Công cụ bảo vệ hay chống nhân dân?
Thêm chú thích |
Vụ xử Đoàn Văn Vươn và các thân nhân của anh có hành vi “giết người”, “chống người thi hành công vụ” đã bước sang ngày thứ hai.
Đối chiếu tất cả những thông tin mà hệ thống truyền thông chính thống đã
loan sau khi vụ án xảy ra và tường thuật của VietNamNet ngày hôm qua
(1), mình tin Đoàn Văn Vươn và các thân nhân của anh chẳng phạm tội nào
cả.
Về mặt khoa học pháp lý, “giết người” là tội thuộc nhóm “cấu thành tội phạm hình thức”.
“Cấu thành tội phạm hình thức” được xem là cấu thành tội phạm chỉ có một
yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Nó khác với “cấu thành tội phạm vật chất” là cấu thành tội
phạm mà các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm phải
gồm: hành vi phạm tội, hậu quả, quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
do hành vi phạm tội gây ra.
Trong lĩnh vực pháp lý, định nghĩa – phân loại “cấu thành tội phạm” nhằm
giúp định danh tội phạm, để không lầm lẫn giữa tội này với tội khác.
Yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội “giết người” phải là “cố ý
tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái phép”. Thiếu yếu tố
này, không thể kết luận ai đó “giết người”. Do đó, ngoài tội “giết
người”, Luật Hình sự Việt Nam mới có thêm các tội: “giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, “giết người do vựơt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng”, “làm chết người trong khi thi hành công vụ”,
“vô ý làm chết người”,…
Cũng vì vậy, chỉ có thể truy tố hoặc kết tội: Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn
Quý, Đoàn Văn Sịnh, Đoàn Văn Vệ giết người, nếu các cơ quan bảo vệ pháp
luật chứng minh được anh em Đoàn Văn Vươn “cố ý tước đoạt sinh mạng của
người khác một cách trái phép”.
Anh em Đoàn Văn Vươn có “cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái phép” không? Mình tin là không!
Những hành vi: Làm năm hàng rào chắn đường vào khu vực cưỡng chế; rải
rơm rạ dự định dùng xăng đốt để gây cháy; dùng kíp điện kích cho các
bình ga nổ; dùng súng hoa cải bắn vào đoàn cưỡng chế… chưa đủ để kết
luận anh em họ Đoàn “cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách
trái phép”.
Nếu “cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái phép”, rơm
rạ, bình ga sẽ được gây cháy, cho nổ đúng thời điểm thật sự có thể làm
chết người chứ không nhằm cảnh cáo, làm chùn chân lực lượng cưỡng chế.
Họ cũng sẽ tìm mua và sử dụng vũ khí quân dụng chứ không phải “súng hoa
cải”. Mình muốn nhấn mạnh yếu tố này vì cho đến giờ, Bộ Công an vẫn
không xếp “súng hoa cải” vào dạng nguy hiểm và đó là lý do, ngay sau khi
xảy ra vụ Đoàn Văn Vươn, bạn Đỗ Hữu Ca – Giám đốc Công an Hải Phòng,
lên tiếng phê phán Viện Khoa học Hình sự của Bộ Công an một cách kịch
liệt (2).
Đối chiếu toàn bộ các tình tiết trong vụ Đoàn Văn Vươn, từ khi anh và
thân nhân khẩn hoang – lập đầm cho đến lúc xảy ra vụ cưỡng chế, có thể
thấy, những hành vi: làm năm hàng rào chắn đường vào khu vực cưỡng chế;
rải rơm rạ dự định dùng xăng đốt để gây cháy; dùng kíp điện kích cho các
bình ga nổ; dùng súng hoa cải bắn vào đoàn cưỡng chế… chỉ vì họ đã bị
đẩy đến cùng đường nên muốn gây tiếng vang, hỗ trợ chuyện kêu oan.
Điểm đáng chú ý là họ đã cảnh báo sẽ sử dụng hạ sách (chống chuyện cưỡng
chế phi pháp để bảo vệ các quyền hợp pháp và lợi ích chính đáng của
mình) nhưng thay vì xem lại toàn bộ vụ việc theo đúng chức trách, chính
quyền từ xã, huyện đến thành phố vẫn phớt lờ, cố làm lấy được. Tường
thuật của VietNamNet về ngày đầu phiên xử vụ án Đoàn Văn Vươn và các
thân nhân của anh có hành vi “giết người”, “chống người thi hành công
vụ” cho thấy điều đó! Nếu không biết trước Đoàn Văn Vươn và các thân
nhân của anh sẽ chống chuyện cưỡng chế, thậm chí là có thể đã biết rất
rõ anh em nhà họ Đoàn sẽ chống chuyện cưỡng chế như thế nào, chẳng việc
gì chính quyền phải điều động thêm bộ đội thuộc Ban Chỉ huy Quân sự
huyện Tiên Lãng đến rà phá vật liệu gây nổ! Nói cách khác, những kẻ thủ
ác không chỉ có ý đồ cướp đoạt tài sản của công dân mà còn âm mưu kích
động họ chống trả để đẩy họ vào tù!
Chính phủ đã kết luận những quyết định liên quan đến việc thu hồi đất
của gia đình Đoàn Văn Vươn là trái pháp luật. Đoàn Văn Vươn không sai
khi tổ chức chống cưỡng chế. Khoản 1, Điều 15 của Luật Hình sự Việt Nam
xác định như thế này: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của
mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người
đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý, Đoàn Văn Sịnh, Đoàn Văn Vệ không “cố ý tước
đoạt sinh mạng của bất kỳ ai một cách trái phép”. Họ không giết người.
Chuyện làm năm hàng rào chắn đường vào khu vực cưỡng chế; rải rơm rạ dự
định dùng xăng đốt để gây cháy; dùng kíp điện kích cho các bình ga nổ;
dùng súng hoa cải bắn vào đoàn cưỡng chế… là sự “chống trả một cách cần
thiết người đang có hành vi xâm phạm các quyền hợp pháp và lợi ích chính
đáng của họ”, vốn đã được ghi nhận tại Luật Hình sự. Họ vô tội!
2.
Lời nói đầu của Bộ Luật Hình sự hiện hành viết như thế này: Pháp luật
hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý
kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và
sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Đồng thời, pháp
luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến
trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Mình nghĩ, trong vụ Đoàn Văn Vươn, cần phải có ít nhất một vụ án hình
sự, nhằm điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự của tất cả những kẻ chủ
trương, thực hiện việc cưỡng chế, thu hồi đất, hủy hoại tài sản của gia
đình Đoàn Văn Vươn. Bất kỳ ai, cố tình hay vô ý, trực tiếp hay gián tiếp
can dự vào chuyện làm trái pháp luật, gây thiệt hại cho gia đình Đoàn
Văn Vươn cả về vật chất lẫn tinh thần đều phải chịu trách nhiệm hình sự.
Không có một vụ án hình sự như thế, lời nói đầu – mục tiêu của Bộ Luật
Hình sự sẽ trở thành giả dối. Pháp luật hình sự sẽ chỉ còn là một trong
những công cụ sắc bén, hữu hiệu để… chống nhân dân. Và tất nhiên nó sẽ
phá nát trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế. Còn ai dám tin
pháp luật hình sự sẽ “bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi
trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao”.
Đồng Phụng Việt
03-04-2013
-----------
Chú thích:
Phản ứng về vấn đề biển Đông và những hệ lụy lịch sử
Vào ngày 7.5.1988, chưa đầy hai tháng sau kiện Gạc Ma, tướng Lê Đức Anh –
bấy giờ là Bộ trưởng Quốc phòng VN có mặt tại Trường Sa nhân cuộc mít
tinh kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Quân chủng Hải quân. Tại đây, ông đã
đọc một bài diễn văn quan trọng. Đáng chú ý là một số đoạn trong bài
diễn văn ca ngợi “sự giúp đỡ của TQ đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ
của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và có
hiệu quả. Nhân dân VN vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân
TQ đã dành cho mình”. Diễn văn tiếp tục khẳng định: “tình sâu nghĩa nặng
đó sẽ kéo dài mãi mãi và nhất định nó sẽ xóa nhòa, đi đến xóa hẳn trong
ký ức của dân tộc VN những tội lỗi mà các triều đại phong kiến TQ đã
gây đau khổ cho dân tộc VN suốt hàng ngàn năm đô hộ”. Ta cũng nhận thấy,
mặc dù đoạn kết của bài diễn văn có nói đến các chiến sỹ hy sinh vì Tổ
quốc nhưng không hề có một chữ nào trực tiếp nhắc đến 64 người lính VN
vừa hy sinh trong nỗ lực bảo vệ đảo Gạc Ma ở Trường Sa.
Tất nhiên, chúng ta hiểu, phản ứng đó của tướng Lê Đức Anh là một thông
điệp của VN gửi đến TQ và chắc rằng TQ sẽ nghiên cứu rất kỹ càng, tìm
xem trong đó ẩn chứa cái gì. Người TQ là bậc thầy trong việc phát đi
những thông điệp, tỷ như Nhân dân Nhật báo TQ bất ngờ đăng một tấm ảnh
nhà báo Mỹ Edga Snow đứng bên cạnh Mao Trạch Đông trên lễ đài Thiên An
Môn trong bối cảnh quan hệ hai nước đang diễn ra căng thẳng. Đáng tiếc
(cho TQ) là Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã bỏ qua tín hiệu này vì có lẽ họ đã
không thể nhận ra được sự tinh tế của hành động đó.
Một điều cần lưu ý, phản ứng của VN trước sự khiêu khích của TQ ngày
14.3.1988 tại Trường Sa chưa hẳn là một phản ứng tức khắc, nghĩa là vẫn
còn có thời gian lựa chọn. Một phản ứng tức khắc bao giờ cũng là việc
khó khăn hơn. “Lúc đó, phía ta cũng có nhiều ý kiến khác nhau về quyết
định đánh hay không đánh. Bản thân chỉ huy trưởng Giáp Văn Cương muốn
đánh, nhưng cuối cùng chúng ta đã quyết định đấu tranh bằng pháp lý để
bảo vệ chủ quyền” (theo Thượng tá Hoàng Hoan).
Phản ứng “đấu tranh bằng pháp lý” của VN dẫn đến một hệ lụy lịch sử:
những người lính VN (chỉ còn cách) nắm tay nhau làm thành một “vòng tròn
bất tử” nhưng cũng không thể bảo vệ được Gạc Ma. Trong tình huống đó,
đối diện với quân TQ hung hãn và tàn ác, những người lính anh dũng của
VN có thể làm gì hơn là phải chấp nhận hy sinh?
Còn đây là một phản ứng khác của VNCH. Khi nhận được báo cáo về sự khiêu
khích của tàu TQ ở khu vực Hoàng Sa, Tổng thống Thiệu phản ứng rất
nhanh chóng, quả đoán, kiên quyết: “tìm cách ôn hòa mời các chiến hạm TQ
ra khỏi lãnh hải VN. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo
trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ
khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ VNCH”. Phản ứng của Tổng thống Thiệu
dẫn đến một hệ lụy lịch sử – hải quân VNCH chấp nhận giao chiến với hải
quân TQ để bảo vệ Hoàng Sa trước sự gây hấn liên tục và xâm lăng của họ.
Dù rằng kết cục sau trận hải chiến là toàn bộ Hoàng Sa rơi vào tay TQ
nhưng ý nghĩa lịch sử của trận đánh, tinh thần dám đánh, tính cách anh
hùng, lòng dũng cảm và sự hy sinh của những người lính VN đã làm cả thế
giới tôn trọng và lịch sử sẽ còn ghi nhớ mãi.
Thời gian gần đây, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều phản ứng của VN về
vấn đề biển Đông, nói chung hầu hết không phải là những phản ứng nhanh
chóng, trong khi không ít những tình huống cần phải có phản ứng ngay.
Ngược lại, người ta cho rằng nhiều phản ứng của VN lại quá chậm. Sự kiện
mới đây, một tàu cá VN bị quân TQ bắn cháy ngày 20.3.2013, mãi tới năm
ngày sau (25.3.2013), VN mới có phản ứng. Lập tức, ngày hôm sau, Hồng
Lỗi – người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ đáp trả với sự xuyên tạc vừa xấc
xược, vừa ngạo mạn. Ông ta không hiểu rằng, vấn đề bi đát của TQ không
phải là sự thật đương đầu với sự dối trá mà là sự thật đương đầu với sự
thật.
Phân tích chuỗi các sự kiện, chúng ta có thể hiểu các phản ứng của VN về
vấn đề biển Đông. Nhìn chung, các phản ứng đó thường khẳng định chủ
quyền không thể tranh cãi của VN trên biển Đông, tiếp đó phản đối hành
động của TQ, sau cùng là nêu một số yêu cầu hoặc đề nghị với TQ. Ngôn
ngữ, ý tứ, giọng điệu thường giống nhau, trong khi các sự kiện liên tiếp
diễn ra và tính chất, mức độ, quy mô của các sự kiện ngày càng nghiêm
trọng. Liệu ai có thể đoán biết được những phản ứng đó sẽ dẫn đến những
hệ lụy lịch sử gì? Người TQ, như đã nói ở trên, là bậc thầy của những
thông điệp, họ sẽ nghiên cứu rất kỹ phản ứng của VN để vạch ra chiến
lược của mình. Đó là điều rất hiển nhiên.
“Mỹ họ sẽ nghiên cứu rất kỹ đấy” – lời của Hồ Chí Minh chỉ thị cho ông
Nguyễn Minh Vỹ – người sau này tham gia cuộc hòa đàm Pari và một Tiểu
ban có nhiệm vụ soạn thảo một bản Tuyên bố vào thời gian Hoa Kỳ đưa
nhiều quân vào Nam VN lập Bộ chỉ huy quân sự và cũng là thời điểm Mặt
trân Dân tộc giải phóng miền Nam VN ra đời. Ông Vỹ và Tiểu ban soạn thảo
đã cân nhắc từng câu từng chữ hết sức chặt chẽ khi soạn thảo bản Tuyên
bố. Chẳng hạn, tố cáo Hoa Kỳ “tăng cường chiến tranh” hay “mở rộng chiến
tranh”? Hành động của Hoa Kỳ là “uy hiếp” hay “uy hiếp trực tiếp” toàn
vẹn lãnh thổ VNDCCH? Đối với cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam thì
“hoan nghênh” hay “biểu dương ca ngợi”? Đấu tranh theo “tinh thần cương
lĩnh” hay “cương lĩnh” của Mặt trận? Đối với miền Bắc thì kêu gọi “ủng
hộ” hay “tích cực ủng hộ” để làm “thất bại” hay “đánh bại” âm mưu của
Hoa Kỳ? Dự thảo của bản Tuyên bố được Hồ Chí Minh xem xét, sửa chữa rất
kỹ, sau đó còn chuyển cho các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng có ý kiến.
Đó quả thật là những phản ứng lịch sử.
Hai năm sau, “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” nổi tiếng xẩy ra. Quốc hội Hoa Kỳ,
với số phiếu tuyệt đối, nhất trí thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho
phép Tổng thống Johnson, với tư cách là Tổng Tư lệnh quân đội, “thực
hiện mọi biện pháp cần thiết nhằm đánh lui mọi hành động tấn công vũ
trang chống các lực lượng Hoa Kỳ và ngăn ngừa những hành động xâm lăng
khác”.
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” là một bước ngoặt có ý nghĩa rất lớn, liên quan
đến cuộc chiến VN. Bấy giờ, ý định của các nhà lãnh đạo Bắc VN là hạn
chế chiến tranh ở miền Nam, không để lan ra miền Bắc.
Cuộc đụng độ ngày 2.8 là rất rõ ràng. Theo tướng Hoàng Nghĩa Khánh, vào
ngày 2.8.1964, khi hải quân báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu có khu trục hạm
Mỹ đi vào hải phận VN và xin chỉ thị. Trực chỉ huy là tướng Trần Quý
Hai trả lời: “Ủa! Cách xử trí như thế nào à? Tàu địch vào hải phận của
ta thì phải đánh chứ còn chờ gì nữa”. Thật là đơn giản, nhanh chóng và
rõ ràng. Theo Huy Đức, tác giả Quyền Bính – Bên Thắng Cuộc cho biết
“Trần Quý Hai nói là đã báo cáo Bộ Chính trị trước khi ra lệnh nhưng
kiên quyết không nói cụ thể báo cáo ai. Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải kỷ
luật. Trong khi, Văn Tiến Dũng nói, “mình không đánh nó thì nó cũng sẽ
đánh mình, bản chất đế quốc là thế”. Cuối cùng Trần Quý Hai nhận kỷ luật
cho dù ai cũng biết phía sau lệnh này là ai”.
Còn cái gọi là cuộc tiến công ngày 4.8 thì đến nay vẫn còn tranh cãi.
Mặc dù các thủy thủ Hoa Kỳ báo cáo có tổng cộng 22 quả ngư lôi phóng về
phía họ và ít nhất ba tàu Bắc VN bị bắn trúng trong một trận giao tranh
kéo dài 4 giờ, nhưng lại không đưa ra được bằng chứng nào ? Trận đánh
diễn ra trong một đêm tối trời, không có trăng sao và sấm chớp đầy trong
khu vực. Người ta cho rằng dường như các tàu khu trục đã hành động như
những kẻ thần hồn nát thần tính. Mc Namara nói, có thể lúc ấy, Mỹ có hai
phán đoán sai lầm nghiêm trọng.
Từ trong lịch sử, chúng ta thấy, phản ứng về các sự kiện liên quan đến
biển Đông của VN rất khác nhau, tùy thuộc tính chất của sự kiện, phẩm
chất người lãnh đạo, chỉ huy, tùy thuộc vào hoàn cảnh, tình huống và vì
vậy, nó dẫn đến những hệ lụy lịch sử khác nhau. Tư tưởng “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh luôn luôn đúng trong mọi trường hợp. Nhưng
vấn đề ở chỗ, cái “bất biến” của VN hiện nay là gì? Đó chính là chủ
quyền quốc gia, là hòa bình nhưng phải là hòa bình trong độc lập, tự do.
Và đó cũng là danh dự VN!
Lê Mai
Công an TP HCM lên tiếng về thu hồi đất
Trong đợt góp ý Dự thảo Luật đất đai tại thành phố Hồ Chí
Minh, lực lượng công an tại đây đã đề nghị Nhà nước không can
thiệp vào chuyện thu hồi đất cho “các dự án phát triển kinh
tế –xã hội”.
Ý kiến được trang web Công an TPHCM hôm 2/4/2013 đăng tải, nói cán bộ chiến sỹ công an thành phố đã nêu ý kiến:
“Cần tránh việc lợi dụng danh nghĩa thu hồi đất để trục lợi cá nhân, tổ chức và chủ đầu tư dự án phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quyền lợi về tài sản đất đai của người dân.”
Trong khi Hải Phòng đang diễn ra vụ xử gia đình ông Đoàn Văn Vươn “chống người thi hành công vụ” trong vụ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng hồi đầu năm 2012, các ý kiến mà trang Công an TPHCM nêu ra một cách chính thức là điều đáng chú ý dù xảy ra ở một địa phương khác.
Trong một phát biểu phân biệt rõ chức năng của Nhà nước mà các chiến sỹ công an là lực lượng thực hiện thi hành pháp luật, họ đã đề nghị chỉ “thu hồi đất để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”.
Mặt khác, công an TPHCM có vẻ cũng không muốn trở thành một bên bênh vực cho các nhà đầu tư, và vì thế đã đề nghị:
“Các nhà đầu tư thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội phải trực tiếp thỏa thuận với người sử dụng đất.”
Không chỉ có vậy, công an TPHCM trong phần góp ý về Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) còn phê phán các bất cập trong chính sách bồi thường đất đai theo Luật Đất Đai 2003 và nêu ra các thách thức về mặt kinh tế cũng như an ninh chính trị:
“Giá bồi thường tại thời điểm thu hồi đất chênh lệch rất lớn và thấp hơn nhiều so với giá thị trường; chính sách hỗ trợ, tái định cư còn nhiều điểm chưa hợp lý,"
Bài trên báo Công an TP HCM cũng viết:
"Rất nhiều trường hợp hộ gia đình khi chuyển về nơi tái định cư không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn, trong khi chính quyền địa phương, chủ đầu tư chưa thực sự quan tâm đến đời sống của họ...”
“Đó là một trong những nguyên nhân gây cản trở trong công tác thu hồi, chống người thi hành công vụ, khiếu kiện đất đai kéo dài làm phức tạp tình hình chính trị địa phương.”
Nếu như vụ Tiên Lãng có sự tham gia của quân đội, trong nhiều vụ việc khác, lực lượng công an thường là nhóm phải đi đầu trong công tác cưỡng chế đất.
Ví dụ như hôm ngày 31/1 năm nay giới chức địa phương đã đưa lực lượng chừng 200 người, gồm công an, thanh tra giao thông tới trấn áp dân Dương Nội, thuộc Hà Nội trong một vụ khiếu kiện đất đai gây xung đột, giằng giật ác liệt.
Trước đó, hồi tháng 4/2012, một lực lượng đông đảo công an đã được chính quyền điều vào cuộc nhằm cưỡng chế đất của nhiều hộ nông dân địa phương cho dự án Ecopark của một chủ đầu tư.
Tại đây, hai nhà báo của Đài tiếng nói Việt Nam đã bị công an mặc sắc phục đánh khi về đưa tin.
(BBC)
Ý kiến được trang web Công an TPHCM hôm 2/4/2013 đăng tải, nói cán bộ chiến sỹ công an thành phố đã nêu ý kiến:
“Cần tránh việc lợi dụng danh nghĩa thu hồi đất để trục lợi cá nhân, tổ chức và chủ đầu tư dự án phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quyền lợi về tài sản đất đai của người dân.”
Trong khi Hải Phòng đang diễn ra vụ xử gia đình ông Đoàn Văn Vươn “chống người thi hành công vụ” trong vụ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng hồi đầu năm 2012, các ý kiến mà trang Công an TPHCM nêu ra một cách chính thức là điều đáng chú ý dù xảy ra ở một địa phương khác.
Tránh lợi ích nhóm
Công an TP cũng bày tỏ lo ngại chuyện thu hồi đất “để sử dụng vào mục đích thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội dễ bị lạm dụng phục vụ lợi ích riêng, lợi ích nhóm”.Trong một phát biểu phân biệt rõ chức năng của Nhà nước mà các chiến sỹ công an là lực lượng thực hiện thi hành pháp luật, họ đã đề nghị chỉ “thu hồi đất để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”.
Mặt khác, công an TPHCM có vẻ cũng không muốn trở thành một bên bênh vực cho các nhà đầu tư, và vì thế đã đề nghị:
“Các nhà đầu tư thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội phải trực tiếp thỏa thuận với người sử dụng đất.”
Không chỉ có vậy, công an TPHCM trong phần góp ý về Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) còn phê phán các bất cập trong chính sách bồi thường đất đai theo Luật Đất Đai 2003 và nêu ra các thách thức về mặt kinh tế cũng như an ninh chính trị:
“Giá bồi thường tại thời điểm thu hồi đất chênh lệch rất lớn và thấp hơn nhiều so với giá thị trường; chính sách hỗ trợ, tái định cư còn nhiều điểm chưa hợp lý,"
Bài trên báo Công an TP HCM cũng viết:
"Rất nhiều trường hợp hộ gia đình khi chuyển về nơi tái định cư không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn, trong khi chính quyền địa phương, chủ đầu tư chưa thực sự quan tâm đến đời sống của họ...”
“Đó là một trong những nguyên nhân gây cản trở trong công tác thu hồi, chống người thi hành công vụ, khiếu kiện đất đai kéo dài làm phức tạp tình hình chính trị địa phương.”
"chống người thi hành công vụ, khiếu kiện đất đai kéo dài làm phức tạp tình hình chính trị địa phương"Trong những năm qua, cùng với đà phát triển kinh tế tại Việt Nam, các vụ thu hồi và cưỡng chế đất mà trên lý thuyết thuộc sở hữu của 'toàn dân' đã gây ra nhiều căng thẳng xã hội.
Nếu như vụ Tiên Lãng có sự tham gia của quân đội, trong nhiều vụ việc khác, lực lượng công an thường là nhóm phải đi đầu trong công tác cưỡng chế đất.
Ví dụ như hôm ngày 31/1 năm nay giới chức địa phương đã đưa lực lượng chừng 200 người, gồm công an, thanh tra giao thông tới trấn áp dân Dương Nội, thuộc Hà Nội trong một vụ khiếu kiện đất đai gây xung đột, giằng giật ác liệt.
Trước đó, hồi tháng 4/2012, một lực lượng đông đảo công an đã được chính quyền điều vào cuộc nhằm cưỡng chế đất của nhiều hộ nông dân địa phương cho dự án Ecopark của một chủ đầu tư.
Tại đây, hai nhà báo của Đài tiếng nói Việt Nam đã bị công an mặc sắc phục đánh khi về đưa tin.
(BBC)
'Tha bổng ông Vươn sẽ thu được lòng dân'
Bà Kim Chi tham dự buổi lễ cầu nguyện cho gia đình ông Vươn ở nhà thờ Thái Hà
Sau khi ra Hà Nội dự lễ cầu nguyện cho gia đình ông Đoàn Văn Vươn,
nghệ sỹ Kim Chi tiếp tục bày tỏ lòng tin ông Vươn vô tội, và chỉ hành
động vì 'đã bị dồn đến chân tường'.
Trả lời BBC hôm khai mạc phiên xử ông Đoàn Văn Vương và thân nhân 02/04/2013 nghệ sỹ ưu tú, diễn viên điện ảnh Nguyễn Kim Chi nhận định về tòa án và chính quyền:
Nghệ sỹ Kim Chi: Tôi đã có bài viết kể lại ở trên trang của Bùi Văn Bồng về sự có mặt của mình trong buổi lễ cầu nguyện đó. Tôi nói rõ quan điểm của mình, nếu mà cái việc đó mà nó xảy ra như vậy, thì đó là một vết nhơ cho cái ngành tòa án Việt Nam, chứ không phải là oan hay là nặng nữa, mà một sự bất công vô lý.
Vì là tài sản của người ta mà lại chiếm đoạt một cách phi lý thì người ta bảo vệ. Mà chính là năm ngoái thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến rằng họ bị cưỡng chế này kia là sai rồi, mà những người lãnh đạo Hải Phòng đã từng bị kỷ luật rồi. Thế tại sao bây giờ lại làm ngược lại như thế thì chúng tôi rất là ngỡ ngàng và rất là căm phẫn.
BBC: Có một nhà báo cũng viết trên mạng rằng, vụ việc này nếu chính quyền xử chặt, sẽ là ngòi nổ cho các vụ phản đối chính quyền để đòi đất khác, và nếu xử công bằng, tự nó sẽ tháo gỡ được sự giận dữ của người dân vì người ta sẽ hy vòng còn có công lý, bà nghĩ sao về tình hình, đời sống của người dân hiện nay?
Nghệ sỹ Kim Chi: Thật là khó nói. Và cái vụ việc này làm tôi rất là buồn. Nhưng mà đúng.
Tôi nghĩ rằng là nếu người ta thả bổng cho Đoàn Văn Vươn, cho gia đình anh ta, thì điều đó sẽ thu phục được lòng dân. Còn nếu mà lấy quyền, lấy luật rừng để mà trừng trị một người lương thiện như thế, thì nhất định là tức nước thì phải vỡ bờ thôi.
Người Việt Nam mình xưa nay vốn rất hiền hòa, theo tôi là như thế, chỉ khi nào người ta bị dồn đến chân tường thì người ta mới vùng dậy thôi.
BBC: Trong khi chống đối thì cũng có xảy ra thương tích, tai nạn cho những người phía chính quyền, thì bà có cho là ông Vươn cũng nên chịu tội?
Nghệ sỹ Kim Chi: Nếu mình công bằng thì mình phải đi từ cái gốc rễ của vấn đề. Vì sao lại có chuyện gia đình Đoàn Văn Vươn làm như thế? Bây giờ có người đến đe dọa thì người ta giăng những cái vũ khí tự tạo của người ta nhưng nếu mà chẳng ai đến thì làm gì có ai bị thương, làm gì có ai chống người thi hành công vụ.
Như tôi nói từ đầu, đấy là tài sản riêng của người ta, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khích lệ lấn biển, khai phá này kia, đó là cái mồ hôi và nước mắt và máu của gia đình người ta.
Bây giờ bỗng dưng người ta bị chiếm đoạt, thì tôi mà tôi vào cái sự việc đó thì tôi cũng làm như thế. Ai mà cướp đi sự sống của tôi một cách vô lý thì tôi cũng hành động như thế.
BBC: Cách đây vài tháng bà từng từ chối đăng ký làm bằng khen vì không muốn có chữ ký của thủ tướng Việt Nam, và nay lại xuất hiện cùng nhóm người ủng hộ gia đình ông Vươn, có ý kiến cho rằng bà đã ngả về phía bất đồng chính kiến, bà nghĩ sao?
Nghệ sỹ Kim Chi: Rõ ràng rồi. Rõ ràng là tôi bất đồng chính kiến với nhiều việc lắm. Và bởi vì tôi bất đồng chính kiến mà tôi mới có bức thư gửi cho hội Điện ảnh, với cái quan niệm là ôi trời, một ông thủ tướng ổng để nợ nần như thế mà sao mọi người ham được ông ý khen vậy. Tôi nghĩ là ông ấy phải từ nhiệm từ lâu rồi.
Rõ ràng là tôi hành động có suy nghĩ chín chắn của một người có lương tri, thương nước thương dân, chứ tôi không làm bốc đồng hay ngẫu hứng.
Cho nên cũng có những người ném đá, nói tôi chơi nổi, đánh bóng tên tuổi, nhưng tôi mặc họ thôi, tôi không để ý, quan tâm.
Tôi có thể nói một cái câu rất là bướng bỉnh, rất là láo nhưng mà tôi rất thích, là dân gian có một câu là tôm tép luôn luôn nghĩ là cứt của ai cũng ở trên đầu chúng nó.
Tôi không sợ những lời vu khống...
BBC: Bà cũng từng tham gia cách mạng, từng tham gia chiến tranh mong giành độc lập để có cuộc sống tốt đẹp hơn, thì giờ bà có bao giờ thấy tiếc, thấy thất vọng, khi mà xã hội bây giờ không được như mình mong muốn?
Nghệ sỹ Kim Chi: Nó là hai giai đoạn. Cái giai đoạn đó, nếu như ai chứng kiến, thí dụ như thảm sát ở Phú Riềng, ở rất nhiều nơi, thì sẽ thấy là cái chế độ đó phải được dẹp đi.
Cho nên tôi cũng trong đoàn quân rất là hồ hởi đi vào chiến trường để mà tham gia. Và tôi quan niệm đó là việc xác đáng nên tôi cũng không sợ chết cái tuổi trẻ, tôi rất là hào hứng.
Nhưng tôi nghĩ là, lãnh đạo hiện nay, không chỉ có mình ông Nguyễn Tấn Dũng đâu, là đã phản bội lại nhân dân.
Độc lập mà không có ấm no, không có tự do thì độc lập chẳng làm gì hết, đó, cụ Hồ Chí Minh đã nói như vậy.
Cho đến giờ này, mấy chục năm qua, dân vẫn khổ, đất đai bị chiếm để làm dự án này, quy hoạch kia mà dân vẫn đói khổ, phải xuống đường để đòi đất thì đau đớn lắm.
...Nếu mà cứ cúi đầu sợ hãi mãi thì sẽ không bao giờ có sự thay đổi.
Bản thân tôi cũng từng rất tự hào mình là đảng viên đảng Cộng sản trước đây, nhưng mà bây giờ thì, Đảng đã làm mất lòng tin của nhân dân.
Rất nhiều bạn bè, con cháu tôi nói giỡn là “Ừ, mẹ là đảng viên nhưng mà tốt,” làm tôi buồn lắm. Đảng bây giờ nhiều người lợi dụng để có chức có quyền, để hà hiếp nhân dân cho nên tôi buồn lắm.
Nói lại chuyện Đoàn Văn Vươn thì tôi phản đối tới cùng nếu như mà xử oan sai, xử nặng...
BBC: Điều gì trong xã hội Việt Nam hiện nay khiến bà trăn trở nhiều nhất?
Nghệ sỹ Kim Chi: Tôi trăn trở nhiều nhất là dân không được tự do. Thực sự là không được tự do.
Vừa rồi chúng tôi góp ý thay đổi hiến pháp thì bị người ta quy chụp là có cái tư tưởng này kia, chống đối rồi thoái hóa, đủ kiểu. Nếu vậy thì các vị lãnh đạo chỉ muốn người ta vâng dạ thôi, chứ không muốn người ta góp ý chân thành về những điều cần làm để mà sửa chữa.
(BC)
Trả lời BBC hôm khai mạc phiên xử ông Đoàn Văn Vương và thân nhân 02/04/2013 nghệ sỹ ưu tú, diễn viên điện ảnh Nguyễn Kim Chi nhận định về tòa án và chính quyền:
Nghệ sỹ Kim Chi: Tôi đã có bài viết kể lại ở trên trang của Bùi Văn Bồng về sự có mặt của mình trong buổi lễ cầu nguyện đó. Tôi nói rõ quan điểm của mình, nếu mà cái việc đó mà nó xảy ra như vậy, thì đó là một vết nhơ cho cái ngành tòa án Việt Nam, chứ không phải là oan hay là nặng nữa, mà một sự bất công vô lý.
Vì là tài sản của người ta mà lại chiếm đoạt một cách phi lý thì người ta bảo vệ. Mà chính là năm ngoái thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến rằng họ bị cưỡng chế này kia là sai rồi, mà những người lãnh đạo Hải Phòng đã từng bị kỷ luật rồi. Thế tại sao bây giờ lại làm ngược lại như thế thì chúng tôi rất là ngỡ ngàng và rất là căm phẫn.
BBC: Có một nhà báo cũng viết trên mạng rằng, vụ việc này nếu chính quyền xử chặt, sẽ là ngòi nổ cho các vụ phản đối chính quyền để đòi đất khác, và nếu xử công bằng, tự nó sẽ tháo gỡ được sự giận dữ của người dân vì người ta sẽ hy vòng còn có công lý, bà nghĩ sao về tình hình, đời sống của người dân hiện nay?
"Nếu người ta tha bổng cho Đoàn Văn Vươn, cho gia đình anh ta, thì điều đó sẽ thu phục được lòng dân. Còn nếu mà lấy quyền, lấy luật rừng để mà trừng trị một người lương thiện như thế, thì nhất định là tức nước thì phải vỡ bờ thôi."
Bà Kim Chi nói về vụ xử gia đình Đoàn Văn Vươn
Nghệ sỹ Kim Chi: Thật là khó nói. Và cái vụ việc này làm tôi rất là buồn. Nhưng mà đúng.
Tôi nghĩ rằng là nếu người ta thả bổng cho Đoàn Văn Vươn, cho gia đình anh ta, thì điều đó sẽ thu phục được lòng dân. Còn nếu mà lấy quyền, lấy luật rừng để mà trừng trị một người lương thiện như thế, thì nhất định là tức nước thì phải vỡ bờ thôi.
Người Việt Nam mình xưa nay vốn rất hiền hòa, theo tôi là như thế, chỉ khi nào người ta bị dồn đến chân tường thì người ta mới vùng dậy thôi.
BBC: Trong khi chống đối thì cũng có xảy ra thương tích, tai nạn cho những người phía chính quyền, thì bà có cho là ông Vươn cũng nên chịu tội?
Nghệ sỹ Kim Chi: Nếu mình công bằng thì mình phải đi từ cái gốc rễ của vấn đề. Vì sao lại có chuyện gia đình Đoàn Văn Vươn làm như thế? Bây giờ có người đến đe dọa thì người ta giăng những cái vũ khí tự tạo của người ta nhưng nếu mà chẳng ai đến thì làm gì có ai bị thương, làm gì có ai chống người thi hành công vụ.
Như tôi nói từ đầu, đấy là tài sản riêng của người ta, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khích lệ lấn biển, khai phá này kia, đó là cái mồ hôi và nước mắt và máu của gia đình người ta.
Bây giờ bỗng dưng người ta bị chiếm đoạt, thì tôi mà tôi vào cái sự việc đó thì tôi cũng làm như thế. Ai mà cướp đi sự sống của tôi một cách vô lý thì tôi cũng hành động như thế.
BBC: Cách đây vài tháng bà từng từ chối đăng ký làm bằng khen vì không muốn có chữ ký của thủ tướng Việt Nam, và nay lại xuất hiện cùng nhóm người ủng hộ gia đình ông Vươn, có ý kiến cho rằng bà đã ngả về phía bất đồng chính kiến, bà nghĩ sao?
Nghệ sỹ Kim Chi: Rõ ràng rồi. Rõ ràng là tôi bất đồng chính kiến với nhiều việc lắm. Và bởi vì tôi bất đồng chính kiến mà tôi mới có bức thư gửi cho hội Điện ảnh, với cái quan niệm là ôi trời, một ông thủ tướng ổng để nợ nần như thế mà sao mọi người ham được ông ý khen vậy. Tôi nghĩ là ông ấy phải từ nhiệm từ lâu rồi.
Rõ ràng là tôi hành động có suy nghĩ chín chắn của một người có lương tri, thương nước thương dân, chứ tôi không làm bốc đồng hay ngẫu hứng.
Cho nên cũng có những người ném đá, nói tôi chơi nổi, đánh bóng tên tuổi, nhưng tôi mặc họ thôi, tôi không để ý, quan tâm.
Tôi có thể nói một cái câu rất là bướng bỉnh, rất là láo nhưng mà tôi rất thích, là dân gian có một câu là tôm tép luôn luôn nghĩ là cứt của ai cũng ở trên đầu chúng nó.
Tôi không sợ những lời vu khống...
BBC: Bà cũng từng tham gia cách mạng, từng tham gia chiến tranh mong giành độc lập để có cuộc sống tốt đẹp hơn, thì giờ bà có bao giờ thấy tiếc, thấy thất vọng, khi mà xã hội bây giờ không được như mình mong muốn?
Nghệ sỹ Kim Chi: Nó là hai giai đoạn. Cái giai đoạn đó, nếu như ai chứng kiến, thí dụ như thảm sát ở Phú Riềng, ở rất nhiều nơi, thì sẽ thấy là cái chế độ đó phải được dẹp đi.
Cho nên tôi cũng trong đoàn quân rất là hồ hởi đi vào chiến trường để mà tham gia. Và tôi quan niệm đó là việc xác đáng nên tôi cũng không sợ chết cái tuổi trẻ, tôi rất là hào hứng.
"Rõ ràng là tôi bất đồng chính kiến với nhiều việc lắm... Rõ ràng là tôi hành động có suy nghĩ chín chắn của một người có lương tri, thương nước thương dân, chứ tôi không làm bốc đồng hay ngẫu hứng."Cho đến bây giờ, thực ra mà nói, tôi cũng không tiếc công, tiếc sức gì hết, vì bao nhiêu người đã nằm lại chiến trường người ta không về, thì tôi cũng không có cái gì tiếc.
Nghệ sỹ ưu tú Kim Chi
Nhưng tôi nghĩ là, lãnh đạo hiện nay, không chỉ có mình ông Nguyễn Tấn Dũng đâu, là đã phản bội lại nhân dân.
Độc lập mà không có ấm no, không có tự do thì độc lập chẳng làm gì hết, đó, cụ Hồ Chí Minh đã nói như vậy.
Cho đến giờ này, mấy chục năm qua, dân vẫn khổ, đất đai bị chiếm để làm dự án này, quy hoạch kia mà dân vẫn đói khổ, phải xuống đường để đòi đất thì đau đớn lắm.
...Nếu mà cứ cúi đầu sợ hãi mãi thì sẽ không bao giờ có sự thay đổi.
Bản thân tôi cũng từng rất tự hào mình là đảng viên đảng Cộng sản trước đây, nhưng mà bây giờ thì, Đảng đã làm mất lòng tin của nhân dân.
Rất nhiều bạn bè, con cháu tôi nói giỡn là “Ừ, mẹ là đảng viên nhưng mà tốt,” làm tôi buồn lắm. Đảng bây giờ nhiều người lợi dụng để có chức có quyền, để hà hiếp nhân dân cho nên tôi buồn lắm.
Nói lại chuyện Đoàn Văn Vươn thì tôi phản đối tới cùng nếu như mà xử oan sai, xử nặng...
BBC: Điều gì trong xã hội Việt Nam hiện nay khiến bà trăn trở nhiều nhất?
Nghệ sỹ Kim Chi: Tôi trăn trở nhiều nhất là dân không được tự do. Thực sự là không được tự do.
Vừa rồi chúng tôi góp ý thay đổi hiến pháp thì bị người ta quy chụp là có cái tư tưởng này kia, chống đối rồi thoái hóa, đủ kiểu. Nếu vậy thì các vị lãnh đạo chỉ muốn người ta vâng dạ thôi, chứ không muốn người ta góp ý chân thành về những điều cần làm để mà sửa chữa.
(BC)
Công an đánh đập và bắt bớ người dân đến phiên tòa Đoàn Văn Vươn
Như chúng tôi đã loan tin, sáng ngày 2 tháng Tư khi công an tiến hành
vây bắt ba người là Chị Bùi Minh Hằng, anh Nguyễn Chí Đức và ông Trương
Dũng chở về công an phường Hải An thành phố Hải Phòng cho đến chiều tối
hôm qua thì anh Trương Dũng đã được chở cấp cứu tới bệnh viện đa khoa
thành phố Hải phòng vì bị công an đánh đập gây thương tích nghiêm trọng.
Nói chuyện với chúng tôi ông Trương Dũng cho biết:
Dạ tôi thấy phiên tòa nói xử công khai mà người đến xem lại cấm. Chúng
tôi phản đối phiên tòa cuối cùng không cho người dân vào. Người ta thấy
bất công xử Đoàn Văn Vươn là hoàn toàn sai với pháp luật. Trong khi đó
tôi thấy người ta bắt một cháu thanh niên người ta đánh một cách dã man
thì tôi phản đối hành vi của họ nên họ đánh tôi .
Công an và dân phòng ngăn chặn người dân đến dự phiên tòa xử gia đình ông Đoàn Văn Vươn tại Tòa án Hải Phòng sáng 02/4/2013 |
Họ cứ xô vào vì thấy mình phản đối họ. Họ đánh trên đường đi lúc ấy họ
bẻ tay vừa đánh dọc đường lúc ấy họ tống lên xe bít bùng loại xe chở tù,
họ khóa tay lại họ đánh. Họ chở về công an quận Hải An thành phố Hải
Phòng.
Riêng trường hợp của anh Nguyễn Chí Đức người nổi tiếng vì cú đạp lịch
sử trong lần biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội trước đây được ông
Trương Dũng cho biết là tình trạng không đến nỗi nặng như ông, ông Dũng
kể:
Nguyễn Chí Đức thì người ta lao ra người túm Nguyễn Chí Đức lúc bấy giờ
có xây xát nhưng cũng nhẹ không có vấn đề gì. Tôi thì bị nặng hiện tại
bác sĩ cũng đã chiếu chụp (X-ray) rồi thì có ảnh hưởng tới phần mềm
(trong đầu) trong người thì không bị sao nhưng mà phần mềm sợ nó biến
chứng mà kể cả bác sĩ cũng chưa biết được.
Ông Trương Dũng trả lời chúng tôi rất khó khăn vì đang trong tình trạng
hoảng loạn, cho tới hơn 11 giờ 30 đêm 2 tháng Tư ông vẫn còn ngồi trong
bệnh viện Đa khoa Hải Phòng và chưa ra về.
Đài Á Châu Tự Do tiếp tục theo dõi và loan tin nhanh nhất về các trường
hợp công an tấn công và đánh đập người dân khi họ đến xem vụ án Đoàn Văn
Vươn tại Hải Phòng trong thời gian sớm nhất.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-04-02
Vì sao vụ Đoàn Văn Vươn không chuyển sang Tòa quân sự?
Sáng ngày 2/4, khi phiên tòa sơ thẩm vụ án “Giết người”, “Chống người
thi hành công vụ” trong vụ cưỡng chế thu hồi đất tại Tiên Lãng được mở,
luật sư Nguyễn Việt Hùng đã có kiến nghị yêu cầu đưa vụ án sang TA Quân
sự xét xử. TAND Thành phố Hải Phòng đã đưa ra câu trả lời!
Phiên sơ thẩm xét xử vụ án “Giết người” đối với các bị cáo Đoàn Các bị
cáo Đoàn Văn Vươn; Đoàn Văn Quý; Đoàn Văn Sịnh; Đoàn Văn Vệ và vụ án
“Chống người thi hành công vụ” của các bị cáo Phạm Thị Báu; Nguyễn Thị
Thương đã được TAND T.p Hải Phòng mở phiên.
Luật sư Nguyễn Việt Hùng (Trưởng VPLS Kinh Đô bào chữa cho các bị can
Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý) đã có kiến nghị yêu cầu đưa vụ án sang TA
quân sự xét xử với lý do có 2 bộ đội bị thương trong vụ cưỡng chế và là
bị hại trong vụ án này.
Trước đó, Văn phòng Luật sư Kinh Đô đã gửi công văn đến Chánh án TAND
Tối cao, Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Chánh án Tòa quân sự Quân
khu 3... kiến nghị chuyển vụ án để giải quyết đúng thẩm quyền. Theo luật
sư Hùng: thành phần đoàn cưỡng chế có sự tham gia của lực lượng quân
đội, trong đó có hai bộ đội bị thương. Họ là bị hại trong vụ án, có
người giảm 43% sức lao động.
Các bị cáo tại phiên tòa ngày 2/4 - Ảnh: TTXVN |
Việc hai chiến sĩ quân đội thuộc Ban chỉ huy quân sự huyện Tiên Lãng
đang tại ngũ bị súng hoa cải bắn bị thương và việc sử dụng trái pháp
luật lực lượng quân đội tham gia cưỡng chế dân (theo kết luận của Thủ
tướng) là tình tiết "Gây thiệt hại cho quân đội". Do đó, toàn bộ vụ án
Giết người, chống người thi hành công vụ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự.
Thông tin với VietNamNet, bà Nguyễn Thị Mai, Chánh án TAND Thành phố Hải
Phòng cho biết: TAND TP Hải Phòng đã có công văn trả lời VPLS Kinh Đô
về kiến nghị trên.
Ngày 01/4/2013, TAND TP Hải Phòng tiếp tục có công văn số 465/TA-HS trả
lời khiếu nại về thẩm quyền xét xử Vụ án Đoàn Văn Vươn (lần 2).
Chánh án TAND TP Hải Phòng cho hay: ngày 29/3/2013 TAND thành phố Hải
Phòng nhận được Văn bản số 02/2013/KNLS-KĐL ngày 28/3/2013 của Luật sư
khiếu nại Văn bản số 401/TA-HS ngày 14/3/2013 của Chánh án Tòa án nhân
dân thành phố Hải Phòng trả lời kiến nghị của Luật sư về thẩm quyền xét
xử Vụ án Đoàn Văn Vươn; khiếu nại Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
407/2013/HSST-QĐ ngày 18/3/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
(với lý do Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng không có thẩm quyền xét
xử vụ án) và khiếu nại hành vi tố tụng của Tòa án nhân dân thành phố Hải
Phòng trong việc lập biên bản họp liên ngành số 01/BB-LN ngày
07/3/2013.
TAND TP Hải Phòng đã viện dẫn các điều khoản của pháp luật (Khoản 2 Điều
3 Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự; hướng dẫn tại Điểm b Mục 2 Phần I
Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BQP-BCA ngày
18/4/2005 hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Điều 5 Pháp
lệnh Tổ chức Tòa án quân sự; hướng dẫn tại Mục 4 Phần I Thông tư liên
tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BQP-BCA ngày 18/4/2005 hướng dẫn về
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự) để trả lời khiếu nại của VPLS
Kinh Đô.
Theo TAND thành phố Hải Phòng: trong vụ án này, Đoàn Văn Vươn cùng các
đồng phạm có hành vi dùng súng bắn lại đoàn cưỡng chế, làm bị thương 2
cán bộ Ban Chỉ huy quân sự huyện Tiên Lãng vừa gây thiệt hại cho quân
đội và làm bị thương 5 cán bộ Công an huyện Tiên Lãng là vừa gây thiệt
hại cho người ngoài quân đội.
Nếu căn cứ vào việc Đoàn Văn Vươn cùng đồng phạm gây thiệt hại cho tính
mạng, sức khỏe của 2 quân nhân thì việc xét xử vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án quân sự (Khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự).
Nếu căn cứ vào việc Đoàn Văn Vươn cùng đồng phạm gây thiệt hại cho tính
mạng, sức khỏe của các cán bộ công an, cộng thêm hành vi chống người thi
hành công vụ của Nguyễn Thị Thương, Phạm Thị Báu thì vụ án thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân.
Như vậy, cùng một hành vi phạm tội (dùng súng bắn lại những người thi
hành công vụ), nhưng Vươn cùng các đồng phạm vừa gây thiệt hại cho quân
đội vừa gây thiệt hại cho người ngoài quân đội hay nói cách khác, đây là
trường hợp một hành vi nhưng gây thiệt hại cho hai đối tượng thuộc thẩm
quyền xét xử của hai Tòa án khác nhau.
Chánh án TAND thành phố Hải Phòng cũng cho hay: Sau khi thụ lý vụ án để
xét xử sơ thẩm, ngày 7/3/2013, TAND T.p Hải Phòng, VKSND TP Hải Phòng,
Viện Kiểm sát quân sự quân khu III đã họp bàn về việc giải quyết vướng
mắc về thẩm quyền xét xử vụ án và đã thống nhất TAND TP Hải Phòng xét xử
toàn bộ vụ án theo thủ tục chung.
Vì vậy, TAND TP Hải Phòng thụ lý, xét xử vụ án là đúng quy định của pháp luật.
Trước đó, cuộc họp liên ngành giữa TAND TP Hải Phòng, Viện Kiểm sát nhân
dân thành phố Hải Phòng và Viện Kiểm sát quân sự quân khu III (do TAND
TP Hải Phòng là cơ quan chủ trì) họp bàn giải quyết vướng mắc về thẩm
quyền xét xử và thống nhất việc TAND TP Hải Phòng thụ lý, xét xử vụ án
là đúng quy định của pháp luật, thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư
liên tịch số 01/2008/TTLT-VKSNDTC-TANDTC- BQP-BCA ngày 20/10/2008 giữa
Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an -
Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân
đội và ngoài Quân đội.
“Do vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND TP Hải Phòng nên ngày
18/3/2013 TAND TP Hải Phòng ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
407/2013/HSST-QĐ là đúng quy định của pháp luật” – bà Mai khẳng định.
Ngày 5/1/2012, khi hơn 100 cảnh sát, bộ đội cưỡng chế, thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, một số người đã gài mìn tự chế trong vườn, cầm súng hoa cải chống lại. Bốn cảnh sát và hai cán bộ huyện đội bị thương, trong số này có người đứng đầu công an huyện Tiên Lãng.
Ngày 10/1, 4 bị can gồm: Đoàn Văn Quý (46 tuổi), Đoàn Văn Vươn (49 tuổi), Đoàn Văn Sịnh (55 tuổi) và Đoàn Văn Vệ (38 tuổi) bị khởi tố, bắt tạm giam về tội giết người.
Phạm Thị Báu (tức Hiền, vợ ông Quý) và Nguyễn Thị Thương (vợ ông Vươn) bị khởi tố về tội chống người thi hành công vụ, song được tại ngoại và cho áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú.
(VNN)
Vụ án Đoàn Văn Vươn: Điều tra viên nhận 30 tr để chạy án
LS. Trần Đình Triển |
VỤ ÁN ĐOÀN VĂN VƯƠN “PHIÊN TÒA XÉT XỬ ĐẸP”!
PHẦN 1:
Sáng nay phiên tòa khai mạc,đúng như dự đoán “Lực lượng công vụ nhiều
hơn hàng nghìn lần người tham gia tố tụng,không một người dân nào được
tham gia phiên tòa nếu không có giấy mời hoặc triệu tập của Tòa”. Lực
lượng triển khai nhiều ngả đường,…dù lý do gì thì cũng đều không hay,bởi
lẽ:
Một là:: Nếu vì người dân ở nhiều nơi quá bức xúc muốn kéo về đây để
phản đối phiên tòa,..thì mâu thuẩn trong nội bộ nhân dân không được giải
quyết,đây là mầm mống của hậu họa và thể hiện sự rơi vãi đâu đó mất
niềm tin của dân với chính quyền;…
Hai là: Sợ kẻ địch,kẻ xấu,.. lợi dụng thì cũng không chấp nhận được,vì:
nếu ta làm đúng-ta sợ gì ai? “kẻ địch là ai?ai là kẻ địch” thì nói rõ
cho dân biết để phòng tránh! “thêm bạn,bớt thù”, tại sao để cho “kẻ địch
,kẻ xấu,…” nhiều thế ?. Nếu họ nói đúng sự thật thì phải khen vì Đảng
đã chỉ rõ “Phải nhìn thẳng vào sự thật…” kia mà! Nếu sợ hội chứng thông
tin thì phải xử lý mấy “ông râu da trắng” nào đó ở nước ngoài đã phát
minh ra Internet,…chứ đâu phải dân ta;”diệt cỏ phải diệt tận gốc” sao
lại xử lý mấy người “ấm ớ” sử dụng ?!
Các luật sư đến tòa được chăm sóc chu đáo: để xe từ xa đi bộ vào tòa gần
nửa km ;qua 1 phòng kiểm tra giấy tờ, sang phòng bên gửi điện thoại (
mặc dù cả khu vực tòa đã bị phá sóng); tiếp đến 1 trạm kiểm tra giấy tờ
,trạm cuối cùng là đưa cặp và người qua máy soi rồi mới được vào tòa;…
Nguyên tắc Hiến định: “Xét xử công khai”,mọi công dân đủ năng lực hành
vi đều có quyền tham dự phiên tòa đang bị vô hiệu trên thực tế, “nói 1
đàng,làm 1 nẻo” thì dân tin sao? Tòa tạm dừng buổi trưa, ra ngoài đường
công cộng, tôi và 1 số luật sư đang đứng nói chuyện với chị Thương (vợ
Anh Vươn ) và chị Hiền ( vợ anh Quý ),bỗng nhiên có 1 người măc thường
phục đeo biển “Ban tổ chức” ra ngăn cản cuộc nói chuyện. Tôi bực mình
quá,đành phải thốt lên:” Này Anh! Nên bỏ vào đầu 1 chút kiến thức; đây
là quyền của chúng tôi; anh sai nhưng nếu tôi chống lại thì sẽ bị xử lý
về chống người thi hành công vụ như vụ án này đây !” buồn quá !
Ngày hôm nay,nhiều tình tiết tại phiên tòa làm cho anh em luật sư và báo
chí tham dự bàng hoàng,..nhưng anh chị em fb cho tôi đi ăn cơm đã,về sẽ
viết tiếp phần 2;…
PHẦN 2:
Phần mở đầu phiên tòa: Luật sư Hùng( bào chữa cho anh Vươn) ĐỀ nghị thay
đổi toàn bộ Hội đồng xét xử với lý do: thẩm quyền điều tra truy tố và
xét xử thuộc thẩm quyền của Tòa án Quân sự. Hội đồng xét xử vào nghị án
và ra quyết định bác đề nghị của luật sư Hùng vơi lý do đã được Tòa án
Thành phố Hải Phòng và Tòa án nhân dân tối cao trả lời khiếu nại của
luật sư Hùng và khẳng định thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Thành
phố Hải Phòng xét xử.
Đa số các bị cáo đều tố cáo trong giai đoạn điều tra bị đánh đập, bức
cung, mớm cung, dụ cung. Có nhiều trường hợp đưa giấy trắng ép bị cáo ký
khống vào.
Cả Hội trường giật mình khi anh Đoàn Văn Vệ khai trong quá trình điều
tra có một điều tra viên đưa điện thoại cho anh Vệ gọi về cho vợ đã đưa
cho điều tra viên hai lần. Một lần 20 triệu và một lần 10 triệu. Điều
tra viên hứa sẽ lo cho anh Vệ không có tội; nhưng sau đó không thấy kết
quả vì vậy anh Vệ đề nghị thay đổi điều tra viên nhưng không được đáp
ứng.
Vài tình tiết như vậy, các anh chị em FB đã đủ no buổi tối chưa? Hehe…
LS. Trần Đình Triển
(FB. Trần Đình Triển)
Vọng tâm can
Sau gần một thế kỷ, ‘Phiên tòa’ của Người đánh thức Franz Kafka lại
đang phát đi bản tuyên ngôn tiếng vọng từ tâm can ở Việt Nam về một kẻ
bị quan chức Hải Phòng coi là ‘mất nhân tính’ như Đoàn Văn Vươn.
Phiên tòa
Hơn một năm sau khi bộ phim ‘Người nông dân nổi dậy’ (Jacquou le
Croquant) với xuất xứ từ tiểu thuyết gia hiện thực phê phán người Pháp
Eugène Le Roy được tái hiện ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, một phiên tòa
xét xử Đoàn Văn Vươn cùng những người trong gia đình anh về tội danh
‘Giết người, chống người thi hành công vụ’ được chính quyền Hải Phòng
đưa ra ‘công chiếu’ ở Việt Nam.
Đúng 15 năm sau một phong trào biểu tình và phản kháng diện rộng gây
chấn động cả nước của người dân Thái Bình chống nạn tham nhũng và bất
chấp pháp luật về quản lý đất đai của quan chức địa phương, Tiên Lãng
cũng hoàn toàn xứng đáng trở thành một sự kiện tầm cỡ quốc gia, đậm đà ý
nghĩa về phản ứng xã hội và còn có hơi hướng của ‘điểm nóng chính trị’
như cách chỉ điểm của một số giới chức điều hành.
Điểm nhấn quá ý nhị của vụ việc Tiên Lãng trong não bộ chính quyền chính
là việc lần đầu tiên, hành vi vẫn được xem là “chống người thi hành
công vụ” liên quan đến phản ứng đất đai đã được biểu hiện bằng vũ khí có
độ sát thương cao, do người bị thu hồi đất dùng để chống lại ‘kẻ lạ’ đi
cưỡng chế.
Một phản ứng cùng mình như thế chỉ có thể so sánh với hình ảnh những
nông dân quẫn chí mang bom tự sát ở Trung Quốc - hành động bày tỏ tâm
thế tuẫn tiết khi bị chính quyền tước đoạt công bằng và công lý một cách
không thể cứu vãn nổi.
Nhưng lại hiện ra một cứu vãn ở phía xa chân trời.
Người dân biểu tình ủng hộ gia đình Anh Đoàn Văn Vươn bên ngoài Tòa án Hải Phòng nơi diễn ra phiên tòa xét xử gia đình Anh Đoàn Văn Vươn hôm 2 tháng 4 năm 2013. |
2.000 bài viết trên phần lớn báo chí và mạng truyền thông xã hội trong
nước trong hơn một năm qua đã khiến cho gương mặt Đoàn Văn Vươn trở nên
quá thánh thiện so với một số quan chức Tiên Lãng - những kẻ cũng sắp bị
đưa ra xét xử bởi tội danh ‘Hủy hoại tài sản, thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng’ sau khi phiên tòa của ‘Người anh hùng hoa cải’ kết
thúc.
Cũng quá khác biệt với những ‘con sâu’ - như một cách ví von của Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang về ‘một bộ phận không nhỏ’ cán bộ, đảng viên
đã ‘nhúng chàm’, tính anh hùng ca của ‘Người nông dân nổi dậy’ đã lôi
cuốn mối quan tâm đặc biệt của không chỉ dư luận và báo chí trong nước,
mà còn bằng vào hàng loạt động thái truyền thông có tính nhấn mạnh và
không chỉ một lần cho tới tương lai của khá nhiều tờ báo quốc tế.
Sự chú tâm đặc biệt của nhiều tổ chức quốc tế về quyền con người cũng theo đó đang xoáy sâu vào tấm bản đồ nhân quyền Việt Nam.
Vào những ngày sắp diễn ra phiên tòa của Đoàn Văn Vươn, một nhóm sinh
viên Đại học Luật TP.HCM - nơi có một trung tâm nghiên cứu về quyền con
người, đã bất ngờ công bố một văn bản có tên ‘Tuyên ngôn Công lý cho
Đoàn Văn Vươn’. Dù chỉ mang tính tự phát, bản tuyên ngôn này vẫn nhận
được rất nhiều chữ ký của những người đáng tuổi cha mẹ của những sinh
viên nồng nhiệt trên.
Sau gần một thế kỷ, ‘Phiên tòa thế kỷ’ của nhà văn Czech Franz Kafka
cũng đang phát đi bản tuyên ngôn tiếng vọng từ tâm can ở Việt Nam.
Như người đời đánh giá, Kafka không phải là một kẻ thất vọng, mà đó là
một nhân chứng. Kafka không phải là người cách mạng, mà đó là người đánh
thức.
Ai đã là nhân chứng và người đánh thức cho dư luận và công luận Việt Nam vào thời kỳ đổ vỡ niềm tin này?
Nếu người Pháp có Jacquou, người Czech có Kafka, hẳn giờ đây những người
Việt Nam còn mang dân tộc tính không thể từ chối Đoàn Văn Vươn - một
người mà với tất cả những gì anh đã làm được cho vùng đất và cộng đồng
thân thuộc xung quanh cho tới khi bị truy tố vì tội ‘giết người’, sẽ
không quá đáng nếu có thể gọi anh bằng cái tên của một con người viết
hoa.
Tinh thần xúc cảm và lòng dũng cảm của báo chí, bất chấp những rào cản vô hình và cả hữu hình, cũng từ đó mà sinh ra.
Tự do
Vào những ngày đầu tiên nổ ra vụ việc Đoàn Văn Vươn, có lẽ ít ai ngờ tới
một kịch bản khuấy động dữ dội từ Tiên Lãng sẽ như một sóng dung nham
tràn lên miền đồng bằng dư luận khắp cả nước như thời gian bốn tháng đầu
năm 2012.
Tiên Lãng đã trở thành một cái mốc đầy ý nghĩa cho hai sự thay đổi lớn
lao: một biến đổi thuộc về hành động “tức nước vỡ bờ” của một gia đình
nông dân nhằm phản kháng trào lưu trưng thu đất đai phi pháp và vô lối,
và phác họa thứ hai là lần đầu tiên kể từ sự kiện Thái Bình năm 1997,
báo chí có được tiếng nói riêng của mình, ít nhất về chủ đề cưỡng chế
đất đai.
Đó là điều bất ngờ lớn nhất và tổng quát nhất, nếu so sánh với những vụ
việc khiếu kiện tập thể về đất đai trước đó. Ngay cả với những cuộc
khiếu kiện tập thể có quy mô đến 500 người, bao gồm dân từ hơn mười tỉnh
thành và trở thành cao trào trước khu vực Văn phòng 2 Quốc hội tại
TP.HCM vào năm 2007, báo chí cũng chỉ “được” đưa tin rất khiêm tốn, dù
cho dư luận về vấn đề này là rộng lượng và khoáng đạt hơn rất nhiều.
Nếu chịu khó nhớ lại, người ta sẽ dễ dàng nhận ra trong không ít vụ việc
cưỡng chế tương tự như tại Tiên Lãng - đã xảy ra ở Bắc Giang, Nam Định,
Nghệ An, An Giang, Bình Phước, Đồng Tháp, Tiền Giang…, và ngay tại thủ
đô Hà Nội, bầu không khí chung của báo chí là trầm lắng, trầm mặc đến vô
cùng khó hiểu. Thảng hoặc, một vài tin tức nho nhỏ nào đó được ‘lách’,
nhưng chỉ đáp ứng cho nhu cầu tối thiểu được thông tin của người đọc,
chứ chẳng đủ sức khuấy động và tạo nên tác động chuyển dời về tính chất,
chưa nói đến mục tiêu cần cải tạo bản chất của vụ việc. Phong trào
cưỡng chế thu hồi đất cũng nhân đó cứ tiếp tục phát triển cái thành tích
và thành quả “luật rừng” của nó, từ bồi hoàn thấp đến không bồi hoàn,
từ không bồi hoàn đến cưỡng chế bất chấp pháp luật…
‘Giọt nước tràn ly’ thường là sự kết thúc của một quá trình lâu dài bị
bất chấp và chịu đè nén. Nhưng quá độ của tự do báo chí cũng lại bắt đầu
ngay từ cái kết thúc ấy - với mốc đầu năm 2012 như một thời điểm đổi
thay có tính quyết định.
Cũng là để bù đắp cho những năm tháng nào đó đã phải âm thầm lắng vào
cảnh im lặng không đáng phải nhận, khi báo chí đã bị oan uổng từ nhiều
lời trách cứ của dư luận.
Vọng tâm can
Một sự đổi thay khó tả đã diễn ra trong nhịp sống của công luận và dư
luận cùng với Tiên Lãng và Đoàn Văn Vươn. Sự kiện hàm chứa nhiều ý nghĩa
chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam ấy đã kéo theo phản ứng tức thời và sâu
sắc của báo chí và người dân, người dân với báo chí. “Điểm nổ” đã khởi
nguồn không chỉ từ những tờ báo in và báo điện tử chuyên về chính trị -
xã hội, mà còn lan rộng sang cả nhiều tờ báo chuyên ngành về kinh tế,
khoa học kỹ thuật, giáo dục, nông thôn…
1.400 bài viết trong thời gian đầu nổ ra sự kiện Đoàn Văn Vươn và ít
nhất 2.000 bài báo cho tới nay, cùng hàng trăm ngàn ý kiến thể hiện sự
đồng cảm đối với điều được gọi là tình người.
Lần đầu tiên, ý đồ thu hồi và cưỡng chế đất đai của một chính quyền địa
phương đã bị đưa ra ánh sáng, được mổ xẻ chi tiết dưới rất nhiều khía
cạnh. Cuộc “trung phẫu” này lại dẫn đến kết quả xứng đáng: một số cơ
quan quản lý nhà nước phải vào cuộc, ngay cả Chính phủ cũng phải yêu cầu
chính quyền Hải Phòng làm rõ những uẩn khúc theo đòi hỏi của công luận
và dư luận.
Nước đã tràn và lửa cũng đã cháy. Lần đầu tiên hoạt động lạm dụng và lợi
dụng đã được phản biện xã hội một cách minh bạch. Điều đáng nói là
không chỉ do công luận, mà tinh thần phản biện đó còn đến từ nhiều tướng
lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam - những người không thể chấp nhận
cái nguồn gốc ‘từ nhân dân mà ra’ bị biến thái thành một thái cực hoàn
toàn đối lập với hình ảnh ‘vì nhân dân quên mình’.
Những vị tướng lão thành của quân đội như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh -
nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, và Trung tướng Nguyễn Quốc Thước
- nguyên tư lệnh Quân khu 4, không chỉ là minh họa mà còn là những nhân
chứng điển hình cho một thời đại đang bị biến dạng.
Một trong những biến dạng đặc thù rất đáng lưu tâm, có mối liên đới trực
tiếp đến phương diện chính trị, là cảnh một số chính quyền địa phương
đã huy động và sử dụng quân đội phục vụ cho hành vi cưỡng chế đất đai.
Nếu xét đến những ẩn ý và quyền lợi bên trong của từng vụ việc, người ta
sẽ thấy hành vi như thế là không khác với ‘dịch vụ hỗ trợ thi công’ đã
từng được biểu hiện ở Cần Thơ và Nam Định, với kinh phí cho những ‘hợp
đồng với lực lượng vũ trang’ được ‘khoán’ hoàn toàn cho chủ đầu tư dự
án.
Những tướng lĩnh lão thành đã gọi thẳng tên của hành vi trên: lực lượng
quân sự ở địa phương đã bị lợi dụng nhiệm vụ ‘bảo vệ Tổ quốc’ để chuyển
sang phục vụ cho những nhóm lợi ích nào đó mà ở Việt Nam thường rất
kiêng kỵ gọi đúng tên của nó.
Cũng bởi thế, ‘vô danh’ hay ‘khuyết danh’ hẳn là một tật xấu của người Việt.
Ở đất nước này, như một vài quốc gia khác trong thời kỳ ‘quá độ’, khi sự
thật đi vào bằng cửa chính, lời giả dối phải đi ra bằng cửa sổ. Lẽ
đương nhiên theo quy luật hiện tồn của xã hội và chính trị, không phải
mọi tờ báo đều lên tiếng, cũng như không phải bất cứ công dân nào cũng
đều có đủ lòng tự trọng và dũng khí để nhìn ra và thừa nhận sự thật.
Nhưng cái đa số trong sự kiện Tiên Lãng cũng đã trở nên quá đủ trong một
cận cảnh mà tưởng như thiểu số luôn thay thế cho đa số. Lần đầu tiên,
tiếng nói đồng thanh của số đông báo chí đã làm nên một cuộc cách mạng
về trật tự giao thông: những người lề phải bảo vệ cho những người lề
trái.
Bởi hơn lúc nào hết, người dân và giới trí thức thấm thía và đồng cảm với những kẻ bị coi là ‘mất nhân tính’ như Đoàn Văn Vươn.
Một bàn tay nhỏ nhắn nhằm góp sức bảo vệ cho cái ‘mất nhân tính’ ấy chắc
chắn là đức tính hy sinh quý báu nhất trong thời buổi suy thoái trầm
kha về đạo đức này.
Thiền Lâm, gửi RFA từ Việt Nam
2013-04-01
Thùy Linh - Vì sao tôi ký tên cho Tuyên ngôn "Công lý cho Đoàn Văn Vươn"?
1. ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI TƯ HỮU
Gia đình anh Đoàn Văn Vươn đã bỏ ra biết bao mồ hôi nước mắt, ngay cả
sinh mạng đứa con 8 tuổi bị chết đuối để làm giàu cho chính mình. Khi
gia đình anh làm ra của cải cho mình thì cũng đem lại lợi ích xã hội từ
trong đó qua việc tạo ra của cải vật chất, công ăn việc làm không chỉ
trong khu vực anh sinh sống mà còn là các tạo công việc làm cho nhánh
vận chuyển sản phẩm, phân phối, bán lẻ, và đóng thuế để nhờ vào thuế để
xây dựng công ích địa phương. Đó là những gì "bàn tay vô hình" của Adam
Smith bàn bạc với chúng ta về bản chất của con người là tư hữu tài sản
trong khi đi tìm tư lợi thì có một "bàn tay vô hình" điều khiển con
người tạo ra lợi ích cho xã hội.
2. "KẺ CƯỚP HỢP PHÁP"
Việc phải tự trang bị vũ khí để đánh trả là hành vi bị ép vào bước đường
cùng của gia đình vốn bản chất lương thiện này. Nên việc dùng vũ khí
chống trả phải được xem xét ex ante tức là: tự vệ để bảo vệ tài sản chứ
ko thể là ex post: tức giết người, chống người thi hành công vụ. Hành vi
của chính quyền có khác gì hành vi của kẻ cướp hợp pháp (lawful
plunder) được tổ chức, mà Frederic Bastiat (1801-1850) từ 2 thế kỉ trước
"when plunder is organized by law for the profit of those who make the
law" (Khi mà kẻ cướp được tổ chức bởi luật phục vụ cho lợi ích của kẻ
làm ra luật) và như thế anh Đoàn Văn Vươn trở thành "nạn nhân của kẻ
cướp hợp pháp" theo đúng ngôn ngữ của Bastiat "Victims of Lawful
Plunder".
3. KINH TẾ-CHÍNH TRỊ
Trong môi trường vốn lưu chuyển quốc tế, lao động trình độ cao cũng lưu
chuyển quốc tế về những nơi mà đồng vốn, tài sản được đảm bảo an toàn ko
bị cướp bóc. Nhân tài sẽ dịch chuyển qua những quốc gia trả lương cao,
ưu đãi nhân tài. Đồng vốn đầu tư, tiết kiệm nhân lực của dân Việt Nam
cũng sẽ đội nón ra đi. Chỉ còn lại các doanh nghiệp nhà nước yếu kém và
các doanh nghiệp vốn nước ngoài do quyền tư hữu của họ được bảo vệ bởi
luật quốc tế bởi tư pháp quốc tế (Trái ngược với gia đình anh Vươn bị
giới hạn trong định nghĩa dưới nền tư pháp trong phạm vi Việt Nam), họ
làm ăn nơi nào có lời thì họ đến, ít bị ràng buộc bởi các yếu tố phi
kinh tế khác.
Còn đối với người trong nước, chọn lựa nơi họ tìm kiếm lợi nhuận khác
với nhà đầu tư nước ngoài ở điểm là họ còn bị ràng buộc bởi yếu tố phi
kinh tế như: văn hóa, những người lao động cùng ngôn ngữ, văn hóa, phong
tục tập quán với mình mà bạn có thể xem đó như một thói quen đạo đức
(Moral Rule). Việc tước đoạt quyền tư hữu của nhà đầu tư trong nước vì
họ không được bảo vệ bởi công pháp quốc tế như các doanh nghiệp nước
ngoài Thứ nhất là, chính nhà nước của ta đã cướp bóc chính tài sản công
dân của mình. Thứ hai là, một cách gián tiếp, có khác nào ép buộc các
nhà đầu tư trong nước vào đường phá bỏ những "thói quen đạo đức" được
hình thành từ văn hóa làng xã, cộng đồng để đi tìm sự bảo vệ quyền tư
hữu bởi nền tư pháp nước khác qua việc chuyển tài sản đầu tư hay tiết
kiệm ra nước ngoài đó sao?
Như thế thì cái đất nước này coi như đã đến hồi kết thúc trong môi
trường cạnh tranh thu hút vốn, tiết kiệm của người trong nước đầu tư
trong nước tạo việc làm và các ngành nghề hỗ trợ thay vì đầu tư ra nước
ngoài , rồi hiện tượng "chảy máu chất xám" và bào mòn luôn những "thói
quen đạo đức" của con người kinh tế được cấu thành trong văn hóa cộng
đồng.
4. ĐỊNH NGHĨA CÔNG LÍ
Tôi không biết bạn định nghĩa công lí là gì, nhưng với tôi CÔNG LÍ TỐI
THƯỢNG LÀ BẢO VỆ QUYỀN TƯ HỮU. Chỉ có sự an toàn tuyệt đối cho vốn đầu
tư thì mới hút được đầu của người dân Việt Nam, bằng không thì nó sẽ
chảy qua nước khác bằng rất nhiều cách khác nhau không thể kiểm soát.
Dân không thể làm giàu trong nước mình thì nước sẽ không thể mạnh, lấy
tiền đâu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ? Khi quyền tư hữu bị đe dọa, người
dân sẽ chuyển tài sản hoặc qui đổi qua các ngoại tệ, kim loại quí và
chuyển qua các nước an toàn bảo vệ tư hữu, không còn tài sản ở trong
lãnh thổ Việt Nam nữa do sợ bị "kẻ cướp hợp pháp" lấy mất, cũng sẽ chẳng
còn bất cứ động lực nào để ở lại đóng góp hay tham gia vệ quốc, vì vệ
quốc lúc này chính là bảo vệ tài sản tư hữu hữu hình của chính mình
không bị phá hoại, lẽ nào bạn không nhìn thấy logic giữa quyền tư hữu và
lòng ái quốc sao? Tôi không tin vào cái phiên tòa mà trong đó những
thẩm phán chỉ phán xử theo tư lí có nguồn gốc từ triết lí chính trị
trong một hệ thống tập quyền sẽ không thoát khỏi chuyện "amicus curiae"
trong luật La Mã cổ đại có nghĩa là "Bạn của tòa án".
Đây là lí do tôi kí tên vào "Tuyên ngôn công lí cho Đoàn Văn Vươn", mặc
dù ít kì vọng vào một kết quả tích cực của phiên tòa nhưng im lặng trước
bất công là sự đồng lõa. HÃY BẢO VỆ ĐOÀN VĂN VƯƠN ĐỂ SẼ ĐẾN LÚC CHÍNH
BẠN ĐƯỢC BẢO VỆ. Bảo vệ quyền tư hữu để bảo vệ công lí, bảo vệ quyền tư
hữu là cách để tiết kiệm của người dân sinh lợi và không bị thất thoát
trong môi trường cạnh tranh vốn và nhân lực toàn cầu. Tài sản của công
dân được bảo vệ thì công dân có động lực để vệ quốc mà trong đó quyền tư
hữu của họ được bảo vệ tuyệt đối.
Thùy Linh
LS. Trịnh Minh Tân - Thư ngỏ gửi các kiểm sát viên trong vụ án Đoàn Văn Vươn
Thư ngỏ gửi ông/bà kiểm sát viên đang là người tiến hành tố tụng vụ án Đoàn Văn Vươn
Tôi là luật sư Trịnh Minh Tân, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: 22 đường 53, phường Bình Thuận quận 7, Tp. Hồ Chí Minh. Điện
thoại: (08) 6262 4841. E-mail: lsminhtan@yahoo.com.vn
Thưa quý ông/bà, tôi không phải là người bào chữa cho các bị cáo trong
vụ án Đoàn Văn Vươn, vì thế không biết rõ các chứng cứ buộc tội cũng như
gỡ tội cho các bị cáo được thể hiện trong hồ sơ vụ án nên tôi chưa thể
khẳng định những bị cáo bị truy tố có tội hay không và nếu có tội thì
tội gì, mặc dù qua các phương tiện truyền thông tôi cũng có thể hình
dung ra sự thật khách quan của vụ án. Nhưng để phân tích theo hướng gỡ
tội hay buộc tội thì không, vì người phân tích phải nhìn thấy bản cung,
nhìn thấy vật chứng và các tài liệu do các cơ quan tiến hành tố tụng thu
thập. Tuy nhiên, bất kỳ một luật sư nào khi đọc bản cáo trạng cũng có
thể hình thành trong đầu những ý nghĩ, những lập luận bào chữa, nhưng để
bào chữa thật sự như người tham gia tố tụng trong vụ án thì không thể.
Do đó, tôi viết bức thư ngỏ này gửi tới các ông/ba kiểm sát
viên không với tư cách là người hành nghề luật sư, mà với tư cách là
người đã từng là kiểm sát viên, đã từng được phân công thực hành quyền
công tố hàng nghìn vụ án trong thời gian xấp xỉ 30 năm công tác trong
ngành kiểm sát.
Tôi biết trong vụ án này, kiểm sát viên (KSV) thực hành quyền công tố chịu rất nhiều áp lực:
- Áp lực từ dư luận: đòi hỏi phải có công lý thực sự với người bị truy tố;
- Áp lực từ phía lãnh đạo, từ thành ủy: đòi hỏi KSV phải bảo vệ
cho được quan điểm truy tố, qua đó chứng minh việc truy cứu trách nhiệm
hình sự các bị cáo là đúng người, đúng tội.
Tôi hiểu những áp lực như vậy có sức nặng khủng khiếp đè nặng lên tâm lý KSV.
Là người tiến hành tố tụng trong vụ án cụ thể này, KSV không chỉ quan
tâm đến các chứng cứ buộc tôi, mà phải rất chú ý đến các chứng cứ gỡ
tội, thậm chỉ phải phủ nhận những tình tiết được coi là chứng cứ buộc
tội được thu thập trong quá trình điều tra để quy kết các bị cáo phạm
tội mà với hiểu biết, với tư duy pháp lý và với niềm tin nội tâm của
mình, KSV xác định đó chỉ là ngụy chứng cứ.
Cái dũng của người KSV là phải đặt sự thật, lẽ phải lên trên hết. Người
KSV, vì thế phải có sức đề kháng với những áp đặt mang tính chủ quan, để
từ đó phân tích các khía cạnh của sự kiện pháp lý trên cơ sở khách
quan, khoa học. Điều quan trọng nhất vẫn là phân tích các hành vi khách
quan, ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
Trong vụ án này, KSV không thể không phân tích các nguyên nhân dẫn đến
hành vi chống đối lực lượng cưỡng chế của các bị cáo. Điều này thể hiện
cụ thể ở các quyết định hành chính của cấp có thẩm quyền ban hành đã vi
phạm như thế nào, đã xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
ra sao?
Tôi có một may mắn là làm việc ở một thành phố lớn, áp lực công việc
cũng không hề nhẹ, nhưng tâm lý không quá nặng nề giữa cái đúng và cái
sai, vì bản thân luôn được bày tỏ quan điểm, và đề xuất ý kiến nhiều khi
trái với quan điểm của lãnh đạo, thậm chí được quyền rút ra khỏi vị trí
là người tiến hành tố tụng khi quan điểm của mình không đồng quan điểm
với lãnh đạo. Đặc biệt, khi tôi còn làm việc ở VKSND TP HCM, Thành ủy
luôn tôn trọng ý kiến của cơ quan tiến hành tố tụng, không chỉ đạo cụ
thể, không áp đặt phải truy tố thế nào, xét xử ra sao, chỉ yêu cầu cơ
quan tiến hành tố tụng phải làm đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.
Mạnh dạn bày tỏ quan điểm, đặt công lý lên trên, để sự thăng tiến chức
quyền xuống dưới thì người KSV mới bảo vệ được quan điểm đúng của mình
trước các áp lực.
Thời gian gần đây, báo giấy cũng như các trang mạng đề cập nhiều đến vụ
án Nọc Nạn xảy ra cách đây 85 năm ở miền Tây Nam bộ. Tôi cho rằng chính
quyền thực dân (Pháp) không phải vì “thương” nông dân, người đã có công
khai khẩn đất hoang mà nương tay tha bổng. Điều quan trọng ở đây là
chính quyền không chi phối, điều khiển hệ thống tư pháp, quan tòa được
độc lập đưa ra phán quyết mà không chịu một áp lực bởi quyền lực chính
trị nào. Đó là đặc điểm của bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc
tam quyền phân lập, nguyên tắc này tạo điều kiện cho người dân dễ tiếp
cận cận được với công lý.
Viện kiểm sát nhân dân với chức năng (khi Hiến pháp 1992 chưa sửa đổi
năm 2001): “Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ,
các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm
sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi
trách nhiệm do luật định.”
Với chức năng nêu trên, VKS địa phương có quyền kiểm sát và kháng nghị
các văn bản do HĐND và UBND ban hành trái luật. Hình thức tổ chức “quyền
kiểm sát” này phù hợp với nguyên tắc tổ chức nhà nước tập quyền, với
nền kinh tế kế hoạch hóa. Trong nhiều trường hợp, sự lạm quyền của cơ
quan hành pháp cũng bị chế ước bởi “đèn đỏ” do VKS phát ra bằng các
kháng nghị để tạm dừng thi hành các văn bản trái luật, đặc biệt là các
quyết định hành chính sai gây thiệt hại cho lợi ích chung cũng như quyền
và lợi ích hợp pháp của người dân.
Điều 2 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001 quy định Nhà nước ta được tổ
chức theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.”
Điều 137 được sửa đổi năm 2001: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách
nhiệm do luật định.”
Kể từ khi quy định trên có hiệu lực, các văn bản của chính quyền địa
phương thi nhau phạm luật mà không bị “thổi còi”, đặc biệt là trong lĩnh
vực đất đai. Trong khi đó thì chế định về khởi kiện hành chính còn mới
mẻ và chưa hoàn thiện, người dân không có điều kiện để tiếp cận quyền
khởi kiện của mình, mà nhiều khi khởi kiện thì cũng không thắng được
chính quyền, do cơ chế vận hành của hệ thống tư pháp không hoàn toàn độc
lập.
Trong bất kỳ một chế độ nào, nhà cầm quyền, mà cụ thể là những con người
được giao quyền cũng tiềm ẩn sự lạm quyền, chỉ chờ có cơ hội là nó sẽ
bung ra.
Trong bức thư ngỏ này tôi không phân tích nhiều về thể chế, nhưng chính
cơ chế vận hành bộ máy công quyền có nhiều bất cập, không tương tác với
thực tiễn đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng bởi những quyết định sai
trái do chính quyền địa phương ban hành.
Nội hàm của điều 137 HP năm 1992 sửa đổi năm 2001 chỉ có thể phù hợp
trong một nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập,
không phù hợp trong một nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền.
Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, nhưng cơ sở kinh tế
đã có nhiều thay đổi, nền sản xuất không “kế hoạch hóa” như trước đây,
mà nó vận hành theo quy luật của thị trường. Đây là sự mâu thuẫn đang
tồn tại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cần phải được hóa
giải.
Vì vậy, nếu nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền thì VKS phải
có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (không chỉ là kiểm sát
hoạt động tư pháp như hiện nay). Còn nếu giữ chức năng như điều 137 Hiến
pháp hiện hành thì nên đổi tên VKS là Viện công tố, và tất nhiên, bộ
máy nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp độc lập, chế ước lẫn nhau thì mới ngăn chặn được sự quá
lạm của các nhánh quyền lực.
Nếu như Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 không bỏ toàn bộ chức năng kiểm
sát chung, mà giữ lại chức năng kiểm sát văn bản thì các KSV có thể
không bị áp lực đè nặng như bây giờ.
Trở lại vụ án Đoàn Văn Vươn, những thiệt hại do các văn bản trái luật do UBND ban hành thì đã rõ. Đó là:
- Thiệt hại về tài sản cho gia đình Đoàn Văn Vươn;
- Thiệt hại về sức khỏe cho các chiến sĩ thực thi lệnh cưỡng chế.
Cả hai thiệt hại này là hệ quả của quyết định trái luật của chính quyền thành phố Hải Phòng và huyện Tiên Lãng.
Vì thế nên xem xét:
- Miễn trách nhiệm hình sự cho Đoàn Văn Vươn và các bị cáo liên quan đến hành vi của Đoàn Văn Vươn (nếu các luật sư có đủ căn cứ chứng minh Đoàn Văn Vươn không phạm tội giết người, và chỉ dừng lại ở hành vi chống người thi hành công vụ).
- Xử lý trách nhiệm, kể cả truy cứu trách nhiện hình sự đối với những cán bộ có trách nhiệm của thành phố Hải Phòng và huyện Tiên Lãng, gắn với việc bồi thường thiệt hại cho gia đình Đoàn Văn Vươn và những người bị thương.
- Công nhận thương binh cho những chiến sĩ bị thương nếu họ đủ điều kiện về tỷ lệ thương tật. Điều này có vẻ khôi hài nhưng đó là pháp lý và đạo lý. Những người lính thực thi lệnh cấp trên, họ không có điều kiện và cũng không buộc phải biết là hành vi của họ vào khu đầm thi hành lệnh cưỡng chế là đúng hay sai. Bởi lẽ, đã là người lính thì phải biết “quân lệnh như sơn” (mệnh lệnh trong quân đội là dứt khoát, chỉ biết có chấp hành, ví như là quả núi, không thay đổi, lay chuyển được[1]). Theo logic hình thức thì lệnh cấp trên đương nhiên cấp dưới phải thi hành và trong nhận thức của người lính thì họ đang thực thi nhiệm vụ được giao. Việc đúng, sai phải do người ra lệnh chịu trách nhiệm.
Khó lắm! Trong vụ án này, KSV khó có thể đo được bản lĩnh của mình.
“Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”[2] là đức tính cần có của người kiểm sát viên.
Lịch sử tư pháp Việt Nam chắc chắn sẽ tô đậm dấu ấn vụ Đoàn Văn Vươn. Nó
được tô bằng dấu son hay dấu đen còn tùy thuộc vào người tiến hành tố
tụng.
Vụ Nọc Nạn cách nay 85 năm, dù là Tòa án của chế độ thực dân hà khắc,
nhưng nó lại được tô đậm bằng dấu son với tinh thần: Tòa đến với dân,
công lý dành cho tất cả.
Nói như vậy không có nghĩa là Tòa án nhân dân hiện nay không mang lại
công lý, mà ngược lại, nhiều oan trái đã được Tòa án nhân dân minh oan.
Vụ Tạ Đình Đề năm 1976 là một ví dụ.
Người dân cũng đang mong chờ phán quyết của Tòa án nhân dân thành phố
Hải Phòng được phát ra từ những thẩm phán “phụng công, thủ pháp, chí
công, vô tư”[3]
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 4 năm 2013
Người gửi
Luật sư Trịnh Minh Tân
*LS Trịnh Minh Tân đã từng bào chữa cho bà Ba Sương
(Quê Choa)
Sự phá sản mang tên Đoàn Văn Vươn
Nhà nước đang đem ra xét xử Anh Đoàn văn Vươn và họ hàng vì tội “Chống Người Thi hành Công vụ”.
Sau vụ cưỡng chế thảm khốc tại Tiên Lãng, báo chí cũng như
nhiều chuyên gia, trong đó có cả các đoàn thanh tra của chính
phủ, khẳng định, vụ cưỡng chế là bất hợp pháp.
Chính thủ tướng Dũng, sau khi thẩm định, đã ra kết luận chính thức, vụ cưỡng chế là trái pháp luật.
Bộ luật hình sự ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều qui
định rõ, phản kháng lại hành vi phạm pháp để bảo vệ tính
mạng và tài sản trong trường hợp khẩn cấp là chính đáng,
được qui định tại theo khoản 1 Điều 15 Bộ Luật Hình Sự, phòng vệ
chính đáng.
Nếu nhà nước Việt Nam thực sự muốn thực thi công lí, muốn tìm
lẽ phải cho bất cứ ai, cho anh Vươn hay những người ra lệnh Vụ
Cưỡng Chế, thì họ sẽ làm khác.
Họ sẽ đem ra toà tranh cãi xét xử trước hết là "lệnh cưỡng
chế” có phạm luật hay đúng luật hay không. Trên cơ sở phán
quyết của toà về lệnh đó, mới mở vụ thứ hai xét xử hành vi
phản kháng của gia đình anh Vươn.
Chế độ Việt Nam từ đảng trị chuyển sang chế độ độc tài quân phiệt là bước đi tất yếu của một quá trình tan rã |
Nhưng họ không làm thế.
Họ đơn phương xét xử gia đình gia đình anh Vươn như một tội phạm
nguy hiểm, khi anh là nạn nhân trực tiếp của “nạn nhân” kia.
Và qua đó thông điệp của họ cho 80 triệu người Việt Nam quá rõ
ràng: Họ muốn khẳng định cái trật tự xã hội hiện nay mà họ
dựng lên là bất khả xâm phạm, cho dù nó có trái luân lí đạo
đức pháp luật hay chà đạp quyền lợi của người dân dù có tối
thiểu hay chính đáng mấy đi chăng nữa.
Và đó là chính sự tự khẳng định mạnh mẽ nhất của đảng Cộng Sản Việt Nam, họ đã phá sản hoàn toàn.
Thời ban đầu lúc thành lập, trong suốt quá trình đấu tranh cho
tới nay đã gần 80 năm, họ đã làm được gì cho đất nước, cho
người dân? Họ đã thực hiện được những khẩu hiệu nào?
Khẩu hiệu người cày có ruộng đã lôi kéo hàng chục triệu nông
dân theo họ, trong suốt quá trình cách mạng cho tới nay, nông dân
vẫn là tầng lớp thiệt thòi nhất. Sở hữu ruộng đất là đặc
trưng của nông dân mà họ không có quyền sở hữu đất đai. Số ít
đất đai thì nay cưỡng chế mai trưng dụng. Điều nghịch lí rất
Việt Nam là quan chức cộng sản lại sở hữu đất đai nhiều hơn cả
nông dân.
Khẩu hiệu độc lập dân tộc giải phóng đất nước thì đất nước
chưa bao giờ bị mất đất và biển đảo nhiều như những ngày hôm
nay.
Khẩu hiệu Chủ Nghĩa Xã Hội và Công Bằng, Văn Minh thì chưa bao
giờ sự giàu nghèo, đạo đức xã hội lại bi thảm như ngày hôm
nay. Tài nguyên của cải đất nước nằm trong tay số ít nhóm lợi
ích, còn bất công hơn cả các nước tư bản chủ nghĩa lâu đời.
Sở hữu toàn dân thì qua các tập đoàn nhà nước đã phá sản
hoàn toàn.
Khẩu hiệu Đạo Đức Cộng Sản thì tham nhũng ăn cắp tài sản
quốc gia lại nằm trong các nhà cộng sản tầng lớp trên.
Tóm lại như là một đảng chính trị, đảng Cộng Sản Việt Nam đã bất lực trước những vấn đề của đất nước.
Một đảng sẽ tự biến mất hay sẽ bị đào thải khi nó không đáp
ứng được đòi hỏi của cuộc sống. Nhưng với quyền lực len lỏi
từ Trung Ương tới địa phương, đảng Cộng Sản Việt Nam nó không dễ
gì từ bỏ sự lũng đoạn của mình mà dần dần biến chất thành
một tổ chức độc tài, và tương lai của Việt Nam sẽ là những
gì của các chế độ độc tài quân sự Nam Mỹ hay Park Chung Hee
vài chục năm trước đã diễn ra. Việc cố nhét vào bản Hiến
Pháp mới là quân đội trung thành với đảng là nhằm mục đích
đó.
Về khía cạnh nào đó, là điều tốt cho đất nước. Từ nay xã
hội Việt Nam sẽ có lằn ranh giới rõ ràng, giữa nhân dân và chế
độ độc tài, giữa các tổ chức và đảng độc tài. Và sẽ huy
động được quần chúng nhiều hơn trong công cuộc dân chủ hoá đất
nước. Không như trước kia nhập nhèm giữa đảng và dân là một,
đất nước với chế độ là một nên khó có thể gọi tên kẻ thù
của đất nước một cách cụ thể rõ ràng, dễ bị phân hoá lũng
đoạn hay tê liệt phong trào phản kháng.
Chế độ Việt Nam từ đảng trị chuyển sang chế độ độc tài quân
phiệt là bước đi tất yếu của một quá trình tan rã, như ngọn
đèn trước khi tắt sẽ bùng lên lần cuối.
Phong trào phản kháng điều 4 hiến pháp và vụ anh Đoàn Văn Vươn
là phát pháo tín hiệu báo cho chúng ta thời kì mới của đất
nước: Sẽ không còn mập mờ nhập nhèm giữa quyền lợi của đảng
gắn liền với quyền lợi đất nước hay xã hội nữa, mà ranh giới
sẽ vạch ra rõ ràng giữa các quyền lợi. Nó sẽ thô bạo hơn
nhưng thời gian cho lối thoát sẽ nhanh hơn, vì mâu thuẫn và sự
phản khác sẽ rõ ràng hơn trước, bắt buộc mọi người phải chọn
cái này hoặc cái kia, không lần chần như trước nữa.
Lỗ Trí Thâm
(Dân luận)
Bị cáo phủ nhận chuẩn bị vũ khí chống lệnh cưỡng chế
Chiều 2/4, bị cáo Đoàn Văn Sịnh khai tham gia lập hàng rào, tưới xăng
lên lối đi, rải rơm cản đoàn cưỡng chế là để “giữ đất cho gia đình”.
Là người thứ hai trả lời thẩm vấn sau bị cáo Vươn, ông Sịnh cho biết
từng tham gia các cuộc họp gia đình trong bữa cơm sau khi cơ quan chức
năng thông báo sẽ thu hồi hơn 19 ha đầm nuôi tôm của ông Đoàn Văn Vươn.
“Không liên quan việc bị thu hồi đất, tại sao bị cáo lại tham gia chống
cưỡng chế?”, chủ tọa hỏi. Dáng vẻ mệt mỏi, anh trai của ông Vươn cho
rằng tham gia vì “tình cảm gia đình”.
Đoàn bồi thẩm. Ảnh TTX VN |
“Vươn đề ra kế hoạch chống cưỡng chế̉ là vì muốn giữ đất”, bị cáo khẳng định.
Trong phần lời khai vào ban sáng, ông Vươn thừa nhận đã bàn cụ thể kế
hoạch chống đối và nhận được đồng tình của gia đình. Tuy nhiên, ông Sịnh
khẳng định: “Khi nghe Vươn bàn việc cho nổ bình gas, bắn súng hoa cải,
kích nổ mìn, tôi đã không đồng ý”.
Sau ông Sịnh, HĐXX thẩm vấn cháu ông Vươn là bị cáo Đoàn Văn Vệ về kế
hoạch chuẩn bị vũ khí. Không thừa nhận lời khai ban sáng của ông Vươn
rằng có đưa 6 triệu đồng nhờ đi mua súng hoa cải, Vệ khai không biết chỗ
bán, cũng không biết việc ông Vươń chống đối cưỡng chế.
Trong khi đó, cáo buộc của VKS cho rằng, Vệ biết kế hoạch của gia đình nên xin tham gia, mang tiền đi mua súng nhưng không được.
Trong 6 bị cáo, ông Đoàn Văn Quý bị cơ quan công tố cho rằng là đồng
phạm tích cực nhất, tham gia từ đầu đến cuối kế hoạch của anh trai.
Trong khi ông Vươn khai đã giao việc thực hiện kế hoạch chống đối cho bị
cáo Quý, yêu cầu cố thủ, đợi lực lượng cưỡng chế đến gần mới nổ súng,
ông Quý phủ nhận. Bị cáo này cho rằng hai anh em không bàn bạc cùng như
góp tiền mua súng như công tố viên cáo buộc.
Phủ nhận nhiều lời khai của anh trai, ông Quý phân tích: “Anh Vươn không
ở hiện trường nhưng lại trình bày như là có mặt”. Phủ nhận cáo buộc đã
làm theo hướng dẫn của anh trai khi đấu nối kíp nổ, bị cáo Quý khai: “Do
xem trên tivi nên tự nghĩ ra”.
“Vì sao bị cáo lại có thể đấu nối kíp nổ?”, chủ tọa hỏi dồn. Ông Quý cho hay do xem ở công trường phá đá nên biết.
Cuối phần xét hỏi, em trai của bị cáo Vươn thừa nhận đã bắn hai phát đạn vào đoàn cưỡng chế trước khi bỏ trốn bằng thuyền.
Khó nhọc khi đứng trước vành móng ngựa, bị cáo Nguyễn Thị Thương (vợ ông
Vươn) khai có biết về quyết định thu hồi đất cũng như kế hoạch chống
đối nhưng “không tham gia”. Bà lập hàng rào để̀ ngăn người qua lại chứ
không phải cản đoàn cưỡng chế như cáo trạng quy kết. “Hôm xảy ra vụ án,
tôi đang đưa con đi học”, bà này trình bày.
Người phụ nữ thứ hai trả lời thẩm vấn là bà Phạm Thị Báu (vợ ông Quý).
Phản đối việc bị quy kết chống người thi hành công vụ, bị cáo Báu cho
rằng UBND huyện Tiên Lãng thu hồi đất không đúng thẩm quyền nên đoàn
công tác thực hiện cưỡng chế là không đúng. Bị cáo cho rằng, việc chống
trả của người thân không phải là hành vi chống người thi hành công vụ.
Liên quan đến việc rải rơm, lập hàng rào trên đường vào nhà, bị cáo cho rằng, đó là việc bình thường để “ngăn trộm”.
Ngày mai, phiên tòa tiếp tục làm việc.
———
- Ngày 5/1/2012, hơn 100 cảnh sát, bộ đội tham gia cưỡng chế, thu hồi
đất của gia đình ông Vươn. Một số thành viên trong gia đình ông Vươn
chống đối làm 7 người bị thương.
- Chiều 5/1/2012, hai căn nhà của ông Vươn và Quý đã bị đốt, đập phá.
- Ngày 10/1/2012, ông Vươn cùng Đoàn Văn Quý (46 tuổi), Đoàn Văn Vươn
(49 tuổi), Đoàn Văn Sịnh (55 tuổi) và Đoàn Văn Vệ (38 tuổi) bị khởi tố,
bắt tạm giam về tội Giết người. Phạm Thị Báu và Nguyễn Thị Thương bị
khởi tố về tội Chống người thi hành công vụ.
- Ngày 10/2/2012, Thủ tướng kết luận các quyết định thu hồi, cưỡng chế 19,3 ha đầm tôm của gia đình ông Vươn đều trái luật.
- Cuối tháng 3/2012, 50 cán bộ tại huyện Tiên Lãng bị kiểm điểm, xử lý.
Tập thể Ban cán sự Đảng UBND Hải Phòng bị kỷ luật khiển trách.
- Tháng 1/2013, liên quan trách nhiệm trong vụ phá nhà ông Vươn, nguyên
chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng Lê Văn Hiền bị khởi tố tội Thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Trước đó, nguyên phó chủ tịch Nguyễn Văn Khanh và 3 bị can Phạm Xuân Hoa
(nguyên trưởng phòng Tài nguyên môi trường huyện, phó trưởng ban chỉ
đạo cưỡng chế), Lê Thanh Liêm (nguyên chủ tịch xã Vinh Quang) và Phạm
Đăng Hoan (nguyên bí thư xã) đã bị xử lý hình sự về tội Hủy hoại tài
sản. Ông Hiền cùng các thuộc cấp sẽ bị xét xử vào ngày 8/4 tại TAND Hải
Phòng. Phiên xử do Chánh án Trần Thị Thu Hà làm chủ tọa.
Hà Sĩ Phu - Những cái vỏ bọc mong manh trước “quả bom” họ Đoàn
Ngày 2-4-2013, sau “cá tháng 4” một ngày, là một ngày sẽ đi vào lịch sử
Việt Nam, ghi dấu cuộc chiến đấu “giáp lá cà” giữa SỰ THẬT và DỐI TRÁ.
Đó là ngày xử án vụ Đoàn văn Vươn và gia đình về cái gọi là tội “giết
người, chống người thi hành công vụ”! Nhưng tôi tin lịch sử sẽ đặt lại
tên vụ án này, vụ án điển hình về “Quyền tự vệ của người dân trước nạn
cướp ngày được thể chế hóa”.
Một gia đình nông dân ở Tiên Lãng-Hải Phòng được nhận giao đất đã đem
hết tiền của, nhân lực, mồ hôi và máu để "chế ngự thiên nhiên" làm đê
chắn sóng, biến khu đầm hoang, thành khu nuôi trông thủy sản, đang thời
kỳ thu hoạch..thì có lệnh thu hồi.
Chủ nhân Đoàn Văn Vươn đã tin vào Công lý nên làm đơn khiếu kiện khắp
nơi, nhưng luật pháp không đứng về phia người dân lao động thiệt thòi
như anh mà ở phía kẻ có quyền, có tiền. Kết quả là ngày 05/01/2012,
chính quyền địa phương đã huy động một lực lượng hùng hậu, gồm hơn 100
công an, dân phòng và cả bộ đội và chó nghiệp vụ để thi hành lệnh cưỡng
chế, cưỡng đoạt công trình tạo dựng bằng mồ hôi và xương máu của gia
đình, cướp đi nguồn sống của gia đình.
Bị dồn vào đường cụt, trong thế quẫn, gia đình đã chống trả kịch liệt để
ngăn cản sự cướp đoạt nguồn sống, dùng mìn tự chế và đạn hoa cải bắn
lại lực lượng cưỡng chế, khiến 4 công an và hai bộ đội bị thương. Đầu
đuôi vụ án là như vậy.
Để tranh cãi thuần về mặt pháp lý, có thể xem Bản Cáo trạng do Viện phó
VKSND Hải Phòng ký ngày 04/01/2013, rồi đối chiếu với tham luận của các
luật sư Hà Huy Sơn, Nguyễn Văn Đài, Lê Đức Tiết, Trần Quốc Thuận và
tuyên bố của các sinh viên Luật sẽ thấy sự luận tội của nhà cầm quyền là
bất công, không đủ cơ sở pháp lý, không đúng người đúng tội. Nhưng
chẳng cần nói gì nhiều, chính người đứng đầu cơ quan hành pháp, thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng trong phiên họp ngày 10/02/2012 cũng đã kết luận
rằng chính quyền địa phương đã sai hoàn toàn trong vụ Tiên Lãng!
Nhà nước dùng bạo lực sai, dân chống lại sự sai chính là giúp cho Công
lý, giúp cho Nhà nước khỏi đi sâu vào tội lỗi, một nhà nước có thiện tâm
phải biết cảm ơn tiếng súng hoa cải Đoàn Văn Vươn mới phải lẽ! Tôi đồng
ý với nhà báo HuyDuc: tiếng “bom” Đoàn Văn Vươn chỉ là tiếng trống kêu
oan, vì các quan của ta quá điếc nên phải “nổ um lên” để nghe cho thấu.
Nếu “Bao Công” mà bắt giam luôn người đánh trống kêu oan, để trị tội vì
làm mất giấc ngủ trưa thì Bao Công ấy so với “Bao…Cao su” là cùng một
giuộc. Trái lại phía công an Hải Phòng đã tổ chức đàn áp “tiếng trống
kêu oan” của dân một cách đầy khoái cảm thú tính như “trận đánh phối hợp
tuyệt vời, đáng viết thành sách”! Chỗ này nếu TBT Nguyễn Phú Trọng dùng
chữ “suy thoái đạo đức” thì tuyệt!
Tiếng nổ là do áp lực bên trong tăng mà cái vỏ cứng bên ngoài ép lại,
chịu không nổi thì bung ra thành mìn, thành bom. Những vụ người dân buộc
phải bán ruộng đất với giá “cướp không” xảy ra khắp nơi, dân tình oán
thán kêu trời không thấu, nhưng tất cả cứ bị nén trong cái vỏ “pháp
quyền XHCN do ĐCS lãnh đạo, do nhà nước của dân do dân và vì dân thực
hiện” nên ruộng đất là tài sản đặc biệt phải là sở hữu toàn dân do nhà
nước thống nhất quản lý! Cái vỏ xem chừng rất “có lý có tình” dân cãi
không lại. Nhưng thực tiễn đã phát ra tiếng nổ để bộc lộ bản chất của
mối quan hệ: cướp ngày là quan, cướp có con dấu, có chủ trương, có nghị
quyết, có tư tưởng, thậm chí có cả…một chủ nghĩa đứng đằng sau. Tranh
cãi với những cái đầu xơ cứng hoặc não trạng đã quyết làm tay sai cho
giai cấp mới rủng rỉnh đô-la thì vô ích, đành tranh cãi bằng “bom” thôi
chứ biết làm sao? Áp lực tới hạn thì phải nổ, cái vỏ không chứa nổi cái
ruột, nói theo triết học thì nó là phạm trù mâu thuẫn giữa nội dung và
hình thức thôi.
Mâu thuẫn giữa dân với nhà nước trong sở hữu ruộng đất xảy ra đã nhiều,
nhiều vụ rất căng, nhưng đến vụ Đoàn Văn Vươn mới nổ thành “bom” bởi mâu
thuẫn được cô đọng thành điển hình cho những “mâu thuẫn cách mạng”. Ở
anh Vươn có chất nông dân, có chất công nhân, có chất trí thức, có chất
quân đội, có chất anh hùng (nhà nước đã coi anh Vươn là anh hùng lấn
biển, vươn lên từ nghèo đói). Ngần ấy thứ điển hình quý báu của cách
mạng, mà bị “cách mạng” ép đến phải vỡ toang ra, thì mọi thứ vỏ bọc mong
manh hào nhoáng như dân chủ, công nông, trọng người tài, phát triển bền
vững, hóa rồng, hóa hổ…đều vỡ tung hết.
Về vụ Đoàn Văn Vươn, sau khi gọi thẳng đó là vụ “Cướp ngày”, “phản cách
mạng đã rõ ràng”, cụ bà Lê Hiền Đức đã viết như sau “Chừng nào ông Đoàn
Văn Vươn và những người thân của ông còn phải nằm trong vòng lao lí, còn
chưa được bồi hoàn các quyền lợi về vật chất, tinh thần đã bị xâm phạm
thì chừng đó tôi còn nhìn chính quyền trung ương của Việt Nam chỉ như là
sự PHÓNG TO của chính quyền huyện Tiên Lãng, chính quyền thành phố Hải
Phòng mà thôi”.
Và hôm nay, với comment trên Anhbasam, KTS Trần Thanh Vân viết một câu
gọn lỏn: “Phiên tòa này sẽ dẫn đến một cuộc khởi nghĩa nông dân. Không
thể khác được!”. Xem như vậy thì gọi vụ án Đoàn Văn Vươn là một “quả
bom” là còn nhẹ.
Quả bom này chất nổ nằm ở nông dân nhưng người có thể tháo vỏ, tháo kíp
chính là nhà nước, mong lắm thay! Vụ này là sự nhắc nhở thiết thực đến
nhu cầu sửa đổi Hiến pháp hiện nay sao cho tháo gỡ một kíp nổ?.
Những tiếng nói phản biện lâu nay thường xuất phát rôm rả từ các nhân
sĩ-trí thức, nhưng trí thức kỳ thực chỉ là những người báo thức, là chất
gây men. Nông dân mới đích là “quân chủ lực”, cách mạng chỉ được cái
nói đúng! Chủ lực đã ra quân thì …trí thức chỉ biết đứng sau ủng hộ và
cảm phục.
Tình hình đất nước lâu nay rất lạ, cứ nửa như thực nửa như mơ, như thật
như đùa, như thật như giả, giữa chính và tà, mọi thứ đều mong manh, bảo
là “bên miệng hố” cũng được mà bảo “chẳng có gì mới” cũng xong? Nhưng
xin thưa: đùa gì thì đùa, không thể đùa với vận mệnh dân tộc.
Cuối lời, để thần kinh có chút xíu thư giãn, xin mượn mấy câu “thơ tình”
như thật như đùa của Thái Hữu Tình, vịnh cảnh say thuốc lào nghiêng
ngả, tặng hai người anh hùng Điếu Cày và Đoàn Văn Vươn, muốn hút Điếu
Cày phải có thuốc lào Tiên Lãng:
SAY THUỐC LÀO
Thuốc lào Tiên Lãng khói bay
Giữa mùa hoa cải, điếu cày gọi sang
Ba-zô-ka đã sẵn sàng (*)
Rít lên mồi lửa, Thiên đàng…cũng xiêu…!
(3/4/3013)
Hà Sĩ Phu
(DLB)
Công lý bị thách thức tại Việt Nam
(AP) – Những tấm gạch và mái ngói bị hư hỏng tại căn nhà Đoàn Văn Vươn,
sự kiện gây ra bởi chính quyền địa phương trong lúc cưỡng chế khu đất,
nằm bên cạnh một tấm lều mà người thân của ông dựng lên bằng tre và
tôn sắt để chứng minh lòng kiên trì của họ.
Họ đã trở thành những anh hùng dân gian tại quốc gia được cai trị bởi
quyền độc đoán, hạn chế quyền sử dụng đất đai của người dân và bất bình
đẳng ngày càng lan rộng. Sự thách thức của họ vẫn còn được nghe thấy từ
những người phụ nữ mà họ buộc phải bỏ lại ở phía sau.
“Không ai muốn gây ra một mớ hỗn độn như vậy”, vợ ông Vươn, bà Nguyễn
Thị Thương nói. “Nhưng chúng tôi phải chống lại. Chúng tôi không có cách
nào khác ngoài việc chống lại những gì chính đáng thuộc về chúng tôi”.
Ảnh: Associated Press/Thông tấn xã Việt Nam, Bui Doan Tan – Đoàn Văn Vươn, thứ hai từ bên trái và anh trai Đoàn Văn Sịnh, thứ tư từ bên trái, tại phiên tòa ở thành phố phía bắc Hải Phòng hôm thứ Ba ngày 02 tháng Tư, 2013. Cả hai anh em cùng với hai người thân khác bị cáo buộc tội âm mưu giết người khi họ chống lại lực lượng cưỡng chế tại đầm tôm của họ bị hồi đầu năm 2012, làm bảy công an và sĩ quan quân đội bị thương. |
Việc sử dụng bạo lực để cưỡng bức đất đai như sự kiện của gia đình ông
Vươn đã gây nhiều chú ý, đồng thời đây cũng là động cơ hàng đầu dẫn đến
nhiều vụ chống lại nhà nước Cộng sản độc đảng tại nước này. Chính phủ đã
công khai thừa nhận những sai lầm trong trường hợp này và cho phép
những người thân của ông tiếp tục ở lại trên mảnh đất ở Tiên Lãng, nhưng
mặt khác chính phủ đã đẩy mạnh việc truy tố những người chống đối lại
quyền lực của họ.
Bên ngoài tòa án hôm thứ Ba ở phía Bắc thành phố Hải Phòng, lực lượng an ninh và công an đã được trưng bày dày đặc ở khắp nơi.
Hàng trăm công an bao quanh phòng xử án, tịch thu các tấm áp phích mà
những người biểu tình ủng hộ gia đình ông đã mang theo. Công an cũng đã
bắt đi ít nhất sáu người. Các nhân viên an ninh thường phục đã mạnh tay
xóa các phiên đoạn ghi âm từ máy của một người quay AP Television. Ngoài
ra, các xe buýt chở người biểu tình đã bị chặn lại trước khi được vào
bên trong nội thành.
Phạm Hồng Sơn, một nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng và cựu tù nhân
chính trị, đi cùng đoàn người biểu tình đã bị chặn lại cách tòa án
khoảng 100 mét.
“Tôi luôn ủng hộ những người đang phải chịu những cảnh bất công”, ông nói. “Đây là một ví dụ về điều này”.
Ông Vươn và ba người thân khác bị buộc tội âm mưu giết người, đã bị giam
giữ và không thể gặp gia đình kể từ sự cố ngày 5 tháng Một, 2012. Bà
Thương và vợ của một nghi phạm thứ hai đối mặt với những cáo buộc nhẹ
hơn.
Phiên tòa xét xử diễn ra trong phòng kín với rất ít phóng viên tham dự, được dự kiến sẽ kéo dài bốn ngày.
Bên trong phòng xử án, một vài phóng viên được tham dự thông qua màn
hình ở một phòng khác. Đây là một trong những cách để chính quyền kiểm
soát những gì được thông báo ra ngoài, và họ có thể dừng lại màn hình
nếu các thông tin trở nên quá nhạy cảm.
Theo lời khai, ông Vươn nói với tòa án rằng ông đã chuẩn bị các thuốc nổ
và súng ngắn làm từ các ống sắt để chống lại công an và quân đội khi họ
vào cưỡng chế gia đình ông ra khỏi khu đất.
“Quyết định cưỡng chế là bất hợp pháp. Tôi bị đẩy vào góc tường và đã
không có cách nào khác”, ông nói. Ông nói thêm rằng các loại vũ khí và
mìn tự chế dùng để “cảnh báo lực lượng công an để họ nhận ra rằng việc
này rất nguy hiểm. Tôi không có ý định làm tổn thương lực lượng cưỡng
chế”.
Các thành viên gia đình ông Vươn nói rằng họ đã được chính quyền cấp 41
hecta đất (101 mẫu Anh) vào năm 1993, khi đó khu đầm lầy này bị hư hỏng
nặng sau một cơn bão. Sau đó gia đình ông đã chuyển đổi khu đất thành
một đầm nuôi tôm cá. Trong năm 2009, chính quyền nói rằng họ muốn lấy
lại khu đất mà không bồi thường chính đáng.
“Tất cả những thành viên trong gia đình của tôi đã làm việc tại trang
trại nuôi tôm này và đó là nguồn thu nhập duy nhất của với chúng tôi”,
bà Thương nói với phóng viên AP hôm tối thứ Hai tại nhà rà ở thôn Vinh
Quang, cách Hải Phòng khoảng 30 km (19 dặm).
Tranh chấp đất đai giữa nông dân và chính quyền thường xuyên nổ ra ở
Việt Nam, nơi mà nhà nước sở hữu tất cả đất đai nhưng cho người dân
quyền sử dụng chúng. Tuy nhiên, cuộc xung đột giữa gia đình ông Vươn đã
diễn ra bất thường vì họ đã chống lại một cách ngoạn mục như vậy, và vì
sự bất công đã quá rõ ràng và nghiêm trọng.
Các cơ quan chức năng tại Việt Nam được phép tịch thu ruộng đất với các
lý do an ninh quốc gia, quốc phòng, phát triển kinh tế hay lợi ích công
cộng. Trong một số trường hợp, các dự án được chuyển thành những khu
công nghiệp hoặc cầu đường, mang lại công ăn việc làm cho một số người
nghèo trong khu vực. Tuy nhiên, ngày càng tăng các trường hợp chính
quyền cưỡng chế các trang trại nuôi cá hoặc đồng ruộng để xây các sân
golf và khu nghỉ dưỡng mà chỉ có những người giàu mới có điều kiện sự
dụng.
Sự kiện gia đình ông Vươn đã giúp dấy lên nhiều lời bình luận trên mạng
Internet tại Việt Nam, nơi mà một số lượng người sự dụng ngày càng tăng
vì có thể tìm kiếm nhiều tin tức không bị [chính quyền] kiểm duyệt. Vài
ngày sau vụ cưỡng chế, các phương tiện truyền thông nhà nước cũng đã
đăng nhiều bài bày tỏ sự đồng cảm, đưa ra các chi tiết vốn gây nhiều mâu
thuẫn ở thời gian đầu.
Chính phủ đã được đưa vào thế phòng thủ. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
phán quyết rằng việc cưỡng chế trên là bất hợp pháp và kêu gọi trừng
phạt những người đã ra lệnh phá hủy ngôi nhà của gia đình ông Vươn.
Hơn 50 quan chức ở Hải Phòng đã bị xử lý kỷ luật, theo truyền thông nhà
nước cho biết. Năm người sẽ được đưa ra tòa vào tuần tới về tội phá hủy
tài sản.
Bà Thương và vợ của một nghi phạm thứ hai, bà Phạm Thị Báu, hiện phải
đảm nhận trách nhiệm nhiều hơn khi những người đàn ông trụ cột khác đang
ở trong tù. Một tháng sau vụ cưỡng chế, họ đã chuyển vào sống trong một
ngôi lều cùng với ba người lớn và bốn đứa con nhỏ.
Tạm thời thì chính quyền địa phương không quyấy rầy họ sau khi được lệnh
của ông Dũng, mặc dù tình trạng đất đai của họ vẫn chưa được giải quyết
rõ ràng. Họ cũng đã bắt đầu quay lại nuôi cá ở quy mô nhỏ hơn.
Ngôi lều của họ nằm trên một dải đất giữa ao đầm trải dài hàng trăm mét. Trên nốc ngôi lều là lá cờ Việt Nam.
“Chúng tôi treo lá cờ ở trên là để giữ niềm tin rằng chúng tôi sẽ được pháp luật bảo vệ,” bà Báu chia sẻ.
Chris Brummitt, Associated Press
Đỗ Đăng Khoa chuyển ngữ, CTV Phía Trước
© Bản tiếng Việt Tạp chí Phía trước
Truy đuổi, nổ súng vào dân: Cái chân chạy trước cái đầu
Đó
là quan điểm của luật sư Lê Đức Tiết về việc lực lượng chức năng truy
đuổi đến cùng người tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm.
Gần đây, truyền thông liên tiếp
đưa tin về những vụ việc người tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm
bị lực lượng chức năng truy đuổi đến cùng, thậm chí có trường hợp bị
công an xã nổ súng như ở Pleiku, Gia Lai. Ông nhìn nhận vấn đề này thế
nào?
Cá nhân tôi cho rằng, việc lực lượng
chức năng truy đuổi người tham gia giao thông như thế, dù với bất kể lý
do nào thì cũng đều là hạ sách. Nó càng không thể chấp nhận được khi
dùng súng bắn trong lúc truy đuổi người vi phạm mà hành vi vi phạm chỉ
bị xử phạt hành chính.
Vì sao ông lại cho đó là cách làm hạ sách?
Bởi lẽ, việc cảnh sát giao thông dùng
lưới vây chụp hoặc dùng xe phân khối lớn lao ầm ầm đuổi theo một người
chỉ vì họ không đội mũ bảo hiểm gây nên sự náo loạn không đáng có và làm
mất thiện cảm của người dân. Chưa kể, du khách sẽ nghĩ thế nào về một
Hà Nội đã được công nhận là “Thành phố vì hòa bình”? Thêm nữa, việc truy
đuổi giữa thành phố đông đúc sẽ gây ra hiểm họa khôn lường về sức khoẻ,
tính mạng cho người bị đuổi, những người xung quanh, thậm chí cả với
người đuổi bắt.
Luật sư Lê Đức Tiết, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn dân chủ và pháp luật, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. |
Không thể “đánh đồng” người vi phạm
Theo ông thì việc người tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm phải trốn chạy lực lượng chức năng nói lên điều gì?
Có thể người ta đang chở hàng lậu, hàng cấm trong xe, cũng có thể sợ bị làm luật, sợ bị phạt.
Nghĩa là, người ta bỏ chạy không đơn thuần vì thiếu cái mũ bảo hiểm?
Đúng. Cũng cần nói thêm rằng, xã hội
đồng tình với việc công an phải mạnh tay, cương quyết với những kẻ buôn
bán hàng cấm (ma túy, pháo nổ...) nhưng phải bằng những biện pháp khéo
léo, văn minh, không ồn ào. Công an càng không thể “đánh đồng” các biện
pháp đối với những kẻ buôn bán hàng cấm với những người mà hành vi vi
phạm đơn thuần chỉ là việc thiếu cái mũ bảo hiểm đội trên đầu.
Ông vừa nói việc truy đuổi người
tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm là “hạ sách”. Nhưng cách làm
ấy ít ra cũng phát hiện, bắt giữ được những kẻ buôn bán hàng cấm đấy
chứ!
Đương nhiên. Nhưng tại sao lại cứ phải
là đuổi bắt? Có nhiều cách khác hay hơn, hiệu quả hơn kia mà. Ví như
anh có thể lập các chốt chặn chứ. Tóm lại, tôi cho rằng việc truy đuổi
người vi phạm luật giao thông như thế là không thể chấp nhận được!
Làm gì có chuyện khuyên nhủ
Nói gì thì nói, nếu như người tham gia giao thông chấp hành nghiêm pháp luật thì làm gì có chuyện bị đuổi bắt nữa?
Đúng vậy. Thế nhưng, xã hội cũng nói
nhiều đến tình trạng công an làm luật với lái xe. Có những nơi biển báo
giao thông được cắm ở chỗ khó nhận ra hoặc thay đổi biển cấm mà người
tham gia giao thông chưa kịp biết. Người điều khiển giao thông mật phục ở
chỗ kín rồi xông ra bắt phạt. Người vi phạm bỏ chạy trong trường hợp
này là do sợ bị phạt chứ không phải và không nên buộc họ vào tội “chống
người thi hành công vụ”. Đã có những công an khi biết người vi phạm
không cố ý thì nhẹ nhàng khuyên bảo rồi cho đi đấy thôi.
Thật khó để có thể liên tưởng
rằng, những người thực thi công vụ đuổi bằng được người không đội mũ bảo
hiểm chỉ để khuyên nhủ người ta nên chấp hành pháp luật!
Làm gì có chuyện đó! Nếu đã thật sự có ý định khuyên nhủ thì người ta đã chẳng truy đuổi đến cùng như thế.
Và liệu vấn đề có nằm ở chỗ mấy trăm nghìn tiền phạt không hay người ta cũng có những động cơ không dễ tiết lộ?
Động cơ để họ đuổi bằng được người vi
phạm là gì, tôi không rõ. Nhưng như báo chí cũng từng đưa tin người ta
có chỉ tiêu phạt cơ mà. Có thể do áp lực về chỉ tiêu chăng?!
Ông nhìn nhận thế nào về sự tồn tại của những cái chỉ tiêu ấy?
Đó là những chỉ tiêu trái pháp luật!
Thế mà nó vẫn tồn tại?
(Cười) Cái đó phải hỏi những nhà quản lý.
Có trách thì trách lãnh đạo
Người ta đã từng có ý định trao
quyền nổ súng trực tiếp cho người thi hành công vụ vào người chống đối
đấy, thưa ông! Gắn với việc truy đuổi người tham gia giao thông không
đội mũ bảo hiểm như bây giờ thì không hiểu việc trao quyền ấy rồi sẽ thế
nào?
Cách làm ấy cực nguy hiểm. Làm thế chẳng khác nào để cho cái chân chạy trước cái đầu.
“Cái chân chạy trước cái đầu”? Ông định ám chỉ điều gì?
Thì đấy, việc đuổi bằng được người
tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm chẳng khác nào thấy nhà dột
chỗ nào thì đi lợp lại chỗ ấy. Nó chỉ là giải pháp tình thế mà thôi,
không thể có hiệu quả lâu dài được. Hiệu quả ấy, muốn có thì phải từ cái
đầu của sự hoạch định mà ra.
Nói thế nghĩa là ông đang “buộc tội” người ta không dùng đầu để quản lý!
Thực tế đã chứng minh điều đó, tôi không hề suy luận.
Khi cái chân chạy trước cái đầu thì hệ quả của nó là gì?
Là sự đổ vỡ niềm tin, là những quy
định đưa ra bị coi là “quy định trên trời” rồi vất xó... Tôi cho rằng,
không nên trách những anh cảnh sát, thực thi nhiệm vụ đuổi bắt người vi
phạm trên phố mà hãy trách chính những người lãnh đạo, quản lý của họ.
Trách người lãnh đạo?
Đúng vậy. Vì cấp dưới của họ có thể
còn hạn chế ở nhận thức, ở sự giáo dục, rèn luyện. Người lãnh đạo phải
dùng cái đầu để đưa ra những cách làm, những giải pháp mang tính chiến
lược chứ không phải là hối thúc cấp dưới phải hoàn thành những chỉ tiêu
nào đó do mình tự nghĩ ra, kiểu thấy nhà dột chỗ nào thì lợp lại chỗ
ấy.
Theo ông, những giải pháp mang tính chiến lược ấy sẽ là gì?
Đương nhiên vẫn là câu chuyện cải tạo,
nâng cấp hệ thống giao thông. Đồng thời phải đẩy mạnh giáo dục ý thức
cho cả người dân và người thực thi công vụ. Phải loại bỏ những chỉ tiêu
phạt vô lý ra khỏi hoạt động quản lý nhà nước. Quan trọng nhất, hãy để
cái đầu chạy trước cái chân!
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!
(Kiến thức)
Nguyễn Đình Ấm - Thử “giải mã” hiện tượng “cứng đầu” của người công giáo
Sở dĩ dân công giáo bị mang tiếng như vậy vì họ luôn nguyện lời thề với
Chúa của họ răn dạy phải sống trung thực cao thượng,nhân ái, sẻ chia.
Chính vì vậy họ ít khi khuất phục trước cường quyền, ít hoặc không thích
nghi được với một môi trường xã hội mà tham nhũng là quốc nạn, “nhìn
đâu cũng thấy, sờ đâu cũng có”.
Thời gian chính quyền Hà Nội tranh chấp khu đất 42 phố Nhà Chung( Hoàn
Kiếm HN) với giáo xứ Hà Nội, một buổi tôi qua chỗ ngã ba Nhà Chung-Tràng
Thi thấy một tốp cảnh sát đứng gác ở góc vườn hoa nói chuyện với nhau.
Khi có một tốp dân từ phía Nhà Chung đi qua, một anh chỉ dùi cui bảo:
– Bọn công giáo này “cứng đầu” thật, cái con mặc áo đen đi ngoài cùng nó từ Ninh Bình ra đấy.
– Từ cả Vinh nó còn ra kia mà. Bọn này “bất trị” thật-Một anh khác đáp lời…
Câu nhận xét trên của viên cảnh sát cứ ám ảnh tôi mãi đến khi gặp một
trường hợp khác: Chị Hoàng Tuyết Nhung đồng nghiệp của tôi hiện trú
tại phường Bồ Đề, Long Biên, HN. Tết vừa qua, đến thăm nhà chị tôi thấy
cây đào nhỏ nhắn nhưng rất đẹp. Hỏi chị mua bao nhiêu, chị kể:
-Năm nào chị cũng được tặng một cây đào. Số là cách đây cỡ dăm năm Hà
Nội giải toả một khu đất ở quận Tây Hồ để thực hiện dự án. Trong số
nhiều nhà bị giải tỏa có mấy gia đình lịch sử đất giống hệt nhau trong
đó các gia đình được bồi thường căn hộ còn một cậu duy nhất thì không.
Cậu ta kiến nghị, thỉnh cầu, kiện cáo khắp nơi nhưng không có kết quả.
Cuối cùng cậu đến tòa báo và nhờ chị giúp đỡ. Cậu nói thật;
– Mọi người cùng cảnh ngộ cứ bảo em: “Thôi, thí cho chúng vài chục cho
xong mẹ nó đi” nhưng em là người công giáo, chúa răn dạy chúng em không
được làm thế…
Ái ngại cho giáo dân chân thật, khẳng khái mình đã đăng bài, chất vấn cơ
quan chức năng ráo riết… Rất may, cuối cùng cậu ấy được đền bù như
những người kia và từ đó cứ dịp tết đến anh ta lại tặng mình một cây
đào…
Giáo xứ Vĩnh Hòa, quê hương của Ls Lê Quốc Quân |
Hôm tôi tình cờ vào thăm quê luật sư Lê Quốc Quân. Số là một buổi chiều
tháng 10/2012 bạn đồng môn với tôi, nhà văn Phạm Thành phone hỏi: “có
đi chơi Nghệ An không?”. Tôi hỏi thì Thành bảo đi Yên Thành quê nhà
thằng Lê Quốc Quân, nó về giỗ bố, đi theo đường Hồ Chí Minh cảnh đẹp lắm
mà lại yên ả…Vốn thích đi du lịch miễn phí, lại thăm quê một con người
dù không quen biết nhưng nổi tiếng với cuộc đấu tranh cho dân chủ, tự
do, công lý nên tôi ok…
Không như nhiều vùng quê khác, quê Quân thuộc thị trấn Yên Thành( Nghệ
An) phần lớn là bà con công giáo, cuộc sống khá sung túc, êm đềm, rất ít
tệ nạn, gia đình Quân có gia phong, nền nếp, sống chan hòa với mọi
người, mọi nhà. Đặc biệt Quân được dân quê hết sức gần gũi, quý mến…
Tối hôm ấy là thứ 7, tôi tò mò theo Quân đi dự một buổi cầu kinh(hay họp
hành gì đó-Tôi không hiểu lắm về sinh hoạt tôn giáo này) và không ngờ
tôi đã hiểu phần nào về hai câu chuyện trên kia.
Buổi lễ ước có hàng ngàn giáo dân trang nghiêm kính cẩn với giàn đồng ca
của tốp thiếu nữ mặc áo dài trắng, một nhóm các cháu trai mặc
complet…Khi bản thánh ca với tiếng piano trang trọng, du dương chấm dứt,
cha xứ chỉ tuổi cỡ 50 cất tiếng. Cả nhà thờ im phắc. Đầu tiên cha xứ
điểm tin tức mọi mặt trong xứ, địa phương, tỉnh, huyện, thế giới…trong
đó có tình hình hoạt động của thư viện, lớp dạy ngoại ngữ miễn phí cho
giáo dân. Cha khuyên giáo dân phải chấp hành nghiêm chỉnh tháng an toàn
giao thông do địa phương phát động…Tiếp đến, cha xứ thông báo dịp này có
ba đôi nam nữ kết hôn, hai cặp sẽ được làm lễ vào ngày…riêng một con
chiên vi phạm pháp luật do có chửa khi chưa đến tổi kết hôn…sẽ thực hiện
thủ tục để con chiên xin lỗi, làm lễ rửa tội…Tiếp đến, cha xứ đọc một
câu chuyện nói lên tinh thần trung thực, cao thượng, nhân ái của một
nhân vật và khuyên con chiên: “Chúa khuyên các con phải sống trung thực,
cao thượng, và nhân ái …” Cả nghìn người “a men” kính cẩn hưởng ứng…
Vào cuối buổi, tôi thấy có một người cầm một cái đĩa lớn đan bằng thảo
mộc đi các hàng ghế, ai quên góp thì bỏ tiền vào đó. Kẻ ít, người nhiều
không mấy ai không ủng hộ…Có thể khẳng định lời răn của cha xứ không
phải là tuyên truyền mà là tâm nguyện thực sự. Sinh hoạt của giáo dân,
của nhà thờ do quỹ của giáo dân tình nguyện đóng góp mặc dù không được
kiểm soát chặt chẽ nhưng xưa nay hầu như không thấy có hiện tượng các
“cán bộ lãnh đạo” tiêu tiền không minh bạch bị dân tố cáo như trong các
tổ chức của nhà nước.
Đến đây tôi mới hiểu phần nào tại sao các xứ đạo thường có cuộc sống
sung túc, yên bình, ít tội phạm hơn dân cư nơi khác.Ngoài sống cao
thượng, trung thực họ còn tương thân, tương ái, giúp đỡ, sẻ chia với
nhau trong cuộc sống. Đặc biệt, tại sao dân các xứ đạo hay đấu tranh với
chính quyền hơn nơi khác?Phải chăng họ “lợi dụng tôn giáo để chống đối
đảng , chính quyền?” như các phương tiện truyền thông nhà nước thường
nói? Tại sao có hiện tượng dân công giáo “cứng đầu” hơn dân khác?
Theo những gì đã thấy có thể khẳng định hoàn toàn không phải như vậy. Sở
dĩ dân công giáo bị mang tiếng như vậy vì họ luôn nguyện lời thề với
Chúa của họ răn dạy phải sống trung thực cao thượng,nhân ái, sẻ chia.
Chính vì vậy họ ít khi khuất phục trước cường quyền, ít hoặc không
thích nghi được với một môi trường xã hội mà tham nhũng là quốc nạn,
“nhìn đâu cũng thấy, sờ đâu cũng có”. Đó chính là hiện tượng Đoàn Văn
Vươn dứt khoát giữ khu đầm của mình bằng pháp lý: Thỉnh cầu với nhà cầm
quyền huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng không được thì kiện ra tòa Tiên
Lãng, Hải Phòng. Khi tòa câu kết với chính quyền lừa cướp đầm bằng vũ
lực thì kiên quyết bảo vệ tài sản, mồ hôi, nước mắt của mình một cách
tuyệt vọng chứ không chịu cúi đầu; Đó là anh không được đền bù nhà ở Hà
Nội không chịu “thí cho chúng vài chục cho xong mẹ nó đi” mà đấu tranh
tiếp,…
Như vậy, trong một xã hội nhiễu nhương người trung thực, cao thượng, yêu
nước, thương nòi bị thiệt thòi rắc rối, mang tiếng “cứng đầu” thậm chí
bị tù đày cũng là lẽ thường tình.
Nguyễn Đình Ấm
(ABS)
Ngày càng nhiều người Việt Nam vượt biển sang Australia tị nạn
Hình do Bộ Nội vụ Australia cung cấp cho thấy tàu chở người tị nạn bị chặn bắt trong vùng biển phía bắc Australia.
Một phúc trình mới đây của chính phủ Úc cho biết ngày càng có nhiều
người Việt Nam dấn thân vào những chuyến đi biển nguy hiểm và đầy bất
trắc để sang Australia tị nạn.
Theo báo chí Úc, Việt Nam là một trong ba quốc gia được coi sẽ là điểm xuất phát của nhiều người tị nạn tới Australia trong năm nay.
Tính cho tới nay, có 93 người Việt Nam tới Úc xin tị nạn.
Giới chức Australia nói rằng dù con số này tương đối nhỏ, nhưng nó lớn hơn so với con số người xin tị nạn trong năm 2012.
Một phát ngôn viên của Cục nhập cảnh Australia cho biết Cục này không muốn suy đoán các lý do dẫn tới xu hướng này.
Hồi đầu tháng Ba, giới hữu trách Indonesia đã bắt giữ một chiếc thuyền chở ít nhất 33 người tị nạn Việt Nam đang tìm đường sang Australia.
Chiếc thuyền bị mắc cạn sau khi gặp sóng to, gió lớn, và những người trên thuyền sau đó đã trốn chạy.
Báo chí Indonesia đưa tin, cảnh sát địa phương phải mất 3 ngày mới truy tìm ra và bắt giữ những người tị nạn Việt Nam.
Người ta không rõ nguyên nhân nào đã đẩy những người Việt Nam đó tìm đường sang Australia tị nạn bằng thuyền.
Úc từng là một trong số nhiều điểm đến của người tị nạn Việt sau Chiến tranh Việt Nam.
VOA
Theo báo chí Úc, Việt Nam là một trong ba quốc gia được coi sẽ là điểm xuất phát của nhiều người tị nạn tới Australia trong năm nay.
Tính cho tới nay, có 93 người Việt Nam tới Úc xin tị nạn.
Giới chức Australia nói rằng dù con số này tương đối nhỏ, nhưng nó lớn hơn so với con số người xin tị nạn trong năm 2012.
Một phát ngôn viên của Cục nhập cảnh Australia cho biết Cục này không muốn suy đoán các lý do dẫn tới xu hướng này.
Hồi đầu tháng Ba, giới hữu trách Indonesia đã bắt giữ một chiếc thuyền chở ít nhất 33 người tị nạn Việt Nam đang tìm đường sang Australia.
Chiếc thuyền bị mắc cạn sau khi gặp sóng to, gió lớn, và những người trên thuyền sau đó đã trốn chạy.
Báo chí Indonesia đưa tin, cảnh sát địa phương phải mất 3 ngày mới truy tìm ra và bắt giữ những người tị nạn Việt Nam.
Người ta không rõ nguyên nhân nào đã đẩy những người Việt Nam đó tìm đường sang Australia tị nạn bằng thuyền.
Úc từng là một trong số nhiều điểm đến của người tị nạn Việt sau Chiến tranh Việt Nam.
VOA
Làm gì để vô hiệu hóa mối đe dọa quân sự TQ?
Theo đô đốc hải quân Mỹ đã nghỉ hưu James A. Lyons, một sự cảnh báo mạnh mẽ của Mỹ có thể khiến Trung Quốc “chậm lại”.
Ông James A. Lyons từng là tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ và đại
diện cao cấp của quân đội Mỹ tại LHQ. Sau đây là bài viết của ông:
Vào ngày 14/3, Trung Quốc đã hoàn thành quá trình chuyển giao lãnh đạo
cấp cao nhất. Ông Tập Cận Bình chính thức trở thành chủ tịch mới của
nước này, kiêm luôn cả vị trí chủ tịch quân uỷ. Trong khi cố gắng tạo
dựng hình ảnh là “người của dân”, thì những phát biểu khác nhau của ông
đều nhấn mạnh cái gọi là “giấc mơ Trung Quốc”.
Cụm từ ấy mang âm hưởng rõ ràng về quân sự, cho dù ông Tập luôn khẳng
định tiếp tục theo đuổi các chính sách phát triển hoà bình từ người tiền
nhiệm. Ông đã phát động một chiến dịch tăng cường các khả năng của quân
đội (PLA) để “chiến đấu và chiến thắng”. Những tuyên bố ấy khiến người
ta hồ nghi về việc Trung Quốc mở rộng quân sự chỉ là để phục vụ mục tiêu
phòng thủ.
Đích của Trung Quốc
Trung Quốc không ngừng mọi bước tiến để đạt tới cái đích trở thành cường
quốc quân sự chiếm lĩnh ưu thế tại tây Thái Bình Dương với ngân sách
quốc phòng tiếp tục gia tăng ở mức hai con số năm 2013 (10,7%). Mức tăng
ấy trùng khớp với việc chính quyền của Tổng thống Mỹ Obama tuyên bố
xoay trục hướng về châu Á và Lầu Năm Góc chịu sức ép cắt giảm mạnh chi
tiêu.
Giữa những bất ổn Trung Đông, và nhiều nơi khác, câu hỏi đặt ra là liệu
“chiến lược xoay trục” về hướng Thái Bình Dương có được thực thi một
cách đầy đủ. Một trong những điểm yếu của chiến lược ấy là nó không đề
cập tới sự phát triển lực lượng quân sự với tham vọng hiện diện toàn cầu
của Trung Quốc, tình hình phát triển của những nước hạt nhân như Triều
Tiên và Iran… Như Richard Fisher, nhà nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm
đánh giá chiến lược và quốc tế, chỉ ra rằng, một sự mất cân bằng như vậy
có thể giúp Trung Quốc tạo ra một số “trục xoay Trung Quốc” để nhanh
chóng hạn chế hay ngăn chặn chiến lược Mỹ.
Một yếu tố khác không thể không tính đến là khả năng đột phá hạt nhân
của Trung Quốc. Nước này có hơn 4.000km đường hầm được gia cố vững chắc
để bố trí hay di chuyển các vũ khí chiến lược. Trong một bài viết ngày
11/2 trên Nhật báo phố Wall của tác giả Bret Stephens, tướng Victor Esin
- nguyên phụ trách lực lượng tên lửa chiến lược Nga - nhấn mạnh về sự
trỗi dậy “âm thầm” của Trung Quốc để đạt đến một vị trí cân bằng hạt
nhân với Mỹ và Nga.
Theo ông, Trung Quốc có thể có 850 đầu đạn sẵn sàng khai hoả. Lượng vũ
khí hạt nhân trong kho của Trung Quốc vào khoảng 1.600 - 1.800 đầu đạn.
Ước tính gần đây của Mỹ về số đầu đạn Trung Quốc có là từ 200-400. Trong
khi đó, có nhiều thông tin cho rằng, Washington muốn giảm số lượng đầu
đạn của Mỹ xuống còn 1.000 hay thậm chí ít hơn.
Chọn lựa của Mỹ
Tướng Esin tuyên bố có bằng chứng xác thực về việc Trung Quốc đã tiến
hành một vụ thử nhiều đầu đạn vào tháng 7/2012, và một tháng sau đó đã
phóng tên lửa tầm xa mới, có khả năng mang nhiều đầu đạn từ tàu ngầm.
Bất kỳ cuộc thương thảo START (hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược) Mỹ -
Nga đều cần phải công nhận số lượng vũ khí hạt nhân trong kho của Trung
Quốc. Rõ ràng, một lời cảnh báo lập tức của Mỹ với Trung Quốc có thể có
tác dụng.
Đưa tên lửa đạn đạo chống hạm lên các tàu chiến, tàu ngầm và máy bay Mỹ
là hành động thể hiện sự cảnh báo ấy, để cho hải quân Trung Quốc thấy
rằng, họ sẽ không có lợi lộc gì nếu dùng hạm đội của mình chống lại Mỹ
và các đồng minh. Một khả năng như vậy có thể phù hợp trong tương lai
gần khi là chọn lựa không quá đắt đỏ, giữa bối cảnh Trung Quốc ngày càng
tăng tốc sức mạnh cho lực lượng hải quân.
Sự ảnh hưởng của việc đưa tên lửa đạn đạo chống hạm vào lực lượng không
quân và hải quân của Mỹ sẽ có tác dụng đáng kể nếu như Mỹ chia sẻ khả
năng này với các đồng minh, cung cấp một thoả thuận có thể đạt được với
Nga để đình chỉ Hiệp ước các Lực lượng hạt nhân tầm trung (INF) năm
1987. Điều này là có thể khả thi, vì theo tướng Nga Esin, nếu Trung Quốc
không ngừng mở rộng kho dự trữ hạt nhân, thì Nga sẽ xem xét rút khỏi
hiệp ước INF.
Một hành động khác mà Mỹ có thể làm là tạo ra mạng lưới cảm biến tầm xa ở
châu Á nhằm giúp các đồng minh nhận được cảnh báo sớm nhất về các hoạt
động quân sự Trung Quốc. Để mạng lưới như vậy thành hiện thực, Mỹ cần
tập trung vào quyết định gần đây trong việc lắp đặt hệ thống rađa hiện
đại thứ hai ở phía nam Nhật Bản cũng như Philippines. Gần đây, Mỹ có hệ
thống rađa ở Shariki, Nhật với phạm vi hoạt động 960-1.900km. Lắp đặt
một hệ thống rađa được nâng cấp với phạm vi hoạt động lên tới gần
6.000km ở Philippines sẽ cho phép các tên lửa và máy bay kiểm soát được
khu vực gồm toàn bộ các quốc gia ở duyên hải tây Thái Bình Dương, kể cả
Trung Quốc.
Sau tất cả, để mọi chọn lựa có thể khả thi, chính quyền của Tổng thống
Obama cần nhận ra những mục tiêu chiến lược của Trung Quốc cũng như mối
đe dọa mà họ đặt ra với các lợi ích quốc gia Mỹ và đồng minh.
Thái An
(Washingtontimes)
Công an vào cuộc vụ nho Ninh Thuận dán cờ Trung Quốc
“Chúng tôi xin hứa với báo chí rằng sẽ phối hợp với công an kinh tế
TP.Hà Nội để điều tra đến cùng vụ việc nho Ninh Thuận dán cờ Trung Quốc”
- bà Nguyễn Thị Như Mai - Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường Hà
Nội - khẳng định với PV Lao Động như vậy tại buổi giao ban báo chí Thành
ủy Hà Nội chiều nay (2.4).
- Trước vụ việc Big C The Garden dán cờ Trung Quốc vào nho Việt Nam được báo chí đưa 10 ngày nay, nhưng chưa thấy cơ quan chức năng vào cuộc. Vậy vụ việc này chưa đủ cơ sở để Chi cục QLTT Hà Nội tiến hành kiểm tra xử lý, thưa bà?
- Qua báo chí, tôi biết được vụ việc nho Việt Nam có dán cờ Trung Quốc
tại Big C. Nhưng đầu tiên tôi lại tưởng vụ việc xảy ra ở Big C Thăng
Long. Do đó, đã trực tiếp chỉ đạo Đội quản lý thị trường số 13 xuống làm
việc thì không phải, mà sự việc lại xảy ra ở Big C The Garden. Sau đó,
chúng tôi lại phải giao cho Đội quản lý thị trường số 6 trên địa bàn
huyện Từ Liêm vào cuộc.
Đến ngày hôm qua, anh em đã đặt lên bàn tôi báo cáo về vụ việc Big C. Về
hóa đơn, Big C đã chứng minh được nguồn gốc lấy hàng từ DN Minh Quang
tại Đan Phượng (Hà Nội), nhưng DN trung gian này lại chưa chứng minh
được nguồn gốc nhập hàng ở Ninh Thuận tại địa chỉ cụ thể nào.
Bà Nguyễn Thị Như Mai - Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội. |
- Vậy Chi cục QLTT sẽ tiếp tục điều tra vụ việc này theo hướng nào, thưa bà?
- Chúng tôi xin hứa với báo chí rằng sẽ phối hợp với công an kinh tế
TP.Hà Nội điều tra đến cùng vụ việc nho Việt Nam dán cờ Trung Quốc. Nếu
là nho ở Ninh Thuận thì cũng phải nói cho rõ ở chỗ nào của Ninh Thuận.
Sau vụ việc này dù kết quả thế nào, chúng tôi cũng sẽ đặt vấn đề về
trách nhiệm của Big C, chứ không chỉ nói trách nhiệm của một nhân viên
được. Ở đây, có trách nhiệm của lãnh đạo Big C trong quá trình kiểm tra,
kiểm soát, rồi quy định về dán cờ như thế nào? Người nhân viên này dán
cờ vô tình hay hữu ý, đến lúc này chúng ta khó có thể kết luận được,
nhưng đây là vấn đề không có lợi cho quốc gia, không có lợi cho người
tiêu dùng. Và sau vụ việc này, Big C chắc chắn sẽ phải trả giá rất đắt.
- Tại sao mỗi việc xác minh thông tin về địa chỉ về nơi nhập hàng của DN Minh Quang mà đến nay Chi cục QLTT Hà Nội vẫn chưa xác minh được, thưa bà?
- Cái khó ở đây là Big C cho biết mua nho của DN trung gian Minh Quang.
Còn DN trung gian lại khai là không nhập hàng của DN, mà chỉ mua của
người bà con ở Ninh Thuận. Nếu nói mua của DN có địa chỉ rõ ràng thì
không cần phải anh em thị trường đi điều tra, mà tôi chỉ cần gọi một cú
điện thoại tới Chi cục QLTT Ninh Thuận là xác minh được ngay nho đó có
được nhập ở đây hay không.
Hiện nay, DN Minh Quang ở Đan Phượng (Hà Nội) vẫn quanh co chưa chịu
khai địa chỉ nhập hàng. Còn khi chúng tôi mời lên làm việc thì DN này
dứt khoát không lên. Trong thời gian tới, nếu DN này không chịu hợp tác
thì Chi cục QLTT Hà Nội sẽ phối hợp với công an kinh tế TP.Hà Nội có
lệnh triệu tập.
- Xin cảm ơn bà!
(Lao động)
TS. Vũ Duy Phú - Thư ngỏ gửi Chủ tịch nước và Tổng Bí thư
TS. Vũ Duy Phú |
THƯ NGỎ
- Kính gửi: các Đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
- Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ
- Cùng toàn thể Bộ Chính trị.
- Đồng kính gửi TƯ Đảng và Quốc hội.
Xin kính gửi các Đ/C lời chào rất kính trọng. Sau đây, tôi xin tự giới thiệu, nêu nhận thức của tôi và nội dung kiến nghị TƯ.
1. Tự giới thiệu. Tôi là một đảng viên, một trí thức của Đảng, từ tuổi
niên thiếu đến khi về hưu, suốt đời tôi đã được Đảng giáo dục và cũng
suốt đời tôi phục vụ không ngừng nghỉ chế độ ta, vì vậy năm ngoái đã
được nhận huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, hiện nay tôi vẫn rất tin và quý
trọng Đảng , coi sự nghiệp cách mạng của đảng như là máu thịt của mình
và rất kính trọng các Đ/C lãnh đạo cao nhất của Đảng. (Nếu quan tâm, xin
xem thêm chi tiết trong phụ lục)
Tuy cuộc đời hoạt động cho cách mạng XHCN của tôi không có gì xuất sắc,
nổi trội, song những từng trải trong hơn 60 năm đã qua cũng đủ làm cho
nhận thức của tôi chín muồi, và tự tin để góp với các Đ/C một số ý kiến
sau đây
2. Nhận thức về tình hình:
2.1-Nhân dân ta không chỉ nổi tiếng anh hùng, khát vọng độc lập tự do,
mà là rất đặc biệt: Với đường lối lãnh đạo đúng, có thể làm nên những sự
nghiệp thật vĩ đại, không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, đã
đóng góp rất xứng đáng với lịch sử tiến hoá nhân loại và đã trở thành
một đất nước rất đặc biệt, được thế giới một thời hết lời ca ngợi và tôn
trọng: Chặn đứng và làm phá sản làn sóng xâm lược tàn bạo của Quân Mông
tràn khắp hai Châu lục Á - ÂU; Dù bị phong kiến phương Bắc xâm lược đô
hộ hàng ngàn năm, vẫn kiên cường bất khuất đứng lên tự dành lại độc lập
dân tộc; Đã dẫn đầu phong trào đấu tranh tự giải phóng làm tan rã hệ
thống thuộc địa trên toàn thế giới; Đã giữ vững biên giới.phe XHCN trong
đụng đầu găy gắt quyết liệt giữa 2 phe ý thức hệ trong chiến tranh lạnh
thế kỷ XX, và đã vượt qua mọi ý đồ ngăn chặn của các nước lớn, không
chịu “trở về thời kỳ đồ đá” để hoàn thành sự nghiệp vĩ đại thống nhất
nước nhà; Từ bùn lầy nghèo khó, lạc hậu, từ tan hoang đổ nát do bị tàn
phá nặng nề trong mấy chục năm chiến tranh, đã hiên ngang đứng lên, hội
nhập thành công với thế giới văn minh, bước đầu rất tự tin gia nhập hàng
ngũ đoàn thuyền trưởng của con tầu toàn cầu ! Trong sự nghiệp vĩ đại
đó, từ giữa thế kỷ XX, có công lao rất to lớn của Đảng lao động (sau này
là đảng CS) VN
2.2-Chính sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta, của đảng ta, cùng với những
nhận thức còn rất mơ hồ về thời đại mới, đã làm cho một bộ phận không
nhỏ đảng viên đã quá say sưa với thành tích, đã quá tự tin, thậm chí có
những biểu hiện tự mãn, tự kiêu cộng sản: Mặc cho phần chủ yếu của phe
XHCN, đặc biệt là ngay cái nôi của CM tháng 10 Nga vĩ đại, cũng đã nhận
ra sai lầm nặng nề của CN hỗn tạp Mác – Lênin - Stalin, của thể chế
chính trị theo mô hình Liên Xô cũ sai lầm. Nếu chỉ là sai lầm nhất thời
trong đổi mới cải cách của ban lãnh đạo LX, đứng đầu là Goorbachốp như
người ta từng hiểu nhầm, thì chắc chắn nhân dân Liên Xô và nhân dân các
nước nguyên XHCN Đông Âu họ đã không chịu hoà bình hoà vào trào lưu tự
do, dân chủ, nhân quyền trên thế giới như đã và đang xẩy ra ! Nếu CN Mác
– Lênin do Stalin tạo dựng ra mà đúng đắn, thì phong trào CS theo QT
III của Lênin trên thế giới đã không suy tàn thảm hại đến mức như hiện
nay, và phong trào XH Dân chủ trên thế giới đã không phát triển vượt
bậc, và CN TB thế giới đã không còn để mà đấu tranh mạnh mẽ chống “Chủ
nghĩa tự do mới” như đang diễn ra !.
Sự thiếu tri thức sâu rộng và đứng đắn của nhiều lớp cán bộ lãnh đạo,
tuy anh dũng, kiên cường bất khuất, của đảng ta đã để cho đất nước ta,,
nhân dân ta, đảng ta bỏ qua biết bao thời cơ vàng (sau chiến thắng 1954,
1975, 1968, 1989 . . .) để đưa dân tộc ta đi lên văn minh hiện đại hơn
hiện nay rất nhiều. Không phải dân tộc nào cũng có được một lãnh tụ tư
tưởng vĩ đại anh minh, thiên tài của chính mình, như Hồ Chí Minh của
chúng ta, Người đã có hẳn một chủ thuyết, khác hẳn chủ thuyết “đấu tranh
giai cấp đối đầu một mất một còn, khác ta là địch”, lấy “chuyên chính
vô sản” làm công cụ đàn áp nhân dân ngày càng quyết liệt để giữ quyền
lực sai lầm cho đến giờ phút chót trước khi tan giã như CN Mác – Lê. Có
thể nói vắn tắt: CN Mác – Lê chỉ có sức mạnh thực tế giúp giai cấp công
nhân liên minh với lao động nghèo khổ một số nơi trên thế giới lật đổ
được giai cấp tư sản ở những “mắt xích” còn rất non yếu của giai cấp
này.
Giai cấp công nhân rõ ràng không đủ tri thức để tự tổ chức một xã hội
văn minh tiên tiến như Mác và Lênin mong muốn. “Thiên chức” xoá bỏ mọi
thể chế lạc hậu hơn, xây dựng một xã hội văn minh hơn luôn là thuộc về
tầng lớp ưu tú của mọi giai cấp, mọi thành phần xã hội, những người có
trí tuệ thật sự, biết đoàn kết, đại đoàn kết, liên hợp lại thành sức
mạnh vô địch của toàn cộng đồng, như bản chất đường lối tư tưởng Hồ Chí
Minh mà Đảng ta đã từng vinh dự đại diện. Đây có thể là quy luật phổ
biến nhất trên thế giới từ xưa cho đến nay, chính vì vậy không phải ngẫu
nhiên mà Hồ Chí Minh được hầu hết những người thông thái và đại đa số
các dân tộc trên thế giới kính trọng, yêu mến và đang làm theo.
CN Mác – Lê chưa từng thắng lợi ở đâu, trái lạị đã bị thế giới từ bỏ, kể
cả Nga, Trung Quốc và Cu ba.Với tư tưởng, đường lối đúng đắn Hồ Chí
Minh, nhân dân ta, đảng ta đã giành hết từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác,trái lại, cứ mỗi khi đảng ta xa rời tư tưởng đường lối HCM, là
chúng ta lại phạm ngay sai lầm, thậm chí rất nặng nề (Cải cách RĐ, nhân
văn giai phẩm, xoá bỏ công thương nghiệp tư nhân, hợp tác hoá và công
hữu hoá triệt để đất đai, và . . .bây giờ là đàn áp ý kiến của cả những
cán bộ cách mạng lão thành và một bộ phân tinh tuý nhất trong giới ưu tú
của đất nước, mà phần lớn trong họ lại là do cách mạng, do đảng ta đào
tạo ra !)
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã bị buộc phải dựa vào thời thế để đấu tranh
giải phóng và xây dựng đất nước, trong khi, một mặt thì Pháp và Mỹ không
thấy được bản chất tư tưởng đường lối tân tiến (tự do dân chủ cộng hoà
và nhân quyền;”Đoàn kết xây dựng đời mới mà đấu tranh giai cấp là ngu
ngốc”) của Hồ Chí Minh, mặt khác Người đã bị mắc vào thế kẹt trong cuộc
đấu tranh giữa hai trào lưu tư tưởng ý thức hệ trên thế giới, nên đã bị
buộc phải dựa hẳn vào Liên Xô và Trung Quốc (cả về chật chất lẫn bị
động, không kiểm soát được trong giáo dục đào tạo ý thức hệ), trong đó,
cho đến tận ngày hôm nay, đến tận giờ phút này, phần lớn cán bộ đảng
viên của đảng ta không hề nhận thức ra tính sách lược lịch sử bị bắt
buộc đó của Hồ Chí Minh. Biểu hiện rõ nhất của sự nhầm lẫn này là , tuy
đã buộc phải chấp nhận cải cách căn bản về kinh tế, về hội nhập quốc tế
(mình Sở), nhưng vẫn “kiên định” CN Mác – Lê (đầu Ngô), cố gắng hạ thấp
vị trí tư tưởng đường lối cách mạng Hồ Chí Minh, vùi dập những tư tưởng
văn minh, tiến bộ của Dân tộc. Đó là sai lầm căn bản về đường lối trong
thực hiện cách mạng XHCN đích thực của chúng ta hiện nay, đi ngược lại
trào lưu tiến hoá của Nhân loại...
Nếu chúng ta không khắc phục cho nhanh những sai lầm từ gốc hiện có, thì
, một mặt, sẽ tiếp tục làm hoang mang, nản lòng nhân dân, rất khó tạo
được sức mạnh đoàn kết rộng lớn và nhiệt tình xây dựng đất nước với tràn
đầy tâm huyết của toàn dân tộc như xưa, mặt khác lại tạo nguy cơ bị lạc
lõng, bị biệt lập không chỉ về tư tưởng chính trị, mà sự suy thoái khá
nặng về văn hoá đạo đức xã hội và kỷ cương phép nước cũng sẽ làm nản
lòng, thậm chí làm xa lánh, thất vọng đối với những xã hội văn minh muốn
đoàn kết ủng hộ chúng ta, mặt khác, bằng cách đó lại vô tình tạo thêm
tư tưởng hành động chống phá chế độ, khuyến khích mưu đồ của kẻ thù dân
tộc ! Khi thời cơ đến mà cố tình bỏ lỡ là tội rất nặng đối với Nhân dân
.
3. Kiến nghị lên Quốc hội, Trung ương Đảng, Chính phủ:
3.1-Trong tình hình trong nước và thế giới hiện nay, chúng ta càng cần
nhanh chóng nghiêm chỉnh quay trở lại về bản chất tư tưởng đường lối Hồ
Chí Minh, vì đó là tâm tư nguyện vọng cháy bỏng của toàn dân và gần như
là xu thế tất yếu của Thời đại: Đoàn kết, đại đoàn kết, không phân chia
giai cấp, tôn giáo, giầu nghèo, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc,
kể cả các yếu tố khác biệt với đường lối của đảng, miễn là nhất trí với
mục tiêu sự nghiệp các mạng, xây dựng đất nước của Dân, do Dân và vì
Dân;
3.2- Quay trở lại tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh trong hoà bình (không
cần chuyên chính, đàn áp) , ổn định và giữ vững phát triển kinh tế và
hội nhập có kết quả với thế giới văn minh, dẫn đầu là Mỹ, Nga, Nhật, Ấn
độ, với bộ phận Trung Quốc văn minh, tiến bộ, và với các nước tư bản
phát triển khác, cùng tât cả các lực lượng văn minh tiến bộ còn lại trên
thế giới.. .
3.3- Quay trở về tư tưởng đường lối Hồ Chí Minh trong một quá trình được
tính toán cẩn thận, làm sao không làm đảo lộn tổ chức và xã hội, không
làm mất ổn định chính trị, tránh gây ra sự thất thiệt không cần thiết
của bất kỳ tầng lớp nhân dân cán bộ nào, bởi “sai lầm tích tụ lâu nay
không phải của riêng ai, không do riêng ai” (VDP)
3.4- Muốn vậy, sự quay về tư tưởng đường lối HCM cần và nhất thiết phải
bắt đầu từ cấp cao nhất của đảng và Chính phủ, vì đây là những người đã
tự nguyện nhận lấy và đang quyết tâm giữ lấy trọng trách cao nhất đất
nước. Lấy lại niềm tin của nhân dân và của đảng viên vào sự lãnh đạo của
đảng phải bắt đầu từ những tiêu chí và chỉ dấu tiêu biểu nhất của Hồ
Chí Minh: Đại đoàn kết dân tộc, Liêm khiết, Khiêm tốn, Dũng cảm, Hy
sinh, biết “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn”, “Lấy Trí Nhân thắng cường
bạo”, và phải bắt đầu từ Bộ Chính trị, TƯ Đảng.. Trên cơ sở đó Đảng và
Chính phủ nghiên cứu sửa đổi HP, và nhanh chóng đi đến những chính sách
cụ thể , sáng suốt trên tinh thần dựa vào “Thiên chức” của Dân.
3.5- Chừng nào TQ không tôn trọng những điều như TƯ hai bên đã giao kèo
với nhau, thì ta nên cương quyết, dũng cảm “Quốc tế hoá” vấn đề Biển
Đông và phần lớn các biển đảo mà chúng ta đang sở hữu, nhưng chưa đủ sức
quản lý, khai thác. Chúng ta nên nhìn chiều hướng toàn cục tất yếu của
sự phát triển xã hội Loài người mà dũng cảm đi trước, dẫn đầu ! Đây cũng
là “thời thế tạo anh hùng” , “biến nguy cơ to thành cơ hội lớn” cho Dân
tộc Việt Nam chúng ta lại một lần nữa sẽ lập kỳ tích mới trên thế giới !
Thế hệ trẻ và Quân đội VN anh hùng đang sẵn sàng chờ đón quyết tâm dũng
cảm của Đảng !
3.6- Một số gợi ý cụ thể:
1/ Hãy thực sự, thực lòng lấy ý kiến nhân dân xây dựng Hiến pháp mới,
phù hợp thời đại mới của nước ta (tôn trọng nhân dân, đặc biệt là đối
với tầng lớp ưu tú của nhân dân, của đảng; tránh chụp mũ, phê phán đao
to, búa lớn với những ý kiến khác đường lối tư tưởng cũ của đảng và
chính phủ, và hết sức tránh mưu mẹo, dối trá với nhân dân, hoặc làm câu
chuyện hình thức đã rồi trong sửa đôi HP);
2/ Thời Hồ Chí Minh còn lãnh đạo trực tiếp, dù không có Điều 4, không có
quy định “Quân đội phải bảo vệ Đảng” trong Hiến pháp, cách mạng ta vẫn
đi từ hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vậy có ghi hay không ghi
không phải là vấn đề gì lớn mà cần gay gắt tranh luận, đánh giá, quy kết
nặng nề, hoặc thậm chí cho rằng “Bỏ Điều 4 là tự sát” (!) Trái lại,
ghi như vậy trong Hiến pháp lại dễ tạo chỗ dựa pháp lý cho những thế lực
xấu xa núp dưới danh nghĩa quang minh của toàn Đảng để làm hại dân. Còn
chừng nào Đảng ta nói chung đã phải dựa vào những điều này mới tồn tại
an toàn, thì lúc đó, chúng ta cũng không nên mơ hồ, thiếu nhậy bén mà
hiểu ra rằng: Chúng ta đã hết vai trò lịch sử rồi ! Vì vậy, thay vì đấu
tranh kỳ được , thậm chí mạt sát người có ý kiến khác ta để có Điều 4 và
cụm từ “Quân đội nhân dân phải bảo vệ đảng” trong Hiến pháp, thì nên
tập trung vào việc làm cho nhân dân tôn trọng, thừa nhận thật sự vai trò
lãnh đạo của đảng như khi lãnh tụ Hồ Chí Minh còn sống,và quân đội một
lòng tin theo và bảo vệ đảng mà họ không cần biết có ghi điều đó trong
HP hay không ! Khi Dân đã “nổi can qua” thì cái HP không được lòng Dân
sẽ chẳng còn sức mạnh để bảo vệ chế độ CS đã suy thoái (Như LX cũ, như
Rumani, Ly Bi trước đây, và như Syry hiện nay);
3/ Là nước đi sau, hãy khiêm tốn học tập những cái hay của các nước tiên
bộ đi trước. Đó là nhà nước pháp quyền đầy đủ, thị trường tự do có điều
tiết và kiểm soát (như các nước phát triển đang làm), và xã hội dân sự
lành mạnh (giúp nhà nước điều tiết và quản lý thị trường và đất nước nói
chung có kết quả); Chúng ta cũng không câu nệ hình thức, nhưng vì đảng
ta luôn muốn để Tổng bí thư lên trên Chủ tịch nước, cờ đảng để trước cờ
quốc gia, các khẩu hiệu vị Đảng ra mặt, như “Mừng Đảng, mừng Xuân”, mà
quên vế Mừng Tổ Quốc, mừng Nhân dân anh hùng, . . . , mặt khác, về thực
chất không thể giao quyền lãnh đạo toàn diện, quyền quyết định cuối cùng
cho mọi loại cấp uỷ đảng như hiện nay, v.v…vì đó là những dấu hiệu
không thuận lòng người, là phạm thượng của Đảng trước cha ông, trước
toàn dân tộc (mà ít ai dám nói công khai) và ngược với lẽ thường trên
thế giới văn minh!! Sửa ngay những cái chi tiết nhưng mang ý nghĩa biểu
trưng này sẽ có thể ngay lập tức lấy lại sự tin tưởng mạnh mẽ trong lòng
dân và thổi một luồng khí thế mới cho sự nghiệp đổi mới thật lòng của
Đảng.
4/ Công hữu đất đai tràn lan như hiện nay khi luật pháp và cơ chế chưa
hoàn chỉnh và nghiêm minh, thì chỉ làm mồi cho những thế lực tham nhũng
tiêu cực hoành hành, thậm chí dễ vi phạm nghiêm trọng quyền lợi cơ bản
của người Dân.Tại sao các nước tiên tiến họ giữ được trong sạch lành
mạnh hơn chúng ta ? Điều đó rất cần công khai thảo luận trên các diễn
đàn của tất cả mọi giới trong nước.
5/ Nên nhất trí với kiến nghị của các tầng lớp ưu tú là cần có Toà án
Hiến pháp. Nếu đảng mình mà công minh, chính đại, thì mình sợ gì ?! Chỉ
các thế lực tham nhũng, tiêu cực, nối giáo cho giặc thì mới sợ toà án,
luật pháp và công an mà thôi.
6/ Cuối cùng, Đảng ta cần dẫn đầu, bằng hành động cụ thể, nung nấu lại
nhiệt tình, tâm huyết và trong sáng thực sự của mọi tầng lớp nhân dân
trong xây dựng đất nước như đã từng hiện hữu ở mọi lứa tuổi trên mọi
miền Tổ Quốc ta trước đây.
Tất cả những điều trên , nếu thực hiện đúng, Đất nước ta sẽ TỪNG BƯỚC,
CÓ TRẬT TỰ , nhưng khẩn trương chuyển hoá đến một xã hội tốt đẹp hơn,
không gây đảo lộn gì lớn như “cách mạng hoa hồng”, hay “diễn biến hoà
bình” theo nghĩa xấu mà chúng ta sợ. Không những thế, nhân dân ta thậm
chí lại có thể tung hô lớn Đảng CS VN, đứng đầu là Bộ Chính trị, muôn
năm !
Tóm lại, nếu toàn Đảng, TƯ đảng, và Bộ Chính trị muốn tồn tại hoà bình
và được nhân dân tiếp tục tín nhiệm, ủng hộ, và bảo vệ thì nên thông
minh, sáng suốt, nhậy bén, bớt kiêu ngạo cộng sản, bớt chủ quan, thuận
theo nguyên vọng của nhân dân và xu thế tất yếu của thời đại.
Sơ lược để kịp thời mấy điều nói trên, mong các Đ/C xem xét.
Ngày 1-4-2013
Vũ Duy Phú
(Blog Bùi Văn Bồng)
Giảng viên đại học kiểu... gà đồi!
Chỉ dựa vào hai tiêu chí mà luật quy định, đội ngũ giảng viên ĐH của
chúng ta chắc chắn còn lâu mới đạt đến trình độ khu vực chứ chưa nói đến
trình độ quốc tế.
Để trở thành giáo viên trong các trường phổ thông, các thầy, cô giáo
phải tốt nghiệp hệ đào tạo chính quy các trường sư phạm. Để trở thành
giảng viên đại học (kể cả tại các trường đại học sư phạm) thầy, cô phải
học những gì và học ở đâu?
Vì sao- gà đồi?
Có một truyện vui hay được đề cập trong phòng nghỉ giữa giờ của giảng
viên, rằng giảng viên ĐH phần lớn được đào tạo theo kiểu "gà đồi". Những
"gà đồi tập sự" trước khi được công nhận làm giảng viên chính thức sẽ
phải tự học, tự bồi dưỡng kiến thức và ... tự kiếm sống chẳng khác gì gà
thả rông trên đồi! Vì sao lại như vây?
Các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo được luật hóa tại khoản 3, 4 điều 54 Luật GDĐH:
Trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ ĐH là thạc sĩ
trở lên. ... Hiệu trưởng cơ sở GDĐH ưu tiên tuyển dụng người có trình
độ từ thạc sĩ trở lên làm giảng viên. ... Bộ trưởng Bộ GD và ĐT ban hành
chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, quy định việc bồi dưỡng, sử
dụng giảng viên.
Như vậy, muốn trở thành giảng viên ĐH phải thỏa mãn hai điều kiện tối
thiểu: "Là thạc sĩ" và "phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm". Muốn có
học vị thạc sĩ thì phải đi học, nhưng theo luật, các cơ sở giáo dục bậc
ĐH không có nghĩa vụ phải hỗ trợ chi phí học tập cho giảng viên. (Khoản 1
điều 56 Luật GDĐH: Giảng viên trong cơ sở GDĐH được cử đi học nâng cao
trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; được hưởng tiền lương, phụ
cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên và các phụ cấp khác theo quy
định của Chính phủ).
Vậy là với đồng lương trợ giảng (vì chưa đạt chuẩn thạc sĩ) họ phải chắt
bóp từng đồng để học tiếp thạc sĩ và đương nhiên để lo cho cuộc sống họ
sẽ phải bươn chải theo kiểu ... gà đồi.
Việc các đơn vị sử dụng lao động phải chi kinh phí đào tạo lại các cử
nhân, kỹ sư mới ra trường là chuyện phổ biến, vậy tại sao ngành GD chưa
có các quy định bắt buộc về khoản kinh phí cho việc đào tạo giảng viên
ĐH? Phải chăng giảng viên được đào tạo kiểu "gà đồi" chất lượng sẽ hơn
"gà công nghiệp"?
Tất cả giảng viên tập sự đều hy vọng khi Luật GDĐH đi vào cuộc sống thì
"các phụ cấp khác theo quy định của Chính phủ" sẽ bao gồm toàn bộ kinh
phí đào tạo thạc sĩ và giảng viên tập sự sẽ không phải viết đơn xin ...
hỗ trợ kinh phí khi học cao học.
Bao giờ cho đến ...ngày xưa?
Từ chuyện hôm nay nhớ lại chuyện ngày xưa, việc đào tạo giảng viên ĐH có
thể ví như mảnh đất hoang 40 năm chỉ một lần cày sới. Nói như vậy là vì
dưới thời cố Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, năm 1968 Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp tổ chức một số lớp đào tạo giảng viên ĐH.
Còn nhớ khi đó Bộ chỉ thị cho các trường chọn những sinh viên ưu tú nhất
sau khi học xong chương trình cơ bản (hết năm thứ hai) đưa đi đào tạo
tiếp để trở thành giảng viên ĐH. Những sinh viên được lựa chọn từ các
trường ĐH Bách Khoa, Xây Dựng, Giao Thông, Nông Nghiệp... được tập trung
về ĐH Bách Khoa HN và được phân thành các lớp Toán - Lý, Sức bền vật
liệu, Hình họa, Nguyên lý máy, Chi tiết máy...
Số lượng sinh viên mỗi lớp khoảng 20 người, toàn bộ số sinh viên này
được hưởng tiêu chuẩn học bổng toàn phần (22 đồng/ tháng). Dưới sự chỉ
đạo của Bộ, nhiều giáo sư, phó giáo sư đầu ngành của các trường được
điều đến giảng cho các lớp đặc biệt này.
Ví dụ như là GS Phan Văn Hạp (ĐH Tổng hợp), GS Nguyễn Văn Đạo, Phó GS
Bùi Trọng Lựu, Đinh Gia Tường (ĐH Bách khoa), Phó GS Trần Bình (ĐH Xây
Dựng)...
Các giảng viên tương lai phải học tiếp ba năm ngoại ngữ (nghĩa là học
ngoại ngữ suốt năm năm). Ngay từ năm 1969 sinh viên các lớp này đã được
học môn Máy tính điện tử và Ngôn ngữ lập trình Fortran. Các sinh viên
này được cấp thẻ ưu tiên tại Thư viện Quốc gia. Họ cũng được ưu tiên
chạy các chương trình tại trung tâm máy tính duy nhất cả nước đặt tại
Đồi Thông (phố Đội Cấn- HN).
Năm 1971 sau khi tốt nghiệp, gần 100% số sinh viên này trở thành giảng
viên các trường ĐH miền Bắc. Nhiều người trong số họ đã bảo vệ thành
công luận án tiến sĩ ở nước ngoài. Hơn 40 năm đã trôi qua, có lẽ với
ngành GD, câu chuyện trên đây đã trở thành cổ tích?
Một trong các tiêu chí là sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi. Ảnh minh họa |
Câu hỏi đặt ra là: Có cần chuẩn hóa việc đào tạo giảng viên ĐH?
Theo thông lệ tiêu chuẩn đầu tiên để có thể thi vào ngạch viên chức
giảng viên ĐH là phải tốt nghiệp hệ chính quy loại xuất sắc, giỏi hoặc
khá. Không có gì sai khi cho rằng đạt được tấm bằng giỏi bậc ĐH khó hơn
nhiều, thậm chí là rất nhiều so với có tấm bằng thạc sĩ.
Có thể đơn cử, năm 2011 ĐH Bách khoa HN có gần 3200 sinh viên tốt
nghiệp, chỉ có ba sinh viên xuất sắc, 182 sinh viên giỏi. Trong khi đó
"thống kê của Trường ĐH Bách khoa HN cho thấy số lượng thạc sĩ đào tạo
mỗi năm là hơn 2.000 người, còn ĐH Kinh tế Quốc dân là 1500 người"[1]
Vậy trình độ thạc sĩ của Việt Nam ngày nay ra sao?
Được biết Vụ GDĐH đang kiến nghị Bộ GD và ĐT dừng hơn 100 chương trình
đào tạo thạc sĩ không đảm bảo chất lượng. Vậy trong số 20000 đến 25000
thạc sĩ nhận bằng tốt nghiệp hàng năm [2], có bao nhiêu người theo học
các chương trình này? Và bao nhiêu trong số đó là các giảng viên ĐH
tương lai?
Nếu kiến nghị của Vụ GDĐH được chấp thuận, liệu các trường ĐH, học viện
có dám cho ra khỏi ngành hoặc đình chỉ giảng dạy với các giảng viên tốt
nghiệp chương trình đào tạo này?
Một vị GS, Hiệu trưởng Trường ĐH Nông Nghiệp HN từng tuyên bố không
tuyển dụng thạc sĩ làm giảng viên, nếu người đó tốt nghiệp ĐH loại trung
bình hoặc trung bình khá. Theo vị hiệu trưởng này thì một số lượng
không nhỏ các giảng viên có bằng thạc sĩ thực chất là một hình thức
"rửa bằng".
Nói một cách công bằng ông hiệu trưởng nọ hoàn toàn có lý. Nhiều sinh
viên tốt nghiệp hệ tại chức của Trường ĐH Nông nghiệp ba, bốn năm sau đã
là thạc sĩ và trở thành trưởng khoa, trưởng bộ môn của các trường trung
cấp, cao đẳng.
Tại ĐH C. (Hưng Yên) mọi người đều biết một cán bộ phòng đào tạo, tốt
nghiệp hệ phi chính quy, học cao học anh ta không biết tìm tài liệu tham
khảo trên mạng như thế nào, có người tìm hộ và sửa giúp, anh ta lại
không biết cách gửi email cho thầy hướng dẫn, thế nhưng luận án vẫn được
...chín điểm.
Sau khi có bằng thạc sĩ người này lập tức yêu cầu được tham gia giảng
dạy tại trường. Đương nhiên khoa chuyên môn phải tổ chức cho anh ta
giảng thử và tất cả đều lắc đầu ngao ngán. Từ đây có thể thấy những kẽ
hở luật pháp bao giờ cũng được vận dụng triệt để.
Thạc sĩ... tại chức?
Liệu chất lượng đào tạo thạc sĩ ở nước ta đã có quy trình kiểm nghiệm
theo kiểu ISO 90xx nào đó? Khi mà hệ đào tạo ĐH tại chức đang teo dần đi
thì "nồi cơm" của nhiều trường ĐH, học viện chính là đào tạo thạc sĩ.
Cũng cần phải nói thẳng ra rằng cách đào tạo "thạc sĩ chính quy" của một
số trường, viện hiện nay thực chất vẫn là đào tạo "thạc sĩ tại chức".
Đơn giản bởi họ chỉ dạy và học vào buổi tối, hoặc ngày nghỉ. Sau một
ngày lao động căng thẳng, học viên vội đến trường để còn kịp điểm danh.
Có người còn phải đi xa 40- 50 cây số, liệu họ còn đủ năng lượng để tỉnh
táo tiếp thu bài giảng?
Với những thạc sĩ "rất rõ nguồn gốc xuất xứ đó" ai mà biết bao nhiêu
người được "thông quan" qua cửa khẩu "phong bì"? Hệ quả tất yếu của quá
trình đó là trình độ chuẩn mà giảng viên ĐH phải có (thạc sĩ) liệu đã
đủ chuẩn?
Về tiêu chí thứ hai: Chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm.
Bản thân Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên ĐH, CĐ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 61/2007/QĐ-BGD&ĐT) đã chứa đựng
nhiều bất cập. Ai cũng có thể thấy sự khập khiễng trong quy định đối
tượng tham gia bồi dưỡng:
"Những người có trình độ từ ĐH trở lên, có kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn, có nguyện vọng trở thành giảng viên các trường ĐH, CĐ"...
"Sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi các trường ĐH, CĐ có phẩm chất
tốt, có nguyện vọng trở thành giảng viên các trường ĐH, CĐ"...
Giảng viên ĐH là thầy của thầy. Mong rằng Bộ GD và ĐT tìm lại hồ sơ lưu trữ về việc đào tạo giảng viên dưới thời cố Bộ trưởng Tạ Quang Bửu. |
"Sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi" và "những người có trình độ từ ĐH trở lên" giống và khác nhau ở điểm nào?
Ngày
xưa giảng viên ĐH bắt buộc phải có "chứng chỉ GDĐH". Ngày nay theo luật
họ cần có "chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm". Có thể thấy không ít giảng
viên tốt nghiệp ĐH sư phạm nghiễm nhiên cho rằng họ đã có chứng chỉ
nghiệp vụ sư phạm. Ở một số trường ĐH tư thục nhiều người có chứng chỉ
nghiệp vụ sư phạm nhưng họ được đào tạo như thế nào?
Vào địa chỉ http://rongbay.com sẽ thấy thông tin: Nhóm"TRI THỨC CỘNG
ĐỒNG chuyên nhận làm thuê luận văn, viết thuê luận vănvà hướng dẫnluận
văn, luận án, tiểu luận, bài tập lớn, báo cáo, chuyên đề, essay,
assignment, dissertation ĐH, Cao học, thạc sĩ".
Cũng tại địa chỉ này còn có thông tin: "Mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm ĐH cho những người giảng dạy ở trường ĐH, CĐ. Thời lượng: 15 tín
chỉ. Học phí: 2.100.000đ.
Cũng rất dễ dàng tìm được thông tin sau:
Chương trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm bậc 1 và 2. Trường CĐ Điện tử
Điên lạnh, Ngõ 86,Phố chùa Hà, Dịch Vọng, Cầu Giấy- HN. Điện thoại liên
hệ: 0946756686. Chị Hằng- giáo viên chủ nhiệm (gặp trực tiếp giáo viên
chủ nhiệm để đăng ký HỌC và dự thi). Có cấp chứng chỉ ngay theo nhu cầu
của học viên.
Bằng thạc sĩ có thể thuê làm (với giá thỏa thuận) thì việc có cấp chứng
chỉ (sư phạm) ngay theo nhu cầu của học viên âu cũng là chuyện bình
thường.
Phải chăng đã đến lúc Bộ GD và ĐT cần xem xét lại việc đào tạo đội ngũ
giảng viên ĐH. Phải có những chuẩn riêng cho các chương trình đào tạo
thạc sĩ- giảng viên, trong đó bên cạnh kiến thức khoa học cần chú trọng
đặc biệt tới đào tạo "chuẩn mực người thầy".
Hiện nay các chương trình đào tạo thạc sĩ- giảng viên chỉ chú trọng tới
kiến thức chuyên môn thuần túy mà quên đi những ứng xử văn hóa tạo thành
nên hình tượng người giảng viên ĐH. Thậm chí kiến thức chuyên môn cũng
có điều cần phải bàn luận.
Người viết đã từng chứng kiến một giảng viên trẻ sử dụng máy chiếu để
giảng. Khi mất điện thầy đành cho sinh viên nghỉ vì giảng đường "không
đủ ánh sáng". Thực ra là vì... thầy không thuộc bài. Không một trường
lớp nào đào tạo được "người thầy hoàn hảo" song việc "nói không" với
những thầy dưới chuẩn là việc có thể làm.
Các trường công lập gần như 100% giảng viên tốt nghiệp từ khá trở lên,
một số trường ngoài công lập không được như vậy. Chỉ dựa vào hai tiêu
chí mà luật quy định, đội ngũ giảng viên ĐH của chúng ta chắc chắn còn
lâu mới đạt đến trình độ khu vực chứ chưa nói đến trình độ quốc tế.
Giảng viên ĐH là thầy của thầy. Mong rằng Bộ GD và ĐT tìm lại hồ sơ lưu
trữ về việc đào tạo giảng viên dưới thời cố Bộ trưởng Tạ Quang Bửu.
Ts. Dương Xuân Thành(Tuần VN)
Đào Tuấn - Thưa Bộ trưởng, ông cứ giả vờ kê cao gối mà ngủ quên
Xin vote cho Alan Phan, dù ông là ai, khi ông khuyên các bộ trưởng “cứ
đừng làm gì cả”. Bởi biết đâu đó với việc, giả vờ cũng được, kê cao gối
mà ngủ, các vị chả mang lại niềm vui cho ối người, dù chỉ là trong những
cơn mơ.
Ở trong một thành phố rất to, có một con ngõ rất nhỏ. Trong cái ngõ nhỏ
đó, có một khu tập thể không to. Trong khu tập thể không to, được xây từ
năm 1978, vài lần suýt đổ, nhàu như một miếng giẻ, xấu như một con cóc
đó có một căn hộ rất nhỏ. Và trong căn hộ rất nhỏ đó, có một gia đình
rất to.
Một buổi sáng nào đó, người thương binh bậc 3/4, bệnh binh bậc 2/3 đạp
một chiếc xe “thời Điện Biên” ra ngã tư ngồi chống cằm ước ao sẽ gặp
ngay một chiếc xe thủng lốp. Bà vợ, nguyên thanh niên xung phong, bệnh
binh, y tá hưu trí sau khi chăm sóc cho lũ cháu lít nhít với một nồi
“cơm thợ cày” nấu sớm, bắt đầu thói quen ngồi bó gối và thở dài.
2 vợ chồng cả huân huy chương lẫn thương tích đầy mình đó đang ở trong
một căn hộ 14m2. Một năm nào đó, bí quá, ông dẹp bỏ cái danh thương binh
cách mạng, cơi nới khoảng không gian vốn dĩ dành cho xe cứu hỏa để được
thêm 1 căn phòng 4m2. Vị chi là 18m2. Cho một gia đình 11 người, 3 thế
hệ.
Các bạn ạ. Trong một căn phòng tập thể 18 người, nó “buồn” đến nỗi mỗi
sáng, tất cả phải đi đi lại lại như chó ngộ để ngăn “nỗi buồn” ập đến,
trong khi chờ người khác giải quyết “nỗi buồn”. Có bận, anh con trai thứ
2 buồn nôn. Anh xông thẳng vào cái góc bé teo được gọi là nhà wc và,
không bụm miệng được, anh “huệ” một phát vào đúng người thương binh đang
vừa tắm, vừa hát bài kinh điển của ông “Cuộc đời vẫn đẹp sao”. Khi
người con trai cả lấy vợ, anh mua ván quây thành một căn phòng bằng vừa
đúng chiếc giường. Thật kinh ngạc, sau mấy năm, anh sinh ra được 2 thằng
cu trên đúng căn phòng tin hin trong căn nhà ti hi đó. Trong căn nhà
18m2, người ta bỗng dưng phải liên tục hắng giọng, hoặc ho, để đánh
động. Người thương binh, một hôm bỗng phát hiện ra mình mắc thêm chứng
ho mãn tính. Còn cựu nữ y tá không hát “cuộc đời vẫn đẹp sao được”. Suốt
ngày bà thở dài thườn thượt nhìn ông con út tối tối nằm ngồng ngỗng
giữa nhà, đeo tai nghe đi ngủ. Anh này đã “băm mấy nhát” rồi mà chưa lấy
được vợ. Xin chị em tha lỗi. Không người phụ nữ nào muốn thành người
thứ 12 trong một căn nhà mà trẻ con người lớn, bố chồng, nàng dâu nằm úp
thìa như xếp cá hộp hết cả.
Các bạn sẽ hỏi tôi sao những người anh không đi thuê nhà. Có đấy. Người
con thứ 2 đã đi thuê nhà. Chẳng hiểu khu Nghĩa Tân nó “đầu rồng” thế
nào, giá một căn nhà 24m2 cho thuê những 5 triệu đồng, bằng đúng lương
chị vợ. Thế là để muốn nhiễm chứng ho, hay e hèm kinh niên, người chồng
trong gia đình nhỏ đó một tay nuôi đủ 4 người.
Cuộc đời nó tệ đến nỗi một đứa bé lên 9, lên 10, đã bị buộc phải mơ ước
có một ngôi nhà. “Bố mẹ cháu gọi cháu là Bo. Bo có nghĩa là phải ki bo,
phải tiết kiệm để có tiền mua nhà. Cháu tiết kiệm tiền mừng tuổi 4 năm
rồi. Nhưng toàn tiền lẻ”-Cậu bé có lần tâm sự.
Xã hội không thể công bằng với tất cả mọi người. Có người sẽ nói dẫu
sao, người thương binh nọ vẫn còn có chỗ mà đút chân, dù vào gậm giường.
Nhưng ước mơ thoát khỏi cảnh giường chiếu hẹp là ước mơ chính đáng và
không thể cấm đoán của người thương binh nọ, của những người đồng đội,
của hàng xóm, của không ít trong số đồng bào ông.
Trong sách Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và đột phá, vị tướng CA, nay là
đương nhiệm Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh, TS Hoàng Minh Chính đưa ra một ví
dụ tuyệt vời về những cơn sốt giá.
Năm 1988, giá một lô đất khu vực đường Láng Thượng là 2 chỉ vàng. Năm
1990, tức là chỉ 2 năm sau, giá khu đất đó tăng lên 7 cây vàng. Gấp 35
lần. Tới giữa năm 1993, giá khu đất được rao, các bạn có thể tưởng tượng
được không- với giá 120 cây vàng. Tức là 6 chỉ vàng/m2. Gấp 17 lần so
với 3 năm trước và gấp 600 lần 5 năm trước. Trong 5 năm đó, chẳng hạn
học bổng của sinh viên giữ nguyên mức 49.500 đồng. Nếu phải update cho
thời sự thì 120 cây vàng vào thời điểm dù là “đóng băng” bây giờ chỉ có
thể mua được 6m2 đất ở Láng Thượng.
Những thương binh 3/4, quá khứ đổi máu xương lấy lương hưu, hiện tại
chổng mông bơm xe có lẽ cả đời cũng chẳng bao giờ thỏa mãn giấc mơ một
giấc ngủ không phải thủ thế, vì sợ người khác giẫm phải.
Thật éo le, những người phải thủ thế trong giấc ngủ, những đứa bé chưa
kịp lớn đã phải ước mơ ngôi nhà, trong xã hội tươi đẹp của chúng ta
không phải là ít. Và trong một hiện thực là với 3 cơn sốt, giá nhà đất ở
Việt Nam đã tăng hơn 100 lần trong chỉ 20 năm. Cái giá, nói như một vị
thứ trưởng là “đang vi vu đâu đó ở trên giời”.
Hôm qua, lão thương binh, vừa qua tuổi thất thập bỗng nhiên giơ cái bơm
xe, ngoắc tôi lại và hỏi rằng: Thấy có ông gì bảo giá nhà đất sẽ rớt đáy
thêm năm chục phần trăm?
Và người viết bài này bỗng giật mình nhận ra, rằng: Hóa ra, ngay cả
những người bơm xe ngoài đường cũng quan tâm đến giá BĐS. Có khi chỉ để
tối nay, những giấc mơ có thêm chút gia vị.
Tại sao chúng ta lại phải cứu số ít các đại gia BĐS khi mà vô khối trong
số cần lao đêm đêm trằn trọc, thủ thế, và thở dài thườn thượt ngay cả
trong những giấc mơ?
Xin vote cho Alan Phan, dù ông là ai, khi ông khuyên rằng cứ để giá bất
động sản rớt thêm 30-50% nữa, cứ để một nửa số ngân hàng phá sản. Và các
bộ trưởng, những nhà hoạch định chính sách “cứ đừng làm gì cả”. Bởi
biết đâu đó với việc, giả vờ cũng được, kê cao gối mà ngủ, các vị chả
mang lại niềm vui cho ối người, dù chỉ là trong những cơn mơ.
Đào Tuấn
Từ “sự kiện Alan Phan”: Khi cá nhân đối mặt nhóm lợi ích
TS. Alan Phan |
Sự quan tâm và đồng cảm của số đông đối với Alan Phan vào thời điểm này không hẳn chỉ vì tò mò.
Giới thiệu về mình trên website cá nhân trước cả khi xảy ra cuộc tranh
luận với Câu lạc bộ Bất động sản Hà Nội, TS. Alan Phan tự nhận mình là
một người “từng thất bại”. Điều này, một lần nữa được ông xác nhận trong
thư gửi Câu lạc bộ Bất động sản Hà Nội mới đây, rằng ông và các đối tác
đã từng “trắng tay trả lại mọi vốn và lời trong dự án lớn ở Arizona vào
năm 1982”.
Thời điểm đó, ít người tin chỉ 5 năm sau, năm 1987, ông là Việt kiều đầu
tiên đưa công ty Hartcourt của mình niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ,
để rồi có thời điểm công ty này đạt giá trị thị trường 700 triệu USD.
Những trải nghiệm “lên xuống” đó có lẽ là quá đủ để những ý kiến mà vị
doanh nhân này đưa ra xứng đáng được xem như là “ý kiến chuyên gia”, nếu
so sánh với hàng chục vị chuyên gia khác vẫn đang phát biểu về kinh
doanh trên báo chí mỗi ngày, dẫu chưa một phút làm kinh doanh thực sự.
Không ai có thể cảm nhận được một cách sâu sắc những thành bại trong
kinh doanh như chính các doanh nhân đã trần thân chịu đựng và thụ hưởng
những điều đó.
“Công kích cá nhân”
Sự quan tâm và đồng cảm của số đông đối với Alan Phan vào thời điểm này,
theo ghi nhận của VnEconomy, không hẳn chỉ vì tò mò. Khẳng định không
có lợi ích liên quan, phát biểu mà ông đưa ra nhằm thẳng vào một nhóm
lợi ích cụ thể trong nền kinh tế là các doanh nghiệp bất động sản, hiện
vẫn đang tích cực vận động cho các gói cứu trợ của Chính phủ mà, phần
nào đó, mọi việc đang thuận chiều!
Đáng tiếc, từ phát biểu của Alan Phan, những ai kỳ vọng vào một cuộc
tranh luận mở để từ đó, các cơ quan chức năng có thể đưa ra những quyết
sách phù hợp nhất cho thị trường hiện nay, sẽ cảm thấy thất vọng. Câu
lạc bộ Bất động sản Hà Nội, cho dù không đại diện cho cộng đồng doanh
nghiệp bất động sản Việt Nam, đã lên tiếng một cách không theo lối tranh
luận thông thường.
15 câu hỏi mà câu lạc bộ này gửi đi ghi rõ là để “chất vấn”, trong khi
tính chính danh của bảng câu hỏi cũng đáng bị nghi ngờ: danh mục cập
nhật của câu lạc bộ đăng trên website mới chỉ có chưa đầy 200 thành viên
cả thể nhân và pháp nhân, thay vì “1.000 thành viên” như đã giới thiệu.
Từ “sự kiện Alan Phan”: Khi cá nhân đối mặt nhóm lợi ích 1Thực tiễn tại
các quốc gia phát triển cho thấy tranh luận là điều cần thiết để kiến
tạo một xã hội văn minh. Tuy nhiên, điều cần tránh nhất trong tranh luận
chính là sự ngụy biện trong các lập luận.
Người tinh ý cũng sẽ nhận ra rằng, danh mục thành viên của câu lạc bộ
này không có nhiều đại gia đã và đang làm mưa làm gió trên thị trường
mấy năm qua. Không chỉ vậy, chính nội dung các câu hỏi mới đáng quan tâm
nhất: thay vì tạo ra không khí phản biện và tranh luận, nhiều câu hỏi
đã vượt quá khuôn khổ của vấn đề.
Sẽ tốt biết bao nếu câu lạc bộ cử ra một vài chuyên gia, trên tinh thần
thiện chí, cùng tranh luận mở với Alan Phan, dưới sự chứng kiến của
truyền thông, về vấn đề cứu hay không cứu thị trường, thay vì những câu
hỏi đại loại như, “ông đã có nhiều nghiên cứu với thị trường Việt Nam
hay chưa”? Hay “kinh nghiệm thực tế của ông với thị trường bất động sản
Việt Nam là gì”?...
Thái độ khá “căng thẳng” của phía Câu lạc bộ Bất động sản Hà Nội và
những người ủng hộ còn thể hiện ở những bài báo công kích chính… cá nhân
Alan Phan, nêu lại những thất bại trước đây của vị chuyên gia này. Nếu
chứng minh được sự cần thiết, thông qua những con số và lập luận thuyết
phục, về việc cần có các chính sách giải cứu thị trường, vì sao Câu lạc
bộ Bất động sản Hà Nội không làm điều đó qua những bài tham luận, kiến
nghị của mình?
Thực tiễn tại các quốc gia phát triển cho thấy tranh luận là điều cần
thiết để kiến tạo một xã hội văn minh. Tuy nhiên, điều cần tránh nhất
trong tranh luận chính là sự ngụy biện trong các lập luận. Gần đây, một
bài viết về “Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện” đã nêu lên 50 hình
thức khác nhau về ngụy biện, trong đó “hình thức thứ nhất” chính là
“công kích cá nhân” (ad hominem).
“Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, nguy hiểm nhất, và có “công
hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người tranh luận, và tìm cách
trốn tránh luận điểm của cá nhân đó. Hình thức ngụy biện này thường
xuất hiện dưới dạng: ông A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào
cá nhân ông A, và làm cho người ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy
nhiên, có thể không có mối liên hệ nào giữa cá nhân và luận điểm của ông
A”, trích nguyên văn từ bài viết nói trên.
Dễ nhận thấy rằng, trong “50 chước ngụy biện” được liệt kê trong bài
viết này, có khá nhiều chước đã được “hiện thực hóa” trong bảng câu hỏi
15 câu mà ông Alan Phan đã nhận được.
Tranh luận mở
Câu chuyện về Alan Phan có thể coi là một ví dụ tốt cho một vấn đề mà
các chuyên gia đề cập đến từ lâu: sự cần thiết phải có một không gian
tranh luận mở để các cá nhân, tổ chức có thể nêu chính kiến của mình
trước các vấn đề của đời sống.
Tranh luận sẽ càng cần thiết hơn trong bối cảnh vấn đề đó liên quan và
có thể tác động đến số đông, và chính quyền đang phải đắn đo để đưa ra
các quyết định chính sách. Trong trường hợp này là sự đắn đo về việc
“cứu hay không cứu” thị trường bất động sản vẫn đang trên đà suy giảm.
TS. Nguyễn Lương Hải Khôi, một chuyên gia người Việt đang công tác tại
Nhật Bản, từng nói: “Độ "lớn" hay "nhỏ" của một quốc gia không được tính
bằng số dân hay lãnh thổ, mà được tính bằng độ lớn của không gian tự do
mà nền văn hóa của quốc gia đó mở ra cho mỗi cá nhân”. Một người nổi
tiếng khác, GS. Ngô Bảo Châu, nói: “Nếu không có phản biện thì xã hội
coi như chết lâm sàng”.
Từ “sự kiện Alan Phan”: Khi cá nhân đối mặt nhóm lợi ích 2Cuộc tranh cãi
nên dừng lại ở đây, để những người dân chưa có nhà không nên kỳ vọng
vào một phép lạ trong tương lai gần. Nhưng trong sâu thẳm, tôi vẫn mang
nhiều hy vọng. TS. Alan Phan
Điều đáng tiếc nhất cho một quốc gia là khi các chính sách được ban hành
không dựa trên quá trình tham vấn nghiêm túc các bên liên quan. Những
sai lầm trong chính sách kinh tế của Việt Nam trong thời gian gần đây là
những minh chứng, như chính sách hình thành các tập đoàn kinh tế nhà
nước, điều đã được nhiều chuyên gia nhất loạt phản đối ngay thời điểm ý
tưởng này mới được hình thành.
Đối với bất động sản, những cảnh báo về “bong bóng” đã đến từ những năm
2008 - 2009, trong sự “làm ngơ” của các cơ quan chức năng. Khi chính
sách tạo thuận lợi cho đầu cơ ngắn hạn, khó có thể trách các nhà đầu tư
chạy theo ngắn hạn.
Alan Phan cho rằng, “không có kẻ thắng người thua trong tranh luận dựa
trên tri thức. Không ai độc quyền chân lý. Một cuộc tranh luận cởi mở
trên một sân chơi bằng phẳng là đích đến mong đợi của mọi người dân sau
những ồn ào hỗn loạn của PR và tâm lý bầy đàn”. Điều đáng tiếc chính là
việc dù rất tin tưởng vào ý kiến và những lập luận của mình, ông cũng
dường như đang mất dần niềm tin khi “tiên đoán là Chính phủ rồi cũng sẽ
tung nhiều gói cứu trợ bất động sản mặc cho sự can gián của nhiều chuyên
gia và đa số người dân”.
“So với quý vị, tiếng nói của chúng tôi không đủ trọng lượng để cơ quan
quản lý lưu tâm. Do đó, cuộc tranh cãi nên dừng lại ở đây, để những
người dân chưa có nhà không nên kỳ vọng vào một phép lạ trong tương lai
gần. Nhưng trong sâu thẳm, tôi vẫn mang nhiều hy vọng. Có thể một lúc
nào đó, những tinh hoa của đất Việt sẽ quên đi quyền lợi cá nhân của
mình và gia đình… để san sẻ lại cho các người dân kém may mắn hơn”, ông
viết. Tâm sự này của Alan Phan, dường như đang mở ra những tranh luận
mới, không chỉ về bất động sản.
(VnEconomy)
Đừng nghe những điều tiến sỹ Alan Phan nói !
Ông Alan Phan. |
Ban đầu, xem bác Alan Phan “chém gió” tưng bừng trên các mặt báo cũng
thấy vui vui khi có một bác “người Tây gốc Việt” định tháo gỡ khó khăn
cho nền kinh tế bằng những lập luận ngồ ngộ kiểu như “hãy để chúng chết
đi”, “nên để thị trường BĐS rơi tự do để dân có cơ hội mua nhà giá rẻ”…
Cũng chỉ nghĩ đó là bài “nổ” kiểu “sâu - bít”, thế mà cũng có người ủng
hộ.
Đành xin có vài lời với bác Phan.
Không biết có đúng như báo chí loan tin, bác Alan Phan định chơi bài
“dìm hàng” BĐS Việt Nam rồi đưa “Tây” vào thôn tính thị trường hay
không, nhưng cái cách tư vấn của bác là rất ác. Thị trường BĐS Việt Nam,
cũng như kinh tế Việt Nam còn rất non trẻ. Tỷ lệ đóng góp của BĐS vào
GDP mới có 10% (các nước khác khoảng 20 – 30%) và GDP của Việt Nam cũng
mới chỉ có hơn 130 tỷ USD. Vậy mà bác lại đi lấy những bài học từ xứ cờ
hoa, nơi có GDP gấp khoảng 120 lần nước Việt để khuyên dạy. Bác khuyên
để thị trường BĐS Việt Nam tự đề kháng, chẳng khác nào xui đưa một đứa
trẻ đang viêm phổi ra ngoài trời lạnh.
Bác bảo, các DN BĐS Việt Nam phải trả giá cho những gì họ đã làm, cho
cách làm ăn chụp giật, cho những sai lầm của họ. Tôi hoàn toàn đồng ý
với bác, và thực tế, họ đang phải trả giá và còn phải tiếp tục trả giá…
nếu không biết “ăn năn”. Nói như ông Nguyễn Trần Nam, Thứ trưởng Bộ Xây
dựng là “sự đóng băng của thị trường đã dạy cho doanh nghiệp, giới đầu
cơ, người mua nhà và cả cơ quan quản lý một bài học” – một bài học lớn.
Nhưng bác cũng nên đồng ý với tôi rằng, “trả giá” và “giải cứu” là hai
khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Giống như con bác, con tôi, khi các cháu hư, đi đánh nhau, các cháu bị
đau (đó đã là trả giá), về nhà, chúng ta tiếp tục phải trách phạt (đó
tiếp tục là sự trả giá) nhưng không vì thế mà chúng ta không đưa chúng
đi viện khâu vết thương, không cho uống thuốc, không giáo dục (đó là
giải cứu). Rõ ràng, nếu ta nóng giận, bảo “nó làm, nó phải chịu” và
không làm việc “giải cứu” đó, các cháu sẽ bị khuyết tật, thậm chí "bỏ"
chúng ta mà. Khi đó, ai là người phải trả giá, ai phải ân hận? Thị
trường BĐS lúc này cũng vậy, nó có thể đang là một “cậu ấm hư”, nhưng
chúng ta không thể không giải cứu. Chắc chắn, nếu để thị trường “rơi tự
do” như bác muốn thì hậu quả, mất mát cho cả xã hội sẽ là khôn lường,
là vô cùng lớn cả về thời gian và tiền bạc. Trên thế giới, bài học này
rất nhiều và chắc chắn một người trí lực uyên bác như bác đã biết!.
Tôi cũng không hiểu từ nguồn thông tin nào mà bác lại cho rằng, Nhà nước
Việt Nam giải cứu thị trường BĐS là “lợi ích nhóm” và chỉ bằng cách in
tiền thêm và bơm ra cho doanh nghiệp BĐS, để rồi “khi bơm tiền ra sẽ có
ít nhất 50% lượng tiền biến mất vì sự không minh bạch, thiếu kiểm soát
nghiêm túc.”. Rồi bác lại phê phán “Tệ hại nhất là khi tung tiền cứu
nguy cho “bồ nhà”, chinh phủ sẽ gởi một thông điệp bào mòn mọi niềm tin
còn sót lại của các nhà đầu tư trong và ngoài nước”. Xin chia sẻ với
bác, trong gói giải cứu đầu tiên, 30.000 tỷ, Nhà nước đã dự định phân bổ
2/3 số vốn này cho người mua nhà để thúc đẩy giao dịch, giúp người dân
mua được nhà và doanh nghiệp cũng bán được hàng. Chỉ 1/3 còn lại nên
dành cho doanh nghiệp để hoàn thiện sản phẩm và tạo nguồn cung mới. Bên
cạnh đó, Chính phủ cũng thống nhất, trong chính sách hỗ trợ thị trường
BĐS sẽ không nhấn mạnh sự hỗ trợ bằng tiền, mà là hỗ trợ bằng công cụ
chính sách, cơ chế.
Tôi cho rằng, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam cũng đủ thông
minh để đưa ra một giải pháp giải cứu theo hướng “cái gậy và củ cà rốt”.
Sẽ có những phương án hỗ trợ, giải cứu (cả bằng cơ chế và tiền) nhưng
để nhận được sự giải cứu ấy thì doanh nghiệp sẽ phải đáp ứng những điều
kiện khắt khe. Và như vậy, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể vượt
qua cửa ải điều kiện. Đó là cuộc giải cứu kèm theo thanh lọc, buộc doanh
nghiệp vẫn phải tự lực vươn lên. Lúc này, Nhà nước giống như bác sĩ và
các doanh nghiệp BĐS là bệnh nhân. Bác sĩ sẽ khám, kê đơn, bốc thuốc
nhưng cơ thể của bệnh nhân có “chịu thuốc” để khoẻ lên hay không còn
tuỳ. Và đó là cách để người ta đuổi “con cóc xấu xí” đi, thay vì làm như
bác là “nuốt nó vào”.
Tôi phải công nhận bác là người “lợi khẩu” và thông minh. Thông minh cả
khi bác thanh minh về sự trong sáng của mình rằng, “vài dư luận viên còn
cáo buộc Alan là một con kền kền muốn giá nhà xuống để thâu tóm. Họ
quên mất là Alan, với quốc tịch Mỹ, không có quyền mua nhà đất ở đây.
Nhưng để làm vừa lòng các dư luận viên này, Alan Phan xin long trọng hứa
là Alan sẽ không bỏ một xu vào BĐS Việt trong 10 hay 20 năm tới...”.
Tôi cho rằng, bác chẳng cần phải bỏ xu nào vào BĐS Việt Nam mà vẫn thu
về bạc triệu Mỹ kim với tư cách là người môi giới cho các “cầu thủ” nước
ngoài vào “thôn tính” các dự án của doanh nghiệp Việt theo kiểu “nước
đục thả câu”?
Xin phép bác Alan, tôi xin được kết phần trao đổi của mình với bác bằng
cách học cổ nhân và “ứng tác” một lời khuyên cùng độc giả: Hãy nhìn
những gì Alan Phan làm, đừng nghe những gì Alan Phan nói!
Nhật Lâm - Phạm Thái Hà
(VnMedia)
Nhập khẩu vàng tăng 7 lần, ai hưởng lợi?
Quý I/2013, trong số nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu kim ngạch có mặt
hàng vàng nhập khẩu tăng đột biến, tăng hơn gấp 7 lần so với cùng kỳ.
Cụ thể, nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu kim ngạch nhập khẩu tăng cao,
tăng 42,3%, nguyên nhân do trong nhóm có mặt hàng vàng nhập khẩu tăng
đột biến, tăng hơn gấp 7 lần so với cùng kỳ.
Nếu trừ yếu tố nhập khẩu vàng thì nhập khẩu nhóm này giảm 11% so với cùng kỳ.
Đây là số liệu tình hình sản xuất công nghiệp và thương mại của Bộ Công
Thương cung cấp. Con số nhập khẩu vàng tăng đột biến khiến người ta đặt
nhiều dấu hỏi khi giá vàng trong nước luôn cao hơn vàng thế giới. Thêm
nữa, Ngân hàng nhà nước (NHNN) lại là đơn vị can thiệp trực tiếp vào thị
trường vàng, song lại tuyên bố chỉ bình ổn thị trường, không bình ổn
giá.
Ngay sau khi áp lệnh siết vàng miếng, chọn thương hiệu vàng quốc gia, NHNN chính thức ra tay để can thiệp vào thị trường vàng.
Trước đó, khi đăng đàn tại kỳ họp Quốc hội hồi tháng 11/2012, để khẳng
định tính đúng đắn của Nghị định 24, Thống đốc Ngân hàng lập luận giá
vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới là không ổn, dẫn đến tình
trạng đầu cơ, nhập lậu, lũng đoạn thị trường vàng. Từ đó NHNN đặt ra
nhiệm vụ phải giảm mức chênh lệch giá vàng với mức chênh lệch giữa giá
vàng trong nước và giá vàng thế giới không quá 400.000 đồng/lượng. Tại
thời điểm đó, sự chênh lệch giá đang là gần 4 triệu đồng một lượng.
Nhưng đến khi các ĐBQH truy vấn tại sao Nghị định 24 đã được ban hành
nhiều tháng trời mà độ chênh lệch giá vẫn quá cao, phải chăng có điều gì
đó bất ổn đang diễn ra trên thị trường vàng mà NHNN không kiểm soát nổi
thì ngay lập tức, Thống đốc cũng có câu trả lời rằng: vàng không phải
là hàng hóa thiết yếu như chất đốt, thực phẩm… nên Nhà nước đâu cần phải
bình ổn giá?!
Quan điểm của Nhân hàng nhà nước tuyên bố chỉ bình ổn thị trường, không bình ổn giá vàng |
Quan điểm này được thể hiện ngay trong việc can thiệp trực tiếp vào thị
trường vàng của NHNN. Thực tế sau đó giá vàng được cho thả dốc, tuột một
mạch xuống vùng 42 triệu đồng/lượng và được giữ trong một khoảng thời
gian đủ dài, sau đó lại leo ngược lên vùng 44 triệu đồng/lượng và tiếp
tục duy trì cách biệt đối với giá vàng thế giới.
Đã có những nhận định cho rằng, giới ngân hàng đắc lợi trong đợt vàng
nhảy giá vừa qua khi nhanh tay gom vàng hạ giá để chuẩn bị cho đợt tất
toán sắp tới.
Trở lại với lập luận của Thống đốc, trong một hội nghị bàn về sự phát
triển KT-XH tại Đà Nẵng ngày 20/3/2013, Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại
khẳng định: “Quan điểm của Nhà nước hiện nay là không bình ổn giá vàng”
với phân tích từ đầu năm tới nay, giá vàng trong nước và giá vàng thế
giới tuy chênh nhau rất lớn nhưng “có ảnh hưởng đến tỷ giá đâu?”, “có
ảnh hưởng gì đến nhập siêu đâu?”.
Sự bất cập lại tiếp tục thể hiện ngay trong phiên đấu thầu vàng miếng đầu tiên, mà NHNN đã thực hiện.
Sau phiên đấu thầu vàng miếng ngày 28/3 gây tác dụng ngược làm giá
vàng trong nước tăng cao và 24.000 lượng vàng không có người mua.
Qua vụ việc này, dư luận cho rằng NH Nhà nước chỉ nên đứng ở góc độ
quản lý vĩ mô, thay vì “nhảy” vào thị trường vàng như là “người buôn
vàng”.
Theo Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối - NHNN, ông Nguyễn Quang Huy, phiên
đấu thầu ngày 28/3 quy mô 26.000 lượng vàng là tương đối lớn. Mục tiêu
của NH Nhà nước là tăng cung vàng miếng trên thị trường để can thiệp
bình ổn thị trường vàng, không nhằm bình ổn giá vàng và đặc biệt là
không bù lỗ cho bất cứ đối tượng nào trên thị trường.
Chuyên gia kinh tế - TS Vũ Đình Ánh phân tích: Không biết mục tiêu phiên
đấu thầu là gì nếu gắn vai trò NHNN với người kiến tạo thị trường vàng?
Nếu xác lập giá cho thị trường thì mức 43,81 triệu đồng/lượng giá sàn
lại cao hơn thị trường. Nếu mục tiêu tạo sự liên thông với thế giới, thu
hẹp khoảng cách với giá thế giới nhưng giá sàn lại cao hơn thế giới 3
triệu đồng/lượng, chẳng khác nào NHNN công nhận mức chênh lệch này là
hợp lý, vì cơ quan này quyết định giá vàng?...
Cũng “nhờ” phiên đấu thầu này giá vàng trong nước đã tăng cao. Nhiều
chuyên gia kinh tế cho rằng NHNN chỉ nên quản lý ở góc độ vĩ mô. Một
mình NH Nhà nước không thể “vừa đá bóng vừa thổi còi”, vừa độc quyền sản
xuất, độc quyền giá, tham gia điều tiết thị trường như một người “buôn
vàng” nhưng vẫn phải bảo đảm “không bị hụt dự trữ ngoại hối của Nhà
nước”.
Ông Nguyễn Hoàng Hải, Tổng Thư ký Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt
Nam (VAFI), nhận xét: Không có NH trung ương nước nào lại có nhiều
chính sách quản lý vàng như Việt Nam. Dường như NH Nhà nước đang rơi vào
vòng luẩn quẩn của chính mình, đưa ra một cái “mạng nhện” về quản lý
vàng rồi dính vào đó! NH Nhà nước đấu thầu vàng để làm gì?
Vì sao việc nhập khẩu vàng lại tăng đột biến trong quý I/2013 như vậy?
Bích Ngọc
(Đất Việt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét