“KINH CHƯA: MỤC 4 “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” CHIẾM TỚI 1069 CHỮ TRONG TỔNG SỐ 4812 CHỮ CỦA VĂN BẢN Phát biểu bế mạc hội nghị TW thứ 7 của BÁC TRỌNG !!!
TRONG KHI:
– MỤC 1 “Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị” CÓ 864 CHỮ
– MỤC 2 VỀ XÂY DƯNG ĐẢNG CÓ 769 CHỮ
– MỤC 3 VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 GỒM 485 CHỮ
– MỤC 5 “nhận định, đánh giá và đề xuất nêu trong Báo cáo sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI” GỒM 905 CHỮ
– PHẦN CUỐI GỒM 553 CHỮ (PHẦN ĐẦU 167 CHỮ)”(Hết trích dẫn)
Tễu kết luận: Ông Nguyễn Phú Trọng đã mất hết uy tín trong đảng của ông và trong dân. Ông nên xin nghỉ để khỏi ảnh hưởng thêm nữa đến uy tín đã đáo đáy của Đảng cộng sản Việt Nam.
Phát biểu bế mạc hội nghị TW thứ 7 của Tổng Bí thư
Sáng 11/5, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã
hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra, sau 10 ngày làm việc khẩn
trương, dân chủ, nghiêm túc.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu bế mạc, khái quát lại những
kết quả chủ yếu mà Hội nghị đạt được. TTXVN trân trọng giới thiệu toàn
văn phát biểu:
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN) |
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau 10 ngày làm việc khẩn trương, dân chủ, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã hoàn thành toàn bộ chương trình
đề ra. Các đồng chí Ủy viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị
đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, phát huy trí tuệ, thẳng thắn thảo
luận, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc vào các đề án, báo cáo. Bộ Chính
trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác
nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất cao thông qua nội dung các
nghị quyết, kết luận của Hội nghị. Để kết thúc Hội nghị, thay mặt Bộ
Chính trị, tôi xin phát biểu làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại
những kết quả chủ yếu mà Hội nghị đã đạt được.
1- Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị: Qua trao đổi,
thảo luận, Trung ương nhấn mạnh, củng cố, kiện toàn, từng bước hoàn
thiện hệ thống chính trị là công việc rất lớn, hệ trọng và phức tạp,
phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Vừa qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng
và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào thành tựu chung của
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, so với yêu
cầu phát triển, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Tổ chức bộ máy vẫn
cồng kềnh, chồng chéo; biên chế vẫn phình to, nặng nề; chất lượng cán
bộ, công chức chậm được nâng cao; hoạt động của toàn hệ thống có những
khâu chưa thông suốt, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn một số vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng,
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân có những điểm còn chưa đủ sáng tỏ. Việc quán triệt, tổ chức
thực hiện các quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng trong lĩnh vực này
chưa thực sự kiên quyết, nhất quán; một số chủ trương, chính sách chưa
phù hợp chậm được phát hiện, điều chỉnh, sửa đổi. Chưa tiến hành đồng bộ
giữa đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy với bổ sung, hoàn thiện hệ thống
luật pháp, chính sách.
Trung ương yêu cầu, thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, kiện
toàn hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, nhằm mục tiêu xây dựng
tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý,
có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ
cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị phải đồng bộ với đổi mới thể chế kinh tế; thống nhất
giữa các tổ chức trong toàn hệ thống, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Kiện toàn tổ chức bộ máy
phải đi đôi với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức. Hoàn thiện thể chế phải gắn liền với đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và cơ
chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công. Tăng cường quyền làm chủ
trực tiếp của nhân dân, nhất là ở cơ sở. Không nhất thiết ở Trung ương
có tổ chức nào thì ở địa phương cũng có tổ chức đó. Đối với những vấn đề
thực tiễn đòi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi thì kiên quyết thực hiện; những
vấn đề chưa đủ rõ, còn có ý kiến khác nhau thì cần chỉ đạo khẩn trương
nghiên cứu, tổng kết để làm rõ, có bước đi thích hợp, không nóng vội,
chủ quan, duy ý chí...
Trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo chung nêu trên, cần tiếp tục rà soát, kiện
toàn các cơ quan tham mưu, giúp việc, đơn vị sự nghiệp của Đảng; hoàn
thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước (bao
gồm cả Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân, chính quyền địa phương); đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội theo
hướng tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, không chồng chéo, trùng lắp.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ, công
chức, viên chức theo vị trí công tác, tiêu chuẩn chức danh, số lượng
cán bộ, công chức, viên chức để giao, quản lý biên chế. Tiếp tục thí
điểm khoán kinh phí hành chính để khuyến khích giảm biên chế. Tăng cường
cán bộ kiêm nhiệm một số chức danh phù hợp. Thực hiện đúng quy định về
số lượng cấp phó lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức. Đẩy mạnh áp dụng cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập,
thực hiện "xã hội hoá" dịch vụ công, từng bước giảm chi lương viên chức
từ ngân sách nhà nước; quản lý chặt chẽ việc thành lập mới các đơn vị sự
nghiệp công lập, các tổ chức quần chúng và số lượng viên chức ở các đơn
vị sự nghiệp công lập. Khẩn trương tổng kết và có kết luận về việc thí
điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân ở một số huyện, quận, phường.
Nghiên cứu, thí điểm xây dựng mô hình chính quyền đô thị. Thực hiện giảm
dần số lượng cán bộ không chuyên trách cấp xã.
2- Hội nghị nhất trí cho rằng, tiếp sau Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
về xây dựng Đảng, việc lần này Trung ương bàn và ban hành Nghị quyết về
tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận là
rất cần thiết trong tình hình hiện nay. Bởi vì chỉ có làm tốt công tác
dân vận, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng thì Đảng
mới có sức mạnh. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp
quyền, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, có rất nhiều
vấn đề mới đặt ra tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Những hiện tượng phân hóa giàu nghèo, phân tầng
xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm
chủ của nhân dân, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng là
thách thức đối với mối liên hệ giữa dân với Đảng. Chỉ có đổi mới và làm
tốt công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với dân, cũng như khối đại đoàn
kết toàn dân thì mới phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để thực hiện được yêu cầu trên, phải quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về dân vận, về đại đoàn
kết dân tộc. Đặc biệt là phải tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân; hết lòng, hết sức chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, chú trọng đến lợi ích trực tiếp của người dân; luôn trọng
dân, gần dân, hiểu dân, tin dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức
làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Thường xuyên chỉnh đốn,
xây dựng Đảng, Nhà nước, chính quyền trong sạch, vững mạnh; mọi quan
điểm, chủ trương của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước phải vì
dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu, tận tuỵ với công
việc, nói đi đôi với làm để nhân dân tin tưởng, noi theo.
Tiếp tục nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân về vị trí, vai trò của công tác dân vận. Tăng cường công
tác tuyên truyền, phổ biến kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng, luật
pháp, chính sách của Nhà nước đến với nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về các hoạt động thông tin, truyền thông, định
hướng dư luận xã hội; kịp thời ngăn chặn, đấu tranh với các thông tin
xấu, độc hại, nhất là qua mạng Internet. Kiên quyết, kiên trì thực hiện
tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta
thực sự trong sạch, vững mạnh; tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân
dân với Đảng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
từ Trung ương đến cơ sở. Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề
bức xúc trong nhân dân, nhất là về đời sống, công ăn việc làm, giải tỏa,
đền bù đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân, cải cách thủ tục
hành chính; khắc phục tình trạng tiêu cực, phiền hà; ách tắc và tai nạn
giao thông, tệ nạn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội… Đẩy mạnh phong trào
thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Đổi mới tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội, các hội quần
chúng. Kiện toàn, nâng cao năng lực dân vận của các cơ quan, đơn vị và
đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận trong toàn hệ thống chính trị, đặc
biệt là trong các cơ quan hành chính nhà nước, các cán bộ thường xuyên
có quan hệ, tiếp xúc trực tiếp với dân. Đổi mới mạnh tác phong công tác,
thật sự gần dân, trọng dân, học dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
3- Ban Chấp hành Trung ương hoan nghênh và cảm ơn đồng bào, chiến sĩ cả
nước và kiều bào ta ở nước ngoài đã nhiệt tình hưởng ứng, tham gia đóng
góp ý kiến xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, ghi
nhận, biểu dương Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp và các cơ quan chức
năng đã tổ chức chu đáo việc lấy ý kiến nhân dân; tổng hợp đầy đủ,
tiếp thu nghiêm túc, giải trình các góp ý xây dựng để hoàn thiện
thêm một bước dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội xem xét,
quyết định. Qua đợt sinh hoạt chính trị dân chủ, sâu rộng này,
nhân dân ta đã một lần nữa thể hiện cao độ lòng yêu nước, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, hết lòng chăm lo xây dựng Nhà
nước ta, đất nước ta, dân tộc ta vững mạnh, trường tồn. Tuyệt
đại đa số các tầng lớp nhân dân tán thành với nội dung của dự thảo và
cho rằng: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bám sát mục tiêu, yêu
cầu, quan điểm và định hướng lớn đã được xác định trong các nghị quyết,
kết luận của Trung ương và Quốc hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của
nhân dân; khẳng định bản chất, mô hình tổng thể của thể chế chính trị và
tổ chức bộ máy của Nhà nước ta đã được thể hiện trong Cương lĩnh và
Hiến pháp hiện hành. Nội dung của Dự thảo đã có nhiều sửa đổi, bổ sung
quan trọng, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình
mới.
So với bản dự thảo được công bố, đã có rất nhiều ý kiến của nhân dân
được tiếp thu, tập trung vào nhiều vấn đề quan trọng. Đối với những vấn
đề mới, nhạy cảm, còn ý kiến khác nhau, Trung ương đã dành nhiều thời
gian thảo luận, cho ý kiến chỉ đạo định hướng lựa chọn, tiếp thu, giải
trình. Đối với các quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền
chống phá của các thế lực thù địch, Trung ương kiên quyết phê phán, bác
bỏ. Trung ương giao Đảng đoàn Quốc hội cùng với Ủy ban dự thảo sửa đổi
Hiến pháp, tiếp tục quán triệt đầy đủ và sâu sắc hơn nữa Cương lĩnh
chính trị năm 2011 của Đảng, các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung
ương 2 và Hội nghị Trung ương 5, các kết luận của Bộ Chính trị và kết
luận của Hội nghị lần này, khẩn trương chuẩn bị báo cáo tiếp thu, giải
trình và chỉnh lý, hoàn thiện bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để
trình kỳ họp sắp tới của Quốc hội.
4- Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường: Trung ương cho rằng, đây là 3 lĩnh vực cực kỳ quan trọng,
có nội dung phong phú, nhiều mặt và quan hệ mật thiết với nhau. Thời
gian qua, các lĩnh vực này ở nước ta đã bước đầu được quan tâm, có bước
phát triển và đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, hiện vẫn còn
không ít hạn chế, yếu kém. Việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn nhiều
lúng túng, bị động; thiệt hại về người và tài sản do thiên tai gây ra
còn lớn. Tài nguyên chưa được khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền
vững, một số loại bị khai thác quá mức nên bị suy thoái, cạn kiệt. Ô
nhiễm môi trường còn diễn ra phổ biến, có xu hướng gia tăng, ở một số
nơi rất nghiêm trọng; đa dạng sinh học suy giảm, gây nguy cơ mất cân
bằng sinh thái trên diện rộng. Dự báo thời gian tới, tình hình còn diễn
biến phức tạp, khó lường; khó khăn, thách thức có thể còn gay gắt, nặng
nề hơn.
Để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển những lĩnh vực quan trọng, phức tạp này,
trước hết cần nâng cao nhận thức trong toàn đảng, toàn dân và toàn hệ
thống chính trị, coi chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường là vấn đề có ý nghĩa quyết định sự phát
triển bền vững của đất nước. Việc xem xét, giải quyết các vấn đề phải
dựa trên những nguyên tắc của phương thức quản lý tổng hợp và thống
nhất, liên ngành, liên vùng; vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm
lợi ích lâu dài; vừa toàn diện vừa có trọng tâm, trọng điểm, có bước đi
phù hợp.
Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, có nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường, thách thức nghiêm trọng đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21,
đòi hỏi phải có tầm nhìn xa, chủ động nghiên cứu, dự báo và có các
phương án ứng phó; không cường điệu, thái quá, nhưng cũng không được xem
thường, chủ quan. Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn
vốn tự nhiên quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước, cần được
đánh giá một cách khoa học, chính xác, trên cơ sở đó có kế hoạch quản
lý, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, gắn với mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh; chú trọng
phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu mới, tái chế. Bảo vệ
môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của
phát triển bền vững, phải được lồng ghép trong chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa
phương. Thực hiện phương châm lấy phòng tránh, ngăn ngừa là chính, đi
đôi với kiểm soát, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi
trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Nhiệm vụ chung đặt ra là: Phải đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng,
tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững; thí điểm phát triển mô hình kinh tế xanh theo địa bàn và theo
ngành, lĩnh vực và từng bước nhân rộng trên cả nước. Thực hiện phân vùng
chức năng sinh thái làm cơ sở để xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, ngành, lĩnh vực và địa phương theo hướng phù hợp với đặc tính
sinh thái từng vùng, hài hòa với thiên nhiên và thích ứng với biến đổi
khí hậu. Thiết lập, ứng dụng các mô hình dự báo tổng thể tác động của
biến đổi khí hậu đến tài nguyên, môi trường và kinh tế-xã hội; thí điểm
phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất tài nguyên, môi trường và
thích ứng với biến đổi khí hậu cho lưu vực sông, vùng ven biển, sau đó
nghiên cứu nhân rộng ra cả nước. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tổng
hợp và thống nhất theo chuẩn quốc tế; có cơ chế phù hợp khai thác, chia
sẻ thông tin, sử dụng hiệu quả cơ sở dữ liệu trên các lĩnh vực này.
Trong số các giải pháp đã đề ra, cần hết sức chú trọng công tác tuyên
truyền, giáo dục và áp dụng chế tài xử lý vi phạm đủ mạnh để nâng cao
nhận thức, hình thành ý thức tự giác, chủ động đề phòng và ứng phó với
biến đổi khí hậu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường của
toàn hệ thống chính trị, các doanh nghiệp, cán bộ, đảng viên và nhân
dân; hình thành các thiết chế văn hóa, đạo đức môi trường trong xã hội.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong các
lĩnh vực này. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đổi mới,
hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn
lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường. Coi trọng hợp tác, hội nhập quốc tế. Trong nhiệm kỳ này, cần sớm
xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch để thực hiện có hiệu
quả các chiến lược đã được ban hành trên 3 lĩnh vực này, tập trung giải
quyết những vấn đề mà nhân dân đang đặc biệt quan tâm như: Triều cường,
nước biển dâng gây úng lụt, nhiễm mặn ở các tỉnh ven biển, nhất là khu
vực đồng bằng Sông Cửu Long; nạn phá rừng, khai thác hủy hoại một số
loại khoáng sản; phát triển thủy điện tràn lan, gây hậu quả xấu đến xã
hội và môi trường; bỏ hoang hóa đất đai sau khi được giao quyền sử dụng
cho các dự án đầu tư...
5- Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét kỹ và nhất trí cao với
những nhận định, đánh giá và đề xuất nêu trong Báo cáo sơ kết 1
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Hội nghị thống nhất cho
rằng, trong hơn một năm qua, toàn hệ thống chính trị đã nghiêm
túc quán triệt và tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết;
nhân dân đã nhiệt tình hưởng ứng tham gia xây dựng Đảng. Nhờ
vậy, chúng ta đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng.
Cán bộ, đảng viên và nhân dân đều cho rằng, việc ban hành và
thực hiện Nghị quyết là rất cần thiết, đúng đắn, kịp thời nhằm
ngăn chặn và từng bước đẩy lùi những tiêu cực, suy thoái trong Đảng,
giữ vững bản chất cách mạng của Đảng, xây dựng Đảng ta ngày càng trong
sạch, vững mạnh. Qua đây chúng ta cũng có thêm kinh nghiệm trong việc
chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng nói chung, trong chỉ
đạo việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình nói riêng.
Trung ương yêu cầu phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục lãnh đạo tổ
chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 với những bước đi vững
chắc để có thể thực sự tạo được chuyển biến rõ rệt trong công
tác xây dựng Đảng. Trước mắt, tập trung xây dựng và thực hiện thật
tốt, có kết quả cụ thể các chương trình, kế hoạch sửa chữa những sai
lầm, khuyết điểm, khắc phục những hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra trong
đợt sinh hoạt chính trị vừa qua. Việc kiểm điểm, tự phê bình và
phê bình cần tiếp tục được thực hiện một cách nghiêm túc gắn
với kiểm điểm công tác hằng năm. Việc thực hiện các nhóm giải
pháp khác phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ theo đúng
Kế hoạch số 08-KH/TW của Bộ Chính trị, gắn với tiếp tục học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện những điều đảng
viên không được làm; gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, tăng cường công tác đối
ngoại, hội nhập quốc tế.
Trung ương cũng đã xem xét các Báo cáo công tác kiểm tra của Đảng năm
2012; công tác tài chính Đảng năm 2012; công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
Bộ Chính trị từ sau Hội nghị Trung ương 6 đến nay. Đồng thời yêu cầu Ban
cán sự đảng Chính phủ khẩn trương chuẩn bị Đề án cải cách tiền lương,
bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công để trình Trung ương xem
xét, quyết định vào thời gian thích hợp. Ngoài những quan điểm, định
hướng chính sách, biện pháp đã được xác định tại Kết luận của Hội nghị
Trung ương 5 khóa XI, cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận
của Hội nghị Trung ương lần này; đẩy mạnh việc nghiên cứu, tổng kết một
cách cơ bản, sâu sắc, toàn diện các mặt để có một hệ thống các chính
sách, biện pháp cải cách cơ bản chế độ tiền lương. Chú trọng một số giải
pháp có tính đột phá, nhất là đột phá trong cải cách hành chính, tinh
giản biên chế và tạo nguồn lực tài chính bảo đảm cho tính khả thi của Đề
án.
Về xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược: Trên cơ sở Tờ trình và
các báo cáo của Bộ Chính trị, Trung ương đã cho ý kiến về nguyên
tắc, tiêu chí, phương pháp lựa chọn nhân sự đưa vào quy hoạch;
về số lượng cho mỗi chức danh; về cơ cấu độ tuổi, giới tính,
thành phần xuất thân và phương án nhân sự giới thiệu vào quy
hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các
chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước nhiệm kỳ
2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Đây là một dịp tổng rà soát
lại đội ngũ cán bộ, cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về nguồn cán bộ
và là cơ sở quan trọng để xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Ngay
sau Hội nghị này, Bộ Chính trị sẽ nghiêm túc tiếp thu ý kiến
của Trung ương để hoàn thiện, ban hành quy hoạch; đồng thời bám
sát những quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đề án
đã được Hội nghị Trung ương 6 khóa XI thông qua và Kế hoạch số 10
của Bộ Chính trị để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện quy
hoạch, từng bước đưa công tác cán bộ ở Trung ương đi vào nền nếp, chủ
động hơn, chính xác hơn.
Tại Hội nghị lần này, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu 2 đồng chí bổ sung
vào Bộ Chính trị và 1 đồng chí bổ sung vào Ban Bí thư khóa XI. Đề nghị
mỗi đồng chí hãy nỗ lực hết mình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang
nhưng rất nặng nề mà Trung ương giao phó.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã hoàn thành
một khối lượng lớn công việc. Trung ương đã thống nhất cao ban hành
nhiều nghị quyết, kết luận quan trọng. Tất cả các quyết định này đều
liên quan chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Trách nhiệm của chúng ta sau Hội nghị này là phải triển khai thực hiện
có kết quả các nghị quyết và kết luận của Trung ương vừa thông qua, coi
đây là khâu mấu chốt quyết định trong việc biến nghị quyết thành hiện
thực. Ở đây đòi hỏi chẳng những phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, mà
còn phải có phương pháp làm việc khoa học, chặt chẽ. Bởi vì cùng một lúc
chúng ta phải làm rất nhiều việc, việc nào cũng quan trọng, cấp bách.
Nếu không có cái nhìn tổng thể, bao quát thì dễ chỉ thấy việc này, bỏ
sót việc khác.
Tình hình chung của đất nước bên cạnh mặt thuận lợi cơ bản cũng còn
nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2013 tuy có
những mặt chuyển biến tích cực, đúng hướng, nhất là trong việc ổn định
kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, nhưng vẫn chưa
vững chắc, còn nhiều khó khăn. Thu chi ngân sách đạt thấp; sản xuất
công nghiệp tăng chậm so với cùng kỳ; số doanh nghiệp bị giải thể hoặc
ngừng hoạt động vẫn còn lớn; sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bị ảnh hưởng
bởi thời tiết xấu và dịch bệnh. Việc làm, thu nhập của người lao động,
an sinh xã hội còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Trong khi đó, tình hình
thế giới và khu vực vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, đặt ra
những thách thức mới cho sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia,
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các thế lực thù
địch, cơ hội chính trị đang tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta, ra sức kích động, chia rẽ nội bộ ta, chia rẽ Đảng, Nhà
nước với nhân dân. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nêu cao ý chí
của người cách mạng chân chính, tinh thần trách nhiệm trước Đảng và nhân
dân, tăng cường đoàn kết thống nhất, phát huy hơn nữa vai trò cá nhân,
cùng với cấp ủy và chính quyền, lãnh đạo và tổ chức thực hiện thật tốt
các nghị quyết, kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương lần này
cùng các nghị quyết khác của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; bảo đảm hoàn
thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2013.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc,
hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, trước nhân dân và đất nước.
Xin trân trọng cảm ơn”./.
(TTXVN)
Đào Tuấn - Nhân sự Bộ Chính trị: Tin vỉa hè, tin chính thống
Hai thành viên mới của Bộ CT |
15h11 phút chiều nay 11.5, TTXVN đã loan tin BCH TƯ đã bầu bổ sung vào
Bộ Chính trị khóa XI Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và Phó Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Chánh văn phòng TƯ Trần Quốc Vượng cũng được bầu vào Ban Bí thư.
Việc cả Trưởng Ban Nội chính TƯ Nguyễn Bá Thanh và Trưởng Ban Kinh tế TƯ
không được bầu, hoặc bầu nhưng không trúng đã không gây ra bất cứ sự
bất ngờ nào. Không phải vì thông tin đó không đáng là một cú sốc, mà
bởi, ối người đã biết tỏng.
Bởi chính xác đến từng cen-ti-mét là bản tin của TTXVN chỉ tái khẳng
định một sự thật đã được TTXVH cập nhật từ cách đây đúng 1 tuần.
Hồi 21h50 phút đêm 4.5, những nguồn tin vỉa hè đã liên tục cập nhật kết
quả bầu bổ sung Bộ Chính trị và Ban bí thư. Thậm chí còn chi tiết đến
từng vòng bỏ phiếu, đến số lượng phiếu cho từng ứng viên.
Tin nhân sự “Bê Xê Tê” chứ đâu phải chuyện đùa. Ấy thế mà vỉa hè đã đưa chi tiết, đưa chính xác một cách tuyệt đối.
Nhớ hồi vác máy ghi âm PV thứ trưởng Đỗ Quý Doãn, ông cứ trăn trở suốt
khi “trận địa thông tin” đang thuộc về blog cá nhân, về truyền thông xã
hội. Giờ thì lại thêm một bằng chứng nữa về sự thất bại thảm hại của báo
chí môn bài. Ngay cả Tuổi trẻ, tờ nhật báo hàng đầu Việt Nam, dù rất
nhanh, lúc 17h4 phút đã đưa tin “Bầu ông Nguyễn Thiện Nhân, bà Nguyễn
Thị Kim Ngân vào Bộ Chính trị”, nhưng hóa ra, đó là một bản tin có nguồn
TTXVN.
Trung ương họp, và tờ nhật báo hàng đầu Việt Nam đưa tin theo TTXVN, về
một tin tức mà dư luận đã biết trước đó một tuần, thế thì không mất
“trận địa thông tin” mới lạ chứ bác Doãn.
Kín với báo chí. Lộ trên vỉa hè. Hóa ra còn một cái mất nữa, xem ra mới
là nguy cơ cáo chung cho báo chí nước nhà: Đó là người đọc sẽ mất dần
thói quen tìm kiếm thông tin trên báo chí nhà nước khi đó chỉ là sự lặp
lại của vỉa hè những tin tức nhạy cảm vào hàng tối mật.
Đang định gõ vài chữ tâm sự với bác Thanh về trận cầu trên sân Mỹ Đình
bác thậm chí còn chưa kịp đá, nhưng càng nghĩ càng chỉ muốn ném máy
quăng chuột.
Đào Tuấn
(Blog Đào Tuấn)
Đông A - “Sự chuyên chế của đa số”
Tin đồn về ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Thị Kim Ngân được bầu bổ sung vào bộ Chính trị đã được truyền thông chính thống xác nhận.
Như vậy TTXVN đưa tin sau TTX vỉa hè đúng 1 tuần. Từ đây chẳng hiểu
TTXVN và truyền thông chính thống có để làm gì? Để xác nhận tin của TTX
vỉa hè sau đến một tuần? Lẽ ra TTXVN chỉ cần đưa tin: TTXVN được quyền
tuyên bố tin về hội nghị TW7 của TTX vỉa hè đưa tin ngày 4-5-2013 là
hoàn toàn chính xác.
Ông Nguyễn Bá Thanh đã không thể kiếm được cái ghế vào bộ Chính trị, khiến ban Nội chính trở nên một thứ vô quyền, vô lực, chắc chỉ đủ sức hốt mấy bà bán gà, bán cá ở chợ Đồng Xuân. Có thể nói Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thất bại liên tiếp ở hai hội nghị TW 6 và 7, khi ban chấp hành TW đã quyết khác với đề nghị của Tổng Bí thư và bộ Chính trị. Thật ra, điều này cũng không quá khó hiểu bởi vì đó chính là nhược điểm chết người của cơ chế dân chủ. Đó là hiện tượng “sự chuyên chế của đa số” mà các nhà tư tưởng về chính trị học đã chỉ ra từ lâu. Lenin khi xây dựng đảng Cộng sản đã lợi dụng chính hiện tượng “sự chuyên chế của đa số” làm bàn đạp chống đối thủ và thâu tóm quyền lực, gọi là cơ chế “dân chủ tập trung”. Thực chất, cơ chế dân chủ tập trung chính là yếu tố nghiêm trọng chống và phá dân chủ và tạo thành sự chuyên chế của đa số, thậm chí có thể dẫn tới sự chuyên chế của cá nhân như lịch sử của nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới cho thấy. Đáng tiếc, ông Nguyễn Phú Trọng chỉ được học ở AON về xây dựng Đảng nên chỉ biết dân chủ tập trung, không biết nhược điểm chết người “sự chuyên chế của đa số” mà các nhà chính trị học trên thế giới đã chỉ ra từ rất lâu.
Chuyện ông Nguyễn Phú Trọng thất bại ở hai hội nghị TW liên tiếp cho
thấy đang có khủng hoảng chính trị ở Việt Nam, khi Tổng Bí thư trên
danh nghĩa là người nắm quyền lực cao nhất, nhưng trên thực tế những đề
nghị của ông lại không được chấp nhận. Khủng hoảng chính trị như vậy
cũng vẫn xảy ra ở các nước dân chủ, khi Tổng thống đề xuất nhưng Quốc
hội không chấp nhận. Tùy theo mức độ mà thỏa hiệp giữa Tổng thống và
Quốc hội có thể dàn xếp. Trong nhiều trường hợp khi bất đồng không thể
dàn xếp được thì cơ chế dân chủ cho phép Tổng thống giải tán Quốc hội
và bầu một Quốc hội mới. Nhưng giải quyết khủng hoảng như vậy chỉ có
thể làm được khi Tổng thống và Quốc hội đều được dân bầu trực tiếp.
Tổng Bí thư và bộ Chính trị do TW Đảng bầu ra, nhưng TW Đảng lại không
chấp nhận các đề nghị của Tổng Bí thư và bộ Chính trị, cho thấy khủng
hoảng chính trị trong cơ chế dân chủ tập trung không thể giải quyết
được như trong các chế độ dân chủ. Sự tồn tại của Tổng Bí thư và bộ
Chính trị như vậy không còn mấy ý nghĩa. Với khủng hoảng chính trị như
vậy Việt Nam không sớm thì muộn sẽ ở trong chế độ độc tài cá nhân, bất
kể là hiển minh hay giả tá ở hình thức nào đó, trừ phi có những thay
đổi cơ bản về chế độ diễn ra.
Đông A
Cụ Tổng muốn gì?
Nguyễn quang Lập
Từ ngày cụ Tổng cầm ngọn cờ chống
suy thoái đến giờ mọi người cứ băn khoăn: cụ Tổng muốn gì? Cụ muốn
chống tham nhũng thật không hay muốn chống cái gì? Cụ gọi tham nhũng là
suy thoái, cụ cũng gọi luôn những người chống lại cũ kỹ và trì trệ là
suy thoái- “Nói ngược với đường lối chủ trường đường lối của Đảng
không suy thoái thì là gì?”. Cho tới lúc cụ Tổng phê phán các nhân sĩ
trí thức góp ý cho hiến pháp, có ý đánh đồng họ chung vào một rọ ” bọn
suy thoái” thì thiên hạ giật mình hỏi nhau: cụ Tổng muốn thực sự đổi
mới, muốn tái cấu trúc cơ chế hay muốn ôm lấy cái cũ, quyết tâm giữ chế
độ toàn trị đến cùng?
Thông tin bưng bít nên tất cả
những đồn đoán chỉ căn cứ vào tin lề trái mà thôi. Hôm qua mình nhận
được tin nhắn của một ông quan đương chức: ” Qua theo dõi 2 năm và qua
HNTW7, có thể khẳng định chắc chắn lề trái là báo, lề phải đéo phải báo,
đó là tuyên huấn”. Đúng rồi. Vì sao tin lề trái lại chính xác 100%? Vì
có những ông quan trong HNTW7 đã đứng về lề trái, cung cấp thông tin
cho lề trái. Có thể nói chắc như thế.
Vậy để trả lời được câu hỏi cụ
Tổng muốn gì cũng phải dựa vào thông tin lề trái, không cách nào khác.
Blogger Trần Kinh Nghị, một quan chức đã về vườn ( Tại đây), nhận xét chính trường Việt như sau: “Có
người mô tả nó như cuộc đấu giữa “Phủ chúa” và “Cung vua” nghe khá hình
tượng. Nhưng nếu gọi đó là cuộc đấu giữa “Nhóm lợi ích” và “Nhóm bảo
thủ” thì có lẽ chính xác hơn. Thực ra hai nhóm đó chẳng nhóm nào tốt hơn
nhóm nào. Nhưng vào lúc này nếu có thể lựa chọn thì người ta nên lựa
chọn cái “ít xấu hơn”, đó là Nhóm lợi ích. Lý do đơn giản là vi dù sao
nhóm này đã “ăn đủ” rồi và hi vọng bọn họ ít nhiều đã hiểu được cái giá
phải trả cho sự tham nhũng(?). Còn Nhóm bảo thủ như thường lệ quá đề cao
lý thuyết chính trị là thống soái và xa rời với thực tế. Họ tưởng có
thể chống tham nhũng bằng thứ vũ khí “phê và tự phê” trong khi vẫn duy
trì cơ chế và luật lệ đã bị bản thân coi là “bất cập” từ lâu rồi.“
Ý kiến cụ Trần Kinh Nghị hoàn
toàn hợp lòng dân. Bảo đảm dân rất ghét “nhóm lợi ích”, với nhóm bảo thủ
và trì trệ dân lại càng ghét hơn, không ai có thể chấp nhận được. Mình
cũng thế. Đục khoét của cải Đất nước là một tội nhưng tội ấy có thể
được tha bổng nếu những kẻ đục khoét kia đổi mới thật sự, quyết tâm giải
phóng sự toàn trị, giúp cho đất nước cất cánh. Nếu anh ăn 5 đồng mà làm
ra cho Đất nước 10 đồng vẫn còn tốt hơn anh sạch như chùi mà chẳng làm
ra đồng nào cả. Bảo đảm Không ai đi theo những kẻ đã không làm ra đồng
nào lại còn bảo thủ trì trệ, cố ôm lấy mớ lý thuyết cũ rích, quyết
không cho Đất nước tự cởi trói đứng lên, dù kẻ đó sạch như chùi. Ấy là
chưa kể việc mấy ông Tàu rất sợ Việt Nam đổi mới, không gì nguy hiểm
hơn đối với Tàu nếu Việt Nam có một chế độ dân chủ hơn Tàu. Vì thế mà
Tàu luôn luôn thúc dục Việt Nam bảo vệ chế độ, đồng thời cam kết với
Việt Nam về việc bảo vệ chế độ. Mới hiểu vì sao người ta gọi nhóm bảo
thủ là nhóm thân Tàu.
Thôi, không nói dài nữa. Bây giờ
đoán xem, giữa hai nhóm- ” Nhóm lợi ích” và ” Nhóm bảo thủ”, cụ Tổng nhà
ta thủ lĩnh nhóm nào? Từ đó ta biết chắc cụ Tổng muốn gì.
Thông tin từ BS cho biết: “…một độc giả thân thiết đã gửi tới vài thông tin và nhận định:
“1. Đến phút chót, HN TW 7 đã quyết định không ra nghị quyết về đổi mới hệ thống chinh trị như yêu cầu của TBT nhằm thiết lập chế độ đảng toàn trị, qua đó đã tạm thời đẩy lùi được một bước tham vọng này của TBT.
2.
Thảo luận về sửa đổi Hiến pháp rất tẻ nhạt và nghèo nàn vì phải tuân
theo khuôn khổ chỉ đạo của TBT. Tuy vậy TW cũng không đồng ý ra kết luận
mà để tiếp tục thảo luận và sửa đổi tiếp. Đáng chú ý là TW khen Dự thảo 3 đã
tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp, trái với công điện khẩn của TBT ngày 18
– 04 – 2013 yêu cầu ngừng ngay việc lưu hành bản dự thảo 3 này.
Như
vậy, với việc không bầu 2 ứng cử viên do đích thân TBT nhiều lần can
thiệp, ủng hộ, TW đã phát huy dân chủ và không tuân theo một số áp đặt
của cá nhân TBT.”
Nếu lướt qua hai văn bản được loan báo công khai cũng có thể thấy được chút dấu hiệu như nhận định trên. Đó là trong bài phát biểu của mình, ông TBT vẫn tiếp tục hung hăng chỉ trích “các quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch”, khi đề cập tới việc lấy ý kiến của nhân dân cho bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Còn bản Thông báo Hội nghị lần thứ 7 BCHGTƯĐ thì không có ý đó. Sự khác biệt ít nhiều này cũng đã được thể hiện qua việc trước Hội nghị, liên tiếp có những kiến nghị khá mới mẻ của Chính phủ lẫn Mặt trận Tổ quốc, được thể hiện trong bản Dự thảo lần 3 của Ủy bản Dự thảo sửa đổi HP,
được báo chí loan tin, thế nhưng cuối cùng, và mãi cho tới hôm nay, bản
Dự thảo này vẫn không được công bố chính thức, với đồn đoán là bị chính
ông TBT ngăn chặn.”
Nếu những thông trên là đúng, mà
chắc là đúng thôi, thì cụ Tổng đầu lĩnh nhóm bảo thủ, kiên quyết giữ đến
cùng chế độ toàn trị. Thế thì cụ Tổng đã quá cũ kĩ- lạc hậu- lỗi thời.
Dân đời nào ủng hộ nhóm bảo thủ, ủng hộ nhóm bảo thủ hóa ra ủng hộ việc
bám váy ông Tàu à? Đời nào dân ta chịu. Chẳng có ai ủng hộ sự cũ kĩ-
lạc hậu- lỗi thời cả, cụ Tổng trước sau gì cũng phải ra đi là hợp lẽ trời.
Tui nói rứa có đúng không bà con?
NQL
Tổng Trọng thất bại, bộ chính trị loại Bá Thanh: Đảng CSVN đã đến thời điểm chết!
Sự đấu đá và tranh giành quyền lực của các quan chức chóp bu CS đã tạo
ra những khoảng trống quyền lực. Khoảng trống này ngày càng to và quyền
lực của nhân dân đang lấp vào đó.
Nói như vậy không phải là tùy hứng hay chủ quan.
Trong một nền chính trị đa đảng luôn có những lực lượng đối lập sẵn
sàng thay thế đảng cầm quyền, cho nên những sai lầm và thiếu sót của chế
độ sẽ kịp thời sửa chữa và bổ sung.
Còn trong chế độ độc tài đảng trị, lực lượng đối lập đã bị đàn áp và
thủ tiêu, cho nên những sai lầm của đảng cầm quyền ngày càng trở nên
nghiêm trọng và không thể nào sửa chữa được. CSVN đang đi đến thời điểm
chết.
Quan sát xã hội VN trên nhiều mặt, chúng ta thấy đất nước VN đang rơi
vào khủng hoảng nghiêm trọng và toàn diện. Đây là hậu quả của chính
sách CS.
Tiền bạc trong ngân hàng không có người vay; doanh nghiệp phá sản hàng
loạt; công nhân thất nghiệp tràn lan; chính phủ lẩn quẩn và sai lầm
trong việc ra quyết sách; đảng tiếp tục giáo điều và trở thành thế lực
chống lại lợi ích của dân tộc...
Điều nguy hiểm là đạo đức suy đồi, tinh thần người dân trở nên bạc nhược, tệ sùng bái đồng tiền ngày càng gia tăng.
Đảng CSVN bước đến giai đoạn tập trung quyền lực cao độ, dẫn đến sự
chia rẻ gay gắt trong nội bộ đảng. Các phe phái đang gằm gè, đe dọa,
kình chống và hạ bệ lẫn nhau.
Bức tranh của xã hội CS: quan chức tham nhũng, giàu sụ, ăn thừa mặc
thải; đối lập với cuộc sống của đa số người lao động ngày càng khó khăn
trong thời buổi kinh tế lạm phát, đình đốn.
Đảng CS bây giờ là tập hợp một bọn tiểu nhân, lừa thầy phản bạn, nịnh
trên đạp dưới, mua quan bán chức, vắt chanh bỏ vỏ, đàn áp dân lành. Một
lũ cướp ngày không thỏa lòng tham lam.
Một chế độ mà nền chính trị cai trị dân chúng bằng sự mị dân và khủng
bố, nền kinh tế nằm trong một nhóm người quyết định bởi lợi ích của
nhóm ngân hàng, nền hành chính sinh ra không phải phục vụ nhân dân mà
để tham nhũng. Chế độ đó ắt sụp đổ.
Nạn mua quan bán chức đã trở thành phổ biến trong bộ máy CS. Làm quan
cũng là cách làm giàu. Đầu tư cho con đường quan lộ của mình là cách
đầu tư chụp giựt và lưu manh nhất. Một vị thế trong guồng máy được bảo
đảm bằng sự che chở của quan trên và sự tung hê của quan dưới.
Nền hành chính CS đã trở thành cái chợ, trong đó quan lại có thể mua
bán và trao đổi vị trí cho nhau. Đặc điểm của cái chợ này là không có
người lỗ vốn. Chưa thấy ông quan nào phá sản cả?
Sự giàu có của quan chức lấy từ đâu? Nếu không từ lợi nhuận của doanh
nghiệp, từ các dự án thì cũng từ tài nguyên của đất nước và tiền thuế
của người dân.
Hệ thống CS gắn bó, câu kết với nhau cũng chỉ vì tiền. Đồng tiền hủy
hoại cả một dân tộc. Thật là khủng khiếp? Cho nên, nếu hệ thống CS sụp
đổ, thì nó sẽ sụp đổ cái rụp.
Ngày trước đảng kêu gọi công nhân, nông dân làm cách mạng giải phóng
dân tộc. Sau cách mạng, đảng vơ vét của cải, tài sản dồn về bè lũ của
mình. Giai cấp nông dân, công nhân trở thành những kẻ đói khổ, khốn
cùng hơn dưới thời thực dân, phong kiến.
Sống ở VN hiện nay, ai không có tiền sẽ chết. Con đi học, tốn tiền. Vô
bệnh viện, tốn tiền. Xin vào làm trong guồng máy nhà nước, tốn nhiều
tiền hơn... Trong tranh chấp dân sự, ai nhiều tiền hơn sẽ thắng. Xã hội
không còn trật tự, luật lệ, luật pháp, công minh gì cả?
Kẻ nào chơi dao ắt có ngày sẽ chết vì dao. Kẻ nào dùng tiền sẽ chết vì tiền, Nguyễn Đức Kiên là một ví dụ.
Đến bây giờ mà ông Trọng vẫn lấy những quan điểm và đường lối của đảng
cách đây 30-40 năm để lãnh đạo đất nước. Ông ta không hiểu là cái đám
đảng viên ngày nay không theo lý tưởng của đảng, mà chỉ lo vơ vét đổ đầy
túi tham. Không một ông đảng viên CS nào đi theo đường lối của đảng mà
trở nên giàu có được.
Nền kinh tế VN đã khác trước. Xã hội phát triển, đời sống tinh thần và
vật chất của người dân được nâng cao. Đầu óc họ đã giải phóng khỏi
miếng cơm manh áo. Đi đây đi đó, truy cập tin tức trên mạng, họ hiểu
được sự thối nát và tham nhũng của chế độ.
Những người yêu nước lo lắng cho đạo đức xã hội xuống cấp và chủ quyền quốc gia đang bị xâm phạm.
Con người ta càng giàu thì càng khôn ra. Có mấy người giàu chịu nghe
ông Trọng nói? Họ không có thời gian để nghe những lời tầm bậy. Họ nghe
theo cái thằng ban cho họ chức quyền và tiền bạc.
Quan điểm định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết giữ điều 4 của hiến
pháp, 19 điều đảng viên không được làm… đã trở thành lỗi thời. Ông
Trọng trở thành con người thiếu thực tế, không còn tin vào những gì
mình nói và chẳng biết mình nói gì.
Hiến pháp không còn phù hợp với thực trạng của đất nước. Đảng muốn thay
đổi nhưng không biết thay đổi từ đâu và bằng cách nào? Đảng muốn giữ
điều 4 ư? Nhưng giữ làm gì khi đã mất quyền lãnh đạo đất nước.
Hiến pháp cần phải đơn giản và dễ hiểu để mọi công dân có thể hiểu và
làm theo cách của mình. Đảng cầm quyền không được phép dẫn dắt dân tộc
đi sai đường.
Sự mâu thuẫn trong các tổ chức chính trị là điều luôn tồn tại. Sự đối
lập của các nhóm lợi ích ở quốc gia nào cũng có. Đất nước càng giàu có
thì sự xung đột của các nhóm lợi ích ngày càng lớn. Sự đấu đá, triệt
phá, lật đổ nhau trong nội bộ CS là điều đương nhiên.
Quyền lực không phải bao giờ cũng nhượng bộ và chia sẻ với nhau được.
Sai lầm lớn nhất của CS là không chấp nhận dân chủ trong một thế giới
ngày càng tự do. CS đã dốc hết ý chí và tiền bạc để đàn áp phong trào
dân chủ trong nước, nhưng lại không biết làm cách nào để ngăn chặn những
mâu thuẫn lợi ích trong nội bộ của họ.
Nhóm lợi ích sinh ra trong chế độ độc tài, sống bằng tài nguyên của
quốc gia và mồ hôi nước mắt của nhân dân. Nhóm lợi ích ngày càng lớn
mạnh, đến thời điểm nào đó, nó sẽ làm thối rửa cái chế độ đã sinh ra
nó.
Nhóm lợi ích, con quái vật của nền kinh tế thị trường sẽ dẫm nát, tàn
phá cái định hướng XHCN mà lâu nay đảng cố gắng tuyên truyền.
Các nhóm lợi ích đang cắn xé lẫn nhau và hủy hoại đất nước. Người dân
đã trở thành nạn nhân của cuộc đấu đá này. Thân phận bọt bèo chịu khổ
trăm bề. Sau bao nhiêu năm cai trị, đảng CS đã biến dân chúng thành
những tên nô lệ của ý thức hệ, và những con vật tế thần cho các chính
sách.
Trong một xã hội dân chủ, người dân sẽ là trọng tài trong những cuộc
tranh giành, đấu đá quyền lực. Lá phiếu của cử tri sẽ bỏ cho phe, mà họ
cho là mang lại lợi ích cho đất nước và dân tộc.
Trong chế độ CS không có vị trọng tài này. Phần thắng trong cuộc tranh
giành quyền lực thuộc về những kẻ có nhiều quyền và tiền.
Hơn 2.000 năm trước, Mạnh Tử đã dạy: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh”. Mọi chế độ trước hết là bảo vệ nhân dân, sau đó bảo vệ chủ
quyền và tài nguyên quốc gia. Quan lại chỉ là thứ cỏ rác.
Chuyện ông Nguyễn Bá Thanh từ bỏ bí thư thành ủy nhưng không đắc cử vào
BCT là đề tài đáng để bàn cãi. Điều đó cho thấy đảng đang mất quyền
lãnh đạo.
Ông Thanh được cho là một gương mặt sáng của CSVN, có tài xây dựng Đà
Nẵng (ĐN) trở thành một thành phố văn minh, sạch đẹp và đáng sống...
Đảng rất muốn có nhiều người như Bá Thanh để chứng tỏ cho dân chúng
thấy rằng, đảng còn thực tâm xây dựng và phát triển đất nước, chứ không
phải là “một bộ phận không nhỏ đang thoái hóa, biến chất”.
Đảng đưa ông Thanh ra TW để đánh bóng lại hình ảnh đã hoen ố của mình.
Hy vọng Bá Thanh là trụ cột để chống đỡ triều đình khỏi sự sụp đổ.
Bỏ ĐN ra Hà Nội, Bá Thanh coi như mãn nguyện. Ông ta đã có chỗ để “hạ
cánh an toàn”. Làm được gì chưa biết, nhưng dư luận nhìn ông ta đang đi
lên chứ đâu có xuống?
Người dân Đà Nẵng hoan hô Bá Thanh. Quan chức Đà Nẵng sợ Bá Thanh, bởi
vì sự nghiệp của mình, xe hơi nhà lầu, vợ đẹp con ngoan là nhờ ơn mưa
móc của ông ta. Một tên độc tài, có tài trong một đám vừa ăn, vừa phá.
Ra Hà Nội là gần mặt trời, quan chức ở Đà Nẵng muốn có người che chở,
và các doanh nghiệp Đà Nẵng muốn có người ở TW để chạy dự án. Bá Thanh
là người khôn ngoan, vì ông ta biết rằng có lại cũng chẳng làm được gì
hơn.
Đất đai Đà Nẵng coi như đã bán hết; từ bờ biển Mỹ Khê cho đến Làng Cùi
Phong Vân, từ sân vận động Chi Lăng cho đến trường học Phan Châu
Trinh... Những chiếc cầu đã xây xong, tiền bạc đã chung đều, chia đủ.
Nhưng nợ thuế nhà nước đến 3.434 tỉ, chưa trả. Nợ dân chúng hàng vạn lô
đất tái định cư... Chưa kể ân oán giang hồ trước đây với Trần Văn
Thanh và Đinh Công Sắt chưa thanh toán sòng phẳng.
Một tên gian hùng và quỷ quyệt. Trước bà con cử tri Quận Sơn Trà mà ông
ta còn lêu lểu rằng: gia đình ông ta khá giả, nhưng không có 100USD
gửi ngân hàng. Đó là nguyên tắc của các lãnh đạo Đà Nẵng. Láo toét...
Ông ta không gửi thì hàng trăm doanh nghiệp và hàng vạn công chức ở ĐN
sẳn sàng gửi hộ ông ta.
Họp cử tri ở quận Liên Chiểu, có người hỏi: Tại sao đến bây giờ ĐN vẫn
chưa có bí thư thành ủy? Nguyên bí thư né tránh câu trả lời. Nói ra, sẽ
lòi xì những thối nát, độc tài, tham nhũng và có thể là tội ác ghê gớm
của chiếc ghế này.
Quan điểm của CSVN từ trước đến nay là đảng lãnh đạo, không có đảng nói
không ai nghe. Bỏ chức bí thư thành ủy nhưng lại không đắc cử vào BCT
cho thấy, đảng đã lúng túng và mất quyền chỉ huy trong điều hành nhân
sự.
Ủy viên BCT là một một ông vua trong triều đình nhà đảng, một vị trí cần phải có để thực thi chức vụ trưởng ban Nội chính.
Tổng bí thư Trọng là người nắm quyền, nhưng trong hội nghị lần trước
ông ta không kỷ luật được đảng viên của mình. Lời phát biểu nghẹn ngào,
uất ức trong phiên kết thúc hội nghị TW 6 thể hiện sự bất lực và bế tắc
của ông ta.
Vai trò lãnh đạo của đảng và cả uy tín ông ta không còn nữa. Đây là
điều đáng mừng, vì đảng CS bây giờ đã có một chút không khí dân chủ,
nhiều đảng viên không chấp hành quyết định của đảng trưởng. Tổng kết
hội nghị TW lần này, chắc Tổng Trọng sẽ cay đắng, nghẹn ngào và uất ức
hơn lần trước.
Dưới chế độ CS, cuối cùng ai cũng là nạn nhân; kể cả Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp... và bây giờ đến lượt Tổng Trọng.
Sự sụp đổ của CS là điều không thể tránh khỏi. Nó có thể sụp đổ vào
tháng sau hay năm sau, không ai biết trước được. Tất cả công dân VN, từ
dân đen cho đến quan chức, đều cảm nhận đang có sự thay da đổi thịt
nhưng không biết đến từ đâu?
Chế độ dân chủ đến sớm hay muộn phụ thuộc vào lòng can đảm của dân
chúng. Phải thoát ra khỏi sự khiếp sợ và đứng lên để tiêu diệt cường
quyền.
Sài Gòn ngày 11/05/2013
Nguyễn Hoàng Long(DLB)
Công tác dân vận đến hồi…mạt vận rồi chăng?
Quechoa
AFR Dân Nguyễn
Hội nghị trung ương 7 kết thúc
rồi; Hay dở gì thì cũng đã xong. Thử lục lại và suy gẫm về đôi chỗ phát
biểu “chỉ đạo Hội nghị”của Tổng bí thư NPT, gọi là cu Tổng.
Hội nghị lần này cụ Tổng đưa ra 6
mục tiêu “quan trọng” để thảo luận. Mục tiêu đầu là về chính trị. Thì
chính trị vẫn là thống soái mà! Khó bàn lắm. Thử bàn sang mục tiêu thứ
hai- Công tác dân vận.
“Về đổi mới, tăng cường sự lãnh
đạo của đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới…” –cụ Tổng mở
đầu phần về Công tác dân vận như vậy.
Vì sao phải Đổi mới? Vì sao phải Tăng cường sự lãnh đạo của đảng…?
Vậy Công tác dân vận là gì? Là
công tác trong đó vận động nhân dân hãy ĐI theo đảng đi. Hãy LÀM những
gì đảng bảo đi. Hãy TIN vào những gì đảng nói đi! Nôm na là như vậy. Nôm
na hơn nữa là, Công tác dân vận giống như công tác Tiếp thị chính trị
(Politic marketting).
Người ta muốn cạnh tranh chiếm
lĩnh được thị trường , tiêu thụ được sản phẩm, thì phải xúc tiến công
tác tiếp thị, hơn nữa còn phải làm tốt. Phải quảng cáo trên tv, đài báo,
dựng pano, aphich, phải cho đội ngũ nhân viên tỏa đi khắp các nẻo
đường, tới làng bản xóm thôn, hang cùng ngõ hẻm mà phát tờ rơi…Đấy là
nói về Kinh tế thị trường thôi, chứ còn nền Kinh tế XHCN “ưu việt” “sản
xuất có kế hoạch!” thì sản phẩm là luôn thiếu hụt, chất lượng luôn luôn
kém. Cung không bao giờ đủ cầu; Muốn mua một món hàng gì còn phải xếp
hàng chầu trực, nhà nước bán cho cái gì thì được xài thứ ấy. Thế thì sao
phải cần quảng với cáo cho mệt xác!? Làm kinh tế XHCN thật dễ vô cùng,
vừa bán vừa chửi thiên hạ vẫn nhẫn nhịn mà mua…nghĩa là người bán là
Thượng Đế, vì là người nắm giữ “đồng tiền bát gạo”.
Còn làm kinh tế thị trường mới phải đi quảng cáo, như đã nói ở trên…
Trở lại vấn đề Công tác dân vận.
Cụ Tổng nói tới Đổi Mới và Tăng Cường sự lãnh đạo của đảng. Tại sao
phải Đổi Mới và phải Tăng Cường…?
Trước khi đảng csVN ra đời, xã
hội VN là một xã hội mang bộ mặt chế độ thực dân nửa phong kiến. Trong
xã hội đó có nhiều bất công. Đời sống của tuyệt đại người dân VN bị bần
cùng hóa, phân hóa giàu nghèo trong xã hội vô cùng sâu sắc. Bất công xã
hội là vô cùng lớn. Giai cấp tư bản hoang dã câu kết với giai cấp thống
trị đè đầu cưỡi cổ dân đen, chà đạp lên pháp luật, chà đạp công lý (y
hệt như bây giờ!). Dân trí VN ngày đó lại thấp nữa… Thế nên, khi đảng cs
VN ra đời, phất cờ búa liềm, làm cuộc cách mạng với khẩu hiệu Độc lập
dân tộc và Cơm no áo ấm, thì toàn dân đi theo. Có thể nói, với mục tiêu
như trên của cuộc cách mạng, thì chẳng cứ gì đảng cs kêu gọi, mà bất kỳ
đảng phái nào phất cờ với tiêu chí trên, chắc chắn cũng thu phục được sự
đồng thuận của toàn xã hội. Có điều này, bởi MỤC TIÊU BAN ĐẦU mà đảng
đặt ra; cũng bởi do DÂN TRÍ và do THỜI CUỘC nữa; Nghĩa là cả dân tộc VN
không có lựa chọn nào khác tại thời điểm lịch sử đó, và với cái đầu mù
chữ hay trình độ bình dân học vụ thì cũng thế. Về Công tác dân vận của
đảng thời kỳ này có thể nói quá dễ, dễ như việc bán hàng của mậu dịch
viên “thời bao cấp” vậy!
Hãy nghe cụ Tổng nói vì sao phải
Đổi mới và Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với Công tác dân vận.
“…Vấn đề đặt ra là vì sao LÚC NÀY chúng ta lại phải BÀN VỀ ĐỔI MỚI, TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG đối với Công tác dân vận…Phải chăng là do
BỐI CẢNH, tình hình ĐÃ và ĐANG CÓ NHIỀU THAY ĐỔI. Bên cạnh mặt thuận lợi
cơ bản, cũng xuất hiện không ít khó khăn, thách thức…”
Như vậy, nguyên nhân đã được chỉ
ra, là do Bối cảnh Đã và đang Thay đổi, nên Công tác dân vận buộc phải
Đổi mới và phải Tăng cường sự lãnh đạo của đảng. BỐI CẢNH ở đây là gì?
Là yếu tố THỜI CUỘC và DÂN TRÍ chứ gì nữa. THỜI CUỘC mở mang dân trí, là
yếu tố vận hội của dân trí.
Cái “Mặt thuận lợi cơ bản” ở đây
là hiện đảng còn đang độc quyền lãnh đạo mọi mặt của đời sống xã hội, từ
chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục… là đảng vẫn còn đang nắm chắc
nền “Chính trị quốc doanh”!
Cái « Khó khăn thách thức » ở đây
là ở yếu tố khách quan, là THỜI CUỘC đã có nhiều BIẾN ĐỔI, là “Sản phẩm
chính trị” của đảng kém chất lượng, “giá thành” lại quá cao, lại chịu
sự cạnh tranh của những sản phẩm chính trị khác, tốt hơn về chất lượng,
hợp lý hơn về giá cả, thậm chí là mẫu mã cũng hấp dẫn hơn…
“Tăng cường sự lãnh đạo của đảng”
về Công tác dân vận, là tăng cường công tác tuyên truyền, nắm chặt và
độc quyền truyền thông, báo chí…
Nhưng ngày nay đã có nhiều đổi
thay, có nhiều khác biệt với thời đảng mới dành được chính quyền. Công
tác dân vận, dù có sự Đổi mới, hay sự Tăng cường trong lãnh đạo của
đảng, cũng không thể nào có sự thuận lợi như thời “hoàng kim” Việt Minh
nữa!
Một doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh thị trường, muốn PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG, thì phải xây dựng thương hiệu.
Khi đã có Thương Hiệu rồi, thì cần giữ uy tín hơn giữ vàng!
Không thể bọc sản phẩm kém chất lượng, độc hại bằng bao bì, nhãn mác hào nhoáng!
Làm thế là tự chuốc thất bại, tự phá sản!
Khi “người tiêu dùng” đã là “người tiêu dùng thông minh,” lại “Có tiền tri thức”, chắc chắn biết chọn cho mình những sản phẩm tốt.
Ngày nay, đội ngũ làm công tác dân vận của đảng phải ăn nói thế nào để cho dân Theo đảng.
Muốn dân THEO, thì phải làm dân TIN.
Quả thực, một thời đảng đã xây dựng được một thương hiệu chính trị có chỗ đứng vững trong thị trường lòng dân.
Nhưng tiếc thay, thương hiệu đó đã bị sụp đổ. Để lấy lại dường như rất khó.
Các “Sản phẩm” mang thương hiệu
đảng như y tế, giáo dục, xã hội, đạo lý, an ninh, quốc phòng như hiện
nay, liệu còn hấp dẫn người tiêu dùng nhân dân nữa chăng?
Dù có mỵ dân giỏi cỡ nào, những
sản phẩm đặc trưng của Bao cấp, đặc trưng Độc quyền, kém chất lượng…
cũng khó lòng tìm được thị trường mà tiêu thụ.
Hơn nữa thị trường thế giới lại càng không có gì sáng sủa cho đảng!
Nếu biết “Cách mạng là sự nghiệp
của dân, do dân, vì dân…” và “…Toàn bộ hoạt động của đảng phải xuất phát
từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; sức mạnh của đảng là
ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân…” thì cần gì phải Đổi Mới, cần gì
phải Tăng Cường sự lãnh đạo của đảng. Hãy xem “Hoạt động của đảng đã
xuất phát từ lợi ích của nhân dân” chưa? Nếu đảng vẫn đang “gắn bó mật
thiết với nhân dân”, thì hẳn nhiên sức mạnh của đảng vẫn được khẳng
định, đâu phải báo động?
Đúng là “Công tác dân vận là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp của đảng…”.
Nhưng với thực trạng đảng hiện nay, thiết nghĩ phải nói Công tác dân vận
hiện nay “khó khăn là cơ bản” chứ không phải “Thuận lợi là cơ bản”. Vì
đảng tự phá bỏ “Thương hiệu” của mình- cái thương hiệu từng chói sáng
ánh hào quang “Lãnh đạo cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác”.
Ngày nay, chính các lãnh đạo cao
nhất của đảng và của chế độ thừa nhận sự suy thoái của đảng đến cỡ “ung
thư”, tạo nên thực trạng Giặc nội xâm, gây ra Quốc nạn… thì quả là công
tác dân vận đến hồi…mạt vận rồi chăng.
Công tác dân vận là quan trọng. Nhưng Công tác dân vận là phải nói thật.
Nó là chất lượng sản phẩm chứ không phải là bao bì hay nhãn mác.
Càng không thể là hàng dởm, hàng nhái.
May/11st/2013
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả.
AFR Dân Nguyễn
Sỹ Nhàn – Đã tỉnh chưa, thưa tể tướng!
Sỹ Nhàn
Có người ví Bộ Chính Trị (BCT) như vua tập thể, còn tôi thì nghĩ họ
chỉ là những đại thần thuộc hàng nhất phẩm, và TBT xem như là tể tướng.
Vua ở đây chỉ là một chủ thuyết khoác long bào. Dẫu là vua u mê đến mấy
thì danh vị ấy vẫn được tung hô, vì anh nào tỏ vẻ bất trung một tí là sẽ
đi đời ngay bởi một tập thể mà trong đó có lắm vị khinh vua. Hồ Chí
Minh là người đưa chủ thuyết cộng sản (CS) vào VN, nhưng vẫn không thoát
khỏi cái phận bề tôi tự choàng vào người. Cho đến nay càng tệ, ngay
trong hàng đại thần thiếu gì anh khinh vua, điều này thể hiện rõ trong
cuộc sống của họ. Nhưng, sự bế tắc nằm ngay trong mô hình tự trói buộc
nên anh nào cũng bí, cũng đành đóng vai tôi trung. Riêng TBT thì đúng là
tận trung, xứng với vai tể tướng. Vua vô hình nên cần tể tướng hữu hình
để ngự triều, nhưng chẳng được vai nhiếp chính, nên mỗi khi tuyên chỉ
phải ngó trước nhìn sau. Hết nhìn ngai vàng với những lời dạy tréo ngoe,
lại nhìn triều thần với những bộ mặt cố giấu vẻ khinh vua. Với phận bề
tôi tự đáy lòng, tể tướng cứ ngỡ những lời vạn tuế của triều thần cũng
xuất phát tự đáy lòng, càng cố ra chỉ dụ theo hướng tôn quân.
Dẫu đã nhận ra “một bộ phận không nhỏ” triều thần ngày càng tha hóa,
đã cấu kết thành “nhóm lợi ích” rất to, tể tướng vẫn mơ màng với mộng
“chỉnh đốn”. Thấy hàng đại thần nhất phẩm gật gù về việc “phê” một đại
thần lắm quyền lực và biết lợi dụng quyền lực, tể tướng hân hoan cho mở
rộng buổi thiết triều đến hàng nhị phẩm nhằm phát huy khí thế “chỉnh
đốn”. Thật không ngờ cái tinh thần “làm chủ tập thể” oái oăm đã phá nát
giấc mộng ngô nghê. Chắc tể tướng chưa hiểu về tác giả “làm chủ tập thể”
là một tể tướng đã nhập vai nhiếp chính, nên tinh thần ấy được đưa ra
nhằm che giấu sự độc tài. Nay thì tể tướng lạc lõng trong ảo tưởng, còn
đa số quần thần vẫn “tự diễn biến” theo chiều Nhân – Quả, vẫn xuôi dòng
tha hóa, nên cây gậy “làm chủ tập thể” đã thuộc về “nhóm lợi ích”. Thế
là tể tướng đã bị một roi đau, đau đến ứa lệ trên công đường.
Thế mà chưa tỉnh, tể tướng vẫn mơ màng trong giấc mộng, lại cố níu kéo vài đại thần có vẻ tận trung, có vài thành tích tỏ ra tôn quân. Rồi cố đưa họ lên hàng nhất phẩm nhằm củng cố ngai vàng. Hỡi ôi, “một bộ phận không nhỏ” đã thắng một bộ phận không to. Người ta đang vờ “chỉnh đốn” nhằm bịp vua và lừa dân, thế mà tể tướng định làm thật thì ai mà chả hãi, chả xúm vào mà tát cho chừa.
Đã tỉnh chưa, thưa tể tướng! Vua mà sáng thì triều đình không thể ngày càng tha hóa; đất nước đã không phải lâm vào lắm cảnh tang thương, tụt hậu về mọi mặt, rồi lãnh thổ dần bị gậm nhấm. Tò mò thế thôi, chứ Nhân Dân thì chả còn trông mong gì ở triều đình, và thừa biết vai trò cùng nhiệm vụ lịch sử của Nhân Dân.
Nay thì nợ công ngày càng lớn, nợ xấu ngày càng căng, doanh nghiệp chết ngày càng nhiều, người lao động ngày càng khốn khổ… Đúng là cảnh nhà hết gạo, nhìn ra hàng xóm thì toàn là chủ nợ. Thêm cuộc chiến lén lút của TQ đang gậm nhấm dần lãnh thổ, không thể không tăng chi phí quốc phòng. Mà đi vay lúc này thì tài sản thế chấp phải là biển đảo hoặc Nhân Quyền. Về biển đảo thì Dân Việt rất tự hào với vị trí chiến lược của Hoàng Sa và Trường Sa, và cũng nhận rõ những kẻ có động cơ lớn nhất hòng cướp đoạt nó. Việc quan trọng là cần chủ động tạo thế và lực nhằm ngăn chặn việc gậm nhấm lén lút cùng ý tưởng manh động của thế lực bành trướng ấy. Họ là cường quốc, nên các nước khác sẽ ưu tiên các mối quan hệ với họ hơn hẳn chúng ta. Nhưng họ cũng đang bế tắc trong mô hình tự trói buộc, và đang ngược dòng văn minh nhân loại. Đất nước họ lại cồng kềnh, phức tạp hơn nên xoay trở càng khó, và mối nguy lớn nhất của họ là từ bên trong, với hơn 1 tỷ người cũng khao khát Nhân Quyền và bức bối với những tệ nạn do thể chế tạo ra. Nhân loại sẽ vẫn xuôi dòng theo hướng ngày càng văn minh, Văn Hóa sẽ đóng vai trò ngày càng then chốt, Nhân Quyền sẽ ngày càng được tôn trọng, “chủ nghĩa thực tiễn” ngày càng lùi xa, và chúng ta chỉ còn con đường này để tạo thế và lực bền vững cho đất nước. Dĩ nhiên là họ cũng sẽ chuyển theo hướng ấy, vì loài người là một. Nhưng, hiện tại thì để tránh né áp lực bên trong, chính quyền TQ đang nâng niu chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hướng sự ồn ào ra bên ngoài, trong đó trọng tâm là Biển Đông, với vai trò quá quan trọng của nó đối với họ. Khi áp lực bên trong càng lớn, họ sẽ càng dễ làm càn ở Biển Đông. Mà áp lực bên trong của họ đang tăng dần, Biển Đông đang ngày càng nóng, VN không thể chần chừ trong việc tạo thế và lực nhằm ngăn chặn tham vọng của họ.
Về nội lực thì lúc này chắc ai cũng nhớ là Dân trọng hơn vua. Chỉ những kẻ tôi đòi mê muội mới không nuốt nổi câu “Quân vi khinh”! Mặc ai mê muội, với đà tiến của công nghệ thông tin ngày càng tăng tốc, thì việc đánh thức khát vọng Nhân Quyền ngày càng thuận lợi. Khi khát vọng ấy bùng cháy, thì mọi ngáng trở là trò rồ dại. Trong muôn vàn khó khăn, phong trào vì Nhân Quyền vẫn tiến đều đều, và dẫu triều đình có mọi nguồn lực trong tay, vẫn phải lùi dần. Nay thì thêm những khó khăn vật chất ngày càng đè nặng, mà nguyên nhân lồ lộ là do triều đình. Khi cái đói và nỗi nhục cùng day dứt những chủ nhân thực sự của đất nước, thì những trò do sợ quá hóa rồ của triều đình nhằm trấn áp Nhân Dân “là tự sát”. Đừng mơ hồ về việc VN chưa có những tổ chức đối lập đủ mạnh. Nền tảng của một tổ chức là sự đồng thuận của các thành viên về mục tiêu và phương cách để đạt mục tiêu ấy. Việc này thì công nghệ thông tin có thể giúp các tổ chức làm khối việc, và từ ảo hóa ra thật khi thời cơ đến là rất nhanh, chẳng phải như cách xây dựng đảng xa xưa nữa. Thời thế từ lòng dân, thời cơ đến là khi đa số dân chúng đồng lòng với những tổ chức ấy, mà Nhân Dân không lẽ không đồng lòng với những tổ chức biết tôn trọng Nhân Quyền, phát huy Dân Chủ…
Về ngoại lực thì còn gì tốt hơn là xuôi theo dòng văn minh nhân loại, biết tôn trọng Nhân Quyền thì hầu hết các nước sẽ ủng hộ chúng ta. Mà các giá trị phổ quát của loài người đã được giải thích rất rõ, đã được thực tế cuộc sống chứng nghiệm, nên đừng ấm ớ giải thích theo kiểu “gấp vạn lần” chỉ thêm rách việc.
Vậy thì việc tôn trọng Nhân Quyền là mấu chốt để giải thế nguy của đất nước, thế bí của một bộ phận không to. Thế thì dễ quá rồi còn gì. Đừng tự đặt mình vào thế khó nữa, còn nếu tể tướng vẫn mê đắm với trò “toàn trị” nhằm cố cứu ngai vàng mục ruỗng, kiên quyết “chỉnh đốn” để củng cố triều đình tha hóa tự căn nguyên, thì xin mượn câu “quá tam ba bận” làm quà “định hướng”!
Sỹ Nhàn
Thế mà chưa tỉnh, tể tướng vẫn mơ màng trong giấc mộng, lại cố níu kéo vài đại thần có vẻ tận trung, có vài thành tích tỏ ra tôn quân. Rồi cố đưa họ lên hàng nhất phẩm nhằm củng cố ngai vàng. Hỡi ôi, “một bộ phận không nhỏ” đã thắng một bộ phận không to. Người ta đang vờ “chỉnh đốn” nhằm bịp vua và lừa dân, thế mà tể tướng định làm thật thì ai mà chả hãi, chả xúm vào mà tát cho chừa.
Đã tỉnh chưa, thưa tể tướng! Vua mà sáng thì triều đình không thể ngày càng tha hóa; đất nước đã không phải lâm vào lắm cảnh tang thương, tụt hậu về mọi mặt, rồi lãnh thổ dần bị gậm nhấm. Tò mò thế thôi, chứ Nhân Dân thì chả còn trông mong gì ở triều đình, và thừa biết vai trò cùng nhiệm vụ lịch sử của Nhân Dân.
Nay thì nợ công ngày càng lớn, nợ xấu ngày càng căng, doanh nghiệp chết ngày càng nhiều, người lao động ngày càng khốn khổ… Đúng là cảnh nhà hết gạo, nhìn ra hàng xóm thì toàn là chủ nợ. Thêm cuộc chiến lén lút của TQ đang gậm nhấm dần lãnh thổ, không thể không tăng chi phí quốc phòng. Mà đi vay lúc này thì tài sản thế chấp phải là biển đảo hoặc Nhân Quyền. Về biển đảo thì Dân Việt rất tự hào với vị trí chiến lược của Hoàng Sa và Trường Sa, và cũng nhận rõ những kẻ có động cơ lớn nhất hòng cướp đoạt nó. Việc quan trọng là cần chủ động tạo thế và lực nhằm ngăn chặn việc gậm nhấm lén lút cùng ý tưởng manh động của thế lực bành trướng ấy. Họ là cường quốc, nên các nước khác sẽ ưu tiên các mối quan hệ với họ hơn hẳn chúng ta. Nhưng họ cũng đang bế tắc trong mô hình tự trói buộc, và đang ngược dòng văn minh nhân loại. Đất nước họ lại cồng kềnh, phức tạp hơn nên xoay trở càng khó, và mối nguy lớn nhất của họ là từ bên trong, với hơn 1 tỷ người cũng khao khát Nhân Quyền và bức bối với những tệ nạn do thể chế tạo ra. Nhân loại sẽ vẫn xuôi dòng theo hướng ngày càng văn minh, Văn Hóa sẽ đóng vai trò ngày càng then chốt, Nhân Quyền sẽ ngày càng được tôn trọng, “chủ nghĩa thực tiễn” ngày càng lùi xa, và chúng ta chỉ còn con đường này để tạo thế và lực bền vững cho đất nước. Dĩ nhiên là họ cũng sẽ chuyển theo hướng ấy, vì loài người là một. Nhưng, hiện tại thì để tránh né áp lực bên trong, chính quyền TQ đang nâng niu chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hướng sự ồn ào ra bên ngoài, trong đó trọng tâm là Biển Đông, với vai trò quá quan trọng của nó đối với họ. Khi áp lực bên trong càng lớn, họ sẽ càng dễ làm càn ở Biển Đông. Mà áp lực bên trong của họ đang tăng dần, Biển Đông đang ngày càng nóng, VN không thể chần chừ trong việc tạo thế và lực nhằm ngăn chặn tham vọng của họ.
Về nội lực thì lúc này chắc ai cũng nhớ là Dân trọng hơn vua. Chỉ những kẻ tôi đòi mê muội mới không nuốt nổi câu “Quân vi khinh”! Mặc ai mê muội, với đà tiến của công nghệ thông tin ngày càng tăng tốc, thì việc đánh thức khát vọng Nhân Quyền ngày càng thuận lợi. Khi khát vọng ấy bùng cháy, thì mọi ngáng trở là trò rồ dại. Trong muôn vàn khó khăn, phong trào vì Nhân Quyền vẫn tiến đều đều, và dẫu triều đình có mọi nguồn lực trong tay, vẫn phải lùi dần. Nay thì thêm những khó khăn vật chất ngày càng đè nặng, mà nguyên nhân lồ lộ là do triều đình. Khi cái đói và nỗi nhục cùng day dứt những chủ nhân thực sự của đất nước, thì những trò do sợ quá hóa rồ của triều đình nhằm trấn áp Nhân Dân “là tự sát”. Đừng mơ hồ về việc VN chưa có những tổ chức đối lập đủ mạnh. Nền tảng của một tổ chức là sự đồng thuận của các thành viên về mục tiêu và phương cách để đạt mục tiêu ấy. Việc này thì công nghệ thông tin có thể giúp các tổ chức làm khối việc, và từ ảo hóa ra thật khi thời cơ đến là rất nhanh, chẳng phải như cách xây dựng đảng xa xưa nữa. Thời thế từ lòng dân, thời cơ đến là khi đa số dân chúng đồng lòng với những tổ chức ấy, mà Nhân Dân không lẽ không đồng lòng với những tổ chức biết tôn trọng Nhân Quyền, phát huy Dân Chủ…
Về ngoại lực thì còn gì tốt hơn là xuôi theo dòng văn minh nhân loại, biết tôn trọng Nhân Quyền thì hầu hết các nước sẽ ủng hộ chúng ta. Mà các giá trị phổ quát của loài người đã được giải thích rất rõ, đã được thực tế cuộc sống chứng nghiệm, nên đừng ấm ớ giải thích theo kiểu “gấp vạn lần” chỉ thêm rách việc.
Vậy thì việc tôn trọng Nhân Quyền là mấu chốt để giải thế nguy của đất nước, thế bí của một bộ phận không to. Thế thì dễ quá rồi còn gì. Đừng tự đặt mình vào thế khó nữa, còn nếu tể tướng vẫn mê đắm với trò “toàn trị” nhằm cố cứu ngai vàng mục ruỗng, kiên quyết “chỉnh đốn” để củng cố triều đình tha hóa tự căn nguyên, thì xin mượn câu “quá tam ba bận” làm quà “định hướng”!
Sỹ Nhàn
Thế nước từ lòng dân
Đanchimviet
Tác giả: Huỳnh Ngọc TuấnChu Vũ vương sai người đi quan sát động tĩnh của triều đình vua Trụ.
Người quan sát trở về bảo: Triều đình nhà Thương đã loạn rồi.
Vũ vương hỏi: Loạn đến mức nào?
Người quan sát đáp: Người tốt thì không thấy mà người xấu thì đầy đường. Vũ vương nói: Vẫn chưa phải là thời cơ đã đến.
Người quan sát đi sang nước Thương, ít lâu sau về bảo:
– Thương triều càng loạn.
Vũ vương hỏi: Loạn đến mức nào ?
Người quan sát đáp: Những người hiền đức đều phải bỏ trốn.
Vũ vương nói: Vẫn chưa phải là thời cơ đã đến.
Người quan sát quay lại nước Thương một lần nữa. Ít lâu về bảo rằng: Thương triều loạn lớn rồi.
Vũ vương hỏi: Loạn đến mức nào?
Người quan sát đáp: Dân chúng oán ghét thâm gan tím ruột mà không ai dám hé răng.
–Vũ vương vỗ tay cười nói: Đã đến lúc rồi đó.
Chu Vũ vương tìm đến ông Lã thái công bàn mưu phạt Trụ
Lã thái công bàn:
– Tiểu nhân đầy đường thì nhân mạng rẻ rúng, người hiền trốn chạy thì kỷ cương bắt đầu tan vỡ, dân oán mà không dám oán than là chính trị hà khắc đã quá mức, ta đem binh mà đánh sẽ thắng lớn.
Chu vũ vương điểm trên ba ngàn tinh binh tiến đánh nhà Thương, thế như chẻ tre, vài ngày bắt giết được Trụ vương, tiêu diệt nhà Thương.
Xét tình hình chế độ CS hiện nay chẳng khác gì nhà Thương trước đây, người hiền tài muốn bỏ nước ra đi, tiểu nhân đắc chí hoành hành làm xã hội nhiễu nhương, chính trị độc tài hà khắc không có đối lập, xã hội dân sự bị đàn áp, người dân sống trong sợ hãi chỉ lo tìm miếng ăn không màng quốc sự, đất nước an nguy mặc kệ coi như không phải việc của mình, đến đâu thì đến. Nguyên khí quốc gia đã suy vong đến cùng kiệt, xã hội chết lâm sàng vì độc tài, tham nhũng, bất công và nghèo đói lạc hậu, thế hệ trẻ không có tương lai không lý tưởng phục vụ quốc gia dân tộc vì không coi quốc gia dân tộc là của mình chỉ sống bằng hiện tại, não trạng thực dụng ấu trỉ . Tầng lớp lãnh đạo thì sống xa hoa phè phỡn, coi khinh dân chúng như cỏ rác, biến quân đội ( lực lượng bảo vệ quốc gia, quyết định sự an nguy của dân tộc và đất nước) thành gia nô cho đảng CS.
Đảng CS coi đất nước này như của riêng mình thì làm sao người dân có ý thức bảo vệ quốc gia, sống và làm việc để phụng sự dân tộc vì một lẽ dể hiểu không ai muốn cống hiến tài năng và xương máu để bảo vệ cái không thuộc về mình, chỉ là bị bắt buộc trong một tình thế nào đó mà thôi.
Danh dự quốc gia và lòng tự hào dân tộc bị xói mòn đến mức phá sản nên mới có những hiện tượng người phụ nữ đi làm điếm khắp nơi nào có thể, công nhân xuất khẩu lao động bỏ trốn không muốn về nước, ai cũng nghĩ và hành động vì chính mình mà không hề nghĩ đến thể diện quốc gia dân tộc.
Lãnh đạo thì hành xử vô liêm sỉ, chính sách đối ngoại mơ hồ nhận thù làm bạn, đem chiêu bài 16 chữ vàng và 4 tốt chụp lên đầu cả dân tộc, biến 85 triệu dân thành một bầy cừu, tầng lớp trí thức thì chỉ biết ăn theo đảng cầm quyền mà không ý thức vai trò cao quý của mình trong xã hội.
Tầng lớp trí thức cũng vàng thau lẫn lộn, những người có thực tài, thực học cũng ngang bằng (thường thường là lép vế ) so với những quan chức xài bằng giả, “học giả”. Trí thức bị đối xử như gia nô của đảng, phải quỵ lụy để được tiến thân, trí thức chỉ biết sống vì cơm áo, trí thức bị làm nhục thì tìm đâu ra nhân tài hào kiệt để dẫn đạo nhân dân.
Đảng CS giành lấy vai trò độc tôn lãnh đạo, biết lòng dân không phục đảng dùng nhà tù, công an và quân đội để khuất phục dân, khủng bố dân bằng nhiều thủ đoạn cả tinh vi lẫn thô thiển khiến người dân căm giận nhưng không dám hé răng phản kháng, lâu dần gần 70 năm ở miền Bắc và 38 năm ở miền Nam VN, đảng CS đã biến một dân tộc anh hùng thành một bầy cừu ngoan ngoãn nhẫn nhục, điều này giúp cho đảng CS yên vị trên ngai vàng nhưng đã hủy diệt hào khí quốc gia và niềm tự hào dân tộc, mà hào khí quốc gia và niềm tự hào dân tộc là hai cột trụ để bảo vệ đất nước và chấn hưng dân tộc, CSVN đã đi theo lộ trình của thực dân Pháp nhưng tàn bạo và hà khắc hơn rất nhiều.
Chính vì vậy mà nguy cơ bị cuốn vào quỹ đạo của Trung hoa là khó tránh được vì một dân tộc một đất nước nhu nhược cầm đầu bởi một đảng cầm quyền không có viễn kiến không có mưu lược, không có tâm thức và ý chí phục vụ đất nước và cực kỳ tham nhũng, thực dụng thì làm sao có thể tham gia vào cuộc chơi quốc tế đầy rủi ro?
Thế giới là một trường đua, không ai đợi ai, không ai nhường ai, sự thất bại của dân tộc này là cơ hội thành công cho dân tộc khác, chỉ cần chậm chân, sai lầm là phải trả giá, bị vượt qua và chịu thiệt thòi.
CSVN chỉ chạy theo những con số ảo, những thứ danh hão nhằm mục đích tuyên truyền mỵ dân để biện hộ và tìm kiếm sự chính danh và chính đáng cho một đảng cầm quyền độc tôn, độc đoán không được lòng dân như :
– Bằng mọi giá CSVN chiếm cho được vị trí số 1 về xuất khẩu gạo trên thế giới (nhưng chưa được).
Ai cũng biết rằng xuất khẩu gạo không mang lại nhiều ích lợi cho quốc gia. Bằng chứng cụ thể là người nông dân trở nên nghèo hơn từ vị trí số 1, số 2 này, người nông dân cần giá lúa cao hơn để có thể tiếp tục sản xuất.
– Hiện nay chế độ CSVN có số Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ nhiều nhất Đông nam Á, tính bình quân theo đầu người số lượng Giáo sư ,Tiến sĩ, Thạc sĩ xếp vào hạng nhiều nhất thế giới?!.
Điều này không làm thế giới nể phục chỉ tạo nên sự mỉa mai và cay đắng cho dân tộc khi người cải tiến chiếc máy cắt cỏ thành máy gặt lúa lại là một nông dân!
Chưa bao giờ trong lịch sử, người VN cảm thấy tủi nhục như ngày hôm nay!
CSVN đàn áp mọi ý tưởng và hành động muốn thay đổi sang thể chế dân chủ để đưa đất nước thoát khỏi bế tắc, họ ngụy biện rằng “dân chủ sẽ dẫn đến hỗn loạn” như Thái lan, như Đông Âu trước đây.
Nhưng ngày hôm nay Đông Âu đã phát triển ngoạn mục và bền vững, Thái lan cũng đã ổn định và phát triển tốt đẹp hơn thì họ không nói gì về điều này!?.
CSVN biện minh rằng VN cần sự ổn định để phát triển kinh tế, nhưng hiện nay tình hình kinh tế sa sút, khủng hoảng, thất nghiệp tràn lan và không có một cơ may nào để thoát khỏi trong những năm sắp tới thì họ lờ đi.
Nhìn thấy sự bế tắc trong lộ trình và chiến lược giữ nước và phát triển lâu dài , nhóm 72 Nhân sĩ trí thức đã góp ý để sữa đổi Hiến pháp sang thể chế dân chủ, Hội đồng Giám mục VN, Giáo hội PGVN thống nhất, Giáo hội PGHHTT đều có cùng một đòi hỏi, một ý chí …v v..
Đặc biệt là những người trẻ chủ xướng Tuyên ngôn công dân Tự do đã thể hiện lòng dân hiện nay , nhân dân VN đã gởi đến đảng CS một Thông điệp rất rõ ràng và mạnh mẽ chưa từng thấy rằng: Chúng tôi muốn đất nước đi theo con đường Dân chủ, có tự do chính trị, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, báo chí, tự do biểu tình và lập hội. Nhân dân muốn hành xử quyền làm chủ đất nước và vận mệnh của mình bằng quyền lực của lá phiếu để thay đổi chính phủ.
Nhưng cho đến nay đảng CSVN vẫn bỏ ngoài tai những nguyện vọng và đòi hỏi chính đáng đó, họ còn dùng những thủ đoạn lố bịch để biện minh cho thái độ ngoan cố bất chấp lòng dân.
CSVN đang chơi một nước cờ liều lĩnh, họ vẫn cố bám quyền lực và đi ngược lòng dân khi biết rằng lịch sử đã nhiều lần chứng minh một nguyên tắc “Dân chính là nước, nước có thể nâng thuyền và nước có thể lật thuyền”.
Những người CS cấp trung và cấp thấp là một bộ phận của nhân dân , họ có những quyền lợi tương đồng với đại chúng . Điều này giúp họ dễ dàng hội nhập với phong trào quần chúng để cô lập ban lãnh đạo đảng CSVN là Bộ chính trị và Trung ương đảng.
Người nào đứng về phía nhân dân thì tương lai sẽ mở cửa ra với họ, còn ai chống lại nhân dân là tự sát vì những ủy viên Bộ chính trị và Trung ương đảng có hàng trăm triệu đến vài tỷ dola nên họ có cơ hội để đào thoát sang một nước Châu Phi nào đó hy vọng tránh được sự trừng phạt của nhân dân và luật pháp (chỉ là hy vọng thôi), còn những đảng viên không có những điều kiện đó phải ở lại và chung sống cùng nhân dân, nếu gây tội ác chẳng khác nào tự đào hố chôn mình để phục vụ kẻ khác.
Lòng dân chính là ý trời không ai có thể chống lại được.
Đó là luận thế lúc thời bình, còn một khi thế giới và khu vực có biến thì sẽ là thảm họa cho đảng CS và tất cả những đảng viên ăn theo vì lúc đó mọi việc đã quá muộn, mọi cơ hội đã mất.
Lòng dân tạo nên thế nước là vậy.
© Huỳnh ngọc Tuấn
© Đàn Chim Việt
Việt Nam – nguy cơ trở thành “bãi phế thải” của Trung Quốc
Hàng Trung Quốc độc hại tràn ngập thị trường Việt Nam (Kỳ 1)
Sự quyến rũ chết người
Không thể không thừa nhận Trung Quốc với 1,3 tỷ dân và một nền kinh tế đứng thứ hai thế giới là một thị trường quyến rũ. Nhưng như nhận định của dư luận thế giới, đó là sự quyến rũ chết người. Hàng chục nước trên thế giới đang có vấn đề trong thương mại, đầu tư với Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc cũng đang tỏ ra là nước sử dụng thành thạo việc kết hợp các sức ép ngoại giao, chính trị song hành với kinh tế để trả đũa các nước khác mỗi khi có “vấn đề” với Trung Quốc.
Bán cái chết cũng là chủ đề của cuốn sách đang nổi tiếng tại các nước phương Tây bàn về chất lượng hàng hóa Trung Quốc. Cuốn “Chết dưới tay Trung Quốc” được viết bởi Giáo sư Kinh tế và Chính sách Công cộng tại Đại học California, Irvine, Peter Navarro. Một loạt những vụ bê bối về thực phẩm độc hại của Trung Quốc trong suốt thời gian qua đã khiến cả thế giới phải rùng mình. Mỗi ngày qua đi lại có thêm một vụ thực phẩm bẩn, độc hại xuất hiện. Những “sát thủ giấu mặt” đó vẫn hàng ngày hàng giờ hiện diện trên bàn ăn của mỗi gia đình. Không chỉ thực phẩm mà cả những hàng hóa rẻ tiền, chất lượng kém, phát hiện có chất độc của Trung Quốc cũng đang làm nhiễu loạn thị trường thế giới. Nhiều nước đã đồng loạt tẩy chay hàng Trung Quốc.
Thương lái Trung Quốc hoành hành – đâu là bộ mặt thật?
Từ việc thương lái Trung Quốc thu gom móng trâu bò của đồng bào dân tộc, tận thu gốc rễ, gốc cây tiêu ở Tây Nguyên, thu mua hạt chè ở Thái Nguyên cho đến việc lừa đảo mặt hàng hải sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hoa hồng ở Đà Lạt, mua đỉa ở khắp nơi, mua lá xoài khô, mua nguyên liệu đông dược trên mọi cánh rừng trong cả nước… Gần đây nhất, thương lái trung Quốc lại tìm mua rễ cây rừng ở xã Kon Pne, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.
Hàng trăm câu chuyện mua bán với thương nhân Trung Quốc đã để lại những hậu quả xấu. Điển hình là năm 2011, người dân các huyện Hóc Môn, Củ Chi, TP Hồ Chí Minh ồ ạt rủ nhau đi bắt đỉa, gom về bán cho các đầu nậu. Nhưng sau đó, các đầu nậu bỏ đi, để lại những cánh đồng đầy đỉa và nỗi lo sợ cho người dân. Thương nhân Trung Quốc đã tổ chức mua móng trâu bò với giá cao, thậm chí chỉ bốn cái chân trâu, bò giá trị đã bằng nửa con trâu, bò. Vậy là dân đua nhau giết trâu bò đem bán. Từ đó, toàn bộ sức kéo nông nghiệp một vùng núi phía bắc bị hủy hoại. Lúc đó thương nhân Trung Quốc lại sang gạ bán trâu với giá cao gấp hai lần, đưa máy kéo nhỏ sang bán. Hết trâu bò rồi thì phải mua thôi.
Ở Cao Bằng, Lạng Sơn thương nhân Trung Quốc mua rễ cây hồi với giá cao. Vậy là hàng loạt cánh rừng hồi bị phá hủy bởi những kẻ đào trộm rễ hồi đem bán. Rồi các thương lái lại mua râu ngô non, xúi giục nông dân triệt phá nương ngô mang bán, đánh trúng vào cái dạ dày đồng bào. Hàng tốp thương lái Tàu xuất hiện từ Hà Giang cho đến Lâm Đồng để thu mua chè vàng, là thứ chè chặt thô phơi tái, không cần chế biến. Thương lái Tàu mua chè vàng với giá rất cao, kích thích nông dân chặt trụi đồi chè mang bán. Thế là thương lái Tàu đã triệt hạ vùng nguyên liệu của các nhà máy chè Việt Nam. Hoặc việc Trung Quốc thu mua cây phong ba có khả năng làm sạch không khí sẽ ảnh hưởng đến môi trường cũng như giá trị kinh tế về lâu dài. Cây mật gấu là cây thuốc quý, nằm trong sách đỏ Việt Nam, dùng để chữa kiết lỵ, tiêu chảy, viêm gan, vàng da, nhưng mấy năm nay, cây mật gấu bị khai thác mạnh làm thương phẩm bán sang Trung Quốc. Vì vậy cây mật gấu có nguy cơ tuyệt chủng rất lớn. Họ mua dây đồng vụn giá cao nhắm tới đường dây tải điện, mua cáp quang phế liệu nhắm tới đường truyền cáp quang… Họ mua gạo Việt Nam, nhưng đề nghị chúng ta trộn gạo thường vào gạo thơm rồi đem bán gây dư luận xấu về chất lượng gạo Việt Nam, mua tôm rồi bơm chất chất bẩn vào và đem bán ngay trên thị trường chúng ta…
Càng ngày, danh sách những thứ lạ đời mà thương lái Trung Quốc tìm mua tại Việt Nam càng được nối dài. Dù mua bán công khai hay lén lút với thương lái Trung Quốc thì đa số người dân cũng không rõ “Trung Quốc mua những thứ đó để làm gì”. Những chiến dịch mua bán của họ chỉ sau vài năm mới lộ ra ý đồ thật sự.
Đầu độc người dân Việt Nam
Cục Bảo vệ thực vật đã công bố nho Trung Quốc chứa hóa chất vượt ngưỡng 3-5 lần, được bày bán tại Việt Nam dưới mác “nho Mỹ” để đánh lừa người tiêu dùng với giá 40.000-60.000 đồng nhưng giá gốc trên hóa đơn chỉ có 6.000 đồng/kg. Táo Trung Quốc được trồng bằng công nghệ bọc túi tẩm thuốc sâu độc hại. Lê Trung Quốc chứa thuốc trừ sâu Endosulfan có tính độc cao và có thể phá vỡ hệ nội tiết hoặc gây ảnh hưởng đến cơ quan sinh sản của con người. Với lợi thế giá rẻ và không bị ràng buộc về mặt chất lượng, nên các mặt hàng phổ thông, có tác động trực tiếp đến sự an toàn của người dân như đồ gia dụng, rau củ quả, trái cây “Made in China” được nhập về Việt Nam một cách thoải mái qua con đường tiểu ngạch. Tính trung bình, mỗi ngày có khoảng 1.000 tấn trái cây được nhập về Việt Nam. Ngày 21-4, tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lai Châu, 5 người dân tộc Dao, tại bản Phố Vây, xã Sì Lở Lầu, huyện Phong Thổ đã phải nhập viện do ăn phải hoa quả có nguồn gốc từ Trung Quốc. Sau đó, 1 bệnh nhân tử vong là cháu Tẩn U Mẩy (5 tuổi).
Báo chí cả trong nước lẫn quốc tế từ lâu đã cảnh báo mối họa nhập hàng hóa kém chất lượng từ Trung Quốc, ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng như: gạo giả, sữa bột giả, trứng giả, trái cây nhuộm chất hóa học, dư lượng thuốc trừ sâu, thịt đông lạnh hư thối… cho tới cả tiền giả đang phá hoại nền kinh tế Việt Nam một cách âm ỉ và có hệ thống.
Thủ đoạn kinh doanh
Thủ đoạn kinh doanh của các thương lái Trung Quốc đã bộc lộ rõ bản chất: thiếu đạo đức kinh doanh. Ban đầu, các thương nhân Trung Quốc thu mua nông sản ồ ạt, họ đặt trạm gom hàng nông sản khiến nhu cầu tăng đột biến, giá nông sản tăng nhanh. Các doanh nghiệp trong nước không cạnh tranh được đành chịu thiếu nguyên liệu sản xuất. Sau khi đã thao túng được thị trường, tất cả thương nhân Trung Quốc bắt đầu hạn chế và dừng mua đột ngột khiến giá giảm nhanh chóng. Đến khi giá giảm rất thấp thì họ bắt đầu quay trở lại ép giá thấp hơn nữa và bắt đầu thu mua.
Họ tự đặt ra các tiêu chuẩn “kì lạ” để có lý do ép giá nhiều hơn (ví dụ khoai lang củ to không mua, bắt phải giảm giá). Như trường hợp khoai lang tím, sau khi giá giảm chỉ còn 300,000 đồng/tạ, nông dân đã chủ động kéo dài thời gian thu hoạch, khoai lớn củ hơn nhưng giá lại bị ép xuống còn 250,000 đồng/tạ. Với cùng một thủ đoạn lặp đi lặp lại, các thương nhân Trung Quốc đã có thể ép giá dứa giảm hơn một nửa, khoai lang tím giảm tới 70%, và giá dừa thậm chí giảm đến 90%, còn gạo thì đang giảm giá liên tục và vẫn loay hoay tìm kiếm thị trường thay thế. Chúng ta đã có không ít hệ luỵ từ rất nhiều bài học trên thương trường mang tên “Trung Quốc” như những vụ thu mua một lượng lớn nông sản với giá trên trời, đến khi người dân đổ xô khai thác, thu hoạch thì các thương lái Trung Quốc lặn mất tăm.
Trung Quốc còn sử dụng “chiêu” đơn phương hủy các hợp đồng thương mại, sử dụng rào cản kiểm dịch và cố tình làm chậm việc thông quan hàng xuất khẩu của Việt Nam tại các cửa khẩu trên biên giới hai nước đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam thiệt hại, nhất là đối với các mặt hàng nông sản mà Việt Nam xuất sang Trung Quốc.
Đó là các thiệt hại trực tiếp cho nông dân, còn đối với các doanh nghiệp cần hàng sản xuất thì thiệt hại lại đau đớn hơn nhiều khi nguồn cung nguyên liệu của thị trường rất lớn nhưng họ lại không thể mua được và phải sản xuất dưới công suất do không thể cạnh tranh thu mua với thương lái Trung Quốc.
Việt Nam đang thành bãi phế thải của Trung Quốc
Vì Việt Nam thiếu các hàng rào kỹ thuật để kiểm soát hàng kém chất lượng nên lâu nay chúng ta đã trở thành nơi tiêu thụ “thượng vàng hạ cám” của Trung Quốc. Trên thị trường Việt Nam đủ các loại hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng vứt đi vẫn đang tồn tại đầy rẫy ngoài chợ, thậm chí cả trong siêu thị: gà thải loại, trứng gà giả, trái cây, rau quả tẩm ướp hóa chất độc hại, gừng tỏi, gia vị, và thậm chí các loại phụ gia gây ung thư cũng được nhập về và bày bán khắp nơi. T.S Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế cho rằng điều này đã tạo ra 2 mối nguy cho Việt Nam: trước hết đó là hàng hóa thực phẩm giá rẻ tràn vào nhưng không được kiểm soát tốt về chất lượng, thứ hai, nguy hiểm hơn là Trung Quốc có chiến lược “đẩy” hàng nghìn thiết bị công nghệ sản xuất lạc hậu sang các nước, trong đó có Việt Nam, nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ thành “bãi phế thải” công nghệ, bãi phế thải của những hàng hóa phẩm chất xấu của Trung Quốc.
Đón xem kỳ 2
- Cái bẫy của thương mại tự do
- Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Đức Thành bàn về các biện pháp thương mại để bảo vệ nền kinh tế lành mạnh
Việt Nam – nguy cơ trở thành “bãi phế thải” của Trung Quốc
Chủ nhật 12/05/2013 07:00- Anninhthudo
ANTĐ - Câu chuyện hàng Trung Quốc độc hại tràn ngập
thị trường Việt Nam đã không còn là chuyện mới. Tuy nhiên càng ngày mức
độ càng trầm trọng hơn, báo động hơn, có nguy cơ phá hoại nền kinh tế và
đầu độc sức khỏe người dân. Nhiều chuyên gia cho rằng thực chất đây là
cái bẫy của thương mại tự do khiến chúng ta dễ trở thành bãi phế thải
các loại hàng hóa phẩm chất xấu của Trung Quốc. Xây dựng một hàng rào kỹ
thuật thương mại nghiêm ngặt là việc chúng ta cần phải làm ngay, không
thể chậm trễ.
Không thể không thừa nhận Trung Quốc với 1,3 tỷ dân và một nền kinh tế đứng thứ hai thế giới là một thị trường quyến rũ. Nhưng như nhận định của dư luận thế giới, đó là sự quyến rũ chết người. Hàng chục nước trên thế giới đang có vấn đề trong thương mại, đầu tư với Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc cũng đang tỏ ra là nước sử dụng thành thạo việc kết hợp các sức ép ngoại giao, chính trị song hành với kinh tế để trả đũa các nước khác mỗi khi có “vấn đề” với Trung Quốc.
Bán cái chết cũng là chủ đề của cuốn sách đang nổi tiếng tại các nước phương Tây bàn về chất lượng hàng hóa Trung Quốc. Cuốn “Chết dưới tay Trung Quốc” được viết bởi Giáo sư Kinh tế và Chính sách Công cộng tại Đại học California, Irvine, Peter Navarro. Một loạt những vụ bê bối về thực phẩm độc hại của Trung Quốc trong suốt thời gian qua đã khiến cả thế giới phải rùng mình. Mỗi ngày qua đi lại có thêm một vụ thực phẩm bẩn, độc hại xuất hiện. Những “sát thủ giấu mặt” đó vẫn hàng ngày hàng giờ hiện diện trên bàn ăn của mỗi gia đình. Không chỉ thực phẩm mà cả những hàng hóa rẻ tiền, chất lượng kém, phát hiện có chất độc của Trung Quốc cũng đang làm nhiễu loạn thị trường thế giới. Nhiều nước đã đồng loạt tẩy chay hàng Trung Quốc.
Thương lái Trung Quốc hoành hành – đâu là bộ mặt thật?
Từ việc thương lái Trung Quốc thu gom móng trâu bò của đồng bào dân tộc, tận thu gốc rễ, gốc cây tiêu ở Tây Nguyên, thu mua hạt chè ở Thái Nguyên cho đến việc lừa đảo mặt hàng hải sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hoa hồng ở Đà Lạt, mua đỉa ở khắp nơi, mua lá xoài khô, mua nguyên liệu đông dược trên mọi cánh rừng trong cả nước… Gần đây nhất, thương lái trung Quốc lại tìm mua rễ cây rừng ở xã Kon Pne, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.
Hàng trăm câu chuyện mua bán với thương nhân Trung Quốc đã để lại những hậu quả xấu. Điển hình là năm 2011, người dân các huyện Hóc Môn, Củ Chi, TP Hồ Chí Minh ồ ạt rủ nhau đi bắt đỉa, gom về bán cho các đầu nậu. Nhưng sau đó, các đầu nậu bỏ đi, để lại những cánh đồng đầy đỉa và nỗi lo sợ cho người dân. Thương nhân Trung Quốc đã tổ chức mua móng trâu bò với giá cao, thậm chí chỉ bốn cái chân trâu, bò giá trị đã bằng nửa con trâu, bò. Vậy là dân đua nhau giết trâu bò đem bán. Từ đó, toàn bộ sức kéo nông nghiệp một vùng núi phía bắc bị hủy hoại. Lúc đó thương nhân Trung Quốc lại sang gạ bán trâu với giá cao gấp hai lần, đưa máy kéo nhỏ sang bán. Hết trâu bò rồi thì phải mua thôi.
Ở Cao Bằng, Lạng Sơn thương nhân Trung Quốc mua rễ cây hồi với giá cao. Vậy là hàng loạt cánh rừng hồi bị phá hủy bởi những kẻ đào trộm rễ hồi đem bán. Rồi các thương lái lại mua râu ngô non, xúi giục nông dân triệt phá nương ngô mang bán, đánh trúng vào cái dạ dày đồng bào. Hàng tốp thương lái Tàu xuất hiện từ Hà Giang cho đến Lâm Đồng để thu mua chè vàng, là thứ chè chặt thô phơi tái, không cần chế biến. Thương lái Tàu mua chè vàng với giá rất cao, kích thích nông dân chặt trụi đồi chè mang bán. Thế là thương lái Tàu đã triệt hạ vùng nguyên liệu của các nhà máy chè Việt Nam. Hoặc việc Trung Quốc thu mua cây phong ba có khả năng làm sạch không khí sẽ ảnh hưởng đến môi trường cũng như giá trị kinh tế về lâu dài. Cây mật gấu là cây thuốc quý, nằm trong sách đỏ Việt Nam, dùng để chữa kiết lỵ, tiêu chảy, viêm gan, vàng da, nhưng mấy năm nay, cây mật gấu bị khai thác mạnh làm thương phẩm bán sang Trung Quốc. Vì vậy cây mật gấu có nguy cơ tuyệt chủng rất lớn. Họ mua dây đồng vụn giá cao nhắm tới đường dây tải điện, mua cáp quang phế liệu nhắm tới đường truyền cáp quang… Họ mua gạo Việt Nam, nhưng đề nghị chúng ta trộn gạo thường vào gạo thơm rồi đem bán gây dư luận xấu về chất lượng gạo Việt Nam, mua tôm rồi bơm chất chất bẩn vào và đem bán ngay trên thị trường chúng ta…
Càng ngày, danh sách những thứ lạ đời mà thương lái Trung Quốc tìm mua tại Việt Nam càng được nối dài. Dù mua bán công khai hay lén lút với thương lái Trung Quốc thì đa số người dân cũng không rõ “Trung Quốc mua những thứ đó để làm gì”. Những chiến dịch mua bán của họ chỉ sau vài năm mới lộ ra ý đồ thật sự.
Đầu độc người dân Việt Nam
Cục Bảo vệ thực vật đã công bố nho Trung Quốc chứa hóa chất vượt ngưỡng 3-5 lần, được bày bán tại Việt Nam dưới mác “nho Mỹ” để đánh lừa người tiêu dùng với giá 40.000-60.000 đồng nhưng giá gốc trên hóa đơn chỉ có 6.000 đồng/kg. Táo Trung Quốc được trồng bằng công nghệ bọc túi tẩm thuốc sâu độc hại. Lê Trung Quốc chứa thuốc trừ sâu Endosulfan có tính độc cao và có thể phá vỡ hệ nội tiết hoặc gây ảnh hưởng đến cơ quan sinh sản của con người. Với lợi thế giá rẻ và không bị ràng buộc về mặt chất lượng, nên các mặt hàng phổ thông, có tác động trực tiếp đến sự an toàn của người dân như đồ gia dụng, rau củ quả, trái cây “Made in China” được nhập về Việt Nam một cách thoải mái qua con đường tiểu ngạch. Tính trung bình, mỗi ngày có khoảng 1.000 tấn trái cây được nhập về Việt Nam. Ngày 21-4, tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lai Châu, 5 người dân tộc Dao, tại bản Phố Vây, xã Sì Lở Lầu, huyện Phong Thổ đã phải nhập viện do ăn phải hoa quả có nguồn gốc từ Trung Quốc. Sau đó, 1 bệnh nhân tử vong là cháu Tẩn U Mẩy (5 tuổi).
Báo chí cả trong nước lẫn quốc tế từ lâu đã cảnh báo mối họa nhập hàng hóa kém chất lượng từ Trung Quốc, ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng như: gạo giả, sữa bột giả, trứng giả, trái cây nhuộm chất hóa học, dư lượng thuốc trừ sâu, thịt đông lạnh hư thối… cho tới cả tiền giả đang phá hoại nền kinh tế Việt Nam một cách âm ỉ và có hệ thống.
Thủ đoạn kinh doanh
Thủ đoạn kinh doanh của các thương lái Trung Quốc đã bộc lộ rõ bản chất: thiếu đạo đức kinh doanh. Ban đầu, các thương nhân Trung Quốc thu mua nông sản ồ ạt, họ đặt trạm gom hàng nông sản khiến nhu cầu tăng đột biến, giá nông sản tăng nhanh. Các doanh nghiệp trong nước không cạnh tranh được đành chịu thiếu nguyên liệu sản xuất. Sau khi đã thao túng được thị trường, tất cả thương nhân Trung Quốc bắt đầu hạn chế và dừng mua đột ngột khiến giá giảm nhanh chóng. Đến khi giá giảm rất thấp thì họ bắt đầu quay trở lại ép giá thấp hơn nữa và bắt đầu thu mua.
Họ tự đặt ra các tiêu chuẩn “kì lạ” để có lý do ép giá nhiều hơn (ví dụ khoai lang củ to không mua, bắt phải giảm giá). Như trường hợp khoai lang tím, sau khi giá giảm chỉ còn 300,000 đồng/tạ, nông dân đã chủ động kéo dài thời gian thu hoạch, khoai lớn củ hơn nhưng giá lại bị ép xuống còn 250,000 đồng/tạ. Với cùng một thủ đoạn lặp đi lặp lại, các thương nhân Trung Quốc đã có thể ép giá dứa giảm hơn một nửa, khoai lang tím giảm tới 70%, và giá dừa thậm chí giảm đến 90%, còn gạo thì đang giảm giá liên tục và vẫn loay hoay tìm kiếm thị trường thay thế. Chúng ta đã có không ít hệ luỵ từ rất nhiều bài học trên thương trường mang tên “Trung Quốc” như những vụ thu mua một lượng lớn nông sản với giá trên trời, đến khi người dân đổ xô khai thác, thu hoạch thì các thương lái Trung Quốc lặn mất tăm.
Trung Quốc còn sử dụng “chiêu” đơn phương hủy các hợp đồng thương mại, sử dụng rào cản kiểm dịch và cố tình làm chậm việc thông quan hàng xuất khẩu của Việt Nam tại các cửa khẩu trên biên giới hai nước đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam thiệt hại, nhất là đối với các mặt hàng nông sản mà Việt Nam xuất sang Trung Quốc.
Đó là các thiệt hại trực tiếp cho nông dân, còn đối với các doanh nghiệp cần hàng sản xuất thì thiệt hại lại đau đớn hơn nhiều khi nguồn cung nguyên liệu của thị trường rất lớn nhưng họ lại không thể mua được và phải sản xuất dưới công suất do không thể cạnh tranh thu mua với thương lái Trung Quốc.
Việt Nam đang thành bãi phế thải của Trung Quốc
Vì Việt Nam thiếu các hàng rào kỹ thuật để kiểm soát hàng kém chất lượng nên lâu nay chúng ta đã trở thành nơi tiêu thụ “thượng vàng hạ cám” của Trung Quốc. Trên thị trường Việt Nam đủ các loại hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng vứt đi vẫn đang tồn tại đầy rẫy ngoài chợ, thậm chí cả trong siêu thị: gà thải loại, trứng gà giả, trái cây, rau quả tẩm ướp hóa chất độc hại, gừng tỏi, gia vị, và thậm chí các loại phụ gia gây ung thư cũng được nhập về và bày bán khắp nơi. T.S Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế cho rằng điều này đã tạo ra 2 mối nguy cho Việt Nam: trước hết đó là hàng hóa thực phẩm giá rẻ tràn vào nhưng không được kiểm soát tốt về chất lượng, thứ hai, nguy hiểm hơn là Trung Quốc có chiến lược “đẩy” hàng nghìn thiết bị công nghệ sản xuất lạc hậu sang các nước, trong đó có Việt Nam, nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ thành “bãi phế thải” công nghệ, bãi phế thải của những hàng hóa phẩm chất xấu của Trung Quốc.
Đón xem kỳ 2
- Cái bẫy của thương mại tự do
- Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Đức Thành bàn về các biện pháp thương mại để bảo vệ nền kinh tế lành mạnh
TS Lê Đăng Doanh, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương: Có dấu hiệu phá hoại nền kinh tế
- Hàng hóa Trung Quốc đang tràn ngập thị trường Việt Nam? Nhập siêu luôn tăng qua các năm. Là một chuyên gia kinh tế, ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
- Hàng Trung Quốc càng ngày càng nhập ồ ạt vào Việt Nam, từ cái tăm cho đến trang thiết bị dẫn đến nhập siêu rất lớn. Các thương nhân Trung Quốc sang Việt Nam mua hàng có dấu hiệu phá hoại nền kinh tế của chúng ta như mua lá cây hồi, mua lá cây điều… Điều này diễn ra với tất cả các nước, đặt biệt là những nước có biên giới chung với Trung Quốc. Tôi sang Thái Lan, Thái Lan cũng kêu. Miến Điện cũng kêu nhưng với Việt Nam đặc biệt nghiêm trọng vì Việt Nam có đường biên giới với Trung Quốc rất dài. Thứ hai là hàng Trung Quốc làm ra rất rẻ, chất lượng nhiều mặt hàng kém. Họ sản xuất được nhiều mặt hàng tốt nhưng họ xuất đi nước khác chứ không xuất sang Việt Nam. Xuất sang nước ta là có chính sách, có chủ ý, những mặt hàng có chất lượng thấp, giá rất rẻ. - Ông có thể giải thích rõ hơn vì sao hàng Trung Quốc độc hại và kém chất lượng như vậy nhưng chúng ta vẫn ồ ạt nhập về?
- Có mấy lý do: Chênh lệch giá giữa hàng của chúng ta và hàng Trung Quốc quá lớn, ví dụ như quả trứng gà. Trứng gà thải loại Trung Quốc có giá 500 đồng, đó là họ bán phá giá. Thứ hai là chúng ta đã ký hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc trong đó chúng ta cam kết các thuế nhập khẩu của hàng Trung Quốc vào Việt Nam được giảm từ 0-5%. Và điều quan trọng nhất là những rào cản kỹ thuật về thương mại chúng ta làm quá chậm nên giờ chúng ta đối phó rất khó. Nhiều người dân ở vùng biên giới nghèo nên đi làm cửu vạn để chuyển hàng từ Trung Quốc về Việt Nam. Chúng ta đã bắt nhưng không bắt được người cầm đầu cho nên bắt cóc bỏ đĩa, bắt người này thì lại có những người khác.
- Hệ lụy của tình trạng này là gì, thưa ông?
- Về kinh tế là rất đáng báo động. Đó là những điều hết sức đáng lo ngại cả về mặt kinh tế và sức khỏe của người dân, về ổn định trật tự xã hội.
- Chúng ta có thể có những giải pháp nào để hạn chế việc nhập khẩu và tiêu thụ hàng Trung Quốc độc hại tại Việt Nam?
- Chúng ta đã ký hiệp định thương mại nên không thể nói là tẩy chay hàng Trung Quốc. Chúng ta chỉ có thể cực lực tố cáo những mặt hàng có hại cho sức khỏe, kêu gọi người dân không sử dụng những hàng hóa đó. Ví dụ ăn một quả trứng 500 đồng nhưng mang bệnh vào người và phải bỏ ra 100 triệu đồng để chữa trị. Cần phải nói rõ để mọi người dân hiểu.
- Doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam cần làm gì để bảo vệ mình?
- Các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải tham gia tích cực, có những rào cản kỹ thuật và những biện pháp để bảo vệ. Người Việt Nam cần dùng hàng Việt Nam trước hết để bảo vệ sức khỏe của mình, sau là bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam, chứ không phải là người tiêu dùng mù quáng. Doanh nghiệp tự đổi mới, cải tiến để nâng cao tính cạnh tranh. Ví dụ chúng ta thấy những năm gần đây dệt may Việt Nam được đánh giá rất cao, người tiêu dùng đã chọn hàng Việt Nam thay vì hàng Trung Quốc. Hay bia Vạn Lực trước đây bán tốt nhưng gần đây không bán được nữa. Và bản thân người tiêu dùng phải tự bảo vệ mình và gia đình mình.
- Cơ quan quản lý hàng nhập khẩu là Bộ Công thương. Ông có ý kiến gì về các biện pháp quản lý của Việt Nam?
- Tôi thấy biện pháp của Bộ Công thương rất kém hiệu quả. Bộ Công thương rất chậm chạp trong việc có hàng rào kỹ thuật. Thí dụ ta xác định những mặt hàng nào độc hại thì phải phối hợp với Bộ Y tế là có những biện pháp kiểm soát rất nghiêm ngặt. Vừa qua chúng ra đã làm chiến dịch ngăn chặn gà lậu qua biên giới và kêu gọi các cơ quan liên ngành vào cuộc nên có những kết quả và biến đổi bước đầu. Nhưng cần làm quyết liệt và đồng bộ hơn ở nhiều mặt hàng khác.
- Xin cảm ơn ông!
- Hàng hóa Trung Quốc đang tràn ngập thị trường Việt Nam? Nhập siêu luôn tăng qua các năm. Là một chuyên gia kinh tế, ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
- Hàng Trung Quốc càng ngày càng nhập ồ ạt vào Việt Nam, từ cái tăm cho đến trang thiết bị dẫn đến nhập siêu rất lớn. Các thương nhân Trung Quốc sang Việt Nam mua hàng có dấu hiệu phá hoại nền kinh tế của chúng ta như mua lá cây hồi, mua lá cây điều… Điều này diễn ra với tất cả các nước, đặt biệt là những nước có biên giới chung với Trung Quốc. Tôi sang Thái Lan, Thái Lan cũng kêu. Miến Điện cũng kêu nhưng với Việt Nam đặc biệt nghiêm trọng vì Việt Nam có đường biên giới với Trung Quốc rất dài. Thứ hai là hàng Trung Quốc làm ra rất rẻ, chất lượng nhiều mặt hàng kém. Họ sản xuất được nhiều mặt hàng tốt nhưng họ xuất đi nước khác chứ không xuất sang Việt Nam. Xuất sang nước ta là có chính sách, có chủ ý, những mặt hàng có chất lượng thấp, giá rất rẻ. - Ông có thể giải thích rõ hơn vì sao hàng Trung Quốc độc hại và kém chất lượng như vậy nhưng chúng ta vẫn ồ ạt nhập về?
- Có mấy lý do: Chênh lệch giá giữa hàng của chúng ta và hàng Trung Quốc quá lớn, ví dụ như quả trứng gà. Trứng gà thải loại Trung Quốc có giá 500 đồng, đó là họ bán phá giá. Thứ hai là chúng ta đã ký hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc trong đó chúng ta cam kết các thuế nhập khẩu của hàng Trung Quốc vào Việt Nam được giảm từ 0-5%. Và điều quan trọng nhất là những rào cản kỹ thuật về thương mại chúng ta làm quá chậm nên giờ chúng ta đối phó rất khó. Nhiều người dân ở vùng biên giới nghèo nên đi làm cửu vạn để chuyển hàng từ Trung Quốc về Việt Nam. Chúng ta đã bắt nhưng không bắt được người cầm đầu cho nên bắt cóc bỏ đĩa, bắt người này thì lại có những người khác.
- Hệ lụy của tình trạng này là gì, thưa ông?
- Về kinh tế là rất đáng báo động. Đó là những điều hết sức đáng lo ngại cả về mặt kinh tế và sức khỏe của người dân, về ổn định trật tự xã hội.
- Chúng ta có thể có những giải pháp nào để hạn chế việc nhập khẩu và tiêu thụ hàng Trung Quốc độc hại tại Việt Nam?
- Chúng ta đã ký hiệp định thương mại nên không thể nói là tẩy chay hàng Trung Quốc. Chúng ta chỉ có thể cực lực tố cáo những mặt hàng có hại cho sức khỏe, kêu gọi người dân không sử dụng những hàng hóa đó. Ví dụ ăn một quả trứng 500 đồng nhưng mang bệnh vào người và phải bỏ ra 100 triệu đồng để chữa trị. Cần phải nói rõ để mọi người dân hiểu.
- Doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam cần làm gì để bảo vệ mình?
- Các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải tham gia tích cực, có những rào cản kỹ thuật và những biện pháp để bảo vệ. Người Việt Nam cần dùng hàng Việt Nam trước hết để bảo vệ sức khỏe của mình, sau là bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam, chứ không phải là người tiêu dùng mù quáng. Doanh nghiệp tự đổi mới, cải tiến để nâng cao tính cạnh tranh. Ví dụ chúng ta thấy những năm gần đây dệt may Việt Nam được đánh giá rất cao, người tiêu dùng đã chọn hàng Việt Nam thay vì hàng Trung Quốc. Hay bia Vạn Lực trước đây bán tốt nhưng gần đây không bán được nữa. Và bản thân người tiêu dùng phải tự bảo vệ mình và gia đình mình.
- Cơ quan quản lý hàng nhập khẩu là Bộ Công thương. Ông có ý kiến gì về các biện pháp quản lý của Việt Nam?
- Tôi thấy biện pháp của Bộ Công thương rất kém hiệu quả. Bộ Công thương rất chậm chạp trong việc có hàng rào kỹ thuật. Thí dụ ta xác định những mặt hàng nào độc hại thì phải phối hợp với Bộ Y tế là có những biện pháp kiểm soát rất nghiêm ngặt. Vừa qua chúng ra đã làm chiến dịch ngăn chặn gà lậu qua biên giới và kêu gọi các cơ quan liên ngành vào cuộc nên có những kết quả và biến đổi bước đầu. Nhưng cần làm quyết liệt và đồng bộ hơn ở nhiều mặt hàng khác.
- Xin cảm ơn ông!
Khắc ghi tấm lòng “nhường cơm sẻ áo”
“Trong không khí thắm tình hữu nghị, đại diện cho các thế hệ sĩ quan, cán bộ trong QĐND Việt Nam được đào tạo tại Trung Quốc qua các thời kỳ, từ thời kỳ chống Mỹ như Trung tướng Nguyễn Hoa Thịnh – người đã giữ nhiều trọng trách khi còn công tác, cho tới những cán bộ trẻ đang tại chức được đào tạo trong thời kỳ mới như Thượng tá Phạm Xuân Phong, Phó Giám đốc Viện Y học cổ truyền Quân đội…tất cả đều khẳng định lòng biết ơn về sự hy sinh của Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội Trung Quốc khi sẵn sàng “nhường cơm sẻ áo” cho học viên Việt Nam.”
QĐND – Thứ Bẩy, 28/07/2012, 16:13 (GMT+7)
QĐND Online – Sáng 28-7, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng đã tổ chức buổi gặp mặt đại biểu các thế hệ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam được đào tạo tại Trung Quốc qua các thời kỳ. Buổi lễ được tổ chức nhân kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc (1-8-1927/1-8-2012).
Đại tướng Phùng Quang Thanh chào mừng đồng chí Khương Tái Đông và đoàn đại biểu Trung Quốc. Ảnh: Trọng Hải |
Tới dự buổi gặp mặt có Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Thượng tướng Nguyễn Thành Cung, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; đại diện lãnh đạo các cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng; đại diện các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng; một số Tổng cục.
Tham dự buổi gặp mặt còn có đại diện Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Công an, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam…cùng hàng trăm cán bộ, sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam từng học tập tại Trung Quốc qua các thời kỳ.
Đồng chí Khương Tái Đông, Đại biện lâm thời Đại sứ quán nước CHND Trung Hoa tại Việt Nam dẫn đầu đoàn đại biểu phía Trung Quốc tham dự cuộc gặp mặt.
Quang cảnh cuộc gặp mặt. Ảnh: Trọng Hải |
Phát biểu khai mạc, Trung tướng Mai Quang Phấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam nhấn mạnh, đây là dịp để chúng ta ôn lại những kỷ niệm sâu sắc, ghi nhớ những tình cảm quý báu, cao đẹp, sự giúp đỡ to lớn, chí nghĩa, chí tình có hiệu quả, mà Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã dành cho Đảng, Nhà nước, nhân dân và QĐND Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay. Trong đó có sự giúp đỡ to lớn, hiệu quả trong việc đào tạo cán bộ cho QĐND Việt Nam.
“Cuộc gặp mặt không chỉ là dịp để bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ quý báu của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc trong việc đào tại cán bộ cho Quân đội nhân dân Việt Nam, đây còn là hoạt động thiết thực góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện giữa hai Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân hai nước ngày càng bền chặt”, Trung tướng Mai Quang Phấn phát biểu.
Đại tướng Phùng Quang Thanh phát biểu tại cuộc gặp. Ảnh: Trọng Hải |
Khẳng định kết quả to lớn từ sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với các thế hệ cán bộ, sĩ quan trong QĐND Việt Nam được đào tạo tại Trung Quốc, Trung tướng Mai Quang Phấn cho biết, trong những năm qua, nhiều trường đại học, học viện trong và ngoài quân đội của Trung Quốc đã tận tình giúp đỡ, đào tạo hàng nghìn cán bộ, sĩ quan trong QĐND Việt Nam với nhiều chuyên ngành, lĩnh vực khác nhau. “Những cán bộ học viên trải qua quá trình học tập tại Trung Quốc khi về nước đã vận dụng sâu sắc, sáng tạo những kiến thức tiếp thu được vào thực tiễn công tác, lập được nhiều thành tích xuất sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”, Trung tướng Mai Quang Phấn nói.
Tại cuộc gặp, phát biểu chúc mừng 85 năm Ngày thành lập Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc (1-8-1927/1-8-2012), Đại tướng Phùng Quang Thanh đã chân thành chúc mừng những thành tựu trong quá trình xây dựng và trưởng thành của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. “Thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng Việt Nam, tôi xin gửi tới Quân ủy Trung ương và toàn thể cán bộ, chiến sĩ Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc lời chúc mừng tốt đẹp nhất”, Đại tướng Phùng Quang Thanh nói.
Trung tướng Mai Quang Phấn phát biểu tại cuộc gặp. Ảnh: Trọng Hải |
Chia sẻ tình cảm và niềm vui với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc nhân ngày kỷ niệm, phát biểu tại cuộc gặp, Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh: “QĐND Việt Nam luôn luôn mong muốn đất nước Trung Quốc anh em phát triển hòa bình, thịnh vượng và có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới”.
Nhấn mạnh tới quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa hai Đảng, hai Nhà nước, Nhân dân và Quân đội hai nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông đặt nền móng và dày công vun đắp, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định, trong cuộc đấu tranh giải phóng giành độc lập dân tộc ở mỗi nước, QĐND Việt Nam và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc luôn luôn kề vai sát cánh chiến đấu. Nhân dân Trung Quốc anh em đã hết lòng giúp đỡ nhân dân Việt Nam. Cùng với sự giúp đỡ to lớn khác của Liên Xô, các nước XHCN và phong trào tiến bộ trên thế giới, nhân dân Việt Nam đã giành được độc lập, thống nhất đất nước, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”, Đại tướng Phùng Quang Thanh nói.
Đại tướng Phùng Quang Thanh cũng nhiệt liệt biểu dương thành tích, sự đóng góp của các thế hệ cán bộ, học viên được đào tạo tại Trung Quốc qua các thời kỳ. Đại tướng Phùng Quang Thanh cho rằng, những kiến thức, kinh nghiệm mà cán bộ, sĩ quan học tập được từ Trung Quốc đã được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn trong quân đội Việt Nam, đóng góp tích cực trong việc xây dựng QĐND Việt Nam; củng cố quốc phòng, ngoài ra lực lượng này còn có góp phần quan trọng xây dựng tình hữu nghị giữa quân đội hai nước Việt – Trung ngày càng gắn bó.
Một tiết mục văn nghệ chào mừng. Ảnh: Nguyễn Hòa |
Về hướng đi trong những năm tới, Đại tướng Phùng Quang Thanh chỉ rõ: Trong những năm tới, hòa bình, hữu nghị hợp tác trong khu vực và trên thế giới vẫn là xu thế lớn. Nhưng, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động diễn biến hòa bình; lợi dụng các hoạt động dân chủ, nhân quyền, tôn giáo nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, chia rẽ quan hệ hữu nghị Việt – Trung, đang đặt ra những khó khăn, phức tạp mới cho Đảng, Chính phủ, nhân dân và quân đội hai nước. “Quân đội hai nước chúng ta cần tăng cường tình đoàn kết, hợp tác chặt chẽ và bảo vệ thành quả cách mạng của mỗi nước. QĐND Việt Nam đặc biệt coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện và bền vững với Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, đây là chủ trương nhất quán, là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại, quốc phòng của Việt Nam”, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định.
Nhấn mạnh tới các công việc cụ thể trong thời gian tới, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh cho biết quân đội hai nước sẽ tiếp tục hoàn thiện các cơ chế hợp tác hiện có như tăng cường giao lưu các cấp, chú trọng ở các quân binh chủng; tuần tra chung; đối thoại chính sách chiến lược quốc phòng, thiết lập đường dây liên lạc giữa hai Bộ Quốc phòng; giao lưu sĩ quan trẻ; hợp tác đào tạo. “Cần đưa mối quan hệ hợp tác giữa quân đội hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và tin cậy lẫn nhau. Tiếp tục khẳng định và thực hiện tốt các thỏa thuận đã được ký kết giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng hai nước”, Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh.
Đại tướng Phùng Quang Thanh căn dặn Thượng tá Phạm Xuân Phong. Ảnh: Nguyễn Hòa |
Trong không khí thắm tình hữu nghị, đại diện cho các thế hệ sĩ quan, cán bộ trong QĐND Việt Nam được đào tạo tại Trung Quốc qua các thời kỳ, từ thời kỳ chống Mỹ như Trung tướng Nguyễn Hoa Thịnh – người đã giữ nhiều trọng trách khi còn công tác, cho tới những cán bộ trẻ đang tại chức được đào tạo trong thời kỳ mới như Thượng tá Phạm Xuân Phong, Phó Giám đốc Viện Y học cổ truyền Quân đội…tất cả đều khẳng định lòng biết ơn về sự hy sinh của Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội Trung Quốc khi sẵn sàng “nhường cơm sẻ áo” cho học viên Việt Nam.
Qua những câu chuyện cảm động về tình thầy trò, về sự san sẻ, các thế hệ cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ trẻ có mặt tại Hội trường Bộ Quốc phòng Việt Nam như được cùng sống lại những ký ức tốt đẹp của nhiều thế hệ học sinh, học viên Việt Nam trong những năm tháng học tập và rèn luyện tại các trường đại học, học viện, nhà trường của Trung Quốc…
Trung tướng Nguyễn Hoa Thịnh nhớ lại, tôi không thể quên những ký ức về cảnh hàng triệu người Trung Quốc nắm tay nhau hát vang lời ca “Hãy cùng bên nhau, hãy cùng bên nhau, hỡi anh em Việt Nam…” khi tuần hành ủng hộ nhân dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Với Thượng tá Phạm Xuân Phong, qua câu chuyện, anh cho biết không bao giờ có thể quên tấm gương lao động quên mình của các thầy cô giáo Trung Quốc, sự giúp đỡ tận tình của người dân, để anh có thể học được kiến thức về y học cổ truyền nổi tiếng của Trung Quốc.
Đồng chí Khương Tái Đông phát biểu tại cuộc gặp. Ảnh: Trọng Hải |
Chia sẻ tình cảm với các thế hệ cán bộ, sĩ quan Việt Nam từng được đào tạo tại Trung Quốc qua các thời kỳ; bày tỏ cảm ơn sự quan tâm của lãnh đạo Bộ Quốc Phòng Việt Nam cũng như các ban ngành, tại cuộc gặp, đồng chí Khương Tái Đông, Đại biện lâm thời Đại sứ quán nước CHND Trung Hoa đã khẳng định: Trung Quốc – Việt Nam núi liền núi, sông liên sông, nhân dân hai nước có truyền thống hữu nghị lâu đời. Mối quan hệ tốt đẹp ấy đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết bằng câu thơ: Mối tình hữu nghị Việt – Hoa, vừa là đồng chí vừa là anh em. Trong thời gian gần đây, mối quan hệ hai nước đang có bước phát triển tốt đẹp. Các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, Nhà nước và hai Bộ Quốc phòng hai nước đã góp phần tích cực xây dựng và phát triển mối quan hệ hai nước.
Tiết mục văn nghệ: Tình hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa. Ảnh: Nguyễn Hòa |
“Hai bên đã thực hiện nhiều chuyến tuần tra chung, nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng… Việc quan hệ quốc phòng giữa hai bên phát triển vững vàng đã góp phần quan trọng vào sự phát triển quan hệ hai nước Trung – Việt. Chúng tôi hy vọng, quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước, quân đội hai nước không ngừng phát triển, được nâng lên tầm cao mới. Về phần mình, Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam sẽ làm hết sức mình, phối hợp với các bộ, ngành liên quan, cùng nhau cố gắng làm cho mối tình hữu nghị Việt – Trung mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”, đồng chí Khương Tái Đông nói.
NGUYỄN HÒA
Tri ân những người vun đắp quan hệ hữu nghị Việt – Trung
QĐND – Thứ Tư, 26/12/2012, 23:34 (GMT+7)
QĐND – Nhắc đến truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời giữa hai nước
“vừa là đồng chí, vừa là anh em” Việt Nam và Trung Quốc, không thể không
nhắc đến các vị lãnh đạo tiền bối, những người tạo nền tảng và bằng
chính mồ hôi, xương máu của mình đã “bồi đắp” để mối quan hệ ấy “lên tầm
cao mới” như ngày hôm nay. Chỉ riêng những kỷ vật mà họ để lại như tấm
ảnh, trang thư, cây bút cũng đã thành minh chứng cho quá khứ gian khổ
nhưng đầy cảm thông, chia sẻ giữa quân đội và nhân dân hai nước.
Đến thăm và làm việc tại Việt Nam lần này, Đoàn công tác của thành phố Hà Trì, Khu tự trị Dân tộc Choang, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) do đồng chí Lục Khắc, Phó chủ tịch Hội nghị Chính trị Hiệp thương thành phố Hà Trì dẫn đầu có một nhiệm vụ quan trọng, đó là thu thập tư liệu lịch sử về đồng chí Vi Quốc Thanh trong thời gian đồng chí làm Trưởng đoàn Cố vấn quân sự của Chính phủ Trung Quốc tại Việt Nam (1950-1956). Trong không khí trang trọng, nồng ấm, chiều 26-12, tại Hà Nội, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã tiếp Đoàn. Cũng trong buổi tiếp ấy, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa đã trao cho Đoàn một số hiện vật, tư liệu lịch sử liên quan đến đồng chí Vi Quốc Thanh, một trong các vị lãnh đạo tiền bối của Trung Quốc có mối quan hệ gắn bó với Việt Nam và quan hệ hữu nghị truyền thống Việt-Trung.
Còn nhớ trong chuyến thăm Trung Quốc vào giữa năm 2010, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khi tiếp thân mật người thân của các đồng chí Trung Quốc có đóng góp trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của Việt Nam đã rất nhiều lần nhắc đến câu “Uống nước nhớ nguồn”. Đại tướng cũng khẳng định, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn sự giúp đỡ to lớn, chí tình, chí nghĩa và có hiệu quả của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, đặc biệt trong việc trực tiếp cử các đồng chí cố vấn, chuyên gia của Trung Quốc sang giúp đỡ cho Cách mạng Việt Nam. Trong ký ức của nhiều người Việt Nam, hình ảnh tận tụy, hết lòng vì nước láng giềng anh em của các đồng chí Vi Quốc Thanh, Trần Canh, La Quý Ba có lẽ mãi không thể phai nhòa.
Thực tế những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Việt Nam cũng đã cho thấy, các đồng chí cố vấn của Trung Quốc luôn đồng cam, cộng khổ, sẵn sàng hy sinh tính mạng, tình cảm riêng tư của mình để giúp đỡ Cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Và Việt Nam, khi đó tuy điều kiện còn nhiều khó khăn, lương thực, thực phẩm thiếu thốn, nhưng vẫn dành cho các đồng chí cố vấn Trung Quốc những gì tốt nhất.
Như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa và đồng chí Lục Khắc đã nói, những hiện vật, tư liệu được trao lại cho Đoàn công tác thành phố Hà Trì chiều 26-12 đều mang giá trị tinh thần và lịch sử hết sức lớn lao đối với cả Việt Nam và Trung Quốc. Trong số đó đặc biệt phải kể tới: Bài trả lời phỏng vấn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày 7-5-1989 nhân kỷ niệm 35 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, nói về sự giúp đỡ của các nước đối với cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong đó có sự giúp đỡ của Trung Quốc; Cuốn sách “Sự thực lịch sử Đoàn cố vấn Trung Quốc giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp (1950-1956)” do Nhà xuất bản Quân Giải phóng Bắc Kinh phát hành năm 1990; Hay như bức ảnh chụp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh trong Chiến dịch Biên giới năm 1950 và bức ảnh chụp Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đàm luận cùng đồng chí Vi Quốc Thanh cũng trong chiến dịch này.
Năm 2013, nhân kỷ niệm tròn 100 năm ngày sinh của đồng chí Vi Quốc Thanh, một Nhà trưng bày nhằm tuyên truyền về công lao của ông đối với đất nước Trung Quốc cũng như quan hệ hữu nghị Việt-Trung sẽ được xây dựng tại huyện Đông Lan, thành phố Hà Trì, tỉnh Quảng Tây (quê hương của đồng chí Vi Quốc Thanh). Khi ấy, những hiện vật và tư liệu lịch sử nói trên sẽ càng phát huy giá trị, trở thành “giáo cụ trực quan” sinh động góp phần tuyên truyền cho thế hệ trẻ của Việt Nam và Trung Quốc về những đóng góp của các vị tiền bối đối với việc tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa quân đội và nhân dân hai nước.
VŨ HÙNG
Cái nhà Ông Vinh viết câu không chú thích , chớ Dân Miền nam gọi “dậu” là “cái tự do” đấy nhé. Còn chó thì là “chó cắn càn” hay cắn bừa.
Thiết tưởng những gì có trong bài viết của JB Nguyễn Hữu Vinh sẽ được được các cơ quan truyền thông chính thống của Đảng và Nhà nước như báo Nhân Dân, đài Truyền Hình Việt Nam (là đối tượng bị chỉ trích mà bài viết của JB Nguyễn Hữu Vinh nhắm tới) xem xét thận trọng và chắc chắn sẽ rút ra được nhiều bài học cần thiết về công tác truyền thông cũng như tác nghiệp, tuyên truyền vận đông quần chúng nhân dân…
Thế nhưng, ngay lập tức báo Nhân Dân, rồi đài Truyền hình Việt Nam… giẫy lên như “đỉa phải vôi”. Nhưng vẫn lại là phản ứng theo cùng một cách rất “cùng quẫn” nêu trên, bằng một bài kế tiếp “Một sự vu khống, xuyên tạc trắng trợn?” .
Đọc bài phản ứng của báo Nhân Dân (dù đây không phải là một bài viết)… Người đọc dễ dàng nhân thấy đằng sau sự “cùng quẫn” cũ mòn, một hiện tượng mới đã nảy sinh. Đó chính là hiện tượng “cắn dậu”… hiểu theo tinh thần của câu tục ngữ “chó cùng cắn dậu” (Tuyệt nhiên không gọi báo Nhân Dân là chó, mà nói về tình thế tất yếu “cùng” rồi sẽ dấn tới “cắn đậu”) tức là làm bừa… Và đây là lý do khiến những người quan tâm nhìn nhận sự việc một cách “toàn cảnh” hơn bắt đầu từ sự kiên Hội Đồng Giám mục Việt Nam ra văn bản “nhận định và góp ý vào bản Hiến pháp” gửi tới Quốc hội.
Đây là một sự kiện xã hội, chính trị , tôn giáo… rất lớn trong bối cảnh đất nươc đang chuyển mình theo hướng dân chủ tiến bộ và hướng tới quyền con người. Sự kiện đã ngay lập tức tác động mạnh, tích cực và kịp thời tới các phong trào, các lực lượng đang đấu tranh cho tiến bộ xã hội, lúc này là phong trào và lực lượng nhân dân tham gia ký kiến nghị “sửa đổi hiến pháp năm 1992 ” do 72 Nhân sĩ Trí thức tiến bộ khởi xướng và hàng chục ngàn người trong và ngoài nước ký tên hưởng ứng.
Người dân (đặc biệt là những người có đạo) nô nức tham gia ký kiến nghị, tìm hiểu học tập các nội dung trong văn bản “nhận định và góp ý vào bản Hiến pháp” của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam… mỗi chữ ký là một thay đổi nhận thức, là một bước vượt qua sợ hãi.
Tình hình này đã làm cho các thế lực trì trệ trong giới cầm quyền vốn đang sử dụng việc “sửa đổi hiến pháp” để mong cố thủ lâu hơn nữa trong cái boong- ke độc tài toàn trị thấy khó chịu và run sợ, họ tìm mọi cách để làm vô hiệu, hạ thấp những giá trị quan trọng của “nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp” mà HĐGMVN đã nêu.
Lẽ tất nhiên là cả hệ thống truyền thông với hai cơ quan truyền thông nặng ký bạc nhất là báo Nhân Dân và đài Truyền hình Việt Nam xung kích vào cuộc…
Nhưng!
Buồn thay là đã chẳng có gì mới hơn ngoài những chiêu, trò đã diễn từ nhiều năm trước với Đạo Công Giáo… mà tác giả JB Nguyễn Hữu Vinh đã vạch ra và cho đây là biểu hiện của sự “cùng quẫn”.
Những câu hỏi đã được đặt cho sự “cùng quẫn” này là: Tại sao Báo Nhân Dân hay đài Truyền Hình Việt Nam… những cơ quan truyền thông báo chí hàng đầu của Đảng và Nhà nước, có đến cả ngàn cán bộ công nhân viên chức, biên tập viên, phóng viên , cộng tác viên… có cơ sở chân rết ở khắp mọi tỉnh thành, vùng miền trong nước và quốc tế… lại không thể (hoặc không dám) trực diện tranh luận, phê phán văn bản “Nhận định và góp ý vào bản Hiến pháp” của HĐGMVN (nếu thấy không tích cực)? mà phải thông qua một “bài viết”, trên một “trang điện tử do một số tác giả người Việt hiện đang sinh sống ở nước ngoài thực hiện”? và “tác giả” lại là một người chưa từng là “tác giả” của một “bài viết” trên blog hay một status trên facebook ? “tác giả” chỉ là một “công dân theo Thiên chúa giáo, hiện đang sinh sống tại TP Cao Lãnh – Ðồng Tháp”?
Thêm nữa là, khi những gì vô lý, không minh bạch được gói trong cái gọi là “bài viết” của “tác giả” này bị JB Nguyễn Hữu Vinh vạch ra thì lập tức “Công dân Nguyễn Trọng Nghĩa” (“tác giả” bài viết) cùng cả dàn “dư luận viên” đùng đùng nổi giận, thóa mạ, quy kết tội trạng…và nguy hiểm là đã có những đe dọa ném tới Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh. Thông qua “Một sự vu khống, xuyên tạc trắng trợn?
Và từ đây câu hỏi kế tiếp cũng không khác câu hỏi trước đó là: Tại sao báo Nhân dân hay đài Truyền Hình Việt Nam… với thế mạnh tuyệt đối của mình lại không đàng hoàng trực diện, tranh luận, đấu tranh buộc cho blogger JB Nguyễn Hữu Vinh cùng dư luận quan tâm phải tâm phục, khẩu phục? mà lại tiếp tục thông qua “công dân theo Thiên chúa giáo” cùng các “dư luận viên” với các tên trời ơi đất hỡi như: (Nguyễn Thanh Tùng – doimat.cuanhcuem.net), (molang0205). (Lời Tòa soạn sachhiem.net ) để biện minh, và buông lời xúc xiểm, quy chụp đe dọa Blogge JB Nguyễn Hữu Vinh. Trong khi đó, rõ ràng JB Nguyễn Hữu Vinh đàng hoàng xưng danh tính, hình ảnh, địa chỉ và quan điểm của mình, thậm chí còn rõ ràng hơn cả… Báo Nhân Dân. Đây có là cách hành xử của một cơ quan truyền thông lớn?
Rõ ràng, câu trả lời đơn giản nhất cho những câu hỏi đặt ra trên đây sẽ vẫn là sự “cùng quẫn”… mở rộng thêm sẽ thấy là: với những hành vi có động cơ, có bản chất sai trái thì sẽ luôn được thể hiện theo cách núp bóng, bất minh, khuất tất… đôi khi chuyển thành bạo lực .
Và trong bài phản ứng của báo nhân dân “Một sự vu khống, xuyên tạc trắng trợn” ta thấysự núp bóng, bất minh và sự đe dọa là rất rõ. Nó đã được thể hiện theo đúng tinh thần “…cùng…. thì cắn dậu”
Vì thế ,tác giả JB Nguyễn Hữu Vinh hãy cảnh giác, sẵn sàng với những nguy hiểm có thể xẩy tới trong nay mai. Những giáo dân, những người yêu nước, yêu công lý sự thật đã sẵn sàng… đứng cùng anh trong cuộc chuyển mình đi lên của đất nước, của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
Hà Nội, Ngày 11/5/2013 – ngày Nhân quyền cho Việt Nam tại Hoa Kỳ lần thứ 19.
Trần Thạch Linh
Ngày 10/5, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE), Hội phát triển Hợp tác Kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia (VILACAED) đã phối hợp tổ chức Diễn đàn Tài nguyên Mê Kông II – Hợp tác đầu tư và Phát triển bền vững Tiểu vùng Mê Kông.
Nằm ở hạ nguồn sông Mê Kông, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phải gánh chịu tác động to lớn, chưa thể lường trước từ các dự án thủy điện ở thượng nguồn: thiếu hụt nguồn nước ở hạ lưu; xâm nhập mặn nghiêm trọng; suy giảm lượng phù sa bồi đắp cho đồng bằng từ 26 triệu tấn/năm xuống còn 7 triệu tấn/năm; tổn hại nguồn lợi thủy sản từ 500 triệu USD đến 1 tỉ USD mỗi năm
K.Vy
http://cand.com.vn/vi-vn/khcn/2013/5/198644.cand
Xưa nay mình vẫn cho rằng mình chống cộng. Chính vì vậy mình góp ý: “Đấu tranh cho tự do đương nhiên phải chống lại độc tài. Nhưng độc tài của Miến Điện khác với độc tài cộng sản. Độc tài cộng sản là độc tài tòan trị theo chủ nghĩa cộng sản lấy đấu tranh giai cấp và tước đọat quyền tư hữu làm căn bản. Bởi thế Miến điện có thể sửa sai hay thay đổi nhưng việc này khó có thể xẩy ra tại Việt Nam. Thêm vào đó chúng ta là người Việt Nam chúng ta có bổn phận và trách nhiệm chống lại sai lầm và tội ác của nhà cầm quyền cộng sản. Ở hải ngọai cộng sản vẫn luôn tìm cách xâm lấn, rõ ràng nhất là nghị quyết 36, vì vậy theo tôi chống cộng còn để bảo vệ chúng ta, gia đình chúng ta, con em chúng ta.”
Nay nghĩ lại thấy mình thật lỗi thời. Thời thế đã thay đổi mình vẫn nghĩ như vài năm về trước. Thiết nghĩ mình phải nhận ra cộng sản đang chống lại tự do, cộng sản đang chống lại xu hướng của nhân lọai, cộng sản đang chống lại dân tộc, cộng sản đang chống lại chúng ta mới đúng.
Cộng sản rất sợ tự do, vì bản chất của tự do là chống lại cộng sản.
Bởi vậy Cộng sản rất sợ tư tưởng tự do. Mấy năm trứơc ông Nguyễn Hưng Quốc không được nhập cảnh. Tuần trước có hai ông Phạm Văn Điệp, hiện đang sinh sống ở Nga và ông Trần Trọng Linh, đang sinh sống tại Pháp, đều là công dân Việt Nam và đều có hộ chiếu Việt Nam, nhưng cả hai đã bị từ trối nhập cảnh (nghĩa là có đi nhưng không có về). Cũng chỉ vì cộng sản sợ các ông họ chống lại các ông.
Ông Phạm Văn Điệp từng tham gia Đảng Dân chủ Việt Nam thì còn có thể nói ông chống cộng. Ông Trần Trọng Linh, một nghệ sỹ tạo hình, ông bị cấm vào vì một triển lãm trong đó các ẩn phẩm của đảng Cộng sản nằm trong số rác rưởi lộ ra khi nước đá lấy từ sông Tô Lịch để triển lãm tan chảy. Rõ ràng đảng Cộng sản sợ hai ông.
Chủ nhật ngày 5 tháng 5 năm 2013, chỉ vào nhóm bạn trẻ công khai, hợp pháp và ôn hòa dã ngọan trao đổi nhân quyền, vậy mà nhà cầm quyền cộng sản tìm cách ngăn cản, bắt bớ, xuống tay đàn áp. Họ đánh vào mặt bạn Nguyễn Hòang Vi gẫy 7 cái răng, đánh vào mặt em gái Hòang Vi gẫy 3 cái răng. Tại sao họ lại điên cuồng chống lại các bạn trẻ? Bởi vì họ sợ sợ tự do. Mà tự do lại là chiều tiến hóa của nhân lọai. Cộng sản đang chống lại nhân lọai.
Có những người cộng sản nhưng nay thức tỉnh lên tiếng về việc đảng Cộng sản cấu kết với ngọai bang cũng bị bọn cầm quyền khủng bố trấn áp. Tại sao họ sợ? Vì giữ gìn non sống tổ quốc là dựa vào chính nghĩa dân tộc. Mà đảng Cộng sản lại theo Tàu bán nước, họ không sợ, không chống lại sao được!!!
Rõ ràng thời thế đã thay đổi nay mình phải nói cộng sản đang chống lại tự do, cộng sản đang chống lại xu hướng của nhân lọai, cộng sản đang chống lại dân tộc, cộng sản đang chống lại chúng ta thì mới đúng.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne Úc Đại Lợi
Bệnh xá Tập đoàn 25 của Trung Quốc, theo kế hoạch di chuyển thương binh
đến vị trí an toàn. Ảnh: NF3.86.
Thi thể của nữ tù binh Việt Nam bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,
sau đó cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạng, đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt.
Thi thể tại hiện trường đang nằm trên băng ca cứu thương
của bệnh xá Tập đoàn 25. Ảnh: NF3.86.
Nữ tù binh Việt Nam, sau khi bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,
và ức bách cho đến chết, áo ngược bị xé rách toang từng mảnh,
cho thấy cự tuyệt thất vọng, thi thể vứt bỏ tại bìa rừng núi 227,
cách bệnh xá Tập đoàn 25, 2 km. Ảnh: NF3.86.
Nữ tù binh Việt Nam, sau khi bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,
và hành hung cho đến chết, thi thể vứt ném sau giao thông hào,
chỉ phủ lên một lớp nilon của bệnh xá Tập đoàn 25. Ảnh: NF3.86.
Một nữ tù binh Việt Nam còn mặc quần áo bệnh xá,
bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, chúng đang gọi
điện báo cho đồng bọn đến tiếp tục cưỡng dâm.
Người nữ tù binh này được giải vây và cứu thoát.
Ảnh: NF3.86.
[2] 10% Nữ quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
[3] 107 nữ tù binh chiến tranh hiện diện tại chiến trường Lão Sơn, Việt Nam.
[4] Đặng Tiểu Bình, tuyên bố ngày 20/12/1978, tại hội nghị Quân Ủy Trung Ương (CPC).
Trước ngày 4/12/1987, quân Trung Quốc còn mở vòng đai phòng ngự
các núi 215, 501,146, 147,255, 211, 267, 277, 1, 2, 3, và 4.
Ảnh: Hải Âu DF-1, F138.
Hôm sau, quân đội Việt Nam chiếm lại điểm núi 251, 505, 1, 2, 3, và 277.
Và quân đội Trung Quốc cố thủ tại Bộ chỉ huy Quân đoàn 14,
núi 146, 147, 255, 211, và 166. Ảnh: NF3.86.
Pháo binh Trung Quốc ngụy trang, chôn lấp pháo dưới giao thông hào,
tại căn cứ 255. Ảnh: Hải Âu DF-1, F138.
Đặc công Việt Nam phục kích xe bọc thép chống pháo của Trung Quốc
tại lưng núi 277. Ảnh: Ảnh: NF3.86.
Quân đội Trung Quốc tung vào chiến trường Lão Sơn,
vũ khí phun lửa hóa học. Ảnh: Ảnh: NF3.86.
Quân đội Trung Quốc sử dụng vũ khí phun lửa hóa học,
tạo ra khoản cách rộng lớn giữa hai chiến tuyến,
tạo ra một đường ranh phòng thủ để không bị tấn công
bất ngờ. Binh lính của Việt Nam bị vũ khí hóa học,
thiêu hủy không thấy xác. Ảnh: Ảnh: NF3.86.
Đến thăm và làm việc tại Việt Nam lần này, Đoàn công tác của thành phố Hà Trì, Khu tự trị Dân tộc Choang, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) do đồng chí Lục Khắc, Phó chủ tịch Hội nghị Chính trị Hiệp thương thành phố Hà Trì dẫn đầu có một nhiệm vụ quan trọng, đó là thu thập tư liệu lịch sử về đồng chí Vi Quốc Thanh trong thời gian đồng chí làm Trưởng đoàn Cố vấn quân sự của Chính phủ Trung Quốc tại Việt Nam (1950-1956). Trong không khí trang trọng, nồng ấm, chiều 26-12, tại Hà Nội, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã tiếp Đoàn. Cũng trong buổi tiếp ấy, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa đã trao cho Đoàn một số hiện vật, tư liệu lịch sử liên quan đến đồng chí Vi Quốc Thanh, một trong các vị lãnh đạo tiền bối của Trung Quốc có mối quan hệ gắn bó với Việt Nam và quan hệ hữu nghị truyền thống Việt-Trung.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa trao các tư liệu về đồng chí Vi Quốc Thanh cho đồng chí Lục Khắc. Ảnh: Khổng Minh Khánh |
Còn nhớ trong chuyến thăm Trung Quốc vào giữa năm 2010, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khi tiếp thân mật người thân của các đồng chí Trung Quốc có đóng góp trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của Việt Nam đã rất nhiều lần nhắc đến câu “Uống nước nhớ nguồn”. Đại tướng cũng khẳng định, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn sự giúp đỡ to lớn, chí tình, chí nghĩa và có hiệu quả của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, đặc biệt trong việc trực tiếp cử các đồng chí cố vấn, chuyên gia của Trung Quốc sang giúp đỡ cho Cách mạng Việt Nam. Trong ký ức của nhiều người Việt Nam, hình ảnh tận tụy, hết lòng vì nước láng giềng anh em của các đồng chí Vi Quốc Thanh, Trần Canh, La Quý Ba có lẽ mãi không thể phai nhòa.
Thực tế những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Việt Nam cũng đã cho thấy, các đồng chí cố vấn của Trung Quốc luôn đồng cam, cộng khổ, sẵn sàng hy sinh tính mạng, tình cảm riêng tư của mình để giúp đỡ Cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Và Việt Nam, khi đó tuy điều kiện còn nhiều khó khăn, lương thực, thực phẩm thiếu thốn, nhưng vẫn dành cho các đồng chí cố vấn Trung Quốc những gì tốt nhất.
Như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nghĩa và đồng chí Lục Khắc đã nói, những hiện vật, tư liệu được trao lại cho Đoàn công tác thành phố Hà Trì chiều 26-12 đều mang giá trị tinh thần và lịch sử hết sức lớn lao đối với cả Việt Nam và Trung Quốc. Trong số đó đặc biệt phải kể tới: Bài trả lời phỏng vấn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày 7-5-1989 nhân kỷ niệm 35 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, nói về sự giúp đỡ của các nước đối với cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong đó có sự giúp đỡ của Trung Quốc; Cuốn sách “Sự thực lịch sử Đoàn cố vấn Trung Quốc giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp (1950-1956)” do Nhà xuất bản Quân Giải phóng Bắc Kinh phát hành năm 1990; Hay như bức ảnh chụp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh trong Chiến dịch Biên giới năm 1950 và bức ảnh chụp Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đàm luận cùng đồng chí Vi Quốc Thanh cũng trong chiến dịch này.
Năm 2013, nhân kỷ niệm tròn 100 năm ngày sinh của đồng chí Vi Quốc Thanh, một Nhà trưng bày nhằm tuyên truyền về công lao của ông đối với đất nước Trung Quốc cũng như quan hệ hữu nghị Việt-Trung sẽ được xây dựng tại huyện Đông Lan, thành phố Hà Trì, tỉnh Quảng Tây (quê hương của đồng chí Vi Quốc Thanh). Khi ấy, những hiện vật và tư liệu lịch sử nói trên sẽ càng phát huy giá trị, trở thành “giáo cụ trực quan” sinh động góp phần tuyên truyền cho thế hệ trẻ của Việt Nam và Trung Quốc về những đóng góp của các vị tiền bối đối với việc tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa quân đội và nhân dân hai nước.
VŨ HÙNG
HẺM BUÔN CHUYỆN ( KỲ 85) : “ Ổng đọc gì, biết chết liền !”
Nhật Tuấn
Chập tối nay quán đang coi đĩa cải lương “Cây sầu riêng trổ bông”, ông đại tá hưu bước vào, hớn hở la lớn :
“ Tới giờ rồi…mở thời sự coi!”
Chị Gái hủ tíu tròn mắt :
“ Có chuyện gì chú Ba ?”
Ông đại tá hưu vui vẻ :
“
Ơ cái con Gái này suốt ngày chỉ lo bán hủ tíu. Tối nay đồng chí Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn bế mạc Hội nghị trung ương 7. Bà con
phải chăm chú lắng nghe quán triệt tình hình nhiệm vụ của toàn đảng,
toàn dân…”
Chị
Gái hủ tíu đành bật tivi, quả nhiên ông Nguyễn Phú Trọng đang long
trọng đọc diễn văn. Cả quán im phăng phắc như lắng nghe từng câu từng
chữ.Mãi tới khi ông Trọng đọc tới câu cuối : “Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI…”, hội nghị vỗ tay rào rào, thằng Bảy xe ôm cũng nhảy lên vỗ tay :
“ Hoan hô…hoan hô…”
Cô Phượng cave cười ngỏn nghẻn:
“ Mày hoan hô cái gì vậy Bảy ?”
Thằng Bảy xe ôm nhe răng ra cười :
“ Hoan hô ông Tổng Bí thơ đọc diễn văn khai mạc hay quá hay…”
Cô Phượng cave cười rinh rích :
“ Mày bị chập mạch hả Bảy ? Ổng đọc diễn văn khai mạc hồi nào, ông đọc diễn văn bế mạc chớ ?”
Thằng Bảy xe ôm nhăn nhở :
“Thì cũng vậy cả thôi. Khai mạc ổng đọc vậy, bế mạc cũng y vậy, có gì khác đâu…”
Ông đại tá hưu quát :
“ Thằng Bảy xe ôm im miệng để bà con phát biểu. Nào, chị Gái hủ tíu, nghe đồng chí Tổng Bí thơ đọc diễn văn chị thấy sao ?”
Chị Gái hủ tíu lắc đâu :
“ Ổng đọc gì tôi đâu có biết, biết chết liền…”
Ông Tư Gà nướng lên tiếng :
“ Biển đông đang nóng, 32 tàu đánh cá Trung Quốc đang nằm lì Trường Sa , sao ông Trọng không nói tới ?”
Gã Ky Quèn cười cười :
“ Nói rồi, nói rồi, cử tân Ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Thiện Nhân sang Tàu nói rồi…”
Cô Phượng cave tròn mắt :
“ Ủa…ổng nói gì vậy cà ?”
Thằng Bảy xe ôm :
“
Thì lại tăng cường tình hữu nghị giửa hai đảng, tô thắm 16 chữ vàng.
Chuyện Trung Quốc không nói tới đã đành, thế còn chuyện chống tham
nhũng sao, vụ Vinashin, Vinaline xử thế nào ? Sao không thấy ổng nói tới
?”
Cô Phượng cave cười lớn :
“ Tham nhũng với chống tham nhũng là chuyện nội bộ đảng, dân biết sao được, ông Trọng không nói tới phải rồi…”
Bà Năm củ cải :
“ Tôi chỉ lo cái vụ mọi thứ tăng giá vùn vụt, rồi thất nghiệp tràn lan, lương không đủ sống…sao ổng không nới tới ?”
Thằng Bảy xe ôm gạt ngang :
“ Ba cái chuyện ruồi bu đó là của dân, hội nghị đảng bàn chuyện của đảng thôi .”
Chị Gái hủ tíu thắc mắc :
“ Rồi còn cái vụ dân oan đi đòi đất cũng không nghe ổng nói gì ?”
Cô Phượng cave cười đểu :
“ Chuyện dân oan bị bắt, nhốt, cưỡng chế là của công an, cảnh sát, ổng không nói tới phải rồi…”
Gã Ky Quèn giờ mới lên tiếng :
“ Tôi thấy Hội nghị 7 lần này có cái rất mới….”
Ông đại tá hưu sáng mắt, vui vẻ :
“ Đó…phải phát biểu xây dựng như thằng Ky Quèn này, mà mày thấy cái gì mới ?”
Gã Ky Quèn cao giọng :
“
Tôi thấy kỳ họp này mấy cha đặt rất nặng vấn đề biến đổi khí hậu toàn
cầu. Cả bài diễn văn tới một phần tư ông Trọng nói tới nào nước biển
dâng, nào thay đổi thời tiết…”
Ông đại tá hưu vui vẻ :
“ Đúng đúng, như vậy mới thấy thiên tài đảng ta, bao giờ cũng có tầm nhìn chiến lược, đi tắt đón đầu…”
Cô Phượng cave hí hửng :
“ Vậy rồi tầm nhìn chiến lược đi tắt đón …bão lũ, sóng thần, nước biển dâng của đảng ta ra sao chú Ba ?”
Ông đại tá hưu còn đang cà lăm chưa biết nói sao, thằng Bảy xe ôm đã cười ha hả :
“ Có rồi…có rồi…mọi chuyện động đất, sóng thần đảng ta đã có phương án dự phòng hết rồi…”
Ông Tư Gà nướng càm ràm :
“ Dự phòng sao ? Mày phó thường dân sao biết được ?”
Thằng Bảy xe ôm trợn mắt :
“
Biết chớ sao không. Nghe nói đảng đang thảo luận với Mỹ mua một hàng
không mẫu hạm rộng bằng chục cái sân banh, cao bằng tòa nhà 20 tầng
lận…”
Cô Phượng cave cười to :
“ Thằng Bảy xe ôm chập mạch thiệt rồi. Dân nghèo, kinh tế kiệt quệ, mua hàng khâu mẫu hạm làm quỷ gì ?”
Thằng Bảy xe ôm trợn mắt :
“
Thì để mai kia biến đổi khí hậu, sóng thần dâng lên thì Bộ chính trị ,
Ban Bí thơ, Ban chấp hành trung ương cùng gia đình sẽ sơ tán hết cả lên
tàu…”
Ông Tư Gà nướng cười cười :
“ Lúc đó dân chết hết, đảng lên tàu làm gì ?”
Cô Phượng cười lớn :
“ Thì để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường Bác đã chọn cho dân ta chứ còn làm gì ?”
Cả quán cười ầm ầm. Riêng ông đại tá hưu mặt hầm hầm.
11-5-2013
Cùng quẫn rồi… thì cắn dậu
Cái nhà Ông Vinh viết câu không chú thích , chớ Dân Miền nam gọi “dậu” là “cái tự do” đấy nhé. Còn chó thì là “chó cắn càn” hay cắn bừa.
J.B Nguyễn hữu Vinh blog
Trần Thạch Linh
Bài trên báo Nhân Dân====>>>
Mới đây, tác giả JB Nguyễn Hữu Vinh đã lại có bài trên Blog của mình, bài : “Sự cùng quẫn nhìn từ báo nhân dân” Bài viết cũng được đăng trên BBC với một tựa đề “Sự cùng quẫn của tờ báo đảng”
Đây là một bài viết chín chắn, vẫn một văn
phong, một cái nhìn thẳng thắng, phê phán lối hành xử cố hữu của
truyền thông nhà nước, nhân sự kiên Hội Đồng Giám mục Việt Nam ra văn
bản “nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp”, gửi tới Quốc hội. Và lối hành xử này đã được bài viết cho là biểu hiện của sự “cùng quẫn”.
Trong bài viết, nhiều chứng thực được đưa ra để bóc trần bản chất sự việc. Trong đó có trường hợp “Báo Nhân Dân đăng “trang trọng” bài viết được cho là của một giáo dân “Nhiều điều chưa sáng trong một bản góp ý”. phản ứng với văn bản “nhận định và góp ý vào bản Hiến pháp” của HDDGMVN.Thiết tưởng những gì có trong bài viết của JB Nguyễn Hữu Vinh sẽ được được các cơ quan truyền thông chính thống của Đảng và Nhà nước như báo Nhân Dân, đài Truyền Hình Việt Nam (là đối tượng bị chỉ trích mà bài viết của JB Nguyễn Hữu Vinh nhắm tới) xem xét thận trọng và chắc chắn sẽ rút ra được nhiều bài học cần thiết về công tác truyền thông cũng như tác nghiệp, tuyên truyền vận đông quần chúng nhân dân…
Thế nhưng, ngay lập tức báo Nhân Dân, rồi đài Truyền hình Việt Nam… giẫy lên như “đỉa phải vôi”. Nhưng vẫn lại là phản ứng theo cùng một cách rất “cùng quẫn” nêu trên, bằng một bài kế tiếp “Một sự vu khống, xuyên tạc trắng trợn?” .
Đọc bài phản ứng của báo Nhân Dân (dù đây không phải là một bài viết)… Người đọc dễ dàng nhân thấy đằng sau sự “cùng quẫn” cũ mòn, một hiện tượng mới đã nảy sinh. Đó chính là hiện tượng “cắn dậu”… hiểu theo tinh thần của câu tục ngữ “chó cùng cắn dậu” (Tuyệt nhiên không gọi báo Nhân Dân là chó, mà nói về tình thế tất yếu “cùng” rồi sẽ dấn tới “cắn đậu”) tức là làm bừa… Và đây là lý do khiến những người quan tâm nhìn nhận sự việc một cách “toàn cảnh” hơn bắt đầu từ sự kiên Hội Đồng Giám mục Việt Nam ra văn bản “nhận định và góp ý vào bản Hiến pháp” gửi tới Quốc hội.
Đây là một sự kiện xã hội, chính trị , tôn giáo… rất lớn trong bối cảnh đất nươc đang chuyển mình theo hướng dân chủ tiến bộ và hướng tới quyền con người. Sự kiện đã ngay lập tức tác động mạnh, tích cực và kịp thời tới các phong trào, các lực lượng đang đấu tranh cho tiến bộ xã hội, lúc này là phong trào và lực lượng nhân dân tham gia ký kiến nghị “sửa đổi hiến pháp năm 1992 ” do 72 Nhân sĩ Trí thức tiến bộ khởi xướng và hàng chục ngàn người trong và ngoài nước ký tên hưởng ứng.
Người dân (đặc biệt là những người có đạo) nô nức tham gia ký kiến nghị, tìm hiểu học tập các nội dung trong văn bản “nhận định và góp ý vào bản Hiến pháp” của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam… mỗi chữ ký là một thay đổi nhận thức, là một bước vượt qua sợ hãi.
Tình hình này đã làm cho các thế lực trì trệ trong giới cầm quyền vốn đang sử dụng việc “sửa đổi hiến pháp” để mong cố thủ lâu hơn nữa trong cái boong- ke độc tài toàn trị thấy khó chịu và run sợ, họ tìm mọi cách để làm vô hiệu, hạ thấp những giá trị quan trọng của “nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp” mà HĐGMVN đã nêu.
Lẽ tất nhiên là cả hệ thống truyền thông với hai cơ quan truyền thông nặng ký bạc nhất là báo Nhân Dân và đài Truyền hình Việt Nam xung kích vào cuộc…
Nhưng!
Buồn thay là đã chẳng có gì mới hơn ngoài những chiêu, trò đã diễn từ nhiều năm trước với Đạo Công Giáo… mà tác giả JB Nguyễn Hữu Vinh đã vạch ra và cho đây là biểu hiện của sự “cùng quẫn”.
Những câu hỏi đã được đặt cho sự “cùng quẫn” này là: Tại sao Báo Nhân Dân hay đài Truyền Hình Việt Nam… những cơ quan truyền thông báo chí hàng đầu của Đảng và Nhà nước, có đến cả ngàn cán bộ công nhân viên chức, biên tập viên, phóng viên , cộng tác viên… có cơ sở chân rết ở khắp mọi tỉnh thành, vùng miền trong nước và quốc tế… lại không thể (hoặc không dám) trực diện tranh luận, phê phán văn bản “Nhận định và góp ý vào bản Hiến pháp” của HĐGMVN (nếu thấy không tích cực)? mà phải thông qua một “bài viết”, trên một “trang điện tử do một số tác giả người Việt hiện đang sinh sống ở nước ngoài thực hiện”? và “tác giả” lại là một người chưa từng là “tác giả” của một “bài viết” trên blog hay một status trên facebook ? “tác giả” chỉ là một “công dân theo Thiên chúa giáo, hiện đang sinh sống tại TP Cao Lãnh – Ðồng Tháp”?
Thêm nữa là, khi những gì vô lý, không minh bạch được gói trong cái gọi là “bài viết” của “tác giả” này bị JB Nguyễn Hữu Vinh vạch ra thì lập tức “Công dân Nguyễn Trọng Nghĩa” (“tác giả” bài viết) cùng cả dàn “dư luận viên” đùng đùng nổi giận, thóa mạ, quy kết tội trạng…và nguy hiểm là đã có những đe dọa ném tới Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh. Thông qua “Một sự vu khống, xuyên tạc trắng trợn?
Và từ đây câu hỏi kế tiếp cũng không khác câu hỏi trước đó là: Tại sao báo Nhân dân hay đài Truyền Hình Việt Nam… với thế mạnh tuyệt đối của mình lại không đàng hoàng trực diện, tranh luận, đấu tranh buộc cho blogger JB Nguyễn Hữu Vinh cùng dư luận quan tâm phải tâm phục, khẩu phục? mà lại tiếp tục thông qua “công dân theo Thiên chúa giáo” cùng các “dư luận viên” với các tên trời ơi đất hỡi như: (Nguyễn Thanh Tùng – doimat.cuanhcuem.net), (molang0205). (Lời Tòa soạn sachhiem.net ) để biện minh, và buông lời xúc xiểm, quy chụp đe dọa Blogge JB Nguyễn Hữu Vinh. Trong khi đó, rõ ràng JB Nguyễn Hữu Vinh đàng hoàng xưng danh tính, hình ảnh, địa chỉ và quan điểm của mình, thậm chí còn rõ ràng hơn cả… Báo Nhân Dân. Đây có là cách hành xử của một cơ quan truyền thông lớn?
Rõ ràng, câu trả lời đơn giản nhất cho những câu hỏi đặt ra trên đây sẽ vẫn là sự “cùng quẫn”… mở rộng thêm sẽ thấy là: với những hành vi có động cơ, có bản chất sai trái thì sẽ luôn được thể hiện theo cách núp bóng, bất minh, khuất tất… đôi khi chuyển thành bạo lực .
Và trong bài phản ứng của báo nhân dân “Một sự vu khống, xuyên tạc trắng trợn” ta thấysự núp bóng, bất minh và sự đe dọa là rất rõ. Nó đã được thể hiện theo đúng tinh thần “…cùng…. thì cắn dậu”
Vì thế ,tác giả JB Nguyễn Hữu Vinh hãy cảnh giác, sẵn sàng với những nguy hiểm có thể xẩy tới trong nay mai. Những giáo dân, những người yêu nước, yêu công lý sự thật đã sẵn sàng… đứng cùng anh trong cuộc chuyển mình đi lên của đất nước, của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
Hà Nội, Ngày 11/5/2013 – ngày Nhân quyền cho Việt Nam tại Hoa Kỳ lần thứ 19.
Trần Thạch Linh
Đọc thêm:
- Tìm hiểu sự việc qua Truyền Thông Chúa Cứu Thế:Sự cùng quẫn nhìn từ báo Nhân Dân
- ‘Sự cùng quẫn của tờ báo Đảng’
- Thêm một trò bịa đặt, dối trá trắng trợn của Đài Truyền hình Việt Nam
- Thế thì chắc chắn là vinh danh rồi “Nhân Dân” ạ
Việt Nam chịu tổn thất 1 tỉ USD/năm từ thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông
CAND
20:11:00 11/05/2013
Việt Nam đang đứng trước
nguy cơ phải gánh chịu tác động to lớn, chưa thể lường trước từ các dự
án thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông: thiếu hụt nguồn nước ở hạ lưu;
xâm nhập mặn nghiêm trọng; tổn hại nguồn lợi thủy sản từ 500 triệu USD
đến 1 tỉ USD mỗi năm.
Ngày 10/5, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE), Hội phát triển Hợp tác Kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia (VILACAED) đã phối hợp tổ chức Diễn đàn Tài nguyên Mê Kông II – Hợp tác đầu tư và Phát triển bền vững Tiểu vùng Mê Kông.
Nằm ở hạ nguồn sông Mê Kông, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phải gánh chịu tác động to lớn, chưa thể lường trước từ các dự án thủy điện ở thượng nguồn: thiếu hụt nguồn nước ở hạ lưu; xâm nhập mặn nghiêm trọng; suy giảm lượng phù sa bồi đắp cho đồng bằng từ 26 triệu tấn/năm xuống còn 7 triệu tấn/năm; tổn hại nguồn lợi thủy sản từ 500 triệu USD đến 1 tỉ USD mỗi năm
K.Vy
http://cand.com.vn/vi-vn/khcn/2013/5/198644.cand
TA CHỐNG CỘNG HAY CỘNG CHỐNG TA.
Xưa nay mình vẫn cho rằng mình chống cộng. Chính vì vậy mình góp ý: “Đấu tranh cho tự do đương nhiên phải chống lại độc tài. Nhưng độc tài của Miến Điện khác với độc tài cộng sản. Độc tài cộng sản là độc tài tòan trị theo chủ nghĩa cộng sản lấy đấu tranh giai cấp và tước đọat quyền tư hữu làm căn bản. Bởi thế Miến điện có thể sửa sai hay thay đổi nhưng việc này khó có thể xẩy ra tại Việt Nam. Thêm vào đó chúng ta là người Việt Nam chúng ta có bổn phận và trách nhiệm chống lại sai lầm và tội ác của nhà cầm quyền cộng sản. Ở hải ngọai cộng sản vẫn luôn tìm cách xâm lấn, rõ ràng nhất là nghị quyết 36, vì vậy theo tôi chống cộng còn để bảo vệ chúng ta, gia đình chúng ta, con em chúng ta.”
Nay nghĩ lại thấy mình thật lỗi thời. Thời thế đã thay đổi mình vẫn nghĩ như vài năm về trước. Thiết nghĩ mình phải nhận ra cộng sản đang chống lại tự do, cộng sản đang chống lại xu hướng của nhân lọai, cộng sản đang chống lại dân tộc, cộng sản đang chống lại chúng ta mới đúng.
Cộng sản rất sợ tự do, vì bản chất của tự do là chống lại cộng sản.
Bởi vậy Cộng sản rất sợ tư tưởng tự do. Mấy năm trứơc ông Nguyễn Hưng Quốc không được nhập cảnh. Tuần trước có hai ông Phạm Văn Điệp, hiện đang sinh sống ở Nga và ông Trần Trọng Linh, đang sinh sống tại Pháp, đều là công dân Việt Nam và đều có hộ chiếu Việt Nam, nhưng cả hai đã bị từ trối nhập cảnh (nghĩa là có đi nhưng không có về). Cũng chỉ vì cộng sản sợ các ông họ chống lại các ông.
Ông Phạm Văn Điệp từng tham gia Đảng Dân chủ Việt Nam thì còn có thể nói ông chống cộng. Ông Trần Trọng Linh, một nghệ sỹ tạo hình, ông bị cấm vào vì một triển lãm trong đó các ẩn phẩm của đảng Cộng sản nằm trong số rác rưởi lộ ra khi nước đá lấy từ sông Tô Lịch để triển lãm tan chảy. Rõ ràng đảng Cộng sản sợ hai ông.
Chủ nhật ngày 5 tháng 5 năm 2013, chỉ vào nhóm bạn trẻ công khai, hợp pháp và ôn hòa dã ngọan trao đổi nhân quyền, vậy mà nhà cầm quyền cộng sản tìm cách ngăn cản, bắt bớ, xuống tay đàn áp. Họ đánh vào mặt bạn Nguyễn Hòang Vi gẫy 7 cái răng, đánh vào mặt em gái Hòang Vi gẫy 3 cái răng. Tại sao họ lại điên cuồng chống lại các bạn trẻ? Bởi vì họ sợ sợ tự do. Mà tự do lại là chiều tiến hóa của nhân lọai. Cộng sản đang chống lại nhân lọai.
Có những người cộng sản nhưng nay thức tỉnh lên tiếng về việc đảng Cộng sản cấu kết với ngọai bang cũng bị bọn cầm quyền khủng bố trấn áp. Tại sao họ sợ? Vì giữ gìn non sống tổ quốc là dựa vào chính nghĩa dân tộc. Mà đảng Cộng sản lại theo Tàu bán nước, họ không sợ, không chống lại sao được!!!
Rõ ràng thời thế đã thay đổi nay mình phải nói cộng sản đang chống lại tự do, cộng sản đang chống lại xu hướng của nhân lọai, cộng sản đang chống lại dân tộc, cộng sản đang chống lại chúng ta thì mới đúng.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne Úc Đại Lợi
Ngày Mẹ – “Lương Tâm Các Người Ở Đâu ?” (LK Bình Minh)
“…Nhân
ngày Mẹ hôm nay 12-05-2013 xin gửi những nỗi niềm chia sẻ đến tất cả
các bà Mẹ dân oan, các bà Mẹ đang nuôi chồng trong lao tù và tất cả các
em thiếu nữ đang trong nhà tù lớn nhỏ của CSVN. Chính các em, chính các
bà mẹ – là những người chiến sĩ không tên tuổi – đang tiếp tục viết
những dòng sử bi tráng cho dân tộc Việt Nam…”
Năm
19 tuổi là lúc khởi đầu tôi nếm mùi tù Cộng Sản. Tôi bị bắt giam, bị
tra khảo và bị đánh đập tàn nhẫn – dĩ nhiên với những tội danh khá phổ
biến “phá rối”, “phản động”.
Thế
nào gọi là “phá rối” khi – để cướp nhà chính bạo quyền CS đã đẩy cả gia
đình tôi vào chốn rừng thiêng nước độc với mỹ từ “kinh tế mới”?
Sau
khi bố tôi bị đưa ra Bắc vào tháng 5/1975, gia đình (mẹ và các em) tôi
bị ép buộc phải đi kinh tế, thì đây là thời điểm, chúng muốn cướp nhà
của gia đình tôi. Công an viện cớ chủ nhà (là bố tối) vắng mặt, không có
tên trong sinh họat phường khóm, nên chúng ngang nhiên đến niêm phong
căn nhà tôi đang ở để đợi chuyển giao cho cán bộ.
Sau
những lần lên xuống phường huyện để phản đối chuyện tịch thu nhà trái
phép không có kết quả, tôi đã hùng dũng xé tờ giấy niêm trước cửa, vào
nhà, thế là tôi bị tống vào tù hơn một tháng vì “phá rối” và “xâm phạm
gia cư bất hợp pháp”.
Vì
sớm để tâm vào vấn đề xã hội đất nước, với nỗi khao khát xây dựng môt
đất nước văn minh, thiện đức từ thời còn trung học, nên các chính sách
tù cải tạo, kinh tế mới để trả thù và tận diệt sức sống người dân miền
Nam của nhà cầm quyền CS đã thôi thúc tôi … nổi loạn.
Vâng,
tôi đã nổi loạn và tôi lại vào tù với tội danh phản động. Ra khỏi tù,
tôi lại tiếp tục phản động, rồi lại bị bắt, rồi lại bị đánh đập …
Bị
đánh đập trong tù tôi trở nên chai lì. Cái phản kháng nổi loạn trong
tôi càng mãnh liệt. Mỗi tối lật áo lên, trong bóng tối của căn phòng
giam, tay ấn nhẹ, lần mò, đếm thầm những vết thương trên thân thể mà
lòng tan nát tự nhủ: phải can đảm, không thể ươn hèn.
Mười
chín (19) tuổi ở tù Việt Cộng, dù lì lợm tôi cũng chỉ là một đứa con
gái. Vì sự an ninh của gia đình, nên tôi đã cách ly, bỏ gia đình ra đi
như một đứa con ngỗ nghịch. Tôi nghĩ đến người cha, tính tình cương
trực, ở trại tù miền Bắc xa xôi, chắc cũng đang nhớ vợ con, và chắc
không dám mơ … đến một ngày về xum họp. Đêm giao thừa, nhớ mẹ, nhớ bố,
nhớ đàn em nhỏ để rồi tấm tức khóc, không biết mẹ có hiểu cho đứa con
gái đang sa vào tù ngục.
Có
lần tôi được thả, tôi tìm về nhà nơi vùng kinh tế mới. Sờ những vết
thẹo và những vết bầm trên người tôi Mẹ đã ôm chặt lây tôi khóc – khóc
rất nhiều và khẩn khoản tôi đừng đi nữa. Mẹ tôi đã không biết tôi đã làm
những gì để thân thể ra như thế này. Thương Mẹ, thương các em, nhưng…
tôi cũng thương cả những đứa bé lê lết ăn mày trên hè phố, thương cả
những người hàng xóm mất nhà đi kinh tế mới … Thế là tôi lại âm thầm ra
đi.
Đã
34 năm trôi qua kể từ ngày tôi trốn thoát trại tù CS. Bây giờ tôi đã
trở thành một người mẹ, có làm Mẹ mới hiểu được tình yêu con vô bờ bến
của những người Mẹ.
Đọc
thư của bà Nhung gửi cho Phương Uyên nước mắt tôi chảy dài. Những ngày
tù tội ba mươi mấy năm về trước hiển hiện trong lòng, buốt cả tim.
Đã
34 năm trôi qua không thể làm nhạt nhòa đi những da diết cô đơn trong
tù nơi lòng tôi và những tan nát này chắc chắn các em Nguyễn Phương Uyên
hay Đỗ thị Minh Hạnh và các em thiếu nữ đang chất chứa trong lòng.
Dòng
lệ của Mẹ, dòng lệ của con đến khi nào mới được hòa lẫn trên má trên
môi ? “Hòa bình xum họp” là như thế này đấy ư khi mà cả triệu người bị
chia lìa ly tán vì nhà tù Cộng sản? Nghĩ đến tâm can của những người Mẹ
đau khổ khi các cô con gái bị hành hạ đánh đập trong tù, tôi cũng muốn
gào to như mẹ Phương Uyên “Lương tâm các người ở đâu?” Rồi với vết cháy
(của điếu thuốc) trên trán người Mẹ, chiếc răng gẫy của người em, chắc
chắn Hoàng Vi cũng phải gào to “Lương tâm các người ở đâu?”
Đối
với tôi, tôi không đòi hỏi lương tâm của những kẻ lãnh đạo CSVN vì
chúng là loài lang sói, chúng đã không còn là con người, tôi chỉ muốn
hỏi những người chủ trương “sống chung với lũ”, những người đang tiếp
tay đóng tiếp các kịch bản mang nhãn hiệu dân chủ một cách máy móc không
suy nghĩ, “Lương tâm các người ở đâu?”
Sẽ
có thêm bao nhiêu em thanh niên thiếu nữ nữa sẽ bị tù tội như Phương
Uyên, sẽ bị đánh đập đổ máu như Nguyễn Hoàng Vi, như cô em gái Nguyễn
Hoàng Vi, và những thanh niên nam nữ không tên tuổi khác …? Câu hỏi này
tôi sẽ tiếp tục hỏi trong những bài viết khác.
Nhân
ngày Mẹ hôm nay 12/05/2013 xin gửi những nỗi niềm chia xẻ đến tất cả
các bà Mẹ dân oan, các bà Mẹ đang nuôi chồng trong lao tù và tất cả các
em thiếu nữ đang trong nhà tù lớn nhỏ của CSVN. Chính các em, chính các
bà mẹ – là những người chiến sĩ không tên tuổi – đang tiếp tục viết
những dòng sử bi tráng cho dân tộc Việt Nam.
Chúng ta không cô đơn. Chúng ta sẽ đấu tranh đến hơi thở cuối cùng.
Chúng ta không bao giờ bỏ cuộc, hỡi những cô gái, hỡi những bà mẹ Việt Nam.
12/05/2013
LK Bình Minh
LK Bình Minh
Giặc đã ùa vào nhà Việt Nam – Kỳ 7 (Huỳnh Tâm)
Thongluan
“…Nhân
dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979 và
trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Họ đang tìm cách xóa nhòa những ký
ức về những cuộc chiến này. Đảng CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên
hình một tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc
Việt Nam…”
LTS:
Những hình ảnh tài liệu trong bài này chắc chắn gây chấn động mạnh cho
độc giả vì nó vô cùng tàn khốc. Nhưng đây là dẫn chứng duy nhất để tố
cáo những hành vi man rợ của quân đội Trung Quốc đối với các nữ tù binh
Việt Nam trong cuộc chiến biên giới Việt Trung kéo dài từ năm 1979 cho
đến năm 1989. Đảng CSVN đã giấu nhẹm tất cả mọi tin tức liên quan đến
cuộc chiến này. Tác giả Huỳnh Tâm viết bài này thay cho những nén hương
gởi đến vong hồn những nữ tù bình Việt Nam đã hy sinh và chết một cách ô
nhục cho Tổ Quốc Việt Nam mà không được một ai ghi nhớ. Lịch sử Việt
Nam chưa bao giờ có cảnh tượng thảm thương như thế này.
Tội ác chiến tranh, lửa bốc khói ô nhục
Đêm
4/12/1987, pháo binh Việt Nam tăng cường lửa cối pháo trong vòng 43
phút, rót xuống đầu binh lính Trung Quốc. Toàn vùng biên giới Lão Sơn
tràn ngập một màu lửa đỏ cháy ngùn ngụt, khốc liệt. Cùng vào thời điểm
này, pháo binh Việt Nam bất ngờ đánh trúng vào kho đạn của núi 277,
thuộc Sư đoàn 199 Trung Quốc, kéo theo hàng loạt đạn pháo liên tục nổ ầm
ì, trên mức độ bình thường; đạn cày tung toé đất đá, bụi, khói lửa bay
mịt mù. Đứng giữa chiến trường ngơ ngác trước cảnh điêu tàn chưa bao giờ
thấy, binh lính Trung Quốc chui rúc xuống giao thông hào sâu trong lòng
đất, chỉ để lại trên mặt đất những tên lính thủ chiến. Bọn họ đã trở
thành một loài côn trùng lớn bé lúc nhúc đi tìm chỗ dung thân, nhưng tất
cả hầu như bị hủy diệt vì lửa đạn.
Đạn
pháo rung chuyển mạnh, từng phút một, đã đánh thức cả vùng biên giới
núi Lão Sơn. Quân đội Trung Quốc từ lâu vẫn xay mê với chiến thuật biển
người. Lần này chiến binh Việt Nam dùng pháo binh mạnh, đàn áp chiến lũy
Trung Quốc và cho họ một bài học chiến sự. Quả nhiên những tên bành
trướng Trung Quốc đã tỉnh ngộ không còn xem thường hỏa lực tác chiến của
chiến binh Việt Nam.
Hiện
thời Sư đoàn 199 và 67 vẫn ra sức cố thủ để còn đất dung thân, tất yếu
phải thay đổi chiến thuật, không tin tưởng nhiều vào mật danh do những
tình báo Hoa Nam cung cấp và những tên phản dân tộc Việt Nam đang bị bộ
máy chiến tranh Trung Quốc nghi ngờ. Có thể uy tín của họ đang xuống
thấp, bởi trận mưa cối pháo vừa rồi, do pháo binh Việt Nam tự phát, cho
nên tình báo Hoa Nam không có sự kiện để đưa vào kế hoạch chiến trường
Lão Sơn.
Cùng
ngày, quân đội Việt Nam ngừng bắn pháo trước một giờ, tạo cơ hội thuận
lợi cho những đơn vị quân đội Trung Quốc di chuyển đến vị trí phòng thủ
mới, và bệnh xá Tập đoàn 25 đồng di chuyển thương binh đến vị trí an
toàn. Những quân đoàn Trung Quốc, hối hả tổ chức lại kế hoạch phòng ngự,
lệnh tiến hànhcố thủ 45 đỉnh núi thuộc vùng núi Lão Sơn,bảo đảm kiên cố
chiến lược, mặt khác kết nối toàn vùng, bao vây quân địch (Viêt Nam),
cho đến chiến thắng cuối cùng.
Trong
cảnh hỗn mang rối loạn hàng ngũ tại bệnh xá Tập đoàn 25, những thi thể
của những nữ tù binh Việt Nam bất ngờ bị phơi bày. Trên lý thuyết, những
nữ tù binh đến đây điều trị thương tích nhưng không may cho họ vào thời
điểm này, họ lâm vào cảnh ngộvô cùng bi đát và thảm khốc. Nữ tù binh
Việt Nam không chết vì súng đạn, mà chết vì bị hãm hiếp. Những xác chết
này nằm lăn lóc, thân thể trần trụi, chết trong căm hờn tủi nhục, đôi
môi mím chặt đau đớn, phá tan tất cả thân xác của phụ nữ Việt Nam. Không
ai có thể ngờ ở chốn chiến trường lại có cảnh tượng thô bạo như vậy,
khó ai tin được người lính Trung Quốc dã man đến thế!
Một
số Hải Âu, và NF3.86 đồng chứng kiến bi kịch khiếp đảm, rùng rợn cả
người, cho đến mấy mươi năm sau hình ảnh thi thể của những nữ tù binh
Việt Nam vẫn còn ám ảnh tâm trí họ. Họ không thể nào quên:
‒
Ngày 4/12/1987, D514, thuộc F199, có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ bệnh xá Tập
đoàn 25 Trung Quốc. Theo kế hoạch của bộ chỉ huy chiến trường. Di
chuyển toàn bộ thương binh Trung Quốc ra khỏi vùng nóng, còn thương binh
Việt Nam sẽ được di chuyển cuối cùng. Thực tế trong cuộc tháo chạy, họ
đối xử phân biệt thương binh, đưa đến tình trạng mất kiểm soát căn cứ.
Trong cơn binh biến hỗn tạp, binh lính D514 nổi cơn thèm khác dục tính,
thi nhau hãm hiếp nữ tù binh cho đến chết và sau đó thủ tiêu thi thể. Họ
đã chết trong đau đớn và tủi nhục mà không một ai biết đến, một thương
tổn lớn cho nữ tù binh Việt Nam. Khủng khiếp hơn nữa, nữ tù binh Việt
Nam đã bị bọn giặc dã man Trung Quốc
cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạn và đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt.
cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạn và đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt.
Bệnh xá Tập đoàn 25 của Trung Quốc, theo kế hoạch di chuyển thương binh
đến vị trí an toàn. Ảnh: NF3.86.
Bi
kịch dã man này đã diễn ra từ lúc Đặng Tiểu Bình mở cuộc chiến xâm lấn
Viết Nam vào ngày 17/2/1979 và kéo dài cho đến cho năm 1989. Không biết
đã có bao nhiêu nữ tù binh Việt Nam rơi vào hoàn cảnh bị hãm hiếp và mất
tích. Điều này hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc đã bí mật ém nhẹm,
không hề một có tư liệu hay hồi ký nào xuất hiện ghi lại cuộc tàn sát
những nữ thương binh này tại biên giới Lão Sơn, Lào Cai, Việt Nam. Người
ta chỉ được biết qua truyền khẩu.
Những
hình ảnh do chính quân đội Trung Quốc chụp lại cho thấy họ ung dung
hành động theo bản năng thú tính tàn ác. Hình ảnh những nữ tù binh Việt
Nam đã bị hãm hiếp tập thể cho đến kiệt sức, thân thể trần trụi, cho
thấy sự ô nhục thảm khốc, xúc phạm đến nhân phẩm của người nữ tù binh
Việt Nam. Những người lính Trung Quốc tàn nhẫn quá đáng, sau khi thỏa
mãn dục vọng, họ cắt luôn những bộ phận nhạy cảm nhất trên người phụ nữ,
khi chết thân thể nữ tù binh Việt Nam không còn nguyên vẹn.
Thi thể của nữ tù binh Việt Nam bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,
sau đó cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạng, đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt.
Thi thể tại hiện trường đang nằm trên băng ca cứu thương
của bệnh xá Tập đoàn 25. Ảnh: NF3.86.
Không
có nỗi nhục nào hơn nỗi nhục trên đất Việt quê hương của mình, chính
mình bị làm tù binh chiến tranh dưới tay quân đội Trung Quốc. Họ xem nữ
tù binh Việt Nam như một món vật mua vui sinh lý. Những ca hãm hiếp,
chôn vùi thi thể nữ tù binh không chỉ xảy ra một lần. Những cấp chỉ
huyTrung Quốc vờ không biết, và ém nhẹm nội vụ nữ tù binh Việt Nam bị
chôn vùi dưới lòng đất lạnh, mộ phần vĩnh viễn vô danh. Hãi hùng hơn
nữa, đảng CS Việt Nam không hề lên tiếng và bày tỏ tri ân và thương tiếc
người lính xấu số đã hy sinh mạng sống trên chiến trường! Quá thật vô
cùng bất hạnh khi con người sinh rồi mất tích không ai biết xác chôn nơi
nào để người thân cầu siêu.
Trên
chiến trường, cả hai bên Việt Nam-Trung Quốc đều có tù binh. Phía Việt
Nam luôn luôn ưu đãi các tù binh chiến tranh Trung Quốc. Trái lại tù
binh Việt Nam, nhất là nữ tù binh, đã bị Trung Quốc đối xử tàn nhẫn, xem
đây một thứ rác phế thải không tái chế. Trung Quốc chưa bao giờ tôn
trọng theo lời cam kết “không hành động tàn bạo hay gây sốc đối với tù
binh nữ giới”. Những ai có đến hiện trường hiểu và chứng thực quân đội
Trung Quốc vô nhân đạo, đối xử với nữ tù binh rất tàn ác. Cộng sản Trung
Quốc dàn cảnh chụp hình những nữ tu bình Việt Nam ở trong trại giam
được đối xử tử tế, nhưng người biết chuyện thấy rõ đay chỉ là trò trình
diễn nhân đạo có tính toán chính trị.
Nữ tù binh Việt Nam, sau khi bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,
và ức bách cho đến chết, áo ngược bị xé rách toang từng mảnh,
cho thấy cự tuyệt thất vọng, thi thể vứt bỏ tại bìa rừng núi 227,
cách bệnh xá Tập đoàn 25, 2 km. Ảnh: NF3.86.
Trên
hành trình di chuyển đến điểm núi 255, trong tôi có lắm suy nghĩ cuồng
kháng, muốn hét lên một tiếng thật lớn để phá tán những uất hận cho
những oan hồn của những nữ tù binh bị hãm hiếp đến chết. Tiếng kêu uất
nghẹn, không thành lời. Tôi vẫn chưa hình dung được một phóng sự nào nói
về nữ tù binh Việt Nam, mà tôi đã gặp trên đường đi. Hình ảnh những tử
thi của nữ tù binh vẫn còn dán cứng vào mắt, trong tim, càng suy nghĩ
nhiều càng rối rắm không đầu đuôi sự kiện, cứ thế theo bước chân hối hả.
Đi không được bao lâu lại thấy trước giao thông hào một thi thể trần
trụi, nằm dài trên mặt đất, không có một thứ gì trên người, xem ra những
thi thể vô danh tiếp tục xuất hiện.
Hải
Âu DF-1, F67, tò mò, muốn biết vì sao có thi thể người phụ nữa ở giữa
núi rùng đang có chiến tranh, khi dỡ tấm nilon ra, thấy một phần cây
tròn đâm sâu vào trong cửa mình người phụ nữ, máu chảy ra nhiều đã đông
đặc tự bao giờ, mồm còn hả to, có lẽ van xin sự sống, hai cánh tay sải
rộng cho thấy đau đớn tận cùng và lúc chết buông xuôi, xác đã lạnh, với
những vết bầm tím vắt ngang dọc cả thân người, nơi bắp đùi có vết
thương, những thanh nẹp băng bó vải thưa, gấp chữ V còn mới.
Hải Âu DF-1, F67 khẳng định:
– Chính thi thể nữ tù binh Việt Nam đang điều trị tại bệnh xá của Tập đoàn 25.
Riêng tôi đoan quyết:
– Nữ tù binh này người Việt Nam, vì trên nét mặt rất Việt.
Tôi điềm tĩnh lại, muốn làm một cử chỉ nhỏ, rồi tự hỏi:
– Có nên thực hiện một việc nhẹ mà lại vô cùng nặng “tình lý” không, và cũng có nhẽ hổ thẹn với đời chăng?
Tôi
lấy quyết định vì đồng tộc Việt, tự khom lưng xuống, đôi tay rút thanh
cây gỗ tròn từ trong cửa mình người phụ nữ, máu ứ động trong người phun
ra thành vòi đã ngã màu đỏ bầm. Mọi người trố mắt nhì nhau, ngạc nhiên
thấy thanh cây gỗ tròn, bán kính 0,5 mm, đầu hơi nhọn, dài 2 m, đâm sâu
vào người gần 4 mm, cả người tôi toát mồ hôi lạnh.
Nhân
tiện có sẻng cá nhân, chung nhau đào huyệt, 15 phút sau hoàn tất, bắt
tay vào tẩm liệm, tiễn người nữ tù binh xấu số xuống lòng đất quê hương.
Trên phần mộ có cắm sâu cột gỗ 1,5 mét. [1]
Hải Âu DF-1, D350, cho biết:
–
Trước đây vài giờ nhận được tin, bệnh xá Tập đoàn 25, chuyển thương
binh đến nơi an toàn, không ngờ lại có sự kiện nữ tù binh Việt Nam bị
hãm hiếp đến thế này!
Nữ tù binh Việt Nam, sau khi bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,
và hành hung cho đến chết, thi thể vứt ném sau giao thông hào,
chỉ phủ lên một lớp nilon của bệnh xá Tập đoàn 25. Ảnh: NF3.86.
Tại
mặt trận biên giới Tây Bắc Việt Nam từ 1979-1987, đảng CS Việt Nam biết
rõ những sự kiện này, nhưng đã im lặng, giấu nhẹm không hề công bố về
số phận của những nữ tù binh bị hãm hiếp, quằn quại trên chiến trường,
đối mặt với những tên lính vô cảm của Trung Quốc.
Ngoài
ra, quân đội Trung Quốc đã từng vấy máu tanh, tấn công bệnh xá của Việt
Nam, cướp đi những nữ thương binh và cả nữ y tá, chỉ để làm một việc
bất nhân hãm hiếp, rồi sau đó thủ tiêu. Quân đội Trung Quốc không thua
gì thảo khấu, cực kỳ tàn nhẫn.
Chúng
tôi tiếp tục lên đường, từ xa, ở phía trước lưng núi 221, đã có tiếng
cầu cứu quen thuộc “Cứu tôi, cứu tôi”, bằng ngôn ngữ Việt, dù biết kêu
vô vọng bởi không còn ngôn ngữ nào khác, âm ngữ của mẹ Việt bao dung,
làm động cơ thôi thúc thành lời, đang vang động trời đất bao la. Tiếng
kêu vào không trung tuyệt vọng, hay tiếng kêu cứu trong hy vọng mong
manh.
Một nữ tù binh Việt Nam còn mặc quần áo bệnh xá,
bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, chúng đang gọi
điện báo cho đồng bọn đến tiếp tục cưỡng dâm.
Người nữ tù binh này được giải vây và cứu thoát.
Ảnh: NF3.86.
Phát
hiện trong tiếng “Cứu tôi, cứu tôi” có âm lượng thân thương, từ xa đã
rót vào tai, phản ứng tự nhiên tay làm hiệu nhờ những Hải Âu tiến đến
điểm có tiếng âm thanh người Việt Nam.
Không
sai người nữ chiến binh rơi vào tay lực lượng quỉ râu xanh Trung Quốc,
lúc chạm mặt, bọn chúng cả thảy nửa Tiểu đội lật bật mặc quần, và chạy
xuống núi, chỉ còn lại một tên Hán vẫn lõa lồ chưa kịp mặt quần, đang
gọi điện báo, riêng nữ tù binh Việt Nam thân thể xòa dài dưới đất, thân
lết bết khó nhọc, tay túm lấy chiếc váy để che hạ thể, do bệnh xá cấp, ể
oải ngồi dậy với tư thế sợ hãi.
Tôi hỏi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ thân yêu:
– Em, thể nào, cho anh biết, vì cớ nào lại có mặt ở đây?
Trên khuôn mặt của cô ta, có cả hai nét mặt, vừa mừng, vừa sợ, cô nói:
– Em muốn biết quý anh là ai ?
– Em đừng sợ, ở đây không tiện tỏ hết lời. Em tự nhiên theo các anh thì may ra sống.
Tôi ra hiệu, nhờ Hải Âu trừng trị tên Hán, không ngờ Hải Âu rút súng ra chuẩn bị bắn, tôi ngăn cản lại kéo Hải Âu ra xa nói nhỏ:
–
Anh phải lấy thẻ số quân, tên tuổi, đơn vị, rồi tặng cho y vài cú đạp
mạnh, sau đó cài một quả lựu đạn cho nổ máy điện đàm, tiếp theo bắng
dưới chân để y chạy thoát, cho y sống sau này sẽ làm nhân chứng tội ác
chiến tranh, những tên khả ố này phải treo tội ác lơ lửng trên đầu,
không thể tha thức để chúng nó ung dung sống trong trạng thái bình an
ngoài vòng pháp luật.Hải Âu có đồng ý phương thức giải quyết này không?
– Vâng, thưa anh, thượng sách, tôi thực hiện theo ý của anh.
Giải quyết nhanh tay, tên Hán chạy mất dạng, chúng tôi lên đường, nói:
– Mời cô em, cùng đi với chúng tôi.
–
Thưa, em không thể đi được vì bên hông trái trúng thương nặng, và bị 6
thằng lính Trung Quốc hãm hiếp hơn 3 giờ liền, em không còn sức để đứng
lên, các anh cứ đi, em chết ở đây cũng toại nguyện lắm rồi, và tạc dạ
nhớ ơn của quý anh cứu sống, em xin cúi đầu bái tạ ân nhân cứu mạnh, đa
tạ quý anh.
Cô ấy vái lạy như tế sao, như người lên “đồng cô” tại Điện Hòn Chén, đối diện lăng Vua Minh Mang, Huế. Vội vã đỡ cô ấy, nói:
– Chúng tôi xin cô đừng xá nữa.
Cùng
lúc tôi nhờ những Hải Âu thi nhau cõng cô ấy, với sức nặng 50 ký ngoài
không là bao, tuy nhiên đi đường xa có vấn đề, trên đường đi nhân tiện
hỏi về thân thế và sự nghiệp của cô ấy:
– Em có thể cho biết quý danh để tiện mồm được không?
–
Dạ, em tên Trần Thị M…..thuộc đơn vị E81, F365, QK2. Quân hàm Thiếu úy,
bị thương đêm 28/11/1987, sáng 29/11/1987, em bị lính Trung Quốc bắt
làm tù binh. Quê quán thị xã Lào Cai, địa chỉ số: 74, đường……….
Đã
đi được 1 giờ đường, tôi nhờ Hải Âu DF-1, F138 tiếp sức cõng cô M…..1
giờ nữa đến căn cứ 255 của Sư đoàn 138 thuộc Quân đoàn 46 Trung Quốc.
Thấy cô M…..ngủ say, vô tư trên lưng của Hải Âu, có dáng chừng mệt mỏi.
Tôi đề nghị Hải Âu:
– Nhờ anh Hải Âu DF-1, F138 đưa cô này đến bệnh xá Quân đoàn 46 để điều trị, khai báo theo thủ tục tù binh, tùy anh ứng biến.
– Vâng, tôi hiểu phải làm thủ tục như thế nào rồi.
–
Cũng nhờ anh thường xuyên đến bệnh xá thăm cô ấy, sau đó anh liên lạc
với bệnh xá hỏi họ sẽ đưa cô này đến trại tù binh nào, nhớ anh cho tôi
biết địa chỉ để đến thăm cô ấy nhé.
– Vâng, đúng thế phải làm thủ tục nhập trại tù binh, theo qui chế chiến tranh.
Cô M….vừa tĩnh dậy hỏi:
– Thưa, quý anh đã đến nơi chưa?
–
Chỉ còn 5 phút nữa là chúng ta chia tay, anh Hải Âu DF-1, F138 đưa cô
đến bệnh xá Quân đoàn 46, còn chúng tôi tiếp tục hành trình, sau khi cô
ổn định thủ thục tù binh, tôi đến trại thăm cô và những anh em tù binh
đồng hương.
Đến đây chúng tôi và cô M….. tạm biệt đi hai hướng, cô M….hỏi:
– Thế thì anh tên gì để báo ân?
– Không tiện sẽ có ngày gặp lại, chào tạm biệt cô M…..
Trên
đường đi tôi suy nghĩ nhiều về thân phận làm người phụ nữ Việt Nam quá
gian nan, phải tiếp nhận những ngỡ ngàn trong chiến tranh phức tạp. Nhờ
tiếp cận mới nhận diện bộ mặt thật của đảng CS Việt Nam và Trung Quốc,
nay đã hiện rõ về họ. Chính họ am tường những tội phạm chiến tranh, biết
những trường hợp hãm hiếp nữ tù binh, thế nhưng vẫn làm ngơ không can
thiệp, trái lại còn khuyết khích đốixử tồi bại hơn, xâm phạm tiết hạnh
của nữ tù binh, hai đảng CS không hề có cảm giác xấu hổ đối với hai dân
tộc, cho đến nay hồ sơ hãm hiếp tù binh vẫn bí mật khép kín.
Đảng
CS Việt Nam rõ ràng đã đồng lõa trong nội vụ này,vì đã không lên tiếng
phản kháng Trung Quốc về sự kiện nữ tù binh Việt Nam bị hãm hiếp. Đảng
CS Việt Nam đã để lộ “lề thói” chư hầu, coi như đã hết thuốc chữa trị.
Họ sống ung dung, vô trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Hy vọng một
ngày, sự kiện về nữ tù binh Việt Nam được bạch hoá, về mọi hành vi dã
man, kinh tởm này, sẽ có lúc hiển thị, thay lương tâm nhân loại, công bố
cáo bạch.
Người
nữ tù binh Việt Nam còn phải chịu đựng quá nhiều nghịch cảnh bi thương,
như trường hợp nữ tù binh bị hãm hiếp mang thai, giam hãm nơi bệnh xá
bí mật, họ bị đem ra trừng phạt bằng phẫu thuật cắt bỏ tứ chi, chôn sống
và ức bách. Có những trường hợp bị tiêm thuốc tuyệt tiêu khả năng sinh
đẻ! Tại chiến trường Lão Sơn, CS Trung Quốc đã có sẵn kế hoạch bẩn thỉu
vừa hãm hiếp tập thể vừa trừng phát. Có một số nữ tù binh Việt Nam sống
không bằng chết, đành quyên sinh để đổi lấy trinh tiết. [2]
Cảnh
tượng hãm hiếp không đơn lẻ nhưng được thi hành rộng rãi tại chiến
trường Lão Sơn. Trong cuộc chiến biên giới Việt –Trung, cả hai đảng đều
có cùng một mẫu số hèn hạ, tạo ra quá nhiều bạo lực, và phủ nhận hành vi
tội ác trước hai dân tộc Việt-Hán.
Vẫn
chưa hết, nữ từ binh Việt Nam gặp phải trăm ngàn hung thủ gian ác Hán
bao quanh,. Chúng muốn sự thống khổ của người phụ nữ Việt Nam kéo dài lê
thê suốt cuộc đời bằng những sĩ nhục về tinh thần lẫn thể xác. CS Trung
Quốc không những làm ngơ mà lại khuyến khích cho phép binh sĩ chà đạp
thân thể của người phụ nữ Việt Nam. Họ Đặng là thủ phạm như không ai có
thể quy trách nhiệm lên nhà tổ chức chiến tranh họ Đặng này. Đúng là một
bè lũ ký sinh hoại loạn. Họ dùng 107 nữ tù binh Việt Nam làm trò giải
trí vài lần hãm hiếp tập thể để phục vụ chiến trường.[3]
Nhân
dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979 và
trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Đảng CS Việt Nam thành công tước
đoạt quốc gia Việt Nam. Việc nước đại sự biến thành của riêng họ không
một người dân nào được đụng vào! Họ đang tìm cách xóa nhòa những ký ức
về những cuộc chiến này. CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên hình một
tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc Việt Nam.
Từ
ngày 17 tháng 2 năm 1979 cho đến nay đã trải qua 34 năm, đảng CS Việt
Nam vẫn bí mật ém nhẹm không công bố thống kê, tổn thất chiến tranh, tài
sản nhân dân, tài sản quốc gia, biên giới lãnh thổ mất bao nhiêu cây
số, quân số tham chiến, tử vong, thương binh, tù binh nam nữ được trao
trả, mất tích, địch đối xử thế nào với tù binh Việt Nam. Sau cuộc chiến
đảng CS Việt Nam chưa hề có ưu đãi xứng đáng nào đối với thương binh,
gia đình tử sĩ, v.v…
Đảng
CS Việt Nam có thể bóp méo suy nghĩ người dân Việt Nam được một ngày,
chứ không thể thay đối vĩnh viễn, bởi những hành động dối trá và lừa bịp
không thể tồn tại lâu dài. Nếu lịch sử là một chuỗi dài những kịch bản
trên sân khấu, đảng CS Việt Nam chỉ là một kịch bản tồi dở, màn hạ xuống
là hết. Nhân dân Việt Nam không phải là con rối để mọi khuynh hướng
chính trị đùa cợt.
Nước
Việt Nam tồn tại cho đến ngày nay là nhờ ở một hằng số bất biến: chống
xâm lược phương Bắc. Dân tộc Việt Nam có phương thức dựng nước bẳng
“tình nghĩa đồng bào” sẽ đối phó quyết liệt như lịch sử dân tộc Việt Nam
đã từng bao lần thể hiện. Gần đây Trung Quốc đã xua quân mở những cuộc
chiến tranh cướp biên giới đất liền và biển đảo của Việt Nam vào năm
1956, 1972, 1974, 1979, 1984 và 1989, đó là chiến tranh bi thảm đến từ
phương Bắc, khơi lại lên vết thương lịch sử dân tộc Việt Nam khó thể
quên được.
Dân
tộc Việt Nam không thể quên những lời truyền dạy năm 1978 của Đặng Tiểu
Bình: “Ta muốn chiến thắng Việt Nam hãy thực hiện giết sạch, đốt sạch,
hãm hiếp sạch. v.v…” [4]
Lời
tuyên bố của họ Đặng là lời tuyên bố phi nhân, chống nhân loại, chỉ thị
cho quân đội Trung Quốc nổi sóng gió máu tanh, hằng ngàn người Việt vô
tội, dân lành bị hành hạ tại các tỉnh biên giới, như thị trấn Đồng
Chúc, Hưng Đạo, Thanh Thủy, Vi Xuyên.
Những
tỉnh Cao Bằng, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, người
chết trôi sông, thi thể mất đầu, và thê thảm hơn nữa thân thể phụ nữ
loã lồ, cây thọc vào cửa mình, trẻ em vô tội xác lìa hai nơi, chưa kể về
những cảnh chết của người du kích địa phương v.v…
Trung
Quốc khuyến mại hận thù trên tầm quyết sách. Khi có điều kiện, binh
lính Hán triều không cần suy nghỉ, sẵn sàng vấy máu trên mười đầu ngón
tay. Tính khoan dung, hiền hòa nhường cho chỗ thú tính man rợ, tàn ác.
CS Trung Quốc chưa bao giờ biết tôn trọng nhân phẩm con người, chỉ biết
giết, giết và CS Việt Nam, đệ tử thân tín của đàn anh phương Bắc cũng
dùng quỉ-thuật giết người đôi khi còn tàn bạo hơn cả CS Trung Quốc.
Giết
người cũng cần có đồng minh, cho nên CS Việt Nam và CS Trung Quốc phải
kết bè bọn, cao giọng tung hô phương châm 16 chữ vàng “Láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng đến tương lai”, và tinh
thần 4 tốt, “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Thực chất, Trung Quốc đã cài lưới điện vào hai cụm từ trên, đều nằm
trong chiến lược đô hộ Việt Nam lâu dài.
Nhân
dân Việt Nam không thể tiếp nhận người bạn xấu phương Bắc bằng ngôn ngữ
anh em, cần xét lại quan hệ với Trung Quốc, và đặt các vấn đề hậu chiến
tranh từ năm 1956 cho đến năm 1989, từ biên giới đất liền cho đến biển
Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Từ
khi Trung Quốc phát động chiến tranh, ngày 17 tháng 2 năm 1979 đến năm
1989, binh sĩ Trung Quốc đã hãm hiếp không biết bao nhiêu nữ tù binh
Việt Nam, để lại những vết thương không tẩy xóa được trong tâm não của
nữ tù binh đáng thương. Họ mang trong lòng mặc cảm tủi nhục và tuyệt
vọng. Họ đã mất hết niềm tin vào tình người, cuộc đời trở nên vô nghĩa,
rơi vào tình cảnh trầm cảm khôn nguôi, thân tâm luôn cảm thấy đau đớn.
Họ không được bảo vệ theo đúng qui ước chiến tranh. Cả hai đảng CS Việt
Nam và Trung Quốc cùng nhau thi thố xem ai tàn ác hơn ai trong cuộc
chiến này, xô đẩy toàn dân đến chỗ diệt vong về tinh thần và vật chất.
Họ đã vi phạm trắng trợn qui ước chiến tranh và đã xúc phạm đến nhân
phẩm của người thất trận, thay vì tạo ra tâm lý bình yên. Trung Quốc đã
vi phạm quy ước quốc tề về tù binh, gây tội ác chiến tranh, nhân loại sẽ
không tha thứ. Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt, những kẻ gây tội ác
chiến tranh tại biên giới Việt Trung không thể thoát khỏi phán quyết của
Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) về tội ác chống nhân loại.
Huỳnh Tâm
[1] Vào thời điểm này, vùng núi Lão Sơn vẫn còn thuộc biên giới Việt Nam.[2] 10% Nữ quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
[3] 107 nữ tù binh chiến tranh hiện diện tại chiến trường Lão Sơn, Việt Nam.
[4] Đặng Tiểu Bình, tuyên bố ngày 20/12/1978, tại hội nghị Quân Ủy Trung Ương (CPC).
Giặc đã ùa vào nhà Việt Nam – Kỳ 8 (Huỳnh Tâm)
Thongluan
“…
Chúng em đã khắc bạc với đảng CS Việt Nam từ lâu, nhưng trong người
lính vẫn còn tính thiêng liêng, dành riêng cho Tổ quốc. Nay chúng em đã
ước thề, “một ngày nào đó, nếu có điều kiện không thể tha thứ thằng hèn
đảng CS Việt Nam, chúng bán đứng biên giới của Tổ quốc cho bọn bành
trướng Bắc Kinh”…”
Chiến binh Việt Nam lao vào khói lửa, hy sinh oan uổng
Lúc
18 giờ, ngày 4/12/1987, chúng tôi vào đến khu quân sự núi 255, thấy nơi
đây bị quân đội của Việt Nam nã cối pháo, tàn phá, hư hao chiến lũy đến
hơn 70%. Được biết quân đội Việt Nam chiếm đỉnh núi 277, lấy lại được
một phần núi vùng Lão Sơn và kiểm soát đến 50%. Họ đã hy sinh biết bao
nhiêu người và hao tổn biết bao tài lực quốc gia. Chiến trường Lão Sơn
bày ra một tịnh huống quái gở, một khi chiếm lại Lão Sơn không ai biết
chắc bám trụ được căn cứ bao lâu! Họ đều lo ngại trên đường dài chiến
lược, hỏa lực chiến đấu xem ra quan trọng vào lúc cố thủ, nhưng có thể
chỉ một giờ sau là chào vĩnh biệt Lão Sơn. Trong thời khắc này cả Việt
Nam lẫn Trung Quốc, không một ai đoan chắc bảo vệ được căn cứ. Chính hôm
qua quân đội Trung Quốc còn ngạo mạn, nay phải ngờ ngợ, miệng không dám
khẳng định một lời nào, vì cuộc diện chiến trường có thể thay đổi bất
ngờ.
Trước ngày 4/12/1987, quân Trung Quốc còn mở vòng đai phòng ngự
các núi 215, 501,146, 147,255, 211, 267, 277, 1, 2, 3, và 4.
Ảnh: Hải Âu DF-1, F138.
Hôm
sau, Bộ tham mưu chiến tranh thuộc Quân Ủy Trung Ương (CPC) Trung Quốc,
ra lệnh cho Tập đoàn 27, lực lượng quân sự Côn Minh ứng chiến, đưa Quân
đoàn 11 trở lại chiến trường, giữ nguyên Quân đoàn 14, hổ trợ chủ lực
chiến trường Lão Sơn, mở đường tiến chiếm đâm sâu vào lãnh thổ Việt
Nam. Họ đã lấy quyết định tấn công thần tốc, chấp nhận đối đầu với quân
đội Việt Nam.
Hôm sau, quân đội Việt Nam chiếm lại điểm núi 251, 505, 1, 2, 3, và 277.
Và quân đội Trung Quốc cố thủ tại Bộ chỉ huy Quân đoàn 14,
núi 146, 147, 255, 211, và 166. Ảnh: NF3.86.
Trên
chiến trường Lão Sơn không ai biết trước nơi nào là nơi trú thân, để
tìm điểm sống. Nói chung mỗi con người ở đây đều có một viên đạn đang
chờ sẵn để đánh gục. Đạn pháo không từ một ai, bởi đạn pháo không ngoại
lệ hay ưu tiên cho một người nào. Cũng may chúng tôi không đến núi 277, ở
đó tử vong chồng chất như núi.
Một
tin nóng hổi khác cho biết Quân Ủy trung ương Trung Quốc với quyết định
“CPC67″ thành lập cấp Quân đoàn 67, bổ túc quân số 5 Trung đoàn, và tên
Đại tá Trương Chí Kiên (张志坚- Zhang Zhijian) được thăng cấp quân hàm
Thiếu tướng vào đầu năm 1988.
Sáng
ngày 6 tháng 12 năm 1987, chúng tôi chạy trối chết, đua nhau nhảy xuống
giao thông hào trú ẩn, tránh đạn pháo binh của quân đội Việt Nam. Họ
phản công dữ dội, quyết liệt thu hồi lại căn cứ 255 đã bị mất. Hôm nay
cối pháo thổi lửa khủng khiếp, rót không ngừng nghỉ lên đầu núi 255. Họ
dự tính sẽ tiến công nhanh, giờ hẹn khôi phục Lão Sơn đã điểm. Tưởng
chừng pháo binh Việt Nam chuẩn bị loại trừ quân đội Trung Quốc ra khỏi
chiến trường, ôm xác về chầu Bắc Kinh.
Tôi
đứng trong lòng căn cứ địch (Trung Quốc), trong tư thế thầm lặng, với
thân phận của một đứa con Việt Nam, đâu đây man mác tràn đầy suy tư, hy
vọng quân đội Việt Nam sẽ san bằng quân đội Trung Quốc tại chiến trường
Lão Sơn. Ở đây mỗi bước chân tôi hoàn toàn vô cố. Chính mình đi tìm chứ
không ai đưa đẫy, tự đâm đầu vào chiến trường biên giới Việt Nam-Trung
Quốc. Đến mức này coi như đã hết đường xoay sở để vô tư trở lại cuộc
sống bình dị. Cũng có lúc tuyệt vọng muốn buông trôi theo dòng sống định
mệnh. Rồi nhớ lại tự trách buổi đầucố ý đi sâu vào nơi nguy hiểm, chỉ
vì muốn tìm hiểu những điều bí ẩn chiến tranh trên lãnh thổ đất nước quê
hương. Và tâm trạng đầy mâu thuẫn vì tôi không cùng chính kiến với đảng
CS Việt Nam cũng không ưa chính thể toàn trị này, nhưng lòng vẫn hy
vọng người lính Việt trả đũa quyết liệt đểbảo vệ quê hương. Tôi khao
khát được nghe đạn pháo và tiếng súng của quân đội Việt Nam đánh không
cho quân đội Trung Quốc ngưng nghỉ một giây khắc nào để chứng tỏ nhân
dân Việt Nam luôn có mặt ở khắp mọi nơi, bảo vệ lãnh thổ, và khẳng định
cửa biên giới không phải là nơi bỏ ngỏ để địch tự do tung hoành.
Nhờ
có dịp tiếp cận với tù binh Việt Nam, tôi cảm nhận tinh thấn quả cảm
của người lính Việt Nam. Họ thật là tuyệt diệu, họ thuộc những Sư đoàn
F31, F312, F313, F314, F328, F356, bị đảng CS Việt Nam bỏ rơi. Họ là
những tay súng ngày đêm cố thủ chiến hào, họ là trường ca “Bảy núi” của
nhà thơ Trần Manh Hảo. Họ có sức chịu đựng gắn bó với gan lì, chỉ vì
muốn phục hồi, bảo vệ vùng núi Lão Sơn cho Tổ quốc. Người lính ấy đang
đem lại cho tôi tình quê hương. Một người lính trẻ cho biết:
–
Chúng em đã khắc bạc với đảng CS Việt Nam từ lâu, nhưng trong người
lính vẫn còn tính thiêng liêng, dành riêng cho Tổ quốc. Nay chúng em đã
ước thề, “một ngày nào đó, nếu có điều kiện không thể tha thứ thằng hèn
đảng CS Việt Nam, chúng bán đứng biên giới của Tổ quốc cho bọn bành
trướng Bắc Kinh”.
Vùng
núi Lão Sơn phong cảnh bao la, không gian thông thoáng, khí hậu rừng
núi nhiệt đới trong lành, mây phủ bốn mùa, núi cao, độ dốc lớn, rừng
rậm, sương mù, mưa lớn. Cảnh sống vạn vật thanh bình. Địa hình, địa thế
nằm trong một vị trí chiến lược rất quan trọng. Nhưng giờ đây khói lửa
cướp mất hơi thở và không gian của con người. Quân đội Việt Nam và Trung
Quốc đã quyết định thi đua nhuộm máu khung cảnh xanh tươi và cùng thi
nhau bắn hết đạn mới đầu hàng.
Sớm
hơn dự kiến, quân độ Trung Quốc chuyển đổi kế hoạch chiến thuật, không
quân, pháo binh, bộ binh đồng phối hợp, không hiểu bằng cách nào quân
đội Trung Quốc đổ bộ dưới chân C211 qua ngã hang động, hốc núi Đông, xâm
nhập thẳng vào địa điểm phòng ngự F312 của Việt Nam. Chỉ một giờ sau
trận địa nghiêng hẳn về phía quân đội Trung Quốc. Chiếm được vị trí
thượng phong này, họ có khả năng chiếm được toàn bộ Lão Sơn (Laoshan),
và Giả Âm Sơn (Yinshan). Quân đội Việt Nam không còn kiểm soát địa thế
chiến lược, và một khi cơ hội đã bỏ lỡ thì xem như mất tất cả, bởi nơi
này cực kỳ quan trọng đối với chiến lược lâu dài giữ nước. Những ai muốn
làm chủ nhân chiến trường, đều lấy địa thế này lập kế hoạch chiến thuật
và chiến lược, để kiểm soát được lâu dài cả vùng núi Lão Sơn. Phải liên
tục chiếm đóng và cầm cự từng giờ, đôi khi được làm chủ Lão Sơn một giờ
chưa hẵn đã là chiến thắng.
Vào
lúc này phía quân đội Việt Nam tinh thần xuống thấp, chỉ trong một ngày
những điểm núi 251, 505, 1, 2, 3, và 277 bị thất thủ. Quân đội Trung
Quốc kiểm soát trở lại toàn vùng Lão Sơn và lần này có khả năng toàn
vùng núi Lão Sơn tuột ra khoải tầm tay quân đội Việt Nam, bởi vị trí
then chốt thất thủ quá nhiều.
Tình
báo, quân báo, cảm tử quân đồng đưa tin về Bộ tư lệnh, chỉ huy quân sự
Tây Nam: “Địch mở cửa giao tranh ác liệt tại điểm 255, cần tăng viện
gấp, cứu vãn tình huống, ta đang bất lợi chiến thuật”. Bộ tư lệnh chiến
trường gửi quân điện về văn phòng Quân Ủy Trung ương Vân Nam.
Bộ
chỉ huy Quân đoàn Giang Tô, Chiết Giang lập tức cho quân trú binh tại
biên giới Vân Nam trước mặt Lào Cai Việt Nam. Quân đoàn 35 và 151 được
lệnh thay quân. Họ liền mở rộng cuộc hành quân, đe dọa các khu vực vùng
núi cũ Lão Sơn. Tiếp theo, Quân đoàn 35, 151 nhận lệnh trực chiến với
quân đội Việt Nam. Trung Quốc chọn Bộ binh khiêu khích chiến trường Lão
Sơn, vòng chiến thật sự bắt đầu.
Tình báo và quân báo của Trung Quốc bắt mạch được tình hình của quân đội Việt Nam và báo cáo về bộ chỉ huy chiến trường:
– Quân đội Việt Nam bố trí lực lượng phòng ngự gồm 2 hướng.
1
– Tây sông Lô, Lão Sơn có những đơn vị: E568, E266, E141, E881, E754,
E728,Trung đoàn E247 (BCHQS tỉnh Hà Tuyên). Sư đoàn F31, F312, F313,
F314, F328, F356, tăng cường E1 của QK1 và D1.
2
– Đông sông Lô, Vị Xuyên Hà Giang có những đơn vị: E266, E141, E314,
E568, E728, E266, E568, E818, E728, E247 (BCHQS tỉnh Hà Tuyên), tăng
cường E754. [1] Hướng phòng ngự Đông sông Lô yếu hơn phía Tây, nhiều đơn
vị phải chiến đấu kéo dài gần một năm mới thay quân một lần, và chỉ
chuyển từ Tây qua Đông. Quân đội Việt Nam đang chịu một sức ép nội bộ
Quân Ủy cho nên rơi vào tình thế ngất ngưởng. Mật danh “Laoshan5″ báo
cáo bổ túc (五无能为力-5 điều bất lực): Không viện binh, không tăng quân số.
Không tăng viện vũ khí và bổ túc. Không chi viện, giới hạn quân nhu.
Không chi viện, giới hạn quân y. Không chi viện, giới hạn quân lương.
Người lính Việt Nam rơi vào thế chiến đấu vô cùng thiếu thốn không còn hy vọng bảo vệ những phần đất còn lại.
Pháo binh Trung Quốc ngụy trang, chôn lấp pháo dưới giao thông hào,
tại căn cứ 255. Ảnh: Hải Âu DF-1, F138.
Từ
ngày 28 tháng 04 năm 1984, CS Trung Quốc xua quân chiếm cứ vùng núi Lão
Sơn, thuộc lãnh thổ Việt Nam. Quân đội Việt Nam phản công khốc liệt và
cho đến nay đã giao tranh 10 trận long trời lở núi Lão Sơn. Lúc đầu cuộc
chiến giằng co không phân thắng bại. Đã có nhiều lần quân đội Việt Nam
khôi phục lại Lão Sơn nhưng cũng có lúc bị mất. Những trận đánh lớn tại
Lão Sơn và những ngọn núi trong vùng lân cận được ghi nhận vào các ngày:
–
Ngày 12 tháng 7 năm 1984. Ngày 20-21 tháng 12 năm 1984. Ngày 15 tháng 1
năm 1985. Ngày 8 tháng 3 năm 1985. Ngày 19-20 tháng 7 năm 1985. Ngày 23
tháng 9 năm 1985. Ngày 28 tháng 1 năm 1986. Ngày 19 tháng 10 năm 1986.
Ngày 6 tháng 1 năm 1987, và ngày 6 tháng 12 năm 1987.
Tại
chiến trường vùng núi Lão Sơn, Việt Nam có trên 5.200 binh sĩ hy sinh
để bảo vệ vùng núi lãnh thổ Việt Nam nhưng cho đến nay ( năm 2013) họ
không hề được đảng CS Việt Nam lập đàn ghi ơn và vinh danh.
Về
phía Trung Quốc, có trên 15.800 binh sĩ thương vong. CS Trung Quốc xây
dựng quy mô nghĩa trang cho những binh sĩ trong cái gọi là cuộc chiến
”Tự vệ” , đúng hơn phải gọi là cướp biên giới của Việt Nam. CS Trung
Quốc sử dụng những xác chết này để đẫy mạnh chiến trường về phía Tây
Nam.
Đặc công Việt Nam phục kích xe bọc thép chống pháo của Trung Quốc
tại lưng núi 277. Ảnh: Ảnh: NF3.86.
Trong
suốt chiều dài bốn năm của cuộc chiến, tương quan lực lượng luôn luôn
chênh lệch. Quân đội Việt Nam phải vận dụng chiến thuật du kích “lấy yếu
đánh mạnh” và lợi dụng địa hình đất nhà, nhưng cuối cùng cũng không giữ
được những điểm núi sau khi phục hồi. Nay chiến thuật của Trung Quốc đã
thay đổi, Sư đoàn 67 của họ đã tăng quân số, nâng lên cấp Quân đoàn.
Trung Quốc đã nhất quyết không từ bỏ vùng núi Lão Sơn, thế yếu của Việt
Nam hiện rõ.
Những
nhà quân sự chiến lược Việt Nam, cũng cần nên biết, Trung Quốc không
bao giờ khoan nhượng về mọi mặt, từ hòa bình đến chiến tranh. Trước khi
khai chiến, họ điều nghiên chiến trường, và Quân ủy trung ương (CPC) bí
mật điều động những “đặc nhiệm vụ quốc phòng. Việt Nam không trở tay
kịp, nói đúng phơn phía Việt Nam chưa bao giờ biết bố trí một lược lượng
chuyên phá hoại. Ví dụ chiến trường Lão Sơn, vào ngày đầu tháng 12 năm
1984, họ phối trí Quân đoàn 11 thành lực lượng quân sự không doanh trại,
họ huấn luyện chiến đấu, tiếp cận chiến trường, tầm hoạt động 23 km.
Trong phạm 35 cây số, Quân đoàn 11 chịu trách nhiệm với tổng số hơn 120
vị trí bí mật Lão Sơn.
Quân đội Trung Quốc tung vào chiến trường Lão Sơn,
vũ khí phun lửa hóa học. Ảnh: Ảnh: NF3.86.
CS
Trung Quốc tận dụng mọi thủ đoạn, không ngần ngại tung vũ khí hóa học,
không tiếc binh lính, thúc dục họ thi nhau lướt đạn bỏ xác. Trong mọi
tình huống họ phải cướp cho bằng được hơi thở và không gian của Lão
Sơn. Binh lính luôn đối diện tử thần.
Tuy
nhiên Trung Quốc vẫn chưa hài lòng, đưa thêm Sư đoàn 10, Sư đoàn 11, Sư
đoàn 13. Trung bình mỗi Sư đoàn có quân số 5 Trung đoàn, 1 Lữ đoàn pháo
binh. Đồng thời họ đào chiến hào, mở rộng cái gọi là “chiến thuật mới”
để xây dựng 54 cây số giao thông hào đan chéo vào nhau, kết nối chiến
lũy vòng 3, có khả năng phòng thủ trước cửa 28 vị trí rất gần với kẻ thù
(Việt Nam), cách nhau từ 8 mét đến khoảng 10 mét.
Tuy
nhiên cũng có ý kiến cho rằng những cố gắng này “vô ích” không phân
mỏng được địch quân xung quanh Lão Sơn, bởi cố đến 100.000 bộ đội Việt
Nam đặt phòng thủ rải rác.
Cùng
ngày, Quân đoàn 1 nhận nhiệm vụ, thực hiện chiến dịch đánh phá vị trí
địch, bằng chiến thuật, mỗi ngày hàng ngàn binh sĩ thay phiên, xoay vòng
bắn phá theo giao thông hào 54 km, chủ yếu tấn công vào các công sự, vị
trí tiền tuyến của địch, cùng lúc đánh bom một số vị trí cơ sở chiến
lược, chiến binh tiếp cận, ẩn mình trong kẽ hở của Pháo binh Việt Nam
không để ý đến. Chiến thuật mới, dùng địa hình núi cao, độ dốc lớn, cây
rừng dày đặc, để tiến quân từ giao thông hào lên mặt đất, thậm chí một
số nơi bị mưa làm đất trơn trượt, vận chuyển khó cũng phải vượt qua, nếu
có binh sĩ bị thương nặng có thể nhấc xuống (掀倒-cho tử thương), để có
đường đi, và không bận lòng với những xác chết vô dụng.
Tất
cả chỉ huy chiến trường đều phải tuân thủ mệnh lệnh Bộ chỉ huy quân sự,
phá vỡ 7 cản trở lớn: Kẻ thù, địa hình, thời tiết, dũng cảm, kiên trì,
linh hoạt, và những điều kiện khắc nghiệt khác. Chỉ tiêu thực hiện trận
đánh lớn, “trả một giá rẻ để đạt được một chiến thắng lớn”, nhiệm vụ
chiến đấu hoàn thành thắng lợi, dưới sự chỉ huy của ban Quân Ủy trung
ương (CPC).
Từ
ngày 25 đến 27 tháng 12 năm 1987, trong ba ngày trầm mình tại các vị
trí chiến đầu với lực lượng quy mô của quân đội Việt Nam và sau 31 giờ
giao tranh ác liệt, binh lính đều lo lắng. Tong đợt phản công này Trung
đoàn Phó 153 của Trung Quốc bị chết và binh sĩ thương vong trên 700
người. Để giữ vững tinh thần binh lính, họ công bố thương vong nhỏ, các
vị trí chiến đấu không hề hấn gì. Họ muốn đạt mục đích nên bất chấp sự
thật và ngụy tạo lắm điều dối trá.
Qua
ngày thứ hai, quân đội Việt Nam có chuẩn bị trước, phản công có ké
hoạch, lắp ráp rất nhiều ụ đất phòng thủ cá nhân, đã cố gắng một trận
đánh quyết định để lấy lại đất đai bị mất. Cuộc chiến đấu này diễn ra
tại điểm núi 662 Lão Sơn (Tây Nguyên) và thất bại không như ý muốn, bởi
quân đội Trung Quốc phòng thủ, và tấn công chống trả khốc liệt.
Quân đội Trung Quốc sử dụng vũ khí phun lửa hóa học,
tạo ra khoản cách rộng lớn giữa hai chiến tuyến,
tạo ra một đường ranh phòng thủ để không bị tấn công
bất ngờ. Binh lính của Việt Nam bị vũ khí hóa học,
thiêu hủy không thấy xác. Ảnh: Ảnh: NF3.86.
Cuộc
chiến này kéo dài bốn ngày quá, quân đội Trung Quốc đánh bại đối thủ
nhờ tấn công điên cuồng. Chỉ trong ngày 15 tháng 1 năm 1988, đạn pháo để
lại chiến trường 8.760 vỏ ống đồng, trên 370 mét vuông, ở phía dưới
ngọn đồi thành bình địa, trung bình mỗi giờ, không quân Trung Quốc thải
xuống Lão Sơn 26,7 tấn bom. Trên đỉnh núi có một cột cờ cao 17,20 m, bị 6
quả bom đánh ngã, về cơ bản các công sự bị phá hủy, giao thông hào bị
đánh bom thường trúng những vị trí phòng thủ “căn hộ”; được biết có
những viên chỉ huy Việt Nam gắn bó với quân đội, bất chấp tiếng súng của
địch, họ động viên binh sĩ thay phiên nhau tấn công vị trí phòng thủ
Trung Quốc, họ quyết thủ một mảnh vị trí thép cho Tổ quốc Việt Nam.
Tiếp
theo, chiến đấu hai ngày và đêm, quân đội Trung Quốc đã nghiền nát
chiến trường, chiếm giữ 7 vị trí phòng thủ của quân đội Việt Nam; trên
46 binh lính, những đơn vị chiến đấu được ghi danh trong đợt tấn công
này gồm có: Tiểu đội 122, Tiểu đội 149, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 821,
Trung đoàn 153, Trung đoàn 876. Về tổn thất 1.356 thương vong, bị
thương, bị mất 2 pháo cối, 7 súng máy nhẹ và nặng, 25 súng trường, 19
súng tiểu liên 27, và 40 súng phóng lựu.
Đánh
giá cuộc chiến, quân đội Trung Quốc hoàn toàn phá vỡ chiến thuật mới
của địch đã từng chuẩn bị hơn 3 tháng, mở rộng giao thông hào. Nay quân
ta đánh xuống “một đòn khắc nghiệt với sự kiêu ngạo của địch”. Cuối cùng
quận đội Trung Quốc làm chủ chiến trường Lão Sơn .
Dân
tộc Việt Nam đã phải trả một giá quá đắt. Bao nhiếu xương máu đã đổ ra
để cố phục hồi Lão Sơn nhưng sau cùng cũng mất trắng, bởi vì kẻ nội
tuyến nằm ngay trong Bộ chính trị đảng CS Việt Nam. Chính Bộ chính trị
CSVN đã phối hợp với địch quân Trung Quốc tại chiến trường và bán đứng
binh sĩ Việt Nam. Hậu quả là binh lính Việt Nam hy sinh quá nhiều, đảng
CS Việt Nam dửng dưng không can dự vào sự mất hay còn biên giới vùng núi
Lão Sơn, Lào Cai.
Đảng
CS Việt Nam không chút xót thương, không hề tưởng nhớ đến sự hy sinh
của người lính. Họ thật sự bị lãng quên trong cuộc chiến biên giới Lão
Sơn. Trước đây tất cả những tuổi trẻ đều muốn thể hiện hoài bảo vì Tổ
quốc, dâng hiến tính mạng cho đảng CS Việt Nam, ngỡ rằng đảng CSVN sẽ
bảo vệ tổ quốc. Nay mộng này đã vỡ tan, lòng thất vọng ê chề sau cuộc
chiến để nhận chân đảng CSVN đã ngấm ngầm bán nước cho anh cả phương
Bắc. Báo chỉ đảng chưa bao giờ đề cặp cuộc chiến xâm lăng của Trung
Cộng. Đảng CS Việt Nam cố tình muốn xóa nhòa ký ức về cuộc chiến này
bằng một danh từ lố bịch “địch” chứ không dám gọi đích danh Trung Quốc
xâm lăng! Đây là một cách nói “vô đề” để chạy tội! Trong lịch sử của
nhân loại chưa hề có một nhà nước đương quyền nào hèn hạ như đảng CS
Việt Nam!
Trận
chiến biên giới Lão Sơn trải qua thời gian 4 năm, tính sổ đã có 10 trận
chiến. Bên phía Trung Quốc, họ đã viết lên những trang quân sử ca ngợi
cuộc chiến “tự vệ”. Nhưng riêng đảng CS Việt Nam chưa hề ghi vào quân sử
một lời bình phẩm nào về cuộc chiến “bảo vệ biên giới”. Có lẽ đảng CS
Việt Nam ái ngại cuộc chiến bỉ ổi này, vì đảng CSVN đã phản bội dân tộc
Việt Nam, để rồi giờ này, họ cố tình quên, không muốn nhớ! Quân đội nhân
dân Việt Nam cần phải lấy lại uy phong của các vị tiền nhân bất khuất
với giặc, mạnh dạn tố cáo sự ươn hèn của đảng CS Việt Nam để viết lên
một chương sử mới, rửa nhục và phục hồi danh dự cho những chiến sĩ đã hy
sinh mạng sống của mình trong cuộc chiến biên giới Lão Sơn.
Huỳnh Tâm
[1] E cấp Trung đoàn, F cấp Sư đoàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét