khi thấy nền Chuyên chính Vô sản tan rã hàng loạt tại Đông Âu châu,  Đảng Cộng sản Việt Nam mới thay đổi tên gọi cho nhà nước toàn trị tại Việt Nam để che giấu bản chất thật sự cho nhà nước này.
Ở nước Đức từ năm 1933 đến năm 1945 cũng có nhà nước toàn trị, trong đó Đảng Quốc gia Xã hội (Đảng Quốc – Xã) lãnh đạo toàn diện đối với nước Đức về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa – tư tưởng, v. v.. Mặt trận Lao động Đức làm cánh tay nối dài cho Đảng Quốc gia Xã hội, tương tự Mặt trận Tổ quốc Việt nam làm cánh tay nối dài cho Đảng Cộng sản ở Việt nam hiện nay cũng như Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân làm cánh tay nối dài cho Đảng Cộng sản ở Trung quốc hiện nay. Tên gọi cũng như ý thức hệ có thể khác nhau nhưng hệ quả tất yếu lại không khác nhau bao nhiêu. Chính Friedrich August von Hayek (1899 – 1992), một trong các nhà tư tưởng lớn nhất thế giới trong thế kỷ XX, đã chứng minh được rõ ràng như vậy bằng lập luận khoa học (1).
Tương tự như nước Đức Fascist (1933 – 1945), nước Việt nam Cộng sản (từ năm 1954 đến nay) cũng có Hiến pháp nhưng Hiến pháp được làm ra bởi nhà nước toàn trị, tức là Hiến pháp Chuyên chế, lại chứa đầy mâu thuẫn loại trừ làm cho Hiến pháp đó trở thành Hiến pháp Giả ngụy mà không trở thành Hiến pháp Chân chính. Trong Hiến pháp Giả ngụy luôn luôn có sự xung đột giữa các điều luật công bằng với các điều luật bất công: nếu các điều luật này mà có hiệu lực thì các điều luật kia nhất định phải vô hiệu lực, hoặc ngược lại. 
Ví dụ Hiến pháp 1992 có nhiều điều luật công bằng (Điều 2, Điều 52, Điều 69, v. v.) đã bị loại trừ hoặc đã bị vô hiệu hóa bởi các điều luật không công bằng hoặc các điều luật chưa công bằng mà điển hình nhất phải thuộc về Điều 4. Điều luật này có nghĩa là chỉ những người nào làm thành viên của Đảng Cộng sản Việt nam mới có thể được đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước, làm cho cả ba quyền lực khác nhau: lập pháphành pháp và tư pháp, đều được tập trung cả vào một số ít người nào đó có chung cả quyền lợi lẫn ý đồ. 
Vào thế kỷ XVIII, triết gia chính trị người Pháp: Charles de Secondat Montesquieu (1689 – 1755) đã chứng minh được rằng: “Nếu một người hoặc một tổ chức của quan chức hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng mà nắm luôn cả ba quyền lực khác nhau (lập pháp, hành pháp và tư pháp) thì tất cả sẽ mất hết” (2). Chính vì tập trung quyền lực như vậy nên Điều 4 không công bằng, đã loại trừ hoặc đã vô hiệu hóa tất cả các điều luật công bằng trong Hiến pháp 1992, như Điều 2, Điều 52, Điều 69, v. v.. Chính vì chỉ có nhà nước toàn trị được xác nhận rõ ràng bởi Hiến pháp 1992 quy định công khai tại Điều 4 nên xã hội ta vẫn xa lạ với các quyền dân sự chính trị. Chính vì vẫn xa lạ với các quyền dân sự chính trị nên xã hội ta chưa có xã hội dân sự theo đúng ý nghĩa đích thực cho khái niệm đó. Đây không phải là lỗi của riêng Đảng Cộng sản Việt nam, mà là lỗi của Văn hóa Chính trị tại Việt nam. Đảng Cộng sản Việt nam có thể chỉ khai thác lỗi của Văn hóa Chính trị tại Việt nam để kiểm soát đất nước Việt nam mà thôi.
Theo cách hiểu đúng đắn, xã hội dân sự là tập hợp các tổ chức tự nguyện hoạt động độc lập với chính quyền để vừa hợp tác với chính quyền vừa đấu tranh với chính quyền nhằm thăng tiến lợi ích chung: hợp tác với chính quyền để thực hiện các chính sách đúng đắn nhưng đấu tranh với chính quyền để ngăn chặn hoặc vô hiệu hóa các chính sách sai lầm. Các tổ chức này có đặc tính quan trọng nhất là độc lập với chính quyền. Phải độc lập với chính quyền mới có thể hợp tác với chính quyền; cũng như vậy, phải độc lập với chính quyền mới có thể đấu tranh với chính quyền. Tất nhiên, vì nhằm thăng tiến lợi ích chung (cả lợi ích của chính quyền lẫn lợi ích của dân chúng) nên khi đấu tranh nhất thiết phải không dùng bạo lực (bất bạo động) mà phải dùng các phương tiện nhân đạo theo các phương pháp nhân đạo, vì ai cũng có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, nên khi đấu tranh nhất thiết phải không dùng bạo lực (bất bạo động) mà phải dùng các phương tiện hữu ích theo các phương pháp hữu ích, vì cá nhân nào cũng muốn bảo tồn sự sống cho mình nên khi đấu tranh nhất thiết phải không dùng bạo lực (bất bạo động) mà cần phải tôn trọng đối thủ để sao cho tất cả các bên tranh chấp cùng thắng mà không bên nào bị thua (cả người đấu tranh lẫn người bị đấu tranh đều thắng mà không người nào bị thua). Đó chính là nguyên tắc cùng thắng. Nguyên tắc này cho phép tất cả các bên tranh chấp đều có thể biến kẻ thù thành bạn hữu hoặc biến đối thủ thành đối tác. Nguyên tắc cùng thắng cần phải được lấy làm nguyên tắc nền tảng cho chính trị hiện đại, trong đó bao gồm cả xã hội dân sự.
Một tổ chức xã hội phải có cả hai mặt thống nhất với nhau như vậy (vừa hợp tác với chính quyền để thực hiện các chính sách đúng đắn vừa đấu tranh với chính quyền để ngăn chặn hoặc vô hiệu hóa các chính sách sai lầm) mới có thể được coi là một tổ chức dân sự để có thể tham gia cấu thành xã hội dân sự. Để tránh mọi hiểu lầm, cần phải xác quyết rõ ràng rằng xã hội dân sự chỉ có thể độc lập với chính quyền mà tuyệt đối không thể đối lập với chính quyền. Chính quyền không có bất cứ lý do gì để lo sợ xã hội dân sự. Theo ý nghĩa đó, Việt nam hiện nay vẫn chưa có xã hội dân sự theo đúng nghĩa mà mới chỉ có một cái gì đó có cái vẻ bề ngoài giống xã hội dân sự mà thôi.
Trong một bài viết được đăng tải trên Báo Quân đội Nhân dân – phiên bản điện tử: Quyền dân sự chính trị không xa lạ với xã hội ta, nhằm dè bỉu Diễn đàn Xã hội Dân sự, tác giả Vĩnh An cho rằng tính tự nguyện và tự quản là tiêu chí chủ yếu của các tổ chức dân sự. Tại sao chỉ nói đến tiêu chí chủ yếu của các tổ chức dân sự mà không đề cập đặc tính quan trọng nhất của các tổ chức đó ? Thật ra, tự nguyện cũng như tự quản đều có hai kiểu đối lập nhau: tự nguyện theo kiểu lệ thuộc đối lập với tự nguyện theo kiểu độc lập, cũng như tự quản theo kiểu lệ thuộc đối lập với tự quản theo kiểu độc lập. Tại một đất nước được lãnh đạo toàn diện bởi nhà nước toàn trị như Việt Nam hiện nay, mọi tổ chức xã hội đều có thể tự nguyện và tự quản nhưng chỉ có thể tự nguyện và tự quản theo kiểu lệ thuộc mà thôi. Nhà nước toàn trị sẽ “bắt phong trầnphải phong trầncho phong lưumới được phần phong lưu”. Nếu tổ chức nào tự nguyện làm cánh tay nối dài cho nhà nước toàn trị kiểm soát xã hội thì tổ chức đó sẽ được tự quản để “được phong lưu” làm cho sự tự quản chỉ làm cái hình thức biểu hiện trái ngược cho sự lệ thuộc mà thôi. 
Chính tác giả Vĩnh An đã cho độc giả biết Việt nam hiện nay có rất nhiều tổ chức xã hội thuộc loại này: “Số lượng các tổ chức này đăng ký ở Trung ương và các tỉnhthành phố cho đến nay là rất lớncó thể lên đến hàng nghìn”. Nhưng vì chỉ có thể hợp tác với chính quyền nhằm thực hiện các chính sách đúng đắn mà không thể đấu tranh với chính quyền nhằm ngăn chặn hoặc vô hiệu hóa các chính sách sai lầm nên các tổ chức đó chưa đạt được những tiêu chuẩn vốn có cho xã hội dân sự. Nếu dựa vào “số lượng các tổ chức này đăng ký ở Trung ương và các tỉnhthành phố cho đến nay là rất lớncó thể lên đến hàng nghìn” để khẳng định rằng “quyền dân sự chính trị không xa lạ với xã hội ta” thì thật mơ hồ hoặc chỉ thể hiện nhận thức sai lạc về xã hội dân sự mà thôi. Ngược lại, nếu tổ chức nào không chịu tự nguyện làm cánh tay nối dài cho nhà nước toàn trị kiểm soát xã hội thì tổ chức đó sẽ khó tránh khỏi bị phong trần (bị theo dõi, bị sách nhiễu, bị đe dọa, v. v.) để rồi phải tự nguyện giải thể như IDS chẳng hạn. 
Việt nam hiện nay có thể cũng đã có một số ít tổ chức xã hội tương đối độc lập với chính quyền mà điển hình nhất có lẽ thuộc về Giáo hội Công giáo, nhưng thử hỏi rằng tổ chức đó đã phải chịu đựng bao nhiêu phong trần từ trước đến nay? Chưa kể những tai họa bất ngờ có thể giáng xuống bất cứ ai dám lên tiếng chỉ trích chính quyền về những chính sách sai lầm. Hiện thực này đã cho thấy rõ ràng quyền dân sự chính trị vẫn xa lạ với xã hội ta. Chính tác giả Vĩnh An đã tự phát xác nhận rõ ràng như vậy khi cho độc giả biết rằng: “Cho đến naychúng ta có 5 tổ chức chính trị – xã hộihoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Namđó là:Tổng Liên đoàn Lao động Việt namHội Nông dân Việt NamĐoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí MinhHội Liên hiệp Phụ nữ Việt NamHội Cựu Chiến binh Việt NamCác tổ chức chính trị – xã hội này là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt NamTuy những tổ chức này nằm trong hệ thống chính trịnhưng không phải là cơ quan chính quyềnmà là đại diện cho quyền lợi,tiếng nói của các giai tầng xã hộiKhác với những tổ chức Xã hội Dân sự nói trênnhững tổ chức này được sự giúp đỡ của Nhà nướcThiết nghĩ đây là một ưu việt của các tổ chức xã hội trong chế độ ta”!? 
Tác giả Vĩnh An quên rằng hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đương nhiên phải tuân thủ Đảng Cộng sản Việt nam; tuân thủ Đảng Cộng sản Việt nam chỉ chứng tỏ mình lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Việt Nam; lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Việt Nam ắt không thể trở thành xã hội dân sự. Nhất là lại được sự giúp đỡ của nhà nước sẽ lại càng dễ dàng bị lệ thuộc vào nhà nước. Thiết nghĩ, đây chính là khuyết nhược của cái có thể được gọi là “xã hội dân sự” tại Việt Nam hiện nay.
Phải thừa nhận rằng nhà nước toàn trị theo kiểu cộng sản tại Việt nam đã ghi nhận trân trọng các quyền dân sự chính trị cho nhân dân Việt Nam, nhưng vì ý thức hệ cùng với cơ cấu tổ chức đầy bất cập thể hiện rõ ràng ở việc tập trung quyền lực bằng Hiến pháp 1992 quy định công khai tại Điều 4 nên dù có thực tâm mong muốn cũng không thể thực thi nghiêm túc các quyền đó. Xin nhắc lại: ghi nhận trân trọng là một việc nhưng thực thi nghiêm túc lại là việc khác. Thành quả của cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Việt Nam mới chỉ là ghi nhận trân trọng các quyền đó thôi.
Hiện nay nhân dân Việt Nam được tiếp cận với nhiều thông tin khác nhau không phải nhờ xã hội dân sự, lại càng không phải nhờ Đảng Cộng sản Việt Nam, mà chủ yếu chỉ nhờ Cách mạng Công nghệ ở bên ngoài Việt Nam. Hiến pháp 1992 có điều 69 bị vô hiệu hóa bởi “quy định của pháp luật”, theo đó nếu không có một đạo luật cụ thể để thi hành điều luật đó thì điều luật đó sẽ chỉ có hiệu lực trên giấy tờ mà thôi.
Chính vì những điều luật đúng đắn trong Hiến pháp 1992 chưa được bảo đảm thi hành nghiêm túc nên xã hội ta đang đi nhanh đến sự bế tắc toàn diện, như Tuyên bố Về Thực thi Quyền Dân sự Và Chính trị đã chỉ ra: “Thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng;…”, rằng: “Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, …”. Nhận định như vậy rất khách quan, rất công bằng, rất ngay thẳng, đầy thiện chí và có trách nhiệm.
Tình trạng bế tắc ở nước ta hiện nay đang cần có lối thoát để thoát khỏi tình trạng đó. Một trong những lối thoát quan trọng nhất đã xuất hiện chính là Diễn đàn Xã hội Dân sự. Diễn đàn này ra đời hợp quy luật, lại hoạt động hợp pháp theo đúng Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng tại Điều 69. Nhưng vì Điều 69 bị vô hiệu hóa bởi “quy định của pháp luật” đồng thời lại bị vô hiệu hóa bởi Điều 4 nên diễn đàn này sẽ không tránh khỏi bị dè bỉu hoặc thậm chí còn có thể bị cản phá bởi việc “vận dụng” cả Điều 4 lẫn “quy định của pháp luật” mà tác giả Vĩnh An mới chỉ thể hiện được một phần nhỏ lẻ quá khiêm tốn. 
Tuy nhiên thời tiết sẽ tốt hơn sau bão tố, dân trí đang lên sẽ phát huy hiệu lực thực tế cho các điều luật đúng đắn trong Hiến pháp 1992, trong đó có Điều 69. Vì ra đời theo đúng quy luật đó nên nếu được định hướng tốt thì diễn đàn này sẽ đóng góp tích cực cho sự ổn định và phát triển của xã hội ta để trong tương lai gần, các quyền dân sự chính trị sẽ không còn xa lạ với xã hội ta nữa: tình tạng bế tắc có thể sẽ được khai thông bởi lối thoát này. Cũng cần phải khẳng định thêm rằng: nếu Diễn đàn Xã hội Dân sự mà hoạt động tốt thì chỉ những người nào có dã tâm chống phá đối với nước ta mới có thể tuyên truyền xuyên tạc nhằm bôi bẩn hoặc kích động chống phá diễn đàn này. Việc ngăn chặn lối thoát này sẽ chỉ làm cho tình trạng bế tắc càng trầm trọng thêm mà thôi. Các lực lượng tiến bộ cần phải cảnh giác cao độ với bất cứ người nào có dã tâm đó.
Thiết nghĩ nếu ai thật sự mong muốn góp phần giải thoát xã hội ta khỏi tình trạng bế tắc đang ngày càng trầm trọng thì hãy nên tham gia Diễn đàn Xã hội Dân sự “nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa” như Tuyên bố trên đã tuyên bố công khai như vậy. 
Cá nhân tôi chỉ muốn nói thêm rằng khi tham gia Diễn đàn Xã hội Dân sự, cần phải biết Đối thoại – Tương kính – Khoan dung. Chỉ đối thoại mà không đối đầu, không đối đầu mà chỉ đối thoại, chỉ đối thoại để tìm kiếm bằng được giải pháp đúng đắn cho tình trạng bế tắc ở nước ta hiện nay. Tương kính để xây dựng một quốc gia nhân bản trong đó mọi người tôn trọng lẫn nhau. Khoan dung cũng để xây dựng một quốc gia nhân bản trong đó mọi người yêu thương nhau như yêu thương chính mình. Vì ai cũng có thể sai lầm nên cần phải biết tương kính để tránh xung đột. Vì ai cũng có thể sai lầm nên cần phải biết khoan dung để xây dựng một xã hội nhân bản cho dân tộc ta. Với tinh thần đó, tôi nhiệt liệt hưởng ứng Diễn đàn Xã hội Dân sự. Nếu có thể được thì tôi sẽ tham gia diễn đàn này bằng cả lòng trắc ẩn lẫn tình yêu thương nhằm góp phần thay đổi Văn hóa Chính trị ở nước ta theo chiều hướng dân chủ hóa. 
Chúc Diễn đàn Xã hội Dân sự thành công rực rỡ!
Viết bài này, tôi chợt nhớ Cố Nhạc sỹ Phạm Duy nhắc nhở:
“… Việt nam không đòi xương máu
Việt nam kêu gọi thương nhau
Việt nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt nam trên đường tương lai,
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tình yêu đây là khí giới
Tình thương đem về muôn nơi
Việt nam đây tiếng nói đi xây tình người … ”
 
Kính mời Quý Độc giả thưởng thức tác phẩm trứ danh: “Việt namViệt nam” được sáng tác bởi thiên tài âm nhạc Phạm Duy để con tim cùng với khối óc luôn luôn hướng về Tổ quốc Việt nam !
Hà Huy Toàn 

-----------------------------
(1) Friedrich August von Hayek: Đường về Nô lệ. Nhà xuất bản Tri thức. Hà nội 2008 – 2009. Tác phẩm này đã trình bày chân thực sự tương đồng đến kinh ngạc về bản chất giữa chế độ cộng sản với chế độ fascist mặc dù chế độ fascist xung khắc kịch liệt với chế độ cộng sản về ý thức hệ như đã xảy ra trong Chiến tranh 1939 – 1945.
(2) Charles de Secondat Montesquieu: Tinh thần Pháp luật. Nhà xuất bản Lý luận Chính trị. Hà nội 2006, trang 106.
(Diễn đàn XHDS)

Quốc hội VN bắt đầu kỳ họp quan trọng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Thủ tướng Việt Nam báo cáo về tình hình đất nước với các đại biểu Quốc hội

Quốc hội Việt Nam khóa 13 đã khai mạc kỳ họp thứ 6 vào sáng thứ Hai ngày 21/10, một kỳ họp giải quyết nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước.

Đây cũng được cho là kỳ họp dài nhất trong toàn khóa kéo dài đến hết tháng 11.

Dự kiến, trong kỳ họp này, Quốc hội sẽ thông qua bản Hiến pháp mới trên cơ sở sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thông qua Luật Đất đai sửa đổi và bổ nhiệm hai phó thủ tướng mới.

Ngoài ra, các đại biểu Quốc hội cũng thông qua kế hoạch kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách cho năm 2014.

‘Kinh tế phục hồi’

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đăng đàn trong phiên khai mạc sáng 21/10 để báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội của đất nước.

Bản tin của Thông tấn xã Việt Nam đưa tin về bài phát biểu này của ông Dũng với dòng tít: “Nền kinh tế đang trên đà phục hồi”.

Hãng tin nhà nước dẫn lời ông Dũng cho biết đã ‘đạt 11 chỉ tiêu’ trong tổng số 15 chỉ tiêu do Quốc hội đề ra cho năm 2013, trong đó có kiềm chế lạm phát.
Riêng phần không đạt kế hoạch có các chỉ tiêu quan trọng như tốc độ tăng trưởng kinh tế và bội chi ngân sách.

Thủ tướng Dũng được dẫn lời cho biết ‘GDP cả năm 2013 tăng khoảng 5,4% so với năm 2012’ và cao hơn mức 5,25% của năm trước.

Riêng về lạm phát, ông Dũng dự báo mức lạm phát cho cả năm 2013 sẽ vào khoảng 7%.

Ông đề nghị Quốc hội nới trần bội chi ngân sách cho năm nay từ 4,8 lên 5,3% GDP, tức cho phép chi thêm 20.000 tỷ đồng, tương đương gần 1 tỷ Mỹ kim.

Mục tiêu tổng thể cho năm sau, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam xác định là vẫn tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, giúp các doanh nghiệp hồi phục và tái cơ cấu kinh tế.

Bản báo cáo này của ông Dũng được cho là đã được Quốc hội, thông qua ông Nguyễn Văn Giàu, chủ nhiệm Ủy ban kinh tế, tán thành trong báo cáo thẩm tra sau đó.

Trước đó, trong lời khai mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng cho rằng tình hình kinh tế-xã hội đất nước ‘đã có chuyển biến tích cực, đúng hướng trên hầu hết các lĩnh vực’, theo tường thuật của truyền thông trong nước.

Thông qua Hiến pháp

Cũng trong phiên họp sáng nay, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng đăng đàn trên tư cách mới là chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc. Ông báo cáo tổng hợp ý kiến của cử tri cả nước.

Ông Nhân sẽ được Quốc hội miễn nhiệm chức vụ phó thủ tướng trong kỳ họp này.
Kỳ họp này diễn ra chưa đầy hai tuần lễ sau khi Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị 8 mà trong đó Đảng đã quyết định sẽ thông qua Hiến pháp.

Cho nên, việc các đại biểu Quốc hội thông qua bản Dự thảo Hiến pháp này chỉ còn là vấn đề thủ tục mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi và phản đối.

Bản tin trên trang chủ Quốc hội cho biết trong kỳ họp này sẽ ‘dành thời gian thích đáng để thảo luận dân chủ, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao với tinh thần chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân’ để ‘giải trình đầy đủ, thuyết phục những vấn đề đặt ra.

Trong chương trình họp của Quốc hội, dự kiến các đại biểu sẽ tập trung bàn về ‘những vấn đề còn ý kiến khác nhau đang nổi lên’ của Hiến pháp.
(BBC)

Thư gửi các đại biểu QH của Nhà báo Thái Duy: Chống tham nhũng, chống tận gốc

Thưa quý vị đại biểu!
Ngày 6-1-2005, hội nghị toàn quốc về nâng cao hiệu quả đầu tư họp tại Hà Nội. Trao đổi với một số nhà báo về chống tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, ông Võ Hồng Phúc, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch – Đầu tư đã nói:
"Chính phủ đã thấy rất rõ việc chấm dứt tình trạng "khép kín”, trong đầu tư xây dựng cơ bản là vấn đề cấp bách, cần làm ngay vì nó gây tác hại rất lớn. Sân vận động quốc gia Mỹ Đình là một kinh nghiệm đau đớn của chúng ta khi những sai phạm có một phần quan trọng là do tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát và các đơn vị thi công gần như có cùng một gốc. Hay ví dụ như các công trình của Bộ Giao thông - Vận tải, hiện tại gần như khép kín hoàn toàn từ khâu khảo sát thiết kế cho đến đấu thầu, thi công, giám sát. Chủ đầu tư cũng là Bộ Giao thông - Vận tải và những gì bên trong có ai biết đâu. Kể cả chuyện đấu thầu, tuy nói là đấu thầu rộng rãi nhưng có nhà thầu nào bên ngoài "chen” vào được, tập trung chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp thuộc Bộ Giao thông - Vận tải”.
Không phải chỉ có Bộ Giao thông - Vận tải, hầu hết các bộ cùng UBND các tỉnh, thành phố, có nơi kể cả huyện đều có tình trạng "khép kín”, vì vừa quản lý nhà nước lại vừa quản lý hàng trăm doanh nghiệp nhà nước dưới quyền còn được gọi là "cái sân sau” của lãnh đạo bộ và UBND các cấp. "Khép kín” nào cũng từ A đến Z, từ quy hoạch, quyết định đầu tư đến đấu thầu, thi công, tư vấn, giám sát… đều nằm trong vòng tròn một bộ, một ngành không ai giám sát được, một thứ siêu quyền lực đặc quyền, đặc lợi hết sức tệ hại, sản sinh ra những tỷ phú có chức có quyền. Ai cũng biết nơi nào "khép kín” đều là hang ổ của tham nhũng, tổn thất chúng gây ra hết sức nặng nề. Vừa đá bóng vừa thổi còi, không tham nhũng mới lạ, nhiều trường hợp người vay ngân hàng còn được gợi ý nên vay thêm vì ngân hàng cho vay càng nhiều thì nơi ký giấy, nơi vay tiền và nơi cho vay càng có nhiều "phần trăm” trích từ số tiền cho vay để chia nhau. Tham nhũng quá dễ dàng, lại phổ biến, năm này qua năm khác đều chót lọt vì không có trách nhiệm cá nhân. Việc Chính phủ công khai trên báo chí, đòi hỏi phải xóa bỏ "khép kín” càng sớm càng tốt, đã được đông đảo nhân dân rất đồng tình nhưng các bộ, ngành và cấp hành chính địa phương không chấp hành. "Khép kín” vẫn tồn tại vững chắc hơn bao giờ hết mặc dù Chính phủ rất muốn xóa bỏ, như Bộ trưởng Võ Hồng Phúc đã nói với báo chí về "khép kín”: "Những gì bên trong có ai biết đâu”.
Nhà báo Thái Duy, tác giả cuốn: " Sống như anh"
Tám năm sau, ngày 23-9-2013, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch – Đầu tư lúc này là ông Bùi Quang Vinh trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội Dự án Luật Đầu tư công nhằm hạn chế những tổn thất rất lớn do đầu tư dàn trải, tràn lan suốt hàng chục năm qua, đặc biệt Dự án Luật Đầu tư đề cao trách nhiệm cá nhân, quy định xử lý trách nhiệm người quyết định đầu tư sai, quyết định đầu tư kém hiệu quả. Ông nêu ví dụ, có địa phương làm dự án thủy lợi lúc đầu vẽ ra là tưới tiêu cho 1.000 hecta, mỗi hecta đầu tư hai tỷ đồng, tổng vốn đầu tư là 2.000 tỷ đồng, thế nhưng khi hoàn thành thì chỉ tưới tiêu được có 500 hecta, tổng vốn đầu tư vẫn là 2.000 tỷ đồng, vậy là mất 1.000 tỷ đồng vào đâu? Ngân sách nhà nước mất lớn như thế nhưng không có một lãnh đạo nào ở trung ương và địa phương chịu trách nhiệm cá nhân, tất cả chỉ vì nguyên nhân rất chung chung "tại thiết kế sai”. Ông Bùi Quang Vinh còn nói đến đường ven biển miền Trung xây dựng rất tốn kém không có người sử dụng, Thủ tướng cũng rất bức xúc về những con đường miền núi rộng 60, 70 mét vô cùng lãng phí, lãnh đạo tỉnh thích làm cho hoành tráng, thiếu tiền xin Trung ương, lãnh đạo gây ra lãng phí, không có cá nhân nào chịu trách nhiệm. Lại còn chợ dân sinh làm xong không có người đến buôn bán, trung tâm thương mại cửa khẩu làm xong bỏ hoang nhưng lãng phí hàng trăm tỷ đồng kèm theo tham nhũng không có lãnh đạo nào chịu trách nhiệm cá nhân. Nghe ông Bùi Quang Vinh nói đến nguồn vốn đầu tư mới đáng sợ, có dự án vốn đầu tư phải mấy chục ngàn tỷ đồng, một khoản tiền ngân sách cực lớn, chưa rõ sẽ lấy đâu ra tiền nhưng một số lãnh đạo, như ông Bùi Quang Vinh nói "quyết định một phát xong ngay”. Rồi sau đó đi vào xây dựng thiếu tiền phải lao theo, vẽ đường ra để "chạy” và mỗi khi cạn tiền, chưa xin được Trung ương, lại "treo” dự án, 10, 15 năm dự án vẫn chưa làm xong, tốn tiền ngân sách không sao kể xiết, thế nhưng mấy lãnh đạo đã "quyết định một phát xong ngay” chẳng có ai chịu trách nhiệm cá nhân, họ vẫn an toàn tại chức, vẫn lên lương, lên chức để tiếp tục phá hoại đất nước.
Thưa quý vị đại biểu
Xin được trình bày với quý vị phát biểu của hai Bộ trưởng Bộ Kế hoạch – Đầu tư, cách nhau 8 năm để thấy ta chống tham nhũng liên tục, kiên trì nhưng vẫn chỉ chống trên ngọn. Chống tham nhũng không có trách nhiệm cá nhân thì chống ai, không có con người cụ thể và chức vụ rõ ràng thì tất nhiên ta càng chống nhưng tham nhũng càng mạnh vì những người chịu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng lại vẫn an toàn tại chức, chỗ dựa của tham nhũng lại không ai dám đụng chạm quyền lực dần dần lặng lẽ vào tay tham nhũng, cái mất này mới thực sự đáng sợ khi thế lực của tham nhũng được củng cố từ bên trên. Ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính trung ương đã nói: "Giá trị căn nhà 10 tỷ đồng lại nâng lên thành 70 tỷ, 80 tỷ rồi nâng lên đến 100 tỷ,ông vay cũng tranh thủ kiếm chác rồi cho lại ông cho vay, hai bên đều có lợi, chỉ chết dân và nhà nước. Ở các nước không có chuyện dễ dãi thế được, đi tù ngay”.
Một số nước giàu có hơn ta, trình độ mọi mặt bỏ xa ta, đều giống nhau ở một điểm: Kỷ cương phép nước rất nghiêm gắn liền với trách nhiệm cá nhân, bất cứ tiêu cực lớn nào xảy ra tức khắc có từ chức hoặc bị cách chức vì tội thuộc lãnh đạo nào rất minh bạch, chi li, không thể dựa dẫm vào nhau để trách nhiệm chia cho mỗi lãnh đạo một ít, cuối cùng là "hòa cả làng” như xảy ra đã thành nếp quen ở Nhà nước ta hàng chục năm qua. Quốc hội nước họ có thực quyền, dân được làm chủ thực sự. Các quan chức giữ bất cứ chức vụ gì gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước khoảng 5.000 USD là phải từ chức hoặc bị cách chức, nếu không Quốc hội sẽ có ý kiến, còn ở nước ta nhiều lãnh đạo gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước vài vạn USD, có nơi vài chục vạn USD cũng vẫn đường hoàng tại chức. Gây tổn thất cho ngân sách "phá kỷ lục” như Vinashin, thua lỗ, nợ nần đến 4 tỷ USD, tiếp theo là Vinaline, chỉ có những người đứng đầu hai tập đoàn này chịu trách nhiệm cá nhân là cực kỳ phi lý. Chỉ riêng họ không thể gây thua lỗ, nợ nần khủng khiếp đến như thế. Nguồn gốc của thua lỗ nợ nần còn từ sự quản lý kém cỏi của cấp bộ và còn cao hơn, từ cơ quan chủ quản, chưa nói thiếu hẳn sự sâu sát cần thiết của bên trên, tạo nên những sơ hở để tham nhũng sinh sôi nảy nở. Dương Chí Dũng đứng đầu Tập đoàn Vinaline chỉ tham nhũng trong một vụ mua ụ nổi 83M đã lấy của ngân sách nhà nước 1 triệu 666 nghìn USD để mua nhà cho "bạn gái” và con riêng. Người lãnh đạo Vinaline từ bên trên, trực tiếp quản lý Dương Chí Dũng có chịu trách nhiệm gì không khi nguồn vốn khổng lồ của cả một Tập đoàn lại giao cho một tên trùm tham nhũng làm chủ. Không thể không đặt câu hỏi: Hiện còn bao nhiêu Dương Chí Dũng chưa lộ mặt, đang được giao cho hàng trăm nghìn tỷ đồng với hy vọng biến doanh nghiệp nhà nước thành "quả đấm thép”?
Đông đảo cử tri cả nước đều kỳ vọng vào Quốc hội, rất mong quý vị chống tham nhũng mạnh hơn, trúng hơn, chống tận gốc, đòi hỏi những người đứng đầu, những người lãnh đạo bộ, ngành và địa phương để xảy ra tham nhũng phải chịu trách nhiệm cá nhân, phải biết tự xử, biết từ chức. Nhiều lãnh đạo vô tình hay cố ý không thấy mình mắc tội nặng lại cho là không hề dính líu đến một đồng tham nhũng nên tưởng mình trong sạch. Những lãnh đạo quan liêu này nếu sâu sát cơ sở, theo dõi thường xuyên mọi hoạt động của đơn vị, tổ chức dưới quyền thì nếu có xảy ra tham nhũng cũng không thể trầm trọng, gây tổn thất hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng. Sự quan tâm đặc biệt của quý vị đến trách nhiệm cá nhân của lãnh đạo bộ, ngành và địa phương để xảy ra tham nhũng chắc chắn sẽ góp phần quyết định đẩy lùi tham nhũng vì chống tận gốc, chống quan liêu vốn là chỗ dựa "lý tưởng” của tham nhũng. Hồ Chủ tịch coi quan liêu nguy hiểm như tham nhũng, quan liêu và tham nhũng đều là "nội xâm”, là "giặc ở trong lòng”. Người đã căn dặn "Quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”- Hồ Chí Minh toàn tập – Tập 6 – Trang 484. Mấy chục năm qua ta rất coi nhẹ chống quan liêu, biểu hiện cụ thể ở trách nhiệm cá nhân không có. Trong dân từ lâu vẫn bàn tán "chống tham nhũng càng lên trên càng không có trách nhiệm cá nhân thì chẳng khác gì đấm vào không khí”. Cắt đứt mọi quan hệ của tham nhũng với quan liêu, tham nhũng bị cô lập, hiện nguyên hình ngay. Muốn chống tham nhũng có kết quả như mong muốn, trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Đến bao giờ chúng ta mới thực hiện nghiêm chỉnh lời căn dặn vô cùng quan trọng này của Hồ Chủ tịch.
Chỉ có sức mạnh của nhân dân, thông qua Quốc hội, thông qua các đại biểu dân bầu mới có thể thúc đẩy mạnh mẽ lãnh đạo trung ương rời bỏ tháp ngà, sát cánh cùng quần chúng nhân dân, cán bộ trong cuộc đấu tranh một mất, một còn chống tham nhũng. Trách nhiệm của quý vị vô cùng nặng nề trước vận mệnh của dân tộc vì mọi quyền lực nhân dân đã trao cho quý vị, chẳng lẽ chịu lùi mãi trước bè lũ tham nhũng và nếu còn chậm trễ sẽ không còn chỗ để lùi.
Xin gửi quý vị lời chào trân trọng.
Thái Duy
 

Quốc hội cuối 2013: “Sở hữu đất đai” có mảy may tiến hóa?


Nếu “sở hữu đất đai toàn dân” vẫn chưa có gì tiến hóa trong kỳ họp quốc hội cuối năm 2013, các nhóm lợi ích vẫn ung dung trục lợi với sự “bảo kê” mới từ bản tân Hiến pháp về cơ chế thu hồi đất.
Viên mãn

Sau khi hội nghị trung ương 8 vào tháng 10/2013 của Đảng cầm quyền viên mãn, hầu như không có hy vọng nào cho một tư duy tiến hóa hơn về quyền sở hữu đất đai của người dân.

Giờ đây và là lần thứ hai trong năm 2013, các đại biểu quốc hội lại có cơ hội “sôi nổi góp ý” về bản hiến pháp đã được tu chỉnh không ít lần về một chủ đề hầu như đã được mặc định trong những chính kiến được bắt vít với điều 4 hiến pháp.

Nhưng khác hẳn với kỳ họp quốc hội vào giữa năm 2013, vào lần này người vừa đưa ra tuyên bố “Cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp” dường như tỏ ra quyết tâm hơn nhiều đối với việc Hiến pháp phải được chính thức thông qua vào cuối năm nay.

Và có lẽ quyết tâm tân trang hiến pháp của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng liên quan phần nào đến hiện tượng vắng bóng cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm trong đảng tại hội nghị trung ương 8, cho dù từ quý đầu năm nay ông Trọng đã tỏ ra bức xúc về vấn đề này như một nhiệm vụ then chốt của các “đày tớ”.

Nếu Hiến pháp mới vẫn được sao y trọn vẹn tinh thần của “bản gốc” năm 1992, tất nhiên sẽ chẳng có một cuộc đổi thay tinh thần nào cho người dân, cho dù từ đầu năm 2013 đến nay đã có quá nhiều và quá đủ ý kiến từ dân chúng cho rằng nhân dân phải có quyền định đoạt - sở hữu về mảnh đất của chính mình, chứ không thể mãi mãi chỉ vay mượn khái niệm “quyền sử dụng” - một cái cớ để bất cứ một nhóm lợi ích nào cũng có thể lợi dụng nhằm đẩy đuổi dân ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn.
Thụt lùi

Cần nhắc lại, ngay trước kỳ họp quốc hội giữa năm 2013, Chính phủ đã gửi đến Ủy ban thường vụ quốc hội một đề xuất rất đáng quan tâm: “Việc thu hồi đất chỉ được thực hiện trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp Nhà nước thu hồi đất của các tổ chức, cá nhân vì lý do “các dự án phát triển kinh tế xã hội””.

Cho tới thời điểm trên, việc giải quyết khiếu tố đất đai vẫn hết sức nóng bỏng ở Việt Nam, với khoảng 80% đơn thư khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai và hơn 70% trong số đơn thư đó nhằm tố cáo rất nhiều sai phạm của các chính quyền địa phương về công tác bồi thường, cưỡng chế giải tỏa, tái định cư…

Ngược chiều với tuyên ngôn “công an và thanh tra là bạn của dân”, nhiều vụ khiếu kiện đất đai đã bị quy chụp cho cái mũ “tụ tập mang màu sắc chính trị” và đã bị đàn áp nặng nề.

Thế nhưng trong một kỳ họp mà giới quan sát mô tả là có đến hàng trăm nghị sĩ bị “thoái khẩu”, vẫn không có một cải cách xứng đáng nào được đưa ra liên quan đến Luật đất đai. Trái ngược với mong mỏi của người dân về quyền sở hữu đất cần được quy định trong luật, dự thảo hiến pháp vẫn cho rằng: vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên không đặt vấn đề trưng mua vì tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu; đặc biệt là vẫn thu hồi đất đối với các dự án kinh tế xã hội.

Song tiếng nói người dân ngoài nghị trường lại vang dội: nếu không đưa đất đai về đúng bản chất thật của nó là quyền sở hữu của nhân dân và pháp luật vẫn tạo điều kiện cho những chủ đầu tư phát huy một cách quyết liệt lòng tham của họ, rất nhiều bất công vô lối vẫn sẽ xảy ra với người dân bị thu hồi đất, sẽ còn nhiều cuộc khiếu tố đông người và biểu tình bùng nổ ở nhiều địa phương trong cả nước.

Trong tận cùng tâm não của mình, dường như Đảng và Quốc hội vẫn chưa nhận ra những sự kiện Ô Khảm ở Trung Quốc vào cuối năm 2011 và Tiên Lãng ở Việt Nam vào đầu năm 2012 đã có thể quá đủ để cấu thành một bài học nhãn tiền cho những gì có tính quả báo thời nay.

Thậm chí vào trung tuần tháng 3/2013, trong một tư duy không thể hoang tưởng hơn, phó chủ nhiệm Ủy ban khoa học công nghệ và môi trường của Quốc hội là ông  Phan Xuân Dũng đã đề một “phát kiến”: “Cần có quy định bắt buộc người khiếu nại tố cáo ứng ra một khoản tiền đặt cọc. Thua thì coi như mất tiền đặt cọc, còn kiện đúng thì tiền cọc mới được nhà nước hoàn trả”.

Chưa bao giờ từ năm 1990 đến nay, Quốc hội lại mang dấu ấn thụt lùi đến mức như thế khi đối diện với dân sinh, dân oan và với chính mình.
Tự xử

Ngoài những nội dung khá mờ nhạt trong thông báo kết luận sau hội nghị trung ương 8 vào tháng 10/2013, có lẽ dấu ấn duy nhất lại thuộc về một sự “hiệp thông” nào đó giữa nhóm “cương lĩnh đảng cao hơn hiến pháp” với những người điều hành bánh xe của hiến pháp. Trong không khí đồng thuận đáng ngạc nhiên về đánh giá “nền kinh tế vẫn tiếp tục ổn định và phát triển”, không có bất kỳ nội dung nào được nhấn mạnh về thảm cảnh lợi dụng thu hồi đất để trục lợi đã tràn ngập ở các tỉnh thành và tạo nên vô số dân oan khiếu kiện.

Bối cảnh kỳ họp quốc hội vào cuối năm 2013 lại khác khá nhiều với thời điểm giữa năm. Vào tháng 9/2013, trong lúc 7 đoàn kiểm tra chống tham nhũng của Đảng vẫn chưa phác ra bất kỳ manh mối nào về kết quả “vi hành”, Thái Bình đã một lần nữa, sau “cách mạng” 1997, nổ ra hành vi nông dân Đặng Ngọc Viết xả súng giết chết vài cán bộ của Trung tâm quản lý quỹ đất của tỉnh này. Vụ việc chưa từng có ấy đã lập tức gây chấn động trong toàn bộ hệ thống công quyền và buộc các thành viên của Ủy ban thường vụ quốc hội một lần nữa phải thảng thốt về đường lối “tự xử” của dân chúng.

Vẫn là nguồn gốc đền bù thiếu thỏa đáng, vẫn là cách hành xử vô cảm và vô tâm của giới quan chức, cùng thói quen sẵn sàng dùng “công an trị” để xử lý tình huống bất mãn của dân chúng mà đã đẩy không ít dân oan vào thế cùng tắc biến.

Sau một năm rưỡi kể từ vụ dùng súng hoa cải và mìn tự tạo “chống người thi hành công vụ” của gia đình Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, câu chuyện Đặng Ngọc Viết đã “nâng lên một tầm cao mới” với tâm thế chủ động trả thù đối tượng cưỡng chế. Đó cũng là một dạng không thể đặc biệt hơn trong tâm lý “hồi tố” của dân chúng đối với chính quyền - tiền đề mà rất có thể sẽ dẫn tới những xung đột với quy mô ghê gớm hơn nhiều trong tương lai không xa.

Tuy nhiên, quán tính rung đùi vẫn chưa thể tiến hóa từ hội nghị trung ương 4 về ‘”chỉnh đảng” cho đến nay. Dù nhấn mạnh về “bất ổn xã hội”, nhưng áng văn của những bản thông báo kết luận hội nghị vẫn không toát lên bất cứ can đảm cải chính nào đối với dân chúng, chưa nói đến việc sửa sai.


Xuống hố

Không khí trì trệ không chỉ não trạng mà cả hành vi trong Đảng càng khiến cho các nhóm lợi ích thừa cơ tung hoành. Vào đầu tháng 10/2013, hàng loạt vụ cưỡng chế đã dồn dập xảy ra ở Văn Giang thuộc Hưng Yên và Trịnh Nguyễn thuộc Bắc Ninh. Không chỉ hiện diện sắc phục công an, hình ảnh tái hiện của những nhóm côn đồ càng khiến lớp dân oan sôi máu.

Những vụ việc thu hồi đất bất chấp đạo lý như thế lẽ ra đã “thành công tốt đẹp” - cụm từ thường thấy mỗi khi kết thúc một hội nghị quan trọng nào đó trong nội bộ, nếu không nổi lên cơn bão “quyết tử giữ đất” của người dân địa phương.

Những cuộc cưỡng chế trên lại xảy ra chỉ ít ngày sau chuyến công du đối ngoại của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Paris và New York, với bài phát biểu của ông Dũng được báo đảng tôn vinh là “rất nhân văn”.

Vậy quan điểm của Chính phủ - cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp về quản lý đất đai cùng vô số hậu quả từ thực trạng thu hồi đất vô lối và bất công từ nhiều năm qua - như thế nào?

Khác hẳn với kỳ họp quốc hội giữa năm nay, vào lần này đã không có bất cứ đề xuất nào của Chính phủ về Luật đất đai và những vấn đề liên quan. Động cơ này dường như chẳng ăn nhập gì với một khẩu hiệu mà giới lãnh đạo hành pháp giương lên vào trước kỳ họp quốc hội giữa năm nay “Quyền phúc quyết thuộc về nhân dân”.

Ngay cả hiện tồn quá hỗn độn và gây tranh cãi diện rộng từ giữa năm về chuyện có thu hồi đất đối với các dự án kinh tế - xã hội hay không cũng không hề được giới quan chức chính phủ đả động.

Với không khí bùng nhùng thiên về “hiệp thông chính trị” trong nội bộ, có lẽ không quá khó để hình dung chủ đề “sở hữu đất đai toàn dân” vẫn chưa có gì tiến hóa trong kỳ họp quốc hội cuối năm 2013, nhân dân các địa phương và ngay tại Hà Nội vẫn chỉ có thể vay mượn “quyền sử dụng “ trên chính mảnh đất cha ông của mình. Còn các nhóm lợi ích vẫn ung dung với sự “bảo kê” mới từ bản tân Hiến pháp về cơ chế thu hồi đất.

Người dân Việt đang tự hỏi sẽ còn xảy ra bao nhiêu vụ Đoàn Văn Vươn và Đặng Ngọc Viết nữa ở nông thôn miền Bắc và dắt dây vào khu vực miền Trung và Nam bộ.

Tất cả cứ như cùng dắt tay nhau xuống hố…
 
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA
Phạm Chí Dũng gửi RFA từ Việt Nam
2013-10-21

Nhật Lệ - Cụ "Tổng" lại nhầm và mâu thuẫn với chính mình rồi

Tham nhũng, lãng phí đã trở thành căn bệnh trầm kha, không chỉ cản trở mà còn triệt tiêu hết động lực của sự phát triển; không chỉ nhức nhối, khó chịu, phản cảm mà còn làm băng hoại thuần phong, mỹ tục, đảo lộn các chuẩn mực đạo đức xã hội, khiến văn hoá suy đồi. Văn hoá – Nền tảng tinh thần của mọi sự phát triển mà suy đồi, xuống cấp thì thử hỏi nước Việt rồi sẽ về đâu trước những biến thiên của lịch sử.

Nói vậy để thấy mức độ tàn phá khủng khiếp của tham nhũng, lãng phí do một bộ phận không nhỏ có chức, có quyền, là đảng viên Đảng Cộng sản (đương nhiên rồi) gây ra. Ấy thế nhưng từ nhận thức đến hành động của những người có trách nhiệm lại thiếu nhất quán, lúng túng và hoàn toàn bất lực trước nạn nội xâm này.

Còn nhớ, tại các cuộc tiếp xúc cử tri mới đây, Đại biểu Quốc hội, Giáo sư Nguyễn Phú Trọng lại ví von: “Tham nhũng lớn cũng có, tham nhũng nhỏ cũng có như ngứa ghẻ, rất khó chịu”.

Đây là cách ví von rất không ổn, nếu không muốn nói là nhầm lẫn. Tham nhũng, lãng phí nguy hiểm gấp bội lần. Ghẻ chỉ là bệnh ngoài da, rất dễ chữa. Thậm chí, trong dân gian, nếu nhà nghèo, không có tiền mua thuốc có thể dùng “dầu luyn” bôi cũng có thể khỏi!. Còn tham nhũng lãng phí thì hết ngày dài lại đêm thâu, hết nghị quyết này đến nghị quyết khác, hết cuộc vận động này, đến cuộc vận động khác dù vô cùng tốn công sức, tiền của nhưng lạ thay, càng hô hào, càng quyết liệt phòng, chống thì bệnh lại càng quyết liệt trầm kha như thách thức, như trêu ngươi cả hệ thống chính trị.


Cũng tại các buổi tiếp xúc cử tri, ĐBQH, Giáo sư Trọng còn bộc bạch ông có thể nói hàng mấy tiếng đồng hồ về tham nhũng và lợi ích nhóm… Người viết trộm nghĩ, không hiểu giáo sư Trọng sẽ bàn về điều gì ? Phải chăng (lại phải chăng!) là về thực trạng tham nhũng lãng phí và những kết quả đạt được trong phòng chống tham nhũng, lãng phí thời gian qua ? Nếu thế thì quả thật không cần thiết vì giáo sư có nói bao nhiêu thời gian đi nữa cũng không đủ đầy bằng báo cáo của Tổng kiểm toán Nhà nước, Tổng Thanh tra Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội…Dù rằng, các báo cáo nói trên vẫn chỉ là một nửa của sự thật, vẫn là phần nổi của tảng băng chìm tham nhũng lãng phí. Chỉ có tai mắt nhân dân, chỉ có công luận mới là người am tường chân tơ, kẽ tóc, mới biết được đường đi lối về của tham nhũng lãng phí. Tiếc thay, hoặc là ý kiến của nhân dân không được lắng nghe một cách thực tâm để xem xét, xử lý một cách rốt ráo theo đúng các quy định của pháp luật; hoặc là nhân dân mất hết niềm tin do thói nói một đằng làm một nẻo của các cấp lãnh đạo trong phòng chống tham nhũng, lãng phí…; hoặc là nhân dân dù căm phẫn cùng cực trước những hành vi ăn cướp của một bộ phận không nhỏ nhưng chưa đứng lên tố cáo vì còn thiếu một nhân tố cốt lõi: Tính dân chủ công khai trong đời sống xã hội và cơ chế bảo vệ người tố cáo.

Giáo sư Trọng cũng đã rất bức xúc trước vấn nạn lợi ích nhóm và đã cố gắng trìu tượng hoá “một bộ phận không nhỏ”. Nhưng khi nghe Giáo sư thông báo rằng hầu hết nhân dân nhất trí kinh tế nhà nước vẫn là chủ đạo trong sửa đổi hiến pháp tới đây thì người viết lại thấy giáo sư đang mâu thuẫn với chính mình. Thật vậy, Giáo sư Trọng cũng như các đại biểu quốc hội Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng đi đâu cũng đề nghị “người ta” coi mình là kinh tế thị trường, tại sao lại đi “xin” những thứ mà hoàn toàn trong một thời gian ngắn ta có thể làm được. Xấu hổ chết đi được, như thể là giáo sư, tiến sĩ xin đặc cách nợ bằng này, chứng chỉ nọ vậy. Chủ đạo của kinh tế nhà nước thì hiểu thế nào cho đúng khi hàng ngày hàng giờ đang phơi ra những quả đấm thép, chủ đạo trong ăn cắp, trong lợi ích nhóm và lãng phí vô tội vạ. Các đại biểu quốc hội thực hiện chức trách của mình thế nào mà lại để EVN – Chủ đạo của chủ đạo, nòng cốt của nòng cốt đưa cả biệt thự, bể bơi, sân tennis vào giá điện; Chủ tịch và Tổng Giám đốc EVN mua xe gấp 2,5 lần quy định, trong lúc đất nước đang kiệt quệ, nhân dân lầm than, hàng nghìn, hàng vạn cháu nhỏ đang đói rách cơ hàn, vẫn hàng ngày nhai khoai sắn với muối…Dĩ công vi thượng là thế phải không, an sinh xã hội là thế phải không ?
Khi đánh giá về tình hình kinh tế xã hội, giáo sư Trọng cũng lại cực kỳ mâu thuẫn. Giáo sư cho rằng tuỳ vào cách nhìn để đánh giá, rằng phải biện chứng…Theo cách nhìn của Giáo sư thì khó khăn chỉ là tạm thời, bằng chứng là các chỉ tiêu do Đại hội XI, cũng như Quốc hội đề ra hàng năm đều đạt khá…GDP thì thế này, ổn định kinh tế vĩ mô thì thế này, lạm phát thì thế này…Thưa giáo sư, ĐBQH Nguyễn Phú Trọng, nó mâu thuẫn ở chỗ, giáo sư nói phải biện chứng khi đánh giá nhưng thật ra giáo sư lại rất siêu hình. Đồng ý là có nhiều cách nhìn để đánh giá tình hình kinh tế xã hội, nhưng dù nhìn thế nào thì cũng phải dựa trên những chuẩn mực nhất định. Giáo sư là nhà khoa học về Xây dựng Đảng, có thể không có điều kiện chuyên sâu. Nhưng có thể nói, với tất cả lòng kính trọng, xin thưa với Giáo sư, từ trước đến nay và từ nay về sau, khi đánh giá tình hình KTXH, dù đứng ở góc nào thì cũng phải hết sức quan tâm đến mức tăng của Năng suất lao động, mức tiết kiệm trong tiêu hao vật chất trên một đơn vị sản phẩm; tính hợp lý trong phân bổ, sử dụng nguồn lực quốc gia, không cần biết ai là chủ đạo mà chỉ nhằm mục tiêu tạo ra thật nhiều của cải đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Ngoài ra khi đánh giá KTXH còn căn cứ vào sự công bằng trong phạm vi có thể mức độ thụ hưởng thành quả phát triển của các tầng lớp nhân dân, sự hài lòng của của xã hội…Chỉ như vậy thôi cũng đủ thấy tình hình đang không ổn. Hãy nghe Ông Vương Đình Huệ thốt lên đầy kinh ngạc: “Không biết GDP chạy đi đâu…”để thấy những thống kê về GDP, về lạm phát vừa qua cũng lại có vấn đề. Rồi thì vấn đề nợ xấu ngân hàng, đến nay vẫn mờ mờ, ảo ảo, không biết chính xác bao nhiêu để có cách giải quyết chính xác; vấn đề Bất động sản đang góp phần làm tê liệt nền kinh tế; vấn đề Doanh nghiệp nhà nước lãng phí, tham nhũng, lợi ích nhóm chưa cách gì khắc phục được; vấn đề tranh chấp đất đai và được mùa rớt giá của nông dân…Toàn những vấn đề gai góc và sống còn cả.

Trả lời cử tri về việc nhất thể hoá chức danh Tổng Bí thư và Chủ tịch nước trong sửa đổi hiến pháp tới đây, Giáo sư, ĐBQH Nguyễn Phú Trọng đã có những lo lắng rất chân thành, đại ý, cần bàn tiếp vì nếu chọn đúng người thì phúc cho đất nước nhưng chọn sai người thì hiểm hoạ là khôn lường. Điều đó đúng nhưng người viết rất băn khoăn vì Giáo sư thẳng thừng bác bỏ “tam quyền phân lập”. Trong khi có đến 99,99% những người mà người viết quen đều cho rằng nếu có tam quyền phân lập thì lo lắng của Giáo sư Trọng coi như đã được giải quyết!.

Không ai nghi ngờ về sự nghiêm túc, thẳng thắn, chân thành của Giáo sư, ĐBQH Nguyễn Phú Trọng khi gặp gỡ cử tri. Tuy vậy, nhiều lúc người viết vẫn thấy có gì đấy như là sự thiếu tôn trọng cử toạ của Giáo sư. Đó chính là sự mâu thuẫn, thiếu lôgich và không tương xứng với tư cách là bậc thầy của phép duy vật biện chứng. Phải chăng là khi ta 20 thì muốn làm gì được nấy, muốn nói gì trúng phóc cái đấy, còn khi ta mấy 20 thì làm gì cũng khó…Đáng tiếc, thời gian cứ vô tình, chẳng đợi ai và cũng chẳng đợi dân tộc nào…

Nhân đây, cũng xin được nhắc lại một vài phát biểu của các vị công bộc của dân mà có thể nói là rất thiểu suy nghĩ nhưng lại thừa …”thiểu năng trí tuệ”: 1. Nộp phí đường bộ (cao) là yêu nước. 2. Đồ sơn và Quất lâm không có mại dâm. 3. Cứ thấy tăng giá là phản đối thì khó phát triển lắm. 4. Quá trình bổ nhiệm Ông Dương Chí Dũng là đúng quy trình. 5. Mua xe vượt tiêu chuẩn và xây biệt thự, bể bơi…là việc làm nhân văn…Và còn nhiều nữa.

Liệu nhân dân có thể trông cậy gì vào những vị công bộc này đây ? Họ hoặc là đang sống ở thế giới khác, tự nhiên về đây họp hành, chỉ đạo nên quên mất vẫn nói theo thế giới mà họ sống hoặc là họ đang sống cùng nhân dân nhưng họ không hiểu biết gì, thư ký cho gì đọc nấy. Thế thì làm sao mà lãnh đạo ?. Thật gay lắm thay.
  Nhật Lệ
 

Mỗi người Việt nam gánh hơn 851 USD nợ công

DSC07378

Đồng hồ nợ công thế giới (The global debt clock) trên trang The Economist.com hôm qua 21.10 điểm nợ công của VN đạt mức 76,706 tỉ USD, chiếm 48,6% GDP.
Tính trên dân số 90,1 triệu người, thì mỗi người VN gánh 851,48 USD nợ công. Vào tháng 7 vừa qua, trung bình mỗi người gánh 826,4 USD nợ công, khi đó nợ công VN ở mức 74,294 tỉ USD. Còn hồi tháng 1, nợ công tính trên đầu người là 787,9 USD với tổng nợ công 70,576 tỉ USD, chiếm 49,5% GDP của VN.
Tuy nhiên, đồng hồ nợ công VN vẫn giữ ở tông màu cam nhạt, thể hiện mức độ nhẹ hơn các nước có tông màu đỏ như Mỹ, Trung Quốc, Úc, Pháp, Ấn Độ, Nhật Bản… Ở Đông Nam Á, nợ công chiếm trên 50% GDP có Thái Lan, Malaysia, trong khi Indonesia chỉ chiếm 25,1%. Tổng nợ công toàn cầu hiện ở mức 51.815 tỉ USD.
(Thanh Niên)

Ai ăn mặn- ai khát nước?

Kim Dung

Tác giả: Ts. Tô Văn Trường
KD: Ts. Tô Văn Trường là một nhà khoa học tâm huyết, và rất am hiểu về các vấn đề xung quanh ODA. Đó là miếng bánh ngọt kèm vị đắng, nhất là với những nước nghèo, mà tham nhũng còn là “quốc nạn”.

Có một thành ngữ mới, nghe đắng và xóc hơn: “Đời cha ăn mặn, con khát nước, cháu đi tiểu nhiều”

Cảm ơn Ts Tô Văn Trường.
————-
Có chuyên gia, nói thẳng với tôi nguyên văn như sau: “Đố anh tìm đâu ra một dự án nào dám vỗ ngực khẳng định “không lại quả” trong cơ chế này đấy! Cứ có 01 dự án, dù bé bằng móng tay thôi, thì cũng có hàng chục cửa phải đi qua để “kính thưa, kính gửi” rồi.
Trăn trở, nhìn  lại lịch sử thăng trầm của đất nước qua nhiều giai đoạn, chỉ có thể dùng khái niệm “vận nước” thuyết nhân quả, duyên sinh, duyên diệt để lý giải về các tác động của nó  đến người dân trong xã hội. Khi con người bị đốt cháy bởi khát vọng quyền lực và danh vọng tiền tài thì vô cùng nguy hiểm cho xã hội.
Nợ công- báo động đỏ
“Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Đây là cách nói của ông cha ta về cái sự đời “có vay, có trả”. Tuy nhiên, ở đây “kẻ ăn mặn” lại là những nhóm lợi ích thiểu số chẳng có dây mơ, rễ má gì đến đa số dân chúng cần lao, mà con cháu đa số này phải chịu “khát nước”, tức là phải è cổ ra trả nợ cho nhóm lợi ích thiểu số bất chính kia. 
Giá như con cháu nhóm lợi ích thiểu số ấy phải trả nợ, phải chịu “khát nước” thì lại đi một nhẽ! Mà chắc chắn lúc ấy có đi truy lùng con cháu nhóm lợi ích để bắt chúng trả nợ thì cũng như “mò kim đáy bể”, bởi  với biết bao của cải mà cha ông chúng  đã vơ vét, bây giờ đã yên ổn ở những chân trời xa tít tắp với những tài khoản khổng lồ gửi ở ngân hàng  và những khoản đầu tư  vào các lĩnh vực thời thượng của cơ chế thị trường.
mexico-1369648977_500x0.jpg
 Mexico vỡ nợ mở màn cho cuộc khủng hoảng tại Mỹ Latin thập niên 80. Ảnh: CNN
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế chưa biết lúc nào sẽ… đến đáy, dù có vênh nhau về số liệu do các nguyên nhân về kỹ thuật, không theo chuẩn quốc tế và giả dối, thì đều đi đến  kết luận chung: Nợ công ở nước ta đã đến mức “báo động đỏ”!
Ngoài các nguyên nhân yếu kém do quản trị, chủ trương đầu tư sai lầm vào nhiều lĩnh vực không hiệu quả, còn do các nhóm lợi ích bất chính, tư duy nhiệm kỳ, tranh thủ vơ vét và cố gắng che chắn sao cho hạ cánh được an toàn.
Miếng  pho mát cho không chỉ là miếng pho mát “bẫy chuột” 
Đối với nước nghèo, chậm phát triển, nguồn vốn ODA cho vay dài hạn với lãi xuất ưu đãi là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế rất quan trọng. Nhiều công trình hạ tầng cơ sở của Việt Nam đã “thay da, đổi thịt” nhờ nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, mặt trái của ODA cũng chứa đựng những cơ hội làm ăn khuất tất.
ODA của bất cứ nước nào thì họ cũng đều đòi hỏi phải ưu tiên (có khi bắt buộc) dùng chuyên gia, nguyên vật liệu của họ. Người Pháp có câu nói nổi tiếng “Miếng  pho mát cho không chỉ là miếng pho mát bẫy chuột”. Tôi đã viết nhiều bài về ‘lợi bất cập hại” khi sử dụng nguồn vốn ODA chính là vùng nguy hiểm, thiếu trí thức nhất, cho nên càng sớm độc lập, tự chủ, đủ sức loại bỏ ODA, càng có lợi cho đất nước. 
Nhân dân ta không bao giờ quên sự ủng hộ chí tình, có hiệu quả của Chính phủ và nhân dân Nhật Bản trong công cuộc tái thiết đất nước, và hiện nay cũng là nước thật lòng ủng hộ ta trong  tranh chấp ở biển Đông.
Do nguồn tài trợ ODA của Nhật Bản là song phương lớn nhất đối với nước ta, cho nên bài viết này tập trung phân tích ODA của Nhật. Theo một chuyên gia là Việt kiều nhiều năm sống và làm việc trên đất Nhật Bản cho biết, một trong những vấn đề nổi cộm trong viện trợ ODA của Chính phủ Nhật Bản bị dư luận trong và ngoài nước Nhật phê phán vào những năm 70 của thế kỷ trước, khi các tập đoàn của Nhật Bản cấu kết để dành các hợp đồng béo bở như dự án xây dựng cơ sở hạ tầng (sân bay, bến cảng, đường cao tốc…),  …trong chương trình viện trợ, thực chất là cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi có điều kiện, ưu tiên cho tập đoàn của nước này trong việc thực thi.
Vì vậy, trước khi kí văn kiện thỏa thuận vay vốn ODA cho một công trình nào đó, người soạn thảo dự án của phía Nhật tổ chức  điều tra cơ bản để xác nhận các điều kiện (kỹ thuật lẫn tài chính) của dự án, là các đội quân chuyên môn của những tập đoàn này dưới danh nghĩa “tư vấn” (consulting)  mà chi phí này thuộc viên trợ không hoàn lại (Grant Element)  để làm phương án tiền khả thi nắm bắt và chuẩn bị tham gia “đấu thầu” các dự án do chính họ soạn sẵn, bảo đảm phần thắng về các công ty Nhật Bản.
Các chính trị gia Nhật Bản (nghị sĩ quốc hội)  là người đứng sau thúc đẩy chính phủ phê duyệt dự án ODA với những khoản tiền thù lao kếch sù núp dưới dạng “hiến kim chính trị” (ủng hộ bằng tiền cho hoạt động chính trị—Seijikenkin)  trong những lần bầu cử. Khi thắng thầu một dự án ODA, các nhà xây dựng sẽ liên kết thành một nhóm để thực hiện như chúng ta đã thấy qua liên danh Taisei-Kajima-Nippon Steel (TKN)  trong dự án xây dựng cầu Cần Thơ hay một liên danh tương tự xây đường hầm qua Thủ thiêm ở Tp. HCM vì lý do đó.
Hơn thế nữa, liên danh tập đoàn công nghiệp hay xây dựng Nhật Bản còn cấu kết với quan chức nước sở tại để thực hiện đề án ngay từ đầu và cả trong quá trình thi công. Người ta cho rằng 1/3 viện trợ ODA của Nhật Bản đã vào tay chính quyền Marcos ở Philippines hay chính quyền Suharto ở Indonesia trong những thập kỷ trước, khi người dân nước này phát hiện đã có hàng trăm triệu đến tỷ đô la của họ nằm ở ngân hàng Thụy Sĩ hay bất động sản tại Mỹ khi các chính quyền này sụp đổ.
Cơ cấu nối kết quyền lợi này mang tính tổ chức rất cao, gồm tham nhũng nước sở tại-liên danh tập đoàn-chính trị gia chạy dự án và thực tế đó đã phơi bày qua nhiều dự án mà chính phủ Nhật Bản đã thực hiện ở một số nước. Vì vậy trong xã hội Nhật Bản,  nhiều nhân vật trí thức có lương tâm và đông đảo nhân dân đòi hỏi Chính phủ phải hạn chế và loại trừ kiểu làm ăn nuôi dưỡng tiêu cực này, xem đó là một nạn tham nhũng có tổ chức (Kozô Oshoku).
Vì tất cả tiền dùng cho ODA là của nhân dân Nhật Bản đóng góp thông qua việc nộp thuế và sẽ được các nước nhận ODA thanh toán lại, vì vậy không có lý do gì 1/3 số tiền khổng lồ lại lọt vào kiềm tỏa của “Himotsuki enjyoo” (viện trợ giật dây) để làm giàu cho ba thành phần trong mỗi dự án quốc gia.
Điển hình lãng phí, không hiệu quả
Nhiều dự án sử dụng nguồn vốn ODA có vấn đề như dự án điện của TKV (Na Dương, Cao Ngạn, Cẩm Phả). Chính phủ, đăc biệt là Bộ Giao thông Vận tải làm sao có thể giải thích cho người dân hiểu vì lý do gì mà  dự án giao thông ở Việt Nam có suất đầu tư quá cao so  với các nước giàu có như Mỹ, Hàn Quốc? Mà ngay cả các nước đang phát triển như Trung Quốc,  Thailand, Malaysia, trong khi lương của kỹ sư Việt Nam chỉ bằng 5 -20%  lương kỹ sư Mỹ, Hàn Quốc, 30-40%  lương kỹ sư Trung Quốc, giá vật liệu thì đều theo giá quốc tế.
Đơn cử như  Dự án cao tốc Bến Lức -Long Thành, 58 km, có 02 cầu lớn, nhiều cầu nhỏ: giá 1,6 tỷ USD nay tính lại lên đến 2,2 tỷ USD. Đến nỗi Bộ GTVT yêu cầu chuyển một số đoạn từ cầu cạn (viaduct) thành nền đắp đất (embankment) để không tăng quá 1,6 -1,7 tỷ đô la.
Dự toán dự án Metro Hà Nội 03  tuyến Tây Tựu đến ga Hàng Cỏ chỉ 12 km, trong đó chỉ 4,0 km ngầm (từ Thủ Lệ đến Ga), 8,0 km nổi (chạy như đường trên cao trên khoảng không của đường Tây Tựu- Cầu Giấy – Kim Mã (giải phóng mặt bằng ít) mà giá trên 900 triệu USD (khoảng 75 triệu/km dài). Metro ở TP HCM giá cũng tương tự (cũng chỉ ngầm 30-35%). Với gíá này thì khi nào và tiền đâu để làm hệ thống metro trên 100 km như Pusan Hàn Quốc (chưa nói các thành phố lớn hơn).  
Giá nhà ga T2 – Nội Bài 900 triệu USD (cao gấp 03 ga quốc tế TSN nhưng công suất chỉ gấp 1,5 lần). Tôi đã hỏi nhiều tư vấn giao thông nước ngoài kể cả các vị tham gia các dự án này, họ đều lè lưỡi vì “suất đầu tư” trên đơn vị km hoặc hành khách này. 
Có chuyên gia, nói thẳng với tôi nguyên văn như sau: “Đố anh tìm đâu ra một dự án nào dám vỗ ngực khẳng định “không lại quả” trong cơ chế này đấy! Cứ có 01 dự án, dù bé bằng móng tay thôi, thì cũng có hàng chục cửa phải đi qua để “kính thưa, kính gửi” rồi. 
Cảng tỷ đô Lạch Huyện và cầu Tân Vũ
Dự  án Cảng tỷ đô Lạch Huyện trở thành điểm nóng trong dư luận cả nước thời gian qua, nhất là ngày chủ nhật 14/4/2013 đã chính thức khởi công trong bối cảnh ngổn ngang nhiều bất cập chưa được giải quyết.
Hội Xây dựng trực thuộc Liên hiệp Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) là tổ chức đầu tiên quan tâm phản biện dự án cảng Lạch Huyện. Trong quá trình tham vấn, lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải 04 lần thúc ép, thuyết phục lãnh đạo Hội Xây dựng ký công văn xác định cảng Lạch Huyện là công trình “cấp bách”!?.
Sau đó,  lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự định tổ chức Hội thảo về cảng Lạch Huyện theo đúng chức năng giám sát và phản biện nhưng lãnh đạo Bộ GTVT lại khuyến cáo… “không nên làm”!?
Ngay cả các thành viên trong Hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường  (ĐTM) của dự án cũng không thể hiểu nổi vì sao 20 câu hỏi liên quan của Hội đồng chưa được chủ đầu tư và tư vấn JICA (Nhật Bản) giải đáp theo đúng quy định. Nhưng đã được Bộ Tài nguyên & Môi trường vì sức ép của ai mà “lặng lẽ” cấp tốc phê duyệt trước Tết nguyên đán vừa qua với tốc độ chóng mặt!?
Doanh nghiệp nói gà-Bộ trưởng nói vịt
Theo quy định của Nghị quyết 49/2010/QH 12 ngày 19/6/2010 của Quốc hội đối với các dự án, công trình quan trọng quốc gia phải trình Quốc hội xin ý kiến chủ trương đầu tư. Để ”lách luật”, Bộ GTVT đã ”khôn ngoan” tách dự án cầu Tân Vũ- Lạch Huyện do Tổng cục Đường bộ quản lý nguồn vốn. Trong thực tế, dự án cầu Tân Vũ- Lạch Huyện là tuyến đường kết nối cảng cửa ngõ này, với đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, là hợp phần cầu đường của Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng Cảng Lạch Huyện. Do đó, tổng số vốn cho dự án cảng Lạch Huyện đã vượt trên 40 ngàn tỷ đồng.
Báo Lao Động ngày 2/10 đăng bài về Dự án xây dựng cầu Tân Vũ- Lạch Huyện “Bộ trưởng có định thách đố doanh nghiệp” của tác giả Hà Linh Quân. Bài báo phản ánh ông Tạ Quyết Thắng, Tổng Giám đốc Công TNHH Sơn Trường, một doanh nghiệp thành đạt,  am hiểu thực tế, tâm huyết với vận nước gửi thư đến lãnh đạo Nhà nước đề nghị xem xét, điều chỉnh giảm nhiệm vụ thiết kế. Cụ thể là hạ thấp bớt các chỉ tiêu yêu cầu về tĩnh không thông thuyền, sử dụng nguyên vật liệu trong nước, không sử dụng vốn ODA của Nhật  Bản sẽ tiết kiệm kinh phí từ trên 11 nghìn tỷ đồng xuống  dưới 1000 tỷ đồng.
Ý tưởng này sẽ do công ty tư vấn của Mỹ thiết kế,  nếu vượt quá con số 1000 tỷ đồng thì Tổng Công ty Sơn Trường sẽ chi trả. Bài báo đã phân tích phản ánh lãnh đạo Bộ GTVT thể hiện “văn hóa lắng nghe” hoặc do lý do nào đó, đã  cố tình đánh đố doanh nghiệp theo kiểu “ông nói gà, bà nói vịt”, vì đã dám thò “mũi vào”  dự tính đã được duyệt của Bộ!? 
Nếú đọc kỹ, ngẫm suy Quyết định 1438/QĐ/TTg ngày 03 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng về phê duyệt quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải thành phố Hải Phòng đến năm 2025 đề cấp đến nối kết với tuyến đường sắt thì cầu Tân Vũ phải thay đổi lại các chỉ tiêu thiết kế.
Tín hiệu mới rà soát lại các dự án ODA
Thực tế cho thấy nhiều dự án ODA  đưa ra các giải pháp tốn kém, vô lý, không cần thiết và đắt gấp 3- 4 lần giải pháp kỹ thuật của Việt Nam. Nhiều nhà cán bộ quản lý, lãnh đạo lại không có đủ kiến thức, kỹ năng để lựa chọn, lại sợ mất tiền cho vay, nên  vội vàng chiều theo ý của tư vấn quốc tế.
Một tín hiệu vui, tại phiên họp Chính phủ tháng 09 mới đây, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao vai trò của nguồn vốn ODA với Việt Nam, song khẳng định Việt Nam sẵn sàng trả lại một số dự án nếu không phù hợp, hoặc chưa cần thiết.  Thực tế, nhiều địa phương cứ nghe có dự án vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là “vơ vào”, trong lúc có những dự án giá rất đắt, nhưng hiệu quả cầm chừng.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu cần phải tính hiệu quả và rà soát lại các dự án, chứ “không phải cứ ODA là nhận hết”.  Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng cho rằng có nhiều dự án ODA đắt và áp những tiêu chuẩn của nước ngoài quá cao dẫn đến khó thực thi tại Việt Nam, nếu cứ vay như vậy Việt Nam sẽ phải chịu nợ lớn. Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam đồng tình cho rằng không phải cứ cho ODA là nhận với bất kỳ dự án nào, nếu dự án đó không hiệu quả vv…
Thay cho lời kết
Nếu không thay đổi tư duy trong quản trị  và cải cách đầu tư công thì chắc chắn chúng ta sẽ còn ngụp lặn trong vũng bùn của nợ nần và đói nghèo. Bọn tham nhũng, những con sâu quyền lực và các nhóm lợi ích bất chính đang hoành hành, đúng như một số vị lãnh đạo cấp cao đã phát biểu thừa nhận công khai “cái gì cũng phải tiền, không tiền không trôi… Người ta ăn của dân không chừa thứ gì”
Muốn ngăn chặn, răn đe và trừng phạt  ngoài luật “nhân quả”, chỉ có một con đường là “thật sự dân chủ”. Dân có thực quyền kiểm soát và pháp luật phải thực sự do dân, vì dân. Để tồn tại và phát triển, đất nước sẽ phải thay đổi, vấn đề chỉ còn là thời gian.
Khôn ngoan nhất là những người có trọng trách phải hiểu lòng dân và biết vượt lên chính mình.
 

Nguy cơ “vỡ trận” tài chính

Tác giả: Ts. Tô Văn Trường

KD: Cả hai bài viết “Ai ăn mặn, ai khát nước”, và “Nguy cơ vỡ trận tài chính” đều là những bài viết công phu, cẩn thận của Ts. TVT, và do mình biên tập. Cả hai bài, Tuần Việt Nam đều không dám đăng. Thật đáng tiếc :(
Cảm ơn Ts. Tô Văn Trường
—————–
Nhiều tập đoàn kinh tế phá nát nền kinh tế, chỉ  chăm bẵm vào việc chi tiền xây dựng các công trình thiếu chất lượng, không hiệu quả, thất thoát, cho nên kích cầu sẽ chỉ đưa đến kích… tham nhũng. Cho nên không xử lý tham nhũng và xử lý tập đoàn “ăn hại” thì kinh tế Việt Nam sẽ không có tiền đồ.
Hàng dài người chờ rút tiền trước ATM của Laiki. Ảnh: BI
Hàng dài người chờ rút tiền trước ATM của Laiki (Síp). Ảnh: BI (ảnh chỉ mang tính minh họa)

Có thể nói chưa bao giờ chúng ta lại phải nghe đến từ “vỡ” nhiều như những ngày nay. Do ành hưởng của siêu bão số 10 nên suốt dải đất miền Trung nghèo khó đã xảy ra liên tiếp những vụ vỡ đê sông, đê biển, đập tràn và cả vỡ đập thuỷ điện. Từ tỉnh biên giới Lạng Sơn đến tỉnh đồng bằng Thái Bình, từ vùng núi Thái Nguyên đến đô thành Hà Nội rúng động bởi những vụ vỡ hụi, vỡ tín dụng đen hàng chục, hàng trăm tỷ đồng. Rồi những vụ vỡ nợ làm tiêu tán hàng ngàn tỷ đồng của biết bao doanh nghiệp, của nhiều “đại gia”!
Nhưng có một thứ được cảnh báo có nguy cơ cũng dễ ” vỡ”, mà hậu quả kéo theo sẽ vô cùng nặng nề, có thể bằng nhiều siêu bão cộng lại, đó là ” vỡ trận tài chính”!
Mâu thuẫn và nghịch lý
Một số thông tin trên công luận nhận định nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu phục hồi biểu hiện rõ nhất qua con số tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới. Trái lại, tại Hội thảo mùa Thu của Ủy ban kinh tế Quốc hội (26-27/9/2013) ở Huế nhận định chung là nền kinh tế đang rất xấu với nguy cơ “vỡ trận tài chính” trong năm 2014 và  triển vọng trung hạn 2013-2015 cũng không mấy sáng sủa vì việc tái cấu trúc kinh tế chưa được  triển khai bằng hành động.
Có ý kiến cho rằng  kinh tế Việt Nam đang  mò đáy, và tê liệt vì các doanh nghiệp thi nhau  phá sản hay đóng cửa từ 2011. Nạn thất nghiệp gia tăng vũ bão (tỷ lệ thất nghiệp được một số giới cho là trên 10% thay vì con số chính thức là 2%) gây ra các tệ nạn xã hội đáng báo động. Và chính sách tín dụng trong cả nước hoàn toàn nghẽn mạch- một phần vì doanh nghiệp không đủ sức hấp thụ và phần lớn vì ngân hàng không muốn cho vay (với thanh khoản yếu do nợ xấu gây ra). 
Ngoài số thống kê về thất nghiệp, có nhiều nghi ngại trong hội thảo, ngay cả về các con số GDP chính xác của các tỉnh thành và cả nước để dùng trong phân tích chính sách hay nghiên cứu. Về nhu cầu chính sách trong ngắn hạn, có 02 luồng ý kiến.
Thứ nhất là kích cầu từ đầu tư công, bằng cách nới mức độ bội chi ngân sách. Và thứ hai là “kiên trì” ổn định kinh tế vĩ mô. Việc “kích cầu”, qua đầu tư công thiếu hiệu quả, có thể nhất thời làm tăng GDP nhưng không bền vững và chỉ nhằm đạt “thành tích” ngắn hạn. Một vòng xoáy lạm phát – suy trầm e là sẽ lại tiếp diễn trong năm 2014 như đã xảy ra các năm trước đây. Hơn nữa trong lúc các tỉnh thành lớn đều hụt thu nội địa thì việc nâng trần bội chi ngân sách quốc gia (lên 5,3% cho năm tới) để đáp ứng việc giải quyết tăng GDP ngắn hạn là một việc không nên làm trong lúc này. 
Kích cầu
J.M. Keynes đưa ra lý thuyết kích cầu khi người ta hoàn toàn mất tin tưởng vào nền kinh tế, thất nghiệp rất cao (đỉnh là 25%) và kéo dài cao hơn 15% trong hơn 15 năm, giảm  phát (deflation)  từ năm 1929-1945. Đó là kết quả của việc hệ thống ngân hàng tài chính đổ vỡ vì cho vay quá trớn, đầu cơ chứ không phải đầu tư vào thị trường chứng khoán. 
Như thế là vì lúc đó kinh tế Mỹ có thừa sức sản xuất cao hơn với máy móc hiện có, ngay cả nông nghiệp cũng thế,  nhưng không ai dám làm, thất nghiệp cao thì không có tiền mua cho nên bị đói. Keynes hô hào, và đã được Tổng thống Roosevelt ủng hộ bằng cách tăng chi tiêu xây đường xá, cầu cống để người ta có việc làm. Sau đó,  là sản xuất cho chiến tranh thế giới thứ hai đã lôi nước Mỹ thoát ra khỏi khủng hoảng. 
Kích cầu thì cần tiền để chi. Thường thì giới kinh tế cho rằng ngưỡng thiếu hụt ngân sách ở mức 3% được coi là nghiêm trọng, cần thay chính sách. Việt Nam đã vượt ngưỡng này nhiều năm. Còn nay, Chính phủ lại đòi tăng lên đến 5,3%. Đây là  lần đầu tiên Chính phủ chính thức đặt vấn đề này, bởi vì lâu nay Chính phủ vẫn chi vượt mức  do Quốc hội quyết thì có sao đâu? Thực tế này đã xảy ra hàng năm, tỷ lệ chi ngân sách vượt mức Quốc hội quyết đã rất cao và còn đang tăng, từ 31% lên 42% trong khoảng thời gian 2007-2011.
Nếu thiếu tiền chi mà Chính phủ ra thị trường bán trái  phiếu cho dân và dùng tiền đó để chi tiêu thì ít có vấn đề. Nhưng ở Việt Nam thường có lệnh, cho Ngân hàng Nhà nước mua trái phiếu (tức là in tiền) do đó mà đẩy mạnh lạm phát. Lý do lượng tiền tăng quá mức là ở đó. In tiền kích cầu đáng lẽ phải đưa đến “trọng cung” để tạo ra sản  phẩm. 
Trọng cung
Lý thuyết về “trọng cung” do hai nhà kinh tế Friedrich Hayek và Milton Friedman xây dựng theo nguyên tắc tính hiệu quả của thị trường tự do và gần như không chấp nhận bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước vào nền kinh tế thị trường.
“Trọng cung” thì phải giảm thuế và thay đổi các chướng ngại kiểm soát để doanh nghiệp tăng sản xuất. Như thế, “trọng cung” cũng thường đưa đến thiếu hụt ngân sách. Các chính sách “trọng cung” ở nhiều nước tuy có kết quả nhưng hiệu quả thấp vì chính sách này thường mang tính dài hạn.
“Cung” phải hiều theo nhiều nghĩa, là khả năng sản xuất (khả năng cung), tức là có đầy đủ yếu tố sản xuất như nhà máy, nguyên liệu và lao động. Khả năng “cầu”: Sử dụng những yếu tố sản xuất có sẵn. Trong trường hợp “cung” không được sử dụng hết khả năng, tức là thừa, thì kích cầu mới có tác động, mà chỉ có tác động trong ngắn hạn vì nó giúp dùng hết “cung” có sẵn. Khi nền kinh tế trở lại bình thường, thì không thể kích cầu để phát triển kinh tế.
Giải pháp ở đâu?
Muốn đưa  ra giải pháp đúng, trước hết  phải nắm được thực trạng. Mặc dù phương pháp và các con sô thống kê còn nhiều bất cập nhưng dễ nhận thấy là tình trạng chi tiêu ngân sách quá đà, nhiều tập đoàn kinh tế hoạt động không hiệu quả, nợ công, nợ xấu ở mức báo động.
Tổng số nợ là lớn, trong đó có nợ xấu. Nếu nợ xấu tập trung chính vào ngân hàng quốc doanh (vì cho quốc doanh vay) không biết bao nhiêu nhưng họ có thể tự dàn xếp một cách từ từ với nhau bởi vì không thể phá sản nhau. Trong trường hợp đó, kinh tế không thể phát triển vì ngân hàng không dám cho vay như trước. Do đó, kinh tế dù chưa suy sụp ngay nhưng sẽ èo uột trong nhiều năm, không thể tạo ra niềm tin, nhất là đẩy mạnh đầu tư nước ngoài.
Người dân nhận thấy những bất cập trong chủ trương chính sách vẫn cứ bám lấy kinh tế Nhà nước là chủ đạo, đất đai là sở hữu toàn dân. Nhiều tập đoàn kinh tế phá nát nền kinh tế, chỉ  chăm bẵm vào việc chi tiền xây dựng các công trình thiếu chất lượng, không hiệu quả, thất thoát, cho nên kích cầu sẽ chỉ đưa đến kích… tham nhũng. Cho nên không xử lý tham nhũng và xử lý tập đoàn “ăn hại” thì kinh tế Việt Nam sẽ không có tiền đồ.
Một trong những minh hoạ mà  nhiều người thấy nhưng ngại không muốn nêu ra là chi cho bộ máy hành chính, bộ máy Đảng song hành là quá lớn và không hiệu quả. Rõ ràng là các tập đoàn và doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò “sân sau” phục vụ bộ máy chính trị rất cồng kềnh hiện nay. Ta mới nói về tham nhũng ở một số cá nhân ở nơi này,  nơi kia mà chưa thấy sở dĩ tham nhũng cá nhân chỉ là hiện tượng ” ăn theo” của tham nhũng mang tính thể chế nhằm nuôi dưỡng bộ máy cồng kềnh kém hiệu quả nêu trên.
Trong tình hình đó việc kích cầu chẳng khác nào cho con bệnh ung thư uống thuốc bổ để khối u phát triển nhanh hơn! Động lực để cải cách thể chế chính trị cho phù hợp với hạ tầng kinh tế hiện nay là rất yếu… Bởi vì ngay từ đầu công cuộc Đổi mới, những nhà hoạch định chính sách chắc chỉ mới suy nghĩ đến lớp lang “chính sách kinh tế mới NEP của Lê Nin” mà chưa có khái niệm gì về một thành phần quan trọng góp phần khắc chế những hậu hoạ của chính sách này, đó là thúc đẩy xã hội dân sự và cải cách thể chế chính trị.
Các học thuyết, mô hình kinh tế chỉ có thể cung cấp cho chúng ta những bài học  kinh nghiệm để từ đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đồng thời cần lưu ý là vận dụng các quy luật kinh tế vào điều kiện nước ta phải xuất phát từ lợi ích của người dân chứ không phải chỉ từ lợi ích của các nhà đầu tư.
Cần rà soát các bất động sản, các “quốc doanh” làm ăn thua lỗ triền miên, cái nào đáng chết, không cứu, giành mọi nguồn lực còn lại và thuận lợi cho những sản phẩm đáng sống, sản phẩm mới. Qua phẫu thuật, vứt đi cái “hoại thư” như thế và qua nuôi các sản phẩm “sống” được và tìm cách có thêm sản phẩm mới để tái cấu trúc kinh tế, nghĩa là tái cấu trúc kinh tế phải bắt đầu bằng phẫu thuật cái “hoại thư”.
Quyết xóa hẳn “mafia” để chuyển sang kinh tế thị trường thực sự. Mafia lớn nhất  chính là nhóm lợi ích bất chính. Thế giới gọi những nhóm lợi ích này là thế lực trục lợi (Rent- seeking), và nó sẽ đẩy xã hội chúng ta đến vực thẳm trong tương lai gần.
Tăng cường luật pháp, tăng cường công khai minh bạch, tiết kiệm (nhất thiết phải thắt lưng buộc bụng ở tầm quốc gia). Có những biện pháp an sinh dành cho những tầng lớp dân  nghèo dễ bị tổn thương nhất để có cái đệm an toàn cho xã hội trong khi thực hiện tất cả những biên pháp trên.
Nhất thiết phải  cải cách thể chế chính trị để có khả năng thực hiện các  biện pháp nói trên. Trước hết, là xây dưng một Hiến pháp mới cho ngon lành đúng với một quốc gia có kinh tế thị trường – Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. 
Vĩ thanh
Tổng thu ngân sách Nhà nước giảm 30% từ năm 2000 đã xuống mức thấp nhất chưa từng có 22,8%  GDP vào năm 2012  (nguồn WB).  Do thu chi ngân sách mất cân đối trong năm 2013, dự kiến sẽ hụt thu khoảng 21.000 tỷ đồng so với dự toán, nên đến năm 2015, bội chi ngân sách kể cả trái phiếu Chính phủ khó đạt chỉ tiêu dưới 4,5% GDP.
Ở Việt Nam không thừa cung. Trong khi đó, cầu  quá nhiều vì có tiền do việc in tiền và nạn tham nhũng từ việc thất thoát, lãng phí của đầu tư công. Nếu mà tiếp tục “kích cầu”, vì tất cả cơ chế vẫn như cũ, nó sẽ tích tụ thêm các khuyết tật thì không những không thể ra khỏi “hố đen”, mà cũng không đơn thuần chỉ là nguy cơ vỡ trận tài chính! Bởi vì ông cha ta đã đúc kết rất chính xác “gieo nhân nào gặt quả nấy”!

Quốc hội Việt Nam họp giữa lúc nền kinh tế tiếp tục trì trệ


Hà Nội – Quốc hội Việt Nam đang bắt đầu cuộc họp định kỳ trong năm nay giữa bối cảnh tăng trưởng kinh tế không mấy sáng sủa và tiến độ tái cơ cấu hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn diễn ra chậm chạp.

Các quan chức tại Quốc hội cho biết họ sẽ bắt đầu phiên hợp kéo dài 40 ngày vào thứ Hai tuần này để nghe báo cáo kinh tế của chính phủ, cân nhắc thông qua bản Hiến pháp sửa đổi và luật đất đai, cũng như thông qua việc bổ nhiệm các quan chức mới trong chính phủ. Các nhà lập pháp cho biết họ cũng đang dự kiến ​​ tháo gỡ luật cấm hôn nhân đồng tính.

Chính phủ dự kiến ​​sẽ trình bày báo cáo về thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội trong năm nay và cho giai đoạn 2011-15 cũng như đề xuất cách thức để đạt được các mục tiêu đó, một đại biểu Quốc hội cho biết.

Một nửa cuộc họp sẽ được phát sóng trực tiếp trên các chương trình truyền hình và đài phát thanh, bao gồm cả các cuộc thảo luận về kế hoạch phát triển kinh tế và có thể gồm cả chủ đề sửa đổi Hiến pháp.

“Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự kiến ​​sẽ đề cử hai phó thủ tướng mới và [thay thế] một phó thủ tướng tại cuộc họp”, ông Nguyễn Hạnh Phúc – Chánh văn phòng Quốc hội, cho biết.

Ông Phúc cho biết chánh văn phòng chính phủ, ông Vũ Đức Đam, và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh sẽ được đề cử làm hai Phó Thủ tướng mới. Một trong những Phó Thủ tướng hiện hành, ông Nguyễn Thiện Nhân, ​​sẽ được chuyển sang lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một nhánh của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ tiếp tục ở mức thấp trong năm nay sau khi sụt xuống mức thấp nhất trong 13 năm qua hồi năm 2012, chủ yếu do tỷ lệ nợ xấu tăng cao trong hệ thống ngân hàng. Chính phủ dự kiến ​​tăng trưởng trong năm nay sẽ ở mức 5,3%, so với 5,03% trong năm 2012.

Việt Nam nhắm mục tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm ở mức 7,0% và 7,5% trong giai đoạn 2011-2015. Tốc độ tăng trưởng hồi năm 2011 là 5,9 % và 5,03% vào năm 2012.

Hồi đầu tuần qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói với cử tri tại thành phố Hải Phòng rằng chính phủ sẽ cố gắng duy trì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kềm chế lạm phát và khôi phục lại chỉ số tăng trưởng kinh tế.

“Nhiệm vụ phía trước [của chính phủ] rất khó khăn do bất ổn kinh tế vĩ mô, áp lực lạm phát gia tăng và năng lực cạnh tranh yếu kém đối với hàng hóa nội địa”, ông Dũng nói.

Cao Sĩ Kiêm, cựu thống đốc ngân hàng nhà nước và Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, cho biết các cử tri đang hy vọng Quốc hội sẽ tìm cách đối phó với những khó khăn kinh tế trước mặt nhằm mở đường cho việc phục hồi kinh tế nhanh hơn.

“Việc thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt Nam là một bước đi tích cực để giúp cần bằng thanh khoản tại các ngân hàng thương mại và cải thiện tình hình nhằm giúp các ngân hàng này tăng khả năng cho vay vốn nhưng phải mất một thời gian dài để thực sự làm sạch các khoản nợ xấu trong hệ thống”, ông Kiếm nói với The Wall Street Journal.

Liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp, ông Kiêm cho biết các đại biểu Quốc hội sẽ “có thể sửa đổi một điểu khoản cho rằng kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế”. Họ cũng sẽ thảo luận về những thay đổi trong mô hình quản lý hành chính hiện hành ở cấp huyện.

Vu Trong Khanh, WSJ 
Đặng Khương chuyển ngữ, CTV Phía Trước
  © Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2013      

Vì sao ông Huỳnh Uy Dũng “dứt áo” đi khỏi Bình Dương?

Ông Huỳnh Uy Dũng có nhiều đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương đã có một quyết định gây bất ngờ với nhiều người là “dứt áo” đi khỏi tỉnh này. Vậy điều gì đã khiến ông Dũng đi đến một quyết định có thể coi là hết sức khó khăn với bản thân?
Ông Huỳnh Uy Dũng - chủ của các Khu công nghiệp (KCN) Sóng Thần 1, 2, 3; nhiều khu dân cưvà Khu du lịch Đại Nam là nhân vật có nhiều đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương đã có một quyết định gây bất ngờ với nhiều người là “dứt áo” đi khỏi tỉnh này. Vậy điều gì đã khiến ông Dũng đi đến một quyết định có thể coi là hết sức khó khăn với bản thân?

Từ chủ trương của tỉnh...
Theo trần tình của ông?Dũng, vào thời điểm năm 2004, tỉnh Bình Dương gặp nhiều khó khăn khi nợ Bộ Tài chính 1.000 tỷ đồng đến hạn phải trả, cũng là dịp ông đang tiến hành xây dựng Khu du lịch Đại Nam. “Do khó khăn khi phải tìm nguồn tiền trả nợ cho Bộ Tài chính, lãnh đạo tỉnh Bình Dương đã vận động tôi mua lại khu đất trong Khu liên hợp công nghiệp – dịch vụ - đô thị Bình Dương để khi thấy tôi vào đầu tư thì thu hút thêm nhiều nhà đầu tư khác, qua đó tạo thêm nguồn để tỉnh có tiền trả nợ đúng hạn.
Thật tình tôi không muốn làm nữa, cộng thêm vì đã đuối sức do đang làm Khu du lịch Đại Nam. Muốn mua khu đất đó thì tôi phải vay ngân hàng hơn 400 tỷ đồng, một số tiền rất lớn vào thời điểm đó. Dù khó khăn nhưng cuối cùng tôi cũng đồng ý” – ông Dũng cho biết.

Khu đất tại KCN?Sóng?Thần 3 mà chủ đầu tư dự định xây hàng chục ngàn chỗ ở cho công nhân, tuy nhiên suốt 7 năm qua chưa thể triển khai chỉ vì chưa có quy hoạch chi tiết 1/500.
Khu đất tại KCN?Sóng?Thần 3 mà chủ đầu tư dự định xây hàng chục ngàn chỗ ở cho công nhân, tuy nhiên suốt 7 năm qua chưa thể triển khai chỉ vì chưa có quy hoạch chi tiết 1/500.

Sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ tài chính về đất đai, chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 đã được tỉnh Bình Dương giao 533,84ha để lập dự án kinh doanh. Ngày 22.6.2006, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương đã ban hành Quyết định (số 2940/QĐ-CT) về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2.000, trong đó có 61,49ha đất ở được phép sử dụng lâu dài, đối với KCN Sóng Thần 3 thuộc Khu liên hợp công nghiệp – dịch vụ - đô thị Bình Dương và phê duyệt dự án đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN Sóng Thần 3.
Từ sự phê duyệt này, năm 2008, chủ đầu tư bắt đầu sử dụng nguồn tiền đầu tư thông qua hợp đồng góp vốn với CBCNV của công ty, các chuyên gia và doanh nghiệp có nhu cầu xây nhà ở, nhà trọ cho công nhân đang làm việc trong KCN. Theo tính toán, dự án này sẽ tạo khoảng 50.000 chỗ ở cho công nhân tại các KCN.
Theo định hướng của tỉnh cần giảm bớt diện tích KCN chuyển sang phát triển dịch vụ để đảm bảo cảnh quan cho khu hành chính của tỉnh Bình Dương (tại thông báo số 11/TB –UBND ngày 17.1.2008 của UBND tỉnh Bình Dương) và căn cứ quy hoạch chi tiết đã được duyệt, công ty đã có văn bản trình UBND tỉnh Bình Dương, Sở Xây dựng, Ban quản lý các KCN tỉnh, Ban quản lý phát triển KCN dịch vụ đô thị Bình Dương xem xét chấp thuận cho KCN Sóng Thần 3 được chia tách 533,84ha đất mà tỉnh giao cho công ty để xây dựng KCN Sóng Thần 3 thành 2 dự án: KCN Sóng Thần 3 và Khu dân cư đô thị Đại Nam để xây dựng nhà ở cho chuyên gia, nhân viên và công nhân làm việc trong khu công nghiệp. Các sở, ban ngành chuyên môn như Sở Xây dựng, Ban quản lý các KCN Bình Dương… cũng đã có văn bản trình UBND tỉnh chấp thuận cho chủ đầu tư chia tách dự án như đã đề cập.
...Đến việc “ngâm” quy hoạch chi tiết 1/500
Do có nhiều chủ đầu tư trong khu liên hợp xin điều chỉnh quy hoạch chi tiết nên ngày 4.5.2009, Sở Xây dựng Bình Dương đã họp với các sở, ban ngành để bàn về việc thống nhất nội dung điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng khu liên hợp nói trên. Cuộc họp này có mặt nhiều nhà đầu tư khác như: Công ty TNHH Phát triển KCN Kim Huy, Công ty Liên doanh KCN Việt Nam – Singapore, Công ty TNHH Xây dựng – Đầu tư Đại Đăng, Công ty Hưng Thịnh…
Sau cuộc họp này, Sở Xây dựng Bình Dương yêu cầu lập quy hoạch chi tiết 1/500 cho khu đất ở quy mô 61,49ha đã được UBND tỉnh Bình Dương cho phép sử dụng lâu dài (tại Quyết định số 2089/QĐ-UBND ngày 7.7.2008 của UBND tỉnh) đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 22.10.2009, chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 đã lập quy hoạch chi tiết 1/500 trình Sở Xây dựng và UBND tỉnh Bình Dương phê duyệt. Tuy nhiên, UBND tỉnh Bình Dương đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tiến hành kiểm tra tình hình thực hiện dự án tại KCN Sóng Thần 3.
Theo biên bản làm việc lập với các cơ quan chức năng của tỉnh Bình Dương tại thời điểm kiểm tra, chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 đề nghị thực hiện theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt, không đề nghị chuyển đổi một phần đất KCN thành đất ở, không chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Qua kiểm tra, ông Trần Văn Dũng– Giám đốc Sở Xây dựng Bình Dương cho rằng, chủ đầu tư phải lập quy hoạch xây dựng chi tiết tỷ lệ 1/500 chính là để quản lý xây dựng đảm bảo kiến trúc, cảnh quan đô thị. Trong khi đó, ông Bùi Văn Hai – Phó Giám đốc Sở TNMT Bình Dương – cũng cho rằng chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, được giao đất sử dụng lâu dài nên có các quyền chuyển nhượng, kêu gọi đầu tư góp vốn là đúng quy định của Luật Đất đai.
Sau đợt kiểm tra này, Sở Xây dựng đã có báo cáo kết quả chủ đầu tư đã hoàn thành xong các nghĩa vụ tài chính đối với đất đai. Chủ đầu tư đã thỏa thuận góp vốn với 700 nhân viên, 2.630 lô đất, số tiền 414,36 tỷ đồng, tổng diện tích đưa vào góp vốn 32,36ha (trong diện tích khu ở 61,49ha) và kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 lập quy hoạch chi tiết 1/500 cho khu đất hành chính – dịch vụ - kho bãi và khu ở trong KCN 71,388ha.
Thế nhưng, ông Lê Thanh Cung – Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Bình Dương (nay là chủ tịch)– đã có văn bản (số 3184/UBND-KTTH) về việc tiếp tục kiểm tra tình hình thực hiện dự án KCN Sóng Thần 3. Trong văn bản này có nội dung: “Trong quá trình lập và chờ cấp thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 đối với khu chức năng (hành chính – dịch vụ, kho bãi và khu ở), không cho phép chuyển nhượng khu đất ở trong KCN dưới bất cứ hình thức nào”.
Doanh nghiệp không chết mới là lạ!
Theo các chuyên gia pháp lý, văn bản của ông Lê Thanh Cung - Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Bình Dương (nay là chủ tịch) trái với quy định của Luật Đất đai. Tại khoản 2, Điều 110, Luật Đất đai quy định: “Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước thì có các quyền và nghĩa vụ sau đây: a/chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công trình kiến trúc, kết cấu hạ tầng đã được xây dựng gắn liền với đất;…”.
Tiếp tục kiểm tra, Sở Xây dựng lại có văn bản kiến nghị đồng thuận, thế nhưng UBND tỉnh vẫn im lặng không giải quyết. Điệp khúc đó cứ lặp đi lặp lại, mỗi lần mất vài tháng… và đến lần kiến nghị sau cùng - ngày 12.8.2010, Sở Xây dựng đã kiến nghị UBND tỉnh Bình Dương chấp thuận chủ trương điều chỉnh quy hoạch chi tiết KCN Sóng Thần 3 thành Khu dân cư Đại Nam và KCN Sóng Thần 3, đồng thời có ý kiến thống nhất và trình Chính phủ chấp thuận chủ trương điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu liên hợp theo hướng tăng diện tích đất đô thị, giảm diện tích đất công nghiệp. Thế nhưng cho đến nay, UBND tỉnh Bình Dương vẫn chưa duyệt quy hoạch chi tiết 1/500,dù chủ đầu tư đã đáp ứng mọi yêu cầu mà tỉnh Bình Dương đưa ra. Sự im lặng này đã đẩy doanh nghiệp vào tình thế vô cùng khó khăn.
Do không có quy hoạch chi tiết 1/500, nên dự án xây dựng khu đô thị nhà ở cho các chuyên viên, nhân viên và công nhân trong dự án KCN Sóng Thần 3 đã ngưng trệ hơn 7 năm qua. Gần 50% những người tham gia góp vốn đã không thể chờ đợi mãi nên đã đòi lại tiền. Chủ đầu tư đã phải trả lại toàn bộ số tiền góp vốn kể cả lãi suất ngân hàng, số tiền lên đến gần 500 tỷ đồng. Nếu là một doanh nghiệp bình thường, nếu không đủ uy tín và tiền bạc thì có lẽ đã chết từ lâu khi mà "lệ" nằm trên cả luật theo kiểu ban hành văn bản trái quy định của Luật Đất đai như lãnh đạo tỉnh Bình Dương.
Đó là lý do góp phần thúc đẩy ông Dũng “lò vôi” quyết định “dứt áo” đi khỏi tỉnh Bình Dương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét