Nguyễn Minh Cần - Chuyện dài ra Đảng và đa đảng (Bài 1)
Gần đây, trong nước lại rộ lên những lời bàn tán về chuyện ra Đảng và chuyện đa đảng, nhất là sau khi bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh” của Luật gia Lê Hiếu Đằng và bài “Phá xiềng” của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận được tung ra.
Người viết những dòng này hoan nghênh hai tác giả vừa nói trên đã gióng lên lời kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã Hội - Dân Chủ. Đáng lẽ, lời kêu gọi thức thời đó phải được tung ra từ rất lâu cơ! Nhưng chẳng sao cả, chậm còn hơn không!
HÃY CAN ĐẢM “XÉT LẠI”...
Người viết những dòng này hoan nghênh hai tác giả vừa nói trên đã gióng lên lời kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã Hội - Dân Chủ. Đáng lẽ, lời kêu gọi thức thời đó phải được tung ra từ rất lâu cơ! Nhưng chẳng sao cả, chậm còn hơn không!
Để đáp ứng lời kêu gọi thức thời đó của hai ông, thiết nghĩ các đảng viên cộng sản có tư duy độc lập đang còn phân vân cần phải có gan “xét lại” và nhận thức rõ thực trạng của hệ thống chính trị nước ta dưới sự thống trị độc tôn của Đảng Cộng Sản Việt Nam để xác định cho mình một thái độ dứt khoát với tinh thần trách nhiệm công dân cao.
Để các bạn hiểu rõ tôi hơn khi đọc những dòng trên, tôi xin thưa với các bạn rằng, khi mới 18 tuổi, tôi đã gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương (1946), và cũng đã từng vào sinh ra tử nhiều năm trong cuộc kháng chiến chống Pháp và từng gánh vác nhiều trách nhiệm quan trọng trong Đảng... Đến khi có những ý kiến bất đồng với ban lãnh đạo Đảng hồi cuối những năn 50 đầu những năm 60, tôi cùng với một số cán bộ cao cấp và trung cấp của Đảng bị quy “tội” “xét lại – chống Đảng”. Khi bị truy bức mạnh thì tôi đã rời bỏ Đảng Cộng Sản (ĐCS) vào lúc 36 tuổi (1964) lúc đang ở nước ngoài.
Suy cho cùng, cái “tội” mà các vị lãnh đạo ĐCS hồi đó đã quy, không biết những người khác nhận thức thế nào, còn đối với riêng tôi thì tôi cho là đúng! Tôi không phủ nhận! Đúng là tôi đã phạm “tội” “xét lại”! Chắc nhiều bạn đã sống cái thời cực kỳ ác liệt những năm 50, 60 thế kỷ trước đều biết cái “tội” “xét lại” hồi đó là đáng sợ lắm, vì Đảng coi “tội” ấy ngang với tội “phản động”, “phản đảng”, “phản quốc”! Thời đó các vị lãnh đạo đánh đồng (và đánh tráo) Đảng với Tổ quốc. Tôi nhận “tội” “xét lại”, nhưng quyết không nhận “tội” “phản quốc”, bởi lẽ tôi “xét lại” và phát biểu ý kiến với Đảng vì tôi yêu nước, thương dân, vì tôi không muốn Đảng đưa Đất Nước và Nhân Dân vào những thảm họa.
Làm sao mà không “xét lại” được, khi chính mắt mình thấy
hằng trăm, hằng nghìn người dân ở nông thôn bị bắn giết oan uổng trong
cải cách ruộng đất? khi thấy hàng nghìn gia đình bị điêu đứng trong cuộc
cải tạo công thương nghiệp và thủ công nghiệp ở thành phố? khi thấy cả
xã hội bị nghẹt thở vì chính sách quản lý hộ khẩu ngặt nghèo, vì các
quyền công dân, quyền con người, các quyền tự do dân chủ bị xóa bỏ? Vậy
thì tôi đã “xét lại” gì? Tôi “xét lại” đường lối của Đảng, nhưng trước hết, tôi “xét lại” chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin, chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao Trạch Đông mà Đảng dùng “làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động”.
Cuối cùng, tôi đã phủ nhận những thứ đó. Vì, sau khi đã kiểm nghiệm qua
thực tiễn của Đảng và Đất nước Việt Nam, cũng như kiểm nghiệm qua thực
tiễn của Đảng và Đất nước đã khai sinh ra phong trào cộng sản quốc tế là
Liên Xô, sau khi đã nghiên cứu kỹ càng về mặt lý luận những thứ chủ
nghĩa đó, tôi nhận thức sâu sắc rằng những chủ nghĩa đó rất sai lầm và
rất nguy hại cho các dân tộc đã áp dụng chúng, kể cả cho dân tộc Việt
Nam, và cho toàn nhân loại. Tôi nghĩ rằng, không phải ngẫu nhiên mà Nghị
viện châu Âu đã ra Nghị quyết 1481 (2006) lên án Chủ Nghĩa Cộng Sản và
đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người.
Nói cụ thể hơn: cú đẩy đầu tiên làm tôi phân vân về đường lối của Đảng là những sai lầm nghiêm trọng của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1953-1956) và thái độ quanh co, giả dối của các lãnh tụ của Đảng trước những sai lầm đó. Còn cú đẩy mạnh nhất là “Nghị quyết 9” (tháng 12 năm 1963) đánh dấu một bước ngoặt căn bản của Đảng Cộng Sản Việt Nam: đi theo con đường của Đảng Cộng Sản Trung Quốc1, tức là đi theo con đường của chủ nghĩa Mao, một thứ chủ nghĩa phiêu lưu vô cùng nguy hại. Từ đó, tôi thấy phải “xét lại” con đường của ĐCSVN, kể từ việc Đảng đưa miền Bắc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” đến việc ban lãnh đạo Đảng phát động cuộc chiến tranh Bắc Nam hồi cuối thập niên 50 thế kỷ trước.
Tôi cũng không phủ nhận cái “tội” “chống Đảng”, vì khi tôi nghiệm thấy những việc làm thực tế của các lãnh tụ Đảng cộng sản Việt Nam (khi tôi sống ở Việt Nam) và của các lãnh tụ Đảng cộng sản Liên Xô (khi tôi sống ở Nga) thì tôi thấy chế độ chính trị mà các ĐCS đã xây dựng lên để thống trị người dân ở Liên Xô, ở Việt Nam, ở một số nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ đều là những chế độ độc tài toàn trị bóp nghẹt mọi quyền tự do của người dân, mọi quyền con người, kìm hãm sự phát triển của xã hội và tạo ra mọi tệ nạn xã hội trầm trọng, như sự dối trá, lừa bịp có hệ thống, nạn tham nhũng tràn lan, v.v... vì thế tôi nhận thức rằng cần phải chống những đảng độc tài toàn trị như thế để bênh vực cho người dân.
Và số phận dun dủi tôi là một người Việt Nam đã tham gia hai cuộc Cách mạng Tháng Tám trong đời mình: cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945) ở Việt Nam lúc tôi mới 17 tuổi, vì ngây thơ về chính trị tôi đã vô ý thức đưa Đảng Cộng Sản Việt Nam lên nắm chính quyền thống trị Đất nước, và cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1991) ở Nga lúc tôi đã 63 tuổi và là thành viên của tổ chức “Nước Nga Dân Chủ”, vì hồi đó tôi nhận thức rõ phải đấu tranh chống lại và hạ bệ Đảng Cộng Sản Liên Xô xuống để dân Nga và các dân tộc trong Liên Bang Xô Viết được tự do và tiến theo con đường dân chủ. Hành động đó của tôi rõ ràng là chống ĐCS nhưng tôi không hề cho rằng đó là một “tội”, mà đó là một việc làm chính đáng của một người trung thực có ý thức và thức thời.
Tôi phải kể rõ ràng như vậy để các đảng viên cộng sản còn ở trong Đảng thấy rằng có lắm khi việc “xét lại” dù rất khó khăn nhưng lại là rất cần thiết. Nhận thức của con người là một quá trình liên tục, có khi phải đấu tranh, dằn vặt rất gian khổ, phải kiểm nghiệm, lật đi lật lại nhận thức cũ của mình, vì chân lý không phải một lúc mà ta đã nhận thức được ngay. Nên đừng e ngại khi thấy cần phải “xét lại” những điều trước đây mình đã tưởng nhầm là chân lý, là lý tưởng. Viết đến đây, chúng tôi xin phép dẫn ra một câu rất sâu sắc của Vaclav Havel, nhà văn, nhà soạn kịch và chiến sĩ dân chủ Czechoslovakia: “Chúng ta sống trong những điều kiện ép buộc con người vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng”2. Đúng như thế, ngày nay, rất nhiều đảng viên ở nhiều ĐCS trên thế giới sau khi “xét lại” và nhận thức rõ sự lầm lạc của mình cũng đã “vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng” và từ bỏ ĐCS. Tôi tin rằng trong số đó không ít người đã phải trải qua những dằn vặt đau đớn giống như tôi. Thế mà họ đã dứt khoát. Vì thế, ở nhiều nước, trước đây ĐCS đông đảo có đến hàng triệu đảng viên nay đã teo lại như “miếng da lừa”, thậm chí ở nhiều nước không còn ĐCS nữa. Đó là một thực tế cần phải thấy!
Tôi nghĩ răng rằng, thời điểm này hơn lúc nào hết - khi ĐCSVN đã hoàn toàn biến chất, đang bị khủng hoảng trầm trọng về mặt tư tưởng, về đường lối, về cán bộ, khi tổ chức của Đảng - nhất là ở thượng tầng - chia rẽ nặng nề, đấu đá nhau vì quyền lợi; khi ĐCS đã đưa Đất nước vào cuộc tổng khủng hoảng toàn diện, cả về kinh tế, tài chính, cả về giáo dục, y tế, đạo đức, vào tình trạng xã hội vô cùng tồi tệ - thì chính lúc này, những người cộng sản trung thực còn ở lại trong ĐCSVN hãy nên nghe lời kêu gọi thức thời của hai đảng viên CS kỳ cựu Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận, mà can đảm “xét lại” và quyết định một thái độ rõ ràng, dứt khoát, đầy trách nhiệm công dân. Trước tình trạng Đất nước ngày nay, lẽ nào những con người có lương tri lại có thể thờ ơ, vô cảm?
THỰC CHẤT CỦA CHẾ ĐỘ HIỆN NAY
Nói cụ thể hơn: cú đẩy đầu tiên làm tôi phân vân về đường lối của Đảng là những sai lầm nghiêm trọng của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1953-1956) và thái độ quanh co, giả dối của các lãnh tụ của Đảng trước những sai lầm đó. Còn cú đẩy mạnh nhất là “Nghị quyết 9” (tháng 12 năm 1963) đánh dấu một bước ngoặt căn bản của Đảng Cộng Sản Việt Nam: đi theo con đường của Đảng Cộng Sản Trung Quốc1, tức là đi theo con đường của chủ nghĩa Mao, một thứ chủ nghĩa phiêu lưu vô cùng nguy hại. Từ đó, tôi thấy phải “xét lại” con đường của ĐCSVN, kể từ việc Đảng đưa miền Bắc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” đến việc ban lãnh đạo Đảng phát động cuộc chiến tranh Bắc Nam hồi cuối thập niên 50 thế kỷ trước.
Tôi cũng không phủ nhận cái “tội” “chống Đảng”, vì khi tôi nghiệm thấy những việc làm thực tế của các lãnh tụ Đảng cộng sản Việt Nam (khi tôi sống ở Việt Nam) và của các lãnh tụ Đảng cộng sản Liên Xô (khi tôi sống ở Nga) thì tôi thấy chế độ chính trị mà các ĐCS đã xây dựng lên để thống trị người dân ở Liên Xô, ở Việt Nam, ở một số nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ đều là những chế độ độc tài toàn trị bóp nghẹt mọi quyền tự do của người dân, mọi quyền con người, kìm hãm sự phát triển của xã hội và tạo ra mọi tệ nạn xã hội trầm trọng, như sự dối trá, lừa bịp có hệ thống, nạn tham nhũng tràn lan, v.v... vì thế tôi nhận thức rằng cần phải chống những đảng độc tài toàn trị như thế để bênh vực cho người dân.
Và số phận dun dủi tôi là một người Việt Nam đã tham gia hai cuộc Cách mạng Tháng Tám trong đời mình: cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945) ở Việt Nam lúc tôi mới 17 tuổi, vì ngây thơ về chính trị tôi đã vô ý thức đưa Đảng Cộng Sản Việt Nam lên nắm chính quyền thống trị Đất nước, và cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1991) ở Nga lúc tôi đã 63 tuổi và là thành viên của tổ chức “Nước Nga Dân Chủ”, vì hồi đó tôi nhận thức rõ phải đấu tranh chống lại và hạ bệ Đảng Cộng Sản Liên Xô xuống để dân Nga và các dân tộc trong Liên Bang Xô Viết được tự do và tiến theo con đường dân chủ. Hành động đó của tôi rõ ràng là chống ĐCS nhưng tôi không hề cho rằng đó là một “tội”, mà đó là một việc làm chính đáng của một người trung thực có ý thức và thức thời.
Tôi phải kể rõ ràng như vậy để các đảng viên cộng sản còn ở trong Đảng thấy rằng có lắm khi việc “xét lại” dù rất khó khăn nhưng lại là rất cần thiết. Nhận thức của con người là một quá trình liên tục, có khi phải đấu tranh, dằn vặt rất gian khổ, phải kiểm nghiệm, lật đi lật lại nhận thức cũ của mình, vì chân lý không phải một lúc mà ta đã nhận thức được ngay. Nên đừng e ngại khi thấy cần phải “xét lại” những điều trước đây mình đã tưởng nhầm là chân lý, là lý tưởng. Viết đến đây, chúng tôi xin phép dẫn ra một câu rất sâu sắc của Vaclav Havel, nhà văn, nhà soạn kịch và chiến sĩ dân chủ Czechoslovakia: “Chúng ta sống trong những điều kiện ép buộc con người vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng”2. Đúng như thế, ngày nay, rất nhiều đảng viên ở nhiều ĐCS trên thế giới sau khi “xét lại” và nhận thức rõ sự lầm lạc của mình cũng đã “vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng” và từ bỏ ĐCS. Tôi tin rằng trong số đó không ít người đã phải trải qua những dằn vặt đau đớn giống như tôi. Thế mà họ đã dứt khoát. Vì thế, ở nhiều nước, trước đây ĐCS đông đảo có đến hàng triệu đảng viên nay đã teo lại như “miếng da lừa”, thậm chí ở nhiều nước không còn ĐCS nữa. Đó là một thực tế cần phải thấy!
Tôi nghĩ răng rằng, thời điểm này hơn lúc nào hết - khi ĐCSVN đã hoàn toàn biến chất, đang bị khủng hoảng trầm trọng về mặt tư tưởng, về đường lối, về cán bộ, khi tổ chức của Đảng - nhất là ở thượng tầng - chia rẽ nặng nề, đấu đá nhau vì quyền lợi; khi ĐCS đã đưa Đất nước vào cuộc tổng khủng hoảng toàn diện, cả về kinh tế, tài chính, cả về giáo dục, y tế, đạo đức, vào tình trạng xã hội vô cùng tồi tệ - thì chính lúc này, những người cộng sản trung thực còn ở lại trong ĐCSVN hãy nên nghe lời kêu gọi thức thời của hai đảng viên CS kỳ cựu Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận, mà can đảm “xét lại” và quyết định một thái độ rõ ràng, dứt khoát, đầy trách nhiệm công dân. Trước tình trạng Đất nước ngày nay, lẽ nào những con người có lương tri lại có thể thờ ơ, vô cảm?
Những điều tôi sẽ trình bày sau đây về thực chất cái chế độ mà ĐCSVN đã dựng lên trên Đất nước ta là một chế độ độc tài toàn trị CS cực kỳ khắc nghiệt, có thể nhiều bạn đã biết mà không dám nói ra, nhưng tôi xin phép được nói một lần nữa, đặc biệt cho thế hệ trẻ chưa từng trải lắm được thấu rõ.
Mọi người trung thực đều biết: ngay sau khi ĐCSVN cướp được chính quyền hồi tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các lãnh tụ CS khác liền bắt tay xây dựng chế độ toàn trị (totalitarisme), trong đó ĐCS “độc quyền lãnh đạo” (từ ngữ của Lenin – hegemonia), tức là quyền lực của ĐCS độc tôn thống trị đất nước và dân tộc. Nhưng hồi đó, thế và lực của ĐCS còn yếu, nên các lãnh tụ CS phải dùng những thủ đoạn khéo léo che giấu cái chất CS của chế độ. Thậm chí có lúc họ còn giả vờ giải tán ĐCS (11/1946) và cho ra đời hai đảng “bỏ túi” là Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội để làm cảnh, hòng đánh lừa dư luận trong nước và thế giới. Họ đặt tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và có khi phải lập “Chính phủ liên hiệp”, mời những quan chức, vài đại biểu các đảng khác, vài nhân sĩ có uy tín dưới chế độ cũ đứng đầu các bộ quan trọng trong chính phủ (như nội vụ, ngoại giao, văn hóa...), nhưng những vị này chỉ “làm vì” chẳng có quyền hành thực tế, mà mọi thực quyền đều nằm trong tay các cán bộ CS.
Trái hẳn với những lời kêu gọi tốt đẹp của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, ngay từ khi mới lên cầm quyền, các lãnh tụ CS đã cho thủ tiêu bí mật nhiều lãnh tụ các đảng yêu nước không CS (như Quốc Dân Đảng, Đảng Đại Việt, v.v...), ngay cả những lãnh tụ đảng cùng ý thức hệ với họ, nhưng không CS (những người trốt-skít) cũng bị giết. Nhiều vị trong hàng giáo phẩm cao cấp, các chức sắc của các tôn giáo bị cô lập, bị bắt đi tù, bị ám hại (như Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ...). Ở các địa phương, nhiều người người đã làm việc dưới chế độ cũ bị thủ tiêu hoặc bị tù đày dài hạn không xét xử.
Song song với việc xóa bỏ các hội đoàn đã có từ trước, như tổ chức hướng đạo, các hội ái hữu, các nghiệp đoàn, các tổ chức tôn giáo, các hội từ thiện... ĐCS ra sức phát triển các tổ chức quần chúng của họ trong mọi giới, công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng... Do vậy, trong một thời gian ngắn, ĐCS đã nắm được toàn bộ xã hội Việt Nam trong tay, loại trừ được các đảng phái và tổ chức có thể cạnh tranh quyền lực với họ.
Đến khi cuộc kháng chiến bắt đầu, cơ quan đầu não của ĐCS phải rút lên chiến khu, thì ở các vùng gọi là “tự do” (như một số tỉnh ở Khu Bốn, Khu Năm, các vùng chưa bị Pháp chiếm ở những nơi khác), các lãnh tụ CS càng siết chặt chế độ toàn trị của họ. Ở các vùng đó, mọi quyền tự do của dân chúng bị xóa bỏ, lấy lý do vì đang trong thời chiến.
Đến năm 1949, khi ĐCS Trung Quốc nắm được chính quyền trên toàn Hoa lục, các lãnh tụ CSVN có được “chỗ dựa vững chắc như dãy Hy-mã-lạp-sơn” (lời ông Trường Chinh, Tổng bí thư ĐCS hồi đó). Và đúng như vậy, dựa vào sự ủng hộ to lớn về mọi mặt của ĐCSTQ, nhất là về mặt quân sự, Trung Cộng đã giúp ĐCSVN giành được thắng lợi trên nhiều chiến dịch, bắt đầu từ chiến dịch Biên giới (1950) cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) dẫn đến việc ký Hiệp định Genève chia nước Việt Nam thành hai miền: Bắc và Nam.
Tiếp nhận miền Bắc, thế và lực của ĐCS đã mạnh hơn nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng, ĐCSVN công khai ra mắt dân chúng khoác cái tên mới là Đảng Lao động Việt Nam (1951), công nhiên tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện cái họ gọi là “chuyên chính dân chủ nhân dân” mà thực chất là chuyên chính vô sản. Ông Hồ Chí Minh và các lãnh tụ CS khác càng siết chặt hơn nữa sự kiểm soát toàn diện cuộc sống của dân chúng, từ kinh tế, đi lại, lao động cho đến tư tưởng, tín ngưỡng. Rập theo khuôn mẫu của Liên Xô và Trung Cộng, trong thời kỳ này ĐCSVN đã thực hiện chế độ quản lý hộ khẩu rất ngặt nghèo, làm các cuộc “chỉnh huấn”, “phóng tay phát động cải cách ruộng đất” và dựng lên “vụ án Nhân Văn Giai Phẩm”, “vụ án Xét Lại Chống Đảng”... để đàn áp giới trí thức dân chủ trong và ngoài Đảng, gieo rắc sự khiếp sợ trong dân chúng, đè bẹp mọi ý hướng không đồng tình với ĐCS. Trong thời kỳ này, các quyền tự do dân chủ và quyền con người bị chà đạp vô cùng tàn bạo, nhiều trí thức, sinh viên, cán bộ, đảng viên bị cầm tù lâu dài và hàng chục ngàn người dưới chế độ cũ bị bắt nhốt vào các “trại cải tạo” theo nghị quyết 49/NQ/TVQH (20/06/1961) của Thường vụ Quốc Hội do ông Trường Chinh ký.
Dựa vào sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Cộng, các lãnh tụ CSVN đã tiến hành cuộc chiến tranh Bắc Nam dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam”. Biết bao xương máu của quân và dân cả hai miền Bắc và Nam đã đổ ra! Biết bao nhiêu triệu thanh niên, nam nữ của cả hai miền Bắc và Nam đã chết tức tưởi trong cuộc chiến tranh huynh đệ này! Đến khi chiếm được miền Nam và xóa bỏ chế độ Việt Nam Cộng Hòa, các lãnh tụ CS liền công nhiên đặt cả nước dưới chế độ độc tài toàn trị của ĐCS; đưa khoảng 200 ngàn quân nhân và viên chức dưới chế độ cũ vào tù, có tên là “trại cải tạo”; ngang nhiên “luật hóa” độc quyền ĐCS thống trị đất nước bằng điều 4 Hiến pháp (1980); công nhiên tuyên bố “đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga”; tuyên bố “nắm vững chuyên chính vô sản” để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước; công khai lấy lại tên ĐCSVN; còn tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì bị xóa bỏ mà đổi thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Hai “đảng anh em” Dân Chủ và Xã Hội bị xóa sổ ngay và chế độ chính trị hiển nhiên trở thành “độc đảng” tuyệt đối (còn trước đây cũng là “độc đảng” nhưng có che đậy bằng “chiếc lá nho” hai “đảng anh em”).
Kể từ năm 1930, các lãnh tụ CS luôn luôn dùng khẩu hiệu “người cày có ruộng” để lừa mị, lôi kéo nông dân theo ĐCS thì đến năm 1980, họ đưa ra Hiến pháp mới với điều 17 (trong Hiến pháp tiếp sau là điều 19) xóa bỏ quyền tư hữu đất đai của người dân và tuyên bố tất cả ruộng đất chuyển thành cái gọi là “sở hữu toàn dân”, thực tế là tước đoạt toàn bộ ruộng đất của người dân, chủ yếu là của nông dân, biến thành sở hữu của ĐCS để cho cán bộ CS tha hồ thao túng. Đến lúc này thì Tổng Bí Thư ĐCS nghiễm nhiên đóng vai nguyên thủ quốc gia dù vẫn còn ngôi vị Chủ tịch Nước; các chỉ thị, nghị quyết của ĐCS có hiệu lực như các đạo luật; còn Quốc hội do “Đảng cử dân bầu” và các cơ quan nhà nước chỉ là bù nhìn của ĐCS, bình phong che đậy chế độ chuyên chế.
Tóm lại, chế độ độc tài toàn trị mà ĐCSVN dựng lên đã 68 năm nay là một cơ chế chính trị bao trùm tất cả và thâm nhập vào mọi mặt hoạt động của xã hội, nó cho phép các lãnh tụ CS quản lý và can thiệp sâu vào đời sống của công dân. Dưới chế độ này, người dân hoàn toàn bị mất quyền tự do, bị nô dịch hóa một cách rất tinh vi, ngay cả suy nghĩ, phát biểu ý kiến, và đời sống nội tâm cũng phải theo chỉ đạo của ĐCS. Trong nước, chỉ có một giai cấp được hưởng tự do và toàn quyền thâu tóm các quyền lợi, đó là tầng lớp các quan chức CS. Bản thân họ và gia đình họ nghiễm nhiên trở thành những nhà tư bản đỏ, những tỷ phú, những địa chủ cường hào như thời xưa. Họ thật sự là giai cấp thống trị trong xã hội.Trong bài “Nghịch lý” Thái Bình - “Nghịch lý” Việt Nam” viết ngày 15/5/1998 nhân dịp kỷ niệm lần thứ nhất cuộc nổi dậy của nông dân Thái Bình, chúng tôi đã đi đến kết luận: “...Những ‘nghịch lý’ đó nói lên điều gì? Chúng nói lên rằng: cuộc cách mạng nhân dân đã bị phản bội và đại chúng tham gia cuộc cách mạng đó đã bị phản bội.”... “Chính tập đoàn thống trị cùng với giai cấp quan liêu cầm quyền này đã phản bội cuộc cách mạng nhân dân.”3.
Chế độ độc tài toàn trị của ĐCS đã đem lại vô vàn hậu quả cực kỳ thảm khốc cho đất nước và nhân dân ta: hàng trăm lãnh tụ và cán bộ chủ chốt của các đảng yêu nước không CS đã bị giết hại, trên 172 ngàn người đã là nạn nhân oan uổng trong cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu ở miền Bắc, khoảng 5-6 triệu quân nhân và thường dân của cả hai miền đã bỏ mạng trong cuộc chiến tranh Bắc-Nam, hàng trăm ngàn người bị rục xác trong ngục tù CS, tình trạng chia rẽ, hận thù trong dân chúng vô cùng trầm trọng... Do đường lối, chính sách “xây dựng chủ nghĩa xã hội” mà ĐCS đã tàn phá nền kinh tế của đất nước, đẩy lùi nền văn hóa, giáo dục của dân tộc, làm cho nước ta bị lạc hậu gấp nhiều lần so với các nước láng giềng mà trước năm 1945 trình độ phát triển còn thấp hơn nước ta. Chế độ độc tài toàn trị đã tạo nên một xã hội đầy bất công, đầy tham nhũng, đầy tội ác; đạo đức con người băng hoại nặng nề không tưởng tượng nổi. Đặc biệt cần nói thêm, chế độ độc tài toàn trị của ĐCS đã tạo nên một lớp người khiếp sợ, khuất phục cường quyền, vô cảm, ích kỷ và... độc ác.
Một hậu quả cực kỳ nguy hiểm nữa mà chế độ độc tài toàn trị do tập đoàn cầm quyền CSVN đã gây ra cho đất nước và dân tộc ta là: do “chịu ơn sâu nặng” ĐCSTQ ngay từ thời những năm 1930, ông Hồ Chí Minh cùng các lãnh tụ CS đã mù quáng, không thấy rõ mưu đồ của Trung Cộng muốn xâm chiếm nước ta, nên có một thời gian dài họ đã mê muội thuần phục Mao Trạch Đông và các lãnh tụ Trung Cộng, đến nỗi để Trung Cộng lấn dần lãnh thổ của Tổ quốc ta, và thậm chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có công hàm (14.09.1958) “ghi nhận và tán thành” Công bố của Chính phủ Trung Quốc ngày 04.09.1958, thực tế là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gián tiếp phủ nhận chủ quyền của ta trên quần đảo Hoàng Sa! Còn khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bị sụp đổ thảm hại, lãnh đạo ĐCSVN đã vội vã bay đến Thành Đô (09.1990) để quỵ luỵ tìm chỗ dựa mới, hòng cứu ĐCS, cứu chế độ toàn trị của Đảng, mặc dù cách đấy không lâu, hồi năm 1979, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh khốc liệt tàn phá nhiều tỉnh phía Bắc Việt Nam và lấn chiếm lãnh thổ của ta ở gần biên giới. Từ đó, tập đoàn cầm quyền Việt Nam từng bước nhân nhượng TQ về lãnh thổ và lãnh hải nước ta (Hiệp ước về biên giới trên đất liền 30.12,1999, Hiệp ước phân định lãnh hải 25,12.2000), tự nguyện quàng vào cổ dây thòng lọng “16 chữ vàng” và “4 tốt” để bè lũ Trung Cộng thực hiện cuộc xâm lăng “mềm”: Nhà cầm quyền Việt Nam đã để các đoàn lao động TQ xâm nhập sâu vào các nơi hiểm yếu trong nội địa nước ta, cho thuê dài hạn rừng vùng biên giới, để kinh tế TQ tràn ngập thị trường Việt Nam, văn hóa TQ tràn ngập đất nước bằng phim ảnh, sách báo, các trường dạy Hoa ngữ, v.v... tạo ra nguy cơ mất nước rất hiển nhiên. Mới đây, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến chầu Thiên triều đỏ, một bản Tuyên bố chung và 10 văn kiện quan trọng đã được ký chóng vánh trong một ngày 21.06.2013. Đây là sự khuất phục toàn diện vô cùng nhục nhã của tập đoàn thống trị CSVN trước kẻ thù của Dân tộc là bọn “đại bá” Trung Cộng.
Trước hiểm họa mất nước, các công dân yêu nước đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược thì lại bị ĐCS đàn áp rất tàn bạo, nhiều người bị tống vào tù ngục. Như vậy, trước mắt người dân Việt Nam, tập đoàn thống trị CSVN đã hiện nguyên hình là những tên “thái thú” của Trung Cộng. Có thể kết luận rằng chừng nào còn tồn tại chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN thì hiểm họa mất Tổ quốc, mất Dân tộc vẫn còn tồn tại.
Các đảng viên cộng sản trung thực có tư duy độc lập cần sớm “xét lại” để tỉnh thức mà nhận rõ chế độ độc tài đảng trị của ĐCS áp đặt cho Dân tộc ta đã trên 68 năm. Phải nhận rõ ĐCSVN đã và đang là khối u ác tính trên thân thể Dân tộc ta, đang là trở lực lớn nhất trên con đường tiến lên của xã hội Việt Nam, của Dân tộc Việt Nam, đã và đang là trở lực lớn nhất cho cuộc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền của Đất nước, gìn giữ non sông yêu quý. Cần nhận rõ như vậy để tự mình xác định dứt khoát thái độ của một công dân yêu nước, thương dân.
Vẫn biết rằng mọi cuộc chia tay thường là đau buồn, khó khăn, bịn rịn. Điều này, đối với cá nhân tôi và hai người bạn cùng cảnh ngộ là Thượng tá Đỗ Văn Doãn, nguyên Tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân và Đại tá Lê Vinh Quốc, nguyên phó Chính ủy Quân khu III thì lại càng thấm thía. Cuộc chia taycủa chúng tôi với ĐCS hồi năm 1964 thật là vô cùng đau đớn, vì, đối với chúng tôi, cuộc chia tay đó lại gắn liền với việc chia lìa vợ con mà chúng tôi rất yêu quý, chia lìa bà con, họ hàng, xa lìa Tổ quốc, quê hương! Biết bao đêm thao thức, nghĩ suy... Biết bao lần chúng tôi đã bàn đi tính lại với nhau, trao đổi ý kiến với các bạn cùng tư tưởng, như anh Trần Minh Việt, cựu phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, anh Nguyễn Kiến Giang, cựu phó Giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật... Những người bạn này khi về nước thì bị bắt vào tù giam giữ nhiều năm, khi thả ra anh Minh Việt kiệt sức qua đời, còn anh Kiến Giang thì sống vất vưởng trong vòng kiềm tỏa ngặt nghèo cho đến nay.
Nhiều bạn bè đã khuyên chúng tôi: thôi cứ “đánh bài” “ngậm miệng qua thời”, cứ “hoan hô sự anh minh của Đảng”, “chúc tụng muôn năm lãnh tụ” cho xong chuyện để được gần vợ gần con, giữ lấy cái chức vụ đã có, v.v... Chúng tôi không nghe, quyết tâm ở lại và rời bỏ Đảng mà chúng tôi đã phục vụ 20 năm trời. Chúng tôi ở lại nước ngoài chẳng phải để hưởng thụ, nằm im... Nhưng những điều dự định làm thì... than ôi, mấy tháng sau, một cuộc đảo chính cung đình (1964) nổ ra đã thay đổi người lãnh đạo tối cao của nước bạn... Thế là mọi dự định tan thành mây khói! Khoảng 40 anh chị em sinh viên, nghiên cứu sinh hồi đó không về nước, rất thất vọng... cuối cùng, kẻ trước người sau, nhiều người rồi cũng lần lượt hồi hương. Văn Doãn, người bạn thân của tôi, chán nản nhảy từ tầng lầu 6 đập đầu xuống lề đường tự tử! Tôi đau đớn vô cùng, có lúc gần như điên loạn, một thời gian lâu mới trấn tĩnh được để lao vào những việc làm có ích: tôi say mê nghiên cứu, sinh hoạt tâm linh, bắt tay vào việc biên soạn từ điển, v.v... Đấy, tôi kể lại chuyện đời mình để thấy sự chia tay với Đảng thật là đau đớn, nó kéo theo nhiều thiệt thòi cho gia đình, cho anh em, cho bà con, bạn bè...
Nhưng, phải nói thật lòng rằng khi tâm hồn tôi đã bình tĩnh lại, nghĩ cho cùng, việc rời bỏ ĐCS đã đem lại cho tôi nhiều điều tốt.
Trước hết, tôi hoàn toàn được tự do về mặt tư tưởng và tinh thần, tôi thật sự làm chủ cái đầu, cái lưỡi và cây bút của tôi. Đó là điều sung sướng nhất đối với tôi! Tuy rằng với cái thẻ cư trú của một người tị nạn chính trị ở Liên Xô, tôi không được hoàn toàn có tự do về những mặt khác, chẳng hạn về việc đi lại: cũng như các công dân bình thường khác của Liên Xô hồi đó, tôi không được đi ra nước ngoài... Nhưng tự do tư tưởng và tinh thần, tự do nghiên cứu, viết lách đối với tôi là điều quý nhất.
Thứ hai, nếu tôi không thoát ly khỏi ĐCS mà ngoan ngoãn trở về nước thì rất có thể tôi phải chịu số phận bi thảm của các anh Trần Minh Việt, Nguyễn Kiến Giang và biết bao nhiêu cán bộ cao cấp, trung cấp khác, người thì bị chết trong tù, người sắp chết trong tù thì người ta vội vã đưa về nhà... chết, người thì âm thầm chết khi bị giam tại gia...
Thứ ba, tôi không phải trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, mà vì phản đối nó, tôi bị quy “tội” “xét lại-chống Đảng”. Cứ mỗi lần nghĩ đến điều này, tôi thấy lòng mình thật nhẹ nhõm vì đã giữ lập trường đúng và đã dám nói lên sự không đồng tình của mình với Đảng.4
Chỉ có một điều đau đớn day dứt trong lòng là vì tôi thoát ly khỏi Đảng mà vợ con tôi phải chịu biết bao điều khổ cực, biết bao nỗi oan trái do chính sách kỳ thị bất công của Đảng; các anh, các chị và các cháu tôi cũng bị vạ lây... Còn việc bộ máy tuyên huấn của Đảng ra sức vu khống, đặt lắm điều nói xấu tôi và các bạn tôi thì tôi chẳng bận tâm. Cho đến gần đây, báo của Đảng vẫn không ngừng nói xấu tôi. Tôi chẳng để ý, chỉ khi đọc bài của một blogger mà tôi chẳng hề quen đăng trên Đối Thoại phản bác lại tờ báo ấy thì tôi mới biết.5
Tôi kể cụ thể những điều trên để anh chị em đảng viên cộng sản – già cũng như trẻ – còn đang phân vân, hiểu rằng, hơn ai hết, là người “đã qua cầu”, tôi rất thông cảm các bạn. Sự ngập ngừng, do dự của các bạn là rất dễ hiểu. Nhưng, chắc chắn là các bạn sẽ không phải chịu những đau đớn ê chề như chúng tôi. Còn khi các bạn đã dám làm một bước quyết định là ra khỏi cái Đảng độc tài, thối nát, tham nhũng hiện nay rồi thì các bạn sẽ thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường, “vòng kim cô” trên đầu bạn đã biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để các bạn có thể cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho Tổ quốc và Dân tộc, hơn là vẫn phải cúi đầu tiếp tục phục vụ cho tập đoàn thống trị mafia hóa, đội lốt CS, độc tài, tham nhũng./.
Ngày 26/8/2013
Nguyễn Minh Cần
__________________________________________________________
1. Tại hội nghị cán bộ cao cấp và trung cấp ở hội trường Ba Đình hồi tháng 1 năm 1964, ông Trường Chinh đã nói: “Cần đặc biệt lưu ý rằng thực chất của nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng miệng, điều đó là: Đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc”.
2. Vaclav Havel trả lời phỏng vấn của Michael Bongiovanni, Mai Việt Tú dịch, bài đăng trên Dân Luận.
3. Bài này được viết ngày 15/5/1998, đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21 và in trong sách “Chuyện Nước Non” của Nguyễn Minh Cần, NXB Văn Nghệ, Westminster, CA, 1999.
4. Tôi tin chắc rằng đến bây giờ Trung Ương Đảng vẫn còn lưu giữ hồ sơ của Nguyễn Minh Cần, trong đó có bức thư tôi gửi cho Bộ Chính trị khi tôi ở lại Liên Xô, trong thư nói rõ: tôi không đồng tình với việc các vị lãnh đạo Đảng phát động chiến tranh “giải phóng miền Nam”, vì điều đó trái với Nghị quyết Đại hội III (1960) của Đảng mà tôi là một đại biểu của Đại hội đó. Tôi cũng nhắc lại Nghị quyết Đại hội III đã ghi rõ: Đảng chủ trương “hòa bình thống nhất đất nước”.
5. Bài viết của blogger Y Giáo đăng trên Đối Thoại ngày chủ nhật 03.02.2013 với tựa đề “Báo Quân Đội Nhân Dân đã nói sai sự thật về ông Nguyễn Minh Cần như thế nào?”
Nguồn: http://doithoaionline.wordpress.com/2013/02/03/bao-qdnd-da-noi-sai-su-that-ve-ong-nguyen-minh-can-nhu-the-nao/
(Dân Luận)
Nguyễn Minh Cần - Chuyện dài ra Đảng và đa đảng (Bài 2)
Năm 1950, chúng tôi được triệu tập đến căn cứ địa của Trung Ương
để tham dự cuộc họp chuẩn bị cho việc đổi tên ĐCS tại Đại Hội Đảng năm
1951. Cụ Hồ bước lên bục giảng giải đáp thắc mắc cho khoảng ba trăm cán
bộ cao cấp và trung cấp đến họp. Cụ mở nắp hộp thuốc lá thơm của cụ nhãn
hiệu CRAVEN A. Giơ cao nắp hộp phía có chữ CRAVEN A lên trước mặt chúng
tôi, cụ lớn tiếng nói: "Đây là ĐCS", rồi cụ xoay nắp hộp mặt trái phía
trong không có chữ, đưa lên và nói tiếp: "Đây là Đảng Lao Động". Rồi cụ
thủng thẳng hỏi: "Đã rõ chưa? Có khác nhau gì không?" Cả hội trường ầm
vang tiếng đáp: "Rõ rồi ạ! Dạ, không khác nhau gì cả!".
Khi kêu gọi các đảng viên cộng sản “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng”, hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận có nêu vấn đề “thành lập Đảng Dân Chủ - Xã Hội”, nên chúng tôi muốn nói rõ thêm về Chủ Nghĩa Xã Hội- Dân Chủ.
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - DÂN CHỦ
Trước hết, xin nói về từ ngữ. Theo tôi, từ ngữ “xã hội-dân chủ” phản ánh đúng thực chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ hơn là từ ngữ “dân chủ-xã hội”. Vì sao? Vì cơ sở tư tưởng của phong trào “xã hội-dân chủ” là học thuyết về chủ nghĩa xã hội, mà thứ chủ nghĩa xã hội đó là chủ nghĩa xã hội dân chủ; nó khác hẳn thứ chủ nghĩa xã hội chuyên chính vô sản, chủ nghĩa xã hội độc tài, tức là thứ chủ nghĩa xã hội của người cộng sản.
Từ ngữ chủ nghĩa xã hội-dân chủ lần đầu tiên được nhà văn Anh Bernard Shaw dùng năm 1888. Sau này, tại Đại hội thành lập Quốc tế Xã Hội hủ nghĩa (gọi tắt là Quốc Tế Xã hội - SI) tại Frankfurt năm 1951, từ ngữ này đã được chính thức sử dụng. Qua những bước thăng trầm, ngày nay Quốc Tế Xã Hội đã lớn mạnh, đến năm 1999 đã có 143 đảng gia nhập. Những người cộng sản nước ta biết đến chủ nghĩa xã hội-dân chủ và các Đảng Xã Hội-Dân Chủ, chủ yếu qua những bài mạt sát thậm tệ của Lenin, Stalin và những người CS khác... đối với các lãnh tụ của phong trào này, như Ferdinand Lassalle, Karl Kautsky, Eduard Bernstein, v.v.... Các đảng viên CSVN vì bị bưng bít trên 70 năm trời, chỉ được nghe duy nhất một tiếng nói của Lenin, Stalin... không hề được tiếp cận các nguồn tư liệu khác, nên thường có lắm điều ngộ nhận.
Các Đảng Xã Hội-Dân Chủ châu Âu phần nhiều chịu ảnh hưởng của Ferdinand Lassalle (1825–1864), người sáng lập ra Đảng Xã hội-Dân chủ Đức hồi năm 1863 và là chủ tịch đầu tiên của đảng. Mãi 26 năm sau khi Đảng Xã hội-Dân chủ Đức ra đời, Friedrich Engels và một số người khác mới thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa, còn gọi là Quốc tế II. Quốc tế này thu hút các Đảng Xã hội chủ nghĩa, trong đó có Đảng Xã hội-Dân chủ Đức. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, trong hàng ngũ Quốc tế II có nhiều phái khác nhau, trái nhau về quan điểm và đường lối. Đến năm 1914 vì không thống nhất được với nhau về chiến lược cũng như phương thức đấu tranh nên Quốc tế II phải giải tán.
Trong phong trào xã hội-dân chủ có một phái nhỏ những người theo chủ nghĩa Marx, chủ trương cách mạng bạo lực giành chính quyền, đập tan bộ máy nhà nước cũ, thiết lập chuyên chính vô sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là Vladimir Lenin, Rosa Luxemburg, Karl Liebknecht... Về sau những người này tách ra thành lập Đảng Cộng sản. Lenin và những người CS căm ghét các lãnh tụ và đảng viên các Đảng Xã hội-Dân chủ, mạt sát họ tàn tệ, còn khi nắm được chính quyền ở Nga thì thẳng tay đàn áp, thậm chí tiêu diệt họ về thể xác.
Các phái khác trong phong trào xã hội-dân chủ thì ôn hòa hơn, họ chủ trương xét lại chủ nghĩa Marx, từ bỏ con đường bạo lực cách mạng, phủ nhận chuyên chính vô sản, v.v... như Karl Kautsky, Eduard Bernstein, Rudolf Hilferding, Friedrich Adler... Những người này chú trọng công bằng xã hội, chủ trương quốc hữu hóa những xí nghiệp quan trọng về chiến lược, nhà nước can thiệp vào kinh tế, đối tác xã hội giữa những người lao động và những người thuê nhân công, xây dựng một xã hội dân chủ đa nguyên về tư tưởng, đa đảng về chính trị, dựa vào những nguyên tắc tự do và tình huynh đệ, bảo đảm triệt để quyền con người, bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người lao động – không chỉ giai cấp công nhân, mà cả giới trí thức, nông dân, các trại chủ và tầng lớp trung gian, kể cả các doanh nhân nhỏ và vừa. Họ cho rằng điều kiện quan trọng nhất để xác lập chủ nghĩa xã hội đúng thực chất là thực hiện nền dân chủ chân chính trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội.
Dân chủ chính trị phải bảo đảm cho người dân mọi quyền và quyền tự do của công dân, bảo đảm tính đa đảng, chế độ nghị trường, quyền phổ thông bầu cử, thượng tôn luật pháp và sự tham gia thực sự của người dân vào việc điều hành công việc xã hội.
Dân chủ kinh tế nhằm chống lại sự tập trung quyền lực kinh tế vào tay một thiểu số, để mỗi người đều có thể ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và phân phối. Vì thế dân chủ kinh tế phải nhằm xây dựng một hệ thống kinh tế đảm bảo được việc sử dụng nguồn tài nguyên xã hội cho lợi ích của mọi người. Theo quan niệm của những người xã hội-dân chủ, quyền lực kinh tế trong xã hội không thuộc những người nắm phương tiện sản xuất, mà thuộc về những người điều hành chúng. Vì vậy áp dụng dân chủ kinh tế phải được bảo đảm không phải bằng việc tước đoạt sở hữu của những người chủ xí nghiệp, mà bằng cách làm cho đông đảo người lao động tham gia ngày càng nhiều vào việc điều hành doanh nghiệp, cả ở các xí nghiệp riêng lẻ (qua các hội đồng sản xuất, kiểm tra lượng người làm, việc trả công lao động và điều kiện lao động, hợp đồng tập thể giữa người lao động và chủ các xí nghiệp), cũng như trong phạm vi toàn xã hội (qua việc thành lập các cơ quan đối tác xã hội giữa người lao động và các nhà kinh doanh, việc mở rộng lĩnh vực sở hữu của thị chính, của hợp tác xã, của nghiệp đoàn, v.v...). Trước đây, những người xã hội-dân chủ chủ trương quốc hữu hóa và kế hoạch hóa, ngày nay, họ nhấn mạnh vai trò của thị trường, nhưng vai trò này phải được nhà nước điều tiết. Còn nhà nước phải khá “ôn hòa” và không được gây trở ngại cho sáng kiến riêng của cá nhân.
Dân chủ xã hội là mục tiêu cuối cùng của những người xã hội-dân chủ, nó nhằm bảo đảm mọi quyền lợi xã hội của người lao động (các quyền lao động, học vấn, nghỉ ngơi, trị bệnh, nhà ở, bảo đảm xã hội), cũng như phải xóa bỏ mọi hình thức áp bức, kỳ thị, người bóc lột người, bảo đảm các điều kiện để cho sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ phải đạt tới bằng nhưng phương tiện hòa bình và dân chủ, bằng sự tiến hóa dần dần của xã hội, nhờ những cải cách, nhờ sự hợp tác giữa các giai cấp, dựa trên sự ủng hộ của nhà nước dân chủ.
Những điều trình bày trên đây về chủ nghĩa xã hội-dân chủ không chỉ là lý thuyết mà đã được thực hiện hàng chục năm rồi trong thực tiễn ở nhiều nước châu Âu, đặc biệt ở Bắc Âu, như ở Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan; những nơi đó tự do dân chủ được đảm bảo tuyệt đối, xã hội rất trong sạch, hầu như vắng bóng nạn tham nhũng, nên chất lượng đời sống của người dân rất cao. Một vài nước châu Âu, như Đức, Pháp, Anh..., châu Mỹ, như Canada, châu Úc, như nước Australia cũng đã đạt được nhiều thành tựu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ. Còn tình trạng các nước do các ĐCS đi theo con đường của chủ nghĩa Marx-Lenin, nhân dân bị thống trị bi đát như thế nào, tưởng không cần phải nói.
Nói đến những nhân vật đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn ở nước ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ thì tôi rất đồng tình với hai ông Hà Sĩ Phu và Mai Thái Lĩnh, là trước tiên phải nói đến nhà chí sĩ Phan Châu Trinh (1872-1926). Cụ là một nhà dân chủ Việt Nam không kêu gọi bạo lực, không có đầu óc chuyên chính. Người thứ hai chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ là Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ (1920-1947). Ông đã sáng lập ra Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng (ngày 21.09.1946), gọi tắt là Đảng Dân Xã. Đảng này theo nguyên tắc “chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân”, chủ trương “toàn dân chánh trị” và “chống độc tài bất cứ hình thức nào”. Nét độc đáo của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là tư tưởng xã hội-dân chủ hòa quyện với giáo lý đức Phật.
Chúng tôi viết nhiều về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, mà ít nói đến Đảng Xã Hội-Dân Chủ, vì nghĩ rằng, phấn đấu để thực hiện chủ nghĩa xã hội-dân chủ, không chỉ có các Đảng Xã Hội-Dân Chủ. Đảng của những người xã hội-dân chủ còn có thể mang nhiều tên khác, như Đảng Lao động, Đảng Công Chân, Đảng Công Bằng, Đảng Chính Nghĩa, v.v... Cái tên đảng không phải là quan trọng, cái chính, cái thực chất là cương lĩnh, là mục tiêu đấu tranh của đảng, tức là chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực. Chúng tôi nhấn mạnh chữ “đích thực”, vì trên đời này, khi có những thứ tốt thuộc “hàng chính hiệu” thì thường cũng xuất hiện nhiều “hàng giả”, “hàng nhái”. Điều này dễ thấy ở một vài nước CS gọi là “xã hội chủ nghĩa”: Khi “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” bị sụp đổ hồi cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ trước thì ban lãnh đạo một vài ĐCS vội vàng thay đổi nhãn hiệu, đổi tên đảng thành Đảng Xã Hội-Dân Chủ, Đảng Xã Hội, Đảng Dân Chủ, và tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội-dân chủ, chỉ cốt để bảo vệ quyền lực của giai cấp cầm quyền cũ, chứ thực ra họ vẫn giữ thực chất CS. Đó là một thực tế, các chiến sĩ dân chủ cần cảnh giác.
Viết đến đây, chúng tôi không thể không nhắc đến ý kiến của Giáo sư Phan Đình Diệu, một trong những nhà trí thức khả kính. Ý kiến của ông như thế này: “Tôi hy vọng là Đảng (cộng sản) sẽ tự biến đổi thàng Đảng xã hội dân chủ để lãnh đạo nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ, như vậy thì cả vấn đề giữ quyền lãnh đạo cho Đảng (cộng sản) và tạo ra một nền dân chủ của xã hội đều được giải quyết một cách trọn vẹn, và do đó, nước ta sẽ sớm thực hiện được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập vào quốc tế.” Giáo sư Tiến sĩ Phan Đình Diệu giỏi về toán học, ông là người khảng khái, chính trực, nhưng chưa chắc ông đã giỏi về chính trị học. Bài toán khó khăn của Đất nước mà Tiến sĩ giải cách này, chúng tôi tin chắc rằng “đáp số” sẽ làm ông thất vọng nặng nề!
Nhân tiện, cũng xin nói thêm điều này: hiện nay ở Việt Nam, có những nhân sĩ, trí thức... đề nghị đổi tên ĐCSVN thành Đảng Lao Động Việt Nam, đổi tên nước CHXHCNVN thành Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam, tưởng như vậy thì tình hình Việt Nam sẽ thay đổi hẳn, mọi sự sẽ tốt lên. Về chuyện đổi tên, kẻ viết bài này có học được một bài học rất thấm thía do Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh dạy cho. Xin chia sẻ cùng các bạn: Năm 1950, chúng tôi được triệu tập đến căn cứ địa của Trung Ương để tham dự cuộc họp chuẩn bị cho việc đổi tên ĐCS tại Đại hội Đảng năm 1951. Cụ Hồ bước lên bục giảng giải đáp thắc mắc cho khoảng ba trăm cán bộ cao cấp và trung cấp đến họp. Cụ mở nắp hộp thuốc lá thơm của cụ nhãn hiệu CRAVEN A. Giơ cao nắp hộp phía có chữ CRAVEN A lên trước mặt chúng tôi, cụ lớn tiếng nói: “Đây là ĐCS”, rồi cụ xoay nắp hộp mặt trái phía trong không có chữ, đưa lên và nói tiếp: “Đây là Đảng Lao Động”. Rồi cụ thủng thẳng hỏi: “Đã rõ chưa? Có khác nhau gì không?” Cả hội trường ầm vang tiếng đáp: “Rõ rồi ạ! Dạ, không khác nhau gì cả!”.
Đúng là bài học nhớ đời! Dưới thời Đảng Lao Động Việt Nam cũng như dưới thời ĐCSVN, dưới thời VNDCCH cũng như dưới thời CHXHCNVN, mọi tầng lớp nhân dân đều phải chịu biết bao thảm kịch! Lẽ nào các nhà trí thức, các nhân sĩ và toàn dân ta không thấy hay sao?
Chúng tôi đánh giá cao tâm nguyện của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, khi hai ông kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã hội-Dân chủ. Lời kêu gọi xây dựng một chế độ dân chủ đa đảng, đa nguyên và kêu gọi thành lập một Đảng Xã hội-dân chủ đáng trân trọng. Có người còn cho đó là “bản tuyên ngôn về con đường nhất thiết phải đi...” mặc dù đó chỉ là một lời kêu gọi thôi, không có cương lĩnh, mục tiêu, chương trình gì cụ thể cả.
Thật ra, lời kêu gọi đó của hai ông không có gì mới. Khi nói đến “tuyên ngôn”, thiết tưởng cần phải nhắc lại để mọi người nhớ: Cách đây trên 7 năm, lần đầu tiên trong lịch sử phong trào dân chủ nước ta, đã từng có một bản tuyên ngôn của 118 công dân ở trong nước (xin nhấn mạnh ba chữ ở trong nước) khao khát tự do dân chủ được công bố công khai ngày 08.04.2006. Đó là “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006” (còn gọi là Tuyên ngôn 8406). Tuyên ngôn đó đã nói rất rõ ràng và mạnh mẽ về mục tiêu đấu tranh cho một chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng, mục tiêu đấu tranh cho mọi quyền tự do, dân chủ. Tuyên ngôn đó, được trên 5000 người Việt Nam trong và ngoài nước công khai ký tên, và được 140 chính khách quốc tế bảo trợ, trong đó có cố Tổng thống Vaclav Havel.
Tuyên ngôn 8406 vạch rõ rằng, sau khi cướp được chính quyền, ĐCS đã thủ tiêu quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đã chà đạp thô bạo tất cả những quyền thiêng liêng về tự do, dân chủ, cũng như quyền được sống yên bình và mưu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn 8406 nhận định rằng, vì “lấy chủ nghĩa Mác-Ăng-ghen-Lênin-Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, kết hợp với thực tiễn Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng” nên ĐCS đưa “bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân Việt Nam”, ... “đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả hai mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam”. Tuyên ngôn 8406 nói rõ “Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu.” Còn “Mục tiêu cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dân sau đây: Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận...”, “Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng cử...”, “Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc lập và Quyền Đình công chính đáng...”, “Quyền Tự do Tôn giáo...”. Tuyên ngôn 8406 tuyên bố rõ ràng “Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa bình, bất bạo động...” (các chữ in đậm trong các ngoặc kép là theo đúng nguyên bản).
Chúng tôi nghĩ rằng Tuyên ngôn 8406 này rất xứng đáng làm bảng chỉ đường cho phong trào đấu tranh giành Tự do, Dân chủ ở nước ta. Chính vì đấu tranh cho một Cương lĩnh đúng đắn như vậy, nên đến nay dù bị khủng bố rất ác liệt, hàng trăm chiến sĩ dân chủ của Khối 8406 đã bị truy bức, sách nhiễu, đàn áp hết sức tàn bạo, bị tống vào tù ngục CS, bị quản chế tại nhà, nhưng phong trào dân chủ vẫn được duy trì và ngày càng phát triển. Cho đến nay đã có 190 thành viên của Khối 8406 là nạn nhân của sự đàn áp như vậy, trong số đó 65 chiến sĩ dân chủ bị lãnh án tù giam từ 7 năm trở lên! Rất nhiều chiến sĩ của Khối 8406 đã nêu gương đấu tranh kiên cường trong nhà tù. Chúng tôi không thể nêu hết tên của họ, vì sợ chiếm nhiều chỗ trong bài.
Cũng cần nói thêm, Khối 8406 còn đề ra “Cương lĩnh Khối 8406” và công bố “Tiến trình Dân chủ hóa Việt Nam gồm 4 giai đoạn & 8 bước”. Khối 8406 đã phát hành tờ bán nguyệt san “Tự Do Ngôn Luận”, vừa là báo mạng vừa là báo giấy có 32 trang A4 để vận động cho tự do dân chủ, chống chế độ độc tài toàn trị. Từ ngày 15.04.2006 đến ngày 01.09.2013, bán nguyệt san không xin phép này đã ra được 178 số. Khối 8406 còn thường xuyên ra những lời tuyên bố, những lời kêu gọi, những nhận định, những kháng thư... để hướng dẫn dư luận, phản đối nhà cầm quyền và động viên đại chúng đấu tranh.
Chúng tôi nghĩ rằng cần phải nói những điều này để mọi người nhìn thấy rõ những thành tựu đã có, không vì những hiện tượng mới bộc phát mà che lấp những thành tựu đã thực hiện được bằng nỗ lực, bằng xương máu, nước mắt và mồ hôi của hàng trăm, hàng nghìn người!
Khi đọc kỹ những bài viết và bài nói (trả lời phỏng vấn) của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, chúng tôi không thể không nói đến tính hời hợt, thô thiển, chưa chín chắn của những lập luận của hai ông.
Nhiều người có nhận xét về điều ông Lê Hiếu Đằng đã cho biết: “Nằm trong bệnh viện... tôi đã suy nghĩ, đọc một số bài báo rồi các nhà văn, nhất là những nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu” rồi ông mới “thấy sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở miền Bắc, một xã hội không có bóng người”, ông chuyển biến tư tưởng và hạ bút viết bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh”. Người đọc có thể nghĩ rằng sự hiểu biết của ông Lê Hiếu Đằng như thế là chưa sâu sắc. Nhưng dẫu sao tôi cũng mong rằng nhận thức của ông Đằng còn chín chắn hơn nhiều so với cái “hiểu loáng thoáng” của ông Nguyễn Tất Thành1 hồi năm 1920, khi ông này nhảy từ Đảng Xã Hội Pháp sang Quốc tế III; mà vì cú nhảy đó Đất nước và Dân tộc Việt Nam đã và đang chịu biết bao tai họa! Chuyện ông Lê Hiếu Đằng chuyển từ ĐCS sang cổ động cho Đảng Xã Hội-Dân Chủ làm ta nhớ đến “cú nhích chân” (cụm từ của Tiến sĩ Hà Sĩ Phu) của ông Nguyễn Tất Thành mà Tiến sĩ đã nhắc đến trong bài “Xưa nhích chân đi, giờ nhích lại” bước từ Đảng Xã Hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin, chỉ vì ông Nguyễn Tất Thành thấy “Đệ Tam Quốc Tế rất chú ý đến vấn đề thuộc địa”2, ...“Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã Hội và chủ nghĩa Cộng Sản là gì thì tôi (tức Nguyễn Tất Thành) chưa hiểu”3. Thậm chí “Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa” của Lenin đăng trên báo L’Humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy ông Nguyễn Tất Thành “cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi”4.
Về vấn đề thành lập đảng đối lập, ông Bằng Phong Đặng Văn Âu đã viết chí lý trong bài “Căn bệnh khủng hoảng trí tuệ”: “...Là luật gia, là nhà hoạt động chính trị, ông Đằng nói đến thành lập đảng đối lập với chính quyền cộng sản có vẻ rất tài tử, khơi khơi. Ít nhất ông phải phác họa vắn tắt về cái chủ trương, đường lối (của đảng ấy) như thế nào để người đọc biết ý ông ra sao.”
Hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận nên xem lại mình có ngây thơ không, khi nói rằng: “Chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng, chứ chưa có một văn bản nào cấm điều này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta.” Các ông quên rằng hai ông cũng như toàn dân nước ta đang sống dưới chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN hay sao? Xưa nay có bao giờ ĐCS coi trọng luật pháp, coi trọng nguyên tắc pháp lý đâu, tất cả những thứ đó trong mắt đám cầm quyền CS chỉ là những quan niệm tư sản về pháp quyền phải vứt bỏ. Ngoài miệng họ vẫn nói “thượng tôn pháp luật”, nhưng đó là thứ “pháp luật phi pháp” của họ thôi mà họ bắt người dân phải theo! Thực ra họ có coi pháp luật ra cái gì đâu? Thế thì mấy chữ của ông Lê Hiếu Đằng “Cần cho lập thêm các đảng đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam” có nghĩa lý gì với họ?
Thành thật mà nói, đọc những điều hai ông nói và viết về dân chủ đa đảng và về Đảng Xã Hội-Dân Chủ, chúng tôi thấy rằng nhận thức của hai ông còn... – xin đừng giận vì lời nói thẳng – thô thiển và mơ hồ. Về vấn đề này, chúng tôi hoàn toàn đồng tình với nhà báo Ngô Nhân Dụng, viết trong bài “Ông Hồ Ngọc Nhuận cần đổi cách suy nghĩ”. Ông Ngô Nhân Dụng có lời khuyên rất chí lý: “Trong lúc tranh đấu để thiết lập một xã hội dân chủ tự do chúng ta cần sống theo lối tự do dân chủ”. Chúng xin nói thêm: Mà muốn sống theo lối tự do dân chủ thì phải hiểu thấu đáo xã hội dân chủ tự do đích thực nó phải như thế nào?
Cũng như khi kêu gọi thành lập Đảng Xã Hội-Dân Chủ thì phải hiểu thấu đáo về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, về lịch sử của phong trào xã hội-dân chủ thế giới, về mục tiêu của chủ nghĩa đó qua các thời kỳ lịch sử cũng như về cương lĩnh của Đảng Xã Hội-Dân Chủ, phải nói rõ sự khác biệt to lớn của mục tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ so với chủ nghĩa xã hội-chuyên chính vô sản, tức là chủ nghĩa xã hội- độc tài của những người cộng sản. Đáng tiếc là hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận đã không làm được điều đó. Có chỗ ông Lê Hiếu Đằng lại viết ông muốn “thành lập một đảng mới, chẳng hạn như đảng Dân Chủ-Xã Hội”. Người đọc cảm thấy dường như ông chưa chắc chắn lắm, hoặc chưa quyết định dứt khoát. Thế thì làm sao người ta có thể đáp ứng lời kêu gọi của ông?
Tôi ngạc nhiên khi nghe Luật gia Lê Hiếu Đằng trả lời phóng viên RFI, ông nói rằng ông “phân tích theo quan điểm Mác-Lênin thôi”, dựa theo những điều ông đã “học abc của chủ nghĩa Mác-Lênin” thì ông thấy chế độ độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại (ý nói chủ nghĩa Mác-Lênin)”. Như vậy là ông không biết rằng cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” của Lenin và Stalin bao giờ cũng chủ trương độc đảng, tức là chỉ một mình đảng cộng sản độc tôn thống trị, cái đó Lenin gọi là “hegemonia” (Nhà xuất bản Sự Thật dịch là độc quyền lãnh đạo) của ĐCS. Chính cái đó mới đẻ ra chế độ độc tài toàn trị CS với nguyên tắc “chuyên chính vô sản” – đó là nguyên nhân của mọi tai họa của Đất nước và Dân tộc VN ta! Thế mà ông Lê Hiếu Đằng lại cho chế độ độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại” chủ nghĩa Mác-Lênin!
Tôi giật mình khi thấy ông nói rằng: “Trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội”ông đại tá nói thời kỳ Mao già rồi cũng nghiêng về khuynh hướng dân chủ xã hội của Đệ Nhị Quốc tế, rồi bản thân ông cũng đề nghị như vậy”! Có thể nào một người đang kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ lại có thể mơ hồ đến thế về tên độc tài CS đẵm máu nhất nhì thế giới của thế kỷ 20?
Hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận kêu gọi các đảng viên cộng sản ra khỏi Đảng để thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ đối lập với ĐCS. Có lẽ hai ông chưa nghĩ sâu rằng: nếu một Đảng Xã hội-Dân chủ chỉ gồm rặt những đảng viên cộng sản cũ thì cái Đảng Xã hội-Dân chủ đó có thể bảo đảm thực hiện đúng tinh thần và thực chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực hay không? Hay một thời gian nào đó, đảng ấy sẽ mất đi tính đối lập mà quay trở lại thỏa hiệp với đảng cầm quyền? Một Đảng Xã hội-Dân chủ kiểu đó có khả năng thâm nhập được vào đại chúng không? Hay nó chỉ tự đóng mình trong câu lạc bộ “các cụ lão thành cựu đảng viên CS”? Vì sao hai ông không đặt vấn để rộng rãi hơn, không kêu gọi các tầng lớp khác, thanh niên, công nhân, lao động, trí thức, nông dân, doanh nhân, trại chủ cùng tham gia Đảng Xã Hội-Dân Chủ? Chính những lớp người này không bị những nếp nghĩ theo lối CS hằn sâu trong óc, không bị nhiễm sâu trong máu những tư tưởng, phong cách CS mới có khả năng tiếp thụ chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực, mới có khả năng cạnh tranh với ĐCS và ít khuynh hướng thỏa hiệp với ĐCS. Cạnh tranh thật sự với ĐCS, đối lập chính trị thật sự với ĐCS thì mới có hy vọng thay đổi chính quyền qua các cuộc bầu cử tự do, chứ nếu cứ nghĩ rằng “cùng hợp tác (với ĐCS) để thúc đẩy xây dựng dân chủ cho nước Việt Nam” thì e rằng chẳng mấy chốc Đảng Xã Hội-Dân Chủ chỉ gồm các cựu đảng viên CS sẽ trở thành “cái đuôi” của ĐCS!
Dù chúng tôi có nhiều thiện cảm với chủ nghĩa xã hội-dân chủ, nhưng để đấu tranh với ĐCS, chúng tôi nghĩ rằng không nhất thiết đảng đối lập phải là (hoặc chỉ là) Đảng Xã Hội-Dân Chủ mà còn cần đến nhiều đảng khác nữa, nhiều tổ chức, nhiều phong trào, nhiều diễn đàn, nhiều mặt trận, nhiều liên minh, ngay cả nhiều hội đoàn có hay không có tính chính trị nữa. Mỗi đảng, mỗi tổ chức đại biểu cho một lớp người có ý hướng, có quyền lợi, có mục tiêu, có sở thích... giống nhau, tất cả những cái đó hình thành một xã hội dân sự mạnh mẽ mới có khả năng đối lập với ĐCS và chính quyền CS.
Dù rằng trong nhận thức, quan niệm hoặc cách diễn đạt hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận còn có chỗ bất cập, thiếu sót, nhưng hai ông đã can đảm gióng lên tiếng nói chính nghĩa trong lúc nhiều người còn mê ngủ. Điều đó thật đáng hoan nghênh ./.
Ngày 01/09/2013
Nguyễn Minh Cần
_____________________________________________
1. Người viết cố ý không dùng tên Nguyễn Ái Quốc, vì đó là một bút danh tập thể của một nhóm người mà ông Nguyễn Tất Thành đã chiếm làm của riêng.
2. Trích từ sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.
3. Trích từ bài “Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lenin” của Hồ Chí Minh.
4. Lời của Hồ Chí Minh được nhắc lại trong bài “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” của Lữ Phương.
(Dân Luận)
Ông Bá Thanh cần mở rộng 'tầm ngắm'?
Thứ khiến cho người dân bức xúc, phẫn
nộ, thứ gây mất mát niềm tin lớn nhất, lại là thứ mà đôi khi chẳng mấy
cơ quan chống tham nhũng để ý: Tham nhũng vặt.
- >> Hễ "đụng" án tham nhũng là nể nang, né tránh?
- >> Soi lại chuyện "lương trên trời"
- >> Lương không đủ café, lậu đủ sắm... nhà lầu
Mới đây, Trưởng ban Nội
chính TƯ Nguyễn Bá Thanh phát biểu đề nghị Ban Nội chính các tỉnh "Hành
quân và phát động thi đua tìm kiếm các vụ việc (tham nhũng) mới... Từ
nay đến cuối năm phát hiện ít nhất một vụ việc tham nhũng để xử lý". Bởi
theo ông "cứ ngồi than vãn thì không bao giờ đạt được kết quả".
Chống tham nhũng có cần "hành quân" như ra trận không?
Có chứ. Tại diễn đàn QH, tham nhũng được mô tả như "giặc nội xâm"
trên mặt trận không có tiếng súng, nhưng ác liệt hơn ngoài chiến trường.
Và thứ mà chúng phá hoại là những rường cột xã hội được gọi là niềm
tin. Như chính Trưởng ban Nội chính cũng đã nói "cái khó nhất chính là
đụng chạm trực tiếp đến người thân, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp và
không loại trừ cả cấp trên".
Chống tham nhũng có cần phát động thi đua không?
Có. Thi đua để từ đó, chống tham nhũng để trở thành thái độ xã hội.
Để người ta không chặc lưỡi hay mũ ni che tai khi nhìn thấy những tiêu
cực quanh mình. Để ít nhất những người chống tham nhũng, như chị Oanh
Hoài Đức chẳng hạn, không phải rơi nước mắt tủi phận trong chính ngày mà
họ được biểu dương, khen thưởng.
Chống tham nhũng có cần chỉ tiêu không?
Câu trả lời cũng là có. Chống tham nhũng không thể chỉ là hô hào, để
rồi sau đó là tình trạng đầu voi đuôi chuột mà ví dụ thời sự nhất vừa
được Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp Nguyễn Mạnh Cường nêu ra: "Có
những tỉnh như Ninh Bình, hai năm xử được 9 bị cáo về tội tham nhũng thì
8 vị được hưởng án treo". 9 bị cáo, 8 án treo. Hay "hai năm xử 3 vụ, và
2 trong đó là án treo". Hoặc tệ hơn: Có nơi 100% án treo.
Trưởng Ban nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh. Ảnh: Lê Anh Dũng |
Đưa tham nhũng vặt
Nhưng câu chuyện chống tham nhũng, có lẽ không chỉ là phát động, là thi đua, là hành quân, là chỉ tiêu. Lại càng không phải chỉ là những vụ lớn, đong đếm bằng "hàng ngàn tỷ". Thứ khiến cho người dân bức xúc, phẫn nộ, thứ gây mất mát niềm tin lớn nhất, lại là thứ mà đôi khi chẳng mấy cơ quan chống tham nhũng để ý: Tham nhũng vặt.
Đài tiếng nói Việt Nam vừa đưa ra dư luận một vụ việc khiến dư luận sững sờ trước nỗi truân chuyên của một vị giám đốc.
Để có được một dự án Chợ Kim Nỗ (Đông Anh, Hà Nội), "đối tác" đã phải "bắn" hơn 130 con dấu và 8 sở, ban, ngành. "Hơn 130 con dấu của tất cả các cơ quan công quyền, mỗi con dấu là một cái "bốt", nếu không "bắn" vào đó thì không thể qua được". Và "phí bôi trơn" được kê lên tới hơn 18,2 tỷ. Mở ngoặc nói thêm, toàn bộ dự án có tổng mức đầu tư vào khoảng 40 tỷ đồng.
Một chi tiết không tình cờ: Vị doanh nhân khổ chủ nọ tuy là người Việt nhưng từ lâu đã định cư nước ngoài. Và một cái chép miệng: Việt Nam mình nó thế.
Câu chuyện khốn khổ này cho thấy nhiều thực tế. Rằng chính những cái "bốt" đang hủy hoại những nỗ lực của Chính phủ trong việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Liệu vị doanh nhân khốn khổ nọ sẽ còn dám một lần quay lại để đầu tư về quê hương? Để yêu nước?
Năm 2007, trong một cuộc tiếp xúc cử tri, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cho biết: "Bản thân tôi cũng bị hành" khi nghe cử tri phản ánh kêu than trước việc hành dân của cán bộ nhà nước.
Người dân, trong sự bất lực với cái chép miệng "Việt Nam mình nó thế", còn thấm thía hơn rằng sự cau có, gắt gỏng, coi thường, làm khó đó sẽ ngay lập tức trở thành một nụ cười nếu họ biết điều. Điều gì? Là "Việt Nam mình nó thế". Là "không phải nói một là một, hai là hai". Là phải "bắn" thật mạnh mới có thể qua "bốt".
Có lẽ, cơ quan chức năng sẽ phải mất rất nhiều thời gian trước những vụ như thế này. Cũng như còn cần nhiều năm nữa để làm giảm bớt được tình trạng "Việt Nam mình nó thế", ngay từ trong tư duy của cả những nạn nhân của tham nhũng.
Một cách vui tính, bạn đọc VietNamNet vừa đề nghị ông Thanh nên công khai địa chỉ email, dù ngay sau đó, họ lo lắng rằng mail của trưởng ban Nội chính sẽ nghẽn. Nghẽn vì giờ đây tham nhũng không còn là chuyện con sâu nữa, mà đã là chuyện "nồi đầy sâu". Nghẽn vì dẫu sao, trong mắt dân chúng, ông Thanh vẫn là người thẳng thắn, bộc trực, là người nói đi đôi với làm, và họ tin vẫn còn có người chống tham nhũng.
Nhưng tham nhũng đâu có vô hình, đâu có thiên biến vạn hóa. Nó hiển hiện ngay trong các tòa công sở, trong mồ hôi nước mắt, nỗi bức xúc, tức giận của người dân mỗi khi lâm cửa quan.
Hôm 4/9, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nói rằng "chỉ cần chú tâm quan sát hiện tượng, hành vi... ở một vài cơ quan hay giao tiếp với dân là sẽ dễ dàng thấy ngay".
ĐBQH Nguyễn Bá Thuyền từng bảo: "Chống tham nhũng phải như quét cầu thang, quét từ trên quét xuống chứ không phải quét từ dưới quét lên". Những vụ tham nhũng lớn cần được xử lý nghiêm minh và công khai, để người dân thấy rằng có thể tin vào quyết tâm chống tham nhũng.
Tuy nhiên, cũng xin đừng xem tham nhũng vặt là chuyện "Việt Nam mình nó thế". Bởi số tiền hàng chục ngàn đô hay hàng tỷ đồng mà một vị quan chức tham nhũng chắc chắn sẽ không gây bức xúc dư luận, không làm mất niềm tin bằng câu chuyện nhan nhản những cái "bốt" có thể nhìn thấy hàng ngày, bằng mắt thường.
Phải mở rộng "tầm ngắm" để dân được nhờ, thưa ông Nguyễn Bá Thanh!
Đào Tuấn
(VNN)
Lê Thăng Long – Bác Lê Hiếu Đằng và con đường Dân chủ
Đất nước ta trường tồn, từ thuở sơ khai cha ông dựng nước, truyền mãi
cho con cháu đến hôm nay là nhờ những tấm lòng yêu nước. Từ những người
trẻ tuổi ăn chưa no lo chưa xong đến những người tuổi thất thập cổ lai
hy gần đất xa trời, luôn đau đáu nghĩ về tương lai đất nước và xả thân
khi cần.
Dù được xuất thân trong một gia đình thuận lợi,
mới đi nửa cuộc đời, còn sức trai trẻ nhưng tôi thấy cuộc đời thật nặng
gánh và nhiều khi thấy mệt mỏi vô cùng. Khi tuổi cao sức yếu, có lẽ tôi
chỉ mong được sống những ngày bình yên, quây quần bên con cháu. Ngẫm
nghĩ về bản thân mà tôi rất phục cho những chú, những bác tuổi cao sức
yếu nhưng đau đáu vì nước non, tham gia con đường dân chủ khốc liệt. Đặc
biệt nhiều người trong số họ thời trai trẻ đã cháy hết mình với “lòng
yêu nước” trong sáng để góp công xây nên chế độ này, nay lại vỡ lẽ ra và
lại phải bắt đầu bằng một con đường mới thay vì hưởng thụ tuổi già và
thành quả cách mạng từ chế độ ban thưởng. Trong số những bậc cao niên
tôi vừa nói là bác Lê Hiếu Đằng.
Thời gian gần đây, ít
người tạo nên một dư luận rộng rãi như bác Lê Hiếu Đằng. Từ khi bác viết
bài “SUY NGHĨ TRONG NHỮNG NGÀY NẰM BỆNH”, đã làm cho các diễn đàn dân
chủ thật sự dậy sóng. Khen ngợi, động viên, khuyến khích cũng có mà ném
gạch cũng nhiều, thậm chí là công kích, dè bỉu. Một số còn cực đoan hơn
là mang quá khứ của bác ra mà hoạch họe, nghi ngờ, thậm chí là “hỏi
tội”.
Dù có thể mong muốn bác chưa thành, gợi ý của dự án
kêu gọi thành lập đảng Dân Chủ Xã Hội của bác còn dang dở nhưng tấm lòng
bác đối với đất nước là sắc son. Việc bác làm có tác động rất lớn đối
với tiến trình dân chủ hóa đất nước là tạo ra một cuộc tranh luận rộng
lớn trong giới trí thức và bình dân. Qua cuộc tranh luận này, người dân
có kiến thức thêm về đảng phái, tính pháp lý cầm quyền của Đảng Cộng
Sản. Một bước khai dân trí ngoạn mục.
Dưới góc nhìn của
tôi, bác đã góp phần vào cái mà chúng tôi hay thường nói là “cuộc cách
mạng suy tưởng”. Điều này rất quan trọng, con người có suy tưởng, có bàn
luận thì mới có hành động đúng.
Như các bạn biết, con
đường dân chủ ở nước ta còn sơ khai và đầy chông gai. Trên con đường này
cần chung lắm nhiều bàn tay và khối óc. Chúng ta nên trân trọng những
đóng góp dù là ai, đến từ đâu, dù to nhỏ thế nào để hình thành nên xa lộ
dân chủ thênh thang cho tương lai dân tộc, tương lai con cháu. Một viên
đá làm nên con đường, một chỉ dẫn thiết kế,…..đều quí.
Tôi
xuất thân từ gia đình được “bên thắng cuộc” gọi là cách mạng! Ba má tôi
đều là những đảng viên lão thành với trên 30 năm tuổi Đảng. Tại phiên
tòa, vị thẩm phán đã hỏi tôi “tạo sao anh xuất thân trong một gia đình
cách mạng mà anh lại đi chống chính quyền”, tôi cho rằng người hỏi câu
này đã lầm lẫn cách mạng, chính quyền, đảng với tổ quốc, sự nhầm lẫn này
còn rất lớn trong dân chúng nước ta từ cán bộ đến bình dân. Câu trả lời
của tôi là “tôi vẫn đang tiếp nối truyền thống gia đình”, không biết có
làm cho họ hiểu không?
Đóng góp cho con đường dân chủ
này, có thể có nhiều người toàn tâm toàn ý nhưng cũng có rất nhiều người
góp công sức âm thầm hay vì điều kiện bản thân gia đình mà chỉ tham gia
chốc lát. Dù thế nào, tất cả đều đáng quí, mọi đóng góp hôm này, dù rất
nhỏ nhưng nó sẽ là cơ sở cho những người làm đường ngày mai thuận lợi
hơn, nhanh chóng hơn.
Để kết thúc bài viết này, tôi xin
nói một chút về Phong trào Con đường Việt Nam mà tôi thay mặt anh em
khởi xướng cách đây hơn một năm. Mục tiêu của phong trào là chúng tôi
muốn tạo ra một cuộc cách mạng suy tưởng, một cuộc cách mạng nhận thức
về quyền con người. Theo chúng tôi, nhận thức về quyền con người, bảo vệ
quyền con người là nền tảng cho xã hội dân sự phát triển, nền móng xây
nên nền dân chủ. Từ đó, đất nước mới sớm trở nên thịnh vượng và văn minh
sánh vai với các cường quốc năm châu. Dù còn gian nan nhưng tôi hy vọng
rằng cộng đồng sẽ nhận ra giá trị của phong trào mà góp một tay cho sự
lớn mạnh của nó.
Sài Gòn, ngày 5/9/2013.
Lê Thăng Long – Phong trào Con đường Việt Nam
Lê Diễn Đức - Không có kịch bản suy sụp kinh tế dẫn tới thay đổi chính trị
Trên các phương tiện truyền thông quốc tế đang loan
tải những bài viết có luận điểm rằng, nền kinh tế Việt Nam đang trải
qua một giai đoạn suy thoái nghiêm trọng, báo hiệu một cuộc khủng hoảng
toàn diện, có thể dẫn tới suy sụp. Sự biến động của kinh tế sẽ dẫn tới
một sự thay đổi về chính trị, có lợi cho lộ trình dân chủ.
Bài “Việt Nam: các kịch bản thời sự sắp tới” trên BBC Việt ngữ, viết:
“Trong 2-3 năm nữa thôi, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ có thể phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế với hậu quả chưa có tiền lệ tính từ giai đoạn lạm phát tăng đến 600% vào những năm giá – lương – tiền 1985-1986. Trong một số trường hợp phản ứng xã hội đặc biệt sâu sắc về nguyên nhân và tính chất, bạo động và có thể cả bạo loạn sẽ xảy ra”.
Bài “Việt Nam: Những tiền đề khủng hoảng” trên trang web của đài VOA Việt ngữ viết:
“Chưa bao giờ nền kinh tế Việt Nam lại rơi vào tình trạng bấp bênh nguy hiểm như giờ đây, với quá nhiều hệ lụy từ hệ thống ngân hàng và các thị trường đầu cơ như bất động sản, vàng, chứng khoán, cùng khối nợ xấu khổng lồ có thể lên đến trên 500.000 tỷ đồng và nợ công quốc gia có thể lên đến 95 – 106% GDP nếu tính theo tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc.. Ðầu năm 2013 (…)có đến 100.000 doanh nghiệp phải giải thể và phá sản. Con số này chiếm khoảng 18-20% tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động tại Việt Nam. Kể từ năm 1990 đến nay, đây là con số ngừng hoạt động lớn nhất, cho thấy tình trạng nền kinh tế đã ở vào thế bỉ cực”. “…Chưa bao giờ Việt Nam lại rơi vào một chu kỳ suy sụp kinh tế và kéo theo hàng loạt mầm mống phản ứng và biến loạn xã hội như hiện thời”.
Những phân tích
Nợ xấu của Việt Nam theo dự đoán có thể làm suy sụp hệ thống ngân hàng, tuy nhiên trong thực tế không đến mức như vậy.
Công ty xử lý nợ xấu VAMC ra đời sẽ là công cụ để giải quyết món nợ khổng lồ này. Nếu hệ thống luật pháp thay đổi thích ứng giúp VAMC và các ngân hàng xử lý nợ xấu có hiệu quả, thì vấn đề nợ xấu cơ bản sẽ được giải quyết.
Robert Young, giám đốc bộ phận tư vấn các tổ chức tài chính của Deloitte
(Anh) nói rằng, “tỷ lệ nợ xấu ngân hàng Việt Nam chưa đến mức nghiêm
trọng nhưng thay vì nhìn vào con số, hãy xem các ngân hàng nỗ lực như
thế nào trong việc thiết lập các bộ phận tái cơ cấu và xử lý nợ xấu”
(Vneconomy 15/08/13).
Bà Karin Finkelston, Phó chủ tịch Công ty Tài chính quốc tế (IFC), thành viên của Nhóm Ngân hàng thế giới (WB), cho rằng, điều quan trọng là không chỉ xử lý nợ xấu bằng sổ sách, nếu các khung cải cách được xây dựng nhanh chóng, việc xử lý nợ sẽ hiệu quả” (Vneconomy 19/08/13).
Bà cũng cho hay, “hiện nay có nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào các tài sản nợ xấu ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần có các khung pháp lý rõ ràng hơn”.
“IFC đã đầu tư vào các chương trình xử lý nợ xấu ở các quốc gia, và IFC hy vọng giải quyết vấn đề nợ xấu ở Việt Nam dựa trên điều kiện thị trường. IFC muốn dành nguồn lực đầu tư và tư vấn cho vấn đề thách thức nhất mà Việt Nam đang gặp phải”, bà Karin nói.
Kỳ vọng nâng mức đầu tư tại Việt Nam lên trên 1 tỉ USD, bà Karin Finkelston cho biết: “Trong thời gian tới, IFC sẽ tập trung vào những hoạt động thúc đẩy cải cách cơ cấu cần thiết trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước và ngân hàng, để giúp nền kinh tế Việt Nam duy trì sức cạnh tranh và tăng trưởng trở lại”.
So với tổng dư nợ cấp tín dụng cho nền kinh tế Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu hiện nay ở mức 4,47% theo báo cáo của tổ chức tín dụng, hay 8,6% theo kết quả giám sát, vẫn thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu của một số nước, cụ thể: Hàn Quốc 17% (3/1998), Thái Lan 47,7% (5/1999), Malaysia 11,4% (9/1998), Indonesia trên 50% (1999), Albania 18,8%, Latvia: 17,5%, Lithuania 16,4%; Montenegro 15,5%, Romania 14,1%; Serbia 18,8%, Kazakhstan 30,8%, Tajikistan 14,9%, Ukraine 14,7%; Pakistan 16,2% (sukienhay.com 14/07/12)…
Theo đồng hồ nợ công của tạp chí kinh tế nổi tiếng thế giới “The Economist”, tính đến thời điểm 11/3/2013, nợ công của Việt Nam là 71,749 tỉ USD, chiếm 49,4% GDP, tăng 12,7% so với năm 2012. Ðiều đó đồng nghĩa với việc mỗi người dân Việt đang gánh trên vai mức nợ công là 800,7 USD.
Theo các nhà phân tích của tạp chí này, nợ công của Việt Nam trong năm 2013 sẽ có thể đạt mức 79,827 tỉ USD. Khi đó, mỗi người dân sẽ gánh khoản nợ lên tới gần 900 USD/người.
Tuy nhiên, cần lưu ý là “The Economist” chỉ dựa trên các con số thống kê công khai. Nếu gộp thêm cả số nợ của các doanh nghiệp nhà nước, vốn không được kể đến theo cách tính nợ công của Việt Nam, con số này sẽ tăng lên đáng kể. Theo Báo cáo tài chính hợp nhất toàn tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2012 công bố hồi tháng 1/2013, tổng nợ phải trả của các đơn vị này là hơn 1,33 triệu tỷ đồng, hay khoảng hơn 60 tỷ USD, bằng 44% GDP 2012.
Dẫn tính toán của chuyên gia Liên Hiệp Quốc, ông Nguyễn Trọng Hậu, tiến sĩ Ðại học Almamer, Ba Lan, cho biết nếu theo chuẩn quốc tế thì nợ công VN lên đến khoảng 128 tỉ USD, bằng khoảng 106% GDP năm 2011 – gần gấp đôi mức VN công bố chính thức.
Dựa trên con số đó, cho thấy nợ công của Việt Nam không phải nằm trong ngưỡng an toàn như “The Economist” nhận định. Tuy nhiên, con số nợ công vẫn là chủ đề bàn cãi, khó đi đến thống nhất.
Theo khẳng định của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, chiếu theo Luật nợ công năm 2009, tại Khoản 2 Ðiều 1, thì nợ công của Việt Nam gồm có nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ Chính quyền địa phương. Tính đến 31/12/2012, nợ công tương đương 55,5% GDP, trong đó nợ Chính phủ là 43,1%, nợ được Chính phủ bảo lãnh là 11,5% và nợ địa phương là 0,9% GDP. Với con số trên, nợ công Việt Nam hiện vẫn nằm trong tầm kiểm soát, mặc dù đây là con số khá cao (Dantri 31/05/13).
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có mức nợ công tính theo đầu người khá thấp. Con số này ở Indonesia là 917,69 USD/người, ở Philippine là 1.213,74 USD/người, ở Thái Lan là 2.640,8 USD/người, Malaysia là 5.936,87 USD/người. Tuy vậy, nếu xét theo tỷ lệ nợ công trên GDP, Indonesia là nước có tỷ lệ này thấp nhất trong khu vực, chỉ khoảng 24,8%, Malaysia 56,8%, Philippines 49,5% hay Thái Lan là 48%.
Nếu như số doanh nghiệp khó khăn, ngừng hoạt động là 28.755, trong đó, có 4.499 doanh nghiệp đã chính thức giải thể hẳn, thì song song, trong 6 tháng đầu năm 2013, cả nước có 39.000 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 15,5% so với 6 tháng cuối năm 2012, với tổng số vốn đăng ký là 193,5 ngàn tỉ đồng, (giảm về vốn đăng ký 19,9%) (Nld 16/08/13)
Tình hình ngưng hoạt động hoặc giải thể của các doanh nghiệp là xấu nhưng không đến mức “bỉ cực”.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng của Việt Nam đạt khoảng 5,5% trong năm 2013, còn theo Ngân hàng Phát triển châu Á, thì 5,7%. Quỹ tiền tệ Quốc tế nhận định tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2013 sẽ phục hồi cùng mức như năm 2011, đạt mức 5,9%.
Nhìn vào toàn cảnh kinh tế, Việt Nam thực sự gặp khó khăn chưa từng có, tính từ khủng hoảng năm 2008, nhưng để sụp đổ là điều khó xảy ra.
Có khoảng 60% nợ công là vay nước ngoài, chủ yếu là vay dài hạn với lãi suất thấp 1%-2%. Ước tính khoản nợ phải trả mỗi năm tương đương gần 5 tỉ USD, nhà nước Việt Nam vẫn dùng chính sách vay nợ mới để trả nợ cũ, cho dù số nợ cứ ngày càng lớn, đè nặng lên thế hệ tương lai.
Chưa có phong trào xã hội
Trong thời gian qua, giá xăng, điện, viện phí, v.v… tăng, nhưng cuối cùng dân chúng vẫn móc tiền chi trả, sau những kêu ca, thậm chí chửi bới một cách bất lực trên các diễn đàn Internet.
Ý thức phản kháng chính trị của đại đa số dân chúng rất kém. Dường như họ chấp nhận một đời sống như thế. Dù sao so với thời chiến tranh vẫn khá hơn rất nhiều. Dân oan hay công nhân bị bóc lột thậm tệ đình công hay khiếu nại cũng chỉ vì miếng ăn. Bà Nguyễn Thị Cúc, một dân oan, mặc dù trần tình rằng bản thân phải đi ăn xin, và “Ðảng và Nhà nước chẳng ai quan tâm đến” bà vẫn “tin đường lối của Ðảng và tin sẽ giải quyết”! (BBC 12/1/12). Bà con Vụ Bản treo khăn tang đòi đất mà vẫn với khẩu hiệu ngây ngô “Thủ tướng đâu, cứu chúng tôi”! Tâm lý này là phổ biến.
Cho nên, những ngọn lửa Ðoàn Văn Vươn, Văn Giang hay Dương Nội, hay vụ tự thiêu của bà Ðặng Thị Kim Liêng không thể bùng lên được. Sự gắn kết vào một lực lượng phản kháng thống nhất rời rạc, manh mún. Một cuộc biểu tình chống quân Trung Quốc xâm lược cao nhất cũng chỉ có đến một ngàn người tham gia.
Ðã có những tiếng nói của giới trí thức, nhưng đa phần họ vẫn là đảng viên cộng sản. Sự phản kháng thông thường dừng ở mức đòi hỏi Ðảng CSVN thay đổi, thiếu tính cương quyết và dứt khoát về sự thay đổi cả hệ thống chính trị.
Những cá nhân, các nhóm trẻ, có tinh thần tranh đấu, cũng chỉ đủ để tác động vào một phần dư luận xã hội và quốc tế, chưa có tính rộng khắp, bao quát xã hội, trong khi ở Việt Nam, dân chúng sống ở nông thôn chiếm hơn 70%.
Kết
Vô cảm, thờ ơ với chính trị, ngậm miệng ăn tiền, hoặc sống trong văn hoá sợ hãi, cam phận với cuộc sống hiện tại, là những điều cho thấy dù kinh tế khó khăn, khó có thể có một cuộc cách mạng xuống đường ở Việt Nam. Sự chịu đựng của người Việt dường như vô tận.
Kinh tế suy thoái chỉ là một trong những điều kiện thúc đẩy cách mạng. Một cuộc cách mạng chỉ có thể nổ ra khi phong trào tranh đấu vì tự do, dân chủ và nhân quye62n được nhân rộng, có tổ chức và tạo ra một trào lưu xã hội rộng khắp, thu hút mọi thành phần. Ðó là điều chưa có ở Việt Nam.
Bài “Việt Nam: các kịch bản thời sự sắp tới” trên BBC Việt ngữ, viết:
“Trong 2-3 năm nữa thôi, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ có thể phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế với hậu quả chưa có tiền lệ tính từ giai đoạn lạm phát tăng đến 600% vào những năm giá – lương – tiền 1985-1986. Trong một số trường hợp phản ứng xã hội đặc biệt sâu sắc về nguyên nhân và tính chất, bạo động và có thể cả bạo loạn sẽ xảy ra”.
Bài “Việt Nam: Những tiền đề khủng hoảng” trên trang web của đài VOA Việt ngữ viết:
“Chưa bao giờ nền kinh tế Việt Nam lại rơi vào tình trạng bấp bênh nguy hiểm như giờ đây, với quá nhiều hệ lụy từ hệ thống ngân hàng và các thị trường đầu cơ như bất động sản, vàng, chứng khoán, cùng khối nợ xấu khổng lồ có thể lên đến trên 500.000 tỷ đồng và nợ công quốc gia có thể lên đến 95 – 106% GDP nếu tính theo tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc.. Ðầu năm 2013 (…)có đến 100.000 doanh nghiệp phải giải thể và phá sản. Con số này chiếm khoảng 18-20% tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động tại Việt Nam. Kể từ năm 1990 đến nay, đây là con số ngừng hoạt động lớn nhất, cho thấy tình trạng nền kinh tế đã ở vào thế bỉ cực”. “…Chưa bao giờ Việt Nam lại rơi vào một chu kỳ suy sụp kinh tế và kéo theo hàng loạt mầm mống phản ứng và biến loạn xã hội như hiện thời”.
Những phân tích
Nợ xấu của Việt Nam theo dự đoán có thể làm suy sụp hệ thống ngân hàng, tuy nhiên trong thực tế không đến mức như vậy.
Công ty xử lý nợ xấu VAMC ra đời sẽ là công cụ để giải quyết món nợ khổng lồ này. Nếu hệ thống luật pháp thay đổi thích ứng giúp VAMC và các ngân hàng xử lý nợ xấu có hiệu quả, thì vấn đề nợ xấu cơ bản sẽ được giải quyết.
Bà Karin Finkelston, Phó chủ tịch Công ty Tài chính quốc tế (IFC), thành viên của Nhóm Ngân hàng thế giới (WB), cho rằng, điều quan trọng là không chỉ xử lý nợ xấu bằng sổ sách, nếu các khung cải cách được xây dựng nhanh chóng, việc xử lý nợ sẽ hiệu quả” (Vneconomy 19/08/13).
Bà cũng cho hay, “hiện nay có nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào các tài sản nợ xấu ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần có các khung pháp lý rõ ràng hơn”.
“IFC đã đầu tư vào các chương trình xử lý nợ xấu ở các quốc gia, và IFC hy vọng giải quyết vấn đề nợ xấu ở Việt Nam dựa trên điều kiện thị trường. IFC muốn dành nguồn lực đầu tư và tư vấn cho vấn đề thách thức nhất mà Việt Nam đang gặp phải”, bà Karin nói.
Kỳ vọng nâng mức đầu tư tại Việt Nam lên trên 1 tỉ USD, bà Karin Finkelston cho biết: “Trong thời gian tới, IFC sẽ tập trung vào những hoạt động thúc đẩy cải cách cơ cấu cần thiết trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước và ngân hàng, để giúp nền kinh tế Việt Nam duy trì sức cạnh tranh và tăng trưởng trở lại”.
So với tổng dư nợ cấp tín dụng cho nền kinh tế Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu hiện nay ở mức 4,47% theo báo cáo của tổ chức tín dụng, hay 8,6% theo kết quả giám sát, vẫn thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu của một số nước, cụ thể: Hàn Quốc 17% (3/1998), Thái Lan 47,7% (5/1999), Malaysia 11,4% (9/1998), Indonesia trên 50% (1999), Albania 18,8%, Latvia: 17,5%, Lithuania 16,4%; Montenegro 15,5%, Romania 14,1%; Serbia 18,8%, Kazakhstan 30,8%, Tajikistan 14,9%, Ukraine 14,7%; Pakistan 16,2% (sukienhay.com 14/07/12)…
Theo đồng hồ nợ công của tạp chí kinh tế nổi tiếng thế giới “The Economist”, tính đến thời điểm 11/3/2013, nợ công của Việt Nam là 71,749 tỉ USD, chiếm 49,4% GDP, tăng 12,7% so với năm 2012. Ðiều đó đồng nghĩa với việc mỗi người dân Việt đang gánh trên vai mức nợ công là 800,7 USD.
Theo các nhà phân tích của tạp chí này, nợ công của Việt Nam trong năm 2013 sẽ có thể đạt mức 79,827 tỉ USD. Khi đó, mỗi người dân sẽ gánh khoản nợ lên tới gần 900 USD/người.
Tuy nhiên, cần lưu ý là “The Economist” chỉ dựa trên các con số thống kê công khai. Nếu gộp thêm cả số nợ của các doanh nghiệp nhà nước, vốn không được kể đến theo cách tính nợ công của Việt Nam, con số này sẽ tăng lên đáng kể. Theo Báo cáo tài chính hợp nhất toàn tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2012 công bố hồi tháng 1/2013, tổng nợ phải trả của các đơn vị này là hơn 1,33 triệu tỷ đồng, hay khoảng hơn 60 tỷ USD, bằng 44% GDP 2012.
Dẫn tính toán của chuyên gia Liên Hiệp Quốc, ông Nguyễn Trọng Hậu, tiến sĩ Ðại học Almamer, Ba Lan, cho biết nếu theo chuẩn quốc tế thì nợ công VN lên đến khoảng 128 tỉ USD, bằng khoảng 106% GDP năm 2011 – gần gấp đôi mức VN công bố chính thức.
Dựa trên con số đó, cho thấy nợ công của Việt Nam không phải nằm trong ngưỡng an toàn như “The Economist” nhận định. Tuy nhiên, con số nợ công vẫn là chủ đề bàn cãi, khó đi đến thống nhất.
Theo khẳng định của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, chiếu theo Luật nợ công năm 2009, tại Khoản 2 Ðiều 1, thì nợ công của Việt Nam gồm có nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ Chính quyền địa phương. Tính đến 31/12/2012, nợ công tương đương 55,5% GDP, trong đó nợ Chính phủ là 43,1%, nợ được Chính phủ bảo lãnh là 11,5% và nợ địa phương là 0,9% GDP. Với con số trên, nợ công Việt Nam hiện vẫn nằm trong tầm kiểm soát, mặc dù đây là con số khá cao (Dantri 31/05/13).
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có mức nợ công tính theo đầu người khá thấp. Con số này ở Indonesia là 917,69 USD/người, ở Philippine là 1.213,74 USD/người, ở Thái Lan là 2.640,8 USD/người, Malaysia là 5.936,87 USD/người. Tuy vậy, nếu xét theo tỷ lệ nợ công trên GDP, Indonesia là nước có tỷ lệ này thấp nhất trong khu vực, chỉ khoảng 24,8%, Malaysia 56,8%, Philippines 49,5% hay Thái Lan là 48%.
Nếu như số doanh nghiệp khó khăn, ngừng hoạt động là 28.755, trong đó, có 4.499 doanh nghiệp đã chính thức giải thể hẳn, thì song song, trong 6 tháng đầu năm 2013, cả nước có 39.000 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 15,5% so với 6 tháng cuối năm 2012, với tổng số vốn đăng ký là 193,5 ngàn tỉ đồng, (giảm về vốn đăng ký 19,9%) (Nld 16/08/13)
Tình hình ngưng hoạt động hoặc giải thể của các doanh nghiệp là xấu nhưng không đến mức “bỉ cực”.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng của Việt Nam đạt khoảng 5,5% trong năm 2013, còn theo Ngân hàng Phát triển châu Á, thì 5,7%. Quỹ tiền tệ Quốc tế nhận định tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2013 sẽ phục hồi cùng mức như năm 2011, đạt mức 5,9%.
Nhìn vào toàn cảnh kinh tế, Việt Nam thực sự gặp khó khăn chưa từng có, tính từ khủng hoảng năm 2008, nhưng để sụp đổ là điều khó xảy ra.
Có khoảng 60% nợ công là vay nước ngoài, chủ yếu là vay dài hạn với lãi suất thấp 1%-2%. Ước tính khoản nợ phải trả mỗi năm tương đương gần 5 tỉ USD, nhà nước Việt Nam vẫn dùng chính sách vay nợ mới để trả nợ cũ, cho dù số nợ cứ ngày càng lớn, đè nặng lên thế hệ tương lai.
Chưa có phong trào xã hội
Trong thời gian qua, giá xăng, điện, viện phí, v.v… tăng, nhưng cuối cùng dân chúng vẫn móc tiền chi trả, sau những kêu ca, thậm chí chửi bới một cách bất lực trên các diễn đàn Internet.
Ý thức phản kháng chính trị của đại đa số dân chúng rất kém. Dường như họ chấp nhận một đời sống như thế. Dù sao so với thời chiến tranh vẫn khá hơn rất nhiều. Dân oan hay công nhân bị bóc lột thậm tệ đình công hay khiếu nại cũng chỉ vì miếng ăn. Bà Nguyễn Thị Cúc, một dân oan, mặc dù trần tình rằng bản thân phải đi ăn xin, và “Ðảng và Nhà nước chẳng ai quan tâm đến” bà vẫn “tin đường lối của Ðảng và tin sẽ giải quyết”! (BBC 12/1/12). Bà con Vụ Bản treo khăn tang đòi đất mà vẫn với khẩu hiệu ngây ngô “Thủ tướng đâu, cứu chúng tôi”! Tâm lý này là phổ biến.
Cho nên, những ngọn lửa Ðoàn Văn Vươn, Văn Giang hay Dương Nội, hay vụ tự thiêu của bà Ðặng Thị Kim Liêng không thể bùng lên được. Sự gắn kết vào một lực lượng phản kháng thống nhất rời rạc, manh mún. Một cuộc biểu tình chống quân Trung Quốc xâm lược cao nhất cũng chỉ có đến một ngàn người tham gia.
Ðã có những tiếng nói của giới trí thức, nhưng đa phần họ vẫn là đảng viên cộng sản. Sự phản kháng thông thường dừng ở mức đòi hỏi Ðảng CSVN thay đổi, thiếu tính cương quyết và dứt khoát về sự thay đổi cả hệ thống chính trị.
Những cá nhân, các nhóm trẻ, có tinh thần tranh đấu, cũng chỉ đủ để tác động vào một phần dư luận xã hội và quốc tế, chưa có tính rộng khắp, bao quát xã hội, trong khi ở Việt Nam, dân chúng sống ở nông thôn chiếm hơn 70%.
Kết
Vô cảm, thờ ơ với chính trị, ngậm miệng ăn tiền, hoặc sống trong văn hoá sợ hãi, cam phận với cuộc sống hiện tại, là những điều cho thấy dù kinh tế khó khăn, khó có thể có một cuộc cách mạng xuống đường ở Việt Nam. Sự chịu đựng của người Việt dường như vô tận.
Kinh tế suy thoái chỉ là một trong những điều kiện thúc đẩy cách mạng. Một cuộc cách mạng chỉ có thể nổ ra khi phong trào tranh đấu vì tự do, dân chủ và nhân quye62n được nhân rộng, có tổ chức và tạo ra một trào lưu xã hội rộng khắp, thu hút mọi thành phần. Ðó là điều chưa có ở Việt Nam.
Lê Diễn Đức
(Người Việt)
Trần Xuân Giá, Lý Xuân Hải cùng tố sai phạm Bầu Kiên
Do Nguyễn Đức Kiên là cổ đông lớn của Ngân hàng ACB, là người có ảnh
hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng này trong thời gian dài
nên phát biểu của Kiên trong các cuộc họp HĐQT đã tạo ra áp lực lớn, làm
mọi người ngầm hiểu là không thực hiện theo ý Kiên là không được...
Nguyễn Đức Kiên đã đề xuất, chỉ đạo Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB ra
chủ trương ủy thác cho nhân viên và công ty gửi tiền VNĐ và USD vào các
tổ chức tín dụng; ra chủ trương cấp tín dụng cho Công ty TNHH Chứng
khoán ACB mua cổ phiếu ngân hàng ACB sai quy định.
Kiên trực tiếp chỉ đạo các chủ trương nói trên, gây hậu quả nghiêm trọng
đến việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ của Chính phủ, thu lợi
bất chính cho nhóm cổ đông của Ngân hàng ACB là 256.838.071.514 đồng và
trực tiếp gây thiệt hại cho Ngân hàng ACB 1.407.382.784.540 đồng.
Liên quan đến vụ việc này, tại Cơ quan CSĐT, các bị can Lê Vũ Kỳ, Trịnh
Kim Quang và Phạm Trung Cang đều khai rằng: Lý Xuân Hải là người đề xuất
phương án ủy thác cho các nhân viên Ngân hàng ACB mang tiền của ngân
hàng này đi gửi vào các ngân hàng khác. Phương án này được Nguyễn Đức
Kiên đồng ý và chỉ đạo các Thành viên Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB ký
biên bản ngày 22/3/2010 thông qua chủ trương.
Đến khoảng tháng 3/2012, Lý Xuân Hải mời Thường trực HĐQT họp để thông
báo việc Ngân hàng ACB ủy thác cho 19 nhân viên gửi tiền vào Ngân hàng
Vietinbank và bị Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo, chiếm đoạt 718,908 tỷ đồng
là có bằng chứng rõ ràng nhưng Ngân hàng Công thương từ chối trách
nhiệm nên Hải có đề nghị Thường trực HĐQT ký lại biên bản họp ngày
7/6/2011 để làm cơ sở khởi kiện Vietinbank.
Các bị can Kỳ, Quang, Cang đều thừa nhận việc dùng tiền huy động của dân
ủy thác cho nhân viên gửi vào các tổ chức tín dụng là sai phạm đối với
Điều 106 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và làm sai lệch thông tin
liên quan đến báo cáo tổng huy động từ dân cư của toàn hệ thống ngân
hàng, làm ảnh hưởng đến việc ra các chủ trương điều hành thị trường tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tiền
tệ của Chính phủ.
Việc Ngân hàng ACB gửi tiền vượt trần lãi suất vi phạm Thông tư số 02,
ngày 3/3/2011 của Ngân hàng Nhà nước. Trách nhiệm này thuộc về Thường
trực HĐQT Ngân hàng ACB, Nguyễn Đức Kiên và ban điều hành.
Chủ trương cấp tín dụng cho Công ty ABCS để mua cổ phiếu Ngân hàng ACB
là do Nguyễn Đức Kiên đề xuất và đượng Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB
đồng ý thông qua. Thường trực HĐQT ủy thác cho Kiên, Chủ tịch Hội đồng
đầu tư chỉ đạo trực tiếp việc đầu tư.
Sau năm 2008, mặc dù không tham gia HĐQT Ngân hàng ACB nhưng Nguyễn Đức
Kiên vẫn là người có ảnh hưởng và chỉ đạo, quyết định nhiều hoạt động
của ngân hàng này. Thực tế, các ý kiến của Kiên trong các cuộc họp HĐQT
sau đó đều trở thành Nghị quyết.
Để tạo áp lực với các Thành viên Thường trực HĐQT, trong các cuộc họp
Kiên thường nói: "Hiện tôi không tham gia gì trong Hội đồng quản trị.
Tôi nói nhăng nói cuội gì các anh nghe hay không nghe thì tùy. Nhưng tôi
có quyền cách chức các anh" hoặc "Vai trò tư vấn của tôi, thành viên
Hội đồng sáng lập đã được quy định trong quy chế hoạt động của Hội đồng
sáng lập. Tôi nói muốn nghe thì nghe, không nghe thì thôi. Nhưng với tư
cách Cổ đông lớn, tôi có quyền triệu tập Đại hội cổ đông bất thường,
cách chức các anh ra khỏi Thành viên HĐQT".
Do Nguyễn Đức Kiên là cổ đông lớn của Ngân hàng ACB, là người có ảnh
hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng này trong thời gian dài
nên phát biểu của ông "bầu" này đã tạo ra áp lực lớn, làm mọi người ngầm
hiểu là không thực hiện theo ý ông Kiên là không được. Vì vậy, các ý
kiến của Kiên trong các cuộc họp HĐQT sau đó đều trở thành Nghị quyết
của Ngân hàng ACB.
Bị can Trần Xuân Giá khai: Ngày 22/3/2010, Thường trực HĐQT Ngân hàng
ACB có họp bàn về chủ trương ủy thác cho nhân viên dùng tiền và USD của
ngân hàng gửi vào các tổ chức tín dụng. Tại cuộc họp này có một số ý
kiến, trong đó có ông Trần Mộng Hùng đề nghị giảm bớt lãi suất huy động
để giảm số tiền huy đông của dân, vì ở thời điểm đó Ngân hàng ACB đã huy
động được nhiều tiền của dân nhưng không cho vay được mà lại phải trả
lãi. Nguyễn Đức Kiên không đồng ý với phương án này mà nói "làm gì thì
làm nhưng không được giảm tổng tài sản của Ngân hàng ACB".
Sau đó, Lý Xuân Hải (Tổng Giám đốc) đề xuất phương án ủy thác cho nhân
viên Ngân hàng ACB gửi tiền và USD vào các tổ chức tín dụng. Phương án
này được Thường trực HĐQT ký biên bản thông qua, giao cho Tổng Giám đốc
tổ chức thực hiện.
Cơ quan CSĐT xác định, hành vi của "Bầu Kiên" đủ yếu tố cấu thành tội
"Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng" với vai trò là người chủ mưu.
Về chủ trương không được giảm tổng tài sản Ngân hàng ACB là ý kiến xuyên
suốt của Nguyễn Đức Kiên trong quá trình chỉ đạo, điều hành hoạt động
của Ngân hàng này từ trước tới nay. Chủ trương cấp tín dụng cho Công ty
ACBS mua cổ phiếu ACB là do Kiên đề xuất và được Thường trực HĐQT Ngân
hàng ACB đồng ý thông qua và ủy quyền cho Kiên, Chủ tịch Hội đồng đầu tư
chỉ đạo trực tiếp việc đầu tư.
Từ năm 2008, sau khi Nguyễn Đức Kiên rút ra khỏi HĐQT và ban điều hành.
Để duy trì sự ổn định liên tục thì Kiên có đề xuất thành lập Do Nguyễn
Đức Kiên là cổ đông lớn của Ngân hàng ACB, là người có ảnh hưởng lớn đến
toàn bộ hoạt động của ngân hàng này trong thời gian dài nên phát biểu
của Kiên trong các cuộc họp HĐQT đã tạo ra áp lực lớn, làm mọi người
ngầm hiểu là không thực hiện theo ý Kiên là không được...
Nguyễn Đức Kiên đã đề xuất, chỉ đạo Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB ra
chủ trương ủy thác cho nhân viên và công ty gửi tiền VNĐ và USD vào các
tổ chức tín dụng; ra chủ trương cấp tín dụng cho Công ty TNHH Chứng
khoán ACB mua cổ phiếu ngân hàng ACB sai quy định.
Kiên trực tiếp chỉ đạo các chủ trương nói trên, gây hậu quả nghiêm trọng
đến việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ của Chính phủ, thu lợi
bất chính cho nhóm cổ đông của Ngân hàng ACB là 256.838.071.514 đồng và
trực tiếp gây thiệt hại cho Ngân hàng ACB 1.407.382.784.540 đồng.
Liên quan đến vụ việc này, tại Cơ quan CSĐT, các bị can Lê Vũ Kỳ, Trịnh
Kim Quang và Phạm Trung Cang đều khai rằng: Lý Xuân Hải là người đề xuất
phương án ủy thác cho các nhân viên Ngân hàng ACB mang tiền của ngân
hàng này đi gửi vào các ngân hàng khác. Phương án này được Nguyễn Đức
Kiên đồng ý và chỉ đạo các Thành viên Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB ký
biên bản ngày 22/3/2010 thông qua chủ trương.
Đến khoảng tháng 3/2012, Lý Xuân Hải mời Thường trực HĐQT họp để thông
báo việc Ngân hàng ACB ủy thác cho 19 nhân viên gửi tiền vào Ngân hàng
Vietinbank và bị Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo, chiếm đoạt 718,908 tỷ đồng
là có bằng chứng rõ ràng nhưng Ngân hàng Công thương từ chối trách
nhiệm nên Hải có đề nghị Thường trực HĐQT ký lại biên bản họp ngày
7/6/2011 để làm cơ sở khởi kiện Vietinbank.
Các bị can Kỳ, Quang, Cang đều thừa nhận việc dùng tiền huy động của dân
ủy thác cho nhân viên gửi vào các tổ chức tín dụng là sai phạm đối với
Điều 106 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và làm sai lệch thông tin
liên quan đến báo cáo tổng huy động từ dân cư của toàn hệ thống ngân
hàng, làm ảnh hưởng đến việc ra các chủ trương điều hành thị trường tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tiền
tệ của Chính phủ.
Việc Ngân hàng ACB gửi tiền vượt trần lãi suất vi phạm Thông tư số 02,
ngày 3/3/2011 của Ngân hàng Nhà nước. Trách nhiệm này thuộc về Thường
trực HĐQT Ngân hàng ACB, Nguyễn Đức Kiên và ban điều hành.
Chủ trương cấp tín dụng cho Công ty ABCS để mua cổ phiếu Ngân hàng ACB
là do Nguyễn Đức Kiên đề xuất và đượng Thường trực HĐQT Ngân hàng ACB
đồng ý thông qua. Thường trực HĐQT ủy thác cho Kiên, Chủ tịch Hội đồng
đầu tư chỉ đạo trực tiếp việc đầu tư.
Sau năm 2008, mặc dù không tham gia HĐQT Ngân hàng ACB nhưng Nguyễn Đức
Kiên vẫn là người có ảnh hưởng và chỉ đạo, quyết định nhiều hoạt động
của ngân hàng này. Thực tế, các ý kiến của Kiên trong các cuộc họp HĐQT
sau đó đều trở thành Nghị quyết.
Để tạo áp lực với các Thành viên Thường trực HĐQT, trong các cuộc họp
Kiên thường nói: "Hiện tôi không tham gia gì trong Hội đồng quản trị.
Tôi nói nhăng nói cuội gì các anh nghe hay không nghe thì tùy. Nhưng tôi
có quyền cách chức các anh" hoặc "Vai trò tư vấn của tôi, thành viên
Hội đồng sáng lập đã được quy định trong quy chế hoạt động của Hội đồng
sáng lập. Tôi nói muốn nghe thì nghe, không nghe thì thôi. Nhưng với tư
cách Cổ đông lớn, tôi có quyền triệu tập Đại hội cổ đông bất thường,
cách chức các anh ra khỏi Thành viên HĐQT".
Do Nguyễn Đức Kiên là cổ đông lớn của Ngân hàng ACB, là người có ảnh
hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng này trong thời gian dài
nên phát biểu của ông "bầu" này đã tạo ra áp lực lớn, làm mọi người ngầm
hiểu là không thực hiện theo ý ông Kiên là không được. Vì vậy, các ý
kiến của Kiên trong các cuộc họp HĐQT sau đó đều trở thành Nghị quyết
của Ngân hàng ACB.
Bị can Trần Xuân Giá khai: Ngày 22/3/2010, Thường trực HĐQT Ngân hàng
ACB có họp bàn về chủ trương ủy thác cho nhân viên dùng tiền và USD của
ngân hàng gửi vào các tổ chức tín dụng. Tại cuộc họp này có một số ý
kiến, trong đó có ông Trần Mộng Hùng đề nghị giảm bớt lãi suất huy động
để giảm số tiền huy đông của dân, vì ở thời điểm đó Ngân hàng ACB đã huy
động được nhiều tiền của dân nhưng không cho vay được mà lại phải trả
lãi. Nguyễn Đức Kiên không đồng ý với phương án này mà nói "làm gì thì
làm nhưng không được giảm tổng tài sản của Ngân hàng ACB".
Sau đó, Lý Xuân Hải (Tổng Giám đốc) đề xuất phương án ủy thác cho nhân
viên Ngân hàng ACB gửi tiền và USD vào các tổ chức tín dụng. Phương án
này được Thường trực HĐQT ký biên bản thông qua, giao cho Tổng Giám đốc
tổ chức thực hiện.
Cơ quan CSĐT xác định, hành vi của "Bầu Kiên" đủ yếu tố cấu thành tội
"Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng" với vai trò là người chủ mưu.
Về chủ trương không được giảm tổng tài sản Ngân hàng ACB là ý kiến xuyên
suốt của Nguyễn Đức Kiên trong quá trình chỉ đạo, điều hành hoạt động
của Ngân hàng này từ trước tới nay. Chủ trương cấp tín dụng cho Công ty
ACBS mua cổ phiếu ACB là do Kiên đề xuất và được Thường trực HĐQT Ngân
hàng ACB đồng ý thông qua và ủy quyền cho Kiên, Chủ tịch Hội đồng đầu tư
chỉ đạo trực tiếp việc đầu tư.
Hội đồng sang lập như là đại hội cổ đông thu nhỏ để hỗ trợ cho HĐQT và
ban điều hành mới.Mặc dù không tham gia với tư cách Thành viên HĐQT,
nhưng sự có mặt của Kiên trong các cuộc họp của HĐQT, Thường trực HĐQT
và ban điều hành cũng tạo ra ảnh hưởng lớn đến việc ra các quyết đinh,
nghị quyết liên quan đến cách hoạt động của ACB, nhất là trong thời kỳ
đầu của Hội đồng sáng lập.
Bị can Lý Xuân Hải khai: Hải là người đề xuất chủ trương dùng tiền ngân
hàng huy động của dân ủy thác co các nhân viên và các tổ chức gửi tiền
VNĐ và USD vào các tổ chức tín dụng, nhằm mục đích tránh gây thiệt hại
cho Ngân hàng ACB khi mà tiền huy động vào nhiều mà không cho vay ra
được.
Thuờng trực HĐQT Ngân hàng ACB giao cho Hải chỉ đạo, điều hành việc thực
hiện chủ trưong, ký hợp dồng với 4 công ty và ủy quyền cho Nguyễn Văn
Hòa (Kế toán trưởng) ký ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào các tổ chức
tín dụng. Toàn bộ số tiền gốc, lãi theo hợp đồng, lãi vượt trần và các
khoản phí khác thu được từ hoạt động ủy thác đều được Ngân hàng ACB hạch
toán và sổ sách của Ngân hàng này.
Hải khai Nguyễn Đức Kiên là người đề xuất chủ trương trương cấp tín dụng
cho Công ty ACBS để đầu tư cổ phiếu ACB và được Thường trực HĐQT Ngân
hàng ACB đồng ý thông qua, giao cho Kiên chỉ đạo Công ty ACBS đầu tư cổ
phiếu Ngân hàng ACB.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Bộ Công an cũng tiến hành lấy lời
kha của các ông Nguyễn Ngọc Trung - quyền Tổng Giám đốc Công ty ACBS),
Trần Vi Lâm - Tổng Giám đốc Công ty ACI, Lê Mạnh Hùng - Tổng Giám đốc
Công ty ACI-HN) và các cá nhân liên quan tại 3 công ty này.
Kết quả cho thấy, vào đầu tháng 9/2009, các ông Nguyễn Đức Kiên, Lê Vũ
Kỳ và Lý Xuân Hải có đến Công ty ACBS chủ trì cuộc họp với lãnh đạo đơn
vị này. Tại cuộc họp, Nguyễn Đức Kiên giao cho Công ty ACBS thực hiện
mua cổ phiếu Ngân hàng ACB thông qua các công ty ACI và ACI-HN.
Kiên yêu cầu Công ty ACBS phải chấp hành vì đây là chỉ đạo của Thường
trực HĐQT. Lý do phải thông qua công ty ACI và ACI-HN để mua cổ phiếu
Ngân hàng ACB là vì Công ty ACBS là công ty chứng khoán do Ngân hàng ACB
sở hữu 100% vốn điều lệ nên không được phép mua cổ phiếu của chính ngân
hàng này.
Nguồn tiền chuyển cho Công ty ACI từ tháng 11/2009 đến tháng 2/2010 để
mua cổ phiếu Ngân hàng ACB là vốn tự có của Công ty ACBS. Để hợp thức
hóa việc chuyển tiền này, Công ty ACBS đã ký 3 hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần cho Công ty ACI (lần lượt vào các ngày 4/11/2009, ngày 23/11/2009
và ngày 25/1/2010).
Từ tháng 3/2010 trở về sau, nguồn tiền chuyển cho Công ty ACI và ACI-HN
được lấy từ việc Công ty ACBS phát hành trái phiếu bán cho Ngân hàng
TMCP Kiên Long (gồm 3 đợt vào các ngày 4/3/201, ngày 22/3/201 và ngày
5/5/201, sso tiền mỗi đợt là 500 tỷ đồng). Để hợp thức hóa việc chuyển
tiền này, Công ty ACBS ký hợp đồng hợp tác đầu tư ngày 10/3/2010 với
Công ty ACI và hợp đồng này 20/5/2010 với Công ty ACI-HN.
Việc Công ty ACBS mua cổ phiếu của Ngân hàng ACB thông qua Công ty ACI
và ACI-HN là chủ trương của Nguyễn Đức Kiên và Thường trực HĐQT Ngân
hàng ACB, chính ngân hàng này là đơn vị cấp vốn. Việc ra chủ trương và
chuẩn bị nguồn vốn đầu tư là do Kiên, Chủ tịch Hội đồng đầu tư Ngân hàng
ACB phê duyệt chấp thuận cho Công ty ACBS hợp tác đầu tư với Công ty
ACI và ACI-HN.
Cổ phiếu thuộc danh mục hợp tác đầu tư với Công ty ACI phải thống nhất
theo chiến lược dầu tư của Công ty ACBS. Tổng số tiền mà Công ty ACBS đã
sử dụng để mua cổ phiếu Ngân hàng ACB là khoảng 1.557 tỷ đồng. Tổng số
cổ phiếu Ngân hàng ACB mà Công ty ACBS đã mua được tổng cộng 52.508.538
cố phiếu với giá bình quân 29.566 đồng/cổ phiếu. Trong đó, Công ty ACI
đứng tên mua 38.373.018 cổ phiếu, Công ty ACI-HN đứng tên mua 14.135.520
cổ phiếu). Hiện toàn bộ số cổ phiếu mà Ngân hàng ACB đã mua nói trên
chỉ còn 19.568.538 cổ phiếu, trong đó Công ty ACI còn 5.433.018 cổ
phiếu, Công ry ACI-HN còn 14.135.520 cổ phiếu.
Toàn bộ số cổ phiếu Ngân hàng ABC đã mua thông qua Công ty ACI và ACI-HN
đang được Công ty ACBS quản lý bằng phong tỏa trên tài khoản lưu ký
chứng khoán của Công ty ACI và ACI-HN tại Công ty ACBS. Toàn bộ số cổ
phiếu này được mua bằng tiền của Ngân hàng ACB.
Sau khi có khuyến cáo của Kiểm toán, Công ty ACBS đã làm thủ tục để các
Công ty ACI và ACI-HN hoàn lại tiền cho Công ty ACBS bằng cách phát hành
trái phiếu bán cho Ngân hàng Vietinbank. Nhưng vì Công ty ACBS là chủ
sở hữu thực sự số cổ phiếu Ngân hàng ACB nen Công ty ACBS buộc phải
thanh toán đối với hai khoản trái phiếu do các Công ty Aci và ACI-HN
phát hành. Công ty ACI và ACI-HN chỉ đứng tên hộ Công ty ACBS trong việc
mua cổ phiếu Ngân hàng ACB. Công ty ACBS là đơn vị đặt lệnh mua và quản
lý số cổ phiếu đã mua được. Công ty ACI và ACI-HN không được quản lý,
sử dụng số cổ phiếu ACB đã mua được trên tài khoản của họ...
Như vậy, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được, cũng như lời
khai của những người liên quan, Cơ quan CSĐT đã kết luận, hành vi của
Nguyễn Đức Kiên cùng Trần Xuân Giá, Lý Xuân Hải, Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim
Quang, và Phạm Trung Cang có đủ yếu tố cấu thành tội "Cố ý làm trái quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng". Bởi vậy,
Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố như đã nói ở trên.
(GDVN)
Những Câu Hỏi Đau Đầu vì những chữ Tàu trên giấy bạc Việt Nam
Hai bạn đọc của Góc Nhìn Alan bức xúc vì ông già đặt ra 10 câu hỏi quá “hắc búa” cho các em sinh viên (coi bài Khoảng Cách Trí Tuệ…). Hai bạn đố lại ông già Alan và các BCA 5 câu hỏi kèm đây. Ông già bó tay nên phải mời các BCA đỡ đạn dùm..
1. Qua 1 bài viết về lịch sử tiền giấy của Việt nam đăng trên Vietnamnet, tôi để ý đến một chi tiết là các tờ giấy do VNDCCH phát hành từ 1945 hay sau đó đều có chữ Tàu trên tiền (xem hình). Như vậy, 16 chữ vàng và 4 hay 6 cái tốt gì đó đã bắt đầu từ trước khi thiết lập VNDCCH vào 1945. Bạn có biết năm nào chúng ta chính thức là đối tác toàn diện toàn thân với Trung Quốc qua các chữ vàng bạc và các “hẩu hẩu”?
1. Qua 1 bài viết về lịch sử tiền giấy của Việt nam đăng trên Vietnamnet, tôi để ý đến một chi tiết là các tờ giấy do VNDCCH phát hành từ 1945 hay sau đó đều có chữ Tàu trên tiền (xem hình). Như vậy, 16 chữ vàng và 4 hay 6 cái tốt gì đó đã bắt đầu từ trước khi thiết lập VNDCCH vào 1945. Bạn có biết năm nào chúng ta chính thức là đối tác toàn diện toàn thân với Trung Quốc qua các chữ vàng bạc và các “hẩu hẩu”?
2. Ngày 12/8 vừa qua, theo báo Tuổi Trẻ, 3 giáo sư đoạt giải Nobel
về vật lý, Sheldon Lee Glashow, David Gross và George Smoot, đã cho biết
họ rất sốc khi đến thăm một số trường đại học ở TP. HCM, vì hạ tầng
khoa học nghèo nàn ở đó. Ông Gross còn thắc mắc thêm là tại sao nền kinh
tế có GDP gần 120 tỷ USD lại không thể đầu tư vài ba trăm triệu USD để
nấng cấp hạ tầng cho các trường đại học?
Bạn có biết là Việt Nam đã chi bao nhiêu cho đầu tư vào dự án bô xít, vào đường xe lửa cao tốc Bắc-Nam, vào nhà máy hạt nhân Bình Thuận, vào nhà máy lọc dầu Dung Quất, vào các tàu ngầm Kilo…Tổng cộng 5 dự án này là bao nhiêu tỷ USD?
3. Không tính các nước như Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên và TQ, thế giới có khoảng 11,000 trường đại học. Bạn nào có biết là bao nhiêu trường có một khoá học về chủ nghĩa Mác Lê?
4. Việt Nam vô địch thế giới về số con gái đi lấy chồng nước ngoài, nhiều nhất là Hàn Quốc và Đài Loan. Bạn nào có biết trong 30 năm vừa qua, tổng số gái Việt kết hôn vời trai ngoại là bao nhiêu?
5. Bạn nào có biết tên của 18 đồng chí tốt nghiệp khoá gián điệp thứ 4 do KGB đào tạo tại Moscow năm 1923?
Câu hỏi càng ngắn thì càng khó. Các bạn làm “research” cho nghiêm túc nhé.
Alan Phan
Bạn có biết là Việt Nam đã chi bao nhiêu cho đầu tư vào dự án bô xít, vào đường xe lửa cao tốc Bắc-Nam, vào nhà máy hạt nhân Bình Thuận, vào nhà máy lọc dầu Dung Quất, vào các tàu ngầm Kilo…Tổng cộng 5 dự án này là bao nhiêu tỷ USD?
3. Không tính các nước như Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên và TQ, thế giới có khoảng 11,000 trường đại học. Bạn nào có biết là bao nhiêu trường có một khoá học về chủ nghĩa Mác Lê?
4. Việt Nam vô địch thế giới về số con gái đi lấy chồng nước ngoài, nhiều nhất là Hàn Quốc và Đài Loan. Bạn nào có biết trong 30 năm vừa qua, tổng số gái Việt kết hôn vời trai ngoại là bao nhiêu?
5. Bạn nào có biết tên của 18 đồng chí tốt nghiệp khoá gián điệp thứ 4 do KGB đào tạo tại Moscow năm 1923?
Câu hỏi càng ngắn thì càng khó. Các bạn làm “research” cho nghiêm túc nhé.
Alan Phan
(Blog Alan Phan)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét