Nhìn lại lập trường của Tướng Trần Độ
Ông Hồng Hà cho rẳng nhà nước nên tổ chức hội thảo về sự nghiệp của cố Trung tướng Trần Độ
Tuần này đánh dấu 13 năm ngày mất của Tướng Trần Độ (9/8/2002), một
công thần của Đảng Cộng sản nhưng về cuối đời, bị Đảng khai trừ khi ông
kêu gọi thay đổi hệ thống chính trị.
Trong một thời gian dài, tên của vị Trung tướng vẫn là cấm kỵ ở trong nước.
Tuy vậy, thời gian gần đây dường như Đảng Cộng sản cầm quyền phần nào thay đổi thái độ, với việc ấn hành bộ ba tập sách tuyển tập các bài viết của ông, in đầu năm 2012.
Trước đó, năm 2007, tập một cuốn Chuyện Tướng Độ được NXB Quân đội Nhân dân ấn hành.
Nhưng các cuốn sách, cũng như một số bài báo về Trần Độ trên báo chí chính thống, đều không nhắc gì đến sự thay đổi lập trường của ông sau này.
Nói chuyện với BBC hôm 8/8, một nhà bất đồng chính kiến lão thành quen biết Tướng Độ cho rằng Việt Nam nên tổ chức một hội thào đánh giá đóng góp tư tưởng, thân thế và sự nghiệp của vị tướng này.
'Dũng cảm'
Ông Hồng Hà đưa ra đánh giá của mình về vị tướng này: "Trên tất cả các cương vị mà ông ấy phụ trách, ông đều hoàn thành những nhiệm vụ một cách rất xuất sắc.
"Nhưng bởi vì ý kiến của ông ấy, ông ấy thấy cái gì sai của Đảng và những gì sai của chính quyền ở đất nước này, ông ấy phát biểu ý kiến.
"Phải nói rằng những ý kiến ông ấy phát biểu rất giỏi, dũng cảm và trí tuệ. Nhưng vì ông phát biểu phê phán người ta, lãnh đạo như thế, thì lãnh đạo tự ái, không thể chấp nhận được, kỷ luật ông ấy.
Trước câu hỏi, nhà nước hay các cơ quan chuyên môn như Viện Sử học có nên tổ chức Hội thảo về Tướng Độ, sau hơn mười năm ông qua đời, ông Hồng Hà nói:
"Với sự lãnh đạo của Đảng hiện nay, việc Viện Sử học tổ chức Hội thảo có lẽ còn chưa thích hợp, chưa làm được bởi vì trong lãnh đạo hiện nay còn một số người nhận định các vấn đề chưa đủ rõ.
"Người ta vẫn thành kiến, người ta cho rằng ông Trần Độ tuy rằng có những ý kiến đúng nhưng không đúng nguyên tắc, phát biểu không đúng nguyên tắc, này nọ.
"Tôi thấy rằng các nhận xét đó của người ta còn rất là sai... Theo tôi thấy là nên nhưng mà đánh giá của lãnh đạo hiện nay có thể chưa chấp nhận. Hiện nay, người ta còn có nhiều vấn đề còn chưa ổn."
Ông nói: "Ông Trần Độ trung thành không phải là trung thành với Đảng. Ông Trần Độ là trung thành với Tổ quốc, nhân dân.
Tướng Trần Độ từng giữ chức vụ Phó Chính ủy, Phó Bí thư Quân ủy Quân giải phóng miền Nam VN của Bắc Việt
"Và vì trung thành với Tổ Quốc, nhân dân, nên ông ấy mới có những ý kiến phê phán lãnh đạo của Đảng.
"Chính vì ông ấy phê phán như thế, ông ấy mới bị thành kiến và ông ấy mới bị đối xử kỷ luật các thứ này nọ."
Tướng Độ, sinh năm 1923, kinh qua nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền cộng sản Bắc Việt và từng nắm các chức vụ quan trọng hậu chiến như Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương kiêm Thứ trưởng Văn hóa.
Ông bị khai trừ khỏi Đảng vì bất đồng chính kiến, mặc dù chức vụ cuối cùng của ông là Ủy viên Trung ương Đảng kiêm Phó Chủ tịch Quốc hội.
"Trong tình hình của lúc đó, ông Trần Độ chưa ra khỏi Đảng, cái đó là dũng cảm thôi, và sau đó ông ấy bị khai trừ.
"Trong khi ông còn là Đảng viên, còn là cương vị này, cương vị khác, ông phát biểu ý kiến, phê phán những cái sai của Đảng.
"Thì trong điều kiện lúc bấy giờ, thế là thích hợp, là đúng đắn, chứ không phải là bây giờ là nhất định phải ra khỏi Đảng.
"Người ta vẫn cứ là Đảng viên, nhưng người ta phát biểu ý kiến, hiện nay rất nhiều cán bộ đang ở trong tình hình ấy.
"Người ta vẫn là Đảng viên, nhưng người ta vẫn phê phán một cách khá mạnh mẽ," ông nói với BBC.
(BBC)
Trong một thời gian dài, tên của vị Trung tướng vẫn là cấm kỵ ở trong nước.
Tuy vậy, thời gian gần đây dường như Đảng Cộng sản cầm quyền phần nào thay đổi thái độ, với việc ấn hành bộ ba tập sách tuyển tập các bài viết của ông, in đầu năm 2012.
Trước đó, năm 2007, tập một cuốn Chuyện Tướng Độ được NXB Quân đội Nhân dân ấn hành.
Nhưng các cuốn sách, cũng như một số bài báo về Trần Độ trên báo chí chính thống, đều không nhắc gì đến sự thay đổi lập trường của ông sau này.
Nói chuyện với BBC hôm 8/8, một nhà bất đồng chính kiến lão thành quen biết Tướng Độ cho rằng Việt Nam nên tổ chức một hội thào đánh giá đóng góp tư tưởng, thân thế và sự nghiệp của vị tướng này.
'Dũng cảm'
Ông Hồng Hà đưa ra đánh giá của mình về vị tướng này: "Trên tất cả các cương vị mà ông ấy phụ trách, ông đều hoàn thành những nhiệm vụ một cách rất xuất sắc.
"Nhưng bởi vì ý kiến của ông ấy, ông ấy thấy cái gì sai của Đảng và những gì sai của chính quyền ở đất nước này, ông ấy phát biểu ý kiến.
"Phải nói rằng những ý kiến ông ấy phát biểu rất giỏi, dũng cảm và trí tuệ. Nhưng vì ông phát biểu phê phán người ta, lãnh đạo như thế, thì lãnh đạo tự ái, không thể chấp nhận được, kỷ luật ông ấy.
"Với sự lãnh đạo của Đảng hiện nay, việc Viện Sử học tổ chức Hội thảo có lẽ còn chưa thích hợp, chưa làm được bởi vì trong lãnh đạo hiện nay còn một số người nhận định các vấn đề chưa đủ rõ""Đấy là cái sai của lãnh đạo lúc bấy giờ, mà ông Trần Độ theo tôi suy nghĩ là ông ấy rất đúng đắn..."
Ông Lê Hồng Hà
Trước câu hỏi, nhà nước hay các cơ quan chuyên môn như Viện Sử học có nên tổ chức Hội thảo về Tướng Độ, sau hơn mười năm ông qua đời, ông Hồng Hà nói:
"Với sự lãnh đạo của Đảng hiện nay, việc Viện Sử học tổ chức Hội thảo có lẽ còn chưa thích hợp, chưa làm được bởi vì trong lãnh đạo hiện nay còn một số người nhận định các vấn đề chưa đủ rõ.
"Người ta vẫn thành kiến, người ta cho rằng ông Trần Độ tuy rằng có những ý kiến đúng nhưng không đúng nguyên tắc, phát biểu không đúng nguyên tắc, này nọ.
"Tôi thấy rằng các nhận xét đó của người ta còn rất là sai... Theo tôi thấy là nên nhưng mà đánh giá của lãnh đạo hiện nay có thể chưa chấp nhận. Hiện nay, người ta còn có nhiều vấn đề còn chưa ổn."
'Trung thành với nhân dân'
Ông Hà cho rằng Trần Độ không phải là nhà "đối lập trung thành" của Đảng mà thay vào đó ông là một người "trung thành với dân, với nước."Ông nói: "Ông Trần Độ trung thành không phải là trung thành với Đảng. Ông Trần Độ là trung thành với Tổ quốc, nhân dân.
Tướng Trần Độ từng giữ chức vụ Phó Chính ủy, Phó Bí thư Quân ủy Quân giải phóng miền Nam VN của Bắc Việt
"Và vì trung thành với Tổ Quốc, nhân dân, nên ông ấy mới có những ý kiến phê phán lãnh đạo của Đảng.
"Chính vì ông ấy phê phán như thế, ông ấy mới bị thành kiến và ông ấy mới bị đối xử kỷ luật các thứ này nọ."
Tướng Độ, sinh năm 1923, kinh qua nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền cộng sản Bắc Việt và từng nắm các chức vụ quan trọng hậu chiến như Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương kiêm Thứ trưởng Văn hóa.
Ông bị khai trừ khỏi Đảng vì bất đồng chính kiến, mặc dù chức vụ cuối cùng của ông là Ủy viên Trung ương Đảng kiêm Phó Chủ tịch Quốc hội.
"Hiện nay rất nhiều cán bộ đang ở trong tình hình ấy. Người ta vẫn là Đảng viên, nhưng người ta vẫn phê phán một cách khá mạnh mẽ."Trả lời câu hỏi của BBC liệu cách thức đóng góp cho đổi mới thể chế và chính trị khi vẫn còn giữ thẻ Đảng của Tướng Độ còn mang tính thời sự không, ông Lê Hồng Hà nói:
Ông Lê Hồng Hà
"Trong tình hình của lúc đó, ông Trần Độ chưa ra khỏi Đảng, cái đó là dũng cảm thôi, và sau đó ông ấy bị khai trừ.
"Trong khi ông còn là Đảng viên, còn là cương vị này, cương vị khác, ông phát biểu ý kiến, phê phán những cái sai của Đảng.
"Thì trong điều kiện lúc bấy giờ, thế là thích hợp, là đúng đắn, chứ không phải là bây giờ là nhất định phải ra khỏi Đảng.
"Người ta vẫn cứ là Đảng viên, nhưng người ta phát biểu ý kiến, hiện nay rất nhiều cán bộ đang ở trong tình hình ấy.
"Người ta vẫn là Đảng viên, nhưng người ta vẫn phê phán một cách khá mạnh mẽ," ông nói với BBC.
(BBC)
Tương Lai - Nghĩ về hiện tượng Trần Độ
Nói như vậy, vì người viết muốn nhìn ra ở đây "một hiện tượng lịch sử" có nghĩa biểu tượng.
Lịch sử đi tới theo đội hình hình thoi chứ không "dàn hàng ngang mà
tiến". Bao giờ những người đi trước cũng thuộc số ít. Càng ít hơn nữa là
những ngươi có tầm mắt vượt lên phía trước, nhìn thấu được những điều
mà nhiều người đồng hành chưa nhìn ra, hoặc nhìn nhưng chưa thấy, hoặc
thấy nhưng chưa rõ. Và càng sát cái điểm đầu chóp hình thoi ấy thì càng
đơn độc! Trần Độ là một hiện tượng, đúng hơn, là một bằng chứng rất sống
động về sự "đơn độc của tia chớp" đang dẫn dắt suy tư của người viết
nhân ngày mất của ông, 9. 8. 2002 [Trần Độ mất ngày 1.7 Âm lịch, năm nay
trùng với ngày Dương lịch là 7.8.2013 – BVN].
Nhận thức là một quá trình, điều này chẳng có gì mới đáng nói. Cái đáng
nói hơn vào thời điểm này là: với sự kiểm nghiệm của thời gian, có những
con người đã trở thành một hiện tượng lịch sử vì nó là biểu tượng sống
động về sự oái oăm của lịch sử trong nhận thức về lịch sử. Mà trớ trêu
thay, chính sự oái oăm đó làm nên lịch sử. Làm nên bằng chính cái tầm
vượt lên phía trước ấy. Chẳng thế mà Voltaire từng khuyến cáo rằng "Lịch
sử không nên đề cập đến sự thăng trầm của các ông vua mà là trào lưu
tiến hoá của dân tộc, không nên đề cập đến từng quốc gia riêng rẽ mà là
toàn thể nhân loại, không nên đề cập đến chiến tranh mà là đề cập đến sự
phát triển của tư tưởng. Những trận đánh, những đoàn quân chiến thắng
hoặc chiến bại, những thành phố bị chiếm đi hoặc lấy lại là những sự
kiện quá tầm thường, không nói lên điều gì quan trọng. Điều quan trọng
là con người sống và suy nghĩ như thế nào qua các thời đại... qua những
giai đoạn nào con người đi từ trạng thái man rợ đến trạng thái văn
minh”*.
Không hiểu có phải lẩn thẩn không mà người viết bài này những cứ muốn
bạo gan đặt ra câu hỏi với nhà Khai sáng Pháp: liệu dưới tác động nào
đó, trong một thời đoạn đau thương nào đó, có thể có quá trình ngược
lại, một cơ chế phi lý đẩy con người đi từ trạng thái văn minh trở lại
với trạng thái man rợ ? Trần Độ có bốn câu thơ dưới dạng "tự bạch":
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.
Liệu nỗi niềm "ai hay, biến đổi, ác luân hồi" có chút bóng dáng nào của
cái cơ chế phi lý kia không? Vì rằng, nếu cứ nhìn về nhân thân và sự
nghiệp theo một nếp hằn rất chi là "lập trường quan điểm" từng chi phối
đời sống tinh thần xã hội gần hai phần ba thế kỷ nay, thì con người này
là một mẫu mực sáng giá, một điểm son chói lọi trong những trang sử hiện
đại: Đi làm cách mạng từ năm 16 tuổi, vào đảng năm 17 tuổi, vào tù, cắn
răng chịu tra tấn trong các nhà tù đế quốc, vượt ngục về hoạt động bí
mật vào những ngày "tiền khởi nghĩa", góp phần vào Cách Mạng tháng
8.1945, đảm nhiệm vai trò chính ủy Mặt trận Hà Nội "cảm tử cho Tổ quốc
quyết sinh" những ngày Thủ đô rực lửa năm 1946, tiếp đó là chính ủy
trung đoàn, chính ủy đại đoàn, chính ủy quân khu, rồi phó chính ủy và
phó bí thư quân ủy, được phong hàm thiếu tướng rồi trung tướng, được bầu
làm Phó Chủ tịch Quốc hội, ủy viên BCHTƯĐCSVN, Trưởng ban văn hóa văn
nghệ TƯ.
Dù được quy chiếu theo những hệ thống giá trị nào thì cuộc đời dấn thân
hết mình cho tổ quốc, nằm gai nếm mật, vào tù ra tội, luôn đứng ở mũi
nhọn của cuộc chiến tranh cứu nước, con người này có một cuộc sống thật
đẹp! Càng đẹp theo kiểu "ta phó thân ta với đất trời" chứ không chỉ vì
những chức vụ, danh vọng mà ông có được bằng sự dấn thân kia!
Ấy thế mà khi con người ấy nằm xuống, người ta quyết không cho cuộc đời
"thương tiếc" ông. Dùng một con rôbốt vô hồn để thực hiện một công vụ
táng tận lương tâm là kể tội ông trong điếu văn đọc trước linh cữu người
quá cố, người ta đã chà đạp lên truyền thống "nghĩa tử là nghĩa tận"
trong đời sống dân tộc. Cái đáng sợ nhất, khủng khiếp nhất chính ở chỗ
này đây.
Tướng Trần Độ |
Một giải pháp vô văn hóa, phản tâm linh được thực thi một cách triệt để
theo lối "đào tận gốc, trốc tận rễ" khi người ta "trả nghĩa" cho ông
"Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương" của đảng bằng hành động vô văn
hóa đó. Một hành động được hoạch định kỹ càng và đóng dấu ở nơi cao cấp
nhất! Từ cách công bố tin ông mất sát kề ngày tang lễ để đồng chí, đồng
đội của ông không đến kịp nhằm giảm tối đa số người "thương tiếc" ông
tại nhà tang lễ đến chuyện xé bỏ những băng tang đính trên vòng hoa nếu
có chữ "vô cùng thương tiếc" và rồi bài điếu văn phản nhân văn, ráo cạn
nhân tình không tiền khoáng hậu đi vào lịch sử như một vết nhơ không sao
xóa mờ đi được!
Xin chen vào đây một mẩu chuyện: vòng hoa của người viết bài này nhờ một
người bạn vốn là lính của tướng Độ mang đến nhà tang lễ. Hai vị CA chặn
lại, yêu cầu gỡ bỏ mấy chữ "Vô cùng thương tiếc". Vị cựu chiến binh là
thương binh chiến đấu ở chiến trường Miền Tây cố làm nhẹ sự căng thẳng
bằng một đề nghị hóm hỉnh:" thế tôi sửa lại là "thương tiếc vừa vừa đồng
chí Trần Độ nhé". CA trừng mắt, quát. Xô xát có cơ xảy ra vì anh thương
binh "quân của tướng Độ" đã xắn tay áo. Ánh mắt đang đổ dồn về đây. Một
vị đeo lon trung tá vừa lịch lãm vừa xử sự rất "có nghề" đã nhanh chóng
xin lỗi người cựu chiến binh, vừa gạt tay thuộc cấp định gỡ vòng hoa,
rồi mời người cựu chiến binh mang nó cùng đi. Nhưng khi đến gần bậc thềm
nhà tang lễ thì anh ta nói " theo quy định, chúng tôi phải trực tiếp
chuyển vòng hoa, đồng chí cứ đứng đây". Thế rồi y nhấc bổng vòng hoa đi
vòng ra phía sau, mất hút!
Gọi điện kể lại, người cựu chiến binh tự hào là "quân của tướng Độ" đó
an ủi: "thôi chú ạ, thế là mình cũng đã thể hiện được tấm lòng và ý chí
trọn nghĩa vẹn tình với ông ấy, người sẽ đi vào lịch sử. Đến vòng hoa
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà chúng nó cũng đòi bóc, đại tá Huyên
quyết liệt đấu tranh, cuối cùng cũng đành chỉ còn hai chữ "thương tiếc",
phải bỏ hai chữ "vô cùng" trên vòng hoa tang của bậc công thần, người
anh cả của quân đội cụ Hồ gửi viếng một vị tướng từng chỉ huy Mặt trận
quyết tử của Hà Nội mở đầu cuộc chiến tranh giữ nước để rồi có mặt trên
tất cả các mặt trận nóng bỏng nhất cho đến khi kết thúc chiến tranh, mà
chú”!
Có thể ai đó khi hạ lệnh gỡ bỏ những dòng chữ "vô cùng thương tiếc" trên
vòng hoa tang đã cạn nghĩ, hoặc mê muội trong nguyên lý khủng khiếp
từng thuộc nằm lòng về sự chuyên chính đối với kẻ thù giai cấp, đã không
lường trước được hệ lụy cũng khủng khiếp không kém của quyết định dại
dột bất cận nhân tình ấy. Trong tâm thức của dân tộc, vết nhơ kia sẽ
không có cách gì rửa sạch được. Và nếu như ông cha ta dạy "gươm dơ lấy
nước làm sạch, nước dơ lấy máu làm sạch" thì rồi đây lấy gì để rửa vết
nhơ lịch sử kia đây? Xét cho cùng, vết nhơ lịch sử này chính là nỗi đau
văn hóa.
Đây là điều mà M. Gorki, một thời được mệnh danh là "nhà văn vô sản vĩ
đại" từng chiếm lĩnh trọn vẹn các giáo trình lý luận văn học của các
trường đại học và sách dạy phổ thông ở nước ta đã từng quyết liệt cảnh
báo ngay từ những năm 1917-1918 (đương nhiên là người ta dấu nhẹm sự
cảnh báo này): "Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng
điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài
da vào bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng
đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần". Chính vì
vậy, M.Gorki viết: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không
đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy”!**
Sự suy thoái đạo đức đích thực, chứ không phải sự gán ghép tùy tiện do
sự lú lẫn đầy ác ý, là biểu hiện dễ thấy của "sự lâm nguy" này. Sự lâm
nguy bắt đầu từ khi người ta "đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong
nội tạng" của cả dân tộc. Càng nguy hiểm hơn khi, thay vì "phải được
trui rèn trong ngọn lửa cháy không bao giờ dứt của văn hóa, tinh thần nô
lệ đã hằn sâu trong nó phải bị tẩy sạch đi", thì người ta làm ngược
lại, tàn phá văn hóa.
Sẽ quá dài nếu phải liệt kê ra đây sự tàn phá đó khi mà chỉ lẩy riêng ra
"một hiện tượng Trần Độ", nói chính xác hơn, cách ứng xử với ông Trưởng
Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương Trần Độ khi ông nằm xuống, cũng đã quá
đủ để minh họa một cách sống động về điều này.
Trong một bài gần đây trên tạp chí "Văn hóa Nghệ An" ngày 31.7.2013,
giáo sư Nguyễn Minh Thuyết lưu ý rằng: "quan sát trong xã hội, đạo đức
suy thoái, đúng là chưa bao giờ đất nước ở vào tình trạng như hiện nay.
Nói cách khác, trong lịch sử chỉ thời mạt mới xuất hiện những chuyện như
thế...". Ông dẫn trong "Hoàng Lê Nhất thống chí" lời học trò của Lý
Trần Quán trả lời thầy khi bị ông mắng về tội bắt Chúa Trịnh Tông nộp
cho Tây Sơn: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu thân”
để đưa ra nhận định: "Có thể nói đó là câu nói điển hình cho sự suy
thoái... Còn về các nước, có thể nói, nếu so sánh, phải thấy là những xã
hội có hiện tượng như thế này là xã hội kém phát triển. Xã hội văn minh
cũng có những hiện tượng này nhưng nó không bệ rạc, không phổ biến như
thế"... Quả đúng vậy. Nhưng để cho trọn vẹn hơn thì xin mạo muội đề nghị
giáo sư Thuyết trích thêm một dòng nữa ở trang 106 trong sách nói trên,
con người "lừa thầy phản chúa" ấy rồi "được phong làm Tráng Nghĩa hầu
thêm chức Trấn thủ Sơn Tây"! Chính cái "được" này mới là động cơ mãnh
liệt thôi thúc những chuyện lừa thầy, phản chủ mà giáo sư gọi là "suy
thoái" kia.
Những con "rô bốt" vô hồn, dù là cao sang quyền quý, danh gia vọng tộc
hay lưu manh chính trị mạt hạng đang nhan nhản khắp nơi, hoặc tác oai
tác quái với dân, hoặc lên mặt đạo đức giả đi rao giảng đạo đức lấy đó
làm cái lá nho để che đi những xấu xa thối nát quá lộ liễu, hoặc nói một
đằng làm một nẻo mất hết liêm sỉ mà dân gian gọi là đã đứt giây thần
kinh xấu hổ ...xét đến cùng chính là vì cái được ấy! Ngay cả những người
đang theo lý thuyết "mắc-kê-nô", tạm bằng lòng với ngôi nhà vừa tậu,
chiếc ô tô đời mới hay cái công ty của con đang làm ăn yên ổn đang xua
tay "không muốn động đến chuyện chính trị" thì trong sâu thẳm tâm hồn
họ, cái động cơ mãnh liệt kia vẫn đang khởi động.
Xét đến cùng, vâng, xét đến cùng, cái "được" kia, nói chữ nghĩa ra là
lợi ích nhận được từ cái cơ chế sản sinh ra những "rôbốt" vô hồn kia
chính là chất xi măng gắn kết chúng với nhau vì lợi ích, và cái đem lại
lợi ích nhanh chóng nhất chính là quyền lực. Trong bài viết cách đây
chưa lâu, người viết này đã nói về quy luật này: "Quyền lực thúc đẩy
việc mở rộng vô hạn độ quyền lực, và hầu như không có điểm dừng. Nhưng
"quyền lực lại có xu hướng tha hóa và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa
cũng tuyệt đối” (Power tends to corrupt and absolute power corrupts
absolutely, có người dịch từ "corrupt" là "tham nhũng" trong những văn
cảnh nhất định nào đó). Chế độ toàn trị phản dân chủ là nguyên nhân sâu
xa cho cái chuyện "quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối" ấy.
Liệu lịch sử loài người đã biết có bao nhiêu thứ "quyền lực tuyệt đối"
như chế độ toàn trị hiện hành?
Thật ra thì vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, Milovan Dijlas, tác
giả của "Giai cấp mới", một tác phẩm viết trong tù được bí mật gửi ra
nước ngoài và được in ở New York năm 1957 từng phân tích rất rành mạch
về chyện này:
"Đảng sinh ra giai cấp. Sau đó giai cấp tự phát triển bằng chính nguồn
lực của mình và sử dụng đảng như là cơ sở... Ở đây, muốn trở thành chủ
sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy
quan liêu chính trị".
Ông chỉ ra rằng: "Giai cấp mới giống như một hình kim tự tháp: đáy to,
càng lên trên càng hẹp dần. Để đi lên, chỉ ý chí không chưa đủ, còn cần
phải hiểu và "vận dụng lý luận nữa", cần phải quyết liệt trong cuộc đấu
tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp
trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong
việc củng cố vị trí cho giai cấp nữa".
Vì thế, "cùng với việc củng cố giai cấp mới, khi bộ mặt của nó càng thể
hiện rõ, thì vai trò của đảng cũng ngày càng giảm đi. Hạt nhân và cơ sở
của giai cấp mới đã hình thành ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực
của đảng cũng như của bộ máy nhà nước. Cái đảng từng có lúc là một tổ
chức sinh động đầy sáng kiến, thì nay, đối với những người cầm đầu của
giai cấp mới, đảng đã biến thành một vật trang trí, càng ngày chỉ càng
kéo vào hàng ngũ của mình những kẻ hãnh tiến, những kẻ muốn nhập vào
hàng ngũ của giai cấp mới và đẩy những người vẫn còn tin vào lý tưởng
ra"***.
"Hiện tượng Trần Độ" liệu có phải là minh chứng sống động về"những người
vẫn còn tin vào lý tưởng" bị đẩy ra một cách quyết liệt, quá sức phũ
phàng, cạn tàu ráo máng? Mà phải đẩy ra bằng được, vì lý tưởng cao đẹp
của con người ấy đang là vật cản cho quá trình "củng cố giai cấp mới ở
bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng, cũng như của bộ máy nhà
nước".
Chẳng có gì khó hiểu và bí ẩn trong chuyện phũ phàng, cạn tàu ráo máng
với Trần Độ. Đây là diễn biến logic về sự tha hóa của quyền lực. Nó đồng
thời cảnh báo một nguyên lý sẽ được đẩy tới ngày càng hung dữ và bất
chấp đạo lý cũng như luật pháp: quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng
tuyệt đối! Chuyện chà đạp lên đời sống tâm linh trong đạo lý nghĩa tình
dân tộc chẳng là gì so với chuyện củng cố bộ máy quyền lực khi "cần phải
quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi
xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật,
thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp mới đang nắm
quyền"***!
Thế thì làm sao chấp nhận được một ủy viên trung ương đảng, một phó chủ
tịch Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, lại đòi hỏi:" Đảng
Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai
trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến
pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là
phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn
luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ
bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng...".
Càng không thể nào dung nạp được một cách tư duy quyết liệt khi vạch ra
rằng:" Không nên lạm dụng chữ cách mạng. Ta bây giờ không phải là cách
mạng chống ai cả, không phải đánh đổ ai cả. Xây dựng hoà bình thì phải
đoàn kết, có gì trở ngại thì hoá giải nó để tiến lên... không thể lúc
nào cũng phải có chương trình hoạt động cách mạng, lúc nào cũng phải
hành động cách mạng...
Chính quyền bây giờ không phải là chính quyền cách mạng. Điều đó chỉ có ý
nghĩa khi cách mạng vừa mới thành công... Ngày nay chính quyền phải là
chính quyền xây dựng. Chính quyền xây dựng thì phải có những chủ trương,
chính sách làm cho mọi người dân đều được tự do làm ăn. Và từ đó người
dân phải có tự do nói, tự do tìm thông tin và trao đổi thông tin. Như
thế tự do làm ăn mới thực hiện được... Ở rất nhiều nơi, nhiều lúc, không
cần đến cách mạng. Nhưng ở tất cả các nơi đều cần có tự do, và lớn nhất
là “tự do làm ăn” phải có tự do hưởng lợi ích của kết quả sự làm ăn đó.
Nhân dân chỉ muốn tiến hoá, chứ không muốn cách mạng bạo lực! Đất nước
ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử kéo dài gồm những cuộc chiến đấu
chống xâm lược giành độc lập, hoà bình xây dựng, rồi lại bị xâm lược. Và
lại chiến tranh chống xâm lược. Qua quá trình đó mà đất nước ta trưởng
thành và phát triển. Cho đến nay, đất nước đã được hoà bình độc lập,
thống nhất.
Không biết tương lai loài người sẽ phát triển, tiến bộ thế nào và do đó
đất nước ta sẽ gặp những tình huống thế nào? Nhưng chắc chắn là những
bước đi sắp tới của ta cũng không có thể lặp lại y nguyên những tình
hình trước đây.
"Động trời" hơn nữa khi Trần Độ tuyên bố không úp mở: "Chiến tranh lớn
và các hoạt động bạo lực, lật đổ càng ngày càng trở nên lạc hậu lỗi
thời... Để có tự do và hạnh phúc, không nhất thiết phải có bạo lực,
không nhất thiết phải đánh đổ ai. Thậm chí ngày nay có những nền độc lập
giành được cũng không cần có bạo lực và chiến tranh"!
Và rồi, người đứng đầu cơ quan lãnh đạo văn hóa văn nghệ mà lại công
khai nói thẳng cái sự thật nghiệt ngã mà hơn nửa thế kỷ qua người ta cố
né tránh, bưng bít: "Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa
mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường
lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những
giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp".
Cách chức, khai trừ đảng là chuyện quá dễ hiểu, không thế mới lạ! Thì
chẳng phải đã có một ví dụ quá rõ nét khi Đảng và nhà nước Nam Tư đã bỏ
tù tác giả của "Giai cấp mới", người đã từng được bầu làm Phỏ Tổng thống
Liên bang Nam Tư, "cây lý luận hàng đầu" của Đảng Cộng sản Nam Tư đó
sao?
Milovan Dijlas từng tuyên bố: "Tôi, một trí thức đã đi trọn con đường mà
một đảng viên cộng sản có thể đi. Từ những chức vụ thấp nhất, từ các tổ
chức cơ sở cho đến quốc gia và quốc tế, từ việc thành lập một đảng cộng
sản chân chính, chuẩn bị cách mạng, đến việc tham gia xây dựng cái gọi
là chế độ xã hội chủ nghĩa. Không ai buộc tôi phải tham gia hay từ bỏ
chủ nghĩa cộng sản cả. Tôi đã tự quyết, theo niềm tin của mình, một cách
tự do... Càng rời xa chủ nghĩa cộng sản, tôi càng tiến gần đến lý tưởng
của chủ nghĩa xã hội dân chủ"...
Tư tưởng bình đẳng và bác ái tồn tại cũng lâu như chính loài người, được
chủ nghĩa cộng sản ủng hộ trên lời nói, vốn mang trong mình nó sức hấp
dẫn vĩnh hằng đối với những chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức
hấp dẫn mang tính nhân bản của những lý tưởng đó đã làm cho việc phê
phán chúng trở thành không chỉ phản động mà còn trống rỗng và vô nghĩa
nữa".
Chính vì thế, người trí thức "đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng
sản có thể đi" ấy đã "tập trung mô tả đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản
hiến đại... Tất cả chỉ là sản phẩm của thế giới mà tôi đang sống và đang
phê phán. Tôi đã thấy và đã trình bày tất cả mà không ngượng ngùng khi
thú nhận rằng mình đã là sản phẩm của nó, có lúc đã là người tham gia
xây dựng nó và bây giờ là người phê phán nó"***.
Phải chăng đây là sự" phê phán nó" khi "nó" đã tự tha hóa, tự biến mình
thành công cụ trong tay "giai cấp mới" với lợi ích của chính nó, củng cố
chế độ toàn trị phản dân chủ, quay lưng lại với nhân dân? Trong những
bức thư Trần Độ gửi lãnh đạo của đảng, đặc biệt là bức thư viết vào cuối
năm 1974 dưới bút danh Chín Vinh, đã có bóng dáng của sự phê phán nói
trên:" nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong tất cả các tổ
chức Đảng, trong bộ máy chính quyền... Điều đó ai cũng thấy. Thế nhưng
vấn đề là tại sao nó lại chuyển biến chậm chạp. Sự biến chuyển chậm chạp
này đã tạo ra một tình trạng giảm sút lòng tin trong cán bộ, đảng viên,
trong nhân dân và đáng ngại nhất là trong thanh niên... Những hiện
tượng tiêu cực của xã hội (và trong Đảng, trong chính quyền) làm vẩn đục
sự trong sáng và đẹp đẽ của những lý tưởng, đầu độc những lòng say mê
hăng hái có tính chất lãng mạn cách mạng, "sống tiêu cực", tạo nên "một
thế lực xã hội" bao vây và xua đuổi những tâm hồn trung thực"...mọi
người trung thực đều nóng lòng mong đó một cái gì đổi mới, chuyển biến
gì mạnh mẽ..."****.
Phải chuyển nhanh, phải đổi mới nhanh để khỏi phải chứng kiến những điều
đau lòng mà ông nghe được từ người bạn cũ cùng xóm lần ông từ chiến
trường về quê sau mười năm xa cách: "cuộc sống ở nhà thật khốn khổ, khốn
khổ nhưng không ai dám kêu. Đói đấy phải bảo là no. Có ai hỏi đều nói
“cám ơn bác cũng đủ ăn”. Nếu kêu đói tức là thành phần xấu. Ông hỏi
người bạn cũ: Được mấy cháu rồi? - Nhờ ơn cách mạng được ba đứa. - Sao
lại nhờ ơn cách mạng? - Ở chiến trường không biết chứ ở nhà cái gì chả
nhờ ơn cách mạng. Nuôi được con lợn to, cưới được vợ cho con, nhất nhất
là ơn của cách mạng cả"!
Là người lăn lộn ở chiến trường cùng với chiến sĩ, lặng lẽ ghi những
hiện thực thất đáng buồn ở hậu phương, câu chữ ngọn bút ghi lại chạy
trên trang giấy mỏng hoàn toàn là sự thật, tướng Trần Độ day dứt: "Nếu
sự thật này ở tiền tuyến người lính biết được hoàn cảnh sống của cha mẹ
vợ con thì cấp trên biết nói thế nào với họ?"****.
Trung thực với chính mình, trung thực với cuộc sống, trung thực với lịch
sử, chính cái đó tạo ra "hiện tượng Trần Độ". Ở đây, "sức hấp dẫn vĩnh
hằng đối với những chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn
mang tính nhân bản của những lý tưởng đó" bị chính sự dối trá lọc lừa
của "quyền lực bị tha hóa" làm cho băng hoại. Bằng sự trải nghiệm của cả
cuộc đời dấn thân trọn vẹn cho lý tưởng nhân văn cao đẹp, Trần Độ tỉnh
táo nhận ra sự băng hoại khủng khiếp đó.
Trong Nhật ký viết vào những năm cuối đời mà ông gọi "đây là một tấc
lòng “để tặng người đời và cuộc đời”. Đây là những ý nghĩ nung nấu trong
những tháng cuối năm Rồng và đầu năm Rắn, và cũng là những ý nghĩ nung
nấu trước đó hàng chục năm và sẽ còn nung nấu tiếp đến cả khi sang thế
giới bên kia. Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của
một kiếp người".
Vấn đề Trần Độ đặt ra đâu chỉ là ý nghĩ của riêng ông. Một xã hội mà
công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được
quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội
không có chân móng. Câu này Nguyễn Khải viết trong "Đi tìm cái tôi đã
mất". Thật đau đớn khi "một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ
mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một
kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào
chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một
xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện
tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình
sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy! Vẫn là Nguyễn Khải dằn
vặt trong "Đi tìm cái tôi đã mất".
Mà đâu chỉ nhà văn Nguyễn Khải có nỗi dằn vặt đó, nhà thơ Chế Lan Viên
trong bài "Trừ Đi" cũng từng nói lên nỗi đau dằng xé tâm can:
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau - giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm - giết một ước mơ - tôi giết
Cái cánh sắp bay - trước khi tôi viết
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển - Giết mưa
Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi.
Có phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau - giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm - giết một ước mơ - tôi giết
Cái cánh sắp bay - trước khi tôi viết
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển - Giết mưa
Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi.
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - Người có lỗi
Đã phải giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình
Chính vì thế, Trần Độ thẳng thắn chỉ rõ:
"Tự do là chìa khoá của phát triển.
Đã phải giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình
Chính vì thế, Trần Độ thẳng thắn chỉ rõ:
"Tự do là chìa khoá của phát triển.
Tôi nghĩ thế này: nước Việt Nam ta hiện nay, sau bao nhiêu năm đấu tranh
và chiến tranh gian khổ, cần phải hoà bình phát triển và cần phải phát
triển nhanh, để bù lại những thời gian đã mất, và để theo kịp các nước
chung quanh. Đó là mục đích và yêu cầu quan trọng nhất của đất nước.
Những cái khác là phụ. Do đó, để phát triển đất nước thì rõ ràng ta phải
tìm đường lối nào, học thuyết nào phục vụ được yêu cầu đó. Nếu thật sự
coi phát triển đất nước là quan trọng nhất thì Đại đoàn kết dân tộc là
quan trọng hơn đấu tranh giai cấp; trí thức quan trọng hơn công nhân và
nông dân; phát triển sức sản xuất là quan trọng hơn mọi thứ; để dân làm
chủ mọi lĩnh vực quan trọng hơn các trò chuyên chính đàn áp; nghe và thu
thập được nhiều ý kiến khác nhau và trái ngược nhau kể cả về đường lối
chính sách, quan trọng hơn là bắt mọi người phải tuân theo một quan
điểm, một ý kiến".
Cho nên, đúng là không có gì khó hiểu khi người ta phải khai trừ Trần Độ
ra khỏi đảng, rốt ráo đến độ khi ông mất lại cạn tàu ráo máng cấm không
được "thương tiếc ông". Đây là kế tục thực hiện một nguyên lý cai trị.
Thì chẳng thế sao ? Từ những năm 1955, ngay sau giải phóng Thủ đô, thay
vì "Khi đoàn quân tiến về là đêm tan dần" như Văn Cao mơ ước, người ta
đã "...đem bục công an đặt giữa tim người/ Bắt tình cảm ngược xuôi/ theo
luật đi đường nhà nước" (Thơ Lê Đạt). Chẳng những thế, "phải tạo ra một
tình hình chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy
ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống
trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị
chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư
tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống.
Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp,
bắt giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh
gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ,
qua nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra
là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài.
Họ đâu có sợ loạn. Họ còn bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên
Xô và các nước Đông Âu, hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã
làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và
những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở
bằng gì"... Những câu này là của tác giả "Đi tìm cái tôi đã mất".
Chính vì thế mà phải "Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết
xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại,
không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra.
Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai
hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái
trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những
tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để
không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói .
Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân
dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền
đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng
hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi
lại nói thế là thật hay không thật...
Mọi cái khác với chính thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được
tuyên dương. Vì những cái khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn
những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh”.
Nhà văn Nguyễn Khải đau đớn đặt ra một câu hỏi: một môi trường xã hội
ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số
phận những cá nhân sẽ ra sao? Vị tướng Trần Độ trả lời câu hỏi đó trong
những trang Nhật ký viết ở chặng sắp kết thúc một cuộc đời dấn thân
trọn vẹn cho lý tưởng cao cả từ thuở đầu xanh cho đến lúc tóc bạc để đúc
kết vào chỉ mỗi một câu thôi:
"Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người".
Tôi mượn câu này làm một nén hương lòng thắp trước di ảnh của ông nhân
ngày Giỗ của người mà tôi kính mến. Tôi là kẻ hậu sinh, quen biết ông
quá muộn, được ông xem là bạn vong niên đã là một niềm cảm kích lớn, xin
chỉ gợi lại một kỷ niệm nhỏ với ông. Hôm ông đến chơi, ông trách tôi:
"anh tệ thật, không thèm gửi sách cho tôi", vừa nói ông vừa đến bên giá
sách và chỉ vào cuốn "Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội" đã in
cách đó 5 năm. Tôi choáng người, vội xin lỗi và thanh mình: "Chết tôi
rồi, tôi đã gửi biếu anh ngay sau khi nhận được từ nhà xuất bản về. Tôi
còn nhớ rõ, cuốn đánh số 4". "Sao? Đánh số? Lại số 4", ông ngạc nhiên
hỏi.
"Vâng, chính vì thế mà tôi nhớ rõ mà. Duyên do là cuốn sách ấy chỉ là
toàn bộ bản báo cáo về cuộc khảo sát xã hội học ở Thái Bình mà anh đã
hỏi chuyện tôi khi gặp anh tại nhà khách tỉnh ủy sau đó một năm, nay
hoàn chỉnh lại về văn phong, câu chữ để đưa in. Tuy đã được Hội đồng
nghiệm thu cấp Nhà nước chấp thuận, nhưng khi đưa in thì Nhà xuất bản
đòi bỏ một số đoạn. Tôi từ chối. Giằng co mãi, cuối cùng anh Nguyễn Duy
Quý xử lý một cách rất cao tay: in và lưu hành nội bộ. Tôi đồng ý ngay.
Chỉ cần in, còn lưu hành nội bộ thì càng tốt, đó là một cách quảng cáo
cho sách. NXB chơi chua: chỉ in 100 cuốn và đánh số từ 1 đến 100, gửi
cho ai thì phải ghi tên người đó và số của cuốn sách (!). Cuốn này, tôi
gửi cho anh HTK, sau khi anh ấy mất, tình cờ đến chơi nhà, thấy cuốn
sách nằm lăn lóc trong đống sách cũ, tôi xin lại đem về đặt vào đây,
cuốn sách mà anh đang cầm trong tay đó, vì còn cuốn cuối cùng trên giá
sách này thì một người bạn thân cầm về rồi "quên" chưa trả".
Ông trầm ngâm đưa trả cuốn sách không nói gì.
Một lần khác, cùng ông lên chơi nhà Thu Bồn ở "Suối Lồ Ồ", đến nơi thì
đã tối tròi, khi bước xuống xe thấy ánh đèn flash lóe sáng. Ông cầm tay
tôi nói to với các bạn cùng xuống xe: "đứng lại để người ta chụp ảnh đã,
chụp xong rồi hãy vào nhà", mọi người cười ồ. Lúc ăn cơm, tôi nhắc với
ông để in lỗi vì chưa đi photo cuốn sách để gửi đến ông, nhưng nói thêm
là sách lạc hậu rồi, anh đừng mất thì giờ đọc làm gì. Ông cười và yêu
cầu gửi gấp, câu này ông nói hơi to. Thế là, sáng hôm sau, một người học
trò cũ của tôi, nay là "nhà báo", người ngồi cạnh tôi tối qua ở nhà Thu
Bồn và bả lả vui vẻ: "em tình cờ thấy thầy và theo vào đây, vui quá,
thầy cho phép em ngồi chứ", bỗng bất ngờ đến chơi. Thầy trò gặp nhau vui
vẻ, anh ấy xuống bếp mượn mấy cái đĩa, lôi từ trong túi giấy ra mấy thứ
bánh lá "em biết thầy vẫn thích loại bánh này nên mang đến thầy dùng
bữa sáng". Vừa ăn bánh, vừa hàn huyên bao chuyện cũ, anh học trò hạ
giọng, "thầy ơi, cuốn sách thầy đinh photo biếu bác Độ, thấy có thể cho
em xem được không ạ". Biết việc anh ấy phải làm và mục đích của bữa ăn
sáng, tôi kéo anh ta đến giá sách, lôi cuốn sách ra đưa cho anh và nói:
"Mình nhờ cậu đi photo giúp mình, quả thật mình cũng đang định làm
chuyện này nhưng bận quá. Cậu photo cho mình 2 cuốn, một mình giữ lại,
một đưa biếu ông Độ, còn lại cậu muốn photo mấy bản đủ cho công việc của
cậu thì tùy"! Người ta "chăm sóc" ông Độ thật chu đáo.
Nhưng rồi bộ sách Trần Độ. Tác Phẩm, Tập 1, 2, 3 do NXB Hội Nhà Văn in
rất đẹp cũng đã ra mắt bạn đọc. Dành thì giờ đọc lướt qua mấy nghìn
trang sách, những lời, những đoạn tôi trích ra trong bài viết này không
có ở trong đó! Thôi thì chắc là ai đó đang sực nghĩ đến những bước đi
của lịch sử và sự sòng phẳng của lịch sử. Ngạn ngữ phương tây có câu:
“Không có vĩ nhân dưới con mắt của kẻ hầu phòng". Người hầu phòng mẫn
cán và thông thạo nghiệp vụ chỉ cần đánh giá khách hàng của anh ta thông
qua đẳng cấp căn phòng mà khách thuê và số tiền bo anh ta sẽ nhận được
từ hầu bao của vị khách.
Sực nhớ đến "Lời" trong "Bơ vơ Đông đảo" của Việt Phương:
Những người lính trẻ ngã xuống ở Lạng Sơn
không liên quan gì đến ngày hôm nay nữa
Chỉ còn lo toan những ghế nhỏ lên ghế to
xe cúp lên ô tô chung cư lên biệt thự
trong cuộc đòi bơ sữa mà thôi.
không liên quan gì đến ngày hôm nay nữa
Chỉ còn lo toan những ghế nhỏ lên ghế to
xe cúp lên ô tô chung cư lên biệt thự
trong cuộc đòi bơ sữa mà thôi.
Vậy thì người lính Trần Độ, tướng Trần Độ, nhà văn hóa Trần Độ liệu có "bơ vơ" giữa cuộc đời "đông đảo" này không nhỉ?
Tôi tìm thấy trong tâp thơ "Nắng" của Việt Phương với đề từ "đời đang đón đợi để đong đầy" vừa nhận được hôm qua hai câu:
Mong sao được là người mê muội
Lặn xuống sâu đắm đuối gặp chân trời
Lặn xuống sâu đắm đuối gặp chân trời
Sài Gòn 8.8.2013
Tương Lai
_______________________
* Roger Pearson, (2005), Voltaire Almighty, London: Bloombury Publishing. Tr. 66 – 67.
** Maxim Gorky Những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báo Novaja
Žizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918. NXB Surkamp taschenbuch của
Đức ấn hành năm 1974.
***Những đoạn có *** đều trích trong "Giai Cấp Mới" của Milovan Dijlas.
**** Những đoạn có **** đều trích trong "Chuyện Tướng Độ" của Vũ Bá Cường. NXB Quân Đội Nhân dân.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Hà Sĩ Phu - Hùng binh nhất trượng…
(Hồi tưởng nhân kỷ niệm 11 năm ngày mất của lão tướng Trần Độ)
Thấm thoắt đã 11 năm ngày tướng Trần Độ ra đi, tôi tìm lại bản viết tay
“Thư chia buồn” của tôi gửi gia đình bác Trần Độ, viết ngày 10/8/2002
khi được tin bác Độ mất tại Hà Nội. Lúc ấy tôi đang bị quản chế nghiêm
ngặt, đến nỗi bức thư ấy phải nhờ một người mang về Sài gòn bỏ vào thùng
thư cho an toàn, đến nay tôi cũng không biết bức thư có đến tận tay gia
đình hay không. Khi viết lời chia buồn ấy tôi không có Internet, chưa
đọc “Nhật ký Rồng Rắn” và chưa biết tướng Trần Độ sẽ được công luận đánh
giá, vinh danh như bây giờ.
Trước khi đánh máy lại bức thư xin có đôi dòng viết thêm.
Tôi được quen biết bác Trần Độ khoảng đầu thập niên 1990, trong một lần
trò chuyện ở khu vườn nghệ thuật của chị Việt Nga ở Đà Lạt, bác có hỏi
tôi về bài “Dắt tay nhau…”, nhưng khi ấy bác Độ chưa hề ly khai khỏi quỹ
đạo Cộng sản, tuy bác đã thảo ra “nghị quyết 05” khá tiến bộ về quản lý
văn hóa-văn nghệ và rất chú ý đến những nhà văn “có ý kiến khác” như
Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Trần Huy Quang, Bảo
Ninh…và mấy anh em Đà Lạt chúng tôi.
Tấm hình Trần Độ tại Đà lạt, từ trái sang: Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Khánh Trâm, Trần Độ, Bùi Minh Quốc, cô Ng. thư ký của anh bạn họ Trình. Thời gian này bác Trần Độ đã luôn phải chống gậy. |
Còn nhớ cuối năm 1995, trước khi ra Bắc thăm nhà tôi ghé qua Sài gòn.
Anh bạn họ Trình (một người rất “gắn” với bác Độ thời ấy) có nhờ tôi đưa
bác Độ ra Hà nội sau thời gian bác điều trị ở một bệnh viện quân đội.
Trước khi ra máy bay tôi ghé qua bác Nguyễn Hộ, bác Hộ có “ủy thác” tôi
nói với tướng Độ một câu “quan trọng” như sau: “Xem chừng trong BCT hiện
nay chỉ có Võ Văn Kiệt là còn hy vọng được, Trần Độ nên gặp ông Kiệt…”.
Tôi tuy không thông thạo gì về nội tình chóp bu nhưng đương nhiên phải
coi đấy là lời nhắn rất riêng tư chỉ được nói với bác Trần Độ. Ai ngờ
trong một lúc chuyện trò vui vẻ tại nhà bác Độ (số 93 Trần Hưng Đạo, lúc
ấy ngoài tôi còn có vài ba người nữa, bây giờ không còn nhớ rõ, có thể
là Dương Thu Hương, Lê Đạt, Nguyễn Kiến Giang và 2 người khác) bác Độ
đem “lời nhắn” ấy nói tướng lên như đùa vui, rất hồn nhiên! Tôi lặng
người chẳng biết nói sao. Hóa ra Trần Độ lúc ấy còn khác xa Nguyễn Hộ,
khi chưa thấy tính chất phân ly trong nội bộ đã rất nghiêm trọng, chắc
hẳn ông vẫn coi sự khác nhau chỉ là chênh nhau về một số ý kiến nên
chẳng có gì phải giữ gìn. Một ông tướng đã dạn dày trận mạc mà quên đứt
hai chữ “cảnh giác” hẳn vì nghĩ rằng đây là nội bộ một nhà với nhau, ông
còn tin vào Thiện tâm chứ có biết đâu tình hình đã “tháng ngày biến hóa
Ác luân hồi”? Lúc ấy ông không thể nghĩ rằng sau này chính đám tang của
ông sẽ bị người ta thẳng tay xé đi mấy chữ “trung tướng” và “vô cùng
thương tiếc” để đọc một điếu văn mà gia đình ông không thể chấp nhận.
Trước khi về Đà Lạt tôi ghé chào bác Độ, vừa lúc anh bạn họ Trình (người
cận kề với bác Độ) gọi điện thoại hỏi tôi “đã có sẵn bức thư mật của Võ
Văn Kiệt ở trong túi chưa”, tôi nói “rồi”, thế là 15 phút sau trên
đường hàng Bài tôi bị tông xe giật túi để trả một năm tù cho bức thư
“mật” ấy. Sau này mới biết kịch bản bác Độ bị chụp ảnh bôi xấu, bị đón
đường tịch thu 15 bản “Nhật ký Rồng Rắn” cũng cùng một đạo diễn như vụ
của tôi.
Chỉ từ 1997 đến 2002, vỏn vẹn 5 năm Trần Độ đã kịp hóa thân, đang từ chỗ
cựa quậy trong vòng Kim Cô bật hẳn thành một Trần Độ ly khai mà lịch sử
cần có, bởi cái nội năng bị dồn nén suốt đời một con người “bản Thiện”
đã đến lúc thay đổi từ “lượng” thành “chất”, nhưng dù lúc “ngộ” rồi hay
khi chưa “ngộ”, lúc nào cũng sống chân thực với chính lòng mình, sống
hết mình theo chân lý mà mình nhận biết.
Câu đối tôi gửi viếng ông chính là câu đối tôi “viếng sống” ông trước đó
một năm. Khi ấy bệnh tiểu đường đã khiến bàn chân ông hoại tử, luôn
phải chống gậy và ngồi xe lăn. “Hùng binh nhất trượng nhất đan tâm” là
thế, đoàn “hùng binh” của ông tướng bây giờ chỉ là một chiếc gậy chống
và tấm lòng son thôi. Chua chát chăng hay rất kiêu hùng, “hùng” thật sự
là chiếc gậy cô đơn với tấm lòng son đã đưa ông vào lịch sử, hơn cả
những “chiến công-chiến tội” gì đó, nhất thời rồi cũng qua đi? Ngay nhà
văn Hoàng Tiến, người bạn thân thiết của tôi cũng có lúc tưởng “nhất
trượng” đây là “chiếc gậy Trường sơn”, theo quán tính lúc bấy giờ, thật
tội!
Cho đến hôm nay, những sự đánh giá và ứng xử với tướng Trần Độ vẫn còn
khác nhau, bởi con người ông là cả tấm gương rộng, phản chiếu những giai
đoạn rất khác nhau của ngót thế kỷ biến động phức tạp. Từ một Trần Độ
của ĐCS 100% tiến hẳn sang một Trần Độ của dân chủ, ly khai. Có một “bi
kịch Trần Độ”, nhưng con người Trần Độ đã lớn lên kịp tầm lịch sử ở một
đất nước mà dân thì hồn nhiên chính trị, nhưng chính trị và lịch sử thì
vốn cứ khắc nghiệt đến độ hồn nhiên lạnh lùng! Bi kịch dân tộc, bi kịch
của những cá nhân kiệt xuất nhiều khi cũng vì thế.
(HSP- 8/8/2013)
=============
Thư chia buồn (10/8/2002)
TRƯỚC LINH CỮU TƯỚNG TRẦN ĐỘ
Đã khép lại cuộc đời một Anh Hùng.
Bảy mươi tám năm, Tạo Hóa đã gieo ông vào giữa dòng xoáy của ba cuộc chiến trường kỳ, liên tục không một ngày yên nghỉ.
Hôm nay, Tạo Hóa lại rút ông đi khi cuộc chiến giành Dân Chủ-Tự Do chỉ
mới bắt đầu. Nhưng chính trong đoạn thứ ba ngắn ngủi này, phẩm chất kết
tinh của một thế-nhân anh hùng đã kịp thăng hoa.
Trong một thời đoạn ngắn ngủi ông đã hoàn thành một cuộc "đổi mới" gian
nan trong con người mình. Không cần một chiến công huyền thoại. Chưa có
gì hoàn thiện, càng chẳng có gì viên mãn "như từ chân lý sinh ra". Tất
cả đều bình thường, cái gì ở ông cũng còn có thể bàn luận, tu chỉnh.
Nhưng cái bình thường quý giá ấy trong một triệu người chưa dễ đã có một
người làm được.
Cái bình thường ấy đáng tin cậy, lôi cuốn, có tác dụng làm mẫu vì nó là
kết quả một cuộc chiến nội tâm, tuy diễn ra trong một con người nhưng
lại đủ sức tiêu biểu.
Thưa ông Trần Độ linh thiêng.
Bằng những hy sinh của ông trong hai cuộc chiến trước, ông chỉ cần ngậm
miệng và nằm khểnh thì sự hiển vinh hẳn đã có thừa. Vậy mà ông vẫn tự
nguyện gánh lấy phần nhọc nhằn đến tận phút lâm chung.
Người đời quá khôn, ông thuộc một thiểu số tự gánh lấy phần dại. Chẳng
hiểu tại sao lại có câu cửa miệng "Sống khôn chết thiêng"? Sống mà tranh
khôn hết cả phần thiên hạ thì chết rồi sẽ rữa ra như cục đất thôi, còn
gì mà thiêng được? Còn ông, tướng Trần Độ, tôi nghĩ ông sẽ thiêng như
Quan Vũ.
Trước nỗi tiếc thương, mất mát, người ta thường nghĩ: Những người tử tế,
ích lợi cho đời thì sao cứ chịu đủ thứ bệnh tật, sao phải sớm ra đi?
Sao ông Trời cứ chơi khăm loài người, bao giờ cũng chia phần hơn cho cái
ÁC, như thể ủng hộ cái ÁC vậy? Nhưng ngẫm lại, đấy chính là cái cung
cách để con Tạo mài giũa, trau chuốt và tôn vinh cái THIỆN đó thôi!
Trước linh cữu một người Anh Hùng, tôi kính cẩn nhắc lại câu đối chữ Nho tôi đã viếng sống ông những ngày ông đang lâm bệnh:
* Văn Võ tung hoành, Trung Tướng phong TRẦN, thế sự song kiên song trọng đảm!
* Bắc Nam xuất nhập, Đại Quân tế ĐỘ, hùng binh nhất trượng nhất đan tâm! [1]
Khi là quan Võ: anh hùng! Khi là quan Văn: lại anh hùng!
Vì Độc lập: anh hùng! Vì Dân Chủ-Tự Do: lại anh hùng! Khó lắm thay!
Anh hùng nào đi qua rồi cũng để lại một khoảng trống. Vì tiếc thương ta
lo khoảng trống ấy không thể bù đắp. Nhưng tôi lại cứ tin ở lòng Trời,
lòng Dân! Thiên nhiên chẳng bao giờ bỗng dưng lại để chừa ra một khoảng
chân không! Sự nghiệp cao cả mà ông kỳ vọng và hiến thân nhất định sẽ
được tiếp nối!
Đà Lạt ngày 10/8/2002
Vĩnh biệt
(Hà Sĩ Phu, từ nơi quản chế)
___________________________________________________________
[1] 文 武 縱 横, 中 將 風 塵, 世 事 雙 肩 雙 重 擔
北 南 出 入, 大 軍 濟 渡, 雄 兵 一 杖 一 丹 心
Câu đối ấy sau này đã đăng tại đây, sau đó GS Nguyễn Huệ Chi đã chuyển ngữ sang tiếng Việt rất hay:
- Văn võ tung hoành, Trung Tướng nhuốm phong trần, thời thế vai oằn hai gánh nặng!
- Bắc Nam xuôi ngược, Đại Quân đi cứu độ, binh hùng gậy chống một lòng son!
Hà Sĩ Phu
(Dân Luận)
Huỳnh Ngọc Chênh - Tôi khát khao vào đảng
Đảng Cộng sản không chấp nhận sự tồn tại của bất kỳ đảng nào khác
Tôi vẫn hay nói đùa với bạn bè, 61 năm qua đời tôi không có đảng. Nói đùa cho vui vậy nhưng trong lòng tôi chua xót lắm.
Khi tôi bước vào lứa tuổi hai mươi thì đất nước cũng vừa thống nhất, cả nước đặt dưới quyền lãnh đạo của môt đảng duy nhất đó là đảng CSVN.
Tôi có điều kiện và rất hăm hở tìm hiểu, nghiên cứu lý tưởng, chủ thuyết và đường lối của đảng nầy.
Sau một thời gian nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin cũng như tiếp xúc với thực tế qua các đảng viên, tôi thấy rằng với quan điểm sống và phương pháp tư duy của tôi, tôi không thích hợp với đảng này. Từ đó tôi từ bỏ ý định phấn đấu vào đảng mặc dù tôi vẫn liên tục làm việc trong hệ thống Nhà Nước do đảng nầy độc tôn lãnh đạo.
Vì hiểu biết về lý tưởng, chủ trương và đường lối của đảng ấy rất kỹ nên tôi biết rằng không vào đảng ấy thì không còn đảng phái chính trị nào khác để vào. Ngay cả các tổ chức hội đoàn khác không đặt dưới sự lãnh đạo của đảng ấy, không đi theo đường lối của đảng ấy thì cũng không có để vào.
Để khỏi bị đẩy ra ngoài vòng pháp luật, tôi phải cắn răng chấp nhận cuộc sống không có đảng, nghĩa là tôi phải lầm lũi cô độc sống giữa cuộc đời. Và phải sống như thế đã qua gần 40 năm!
40 năm tôi luôn khao khát có một tổ chức chính trị hợp pháp nào đó phù hợp với lý tưởng sống, với phương pháp tư duy của tôi để tôi gia nhập.
Tôi luôn khao khát được sống trong tổ chức chính trị hợp pháp, được có những người bạn chí cốt, nghĩa là có những người đồng chí bên cạnh mình để cùng nhau bàn bạc về lý tưởng, hỗ trợ nhau trong cuộc sống, kề vai sát cánh với nhau trong hoạt động giúp ích cộng đồng, giúp ích đất nước và cả việc nâng đỡ, chia sẻ với nhau vào những lúc khó khăn, suy sụp.
Những việc ấy, không có tổ chức, không có những người bạn đồng chí hướng thì không thể nào tự một mình làm được.
Chưa nói là bị bao nhiêu thiệt thòi lặt vặt khác trong cuộc sống, trong công việc khi không có một tổ chức nào của mình đứng ra bảo vệ.
Tôi và những người cùng thế hệ không có đảng như tôi, xem như có thể cho qua, thiệt thòi bất hạnh thì cũng đã chịu rồi, cũng đã qua rồi, nào có được sửa lại, nào có bù đắp được đâu. Nhưng những thế hệ tiếp sau, những bạn trẻ, những thế hệ tương lai của đất nước thì sao? Chẳng lẽ vẫn cứ để họ tiếp tục sống đơn độc lầm lũi cho đến hết cuộc đời khi họ không muốn vào tổ chức của đảng CSVN như thế hệ chúng tôi hay sao?
Nhưng ngay những người trẻ tuổi muốn được đứng vào hàng ngũ của đảng CSVN, chính đảng hợp pháp duy nhất, cũng đâu phải chuyện dễ.
90 triệu dân mà đảng CSVN mới kết nạp chưa tới 4 triệu đảng viên thì thử hỏi còn lại hơn 85 triệu dân, trong đó có đến hàng chục triệu người đã trưởng thành, có tổ chức nào khác để họ được đứng vào khi họ không được hoặc không muốn vào tổ chức đảng Cộng Sản?
Hàng chục triệu công dân trẻ tuổi ấy, ngoài chừng vài triệu được vào Đoàn hướng theo lý tưởng cộng sản của đảng cầm quyền, số còn lại, có muốn, có khao khát đứng vào hàng ngũ của một chính đảng hợp pháp nào đó phù hợp với lý tưởng của họ không?
Nếu nói rằng không thì đất nước nầy xem như đã vất đi. Vì chỉ có vài triệu người sống có lý tưởng, có định hướng chính trị trong một đất nước có đến 90 triệu người dân thì xã hội sẽ rối loạn.
Nhưng thực tế độc đảng hiện nay thì vài chục phần trăm ấy, khoảng chừng chục triệu thanh niên, có tổ chức chính trị nào để họ phát huy lý tưởng sống và định hướng chính trị của mình?
Có những đảng phái, hiệp hội có chính kiến như hội những người yêu nước, hội chống Tàu cộng, hội những người chống cộng, hội những người chống phản động, hội vì Hoàng Sa và Trường Sa...Nhưng phổ biến nhất vẫn là những đảng phái và hiệp hội phi chính trị, phi lý tưởng và chưa nói là rất tào lao như đảng Bia, Đảng Bao Cao Su, hội những người phát cuồng vì thịt chó…
Chúng ta đang đối mặt với nguy cơ xã hội càng lúc càng suy đồi, càng bất an; chúng ta đang phiền trách giới trẻ càng ngày càng sống xa rời lý tưởng. Nhưng thử hỏi đảng CSVN có lo được lý tưởng cho toàn bộ giới trẻ? Thử hỏi chúng ta có chính đảng nào khác để góp phần lo cho giới trẻ chưa có đảng? Làm sao trách họ sống sao lầm lạc, vô nghĩa...?
Thế hệ của tôi đã có quá nhiều người sống lầm lũi cô độc giữa cuộc đời rồi. Đừng để cho các thế hệ sau lại tiếp tục chịu thiệt thòi như vậy. Mà họ còn chịu thiệt
Bài đã đăng ở blog của tác giả Huỳnh Ngọc Chênh.
Huỳnh Ngọc Chênh
Viết từ Sài Gòn (BBC)
Khi tôi bước vào lứa tuổi hai mươi thì đất nước cũng vừa thống nhất, cả nước đặt dưới quyền lãnh đạo của môt đảng duy nhất đó là đảng CSVN.
Tôi có điều kiện và rất hăm hở tìm hiểu, nghiên cứu lý tưởng, chủ thuyết và đường lối của đảng nầy.
Sau một thời gian nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin cũng như tiếp xúc với thực tế qua các đảng viên, tôi thấy rằng với quan điểm sống và phương pháp tư duy của tôi, tôi không thích hợp với đảng này. Từ đó tôi từ bỏ ý định phấn đấu vào đảng mặc dù tôi vẫn liên tục làm việc trong hệ thống Nhà Nước do đảng nầy độc tôn lãnh đạo.
Vì hiểu biết về lý tưởng, chủ trương và đường lối của đảng ấy rất kỹ nên tôi biết rằng không vào đảng ấy thì không còn đảng phái chính trị nào khác để vào. Ngay cả các tổ chức hội đoàn khác không đặt dưới sự lãnh đạo của đảng ấy, không đi theo đường lối của đảng ấy thì cũng không có để vào.
Để khỏi bị đẩy ra ngoài vòng pháp luật, tôi phải cắn răng chấp nhận cuộc sống không có đảng, nghĩa là tôi phải lầm lũi cô độc sống giữa cuộc đời. Và phải sống như thế đã qua gần 40 năm!
40 năm tôi luôn khao khát có một tổ chức chính trị hợp pháp nào đó phù hợp với lý tưởng sống, với phương pháp tư duy của tôi để tôi gia nhập.
Tôi luôn khao khát được sống trong tổ chức chính trị hợp pháp, được có những người bạn chí cốt, nghĩa là có những người đồng chí bên cạnh mình để cùng nhau bàn bạc về lý tưởng, hỗ trợ nhau trong cuộc sống, kề vai sát cánh với nhau trong hoạt động giúp ích cộng đồng, giúp ích đất nước và cả việc nâng đỡ, chia sẻ với nhau vào những lúc khó khăn, suy sụp.
Những việc ấy, không có tổ chức, không có những người bạn đồng chí hướng thì không thể nào tự một mình làm được.
'Thiệt thòi, bất hạnh'
40 năm, tôi có những người bạn đồng nghiệp, bạn láng giềng, bạn nhậu, bạn ăn chơi, bạn du lịch, bạn bóng đá...nhưng không hề có bạn đồng chí hướng. Đau xót lắm chứ, thiệt thòi lắm chứ. Làm sao mình bàn bạc lý tưởng sống, chính kiến của mình với những người bạn "thời vụ" như bạn đồng nghiệp, bạn láng giềng, bạn nhậu, bạn bóng đá, bạn ăn chơi...?Chưa nói là bị bao nhiêu thiệt thòi lặt vặt khác trong cuộc sống, trong công việc khi không có một tổ chức nào của mình đứng ra bảo vệ.
"Nhưng ngay những người trẻ tuổi muốn được đứng vào hàng ngũ của đảng CSVN, chính đảng hợp pháp duy nhất, cũng đâu phải chuyện dễ."Đến bây giờ, bước vào tuổi xế chiều, tôi càng khát khao hơn về việc được gia nhập một chính đảng hợp pháp nào đó phù hợp với lý tưởng sống của tôi. Chẳng lẽ cho đến cuối đời tôi vẫn tiếp tục lầm lũi sống trong đơn độc như 40 năm qua tôi đã sống hay sao? Chẳng lẽ cứ mãi mãi vậy ư?
Tôi và những người cùng thế hệ không có đảng như tôi, xem như có thể cho qua, thiệt thòi bất hạnh thì cũng đã chịu rồi, cũng đã qua rồi, nào có được sửa lại, nào có bù đắp được đâu. Nhưng những thế hệ tiếp sau, những bạn trẻ, những thế hệ tương lai của đất nước thì sao? Chẳng lẽ vẫn cứ để họ tiếp tục sống đơn độc lầm lũi cho đến hết cuộc đời khi họ không muốn vào tổ chức của đảng CSVN như thế hệ chúng tôi hay sao?
Nhưng ngay những người trẻ tuổi muốn được đứng vào hàng ngũ của đảng CSVN, chính đảng hợp pháp duy nhất, cũng đâu phải chuyện dễ.
90 triệu dân mà đảng CSVN mới kết nạp chưa tới 4 triệu đảng viên thì thử hỏi còn lại hơn 85 triệu dân, trong đó có đến hàng chục triệu người đã trưởng thành, có tổ chức nào khác để họ được đứng vào khi họ không được hoặc không muốn vào tổ chức đảng Cộng Sản?
Hàng chục triệu công dân trẻ tuổi ấy, ngoài chừng vài triệu được vào Đoàn hướng theo lý tưởng cộng sản của đảng cầm quyền, số còn lại, có muốn, có khao khát đứng vào hàng ngũ của một chính đảng hợp pháp nào đó phù hợp với lý tưởng của họ không?
Nếu nói rằng không thì đất nước nầy xem như đã vất đi. Vì chỉ có vài triệu người sống có lý tưởng, có định hướng chính trị trong một đất nước có đến 90 triệu người dân thì xã hội sẽ rối loạn.
'Phát huy lý tưởng'
Dĩ nhiên không phải hàng chục triệu người trẻ đều khát khao có một chính đảng phù hợp với lý tưởng của mình để gia nhập. Chỉ cần vài chục phần trăm trong số đó là đất nước đã có diễm phúc rồi.Nhưng thực tế độc đảng hiện nay thì vài chục phần trăm ấy, khoảng chừng chục triệu thanh niên, có tổ chức chính trị nào để họ phát huy lý tưởng sống và định hướng chính trị của mình?
"Vì không vào đảng cộng sản và không có chính đảng nào khác để vào nên những người trẻ tuổi ấy bày tỏ khát khao của mình trên thế giới ảo. Ai chịu khó vào các mạng xã hội sẽ thấy hàng ngàn các đảng phái, hiệp hội ảo được lập ra."Vì không vào đảng cộng sản và không có chính đảng nào khác để vào nên những người trẻ tuổi ấy bày tỏ khát khao của mình trên thế giới ảo. Ai chịu khó vào các mạng xã hội sẽ thấy hàng ngàn các đảng phái, hiệp hội ảo được lập ra.
Có những đảng phái, hiệp hội có chính kiến như hội những người yêu nước, hội chống Tàu cộng, hội những người chống cộng, hội những người chống phản động, hội vì Hoàng Sa và Trường Sa...Nhưng phổ biến nhất vẫn là những đảng phái và hiệp hội phi chính trị, phi lý tưởng và chưa nói là rất tào lao như đảng Bia, Đảng Bao Cao Su, hội những người phát cuồng vì thịt chó…
Chúng ta đang đối mặt với nguy cơ xã hội càng lúc càng suy đồi, càng bất an; chúng ta đang phiền trách giới trẻ càng ngày càng sống xa rời lý tưởng. Nhưng thử hỏi đảng CSVN có lo được lý tưởng cho toàn bộ giới trẻ? Thử hỏi chúng ta có chính đảng nào khác để góp phần lo cho giới trẻ chưa có đảng? Làm sao trách họ sống sao lầm lạc, vô nghĩa...?
Thế hệ của tôi đã có quá nhiều người sống lầm lũi cô độc giữa cuộc đời rồi. Đừng để cho các thế hệ sau lại tiếp tục chịu thiệt thòi như vậy. Mà họ còn chịu thiệt
Bài đã đăng ở blog của tác giả Huỳnh Ngọc Chênh.
Huỳnh Ngọc Chênh
Viết từ Sài Gòn (BBC)
Mục đích thật sự của Nghị định 72?
Một phần ba dân số Việt Nam hiện đang sử dụng Internet
Mục đích thật sự của Nghị định 72 vốn yêu cầu các cá nhân
không được phép đăng lại thông tin từ các nguồn khác đang được
diễn giải rất khác biệt.
Chính quyền thì cho rằng Nghị định này nhằm để chống lại sự vi phạm tác quyền tràn lan trên mạng do rất nhiều bài báo hay tác phẩm được người khác đăng lại trên trang của mình mà không xin phép.
Trong khi đó, những người chỉ trích thì cho rằng lý do này chỉ là bình phong để che đậy ý đồ thật sự của những người đưa ra nghị định này: đó là ngăn chặn việc lan truyền những thông tin không có lợi cho chính quyền.
Theo đó, bắt đầu từ thời hạn trên, các công dân mạng chỉ được phép đăng những thông tin cá nhân chứ không được đăng tải tin tức hay bài viết trên các trang cá nhân của mình.
Đáp lại sự bức xúc của dư luận sau khi Nghị định 72 được công bố, ông Hoàng Vĩnh Bảo, cục trưởng Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử, đã khẳng định với báo chí trong nước rằng nghị định này chỉ nhằm để ‘đảm bảo bản quyền cho các cơ quan báo chí tránh việc vi phạm bản quyền đang nóng hiện nay’.
“Việc đăng tải nguyên văn những thông tin từ báo chí, trang tin điện tử khác, trang tin điện tử cá nhân không được làm,” ông Bảo được trang mạng VTC News dẫn lời nói.
“Nếu muốn trích dẫn, cần phải xin phép và được đồng ý,” ông Thắng được báo chí trong nước dẫn lời nói. Ông cũng nhắc đến một thực tế rằng có nhiều trang trên facebook có mục đích kinh doanh.
Ông Nguyễn Minh Thuyết, cựu đại biểu Quốc hội, thì nói với tờ Wall Street Journal của Mỹ rằng chính quyền nên ‘nói lại cho rõ’ mục đích thực sự của nghị định này mà ông cho rằng ‘không nhằm để hạn chế quyền chia sẻ thông tin’ mà chỉ để ‘ngăn chặn vi phạm bản quyền’.
Mới đây nhất, một thứ trưởng khác của Bộ Thông tin và Truyền thông là ông Đỗ Quý Doãn cũng phát biểu trên trang mạng của Đài Tiếng nói Việt Nam rằng ‘nếu cá nhân biến trang thông tin điện tử của riêng mình thành nơi cung cấp thông tin tổng hợp, thì nó không còn là trang thông tin điện tử cá nhân nữa, mà đã trở thành trang thông tin điện tử tổng hợp’.
Còn theo thống kê hồi đầu năm 2010 của Facebook thì số lượng các bài viết được chia sẻ trên mạng ở Việt Nam tăng hàng tháng và lên đến hàng tỷ. Nếu nghị định này đi vào cuộc sống thì có nghĩa là mạng xã hội ở Việt Nam chỉ được phép chia sẻ thông tin cá nhân, khiến cho số lượng người lên mạng sẽ giảm nghiêm trọng.
Phát biểu trên của ông Doãn nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa ‘trang thông tin điện tử cá nhân’ và ‘trang thông tin điện tử tổng hợp’.
Đây cũng là một điểm sáng tạo được đưa vào nghị định: phân biệt rạch ròi các loại hình trang tin.
Theo đó, có năm loại hình: báo điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, trang thông tin điện tử nội bộ, trang thông tin điện tử cá nhân và trang thông tin điện tử ứng dụng chuyên ngành.
Từ đó, Nghị định 72 yêu cầu phải chính danh: chỉ có báo điện tử và trang thông tin điện tử tổng hợp mới được phép tổng hợp thông tin, còn nếu đã mang danh là ‘trang thông tin điện tử cá nhân’ thì không được phép làm việc này.
“Trang tin điện tử tổng hợp phải chịu sự quản lý riêng và phải đầy đủ năng lực tài chính, nhân lực, kỹ thuật... mới được cấp phép là trang tin điện tử tổng hợp,” ông Hoàng Vĩnh Bảo nói cũng trên trang mạng VTC News.
“Điều tiên quyết, trang tin điện tử tổng hợp phải do tổ chức quản lý,” ông nói thêm.
Rõ ràng, ông Bảo khẳng định rằng nếu muốn tổng hợp thông tin thì phải đáp ứng đủ điều kiện, phải được Nhà nước cấp phép và nhất là phải là ‘của tổ chức’.
Điều này gợi nhớ một điều luật ở Việt Nam là cũng chỉ có tổ chức mới được phép xuất bản báo chí và không cho phép báo chí tư nhân.
Nghị định 72 sẽ là một công cụ nữa để chính quyền trấn áp các blogger?
Xét trên quan điểm ‘bảo vệ tác quyền’, có một thực tế là không chỉ ‘các trang thông tin điện tử cá nhân’ mà chính ‘các trang điện tử thông tin tổng hợp’ vẫn thường đăng tải y nguyên các bài viết từ những trang mạng khác mà không hề xin phép.
Ông Bảo cũng nói rằng Nghị định 72 cho phép chia sẻ thông tin mà không vi phạm bản quyền bằng cách ‘trích dẫn một đoạn hoặc viết lời bình luận rồi dẫn đường link để chỉ về trang gốc’.
Tuy nhiên, nếu đường liên kết đó dẫn về các trang mạng bị chính quyền phong tỏa thì người đọc sẽ khó lòng tiếp cận.
BBC đã cố gắng liên lạc với các ông Bảo, ông Thắng, ông Doãn và ông Thuyết để tìm hiểu thêm về nghị định này nhưng đều không được.
Cho đến giờ, các trang blog cá nhân và các mạng xã hội đã trở thành một nguồn thông tin quan trọng cho các công dân mạng ở Việt Nam. Đây là một hình thức hiệu quả để vượt qua sự kiểm duyệt, tờ Wall Street Journal nhận định.
Mặt thứ nhất, theo tác giả này, là ‘báo chí Việt Nam phải vật lộn để cầm cự’ bởi vì ‘hành vi cắt dán bài viết của người khác tràn lan’ cho nên Nghị định 72 này là ‘một bước để có cách chế tài hiện tượng này’.
“Điều này thật sự rất khó chịu đối với các cơ quan báo chí thật sự vốn bỏ không biết bao nhiêu tiền bạc và công sức để tìm kiếm và viết nên những bài báo đó để rồi không có được số lượng đọc tương xứng dẫn đến kết quả là nguồn thu quảng cáo không còn bao nhiêu.”
Tuy nhiên, Millward cũng nhận ra được ‘mặt thứ hai’ của Nghị định 72 này là để ‘hạn chế việc chia sẻ tin tức’ giữa các cá nhân.
Tác giả cho rằng nghị định này có thể được sử dụng để truy tố các cá nhân lan truyền những thông tin mà chính quyền cho rằng không phù hợp.
“Nó có thể được dùng là lý do bắt giữ thêm nhiều blogger nữa,” bài báo viết.
“Việt Nam dường như là tấn công vào mạng xã hội và việc chia sẻ thông tin giữa các cá nhân hơn là giải quyết cội nguồn của vấn đề: nạn ăn cắp bản quyền của các trang mạng lười biếng.”
“Rõ ràng ra các quy định chế tài báo chí là tốt hơn là ra một lệnh cấm như thế này.”
(BBC)
Chính quyền thì cho rằng Nghị định này nhằm để chống lại sự vi phạm tác quyền tràn lan trên mạng do rất nhiều bài báo hay tác phẩm được người khác đăng lại trên trang của mình mà không xin phép.
Trong khi đó, những người chỉ trích thì cho rằng lý do này chỉ là bình phong để che đậy ý đồ thật sự của những người đưa ra nghị định này: đó là ngăn chặn việc lan truyền những thông tin không có lợi cho chính quyền.
‘Bảo vệ bản quyền’
Nghị định 72 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 15/7 sẽ có hiệu lực bắt đầu từ ngày 1/9 năm nay, theo Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan chủ trì nghị định.Theo đó, bắt đầu từ thời hạn trên, các công dân mạng chỉ được phép đăng những thông tin cá nhân chứ không được đăng tải tin tức hay bài viết trên các trang cá nhân của mình.
Đáp lại sự bức xúc của dư luận sau khi Nghị định 72 được công bố, ông Hoàng Vĩnh Bảo, cục trưởng Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử, đã khẳng định với báo chí trong nước rằng nghị định này chỉ nhằm để ‘đảm bảo bản quyền cho các cơ quan báo chí tránh việc vi phạm bản quyền đang nóng hiện nay’.
“Việc đăng tải nguyên văn những thông tin từ báo chí, trang tin điện tử khác, trang tin điện tử cá nhân không được làm,” ông Bảo được trang mạng VTC News dẫn lời nói.
"Điều tiên quyết, trang tin điện tử tổng hợp phải do tổ chức quản lý."Trong buổi họp báo công bố nghị định trước đó hôm 31/7, ông Lê Nam Thắng, thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, cũng nói rõ rằng việc ‘tổng hợp’ thông tin từ các nguồn khác ‘liên quan đến vấn đề bản quyền, sở hữu trí tuệ’.
Hoàng Vĩnh Bảo, cục trưởng Cục phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử
“Nếu muốn trích dẫn, cần phải xin phép và được đồng ý,” ông Thắng được báo chí trong nước dẫn lời nói. Ông cũng nhắc đến một thực tế rằng có nhiều trang trên facebook có mục đích kinh doanh.
Ông Nguyễn Minh Thuyết, cựu đại biểu Quốc hội, thì nói với tờ Wall Street Journal của Mỹ rằng chính quyền nên ‘nói lại cho rõ’ mục đích thực sự của nghị định này mà ông cho rằng ‘không nhằm để hạn chế quyền chia sẻ thông tin’ mà chỉ để ‘ngăn chặn vi phạm bản quyền’.
Mới đây nhất, một thứ trưởng khác của Bộ Thông tin và Truyền thông là ông Đỗ Quý Doãn cũng phát biểu trên trang mạng của Đài Tiếng nói Việt Nam rằng ‘nếu cá nhân biến trang thông tin điện tử của riêng mình thành nơi cung cấp thông tin tổng hợp, thì nó không còn là trang thông tin điện tử cá nhân nữa, mà đã trở thành trang thông tin điện tử tổng hợp’.
Thủ thuật tinh vi?
Khả thi không?
Để thực thi nghị định này, chính quyền sẽ cần phải giám sát các thông tin cập nhật của tất cả những người dùng mạng xã hội Việt Nam. Theo thống kê mới nhất thì Facebook có hơn 12 triệu thành viên ở Việt Nam còn Zing Me có khoảng 12 triệu người dùng.Còn theo thống kê hồi đầu năm 2010 của Facebook thì số lượng các bài viết được chia sẻ trên mạng ở Việt Nam tăng hàng tháng và lên đến hàng tỷ. Nếu nghị định này đi vào cuộc sống thì có nghĩa là mạng xã hội ở Việt Nam chỉ được phép chia sẻ thông tin cá nhân, khiến cho số lượng người lên mạng sẽ giảm nghiêm trọng.
"Tuy nhiên điều này chỉ xảy ra nếu nghị định này thực hiện được."
Steven Millwar, techniasia.com
Phát biểu trên của ông Doãn nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa ‘trang thông tin điện tử cá nhân’ và ‘trang thông tin điện tử tổng hợp’.
Đây cũng là một điểm sáng tạo được đưa vào nghị định: phân biệt rạch ròi các loại hình trang tin.
Theo đó, có năm loại hình: báo điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, trang thông tin điện tử nội bộ, trang thông tin điện tử cá nhân và trang thông tin điện tử ứng dụng chuyên ngành.
Từ đó, Nghị định 72 yêu cầu phải chính danh: chỉ có báo điện tử và trang thông tin điện tử tổng hợp mới được phép tổng hợp thông tin, còn nếu đã mang danh là ‘trang thông tin điện tử cá nhân’ thì không được phép làm việc này.
“Trang tin điện tử tổng hợp phải chịu sự quản lý riêng và phải đầy đủ năng lực tài chính, nhân lực, kỹ thuật... mới được cấp phép là trang tin điện tử tổng hợp,” ông Hoàng Vĩnh Bảo nói cũng trên trang mạng VTC News.
“Điều tiên quyết, trang tin điện tử tổng hợp phải do tổ chức quản lý,” ông nói thêm.
Rõ ràng, ông Bảo khẳng định rằng nếu muốn tổng hợp thông tin thì phải đáp ứng đủ điều kiện, phải được Nhà nước cấp phép và nhất là phải là ‘của tổ chức’.
Điều này gợi nhớ một điều luật ở Việt Nam là cũng chỉ có tổ chức mới được phép xuất bản báo chí và không cho phép báo chí tư nhân.
Nghị định 72 sẽ là một công cụ nữa để chính quyền trấn áp các blogger?
Xét trên quan điểm ‘bảo vệ tác quyền’, có một thực tế là không chỉ ‘các trang thông tin điện tử cá nhân’ mà chính ‘các trang điện tử thông tin tổng hợp’ vẫn thường đăng tải y nguyên các bài viết từ những trang mạng khác mà không hề xin phép.
Ông Bảo cũng nói rằng Nghị định 72 cho phép chia sẻ thông tin mà không vi phạm bản quyền bằng cách ‘trích dẫn một đoạn hoặc viết lời bình luận rồi dẫn đường link để chỉ về trang gốc’.
Tuy nhiên, nếu đường liên kết đó dẫn về các trang mạng bị chính quyền phong tỏa thì người đọc sẽ khó lòng tiếp cận.
BBC đã cố gắng liên lạc với các ông Bảo, ông Thắng, ông Doãn và ông Thuyết để tìm hiểu thêm về nghị định này nhưng đều không được.
Cho đến giờ, các trang blog cá nhân và các mạng xã hội đã trở thành một nguồn thông tin quan trọng cho các công dân mạng ở Việt Nam. Đây là một hình thức hiệu quả để vượt qua sự kiểm duyệt, tờ Wall Street Journal nhận định.
‘Hai mặt của vấn đề’
Trang mạng techinasia.com, vốn hay theo dõi vấn đề kiểm duyệt trên mạng ở Việt Nam, hôm 2/8 có đăng bài viết của tác giả Steven Millward nhận định rằng Nghị định 72 phản ánh ‘hai mặt của vấn đề’.Mặt thứ nhất, theo tác giả này, là ‘báo chí Việt Nam phải vật lộn để cầm cự’ bởi vì ‘hành vi cắt dán bài viết của người khác tràn lan’ cho nên Nghị định 72 này là ‘một bước để có cách chế tài hiện tượng này’.
"Rõ ràng ra các quy định chế tài báo chí là tốt hơn là ra một lệnh cấm như thế này."“Ngay cả những trang tin danh tiếng nhất ở Việt Nam cũng cắt dán và chỉ ghi là ‘từ ai ai đấy’ ở cuối bài và họ thấy việc ấy là bình thường,” bài báo viết, “Phần lớn các trường hợp, không hề có đường link (về bài gốc).”
Steven Millward, techinasia.com
“Điều này thật sự rất khó chịu đối với các cơ quan báo chí thật sự vốn bỏ không biết bao nhiêu tiền bạc và công sức để tìm kiếm và viết nên những bài báo đó để rồi không có được số lượng đọc tương xứng dẫn đến kết quả là nguồn thu quảng cáo không còn bao nhiêu.”
Tuy nhiên, Millward cũng nhận ra được ‘mặt thứ hai’ của Nghị định 72 này là để ‘hạn chế việc chia sẻ tin tức’ giữa các cá nhân.
Tác giả cho rằng nghị định này có thể được sử dụng để truy tố các cá nhân lan truyền những thông tin mà chính quyền cho rằng không phù hợp.
“Nó có thể được dùng là lý do bắt giữ thêm nhiều blogger nữa,” bài báo viết.
“Việt Nam dường như là tấn công vào mạng xã hội và việc chia sẻ thông tin giữa các cá nhân hơn là giải quyết cội nguồn của vấn đề: nạn ăn cắp bản quyền của các trang mạng lười biếng.”
“Rõ ràng ra các quy định chế tài báo chí là tốt hơn là ra một lệnh cấm như thế này.”
(BBC)
"Snowden" : biên giới mong manh giữa quyền tự do và an ninh công cộng
Một người biểu tình trước trụ sở của NSA tại Frankfurt, Đức ngày 20/07/2013. (REUTERS/ Kai Pfaffenbach)
Tình báo Mỹ, Anh, Pháp, Đức và cảnh sát quốc tế Interpol đồng loạt báo
động : Tây phương đang nằm trong tầm nhắm của Al Qaida. Khủng bố quốc tế
đang sửa soạn tấn công vào quyền lợi của các nước Âu Mỹ trong vùng «
Trung Đông, Phi Châu và xa hơn nữa ». Khả năng theo dõi điện đàm thông
tin điện tử của CIA, NSA vi phạm tự do cá nhân bị tố giác qua vụ Snowden
lại là phương tiện hiệu quả để ngăn chận khủng bố : công luận vẫn bất
đồng ý kiến.
Những tiết lộ của cựu điệp viên Mỹ Edward Snowden về các chương trình theo dõi điện đàm và thông điệp điện tử do CIA và NSA Mỹ thực hiện trên toàn cầu cho thấy Hoa Kỳ xây dựng một hệ thống kiểm soát và khai thác dữ kiện trên toàn cầu. Hôm 05/08/2013 đại diện các quốc gia trong khối Thị trường chung Nam Mỹ Mercosur gồm ngoại trưởng bốn nước Brazil, Achentina,Venezuela và Uruguay đã trao cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc bản tuyên bố « bất bình vì chương trình gián điệp của Mỹ ».
Trái với phản ứng mạnh của Nam Mỹ hoặc là của Liên hiệp châu Âu, yêu cầu Washington giải thích về thông tin ngay chính đồng minh Tây Âu cũng bị theo dõi, hai chính phủ Trung Quốc và Nga không có phản ứng chính thức.
Theo giới phân tích, khi Matxcơva cấp cho cựu điệp viên Edward Snowden quy chế tỵ nạn để tạm cư, ngoài lý do « nhân đạo », tổng thống Putin chắc hẳn là phải có dụng ý khai thác kiến thức của chuyên viên điện toán CIA Mỹ mới 33 tuổi này.
Về phần Trung Quốc, quyền tự do cá nhân, tự do thông tin được Bắc Kinh tôn trọng như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng đối với công luận Tây phương, tự do thông tin, tự do cá nhân là một thụ đắc về nhân quyền có giá trị « linh thiêng và bất khoan nhượng ».
Trong chiều hướng này, tại Pháp, tổ chức Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền FIDH đã nhờ tư pháp làm sáng tỏ vấn đề. Luật sư Patrick Baudoin, chủ tịch danh dự của Liên đoàn FIDH phân tích và đặt câu hỏi chính xác : « Vi phạm quyền an ninh cá nhân là điều không thể chấp nhận được. Đã vậy, việc vi phạm nầy còn tác động cho đến tương lai. Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu như hệ thống theo dõi thông tin do các nền dân chủ sáng lập ra lại rơi vào tay một chế độ độc tài ? »
Nhà báo Pháp Olivier Berger thì nhấn mạnh đến hiệu năng của chương trình bí mật xâm nhập thông tin điện tử PRISM của cơ quan anh ninh Mỹ NSA mà Edward Snowden tiết lộ : nhờ nó và các phương tiện tương tự mà các cơ quan tình báo Tây phương đã phát hiện được âm mưu khủng bố của Al Qaida nhắm vào các cơ quan ngoại giao Tây phương tại các nước Hồi giáo.
Trong bối cảnh Anh, Pháp, Mỹ, Đức và Canada huy động các biện pháp an ninh để phòng ngừa khủng bố ra tay trong tháng 8 này, mời quý thính giả trở lại hồ sơ Snowden từ hành động cho đến hệ quả ngoại giao Mỹ -Nga mà động thái đầu tiên của tổng thống Barack Obama là tẩy chay cuộc gặp thượng đỉnh với ông Vladimir Putin nhân hội nghị G20 vào tháng 9.
RFI đặt câu hỏi với nhà phân tích Hà Ngọc Cư, báo Ngày Nay, Houston, Hoa Kỳ.
Nhà báo Hà Ngọc Cư :
« …sau biến cố 11/9/2001, tình báo Mỹ được quốc hội cho phép thu thập, canh chừng các cú gọi điện thoại và luồng thông tin trên internet. Như vậy là việc làm của NSA là hợp pháp. Cho nên , khi ông Snowden tố cáo cơ quan này thì đó không phải là (cơ quan tình báo) vi phạm tự do thông tin…. Nước Mỹ cho cho mọi mọi người « quyền tố giác ». Người tố giác được luật pháp bảo vệ. Cơ quan bị tố giác không có quyền trả thù các nhân người tố giác như là cách chức, bãi chức, trừ lương, trù dập. Ở đây, ông Snowden không tố giác cơ quan NSA thi hành các việc gì trái luật mà ông lại đem tất cả bí mật an ninh của Mỹ ra cung cấp cho nước ngoài.. »
Tú Anh (RFI)
Những tiết lộ của cựu điệp viên Mỹ Edward Snowden về các chương trình theo dõi điện đàm và thông điệp điện tử do CIA và NSA Mỹ thực hiện trên toàn cầu cho thấy Hoa Kỳ xây dựng một hệ thống kiểm soát và khai thác dữ kiện trên toàn cầu. Hôm 05/08/2013 đại diện các quốc gia trong khối Thị trường chung Nam Mỹ Mercosur gồm ngoại trưởng bốn nước Brazil, Achentina,Venezuela và Uruguay đã trao cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc bản tuyên bố « bất bình vì chương trình gián điệp của Mỹ ».
Trái với phản ứng mạnh của Nam Mỹ hoặc là của Liên hiệp châu Âu, yêu cầu Washington giải thích về thông tin ngay chính đồng minh Tây Âu cũng bị theo dõi, hai chính phủ Trung Quốc và Nga không có phản ứng chính thức.
Theo giới phân tích, khi Matxcơva cấp cho cựu điệp viên Edward Snowden quy chế tỵ nạn để tạm cư, ngoài lý do « nhân đạo », tổng thống Putin chắc hẳn là phải có dụng ý khai thác kiến thức của chuyên viên điện toán CIA Mỹ mới 33 tuổi này.
Về phần Trung Quốc, quyền tự do cá nhân, tự do thông tin được Bắc Kinh tôn trọng như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng đối với công luận Tây phương, tự do thông tin, tự do cá nhân là một thụ đắc về nhân quyền có giá trị « linh thiêng và bất khoan nhượng ».
Trong chiều hướng này, tại Pháp, tổ chức Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền FIDH đã nhờ tư pháp làm sáng tỏ vấn đề. Luật sư Patrick Baudoin, chủ tịch danh dự của Liên đoàn FIDH phân tích và đặt câu hỏi chính xác : « Vi phạm quyền an ninh cá nhân là điều không thể chấp nhận được. Đã vậy, việc vi phạm nầy còn tác động cho đến tương lai. Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu như hệ thống theo dõi thông tin do các nền dân chủ sáng lập ra lại rơi vào tay một chế độ độc tài ? »
Nhà báo Pháp Olivier Berger thì nhấn mạnh đến hiệu năng của chương trình bí mật xâm nhập thông tin điện tử PRISM của cơ quan anh ninh Mỹ NSA mà Edward Snowden tiết lộ : nhờ nó và các phương tiện tương tự mà các cơ quan tình báo Tây phương đã phát hiện được âm mưu khủng bố của Al Qaida nhắm vào các cơ quan ngoại giao Tây phương tại các nước Hồi giáo.
Trong bối cảnh Anh, Pháp, Mỹ, Đức và Canada huy động các biện pháp an ninh để phòng ngừa khủng bố ra tay trong tháng 8 này, mời quý thính giả trở lại hồ sơ Snowden từ hành động cho đến hệ quả ngoại giao Mỹ -Nga mà động thái đầu tiên của tổng thống Barack Obama là tẩy chay cuộc gặp thượng đỉnh với ông Vladimir Putin nhân hội nghị G20 vào tháng 9.
RFI đặt câu hỏi với nhà phân tích Hà Ngọc Cư, báo Ngày Nay, Houston, Hoa Kỳ.
Nhà báo Hà Ngọc Cư :
« …sau biến cố 11/9/2001, tình báo Mỹ được quốc hội cho phép thu thập, canh chừng các cú gọi điện thoại và luồng thông tin trên internet. Như vậy là việc làm của NSA là hợp pháp. Cho nên , khi ông Snowden tố cáo cơ quan này thì đó không phải là (cơ quan tình báo) vi phạm tự do thông tin…. Nước Mỹ cho cho mọi mọi người « quyền tố giác ». Người tố giác được luật pháp bảo vệ. Cơ quan bị tố giác không có quyền trả thù các nhân người tố giác như là cách chức, bãi chức, trừ lương, trù dập. Ở đây, ông Snowden không tố giác cơ quan NSA thi hành các việc gì trái luật mà ông lại đem tất cả bí mật an ninh của Mỹ ra cung cấp cho nước ngoài.. »
Tú Anh (RFI)
Nguyễn Ngọc Già - Điếu Cày và Trần Huỳnh Duy Thức
Điếu Cày, tên anh trở thành đại diện tiêu biểu chống tập đoàn bành
trướng Bắc Kinh thời đại mới của dân tộc Việt Nam. Thời đại của internet
chiếm lĩnh luôn cả mặt trận chống độc đảng toàn trị với bàn phím kết
hợp trí não.
Trí não của người Việt Nam còn đủ lương tri nhận biết: Tổ quốc đang lâm nguy cùng cực, tàn tạ mọi mặt.
Viết về Điếu Cày, đạo diễn Song Chi, người đang tị nạn chính trị tại Na Uy cho biết [1]:
"...Anh Nguyễn Văn Hải sau nhiều năm kinh doanh đã tạo dựng cho mình một
cuộc sống có thể nói là không cần phải vất vả mưu sinh nữa, với 5 căn
nhà-chia cho vợ cũ sau ly hôn 3 căn, giữ lại cho mình 2 căn, anh có thể
sống nhẹ nhàng với thu nhập cho thuê nhà và theo đuổi sở thích nhiếp ảnh
hoặc cà phê, bù khú với bạn bè".
Người cựu bộ đội có thể vứt bỏ tất cả "tham sân si" để tận hưởng niềm vui về già, nhưng anh đã không chọn con đường như thế.
Anh đã bị bắt và bị vu khống về "tội trốn thuế", thay vì chế độ hèn hạ
này dám nói thẳng: Bắt! Vì Điếu Cày chống bọn bán nước và kẻ cướp nước.
Đó cũng là lời nhắn đến "tờ giấy lộn" mượn tên "Nhân Dân" nên xem lại
tính liêm sỉ còn bao nhiêu, khi tự phô bày bản chất bất lương của "tiếng
nói đảng và nhà nước": "Nếu không có chuyện thì chúng ta dựng chuyện"
[2].
Hương Trà, người đã từng "dám" động đến đám "tai to mặt lớn" khi viết về
con trai viên tướng công an Nguyễn Khánh Toàn cùng cô con dâu Linh Nga -
diễn viên múa (con của cặp nghệ sĩ múa Đặng Hùng- Vương Linh), để phải
ăn cơm tù trong vài tuần. Nhớ về những ngày ở tù, cô cho biết [3]:
Ngày còn biệt giam B.34 với Điếu Cày. Anh thường tâm sự, rồi lúc tui ra
anh còn nhắn về nữa; ước nguyện lớn nhất của anh là chị Tân bán bớt một
căn nhà lo cho hai đứa nhỏ đi du học, tránh xa việc của bố chúng nó. Ấy
vậy mà giờ nhìn thằng con anh tất tả ngược xuôi với mẹ vì bố, đau muốn
khóc!
Ước mong đó thật xa vời, bởi thị trường bất động sản đang ... "bại xụi"
vì những chuyên gia "vật lý trị liệu" không phục hồi nổi chức năng cho
"những kẻ "bại não" với hệ thống "thần kinh trung ương" - "kinh tế thị
trường định hướng XHCN" đã bị nhiễm khuẩn nghiêm trọng.
Gia đình Trần Huỳnh Duy Thức với biểu ngữ kêu oan về bản án 16 năm tù và 5 năm quản chế của anh hôm 20/7/2013. Photo:fb tranhuynhduythuc |
Trước khi tuyệt thực
26/4/2013: Điếu Cày bị chuyển từ Nam ra Bắc một cách mờ ám.
28/4/2013: Người thân của anh mới hay tin.
10/6/2013 - 20/6/2013: Điếu Cày bị ép ký nhận tội và anh đã viết đơn gởi Viện kiểm sát Nghệ An.
19/6/2013: Trương Tấn Sang đi Trung Quốc.
21/6/2013: Trương Tấn Sang về Việt Nam.
Với các mốc thời gian nêu trên cho thấy: cả tháng 5/2013 dường như là
một khoảng lặng đáng sợ để sau đó, vụ tuyệt thực xảy ra bất ngờ và dữ
dội như một cơn bão lớn? Đó phải chăng cũng là quãng thời gian người
cộng sản chuẩn bị cho một âm mưu đê hèn: ép buộc Điếu Cày nhận tội để
chứng minh lòng trung thành với ai đó?
Cung cách Tập Cận Bình tiếp đón trọng thị Trương Tấn Sang, không cho
phép bất kỳ ai hồ nghi chuyến đi Trung Quốc không được chuẩn bị kỹ lưỡng
cho ông Chủ tịch Việt Nam. Những chuyến công du chu đáo như thế luôn
được tính toán chi ly đến từng chi tiết nhỏ trong thời gian dài, vì chỉ
trong 3 ngày ngắn ngủi, hàng chục trang giấy đã được đôi bên ký kết, nó
chứng minh tính cẩn trọng được thu xếp trước cho chuyến đi.
Thật băn khoăn với 3 ngày lưu lại Trung Quốc, những gì đã diễn ra phía
sau cái gọi là "thành công", bởi hình ảnh ông Chủ tịch Việt Nam đứng
cạnh người tương nhiệm, lại cúi đầu có phần quá đà, tựa như đứng trước
một cơn "thịnh nộ lôi đình" và hành vi cúi đầu ấy như một lời nhận lỗi
thành tâm cùng hứa hẹn trước việc làm nào đó chưa thể hoàn tất như đã
thỏa thuận để biểu hiện một sự thần phục tuyệt đối, khi biểu tượng chống
ngoại xâm kia vẫn kiên gan?
Tuyệt thực
Chiều tối 21/6/2013 ông Chủ tịch nước đáp chuyến bay về tới Việt Nam.
Những nếp nhăn trên trán chưa kịp giãn ra, những cam đoan, hứa hẹn nào
đó trong chuyến đi chưa kịp lắng xuống và không người Việt Nam nào không
biết câu châm ngôn người Trung Hoa yêu thích: "Nhất ngôn ký xuất tứ mã
nan truy", thì:
24/6/2013: Điếu Cày bắt đầu tuyệt thực.
17/7/2013: Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đã liều mình báo tin cho vợ ông. Sau đó, tin tức lan rộng.
Theo "lịch sử tuyệt thực" của Điếu Cày, về mặt công khai, khi thảm đỏ
trải ra, khi đại bác đì đùng vang tiếng, họ Tập kia chưa biết việc Điếu
Cày viết đơn tố cáo. Đó là nói về công khai theo trình tự thời gian mà
ai cũng biết.
Tuy nhiên, gián điệp là một nghề khó khăn và tinh vi, không phải ai cũng
có thể trở thành điệp viên hoàn hảo, bởi tin tức tuồn ra từ "tay trong"
được cài cắm là điều không thể thiếu được cho hoạt động tình báo.
Sau đó, 24/7/2013: Trương Tấn Sang đi Mỹ. Chuyến đi, nhiều người nhận
định là bất ngờ và vội vã, chỉ cách ngày về từ Trung Quốc một tháng, với
suy đoán cho rằng Bộ Ngoại giao Mỹ đã "cấp hộ chiếu" cho Tư Sang được
bay đến Washington D.C theo mong muốn, hơn là ông chủ Nhà Trắng nôn nóng
gặp mặt. Cuộc gặp gỡ giữa 2 nguyên thủ quốc gia, ngoài bức điện tín 67
năm về trước được tiết lộ, không nghe thấy gì bí mật hơn nó, ngoài những
"ngôn ngữ ngoại giao" vừa phải và lịch thiệp như vốn có trong tất cả
các cuộc ngoại giao nhàn nhạt Việt - Mỹ, sau khi Việt Nam vào được WTO.
Sự chán ngán như thế này, có thể bắt gặp rải rác, ví như cuộc đối thoại
nhân quyền Việt - Mỹ hồi năm ngoái đã từng bị hoãn.
27/7/2013: Tròn 34 ngày, Điếu Cày tuyệt thực và chấm dứt trong thành công.
29/7/2013: Trương Tấn Sang từ Mỹ về đến Việt Nam.
Sau tuyệt thực
02/8/2013: Cuộc nói chuyện giữa Điếu Cày và người con trai cho hay [4]:
Ngoài việc "...ông Trương Tấn Sang đã yêu cầu họ trả lời cho gia
đình...", Nguyễn Trí Dũng nói thêm: "...Mọi người rất quan tâm đến vấn
đề này và cả ông Obama đã lên tiếng cho bố, Hội đồng Nhân quyền LHQ, Ủy
ban Nhân quyền LHQ gồm 7 nước, họ đã họp lại và đã gặp con và mẹ
rồi....".
Một câu hỏi dù có thể bị coi là "dở người", cũng nên đặt lại: Tại sao
phải ép Điếu Cày nhận tội trong tình hình hiện nay? Một tình hình rối
ren và bi đát về mọi mặt của Việt Nam.
Nếu muốn, người lính năm xưa thuộc Sư đoàn 3 Sao Vàng đã nhận ngay trước
vành móng ngựa để tránh cái án 12 năm tù giam cùng 5 năm quản chế (!).
Nếu muốn, người lính già với sở thích "thỏa chí tang bồng" - đi dọc
chiều dài đất nước để rồi cay đắng phát hiện thác Bản Giốc đã mất một
phần - nhận tội công khai trước tòa, còn "góp phần lớn" đánh tan tác
phong trào dân chủ?
Không hơn sao? Tại sao giờ này trong nhà đá ông lại cần phải nhận tội?
Để làm gì nhỉ? Nếu không nói về sự ngớ ngẩn, có thể nó là một sự bế tắc,
cố vùng vẫy để đáp ứng lời "thề non hẹn biển" với "người bạn vàng"? Dù
sự "nhận tội" từ phía Điếu Cày có xảy ra, nó cũng không đảm bảo bất kỳ
điều gì tốt hơn là một sự hòa hoãn tạm bợ.
Nếu câu hỏi "vụng dại" nêu trên không được xem xét, có nên nghĩ đến những "phần quà" cùng lời "nguyện ước đá vàng" nào đó?
Học thuyết "mèo trắng, mèo đen" của Đặng Tiểu Bình vẫn còn là sách gối đầu nằm của Tập Cận Bình?
"Mèo bạc đầu" không tinh ranh như mong muốn, thì chuyển qua sử dụng "mèo
nhuộm tóc". Tất nhiên là vậy, đó là tính thực dụng phũ phàng của học
thuyết Đặng. Học thuyết này đắc dụng trong trường hợp loài mèo tham lam
và chỉ biết giành giựt lẫn nhau.
Chỉ tiếc, "làm chính trị" theo kiểu lấy Điếu Cày thế thân như "vật chứng
trung thành", vô hình chung biến người sáng lập ra "Câu Lạc Bộ Nhà Báo
Tự Do" trở thành "Quốc Bảo" trong mắt người dân Việt Nam. Cám ơn "đảng
và nhà nước"!
Người cộng sản Việt Nam chuốc lấy ê chề và cay đắng, bởi âm mưu hèn hạ
của họ dựa trên tà tâm cùng sự dốt nát với bản chất vong thân của một
tâm thức nhược tiểu. Góp vào đó là sự vong bản được nuôi bởi ý thức hệ
"bên kia biên giới là nhà, bên này biên giới cũng là quê hương", loại
"lý tưởng" cúc cung tận tụy mà Nguyễn Văn Linh "biểu diễn" trong hội
nghị Thành Đô 1990.
Tôi tự hỏi, giờ đây họ tính trả thù hay đày đọa Điếu Cày ra sao nữa?!
Đày ra Côn Đảo? Không ổn.
Hay là biến người Anh Hùng Dân Tộc trở thành một Robinson thời đại trên
một hòn đảo nào tại Trường Sa để cách ly tuyệt đối ông với mọi người?
Càng nguy!
Còn cách nào cho giới cầm quyền không nhỉ? Khôn ngoan hơn, có lẽ nên
nghĩ: sinh mạng Điếu Cày giờ đây không còn gói gọn tại Việt Nam nữa rồi.
Do đó, càng bạc đãi ông bao nhiêu, càng nguy hại cho chế độ độc đảng
toàn trị bấy nhiêu.
Việt Nam đang rất cần tiền và nhiều thứ khác, thế nên đừng để người Mỹ
cũng như phương Tây xa lánh trong lúc "sa cơ lỡ vận" như hiện nay.
Trần Huỳnh Duy Thức
Chuyến công du đến Hoa Kỳ, được nhiều nhà quan sát nhận định: cập rập.
Nó được thực hiện sau một tháng khi ông Sang từ Trung Quốc trở về.
Việc đón tiếp sơ sài của chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó.
"Trời bất dung gian", vụ việc Điếu Cày tuyệt thực "tanh bành té bẹ" khi
ông Sang chỉ còn đúng 1 tuần lễ lên máy bay sang Mỹ. Internet quả là...
"kẻ thù" của chính thể này!
19/6/2013, ngày ông Sang đi Trung Quốc cũng là ngày ông Trần Văn Huỳnh,
phụ thân Trần Huỳnh Duy Thức gởi đơn kêu oan lần thứ tư đến ông Chủ
tịch.
16/7/2013, phong trào "Con Đường Việt Nam" công bố gởi e-book đến 170
ông (bà) cấp cao thuộc giới cầm quyền trung ương và địa phương. Nội dung
cuốn sách đề ra con đường ôn hòa và khả thi cho tình hình bi đát của
Việt Nam hiện nay, nhằm tránh nguy cơ lệ thuộc và tiến hành dân chủ hóa
trong hòa bình.
20/7/2013: Bất ngờ gia đình Trần Huỳnh Duy Thức bị bao vây và ngăn cản
việc đến nhà riêng Trương Tấn Sang để biểu tình kêu oan về bản án 16 năm
tù và 5 năm quản chế.
24/7/2013: Trương Tấn Sang đi Mỹ.
29/7/2013: Trương Tấn Sang từ Mỹ trở về.
06/8/2013: RFA cho hay, đã xảy ra đàn áp tù nhân lương tâm [5] tại Xuyên
Mộc gồm: Phan Ngọc Tuấn, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Nguyễn Ngọc Cường,
Trần Huỳnh Duy Thức, Huỳnh Anh Trí.
Những cột mốc thời gian cùng các sự kiện trích dẫn đan xen giữa vụ Điếu
Cày tuyệt thực cùng tin mới nhất của RFA cho biết 5 tù nhân nói trên bị
biệt giam và cùm chân trong nhiều ngày, cho thấy:
- Khá nhiều việc dồn dập đến với giới cầm quyền làm họ lúng túng, rơi vào thế bị động, khó xoay trở.
- Đàn áp tù nhân lương tâm trở thành sách lược nhất quán, xuyên suốt và
có hệ thống cho cả bộ máy "công an trị" từ trung ương xuyên suốt địa
phương.
- "Ép dầu" không được, nay chuyển qua "ép mỡ"? "Dầu" hay "mỡ", loại nào cũng được, trước cơn bí bách hiện nay?
Có vẻ chính thể này đang mất bình tĩnh và mất kiểm soát thật rồi!
Ông Lê Thăng Long ra tù trước hạn ngày 04/6/2012. Ngay sau đó, ông phát
động phong trào "Con Đường Việt Nam" và cho biết kế hoạch nhóm bạn Thức -
Định - Long: Thức vẫn không nhận tội để giữ vững chính nghĩa cho cả
nhóm; Định nhận tội và đi tị nạn để gầy dựng phong trào ngoài nước; Long
nhận tội để ra sớm gầy dựng phong trào trong nước.
Luật sư Lê Công Định ra tù ngày 06/2/2013. Trước khi ông ra tù, thông
tin ông quyết định và được phía cầm quyền đồng ý cho đi tị nạn tại Mỹ
lan truyền rộng trên mạng. Sáu tháng qua, LS. Định vẫn mất dạng như tin
ông đi Mỹ cũng mất hút.
Báo QĐND số ra ngày 24/2/2013 có bài: "Khoan hồng là chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam" [6] viết về việc ra tù của doanh
nhân Lê Thăng Long và LS. Lê Công Định, trong có đoạn:
"Như vậy việc ông Lê Thăng Long, ông Lê Công Định được mãn hạn tù sớm là
bình thường, không có gì được gọi là “Sự trở về mang hy vọng”; “ là tín
hiệu… cho thấy các tác động của cả từ bên trong lẫn bên ngoài” đối với
Việt Nam; hoặc Việt Nam “đang mong muốn điều gì đó từ phía Mỹ”… như
người ta suy diễn. Về bản chất, việc ông Lê Công Định được mãn tù sớm là
do chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước Việt Nam và do chính sự
ăn năn hối cải của bản thân người phạm tội".
Nhóm "Nghiên cứu Chấn" có 3 người: Thức - Định - Long.
Việc LS. Định đi tị nạn chính trị tại Mỹ đã không xảy ra nói lên điều gì?:
- Một khi Định đi Mỹ, hóa ra công nhận "đảng và nhà nước" "mong muốn
điều gì đó từ phía Mỹ" như tờ báo Quân Đội Nhân Dân cho biết? Nếu quả
thật, người cộng sản chẳng "mong muốn điều gì đó từ phía Mỹ" thì Trương
Tấn Sang mang "món đồ" "cổ lỗ sỉ" của Hồ Chí Minh 67 năm về trước qua Mỹ
trao cho Obama để làm gì?
- Một khi Định đi Mỹ bằng như "đảng ta" công khai thừa nhận Long nói
thật về kế hoạch của 3 người với 3 hướng hoạt động, vậy vô hình chung,
"đảng ta" nâng cao uy tín cho "Con Đường Việt Nam"?
- Một khi Định đi Mỹ cầm bằng Long càng chính xác về việc Thức phải chấp
nhận ở mút mùa cho đủ 16 năm để giữ vững chính nghĩa của cả nhóm?
Ra thế! Nên ngăn cản việc Định đi Mỹ đồng nghĩa bảo toàn "danh dự" và "uy tín" của "đảng ta"(?!)
Ra thế! Nên bội tín với Định để "giúp" "nhà nước" càng "sáng ngời chính nghĩa"(?!)
Nếu phân tích trên không được độc giả chấp nhận thì đành phải gọi tên
"lật lọng" dành cho chế độ này vậy. Hoặc giả có thể thay nó bằng tục ngữ
"Nói một đàng làm một nẻo", bởi đừng để "đảng và nhà nước" "quê xệ".
"Quê khó huề" lắm! Tâm lý tiểu nông, bẩn chật vẫn là đặc trưng của giới
cầm quyền Việt Nam hiện nay.
Vậy ra, Định không đi Mỹ được là do giới truyền thông nhanh nhảu đoảng
khi ồ ạt đưa tin nhạy cảm này lên sớm quá thay vì như chuyến đi của Trần
Khải Thanh Thủy? Đó là "lỗi" của truyền thông, không phải "lỗi" "đảng
ta"(!)
Tất nhiên, giờ này ông Lê Thăng Long vẫn hoàn toàn chưa...sai, vì không
có dấu hiệu nào cho thấy ông Thức "nhận tội". Quả là "dĩ bất biến ứng
vạn biến", "Người khôn ngoan nhất là người chân thật nhất".
"Con Đường Việt Nam" hơn một năm qua, càng chứng tỏ đáng tin cậy về sự chân thật và tính chính nghĩa của nó.
Chẳng lẽ "đảng ta" chấp nhận chôn vùi tuổi trẻ cựu giám đốc công ty Một
Kết Nối những 12 năm nữa sao? Dù đó là sự thật, dù đó đúng như sự hy
sinh của Trần Huỳnh Duy Thức, dù đó đúng theo kế hoạch nhất quán của
nhóm "Nghiên cứu Chấn", sao vẫn thấy đau đớn cho Thức và càng nhục nhã
với chế độ "dốt đặc cán cuốc" khi phí hoài nhân tài.
Hổ thẹn thay! Khi người cộng sản ra rả kêu gọi nhân tài ra giúp nước(!). Ai có thể giúp và nên giúp ai đây nhỉ?!
Con đường nào cho ĐCSVN?
Không ép được Điếu Cày quay qua ép 5 tù nhân tại Xuyên Mộc?
Hay thử chuyển qua ép Tạ Phong Tần hoặc Lê Quốc Quân?
Còn ai nữa? Đỗ Thị Minh Hạnh? Đoàn Huy Chương? Linh mục Nguyễn Văn Lý?
Bế tắc. Bởi ép người cũng phải chọn "thứ dữ" mới "ép... phê"!
Hình ảnh "vòng xoáy dữ dội" [7] mà ông Phạm Nam Kim, cựu giám đốc Ngân
hàng Bang Vaud, Thuỵ Sỹ sử dụng để chỉ ra tình trạng nguy kịch của nền
kinh tế Việt Nam đang chực chờ ập đến, nên được chuyển thành một trận
"đại hồng thủy" chưa từng có tại Việt Nam không gì cứu vãn nổi trong
tương lai rất gần.
Dấu hiệu đó xuất phát một phần từ việc có tiền trong tay mà không biết
làm sao để kinh doanh thông qua số tiền 2,5 tỉ đô la Mỹ được đem gửi
nước ngoài [8] tỏ ra là chỉ dấu mệt mỏi, chán ngán và buông xuôi của
ngân hàng - xương sống nền kinh tế.
Một biểu hiện quái lạ chưa từng thấy trong 30 năm qua, khi Tô Huy Rứa,
thuộc bên Đảng, không liên quan gì đến hành pháp, lại đại diện trao
quyết định Thứ trưởng Bộ Công an cho Bùi Văn Nam - một viên tướng chuyên
về tình báo [9]. Quyết định này như là chỉ dấu lấn quyền nghiêm trọng
đối với Thủ tướng. Giờ này còn tranh giành ghê gớm, đấu đá quyết liệt
thế này sao?!
Hay là Trương Tấn Sang nên được khuyến khích "dựng cờ khởi nghĩa" thông
qua "lá bùa" Hồ Chí Minh gởi Truman cùng một cái gậy chống lưng mang tên
"Nhân Quyền" để hóa giải lệnh cấm vận vũ khí sát thương và TPP? Làm nổi
không?
Loạn! Sắp đến rồi!
Nguyễn Ngọc Già
-----------------------
http://www.chinhluanvn.com/2012/10/viet-cho-nhung-nguoi-toi-quen.html [1]
http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/20746002.html [2]
http://12bennuoc.blogspot.de/2013/07/ang-sau-moi-bai-viet-la-mot-su-that-khac.html[3]
http://www.chuacuuthe.com/2013/08/05/cuoc-trao-doi-giua-hai-bo-con-blogger-dieu-cay/[4]
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/pris-x-moc-hung-strik-08062013124508.html[5]
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/5/5/5/230258/Default.aspx [6]
http://vef.vn/2013-08-05-kinh-te-dang-roi-vao-vong-xoay-du-doi- [7]
http://vnmedia.vn/VN/kinh-te/tai-chinh-ckhoan/25_1465073/cac_ngan_hang_gui_25_ty_usd_ra_nuoc_ngoai.html[8]
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/08/130807_buivannam_returns_mps.shtml[9]
Công an gây sức ép lên mẹ blogger Đoan Trang
Hôm nay, ngày 8 tháng 8 năm 2013, gia đình của nhà báo, blogger Đoan
Trang đã nhận được điện thoại từ cán bộ của Tổng cục An ninh, thông báo
sẽ có một buổi "làm việc" với cụ bà Bùi Thị Thiện Căn. Cụ là một nhà
giáo hưu trí nay đã 73 tuổi và là mẹ của nhà báo, blogger Đoan Trang.
Lý do của buổi "làm việc" này liên quan đến việc Đoan Trang đã ký tên và
cùng nhiều bạn khác đại diện cho Mạng Lưới Blogger Việt Nam đến trao
Tuyên Bố 258 cho đại diện Ủy ban Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc (OHCHR)
và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế như Human Rights Watch, SEAPA,
Freedom House, Forum-Asia...
Tuyên bố 258 là tiếng nói chung của hơn 100 blogger bày tỏ quan điểm của
mình về vai trò và trách nhiệm của nhà nước Việt Nam đối với tình trạng
nhân quyền trong nước để có thể được xem xét trở thành thành viên của
Hội đồng Nhân quyền LHQ. Điển hình là kêu gọi kêu gọi nhà nước Việt Nam
và HĐNQ xem xét lại Điều 258 vốn đi ngược lại những quan điểm nền tảng
phồ quát về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.
Hành động tách riêng và sách nhiễu một vài cá nhân đại diện hay thân
nhân của những cá nhân này đồng nghĩa với việc xúc phạm đến toàn thể
những người đã ký tên và tham gia vận động cải thiện nhân quyền ở Việt
Nam.
Hành động nhắm vào thân nhân, cụ thể là đối với một cụ bà 73 tuổi, tóc
bạc trắng, một nhà giáo nghỉ hưu rất hiền như cụ bà Bùi Thị Thiện Căn là
một hành động vô lương tâm, trái đạo lý và trái luật. Blogger Đoan
Trang là một người trưởng thành, tự mình chịu trách nhiệm trước pháp
luật với tư cách một công dân; không một ai liên quan hay phải chịu
trách nhiệm pháp lí nào về hành động của cô ấy.
Hành động "làm việc" với cụ bà Bùi Thị Thiện Căn của Tổng cục An ninh là
câu trả lời của nhà nước Việt Nam đối với Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp
Quốc và các tổ chức nhân quyền quốc tế. Thái độ này sẽ góp phần vào việc
tạo nên hình ảnh tiêu cực của Việt Nam khi đang vận động được trở thành
một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ
2014-2016.
Mạng lưới Blogger Việt Nam gửi thông báo này đến tất cả những blogger
Việt Nam, đồng bào trong và ngoài nước, cùng những cơ quan tổ chức quốc
tế đã nhận Tuyên bố 258 để kêu gọi cùng lên tiếng phản đối và đồng hành
hỗ trợ blogger Đoan Trang trước những hành động mang tính trấn áp tinh
thần và sách nhiễu một cụ bà 73 tuổi chỉ vì những việc làm chính đáng,
hợp pháp của nhà báo, blogger Đoan Trang.
Mạng lưới Blogger Việt Nam kêu gọi các bạn blogger, bằng hữu hãy đến
chia sẻ, hỗ trợ tinh thần với mẹ của blogger Đoan Trang và cùng nhau
đoàn kết, đồng hành trên con đường còn nhiều thử thách và khó khăn này.
Mạng lưới Blogger Việt Nam
Kami - Còn đảng thì còn gia đình mình con nhé!
Qua tìm hiểu Nghi định số 87/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành, theo
Nghị định này quy định, thì gia đình hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an Nhân
dân được hưởng rất nhiều chế độ ưu tiên mà những viên chức nhà nước ở
những ngành khác, kể cả bộ đội cũng không dám mơ. Ví dụ (trích) "...
gặp hỏa hoạn, thiên tai sập nhà, cháy nhà hoặc phải chuyển chỗ ở sẽ
được trợ cấp 2 triệu đồng/suất/lần. Bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ hoặc chồng của
hạ sĩ quan, chiến sĩ công an; người nuôi dưỡng hợp pháp; vợ hoặc chồng;
con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan chiến sĩ công an bị ốm đau một
tháng trở lên hoặc điều trị một lần tại bênh viện từ bảy ngày trở lên
được trợ cấp 500.000 lần/suất/lần. Nếu những người thân nói trên từ
trần, mất tích, sẽ được trợ cấp 1 triệu đồng/suất. Con đẻ, con nuôi hợp
pháp của hạ sĩ quan, chiến sĩ được miễn học phí khi học ở các cơ sở giáo
dục mầm non và phổ thông công lập, ngoài công lập theo định của pháp
luật hiện hành về chế độ miễn, giảm học phí".
Cái này trong khoa học chính trị người ta gọi là các chính sách mang tính dân túy,
để tranh thủ sự ủng hộ của các đối tượng cần hướng tới. Ở đây là cái
chính sách đảng ưu ái cho lực lượng công an để lấy lòng và muốn họ phải
trung thành với đảng hơn nữa, thông qua quyền lợi của họ và gia đình của
họ. Nếu ai đã hiểu thế nào là dân túy thì nói đúng ra phải hiểu là
chính sách công an túy của đảng CSVN. Xin hiểu rằng chữ túy ở đây có
nghĩa là chỉ sự làm (gây) nghiện như chữ túy trong từ ma túy vậy. Từ xưa
đến nay, khi muốn trói buộc ai, đối tượng nào ít hiểu biết thì các thế
lực không có chính danh hay không đàng hoàng, thì họ sẽ dùng ma túy để
lôi kéo và cương tỏa để kiềm chế. Đảng bây giờ cũng đang áp dụng cái
chiêu thức công an túy đối với lực lượng còn đảng thì còn mình, nhưng
chiêu thức này đang muốn cương tỏa để kiềm chế cả thân nhân của công an,
với mục đích để cùng chung lý tưởng còn đảng thì còn chúng ta. Không
hiểu tại sao, lý do gì để chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng, một thủ
tướng xuất thân từ ngành công an có những quyết định như vậy? Quyết định
trên với mục đích gì cũng là vấn đề đáng quan tâm, tại sao đối tượng
được đãi ngộ chỉ là công an chứ không phải bao gồm cả gia đình hạ sĩ
quan, chiến sĩ đang phục vụ trong quân đội?
Một cảnh diễn tập chống bạo động |
Vấn
đề Chính phủ quy định chế độ chính sách đối với gia đình, thân nhân hạ
sĩ quan, chiến sĩ đang phục vụ có thời hạn trong Công an Nhân dân cũng
là việc đáng nói. Ai cũng biết để vào ngành công an cho dù chỉ ở cấp bậc
hạ sĩ quan hay chiến sĩ cũng là một mong ước của không ít thanh niên
nông thôn. Cho dù chỉ được hưởng một khoản tiền lương hoặc phụ cấp không
nhiều, nhưng rất nhiều gia đình phải tốn các khoản tiền không nhỏ để
chạy chọt cho con em của mình. Hay trong thời chiến tranh, việc đi nghĩa
vụ quân sự vào ngành công an cũng là một biện pháp để trốn đi bộ đội
của một số thanh niên sợ phải ra chiến trường. Nói như thế để thấy,
không cần thiết phải có những chế độ đãi ngộ như quy định nói trên thì
việc có đủ quân số cho các đơn vị cảnh sát bảo vệ, cảnh sát cơ động,
cảnh sát chống bạo động... không phải là việc khó. Vậy tại sao chính phủ
lại sốt sắng trong vấn đề này như vây? Câu trả lời có lẽ là, chính
quyền mong muốn có một lực lượng không chỉ "còn đảng thì còn mình" mà
bây giờ sẽ là "còn đảng thì còn gia đình mình". Mà đa số các hạ sĩ quan
hay chiến sĩ trong ngành công an thì chủ yếu là những người lính cầm dùi
cui hoặc vũ khí khi đối mặt với người dân trong các tình huống hay các
trường hợp mang tính nhạy cảm. Khi đó thì dùi cui có vung lên hay khẩu
súng có khạc lửa vào đám đông hay không thì cũng hoàn toàn phụ thuộc vào
hành vi các đối tượng này.
Cái nguy hiểm ở đây là như thế.
Trong
hoàn cảnh thực tế khi Việt nam là một nước nghèo, nguồn ngân sách còn
hạn hẹp, nhưng lại là một nhà nước được mệnh danh là công an trị. Thì
việc duy trì một lực lượng với tỷ lệ nhân viên cảnh sát, an ninh bình
quân trên đầu người dân thuộc hàng đầu thế giới đã là điều hoàn toàn
mang tính bất cập. Vậy mà nay lại có các chính sách đãi ngộ không thực
sự cần thiết thì là một điều không có lợi. Bởi vì hiện tại, lực lượng
công an đã và đang có được những quyền lực cũng như chế độ đãi ngộ hơn
người, đó chính là lý do đã biến lực lượng công an trở thành lực lượng
kiêu binh trong xã hội. Họ có đủ mọi quyền hành, kể cả vi phạm pháp luật
nhưng không bị xử lý hoặc chỉ bị xử lý nhẹ hơn nhiều lần so với người
bình thường. Trường hợp trung tá công an Nguyễn Văn Ninh, công an quận
Hai Bà Trưng Hà Nội, đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng do không đội mũ bảo
hiểm nhưng chỉ bị phạt 4 năm tù. Trong khi ba người đàn ông bắt trộm 2
con vịt , cho dù đã đã trả cho chủ vịt hai triệu đồng để khắc phục hậu
quả và được nạn nhân bãi nại nhưng vẫn bị xử tới hơn cả chục năm tù là
những so sánh để cười ra nước mắt.
Mà
lẽ ra các chế độ đãi ngộ ấy lấy từ ngân sách quốc gia nên phải được áp
dụng cho các bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở nơi biên cương, hải đảo
tuyến đầu của tổ quốc để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ; cho các thầy
cô giáo, các nhân viên y tế đang làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, các
bản làng xa xôi và hẻo lánh còn nhiều thiếu thốn... Đó là những đối
tượng với số lượng không nhiều nhưng cần thiết và đáng quan tâm hơn gấp
nhiều lần nếu so với gia đình, thân nhân hạ sĩ quan, chiến sĩ đang phục
vụ trong ngành công an. Hay vì bây giờ sự toàn vẹn của chủ quyền lãnh
thổ không quan trọng bằng sự tồn tại của đảng CSVN?
Ngân
sách của nhà nước chủ yếu là được thu từ tiền thuế của nhân dân, do vậy
trong việc sử dụng ngân sách cho các mục đích mang tính an sinh xã hội,
thì thiết nghĩ nhà nước hơn ai hết phải biết để sử dụng sao cho hài hòa
và phù hợp. Chứ không thể dùng tiền ngân sách để phục vụ cho một lợi
ích của một tập thể hay cá nhân, với mục đính để biến "chủ trương còn
thì đảng còn mình" thành chủ trương "còn đảng thì còn gia đình mình",
hòng nhằm bảo vệ quyền lợi cho lợi ích cho bản thân những người cầm
quyền.
Đã
là đảng cầm quyền trong thể chế chính trị độc đảng mà còn có các chính
sách mang tính khôn lỏi như thế, người ta gọi là chơi không đẹp. Điều đó
hoàn toàn không thể hiện sự chính danh của mình.
Ngày 09 tháng 8 năm 2013
© Kami - RFA Blog'sĐa phương hoá? - Đừng hão huyền!
Đừng mơ tưởng hão huyền
Tin Reuters cho biết Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị hôm mùng 4 tháng
8 tuyên bố tại Hà Nội rằng Bắc Kinh sẽ không vội vã ký kết dự thảo Bản
Quy tắc Ứng xử trên biển Nam Trung hoa (tức biển Đông theo cách nói của
Việt Nam, hay biển Tây Philippines theo luật của Manila).
Ông Vương nói thêm :" Một số quốc gia đang hy vọng rằng bản Quy tắc Ứng
xử, CoC, có thể được ký kết cấp tốc; những nước này đang trông đợi những
điều không thực tế".
Đó là lời dịch lại từ Anh ngữ, còn hiểu theo cách của người phương Đông
thì Ngọai trưởng Trung Quốc đã nói thẳng trước mặt những quốc gia nào đó
đang mong CoC được đem ra áp dụng rằng: “đừng mơ tưởng hão huyền.”
Tìm nguyên do, trước hết cần nhắc đến tin tức từ Việt Nam liên quan đến
chuyến thăm của Bộ trưởng Vương Nghị do Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam
mời đến. Báo Dân trí loan tin là trong cuộc hội đàm song phưong Bộ
trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nhấn mạnh: hai bên cần kiên trì giải
quyết tranh chấp trên biển trên cơ sở thỏa thuận về những nguyên tắc cơ
bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam với Trung Quốc,
trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
biển 1982 và tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông
(DoC), hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (CoC).
Như vậy, Hà Nội đã đi “trái lề” với Bắc Kinh, khi xứ láng giềng to khoẻ
này từng nhắc nhở chủ trương không muốn một nước ngoài nào khác, kể cả
Liên Hiệp Quốc, can dự vào việc giải quyết cuộc tranh chấp lãnh hải biển
Đông giữa Trung Quốc, không kể Đài Loan, với 4 quốc gia ASEAN gồm Việt
Nam, Philippines, Indonesia, và Brunei.
Hành vi công khai “lệch hướng” trước mặt vị đại diện ngoại giao của nước
lớn này đã khiến Ngọai trưởng Vương Nghị nổi giận và thốt lên những lời
lẽ cứng rắn không chút nể nang chưa từng thấy. Trung Quốc chỉ còn giữ
lại một câu hỏi :'Liệu trong nội bộ chính trị của quý quốc, các đồng chí
có muốn một thể chế đa phưong không?"
Điều đáng lưu ý là báo chí Việt Nam không hề nói tới nửa chữ về lời
tuyên bố của Bộ trưởng ngoại giao Vương Nghị, “đáp lễ” tuyên bố của ông
Phạm Bình Minh. Chỉ có các hãng thông tấn quốc tế thuật lại lời lẽ nảy
lửa không còn chút gì ngoại giao của vị Bộ trưởng nước lớn. Họ Vương còn
nói rằng có nhiều việc cần phải làm đối với văn kiện CoC, văn kiện này
liên quan đến quyền lợi của nhiều phía, và công thức hình thành cho nó
đòi hỏi một khối lượng công tác phối hợp rất nặng nề, không một cá thể
quốc gia nào nên áp đặt ý muốn của mình lên các nước khác. HọVương còn
nói những nỗ lực trước đây cho việc thảo luận CoC đã thất bại "vì sự
quấy rối của một số thành phần".
Hai Ngọai trưởng Việt-Hoa đàm phán tại Hà Nội hôm 4 tháng 8, 2013 vietnampress photo |
Ai mơ tưởng, ai quấy rối?
Cá thể quốc gia nào? Thành phần nào? Ông không nói rõ, nhưng người ta
cho rằng Trung Quốc ngụ ý nói tới Philippines với vụ kiện ra toà Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển, và Việt Nam với lời tuyên bố của Ngoại trưởng
Phạm Bình Minh về luật pháp quốc tế, “nhất là” công ước UNCLOS như kể
trên.
Chẳng lạ gì, những quốc gia mà Ngoại trưởng Vương Nghị nói là "đang
trông đợi những điều không thực tế" hay “đừng mơ tưởng hão huyền” cũng
là Philippines và Việt Nam, và có thể là một “cá thể quốc gia” khác nữa
không mấy xa lạ.
Nguyên do của điều gọi là “lùi buớc” là Trung Quốc muốn nhấn mạnh tính
cách địa phương, khu vực, hay nói rõ hơn, tính cách song phương giữa
Trung Quốc với ASEAN, giữa Trung Quốc với từng quốc gia nào xác lập chủ
quyền trên biển Đông. Bắc Kinh không ngần ngại loại hẳn việc mà họ gọi
là "can thiệp, phiền nhiễu" do luật quốc tế và toà án Liên Hiệp Quốc
mang tới.
Trung Quốc muốn đem sự bàn thảo đi tới ký kết của họ trên văn kiện CoC
làm điều kiện để kiềm chế Philippines và Việt Nam trong sách lược quốc
tế hoá vấn đề tranh chấp lãnh hải ở biển Đông.
Phải bẻ từng chiếc đũa
Tuy nhiên, kềm chế Philippines và Việt Nam trong việc quốc tế hoá mới
chỉ là một trong những kế sách của Trung Quốc trong vấn đề biển Đông.
Nguời ta còn nhớ hôm 30 tháng 6, 2013, tại Brunei, hai bộ trưởng ngoại
giao Thái Lan và Trung Quốc họp báo chung, tuyên bố Bắc Kinh đã đồng ý
tiến tới những cuộc thương lượng chính thức với khối ASEAN về một bản
Quy tắc Ứng xử (CoC) để tìm cách giảm mối căng thẳng trên biển Đông.
Trong nỗi hân hoan, người ta có thể không lưu ý rằng lúc đó Bộ trưởng
Vương Nghị phát biểu rằng Trung Quốc sẵn sàng làm việc với ASEAN VÀ gỡ
bỏ mọi "phiền nhiễu" hay "can thiệp" trong việc phối hợp để thảo luận
văn bản CoC. Cần chú ý ông Vương nói : “làm việc VÀ gỡ bỏ phiền nhiễu”,
mà không nói rằng “làm việc ĐỂ gỡ bỏ phiền nhiễu, can thiệp”. Người ta
có thể thấy ngay từ lúc đó Trung Quốc đã muốn cảnh báo, hay nói đúng
hơn, là Trung Quốc đã rào chắn về điều họ gọi là "gây phiền nhiễu" và
"can thiệp" từ bên ngoài khối ASEAN và Trung Quốc.
Nay thì điều đó đã thể hiện mạnh mẽ qua lời lẽ nảy lửa của họ Vương tại
Hà Nội, sau khi Ngoại trưởng Phạm Bình Minh nói tới Liên Hiệp Quốc với
Công ước UNCLOS. Trước đó Việt Nam đã công khai ngỏ ý ủng hộ Philippines
trong vụ kịên Trung Quốc trước toà án Liên Hiệp Quốc về luật biển, mặc
dù Hà Nội tuân thủ điều khoản ký kết với Bắc Kinh: hai nước cộng tác,
phối hợp và điều phối chính sách ngoại giao của nhau. Chắc Việt Nam khó
có cơ hội “điều phối” chính sách ngoại giao của Trung Quốc.
Nhưng hội nghị gọi là “giữa hai bên ASEAN và Trung Quốc" về văn kiện CoC
có mang hàm ý một cuộc thảo luận đa phưong về vấn đề biển Đông chăng?
Có và không. Họ Vương có nói đến cuộc thảo luận song phưong với ASEAN về
bản Quy tắc Ứng xử CoC, mà không hàm ý thảo luận song phương với ASEAN
về vấn đề tranh chấp lãnh hải biển Đông. Ngay trong cuộc họp báo hôm 30
tháng 6 tại Brunei ông Vương Nghị nhấn mạnh rằng "Cuộc tranh chấp biển
Nam Trung Hoa không phải là một vấn đề giữa Trung Quốc với khối ASEAN,
do đó không nên để ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai bên."
Rõ ràng đường lối nhất quán của Trung Quốc vẫn là tránh đem những cuộc
tranh chấp ở biển Đông lên bàn thương lượng với ASEAN, mà chỉ muốn thảo
luận văn kiện CoC với ASEAN mà thôi. Hai đề mục này tuy gần gũi với nhau
nhưng đồng thời cũng khác nhau khá xa.
Nói rõ hơn, Bắc Kinh miễn cưỡng ngồi vào bàn đàm phán với ASEAN, một
hình thức giải quyết đa phưong, để thảo luận về văn kiện CoC đề nghị quy
tắc hành xử của các quốc gia liên quan đến cuộc tranh chấp lãnh hải
biển Đông; còn đối với chính bản thân cuộc tranh chấp đó thì Trung Quốc
muốn chỉ liên quan đến từng nước trong khối ASEAN với Trung Quốc, không
phải là toàn khối ASEAN đứng vào một bên tranh chấp, đó là quan điểm mà
Trung Quốc muốn xác định. Tựu chung Trung Quốc vẫn giữ chặt quan điểm
giải quyết tranh chấp bằng hình thức song phương với từng nước chứ không
phải đa phương với cả khối ASEAN.
Nhìn lại, ta thấy điều đó khá rõ trong mọi hoạt động ngoại giao của Trung Quốc liên quan đến biển Đông và khối ASEAN.
Trung Quốc chỉ thoả thuận thảo luận về CoC với khối ASEAN vì toàn bộ
biển Đông liên quan đến bốn nước ASEAN và Trung Quốc, không kể Đài Loan.
Còn về mối tranh chấp ở toàn bộ biển Đông thì Bắc Kinh tách ra từng toạ
độ địa lý để đòi giải quyết cách song phương giữa Trung Quốc với từng
quốc gia, cụ thể là với Việt Nam và Philippines. Quần đảo Hoàng Sa và
vịnh Bắc bộ thì Bắc Kinh muốn đó là chuyện giữa Việt Nam với Trung Quốc,
vùng Scarborough và Thomas Islands tức là bãi Cỏ May thì là chuyện giữa
Bắc Kinh với Manila, đừng có toà án Luật Biển hay Công ước 1982, hay
một nước nào bên ngoài lên tiếng cổ võ quốc tế hay Liên Hiệp Quốc can
dự.
Cơ hội đa phưong hoá
Lời tuyên bố của bộ trưởng họ Vương tại Hà Nội còn có ngụ ý nói tới quan
điểm của Việt Nam và Hoa Kỳ trong chuyến công du của chủ tịch Trương
Tấn Sang qua Washington, khi Tổng thống Mỹ nhắn nhủ quốc tế không sử
dụng võ lực.
Việc này vốn là lập trường của Hoa Kỳ từ xưa tới nay, nhưng khi nói lên
trong thông cáo chung thì người ta cho là Mỹ nghiêng về phía Việt Nam để
cảnh cáo Trung Quốc.
Một điểm quan trọng nữa, là hiệp ước giữa công ty dầu khí Mỹ với Petro
Vietnam. Trung Quốc thường doạ nước ngoài không nên phát triển khai thác
gần vùng tranh chấp ở biển Đông, nay Mỹ xác nhận là những công ty này
sẽ hoạt động ở nơi đó. Viêc này hẳn đã được Bắc Kinh coi là "những phiền
nhiễu từ bên ngoài" như lời phát biểu của ông Vương Nghị tại Hà Nội hôm
4 tháng 8.
Tạm kết luận, có thể nói Trung Quốc sẽ dằng dai co kéo trong tiến trình
thảo luận về CoC vào tháng tới. Xứ đại cường hãnh tiến này có thể ra
điều kiện Philippines và Việt Nam phải loại hẳn giải pháp toà án Luật
biển UNCLOS trước khi Bắc Kinh chịu ký vào bản Quy tắc Ứng xử ở biển
Đông.
Tuy nhiên, làm như thế cũng đồng thời tạo cơ hội cho Philippines và Việt
Nam dự phần trong một giải pháp đa phương giữa Trung Quốc với 10 nước
ASEAN, may ra kéo thêm được Hàn quốc và Nhật Bản vào với tư cách thành
phần của ASEAN cộng 3, để khuyên giải con số thứ ba trong phép cộng
ASEAN. Dù sao, kế sách này rất khó có cơ may thành công.
Diễn tiến trong hội nghị ASEAN-Trung Quốc vào tháng tới đây còn tuỳ
thuộc tài năng ngoại giao của ASEAN, sức yểm trợ hay áp lực của Mỹ,
Nhật, Úc, Ấn và tình đoàn kết của 10 quốc gia Đông Nam Á, với Cambodia
đè vào như một gánh nặng chênh vênh lạc lõng và chính là “thành phần gây
phiền nhiễu”.
Việt-Long - RFA
2013-08-08
Báo cáo mật về động thái mới của Trung Quốc ở Biển Đông
Tàu chiến hạm đội Nam Hải Trung Quốc trên khu vực Biển Đông. |
Hạm
đội Nam Hải đã xây dựng một mô hình tuần tra mới bao trùm toàn bộ các
đảo, bãi, đá đang tranh chấp nằm trong phạm vi của “đường lưỡi bò” trên
Biển Đông do Trung Quốc đưa ra.
Trang
tin Globe and Mail của Mỹ đưa tin, ngày 5-8 phóng viên của hãng thông
tấn Kyodo Nhật Bản đã phát hiện ra một bản báo cáo quân sự bí mật cho
biết, sau khi củng cố nhiều cứ điểm hải quân ở phía Nam biển Đông, Trung
Quốc lại thiết kế một tuyến đường trinh sát và tuần tra trên biển.
Tuyến đường trinh sát và
tuần tra này gần như phủ khắp mọi hòn đảo đang tồn tại tranh chấp ở biển
Đông, trong đó một số đảo chỉ cách tỉnh Palawan - cực Tây của
Philippines chưa đầy 85 km.
Báo cáo cho biết, năm 2013
hạm đội Nam Hải của hải quân PLA đã xây dựng một mô hình tuần tra mới,
những hòn đảo đang tồn tại tranh chấp mà lộ trình tuần tra này bao trùm
đều nằm trong phạm vi của “đường lưỡi bò” trên Biển Đông do Trung Quốc
đưa ra. Cái gọi là “đường 9 đoạn” đã đưa gần như cả biển Đông vào bản đồ
của Trung Quốc. Bản báo cáo chỉ ra rằng: “Chính vì thế các đảo như Bãi
Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam),
Bãi Cỏ Rong (Reed Tablemount), Đá Vành Khăn (Mischief Reef) (thuộc quần
đảo Trường Sa của Việt Nam) hoặc là nằm bên trong tuyến đường tuần tra
(của Trung Quốc), hoặc nằm ngay trên đường tuần tra”.
Bản báo cáo chỉ ra rằng,
Đá Vành Khăn (Mischief Reef) đã trở thành căn cứ quân sự Nam Hải và
trung tâm chỉ huy hoạt động náo nhiệt nhất của hải quân Trung Quốc.
Người ta thường thấy tàu hộ vệ, tàu tuần tra và tàu đánh cá của Trung
Quốc dừng ở Đá Vành Khăn.. Trung Quốc xây dựng Đá Vành Khăn thành một cứ
điểm hải quân, được trang bị bãi đỗ máy bay trực thăng, bệ phóng xi
mặc, bệ pháo cao xạ, thiết bị thông tin vệ tinh, radar cảnh giới bờ
biển, tấm năng lượng mặt trời, hệ thống đèn chiếu, thậm chí cả một sân
bóng rổ. Nguồn tin cho thấy, Trung Quốc đều đã nâng cấp cơ sở hạ tầng
quân sự cho 7 hòn đảo mà quốc gia này lấn chiếm, những cứ điểm này đều
nằm dưới sự chỉ huy của hạm đội Nam Hải.
Trong các hòn đảo, rạn san
hô Đá Xu Bi (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam) mà Trung Quốc gọi
là Zhubi (tiếng Anh Subi reef) cách đảo Thị Tứ của Việt Nam gần nhất.
Trên khu vực Đá Xu Bi được trang bị 4 pháo cao xạ, ngoài ra còn có
angten parabol và 1 mái che radar mới. Bản báo cáo viết rằng: “Đá Chữ
Thập (Fiery Cross Reef) (thuộc cụm Nam Yết trên quần đảo Trường Sa của
Việt Nam) thường được coi là cảng khẩu để tàu đổ bộ loại lớn lớp 072-II
sử dụng khi tiến vào biển Đông”.
Tàu hải giám và tàu cảnh sát biển Trung Quốc trang bị mạnh không kém gì tàu chiến hải quân. |
Bản báo cáo mật này tiết
lộ, hầu hết tàu hộ vệ và tàu khu trục của Trung Quốc tuần tra tại các
khu vực có tranh chấp đều xuất phát từ căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam.
Bản báo cáo viết rằng: “Một điều cũng cần phải chú ý là, những căn cứ
này còn được sử dụng làm căn cứ tàu ngầm”; “Trung Quốc còn bố trí lực
lượng hỗ trợ, tức có một số tàu thuyền vận tải/tiếp tế đóng vai trò làm
lực lượng chi viện cho lực lượng tác chiến.
Ngoài ra còn có ít nhất 4
tàu hải giám và tàu ngư chính của Trung Quốc định kỳ xuất hiện ở biển
Đông”. Tàu ngư chính Trung Quốc đều được cải hoán từ tàu hải quân có
năng lực tương đương với tàu chiến dù sơn màu trắng. Bản báo cáo viết:
“Lực lượng tàu chấp pháp trên biển như tàu hải giám và tàu ngư chính của
Trung Quốc vẫn là một lực lượng đe dọa mang tính quân sự trên Biển
Đông”
Bản báo cáo cho rằng, lộ
trình tuần tra mà Trung Quốc mới thiết kế sẽ khiến cục diện trên Biển
Đông “càng thêm bất ổn”, trong khi kể từ tháng 2-2013 trở lại đây, những
hành động bố trí tàu chiến ở khu vực gần Bãi Cỏ Mây của hải quân Trung
Quốc đã thể hiện rõ nét “thay đổi quan trọng” này. Trung Quốc đang bố
trí “lượng lượng quân sự dài hạn” gồm ít nhất 2 tàu hộ vệ và tàu đổ bộ
loại lớn lớp 072-II và coi lực lượng này là “lực lượng chiến đấu”.
Huy Long
(Tiền phong)
Nhật mời ông Sang thăm với tư cách quốc khách
Chính
phủ Nhật dự định mời ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nhà nước CSVN, sang
thăm với tư cách quốc khách vào Tháng Ba năm tới để hội đàm với Thủ
Tướng Shinzo Abe, theo hãng thông tấn Kyodo trích nguồn tin chính phủ
hôm Thứ Tư.
|
Ông Shinzo Abe (trái) gặp ông Sang tại Hà Nội ngày 16 Tháng Giêng. (Hình: Luong Thai Linh/AFP/Getty Images)
|
Tokyo
hy vọng gia tăng hợp tác song phương với Hà Nội vì cả Nhật và Việt Nam
đều đang có tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc.
Nhật và Trung Quốc hiện có tranh chấp chủ quyền một số đảo, trong đó nổi bật nhất là đảo Senkaku mà Bắc Kinh gọi là Ðiếu Ngư.
Trong khi đó, Việt Nam và Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như một số vùng trong biển Ðông.
Lời mời qua thăm với tư cách quốc khách, một thủ tục tiếp khách cao nhất trên phương diện ngoại giao, cho thấy Nhật muốn liên kết với Việt Nam trong một môi trường có nhiều thay đổi trong lãnh vực an ninh.
Hơn nữa, quan hệ giữa Hà Nội và Bình Nhưỡng cũng giúp cho Tokyo, hiện đang tìm cách giải quyết vấn đề Bắc Hàn bắt cóc công dân Nhật, trên một phương diện nào đó.
Ông Sang là nhân vật số 2 tại Việt Nam, sau ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN.
Trong cuộc hội đàm, theo dự trù, ông Abe và ông Sang sẽ bàn chuyện gia tăng hợp tác giữa hai nước để có một sự hợp tác chiến lược, cùng nhau chia sẻ quyền lợi, theo một giới chức cao cấp Bộ Ngoại Giao Nhật.
Hợp tác kinh tế giữa Hà Nội và Tokyo cũng sẽ được đề cập, trong đó có việc Nhật xây dựng nhà máy điện nguyên tử cho Việt Nam.
Hồi Tháng Giêng, trong chuyến công du ngoại quốc đầu tiên sau khi đắc cử, Thủ Tướng Shinzo Abe đã chọn Việt Nam.
Tại Hà Nội, nhà lãnh đạo Nhật đồng ý với Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hai bên gia tăng hợp tác song phương.
(Người Việt) Nhật và Trung Quốc hiện có tranh chấp chủ quyền một số đảo, trong đó nổi bật nhất là đảo Senkaku mà Bắc Kinh gọi là Ðiếu Ngư.
Trong khi đó, Việt Nam và Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như một số vùng trong biển Ðông.
Lời mời qua thăm với tư cách quốc khách, một thủ tục tiếp khách cao nhất trên phương diện ngoại giao, cho thấy Nhật muốn liên kết với Việt Nam trong một môi trường có nhiều thay đổi trong lãnh vực an ninh.
Hơn nữa, quan hệ giữa Hà Nội và Bình Nhưỡng cũng giúp cho Tokyo, hiện đang tìm cách giải quyết vấn đề Bắc Hàn bắt cóc công dân Nhật, trên một phương diện nào đó.
Ông Sang là nhân vật số 2 tại Việt Nam, sau ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN.
Trong cuộc hội đàm, theo dự trù, ông Abe và ông Sang sẽ bàn chuyện gia tăng hợp tác giữa hai nước để có một sự hợp tác chiến lược, cùng nhau chia sẻ quyền lợi, theo một giới chức cao cấp Bộ Ngoại Giao Nhật.
Hợp tác kinh tế giữa Hà Nội và Tokyo cũng sẽ được đề cập, trong đó có việc Nhật xây dựng nhà máy điện nguyên tử cho Việt Nam.
Hồi Tháng Giêng, trong chuyến công du ngoại quốc đầu tiên sau khi đắc cử, Thủ Tướng Shinzo Abe đã chọn Việt Nam.
Tại Hà Nội, nhà lãnh đạo Nhật đồng ý với Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hai bên gia tăng hợp tác song phương.
Bất động sản: cái chết biết trước
Thời gian gần đây những dấu hiệu về sự sụp đổ dây chuyền bắt đầu từ thị
truờng bất động sản đã ngày một rõ hơn đặc biệt cộng vào đó là bức xúc
của người dân bị các dự án hay chủ doanh nghiệp lừa gạt hợp đồng khiến
làn sóng chống đối trở nên mạnh mẽ. Mặc Lâm phỏng vấn ông Nguyễn Văn
Đực, giám đốc Công ty Bất động sản Đất Lành để tìm hiểu thêm ý kiến một
doanh nghiệp trước tình hình này.
Một khu nhà cao cấp mới xây ở Hà Nội RFA photo |
Mặc Lâm: Ông là người từng đưa ý kiến cho rằng bất động sản trên đà
suy thoái và có dấu hiệu đổ vỡ trong thời gian sắp tới. Theo ông những
biểu hiện rõ nhất trong thời gian gần đây là gì ạ?
Ông Nguyễn Văn Đực: Một số biểu hiện là chủ đầu tư bỏ trốn, người dân
biểu tình và đã đi tới manh nha chiếm dự án. Tôi cho rằng đó là dấu hiệu
của bệnh bất động sản đang xấu dần đi. Điều mà tôi lo ngại hơn nữa là
chỉ cần 5-7 hoặc 10 dự án nổ ra như vậy thì nó sẽ gây ra một dây chuyền
rất lớn. Những doanh nghiệp đã chết, xứng đáng chết thì phải chết, nhưng
nó sẽ lây lan ra những doanh nghiệp gần chết mà có thể cứu sống được
nhưng vì dư chấn của những hành động của người dân cộng với chủ đầu tư
bỏ trốn không thực hiện được dự án sẽ đưa đến những doanh nghiệp chưa
đáng chết, chưa đúng lúc chết thì phải chết. Tôi nghĩ rằng nếu nó xảy
ra đồng loạt như vậy thì tình hình xáo trộn về kinh tế, đời sống người
dân và đặc biệt là an ninh rất lớn. Những dự án bỏ hoang bị người dân
hoặc những người nhập cư, những người lao động chiếm giữ làm nơi ở tạo
nên sự nhếch nhác rất lớn về an ninh xã hội.
Mặc Lâm: Thưa ông, đối với chính phủ, ông có nhận xét gì về những nỗ
lực của họ nhằm đối phó với những hình ảnh mà ông vừa mới đưa ra, đặc
biệt là những biện pháp kích cầu hay họ có trợ giúp cho ngành bất động
sản?
Ông Nguyễn Văn Đực: Chính phủ trước tiên là không đánh giá đúng mức sự
đổ vỡ của bất động sản. Bằng chứng là đánh giá hàng tồn kho quá thấp,
đánh giá nợ xấu quá thấp. Do chủ quan khi đánh giá cơn bệnh bất động sản
chưa ngặt nghèo và vì thế mà những liều thuốc không đúng lúc và không
đúng liều.
Mặc Lâm: Riêng chuyện hỗ trợ gói 30 ngàn tỉ đồng thì ông nhận xét ra sao về cách sử dụng của nhà nước?
Ông Nguyễn Văn Đực: Chuyện hỗ trợ 30 ngàn tỉ đồng thì chúng ta thấy rằng
từ đầu năm 2013 đã có nghị quyết 02 của chính phủ nhưng cho tới tháng 7
tháng 8 rồi có cái thông tư của chính phủ để mà bơm vào bất động sản 30
ngàn tỉ nhưng thực tế nhiều doanh nghiệp và người dân chỉ nhận được
vài chục tỉ thôi. Với vài chục tỉ đó không thể nào cứu được sự khó khăn
của bất động sản. Biện pháp thứ hai là nhà ở xã hội mà nhà ở xã hội thì
nhiều doanh nghiệp đã bị khó khăn, nhiều dự án đã chết 3-4 năm rồi nay
bỗng dưng có chính sách “nhà ở xã hội” họ lại nhờ vào chính sách này
không phải vào mục đích xây nhà ở xã hội mà với mục đích tìm một số tiền
trong cái gói kích cầu này.
Mặc Lâm: Riêng về việc nhiều doanh nghiệp chuyển đổi các chung cư
không bán được trở thành trường học hay làm bệnh viện. Đây là những ý
tưởng rất tốt trong tình hình hiện nay nhưng họ có được nhà nước tiếp
xúc hay hỗ trợ một cách có hiệu quả hay không?
Ông Nguyễn Văn Đực: Chuyện doanh nghiệp chuyển đổi công năng như biến
chung cư thành những trường học, bệnh viện....hoặc là chia nhỏ căn hộ
thì thủ tục xét duyệt lại quá rườm rà, quá phức tạp đưa đến hiện nay chỉ
có một hay hai chung cư được chuyển đổi thành diện tích nhỏ thôi. Trong
khi nhu cầu chuyển đổi rất lớn mà chúng ta thì lại làm quá chậm cho nên
rất nhiều doanh nghiệp làm liều tức là người ta làm trước khi có quyết
định. Song song với việc người ta làm trước khi xin thì đấy là chuyện
phạm luật nhưng mà do bức xúc, do sự tồn tại của doanh nghiệp nên buộc
lòng người ta làm sai luật, đi trước luật.
Việc xử lý nợ xấu
Mặc Lâm: Vừa rồi nhà nước có thành lập công ty xử lý nợ xấu, theo ông
nhận xét thì qua gần 6 tuần lễ vừa qua, công ty này có xử lý các món
nợ trong lĩnh vực bất động sản một cách hữu hiệu không?
Ông Nguyễn Văn Đực: Theo tôi biết nợ xấu của bất động sản rất lớn, không
phải một vài trăm ngàn tỉ và có thể còn nhiều hơn nữa. Rồi chuyện sở
hữu đan chéo trong các ngân hàng, trong các công ty sân sau rất lớn và
rối tung lên trong việc này. Một ông ngân hàng A có thể sở hữu ngân hàng
B, ngân hàng C và đồng thời lập thêm một công ty D,E,F… và chính mấy
ông lại cho vay lẫn nhau. Cái này gỡ rất là khó vì số tiền cực kỳ lớn.
Trong khi theo tôi biết là công ty nợ xấu chỉ có khoảng 500 tỉ mà 500 tỉ
thì tôi nói thật không giải quyết được gì, chỉ cần một dự án thôi cũng
đã là 500 tỉ rồi. Vì vậy công ty nợ xấu này cũng không giải quyết được
rốt ráo vấn đề khó khăn của nền kinh tế và đặc biệt là của bất động sản.
Mặc Lâm: Xin được hỏi ông một câu cuối cùng: trước tình hình chung
khó khăn như vậy thì công ty bất động sản Đất Lành của ông hoạt động ra
sao và chiến lược kinh doanh của công ty là gì?
Ông Nguyễn Văn Đực: Do công ty của tôi định hướng trước đây 2-3 năm với
sản phẩm là căn hộ nhỏ, diện tích 40,50 mét vuông và giá bán từ 13 cho
đến 16 triệu /mét vuông. Sản phẩm đó phù hợp với sức mua, nhu cầu của
người dân. Do đó chúng tôi đã bán hơn 90% số căn hộ. Hiện nay.chúng tôi
cũng đã bàn giao hơn 70% số căn hộ. Chúng tôi cũng gặp khó khăn đó là
sự yếu kém về tài chính nhưng do chúng tôi chọn phân khúc hợp lý cho nên
dự án của chúng tôi cũng từng bước hoàn thành. Có thể bảo hôm nay là ở
phút 89 rồi chỉ còn 1 phút thôi là chúng tôi hoàn thành. Và như vậy
trong khó khăn thì chúng tôi cũng có rất nhiều khó khăn nhưng mà có thể
nói là tạm ổn, bàn giao được cho người dân, hoàn thành được dự án là do
chúng tôi đi đúng vào cái phân khúc hợp lý.
Mặc Lâm: Một lần nữa xin cảm ơn ông Nguyễn Văn Đực, giám đốc công ty
bất động sản Đất Lành đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn ngày hôm nay.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-08-08
Thành lập bảy đoàn kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp
TTXVN.- Ngày 6-8, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo T.Ư
về phòng, chống tham nhũng đã ký Quyết định số 17-QÐ/BCÐTW thành lập bảy
đoàn công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư
luận xã hội quan tâm.
Theo Quyết định, Ðoàn công tác số 1 do đồng chí Ngô Văn Dụ, Ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra T.Ư, Phó trưởng
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng làm Trưởng đoàn. Ðoàn
làm việc tại Thanh tra Chính phủ và TP Hồ Chí Minh.
Ðoàn công tác số 2 do đồng chí Trần Ðại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ
trưởng Công an, Ủy viên Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham nhũng làm
Trưởng đoàn. Ðoàn làm việc tại TP Hà Nội và TP Hải Phòng.
Ðoàn công tác số 3 do đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó
Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham nhũng,
Trưởng Ban Nội chính T.Ư làm Trưởng đoàn, làm việc tại Bộ Công an, Viện
Kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao.
Ðoàn công tác số 4 do đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư T.Ư Ðảng, Chánh
án Tòa án Nhân dân tối cao, Ủy viên Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham
nhũng làm Trưởng đoàn. Ðoàn làm việc tại TP Cần Thơ và tỉnh Ðồng Nai.
Ðoàn công tác số 5 do đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên T.Ư Ðảng, Viện
trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Ủy viên Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng,
chống tham nhũng, làm Trưởng đoàn. Ðoàn làm việc tại các tỉnh Hải
Dương, Hưng Yên.
Ðoàn công tác số 6 do đồng chí Huỳnh Phong Tranh, Ủy viên T.Ư Ðảng, Tổng
Thanh tra Chính phủ, Ủy viên Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham nhũng
làm Trưởng đoàn. Ðoàn làm việc tại các tỉnh Ðác Lắc, Bình Thuận.
Ðoàn công tác số 7 do đồng chí Nguyễn Văn Hiện, Ủy viên Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Ủy viên Ban Chỉ đạo
T.Ư về phòng, chống tham nhũng làm Trưởng đoàn. Ðoàn làm việc tại các
tỉnh Cà Mau, An Giang.
Trước đó, ngày 5-8, Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham nhũng đã ban
hành Kế hoạch số 16-KH/BCÐTW về kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ
việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm
trọng, phức tạp. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát để phát hiện hạn
chế, yếu kém trong hoạt động thanh tra vụ việc, phát hiện, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án của các cơ quan chức năng; những khó
khăn, vướng mắc để chỉ đạo giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả phát hiện
và xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, trước mắt tập trung những vụ án
và một số vụ việc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp mà dư
luận xã hội quan tâm; qua đó kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém
trong công tác đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Ðảng và Nhà nước.
Theo Kế hoạch, nội dung kiểm tra, giám sát gồm: kiểm tra, giám sát việc
phát hiện, thanh tra và xử lý sau thanh tra các vụ việc có dấu hiệu tham
nhũng; Kiểm tra, giám sát việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án tham nhũng ở T.Ư, các vụ việc, vụ án tham nhũng do Ban
Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham nhũng theo dõi, đôn đốc, chỉ đạo; Kiểm
tra, giám sát việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án tham nhũng ở địa phương. Về tổ chức thực hiện, Ðảng ủy Công an T.Ư,
Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao,
Thanh tra Chính phủ và các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc T.Ư báo cáo
tình hình, kết quả phát hiện, thanh tra các vụ việc, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử những vụ án tham nhũng hoặc có dấu hiệu tham nhũng;
những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực hoạt động
của ngành, địa phương mình theo nội dung Ðề cương kiểm tra, giám sát,
kèm theo thống kê theo mẫu. Báo cáo tập trung những vụ án tham nhũng
nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm.
Ban Nội chính T.Ư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, triển
khai thực hiện và tổng hợp kết quả kiểm tra, giám sát, báo cáo Thường
trực Ban Chỉ đạo để trình Bộ Chính trị trước ngày 30-11-2013.
Theo kế hoạch, thời gian thực hiện kiểm tra, giám sát từ ngày 15-8 đến ngày 30-9-2013.
Quyền lực khủng của bầu Kiên
Ngày 8.8, nguồn tin Thanh Niên cho biết, Cơ quan CSĐT, Bộ Công an đã ban hành kết luận điều tra vụ án Nguyễn Đức Kiên
và đồng phạm phạm tội kinh doanh trái phép, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
trốn thuế và cố ý làm trái xảy ra tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu (ACB) và một số công ty trên địa bàn TP.Hà Nội, TP.HCM. Cơ quan
cảnh sát đã chuyển hồ sơ vụ án đến Viện KSND tối cao và đề nghị truy tố 8
bị can gồm Nguyễn Đức Kiên và một số cựu lãnh đạo Ngân hàng (NH) ACB về
4 tội danh trên.
Ông Nguyễn Đức Kiên - Ảnh: Ngô Nguyễn |
Trong vụ án này, Nguyễn Đức Kiên (49 tuổi, còn được gọi là bầu Kiên hay Kiên đầu bạc), nguyên Phó chủ tịch Hội đồng sáng lập ACB được coi là người chủ mưu cầm đầu, chỉ đạo mọi hoạt động phạm tội, có sự trợ giúp đắc lực của 7 bị can đồng phạm.
|
Theo kết luận điều tra, từ năm 1993, Nguyễn Đức Kiên là cổ đông góp vốn
lớn của ACB, từ năm 1994 - 2008 là Phó chủ tịch HĐQT NH này. Năm 2008,
do biết pháp luật quy định ở vị trí Phó chủ tịch HĐQT sẽ bị hạn chế
nhiều hoạt động kinh doanh riêng cho cá nhân cũng như vay vốn NH nên
Kiên quyết định rút tên khỏi HĐQT ACB. Tuy nhiên, để tiếp tục duy trì sự
ảnh hưởng, có quyền chỉ đạo điều hành hoạt động kinh doanh tại ACB,
Kiên đã đề nghị HĐQT NH này ra nghị quyết thành lập và phê chuẩn quy chế
làm việc Hội đồng sáng lập ACB do Kiên làm Phó chủ tịch. Trên thực tế,
Hội đồng sáng lập không được pháp luật thừa nhận và không áp dụng trong
hệ thống NH nhưng tại ACB, tổ chức này lại được tham gia dự họp và cho ý
kiến về mọi hoạt động kinh doanh của NH. Đây cũng là một chiêu mà qua
đó bầu Kiên có thể "vừa đá bóng, vừa thổi còi".
Trước và sau thời điểm 2008, bầu Kiên đã thành lập 5 công ty gồm: Công
ty AFG; Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội (ACBI); Công ty cổ phần đầu tư
Á châu (ACI); Công ty TNHH đầu tư tài chính Á châu Hà Nội (ACI-HN) và
Công ty CP đầu tư thương mại B&B (B&B). Trong đó, Nguyễn Đức
Kiên làm Chủ tịch HĐQT của 4 Công ty B&B, AFG, ACBI, ACI và Chủ tịch
Hội đồng thành viên ACI-HN.
Mặc dù các công ty do bầu Kiên thành lập không được nhà nước cấp phép
kinh doanh tài chính, nhưng từ tháng 3.2008 đến tháng 11.2010, bầu Kiên
đã chỉ đạo 5 công ty trên sử dụng hơn 9.700 tỉ đồng từ vốn điều lệ, tiền
huy động và tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu bán cho nhiều
NH. Tiền thu được không sử dụng đúng với chức năng đã được đăng ký và
cấp phép của các công ty mà sử dụng để mua cổ phiếu của các NH thương
mại là trái với quy định pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Tiếp đó, đối với một doanh nghiệp khác cũng do bầu Kiên thành lập và
làm Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc là Công ty phát triển sản xuất và
xuất nhập khẩu Thiên Nam. Mặc dù không có chức năng kinh doanh vàng,
nhưng từ tháng 11.2009 đến tháng 7.2010, bầu Kiên đại diện cho công ty
này trực tiếp đặt 49 lệnh giao dịch mua bán vàng trong và ngoài nước
thông qua tài khoản ACB. Việc kinh doanh vàng này gây lỗ trên 433 tỉ
đồng.
Đối với hành vi lừa đảo, từ tháng 5.2010, trong vai trò là Chủ tịch HĐQT
Công ty ACBI, bầu Kiên chỉ đạo Trần Ngọc Thanh, Giám đốc Công ty ACBI
ký hợp đồng thế chấp 22,497 triệu cổ phần Công ty cổ phần Thép Hòa Phát
vào ACB để đảm bảo cho việc Công ty ACBI phát hành trái phiếu trị giá
800 tỉ đồng tại ACB. Mặc dù số cổ phần này bị ràng buộc bởi các điều
kiện về thế chấp, nghĩa vụ bảo đảm và chưa được phép của ACB nhưng bầu
Kiên đã chỉ đạo cấp dưới lập khống giấy tờ, lừa bán cho Tập đoàn Hòa
Phát lấy số tiền 264 tỉ đồng.
|
Ngoài ra, bầu Kiên bị cáo buộc có hành vi trốn thuế với số tiền 25 tỉ
đồng trong việc kinh doanh vàng giữa Công ty B&B do ông ta làm Chủ
tịch HĐQT với ACB.
Dùng tiền NH mua cổ phiếu NH
Là cổ đông ACB từ năm 1993 đến tháng 6.2013, bầu Kiên và người thân sở
hữu hơn 9% cổ phần NH này, trong đó bản thân ông ta sở hữu 3,37%. Từ
2003 đến tháng 8.2012, bầu Kiên là Chủ tịch Hội đồng đầu tư ACB có chức
năng giúp HĐQT NH này thực hiện thẩm định các dự án đầu tư trình cấp có
thẩm quyền quyết định. Trong thời gian này, bầu Kiên đã có hàng loạt
hành vi cố ý làm trái.
Theo đó, bầu Kiên biết rõ quy định của NH Nhà nước về trần lãi suất và
các quy định kinh doanh chứng khoán. Nhưng vì muốn bảo vệ lợi ích của
nhóm cổ đông ACB, bầu Kiên đã đề xuất, chỉ đạo Thường trực HĐQT ACB ra
chủ trương ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào các tổ chức tín dụng. Bầu
Kiên chỉ đạo ACB cấp cho Công ty chứng khoán ACB (ACBS) 1.500 tỉ đồng
cùng vốn tự có; Công ty ACBS đã chuyển cho các Công ty ACI, ACI-HN tổng
số tiền hơn 1.557 tỉ đồng để đứng tên mua hộ hơn 52,5 triệu cổ phiếu ACB
trái quy định. Qua đó, thu lợi bất chính cho nhóm cổ đông ACB hơn 256
tỉ đồng và trực tiếp gây thiệt hại cho ACB hơn 1.407 tỉ đồng.
Ngoài ra, Cơ quan CSĐT xác định bầu Kiên có vai trò lớn trong việc chỉ
đạo ủy thác cho 19 nhân viên ACB gửi tiền vào VietinBank đã bị Huỳnh Thị
Huyền Như, nguyên Phó phòng Quản lý rủi ro VietinBank chi nhánh TP.HCM
chiếm đoạt, gây thiệt hại cho ACB gần 719 tỉ đồng.
Theo cơ quan CSĐT, việc bầu Kiên chỉ đạo dùng tiền huy động từ dân không
sử dụng vào mục đích cho vay để phát triển sản xuất kinh doanh, giải
quyết an sinh xã hội, kinh doanh không nằm trong lĩnh vực được cấp phép
mà ủy thác cho các tổ chức cá nhân gửi vào các NH làm sai lệch số lượng
tiền gửi, cũng như tài sản thực có của NH, gây rối loạn thị trường tiền
tệ.
|
Thao túng NH
Trong quá trình điều tra vụ án này, Cơ quan CSĐT xác định, trong việc thực hiện các chủ trương hoạt động của ACB,
mỗi ý kiến của bầu Kiên nêu ra sau đó trở thành nghị quyết của thường
trực HĐQT NH này. Trong việc thực hiện một số chủ trương trái quy định,
đã từng có thành viên là lãnh đạo ACB đứng ra can gián và đề nghị phương
án khác, nhưng bầu Kiên không nghe và cuối cùng phải theo ý của ông
ta.
Tại kết luận điều tra, Cơ quan điều tra cho biết, để tạo áp lực đối với
các thành viên thường trực HĐQT ACB, trong các cuộc họp, bầu Kiên thường
nói: “Hiện tôi không còn tham gia gì trong hội đồng quản trị, tôi nói
nhăng nói cuội gì các anh nghe hay không thì tùy nhưng tôi có quyền cách
chức các anh”. Trong thời gian dài, phát biểu của ông Kiên được coi là
quyền lực mà mọi người trong ACB đều ngầm hiểu không thực hiện theo ý
ông ta thì chỉ có nước “ra đường”.
Theo đánh giá của cơ quan tố tụng, vụ án Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm
gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng với thủ đoạn tinh vi, có liên quan đến
nhiều đối tượng giữ vị trí quan trọng của NH. Nguyễn Đức Kiên đã có
những hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách tiền tệ của Nhà
nước. Trong đó, Kiên lập nhiều công ty nhưng hoạt động không đúng chức
năng mà chủ yếu làm thủ tục để phát hành trái phiếu rồi ép bán cho NH
lấy tiền đầu tư vào các NH khác để tăng cổ phiếu cổ phần của cá nhân và
người thân nhằm mục đích thâu tóm chỉ đạo nhiều NH thương mại cổ phần.
Một số hành vi thao túng NH, sở hữu chéo cổ phiếu do pháp luật chưa quy
định nên cơ quan CSĐT chỉ đề nghị xử lý 4 tội danh nêu trên.
Trong quá trình điều tra vụ án Nguyễn Đức Kiên, Cơ quan CSĐT còn phát
hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật có liên quan, trong đó có 26 NH
nhận tiền gửi với lãi suất vượt trần từ nhân viên của ACB và 4 công ty
do ACB ủy thác; hành vi tổ chức kinh doanh vàng trạng thái với nước
ngoài và kinh doanh vàng vật chất qua tài khoản của ACB. Tuy nhiên, do
thời hạn điều tra đã hết nên tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau. |
Thái Sơn - Hoàng Trang
(Thanh niên)
Khởi tố vụ bệnh viện trả kết quả xét nghiệm giả
Hàng nghìn người đến khám tại Bệnh viện Đa khoa huyện Hoài Đức được cho
là bị ảnh hưởng kết quả chẩn đoán bệnh vì nơi đây in kết quả xét nghiệm
máu của bệnh nhân trước để trả cho bệnh nhân sau.
Ngày 7/8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Hà Nội đã khởi tố vụ án Lợi
dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ, để làm rõ việc trả
hàng nghìn kết quả xét nghiệm được cho là giả cho bệnh nhân, xảy ra tại
Bệnh viện Đa khoa huyện Hoài Đức.
Chiều cùng ngày, hai người bị nghi ngờ có liên quan sự việc đã bị tạm đình chỉ chức vụ.
| ||
Sở Y tế Hà Nội cho biết, ngày 20/5, nhận được đơn tố cáo về việc trả kết
quả xét nghiệm khống tại Bệnh viện đa khoa Hoài Đức từ một cán bộ công
tác tại Khoa xét nghiệm. Cụ thể, tại khoa Huyết học, từ tháng 7/2012 đến
tháng 5/2013 một bệnh nhân đến làm xét nghiệm cho kết quả, sau đó kết
quả này được in ra thật nhiều mẫu. Bệnh nhân khám sau, nhân viên y tế
không cần đưa mẫu máu vào làm xét nghiệm mà dùng kết quả in sẵn của
người trước để đưa. Trung bình một kết quả sử dụng cho 2-5 người, dù
khác xa nhau về bệnh án, lứa tuổi.
Người tố cáo cho hay mục đích của việc trả khống kết quả xét nghiệm mẫu
máu bệnh nhân là móc túi, bòn rút tiền bảo hiểm, làm hài lòng giả tạo
người bệnh. Có khoảng 1.000 phiếu xét nghiệm được “nhân bản” trong thời
gian trên.
Chánh thanh tra Sở Y tế Hà Nội nhận định, việc "nhân bản" kết quả xét
nghiệm tại Bệnh viện đa khoa Hoài Đức là lần đầu tiên xảy ra trong ngành
y thành phố. Đây là việc làm sai quy chế chuyên môn, vi phạm 12 điều y
đức.
VTV đưa tin, ông Nguyễn Khắc Hiền, Giám đốc Sở Y tế Hà Nội, đánh giá đây
là "vụ việc nghiêm trọng", ảnh hưởng đến công tác khám chữa bệnh và y
đức của ngành y tế. Ngành y tế thống nhất để cơ quan công an vào cuộc
điều tra nội dung tố cáo cho khách quan.
Sau gần 2 tháng kể từ ngày thu thập tài liệu, Công an Hà Nội đã có căn
cứ để khởi tố vụ án lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công
vụ; tiếp tục điều tra xử lý cán bộ có sai phạm.
Bộ Y tế trong chiều 7/8 cũng yêu cầu Sở báo cáo vụ việc trước ngày 15/8.
Xuân Hoa
(VnExpress)
Dương Đình Giao - Nên tổ chức kỳ thi Đại học như thế nào?
Kỳ thì đại học, kỳ thi được coi là nghiêm túc nhất trong các kỳ thi ở
nước ta vừa khép lại. Sángnay, Bộ Giáo dục đã công bố điểm sàn. Kỳ thi
đã qua, nhưng những bàn cãi về nó thì chưa dứt. Xin góp vài lời bàn
thêm.
Chưa thể bỏ kỳ thinày được. Có ý kiến cho rằng cứ cho vào đại học rồi
kiểm định chặt chẽ ở đầu ranhư nhiều nước trên thế giới. Nhưng ở nước ta
chưa thể làm thế vì: Cơ sở vật chấtcác trường đại học của ta chưa đủ
đáp ứng số lượng sinh viên đông như vậy. Vàhai là, sau ba, bốn năm học
trong trường, quan hệ giữa sinh viên và những ngườicó thẩm quyền cho tốt
nghiệp đã “thân mật” lắm, không thể đảm bảo vô tư kháchquan. Hiện tượng
này đang xảy ra, ai cũng biết. Trong kỳ thi này, dù sao, giữanhững bên
có quan hệ cũng còn “lạ nước lạ cái”, tiêu cực chỉ có thể xảy ra
vớinhững người có mối quan hệ thân quen từ trước. Số này không nhiều
trong hàngtriệu người dự thi.
1. Trướchết, cần khẳng định trong cách tổ chức thi đại học hiện nay có
hai điều cần thiết,chưa nên có sự thay đổi gì, nếu chưa có cách hay hơn.
Một là thi chung đề,chỉ có một nơi là Bộ Giáo dục độc quyền ra đề. Cứ
nghĩ lại cái thời mỗi trườngtự ra đề cho trường mình mà khiếp. Lò luyện
mở ra khắp nơi. Các vị có quyền rađề (cả thật và giả danh) đều đắt hàng
như tôm tươi. Chẳng cần những người cóquyền ấy, chỉ cần một thầy có mối
quan hệ gì đó với những người ra đề (theo đồnđoán) cũng đã đắt khách
rồi. Vào được các lớp do các thầy này dạy, học phí caongất ngưởng, mà
phải học từ vài ba nămtrước, mà lại khó khăn, không phải ai cũng có thể
tiếp cận. Nó là cái “niềm hyvọng” cho những học sinh kém muốn cầumay.
Từ khi có quy định đề thi chung, nạn này sạch hẳn. Đề thi đảm bảo giữ bí
mật,khó có thể “bật mí”. Vẫn có các lò luyện, nhưng lò luyện trở về với
gần đúngcái nghĩa của nó, không còn là nơi “bí mật được tiết lộ”. Số
học sinh kém cố sống có chết thi đại học nhờ may rủi cũnggiảm hẳn. Thỉnh
thoảng bây giờ, một số trường cứ kêu gào đòi “quyền tự chủ” để giành
lại quyền ra đề thi. Tôi xin phépđược nghi ngờ cái quyền tự chủ này lắm.
Hình minh họa |
Hai là thí sinh phảitập trung về thi ở một nơi (nơi trường có trụ sở).
Điều này có gây phiền phứccho thí sinh, tốn kém tiền đi lại, ăn ở, người
đi theo, …Nhưng biết làm sao được? Thôi đành “ăn chơi thì phải tốn kém”
vậy!Việc làm này cũng góp phần đảm bảo cho việc thi cử tương đối nghiêm
túc. Cái thờithi ở các địa phương, nếu ai đã được chứng kiến thì phải
nói là …kinh hoàng. Mỗitỉnh có một Ban tuyển sinh chịu trách nhiệm tập
hợp hồ sơ thí sinh và tổ chứcthi. Ban này trực thuộc ủy ban tỉnh nên
quyền của nó to lắm. Các trường đại họcđưa người về coi thi phải tuân
thủ sự sắp xếp của Ban này. Mỗi lần thi cử, cái Ban này được dịpchứng
minh cho mọi người biết thế nào là “phép vua thua lệ làng”. Ôi chao!
Giám thi từ Hà Nội về được “cơm bưng nước rót”tất nhiên không phải là
miễn phí. Cái phí phải trả là thái độ làm ngơ. Trườngthi mà vòng trong
vòng ngoài, bên trong thì các giám thị (kể cả không phải là giám thị)
như con thoiqua lại. Và những giám thị làm đúng chức trách luôn luôn
chịu sức ép, thậm chícòn sợ bị hành hung vì không chịu để cho người ta
gian lận theo yêu cầu. Hết mỗiđợt thi, nhiều tốp giám thị còn phải có
người hộ tống ra xe để trở về. Tôikhông dám đảm bảo tập trung thi một
nơi như hiện nay đã đảm bảo nghiêm túc100%, nhưng chắc chắn là nghiêm
túc hơn thi ở các địa phương.
2. Để cho kỳ thi cần thiết này bớt đi phần nặng nề, đỡ tốn kém tiền của
và công sức cho cảthí sinh lẫn người tổ chức, đồng thời có thể đảm bảo
chặt chẽ và nghiêm túc hơncần giảm bớt số lượng thí sinh dự thi. Như năm
nay, theo thống kê, có khoảnghơn 2 triệu thí sinh nộp hồ sơ, trong đó
có 1,3 triệu thí sinh dự thi để chọn lấy605 nghìn người. Có số dư hơn 7
trăm nghìn là do một số thí sinh nộp nhiều hồsơ. Vấn đề là phải xử lý số
1,3 triệu thí sinh dự thi.
Công bằng mà nói,chỉ cần có sức học trung bình một cách vững vàng là có
thể trúng tuyển vào đạihọc (điểm cao hay thấp còn tùy thuộc vào trường).
Như năm nay, điểm sàn vào đạihọc có 13 điểm. Nhưng cách cho điểm của
các nhà trường phổ thông hiện nay quá“hào phóng” (cùng với sự lạm phát
các danh hiệu), khiến cho điểm không còn làcăn cứ để đánh giá học lực
nữa. Trong hoàn cảnh hiện nay, lớp nào cũng có nhữnghọc sinh “ngồi nhầm
lớp”, đến lớp 12 thì số “ngồi nhầm lớp” này đã tích tụ sau12 năm, trở
thành con số không hề nhỏ. Số lượng bài làm chỉ được 0 hoặc 1, 2
điểmtrong kỳ thi đại học hàng năm đã chứng tỏ điều ấy. Theo thống kê mới
nhất nămnay, trường đại học Quảng Nam 900 thí sinh thi môn Sử chỉ có 9
người đạt điểm 5 trở lên, trường đại học Văn hóathành phố HCM môn Sử
chỉ có 3,6% thí sinh có điểm trung bình trở lên. Các mônkhác chắc cũng
trong tình trạng tương tự. Những thí sinh này đi thi chỉ làm khổcha mẹ
vì phải chi phí khá tốn kém mà chẳnghề có chút hy vọng nào vì họ không
đủnăng lực dự kỳ thi này. Cho nên, muốn dự thi đại học phải có học lực
từ khá trở lên. Quy định này cóhai cái lợi. Một là trong quá trình học
tập của 3 năm trung học phổ thông, họcsinh phải liên tục cố gắng để đạt
trình độ khá. Và hai là tác dụng phân luồng.Những học sinh đủ điều kiện
thì thi vào đại học. Những học sinh có kết quả họctập thấp hơn sẽ thi
vào các trường dạy nghề. Số lượng thí sinh dự thi chắc chắnsẽ giảm.
Biện pháp thứ hailà đồng thời với việc nộp hồ sơ dự thi, phải nộp lệ phí
thi, thí sinh còn phải nộp số tiền tương đương với số tiền họcphí trong
một hoặc hai năm học. Khi trúng tuyển, thí sinh đã có tiền họcphí, gánh
nặng với thí sinh sẽ giảm bớt nhất là với con nhà nghèo. Số tiền đã
nộpcủa các thí sinh không trúng tuyển sẽ được sử dụng để tài trợ cho
những họcsinh nghèo học giỏi trong một quỹ do nhàtrường quản lý. Việc
phải nộp tiền này sẽ hạn chế được những thí sinh thi chỉ đểcho biết, để
thử sức, hay vì nhiều lý do khác. Nhất là những thí sinh loại nàythường
gây “nhiễu” cho các kỳ thi. Sự có mặt của họ làm cho việc tổ chức kỳ
thithêm khó khăn (về cơ sở vật chất và trật tự trong phòng thi). Lâu
nay, người tacứ lấy cớ “tạo mọi cơ hội” cho thí sinh Cái cớ này đã khiến
cho rất nhiều thísinh không đủ năng lực vẫn nộp hồ sơ dự thi, gây do
gia đình, nhà trường, xã hộinhững khó khăn không đáng có. Nên nhớ, thi
cử là một cuộc đua dựa vào năng lựchọc tập, trong đó cũng chỉ có chút
ít may rủi chứ không thể hoàn toàn trông chờvào vận mayi theo cách tính
toán của những người thích trò “lô đề”.
Dương Đình Giao
(FB. Duong Dinh Giao)
Những điều chưa biết về Dự án 6,7 tỷ USD của Tân Tạo
Xung quanh dự án 6,7 tỷ USD do Công ty cổ phần năng lượng Tân Tạo (TEC)
thuộc Tập đoàn Tân Tạo làm chủ đầu tư vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi.
Gần đây trên phương tiện truyền thông xuất hiện thông tin Kiên Giang đề
xuất, kiến nghị “thu hồi dự án nhiệt điện Kiên Lương” của Tập đoàn Tân
Tạo với lý do chủ đầu tư chưa thu xếp được nguồn vốn và không hoàn thành
theo đúng kế hoạch. Còn phía doanh nghiệp lại cho rằng, đây không hoàn
toàn là lỗi từ chủ đầu tư.
Kiên Giang đã có ý kiến chỉ đạo các sở, ngành, địa phương rà soát lại
toàn bộ hồ sơ dự án trung tâm nhiệt điện Kiên Lương tại thị trấn Ba Hòn,
xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang để làm thủ tục trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét thu hồi dự án này.
Tháng 2/2013 Phó chủ tịch Kiên Giang đã chỉ đạo nếu sau 30/6, Tập đoàn
Tân Tạo không tiếp tục triển khai dự án này thì tỉnh sẽ trình Thủ tướng
xem xét thu hồi chủ trương đầu tư.
Tuy nhiên, theo quan điểm từ phía TEC, việc chậm trễ triển khai dự án
hoàn toàn không thuộc phạm vi của doanh nghiệp, chủ đầu tư đã hoàn thành
cao nhất trách nhiệm của mình đối với dự án. Nếu Chính phủ tìm được nhà
đầu tư nào làm tốt hơn, chủ đầu tư sẵn sàng chuyển giao lại dự án, và
chủ đầu tư mới trả lại kinh phí đầu tư mà Tân Tạo đã bỏ ra (nội dung
công văn 423/CV-TTG.2013 ngày 23/4/2013 của ITACO gửi các Bộ, Ngành).
Theo Công văn số 317/CV-TEC.2013 ngày 31/7/2013 của TEC, việc khởi công
nhà máy điện hoàn toàn phụ thuộc vào đàm phán hợp đồng bảo lãnh Quốc tế
GGU và Hợp đồng mua bán điện PPA, và ITACO vẫn đang xúc tiến làm việc
với các Bộ ngành về vấn đề này.
Bên cạnh đó, ITACO cho rằng, vì thực hiện dự án theo hình thức BOO -
(Xây dựng - sở hữu - vận hành) - chưa có tiền lệ - nên xin hợp đồng GGU
rất khó khăn.
“Theo như Bộ Công thương để có được hợp đồng bảo lãnh Quốc tế GGU thì
chủ đầu tư phải tìm được đối tác để chuyển sang hình thức BOT. Một mặt
chúng tôi vẫn tích cực làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài do các Bộ
giới thiệu để chuyển hướng đầu tư sang hình thức BOT đã có tiền lệ, cho
dù việc chuyển sang BOT sẽ gây thiệt hại nặng cho chủ đầu tư và hoàn
toàn không phải nguyện vọng của chủ đầu tư.” Ông Nguyễn Tuấn Minh, TGĐ
của TEC nói.
Theo tỉnh Kiên Giang, tính đến thời điểm này có ít nhất bốn nhà đầu tư
từ Singapore, Hồng Kông, Anh, Pháp chính thức có văn bản mong muốn được
đầu tư vào dự án trên. Trong đó, mới nhất là Tập đoàn điện lực Pháp vừa
sang thăm, làm việc với UBND tỉnh Kiên Giang sáng 26-7-2013.
Được biết, Dự án Trung tâm nhiệt điện Kiên Lương có công suất cả ba giai
đoạn là 4.400 - 5.200 MW. Trong đó giai đoạn một công suất 1.200 MW dự
kiến hoàn thành cuối năm 2013, tổng vốn đầu tư của dự án vào khoảng 6,7
tỷ USD. Tháng 8/2008, Chính phủ phê duyệt đồng ý cho Tập đoàn Tân Tạo
làm chủ đầu tư dự án này.
Theo thông tin ITACO cung cấp, về cơ bản, mặt bằng nhà máy Nhiệt điện
Kiên Lương giai đoạn I đã hoàn thành từ năm 2011, sẵn sàng bàn giao cho
nhà thầu EPC thi công nhà máy. Ngay cả công trình phụ trợ như: khu văn
phòng, khu nhà ở chuyên gia, sân đậu trực thăng... đều đã hoàn thành từ
năm 2010.
Chủ đầu tư trồng cây xanh mặc dù nhà máy chưa xây (ảnh chủ đầu tư cung cấp) |
Cụ thể, Tập đoàn Tân Tạo đã đầu tư trên 240 triệu USD vào dự án, vét
hàng chục triệu m3 bùn, san lấp trên 88 ha của dự án, đóng 6,5 trên tổng
số 8km cừ vây tạo đê bao tuyến biển, đồng thời tiến hành chi trả bồi
thường cho các hộ dân phải di dời thuộc khu vực dự án.
Chủ đầu tư đã làm nhà ở cho chuyên gia, văn phòng làm việc đưa vào sử dụng 2011 (ảnh do chủ đầu tư cung cấp) |
Phía Tân Tạo cũng đã làm việc với các nhà tài trợ để hoàn tất thủ tục
thu xếp vốn cho dự án tuy nhiên chỉ vì cơ chế BOO chưa có tiền lệ dù Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, và Bộ Công thương đã có văn bản kiến
nghị Chính phủ cho thực hiện thí điểm và đã có tiền lệ từ các dự án nhà
máy nước. Chính phủ hiện vẫn chưa quyết định, vì vậy dự án chưa thể khởi
công.
Như vậy, đến nay số phận của dự án này vẫn đang chờ quyết định của cơ
quan quản lý cao nhất. Chúng tôi sẽ tiếp tục đưa tin khi có thông tin
mới nhất về dự án.
Nhật Nam
(ttvn.vn)
Trần Đình Sử - Nghề văn không sang trọng
Tác giả Trần Đình Sử |
Cách đây không lâu có người cao hứng tung ra một ý kiến ngộ nhận: “Nghề
văn là nghề sang trọng.” Bao nhiêu người nói theo. Thế rồi ảo tưởng,
hiếu danh, thế rồi số người viết văn, làm thơ tăng vọt, thế rồi số hội
viên hội nhà văn ngày một tăng. Người sắp hàng chờ vào hội cũng rất
đông.
Tôi không có ý phản đối ai làm nghề văn, tôi cũng không nghĩ rằng mọi
người vào hội đều háo danh. Tôi chỉ muốn nói nghề văn không phải là nghề
sang trọng, nhất là vào thời hiện đại.
Ngộ nhận đó có thể bắt đầu từ một thời văn chương là thú vui nhàn hạ của
tầng lớp quan lại, áo mũ xênh xang, là nghề làm đẹp các sinh hoạt của
giai tầng quý tộc, được tài trợ hậu hĩnh, là nghề may ra có thể có tác
phẩm để đời (để khoe khoang cùng người sang trong họ, ngoài làng, thỏa
mãn tâm lí hiếu danh). Người ấy có thể không biết, từ ngày xưa, văn
chương của kẻ đã ở vào lầu son gác tía thường không hay bằng văn chương
của kẻ ở lều tranh, đồng vắng.
Bước vào thời xã hội tư sản, kinh tế thị trường phát triển, Walter
Benjamin trong sách Nhà thơ trữ tình trong thời đại tư bản phát triển
(1973), chuyên nghiên cứu thơ Baudelaire, phát hiện ra bài thơ Rượu của
những người nhặt rác (nhà thơ Vũ Đình Liên dịch là “người nhặt giẻ”) có
những câu sau:
Một ông lão nhặt rác bước qua, ngật ngưỡng cái đầu,
Chân vấp hè, trán húc tường như một chàng thi sĩ,
Chẳng thèm nhìn cả bầy cớm như đầy tớ theo sau,
Dốc cả tâm hồn vào những mưu đồ hùng vĩ.
Thét to những lời thề, ban bố những luật thiêng,
Quật ngã kẻ bạo tàn, nâng dậy gười oan ức,
Dưới cái tán mênh mông của bầu trời đêm,
Lặng lẽ say sưa của mình những hào quang đạo đức.
Phải những con người hàng ngày cuộc sống giày vò,
Sớm tối mệt nhừ, trĩu vai tuổi tác,
Đầu ngập, lưng còng dưới cái đống rác khổng lồ,
Mà Paris mênh mông, ngày đêm khạc mửa.[1]
Khác với các nhà văn lãng mạn ở Việt Nam, mỗi khi nói đến Baudelaire thì
chỉ nhớ đến nguyên tắc tương giao giác quan, Benjamen[2] đã qua nhà
thơ Pháp mà vẽ ra thân phận nhà văn trong xã hội tư sản. Ông ví nhà văn
nhà thơ như người nhặt rác, bất cứ cái gì mà xã hội tư sản thải ra, vửt
bỏ, khinh bỉ, xéo nát dưới chân họ đều nhặt nhạnh, thu gom. Họ như người
làm nghề đồng nát, từ trong rác thải nhặt nhạnh lưu giữ những gì còn có
giá trị và tái chế. Nhà thơ còn tìm ra các căn bệnh xã hội, tìm cách
cứu chữa. Xã hội công nghiệp, thị trường đã làm đổi thay bậc thang giá
trị, biết bao cái có giá trị đã bị vứt ra đường như là rác rưởi. Họ
giống đám du thủ du thực, đi lang thang qua đầu đường xó chợ như người
Bohemiên, bao gồm cả đĩ điếm, sống như những người vô gia cư, vô sản,
nhưng trong cuộc lang thang họ biết tự ý thức và phát hiện ra cái mà xã
hội bỏ qua. Họ đồng tình với những ai làm lung lay nền tảng của xã hội
tư sản. Ví von của Benjamin còn cho thấy, Họ ít nhiều đều sống cuộc đời
bữa no bữa đói, đứng ở địa vị thấp kém mà phản kháng xã hội. Đã làm nghề
nhặt rác thì chẳng có gì sang trọng, nhưng không thiếu sự dũng cảm và
kiêu hãnh cũng như thách thức. Là người nhặt rác, Baudelaire đã sáng tạo
ra Hoa ác, các nhà văn hiện đại tạo ra văn học phi lí, những thứ mới
đầu nhiều người cứ tưởng là rác.
Ở Việt Nam, khi chuyển vào kinh tế thị trường đầu thế kỉ XX, cậu ấm Hiếu
tài hoa, một “anh hồn” làm chủ soái văn đàn, sinh thời suốt ngày chỉ lo
văn ế. Xuân Diệu thấy cơm áo không đùa với khách thơ. Các nhà văn chỉ
là kiếp viết mướn nghèo nàn, tội nghiệp. Vũ Trọng Phụng đã nhặt được bao
nhiêu rác qua Số đỏ, Vỡ đê, Giông tố và các phóng sự bất hủ của ông.
Nhưng họ chính là những người đầu tiên dựng xây nền văn học hiện đại
đích thực của một dân tộc bằng chữ quốc ngữ, cái văn học phần lớn đã
từng bị vứt vào sọt rác mấy chục năm trời.
Bước vào thời đại cách mạng, nhà văn trở thành chiến sĩ, tay cầm kiếm,
cầm dao, thơ văn là tạc đạn, bom mìn, lấy cán bút làm đòn xoay chế độ,
tự nguyện làm lỗ tai, con mắt của giai cấp, làm người lính gác ngăn chặn
diễn biến hòa bình. Như thế thì thân phận công cụ cũng chẳng lấy gì làm
sang trọng. Tuy đã làm chiến sĩ, nhưng thân phận trí thức, nghệ sĩ lại
luôn luôn ở vào địa vị bị cảnh giác như những kẻ có thể gây rắc rối cho
trật tự xã hội và tư tưởng thì từ trong bản chất lại càng chẳng có gì
sang trọng cả. Những năm chiến tranh, nhà thơ Xuân Diệu đã hàng trăm lần
đi nói chuyện thơ cho các tầng lớp cán bộ công nhân viên nghe. Đi đâu
ông cũng yêu cầu bố trí phông màn cho sáng đẹp và dặn dò quan tâm bữa ăn
cho có đủ calo. Nhà văn Hoàng Ngọc Hiến khi còn dạy học ở Đại học sư
phạm Vinh, có lần cùng chúng tôi đến thăm nhà một học trò, được gia chủ
làm gà tiếp đãi. Khi mâm được dọn ra, ông dơ hai tay làm điệu bộ ôm trọn
cả mâm và nói đùa: Các cậu có dám thách đố một mình tớ ăn hết cả mâm
này không? Mọi người đều cười vui, không ai chấp nhận thách đố cả. Tất
nhiên nhà văn cách mạng không làm cái việc nhặt rác. Họ bị cấm nhặt rác,
như trường hợp Nguyễn Công Hoan trong Đống rác cũ và nhiều người khác.
Họ có trọng trách nhặt các tấm gương, những nhân tố tiên tiến trong xã
hội để làm ra những hình tượng sáng ngời, có tác dụng giáo dục nhân dân
quần chúng tiến lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù thân phận họ vẫn thấp kém.
Xin được nói thêm, văn chương ở đất nước trải qua nhiều cuộc chiến
tranh giữ nước, ngoài những tấm gương người tử tế, không thể quên số
phận của những con người giữ nước .
Nhà văn hôm nay, khi xã hội đã chuyển sang kinh tế thị trường, phấn đấu
để được các nước phương Tây công nhận cho Việt Nam là kinh tế thị
trường, hệ giá trị đã hoàn toàn thay đổi, thì nhiệm vụ văn chương cũng
có thay đổi. Rác rưởi tràn ngập khắp nơi, từ trung ương đến địa phương,
từ nông thôn đến thành thị, từ kinh tế đến văn hóa, từ trường học đến
chùa chiền, từ trong nước ra ngoài nước, đâu có người Việt Nam thì ở đấy
có rác. Thời cơ mới của nhà văn Việt Nam đã đến. Nhà văn vẫn là người
nhặt rác. Walter Bejamin đâu có ngờ cái ví von của ông đã khắc họa rõ
nét chính xác chân dung nhà văn của thời đại mới. Ông đâu có ngờ ở cái
đất nước xa xôi mà có thể sinh thời ông không hề biết, kiếp nhà văn ở
đâu cũng thế thôi. Họ nhặt rác để kiếm ăn, dể bảo lưu giá trị văn hóa,
dựng xây xã hội, phản kháng bất công từ một địa vị thấp.
Nghề văn có gì sang trọng đâu. Nếu có được tâm hồn trong sáng, có tài
năng thật sự, sáng tác được ít nhiều tác phẩm có giá trị, không cơ hội,
vụ lợi, họ có thể được coi là nhà văn cao quý. Văn chương rất cần sự cao
quý nhưng không cần sang trọng.
Hà Nội, 3 – 8 – 2013
Trần Đình Sử
--------------------
[1] Thơ Baudelaire, Vũ Đình Liên dịch, nxb. Văn học, Hà nội, 1995, tr. 157.
[2] Walter Benjamin ( 1892 – 1940), nhà nghiên cứu, phê bình văn học
Đức, gốc Do Thái, sinh ở Berlin trong một gia đình giàu có, từng tham
gia phong trào văn học cấp tiến, tham gia nhóm xã hội học Frankfurt. Sau
khi viết luận văn Cội nguồn bi kịch Đức, không được trường phái này
chấp nhận, ông chuyển sang Pháp, sống ở Paris. Năm 1940, Đức quốc xã
chiếm Pháp, ông bỏ trốn mà không thoát, đã tự sát. Toàn bộ tác phẩm của
ông đều được in sau khi chết.
(Blog Trần Đình Sử)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét