Bộ CA kết luận nguyên nhân cái chết vụ 'quan tài diễu phố'
Hôm qua (1/4) Viện Khoa học hình sự Bộ Công an đã có Kết luận pháp y số
837/C54 (P6) và Kết luận giám định số 56 ngày 1/4/2013 của Pháp y tỉnh
Vĩnh Phúc về nguyên nhân dẫn đến cái chết của nạn nhân Nguyễn Tuấn Anh
(27 tuổi, trú Phố Cả, phường Hội Hợp, TP Vĩnh Yên) ngày 14/3.
Cơ quan chức năng khám nghiệm tử thi. |
Theo kết luận pháp y của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, nguyên nhân
chết của Nguyễn Tuấn Anh: ngạt nước, trên người có chấn thương vùng lưng
và gối trái; Tổn thương ở vùng lưng và gối trái do vật tày gây nên;
Trong máu của tử thi có etanol nồng độ 312,4mg/100ml, trong phủ tạng
không tìm thấy các chất độc thường gặp.
Theo cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận pháp y này phù hợp
với các tài liệu thu thập được từ trước đến nay về vụ án. Trước đó, sáu
bị can bị bắt trong vụ án khai báo, chúng đã đánh anh Tuấn Anh bị đa
chấn thương, sau đó đẩy xuống mương nước.
Nghĩa là anh Tuấn Anh sau khi bị đánh đa chấn thương, trong người lại có
hơi rượu nên khi bị đẩy xuống mương nước, không có khả năng phản kháng
(dù chưa bị chết), từ đó dẫn đến bị ngạt nước và tử vong.
Cơ quan pháp y sẽ xem xét tổng thể các tổn thương trên cơ thể và trong
phủ tạng, từ đó mới có kết luận chính xác. Như vậy, việc cơ quan CSĐT
Công an tỉnh Vĩnh Phúc khởi tố sáu bị can về tội giết người là chính
xác.
Sáu bị can liên quan đến vụ án mạng khiến nạn nhân Nguyễn Tuấn Anh tử
vong ngày 14/3 hiện đang bị tạm giam để điều tra gồm: Nguyễn Văn Bính
(phường Đồng Tâm, TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc), Nguyễn Văn Tình (SN
1988), Nguyễn Văn Định (SN 1983), cùng ở huyện Vĩnh Bảo - TP Hải Phòng;
Phùng Đắc Tú (SN 1994), Phùng Mạnh Tuấn (SN 1992), cùng ở Hợp Thịnh,
huyện Tam Dương - tỉnh Vĩnh Phúc; và Đặng Quốc Tú (SN 1980, thường trú
tại xã Văn Lung, Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ).
Tuấn Nguyễn
(Tiền phong)
Dự kiến từ ngày 2-4 đến 5-4-2013
sẽ xử vụ Đoàn Văn Vươn. Ông và 3 người khác bị truy tố về tội giết người
theo điều 93 Bộ luật Hình sự.
-----------------
Đại úy Alfred Dreyfus, người Pháp gốc Do Thái, bị buộc tội 'phản quốc' do tình nghi làm 'gián điệp'. Từng bị kết tội và bị đày ra đảo chung thân, cuối cùng Dreyfus cũng được tòa án Pháp tuyên trắng án sau một cuộc chiến không khoan nhượng giữa lương tri với nền pháp quyền đầy tính toán.
Cũng như Dreyfus, người nông dân Đoàn Văn Vươn ở vùng đất Tiên Lãng là một quân nhân, một đồng chí của chính thể đương nhiệm.
So với huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình 16 năm trước, ở vụ việc Tiên Lãng, người ta nhận ra những điều quen thuộc đang xảy ra ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam, từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Tĩnh cho đến Đà Nẵng, Bình Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang và An Giang.
Tiên Lãng không còn đơn thuần là một đơn vị hành chính nhỏ hẹp trên bản đồ mà đã đi vào lịch sử là sự kết tụ của bức xúc, bất mãn, phản ứng, xung đột và cuối cùng là bạo động về đất đai - kết cục tất yếu sau ít nhất 4.000 vụ khiếu kiện tập thể trong hơn 7 năm qua tại nhiều địa phương.
Điều gì phải đến đã đến, một khi lối mòn không được phát quang. Phiên tòa Đoàn Văn Vươn có thể xem là phần dẫn nhập cho tấn bi kịch hiện đại của nông dân Việt Nam.
Vào những ngày sát thời điểm phiên tòa ở Hải Phòng, rất đông nông dân Văn Giang, Dương Nội đã chuẩn bị băng rôn, biểu ngữ và định sẽ kéo đến tòa án để biểu thị sự đồng cảnh và nỗi đồng cảm với người bạn nông dân của mình.
Công an có thấu?
Chưa rút kinh nghiệm?
Điều trớ trêu là qua vụ việc Tiên Lãng và Văn Giang chính quyền địa phương vẫn không rút ra được bài học xương máu nào về lòng dân, về triết lý 'nước nâng thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền'.
Vài ba ngàn nông dân Văn Giang ra mặt phản ứng chính quyền nhất định không phải là một con số đáng coi thường. Nhất là khi những nông dân nung nấu ý chí quyết giành lại công bằng và quyền lợi mưu sinh cho bản thân và gia đình.
Bài học ở Tiên Lãng đối với chính quyền địa phương vẫn là trật tự cần được áp đặt trở lại, chứ không phải là một cái van tâm lý đã đến lúc phải được xả dần để tránh bùng nổ.
Từ Tiên Lãng, Văn Giang, Dương Nội…, chúng ta có thể hình dung hậu quả xã hội và cả hậu quả chính trị nghiêm trọng trong tương lai không xa khi mà những người nông dân không còn quá sợ sệt việc xung đột với lực lượng cưỡng chế hay việc ra tòa.
Lấy dân làm gốc
Các cấp chính quyền nên lấy lời dạy “Lấy dân làm gốc” của Nguyễn Trãi như một kim chỉ nam cho việc cai trị. Cái gốc ấy cũng chính là quyền lợi về dân sinh và dân chủ của người dân.
Phạm Chí Dũng
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
*Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của ông
Phạm Chí Dũng, một cây viết chuyên về các vấn đề chính trị
và kinh tế ở Thành phố Hồ Chí Minh.
(Theo BBC)
Mạng xã hội
Còn thị trường BĐS, khi suy thoái không giống như thất bại của một nhà
kinh doanh BĐS, nếu “chết” sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Do vậy,
Nhà nước không nên để thị trường BĐS rơi tự do, cần có biện pháp can
thiệp nhất định vì BĐS có hệ số lôi cuốn khá lớn, lôi cuốn thị trường
xây dựng, vật liệu,… tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động.
'Thủ đoạn không chính đáng'
Công bố các tang chứng vụ Đoàn Văn Vươn
HĐXX cho đem các vật chứng của vụ án đến phiên tòa, trong đó có súng
bắn đạn hoa cải và nhiều đạn, bình gas các bị cáo định bắn gây nổ.
Theo đúng lịch, sáng ngày 2/4 tại Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hải
Phòng đã mở phiên sơ thẩm xét xử vụ án Đoàn Văn Vươn và người thân với
tội danh “Giết người, chống người thi hành công vụ”.
* Tiếp tục cập nhật
- 11h20: Phiên tòa tạm nghỉ.
Tang vật của vụ án |
- Tới 10h, phiên toà bắt đầu chuyển sang phần xét hỏi các bị cáo trong vụ án.
- 9h 30, phiên tòa tiến hành các thủ tục kiểm tra căn cước. Trước khi diễn ra phiên xét xử, HĐXX cũng cho đem các vật chứng của vụ án đến, trong đó có súng bắn đạn hoa cải và nhiều đạn. Vào cuộc điều tra làm rõ vụ án, Cơ quan điều tra Công an TP Hải Phòng đã thu giữ 1 bình ắc quy; một làn nhựa; 4 vỏ đạn; 2 viên đạn có gắn nến màu đỏ; một đoạn dây điện; ống nhòm; 4 mảnh kim loại; 2 kíp nổ, 2 bình ga…
- Bắt đầu từ 9h15 sáng nay 2/4, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân TP Hải Phòng đã đọc bản cáo trạng truy tố Đoàn Văn Vươn và các đồng phạm về tội “Giết người” và “Chống người thi hành công vụ”.
- 9h 30, phiên tòa tiến hành các thủ tục kiểm tra căn cước. Trước khi diễn ra phiên xét xử, HĐXX cũng cho đem các vật chứng của vụ án đến, trong đó có súng bắn đạn hoa cải và nhiều đạn. Vào cuộc điều tra làm rõ vụ án, Cơ quan điều tra Công an TP Hải Phòng đã thu giữ 1 bình ắc quy; một làn nhựa; 4 vỏ đạn; 2 viên đạn có gắn nến màu đỏ; một đoạn dây điện; ống nhòm; 4 mảnh kim loại; 2 kíp nổ, 2 bình ga…
- Bắt đầu từ 9h15 sáng nay 2/4, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân TP Hải Phòng đã đọc bản cáo trạng truy tố Đoàn Văn Vươn và các đồng phạm về tội “Giết người” và “Chống người thi hành công vụ”.
Bị cáo Phạm Thị Báu (vợ của Đoàn Văn Quý) |
Bị cáo Nguyễn Thị Thương (vợ của Đoàn Văn Vươn) |
Bị cáo Đoàn Văn Vươn |
Theo cáo trạng, thực hiện việc chống đối, Sịnh, Quý, Thoại, Thái, Báu,
Thương và một số người trong gia đình cùng nhau làm năm hàng rào ngăn
cản trên đường vào khu đầm, trải rơm trên đường đi; chuẩn bị súng, bình
ga, vật liệu nổ… nhằm mục đích chống đối lại Đoàn cưỡng chế của UBND
huyện Tiên Lãng để giữ đầm bằng mọi giá.
Đến sáng ngày 5/1/2012, khi tổ công tác số 3 của UBND huyện Tiên Lãng tiến hành rà phá vật liệu cháy, vật liệu nổ trên đường dẫn vào khu đầm do Vươn đang quản lý, khi đến sát hàng rào thứ nhất cách nhà Quý khoảng 40m, Quý đã kích nổ mìn tự tạo làm bình ga tung lên, nhưng do bình ga không phát nổ nên không làm ai bị thương.
Tổ công tác thực hiện trách nhiệm của mình tiếp tục tiến đến hàng rào thứ hai sát với chuồng chăn nuôi cách nhà Quý khoảng 18m, lúc này Quý dùng súng hoa cải bắn phát thứ nhất vào nhóm bên trái chuồng chăn nuôi, thấy có người bị thương, Quý tiếp tục cầm khẩu súng thứ hai bắn vào nhóm bên phải chuồng chăn nuôi làm một số người bị thương.
Ngay lúc đó, Thoại từ trên tầng hai chạy xuống lấy một khẩu súng và mang theo đạn lên tầng hai, còn Quý tiếp tục nạp đạn và bắn phát thứ ba, lúc này Quý cũng nghe thấy tiếng súng nổ từ trên tầng hai. Sau đó Thái và Thoại từ tầng hai cầm súng chạy xuống bảo Quý rời khỏi nhà. Quý chạy ra đổ xăng và rơm đốt nhưng do đêm hôm trước trời mưa, rơm không cháy được thì Quý, Thoại, Thái cầm theo hai khẩu súng xuống thuyền bỏ trốn.
Hậu quả hành vi của Quý, Thái, Thoại sử dụng các công cụ, phương tiện tấn công vào tổ công tác số 3 làm bị thương 7 người.
Đến sáng ngày 5/1/2012, khi tổ công tác số 3 của UBND huyện Tiên Lãng tiến hành rà phá vật liệu cháy, vật liệu nổ trên đường dẫn vào khu đầm do Vươn đang quản lý, khi đến sát hàng rào thứ nhất cách nhà Quý khoảng 40m, Quý đã kích nổ mìn tự tạo làm bình ga tung lên, nhưng do bình ga không phát nổ nên không làm ai bị thương.
Tổ công tác thực hiện trách nhiệm của mình tiếp tục tiến đến hàng rào thứ hai sát với chuồng chăn nuôi cách nhà Quý khoảng 18m, lúc này Quý dùng súng hoa cải bắn phát thứ nhất vào nhóm bên trái chuồng chăn nuôi, thấy có người bị thương, Quý tiếp tục cầm khẩu súng thứ hai bắn vào nhóm bên phải chuồng chăn nuôi làm một số người bị thương.
Ngay lúc đó, Thoại từ trên tầng hai chạy xuống lấy một khẩu súng và mang theo đạn lên tầng hai, còn Quý tiếp tục nạp đạn và bắn phát thứ ba, lúc này Quý cũng nghe thấy tiếng súng nổ từ trên tầng hai. Sau đó Thái và Thoại từ tầng hai cầm súng chạy xuống bảo Quý rời khỏi nhà. Quý chạy ra đổ xăng và rơm đốt nhưng do đêm hôm trước trời mưa, rơm không cháy được thì Quý, Thoại, Thái cầm theo hai khẩu súng xuống thuyền bỏ trốn.
Hậu quả hành vi của Quý, Thái, Thoại sử dụng các công cụ, phương tiện tấn công vào tổ công tác số 3 làm bị thương 7 người.
Bị cáo Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Sịnh đang được xét xử sơ thẩm. |
Phiên tòa sẽ được kéo dài tới mùng 5/4. |
Bản cáo trạng số 10/CT-P1A của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân TP
Hải Phòng do ông Bùi Đăng Dung - Phó Viện trưởng VKSNDTP Hải Phòng ký
ngày 4/1/2013 đã xác định: Năm 1993, Đoàn Văn Vươn, sinh năm 1963,
thường trú tại thôn Thuý Nẻo, xã Bắc Hưng (Tiên Lãng - TP Hải Phòng)
được UBND huyện Tiên Lãng giao 21 ha đất bãi bồi ngoài đê biển quốc gia
thuộc xã Vinh Quang với thời hạn sử dụng 14 năm kể từ ngày 4/10/1993.
Trong quá trình đắp bờ, ông Vươn đã lấn chiếm ra ngoài diện tích được
giao 19,3 ha, UBND huyện Tiên Lãng đã ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính và tiếp tục giao bổ sung phần đất lấn chiếm này cho ông
Vươn để nuôi trồng thuỷ sản, thời hạn sử dụng đến ngày 4/10/2007.
Ngày 7/4/2009, UBND huyện Tiên Lãng ra Quyết định số 461/QĐ-UBND thu
hồi diện tích 19,3 ha đất nói trên đã hết thời hạn sử dụng. Do không
đồng ý với quyết định thu hồi đất, Đoàn Văn Vươn đã khởi kiện đến Tòa
hành chính Tòa án nhân dân TP Hải Phòng.
Vụ án được Tòa án địa phương giải quyết và giữ nguyên Quyết định số 461/QĐ-UBND, ngày 24/11/2011, UBND huyện Tiên Lãng
ra Quyết định số 3307/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với
diện tích 19,3 ha và ban hành kế hoạch tổ chức cưỡng chế. Quyết định
thu hồi đất và kế hoạch cưỡng chế được UBND huyện thông báo cho Đoàn
Văn Vươn, đồng thời chỉ đạo tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương
giải thích, vận động nhưng Đoàn Văn Vươn vẫn không chấp nhận.
Sau khi nhận được thông báo của UBND huyện về việc cưỡng chế thu hồi
đất đầm, ông Vươn đã nhiều lần cùng anh em trong gia đình gồm Đoàn Văn
Quý, Đoàn Văn Sịnh, Đoàn Văn Thoại, Phạm Thái bàn bạc quyết tâm giữ
lại khu đầm bằng mọi cách.
Theo đó, Vươn và Sịnh bàn bạc và thống nhất với mọi người làm hàng rào
ngăn lối đi, làm mìn tự tạo chôn trên đường vào, mua xăng để đốt và
dùng súng hoa cải bắn vào lực lượng cưỡng chế. Việc bàn bạc diễn ra
tại nhà Vươn, nhà Quý và có mặt Nguyễn Thị Thương (vợ Đoàn Văn Vươn) và Phạm Thị Báu (vợ Đoàn Văn Quý).
Sau khi gây án các đối tượng nêu trên đã bỏ trốn, sau đó lần lượt bị Công an TP Hải Phòng bắt giữ.
Khi bắt giữ Vươn, Sịnh, Vệ - CQĐT đã thu giữ thêm 3 điện thoại di
động; 1 vỏ tút đạn bằng kim loại và một số giấy tờ khác. Với hành vi
của các bị can, Viện kiểm sát nhân dân TP Hải Phòng
cho rằng, đã có đủ cơ sở xác định các bị can đã có hành vi đồng phạm
tội giết người theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 93 Bộ luật hình
sự có khung hình phạt tù từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình.
Đối với Nguyễn Thị Thương và Phạm Thị Báu đã tiếp nhận ý chí của Vươn,
Quý, Sịnh về việc chống lại người thi hành công vụ và có hành vi trực
tiếp tham gia làm hàng rào, trải rơm, mua xăng, mua mũ len để tạo
điều kiện cho các bị can khác thực hiện hành vi chống đối những người
thi hành công vụ, do vậy có đủ cơ sở xác định các bị can đã có hành vi
chống người thi hành công vụ theo quy định tại điểm d, khoản 2, Điều
257 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Sau khi kết thúc phần công bố cáo trạng, sáng cùng ngày Hội đồng xét
xử vụ án “ Giết người” và “ Chống người thi hành công vụ” sẽ chuyển
tiếp sang phần xét hỏi các bị cáo và bị hại liên quan đến vụ án.
|
Lê Tú
(Infonet)
Nguyễn Quang A - Vì sao truy tố Đoàn Văn Vươn tội giết người?
TS. Nguyễn Quang A |
Về tội danh “giết người” này báo
chí đã bàn luận sôi nổi ngay từ khi xảy ra vụ cưỡng chế thu hồi đất
ngày 5-1-2012 đến nay (chính xác hơn từ khi khởi tố vụ án ngày
10-1-2012).
Theo Tuổi trẻ ngày 30-12-2012, ông Đinh Văn Quế nguyên chánh tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao cho rằng “khó xử ông Vươn tội giết người” bởi vì anh em ông Vươn chỉ bàn bạc lên kế hoạch chống cưỡng chế thu hồi đất chứ không phải để giết ai đó, như thế nhiều nhất “họ chỉ phạm tội với hình thức lỗi cố ý gián tiếp”, và trong trường hợp đó nhiều nhất họ chỉ bị truy tố về tội “gây thương tích” chứ không phải tội “giết người”. Đấy là ý kiến của một chuyên gia hàng đầu về án hình sự.
Toàn cảnh phiên xử. Ảnh: TTXVN. |
Không những thế, mìn tự chế bằng
bình gas của anh em ông Vươn được đặt quanh nhà không thuộc diện tích bị
cưỡng chế và lực lượng cưỡng chế đã phá rào để vào mà không thông báo,
không xin phép là hành vi vi phạm chỗ ở của công dân. Như thế hành động
của anh em ông Vươn có thể được coi là sự tự vệ chống lại những kẻ xâm
lấn, chứ không phải chống lại những người thi hành công vụ.
Thế nhưng cơ quan Cảnh sát điều tra Hải Phòng đã khởi tố vụ án giết người và chống người thi hành công vụ.
Ngày 10-2-2012 Thủ tướng Chính phủ đã kết luận:
việc thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất của ông Vươn là sai; huyện
Tiên Lãng huy động lực lượng quân đội tham gia cưỡng chế là không đúng; “để xảy ra việc này là rất đáng tiếc”. Thế nhưng Thủ tướng cũng yêu cầu lãnh đạo Hải Phòng phải “khẩn trương đưa vụ án “giết người và chống người thi hành công vụ” ra xét xử công khai, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật”.
Cái phần “khẩn trương” này của kết luận của Thủ tướng được ít người chú
ý đến. Và đấy có lẽ là lý do vì sao tội danh “giết người” vẫn được duy
trì.
Bị cáo Đoàn Văn Vươn trước tòa sáng 2/4. |
Việc chỉ đạo, yêu cầu của nhiều
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, của lãnh đạo các cơ quan hành pháp hoặc
lập pháp đối với việc khởi tố, xét xử các vụ án là một chuyện được coi
là “bình thường” ở Việt Nam. Đấy là một tập quán hết sức “không bình
thường” trong một nhà nước pháp quyền mà chúng ta phấn đấu xây dựng.
Sự không độc lập của hệ thống tư
pháp gây ra nhiều hậu quả tai họa. Nó phá hủy lòng tin vào hệ thống pháp
luật. Nó mở đường cho sự lạm dụng quyền lực và tham nhũng. Nó là một
“lỗi hệ thống” trầm trọng, cản trở sự phát triển của đất nước và vì thế
cần sửa gấp.
Trong thảo luận góp góp ý cho
việc sửa đổi hiến pháp cần phải làm rõ tính độc lập của ngành tư pháp để
tránh những việc “rất đáng tiếc” như vụ thu hồi đất và cưỡng chế thu
hồi đất ngày 5-1-2012 ở Tiên Lãng và rất rất nhiều vụ khác. Những người
kiên trì chống sự độc lập của ngành tư pháp, rốt cuộc là những người gây
bất ổn xã hội và cản trở sự phát triển của đất nước và như thế phải bị
lên án.
Nguyễn Quang A-----------------
* Bài viết cho một tờ báo của nhà nước mấy ngày trước, nhưng không được sử dụng và tác giả được trả lời là “lệnh của trên không cho viết về vụ Đoàn văn Vươn cho đến khi xử án xong”.(ABS)
Đoàn Văn Vươn thừa nhận chỉ đạo anh em mua súng
Trong phần xét hỏi tại tòa sáng nay, bị cáo Đoàn Văn Vươn cho biết bị
cáo đã chỉ đạo anh em mua súng chuẩn bị chống lại lực lượng cưỡng chế.
Phiên tòa xét xử vụ Đoàn Văn Vươn |
Lúc 8 giờ 20 phút, 6 bị cáo là anh em Đoàn Văn Vươn được lực lượng công
an đưa vào hội trường. Trừ 2 bị cáo Báu và Thương được tại ngoại, 4 bị
cáo Vươn, Quý, Sịnh và Vệ đều khỏe mạnh. Bước vào phòng xử án, cả 4 bị
cáo đều chăm chú nhìn xuống phía dưới để được thấy người thân.
Chủ tọa phiên tòa là thẩm phán Phạm Đức Tuyên. Hai kiểm sát viên thực
hiện quyền công tố tại phiên tòa là Bùi Đăng Trung và Nguyễn Thanh Bình.
Có 11 luật sư (LS) bảo vệ cho các bị cáo gồm: LS Nguyễn Việt Hùng, Phùng
Khắc Lợi, Hoàng Mạnh Hùng, Phạm Xuân Ngà, Đinh Xuân Nhật, Trần Đình
Triển, Đinh Thị Hòa, Ngô Minh Long, Nguyền Hồng Bách và Vũ Văn Lợi.
5/7 bị hại là cán bộ, chiến sĩ thuộc công an, Ban chỉ huy quân sự H.Tiên
Lãng đã có mặt tại phiên tòa (2 vắng mặt đã có đơn xác nhận của đơn
vị).
Ngay sau phần công bố cáo trạng của Viện KSND thành phố, Hội đồng xét xử
(HĐXX) tiến hành phần xét hỏi đối với bị cáo Đoàn Văn Vươn.
Ngay phút đầu tiên trong phần xét hỏi, bị cáo Vươn đã khẳng định: “Bị
cáo không đồng ý với tội danh mà Viện KSND thành phố đã truy tố bị cáo”.
Trong suốt thời gian gần một giờ đồng hồ, bị cáo Vươn dõng dạc trả lời
trả lời tất cả các câu hỏi của chủ tọa, của đại diện Viện KSND và luật
sư bào chữa.
Khi chủ tọa phiên tòa Phạm Đức Tuyên hỏi, ngoài việc gửi đơn khiếu nại
tới các cơ quan chức năng thì bị cáo đã bàn bạc với ai, chuẩn bị những
gì để chống lại lực lượng chức năng?
Bị cáo Vươn đáp: Sau khi nhận được quyết định cưỡng chế vào khoảng trung
tuần tháng 12.2011, bị cáo đã bàn bạc với Quý, Sịnh. Địa điểm bàn bạc
khi ở nhà Quý, khi ở nhà bị cáo. Bị cáo là người đề xuất sẽ chuyển vụ án
hành chính (Đoàn Văn Vươn đã kiện ra tòa hành chính) sang hình sự. Sau
đó bị cáo chỉ đạo mua súng, bình gas, kíp mìn để chuẩn bị cho việc chống
lại lực lượng cưỡng chế.
Gần 12 giờ trưa, tòa tạm nghỉ. Buổi chiều tòa tiếp tục với phần xét hỏi các bị cáo khác.
(Thanh niên) Anh em Đoàn Văn Vươn bình tĩnh trong phiên tòa
Đúng 7h ngày 2/4, xe chở bị cáo Đoàn Văn Vươn cùng những bị cáo khác
(liên quan đến vụ cưỡng chế, thu hồi đất tại Tiên Lãng – Hải Phòng vào
tháng 1/2012) đã có mặt tại Tòa án thành phố Hải Phòng bắt đầu phiên xét
xử sơ thẩm.
Từ sáng sớm, đã có rất nhiều quần chúng nhân dân quan tâm đến phiên xét
xử tập trung xung quanh khu vực tòa án để tìm hiểu thông tin sự việc.
Các bị cáo Đoàn Văn Vươn (50 tuổi), Đoàn Văn Sịnh (55 tuổi), Đoàn Văn
Quý (47 tuổi), Đoàn Văn Vệ (39 tuổi), bị truy tố về hành vi “giết
người”.
Bị cáo Nguyễn Thị Thương (vợ ông Vươn, 43 tuổi), Phạm Thị Báu (vợ ông Quý, 31 tuổi) bị truy tố về hành vi “chống người thi hành công vụ”.
Lực lượng an ninh được thắt chặt, nhiều chốt công an được bố trí quanh khu vực tòa án để giải tỏa ách tắc giao thông, phục vụ cho phiên xét xử sơ thẩm diễn ra được tốt đẹp.
Trong phòng xử án, đúng 8h, lực lượng chức năng đưa Đoàn Văn Vươn cùng các bị cáo vào để khai mạc phiên tòa.
Bị cáo Nguyễn Thị Thương (vợ ông Vươn, 43 tuổi), Phạm Thị Báu (vợ ông Quý, 31 tuổi) bị truy tố về hành vi “chống người thi hành công vụ”.
Lực lượng an ninh được thắt chặt, nhiều chốt công an được bố trí quanh khu vực tòa án để giải tỏa ách tắc giao thông, phục vụ cho phiên xét xử sơ thẩm diễn ra được tốt đẹp.
Trong phòng xử án, đúng 8h, lực lượng chức năng đưa Đoàn Văn Vươn cùng các bị cáo vào để khai mạc phiên tòa.
Các bị cáo có mặt tại tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng vào sáng 2/4/2013. |
Chủ tọa phiên tòa là ông Phạm Đức Tuyên, Phó Chánh án tòa án nhân dân
Hải Phòng. Có 7 luật sư tham dự bào chữa cho 6 bị cáo (4 bị cáo tạm
giam và 2 bị cáo được tại ngoại). Đặc biệt, bị cáo Đoàn Văn Vươn xin
được tự bào chữa cho mình.
Bên phía 5 bị hại chỉ có 1 luật sư bào chữa là ông Dương Văn Thành, thuộc Đoàn Luật sự thành phố Hải Phòng.
Theo ghi nhận của PV báo Đất Việt, phiên xét xử được tiến hành nghiêm túc, công khai. Những người có mặt tại phiên tòa giữ trật tự, không khí yên lặng ngay từ khi chưa khai mạc phiên tòa.
Bị cáo Đoàn Văn Vươn tỏ ra khá bình tĩnh trả lời những câu hỏi đầu tiên của thẩm phán.
Bên phía 5 bị hại chỉ có 1 luật sư bào chữa là ông Dương Văn Thành, thuộc Đoàn Luật sự thành phố Hải Phòng.
Theo ghi nhận của PV báo Đất Việt, phiên xét xử được tiến hành nghiêm túc, công khai. Những người có mặt tại phiên tòa giữ trật tự, không khí yên lặng ngay từ khi chưa khai mạc phiên tòa.
Bị cáo Đoàn Văn Vươn tỏ ra khá bình tĩnh trả lời những câu hỏi đầu tiên của thẩm phán.
| ||
Khi Chủ tọa phiên tòa Phạm Đức Tuyên hỏi về tình hình sức khỏe và những
điều liên quan đến phiên xét xử, bị cáo Đoàn Văn Vươn trả lời: “Sức
khỏe tốt, đã nắm rõ các vấn đề”.
Bị cáo Đoàn Văn Quý cũng giống như anh mình (Đoàn Văn Vươn), bình thản trả lời từng câu hỏi bước đầu của phiên xét xử.
Hai bị cáo được tại ngoại là Phạm Thị Báu, Nguyễn Thị Thương tỏ ra khá thoải mái khi có mặt trong phiên xét xử. Bị cáo Nguyễn Thị Báu (vợ Đoàn Văn Vươn) nở nụ cười trước máy quay phim của các cơ quan truyền thông.
Trong phiên xét xử này, Tòa án thành phố Hải Phòng triệu tập 8 nhân chứng nhưng chỉ có 4 nhân chứng có mặt. Tang chứng, vật chứng của sự việc là hai bình ga, súng tự chế…được mang ra trước tòa.
Bị cáo Đoàn Văn Quý cũng giống như anh mình (Đoàn Văn Vươn), bình thản trả lời từng câu hỏi bước đầu của phiên xét xử.
Hai bị cáo được tại ngoại là Phạm Thị Báu, Nguyễn Thị Thương tỏ ra khá thoải mái khi có mặt trong phiên xét xử. Bị cáo Nguyễn Thị Báu (vợ Đoàn Văn Vươn) nở nụ cười trước máy quay phim của các cơ quan truyền thông.
Trong phiên xét xử này, Tòa án thành phố Hải Phòng triệu tập 8 nhân chứng nhưng chỉ có 4 nhân chứng có mặt. Tang chứng, vật chứng của sự việc là hai bình ga, súng tự chế…được mang ra trước tòa.
| ||
Dự kiến, phiên tòa xét xử Đoàn Văn Vươn sẽ diễn ra từ ngày 2 – 5/4.
Theo cáo trạng, do không đồng tình với việc thu hồi đầm trái quy định
pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng, ông Đoàn Văn Vươn cùng người thân
trong gia đình dùng súng (loại bắn đạn hoa cải) chống lại lực lượng
cưỡng chế, làm 7 cán bộ, chiến sĩ công an và quân đội bị thương sáng
5/1/2012.
Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đề nghị xét xử các bị cáo với tội danh giết người và chống người thi hành công vụ.
Các bị hại Lê Văn Mải (thượng tá, nguyên Trưởng Công an huyện Tiên Lãng) cùng các cán bộ công an huyện Vũ Anh Tuấn, Đỗ Xuân Trường, Đào Văn Đức, Nguyễn Văn Phong phải điều trị hết gần 45 triệu đồng. Tuy nhiên, số tiền này đã được Công an huyện Tiên Lãng chi trả nên các bị hại không yêu cầu bồi thường, chỉ yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần.
Các bị hại Lê Văn Mải (thượng tá, nguyên Trưởng Công an huyện Tiên Lãng) cùng các cán bộ công an huyện Vũ Anh Tuấn, Đỗ Xuân Trường, Đào Văn Đức, Nguyễn Văn Phong phải điều trị hết gần 45 triệu đồng. Tuy nhiên, số tiền này đã được Công an huyện Tiên Lãng chi trả nên các bị hại không yêu cầu bồi thường, chỉ yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần.
Công an huyện Tiên Lãng vẫn đề nghị các bị cáo phải bồi thường toàn bộ số tiền đã chi phí điều trị cho các bị hại.
Hai bị hại khác là cán bộ Ban Chỉ huy Quân sự huyện Tiên Lãng, gồm ông
Đào Trọng Dũng và Lê Văn Ghi, bị thương phải điều trị hết gần 12,3
triệu đồng. Tuy nhiên, số tiền này đã được Ban Chỉ huy Quân sự huyện
Tiên Lãng chi trả nên không yêu cầu bồi thường.
Đông Tẩu
(Đất Việt)
(Đất Việt)
Phạm Chí Dũng - Bài học từ Tiên Lãng
Không quá khập khiễng, vụ xét xử hành vi ‘giết người, chống người thi
hành công vụ’ của Đoàn Văn Vươn và người thân có thể khơi gợi lại vụ
án Dreyfus - một vụ án cuốn hút sự chú tâm và lương tri của cả châu Âu
vào cuối thế kỷ 19.
Đại úy Alfred Dreyfus, người Pháp gốc Do Thái, bị buộc tội 'phản quốc' do tình nghi làm 'gián điệp'. Từng bị kết tội và bị đày ra đảo chung thân, cuối cùng Dreyfus cũng được tòa án Pháp tuyên trắng án sau một cuộc chiến không khoan nhượng giữa lương tri với nền pháp quyền đầy tính toán.
Vụ việc Tiên Lãng đã làm lộ rõ mâu thuẫn giữa chính quyền với nhân dân |
So với huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình 16 năm trước, ở vụ việc Tiên Lãng, người ta nhận ra những điều quen thuộc đang xảy ra ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam, từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Tĩnh cho đến Đà Nẵng, Bình Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang và An Giang.
Tiên Lãng không còn đơn thuần là một đơn vị hành chính nhỏ hẹp trên bản đồ mà đã đi vào lịch sử là sự kết tụ của bức xúc, bất mãn, phản ứng, xung đột và cuối cùng là bạo động về đất đai - kết cục tất yếu sau ít nhất 4.000 vụ khiếu kiện tập thể trong hơn 7 năm qua tại nhiều địa phương.
Điều gì phải đến đã đến, một khi lối mòn không được phát quang. Phiên tòa Đoàn Văn Vươn có thể xem là phần dẫn nhập cho tấn bi kịch hiện đại của nông dân Việt Nam.
Vào những ngày sát thời điểm phiên tòa ở Hải Phòng, rất đông nông dân Văn Giang, Dương Nội đã chuẩn bị băng rôn, biểu ngữ và định sẽ kéo đến tòa án để biểu thị sự đồng cảnh và nỗi đồng cảm với người bạn nông dân của mình.
Công an có thấu?
Vụ việc ông Vươn đã là dấy lên sự đồng cảm của những nông dân cùng cảnh ngộ |
Vào năm ngoái, dân gian có câu ‘Tiên Lãng chưa qua, Xuân Quan đã đến’.
Phiên tòa xử Đoàn Văn Vươn lại đang diễn ra cùng thời điểm cách đây một năm khi những người nông dân ở xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên bị chính quyền chèn ép với mức giá bồi thường rẻ mạt để thu hồi đất đai cho dự án Ecopark - vốn được miêu tả là dự án sinh thái tầm cỡ nhất quốc gia.
Người dân cũng có quá nhiều lý do để nghi ngờ cái gọi là ‘kinh phí cưỡng chế”. Ai gánh chịu chi phí đó? Tiền ngân sách tức có tiền thuế của nông dân hay tiền của chủ đầu tư? Cái gọi là ‘dịch vụ hỗ trợ thi công’ từng xảy ra ở Cần Thơ vẫn còn nguyên trong trí nhớ của người dân mất đất.
Nếu trong vụ việc Đoàn Văn Vươn, Công an Hải Phòng đã tự hào về sự ‘hiệp đồng binh chủng hiệu quả chưa từng có’, thì ở Văn Giang, lực lượng cưỡng chế đã lên đến hàng ngàn người nhằm bảo vệ cho một dự án tư nhân với nhiều khuất tất chưa được làm rõ.
Tại hiện trường cưỡng chế, nhiều tiếng nói đầy phẫn nộ bật lên: “Các anh bảo vệ cho ai? Bảo vệ cho những kẻ cướp đất của cha mẹ các anh à?”, khiến cho một số người đang 'thực thi pháp luật' dường như phải quay mặt đi.
Hiện thực mà những người nông dân này đang chứng kiến đã xảy ra không chỉ một lần, không phải chỉ tại một địa phương trên đất nước này. Hậu quả của ngày hôm nay bắt nguồn từ một quá khứ mà người nông dân không nhìn thấy tương lai.
Nhiều đoàn người rồng rắn, hết ngày này đến tháng nọ đội đơn đi thưa kiện ở các cơ quan công quyền như cái cách con kiến kiện củ khoai. Khi mà mọi việc không đi đến đâu, khi mà tình thế trở nên tuyệt vọng thì người dân chỉ còn một hy vọng cuối cùng: làm thế nào phải giữ cho được mảnh đất canh tác cuối cùng của gia đình.
Phiên tòa xử Đoàn Văn Vươn lại đang diễn ra cùng thời điểm cách đây một năm khi những người nông dân ở xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên bị chính quyền chèn ép với mức giá bồi thường rẻ mạt để thu hồi đất đai cho dự án Ecopark - vốn được miêu tả là dự án sinh thái tầm cỡ nhất quốc gia.
Người dân cũng có quá nhiều lý do để nghi ngờ cái gọi là ‘kinh phí cưỡng chế”. Ai gánh chịu chi phí đó? Tiền ngân sách tức có tiền thuế của nông dân hay tiền của chủ đầu tư? Cái gọi là ‘dịch vụ hỗ trợ thi công’ từng xảy ra ở Cần Thơ vẫn còn nguyên trong trí nhớ của người dân mất đất.
Nếu trong vụ việc Đoàn Văn Vươn, Công an Hải Phòng đã tự hào về sự ‘hiệp đồng binh chủng hiệu quả chưa từng có’, thì ở Văn Giang, lực lượng cưỡng chế đã lên đến hàng ngàn người nhằm bảo vệ cho một dự án tư nhân với nhiều khuất tất chưa được làm rõ.
Tại hiện trường cưỡng chế, nhiều tiếng nói đầy phẫn nộ bật lên: “Các anh bảo vệ cho ai? Bảo vệ cho những kẻ cướp đất của cha mẹ các anh à?”, khiến cho một số người đang 'thực thi pháp luật' dường như phải quay mặt đi.
Hiện thực mà những người nông dân này đang chứng kiến đã xảy ra không chỉ một lần, không phải chỉ tại một địa phương trên đất nước này. Hậu quả của ngày hôm nay bắt nguồn từ một quá khứ mà người nông dân không nhìn thấy tương lai.
Nhiều đoàn người rồng rắn, hết ngày này đến tháng nọ đội đơn đi thưa kiện ở các cơ quan công quyền như cái cách con kiến kiện củ khoai. Khi mà mọi việc không đi đến đâu, khi mà tình thế trở nên tuyệt vọng thì người dân chỉ còn một hy vọng cuối cùng: làm thế nào phải giữ cho được mảnh đất canh tác cuối cùng của gia đình.
Ông Nguyễn Văn Khanh, cựu phó chủ tịch huyện Tiên Lãng, là một trong những quan chức bị truy cứu trách nhiệm |
Không biết có bao nhiêu người trong đoàn cưỡng chế hùng hậu đó
thấu hiểu được tình cảnh trên? Đa phần trong số họ xuất thân là con em
của những gia đình nông dân, công nhân. Liệu họ có hiểu được cảnh
ngộ̣ đáng thương của cha mẹ, anh chị họ, của những người đồng chí
của họ?
Chưa rút kinh nghiệm?
Điều trớ trêu là qua vụ việc Tiên Lãng và Văn Giang chính quyền địa phương vẫn không rút ra được bài học xương máu nào về lòng dân, về triết lý 'nước nâng thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền'.
Vài ba ngàn nông dân Văn Giang ra mặt phản ứng chính quyền nhất định không phải là một con số đáng coi thường. Nhất là khi những nông dân nung nấu ý chí quyết giành lại công bằng và quyền lợi mưu sinh cho bản thân và gia đình.
Bài học ở Tiên Lãng đối với chính quyền địa phương vẫn là trật tự cần được áp đặt trở lại, chứ không phải là một cái van tâm lý đã đến lúc phải được xả dần để tránh bùng nổ.
Từ Tiên Lãng, Văn Giang, Dương Nội…, chúng ta có thể hình dung hậu quả xã hội và cả hậu quả chính trị nghiêm trọng trong tương lai không xa khi mà những người nông dân không còn quá sợ sệt việc xung đột với lực lượng cưỡng chế hay việc ra tòa.
Lấy dân làm gốc
Các cấp chính quyền nên lấy lời dạy “Lấy dân làm gốc” của Nguyễn Trãi như một kim chỉ nam cho việc cai trị. Cái gốc ấy cũng chính là quyền lợi về dân sinh và dân chủ của người dân.
Trung Quốc đã trừng trị đích đáng các quan chức trong vụ Ô Khảm |
Quyền lợi thiết thân của người dân gắn liền với đất đai - chiếm đến
70-80% số đơn thư khiếu kiện, từ giá bồi thường, cho đến cưỡng chế
thu hồi đất và nhu cầu tái định cư.
Quyền lợi đất đai cũng là nguồn cơn của các nhóm lợi ích còn lẩn khuất trong bóng tối. Hẳn người ta đã nhận ra nguy cơ của các nhóm lợi ích và hố sâu phân hóa giàu nghèo là lớn như thế nào và dễ bùng nổ đến thế nào trong xã hội Việt Nam đương đại.
“Sự tồn vong của chế độ” - sự lưu tâm đặc biệt của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng - cũng khởi phát từ chính hiện trạng mà nếu không được cải cách kịp thời có thể sẽ làm biến đổi những gì tưởng chừng không thể thay đổi.
Trong sự kiện ở Quỳnh Phụ hồi năm 1997, hàng ngàn đảng viên và cán bộ đã bị kỷ luật với nhiều hình thức khác nhau. Chỉ có như vậy mới yên được dân và làm chậm lại những gì lẽ ra có thể đã xảy ra sớm hơn.
Không có sự chỉnh đốn nào có thể giải quyết êm thấm mọi vấn đề đất đai nếu như không loại trừ các nhóm lợi ích đang tìm cách đầu cơ và có sự kết nối với một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên biến chất.
Cuộc đấu tranh về ruộng đất đã bước vào thời điểm của những hành động mạnh mẽ hơn - những hành động dẫn đến kết cục lao lý, thay cho những kiến nghị dường như chẳng có chút giá trị nào. Sẽ không còn sự thỏa mãn nửa vời nữa vốn được ấp ủ bằng sự phủ dụ đầy mị dân.
Thậm chí là một nghịch lý ngược ngạo: người ta chỉ có thể tìm thấy bình yên trong cơn dầu sôi lửa cháy.
Bài học tận cùng của mọi vấn đề oan sai chính là con người lãnh đạo. Bi kịch sẽ còn tái diễn chừng nào cái gốc của nó chưa bị nhổ.
Phiên tòa xét xử Đoàn Văn Vươn, Người áo vải, sẽ là một trong những phép thử cuối cùng cho sự tồn tại của cái gốc ấy.
Quyền lợi đất đai cũng là nguồn cơn của các nhóm lợi ích còn lẩn khuất trong bóng tối. Hẳn người ta đã nhận ra nguy cơ của các nhóm lợi ích và hố sâu phân hóa giàu nghèo là lớn như thế nào và dễ bùng nổ đến thế nào trong xã hội Việt Nam đương đại.
“Sự tồn vong của chế độ” - sự lưu tâm đặc biệt của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng - cũng khởi phát từ chính hiện trạng mà nếu không được cải cách kịp thời có thể sẽ làm biến đổi những gì tưởng chừng không thể thay đổi.
Trong sự kiện ở Quỳnh Phụ hồi năm 1997, hàng ngàn đảng viên và cán bộ đã bị kỷ luật với nhiều hình thức khác nhau. Chỉ có như vậy mới yên được dân và làm chậm lại những gì lẽ ra có thể đã xảy ra sớm hơn.
Không có sự chỉnh đốn nào có thể giải quyết êm thấm mọi vấn đề đất đai nếu như không loại trừ các nhóm lợi ích đang tìm cách đầu cơ và có sự kết nối với một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên biến chất.
Cuộc đấu tranh về ruộng đất đã bước vào thời điểm của những hành động mạnh mẽ hơn - những hành động dẫn đến kết cục lao lý, thay cho những kiến nghị dường như chẳng có chút giá trị nào. Sẽ không còn sự thỏa mãn nửa vời nữa vốn được ấp ủ bằng sự phủ dụ đầy mị dân.
Thậm chí là một nghịch lý ngược ngạo: người ta chỉ có thể tìm thấy bình yên trong cơn dầu sôi lửa cháy.
Bài học tận cùng của mọi vấn đề oan sai chính là con người lãnh đạo. Bi kịch sẽ còn tái diễn chừng nào cái gốc của nó chưa bị nhổ.
Phiên tòa xét xử Đoàn Văn Vươn, Người áo vải, sẽ là một trong những phép thử cuối cùng cho sự tồn tại của cái gốc ấy.
Phạm Chí Dũng
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
(Theo BBC)
Đoàn Văn Vươn có thể bị kết án 12 năm đến tử hình?
Báo điện tử của Đảng Cộng sản nói "đủ cơ sở" kết luận sáu người trong
gia đình ông Vươn phạm tội giết người vốn có khung phạt từ 12 năm tới tử
hình.
Các bản án trong những vụ nhạy cảm ở Việt Nam được cho là phải được Đảng
Cộng sản cho ý kiến và những gì được công khai trên báo Đảng phần nào
cho thấy hướng đi của phiên xử hiện nay ở Hải Phòng.
Áp phích châm biếm trên Facebook về phiên xử gia đình Đoàn Văn Vươn |
Bài đăng ngày 2/4 trên trang cpv.org.vn mang tựa đề "Xét xử vụ án Đoàn
Văn Vươn và đồng phạm: Khách quan, đúng tội và xem xét tình tiết giảm
nhẹ".
Bài viết nói những người trong gia đình ông Vươn đã "quyết tâm phạm tội
đến cùng" và "cố ý thực hiện hành vi giết người thi hành công vụ."
Báo Đảng viết: "Ngay từ khi bàn bạc, Đoàn Văn Quý đã thể hiện mong muốn
giết người qua lời nói: “bắn chết mẹ chúng nó đi” và được Vươn, Sịnh tán
thành, góp tiền mua thêm súng, chuẩn bị kỹ lưỡng việc sử dụng mìn tự
tạo, súng để bắn vào bất kỳ người nào thi hành lệnh cưỡng chế.
"Ý chí quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng được thể hiện rõ thông qua
hành vi kích mìn nổ nhưng không đạt hiệu quả thì tiếp tục sử dụng súng
bắn, thấy có người trong tổ công tác bị trúng đạn vẫn tiếp tục bắn nhiều
phát nữa.
Trang điện tử của Đảng Cộng sản cho rằng "Hậu quả chết người chưa xảy ra nằm ngoài ý muốn của các bị can.
"Như vậy, có đủ cơ sở xác định các bị can đã có hành vi đồng phạm tội
giết người theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 93 Bộ luật hình sự có
khung hình phạt tù từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình."
Trang Bấm web của Đảng nói bảy người thi hành công vụ đã bị thương
trong đó có người bị tới 16 vết thương và mất hơn 40% sức lao động.
Những thông tin này cũng được báo Bấm Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng, lặp lại.
Mặc dù vậy cpv.org.vn cũng dẫn lời bà Nguyễn Thị Mai, Chánh án Tòa án
nhân dân Hải Phòng nói sẽ "xét xử khách quan, công bằng, đúng tội và xem
xét tình tiết giảm nhẹ theo đúng Thông báo ... kết luận của Thủ tướng
Chính phủ về việc cưỡng chế thu hồi đất ở xã Vinh Quang, huyện Tiên
Lãng, thành phố Hải Phòng.
Trang của Đảng Cộng sản nói đủ cơ sở kết tội "giết người" |
Những gì được đăng trên các cơ quan ngôn luận của Đảng trái ngược với nhiều ý kiến của người dân trên mạng xã hội.
Trước phiên xử người ta đã thấy xuất hiện áp phích châm biếm lan truyền
trên mạng về 'Liên hoan phim Hoa Cải Đỏ' với bộ phim 'Vợ chồng A-Vươn'
mà người soạn ra đặt tựa là 'do Viện kiểm sát nhân dân Hải Phòng
'đạo diễn' và 'Đảng Cộng sản phát hành'.
Hôm 1/4, blog Bấm Quê Choa đăng thơ của Thanh Thảo trong đó có đoạn:
"cứ nói mãi về cánh đồng Nọc Nạn
nhưng đây là Tiên Lãng
cứ nói mãi về oan trái bất công
nhưng đây là Đoàn Văn Vươn"
nhưng đây là Tiên Lãng
cứ nói mãi về oan trái bất công
nhưng đây là Đoàn Văn Vươn"
Tới sáng 2/4, mặc dù chính quyền tuyên bố phiên xử gia đình Đoàn Văn
Vươn là "công khai" nhiều công dân mạng nói họ đã bị ngăn cản khi muốn
tới dự.
Một người dùng Facebook nói: "Đông nghẹt an ninh và cảnh sát giao thông
đang chặn xe của nông dân đi tham dự phiên toà tại trạn thu phí Quán
Toan - HP...Hải Phòng đã chính thức trở thành khu tự trị, ra vào phải có
giấy phép..."
"Đoàn Văn Vươn vô tội! Đoàn Văn Vươn chống giặc nội xâm! Đoàn Văn Vươn anh hùng!"
Tiếng hô có trong một video quay hồi sáng nay ở Hải Phòng
Trên Facebook cũng có nhiều tuyên bố ủng hộ gia đình Đoàn Văn Vươn trong đó có:
"Thương gia đình anh Vươn."
"[P]hiên toà xử anh em ông Đoàn Văn Vươn [là] cơ hội để chính quyền chứng minh có công lý và hợp lòng dân hay không."
Một video quay cảnh hai nhà hoạt động từ Hà Nội bị bắt ở Hải Phòng trong
ngày xét xử cũng có tiếng hô to: "Đoàn Văn Vươn vô tội! Đoàn Văn Vươn
chống giặc nội xâm! Đoàn Văn Vươn anh hùng!"
Các thông tin trên Facebook cũng nói ít nhất có bốn blogger đã bị công
an bắt trong ngày đầu xét xử vụ Đoàn Văn Vươn trong đó một người, bà Bùi
Minh Hằng, đã được trả tự do sau đó.
(BBC)
Nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng: "Cứu" thị trường BĐS, không "cứu" doanh nghiệp BĐS
(TTHN) - Cùng một sự việc nhưng ở hai góc nhìn khác nhau, một bên là
nhà kinh doanh với một bên là người làm công tác quản lý nhà nước. Nói
thế cho nó nhanh.
“Quan điểm
của tôi có hơi khác một chút so với chuyên gia Alan Phan ở chỗ: Không
nên lẫn lộn giữa giải cứu thị trường BĐS và giải cứu các nhà kinh doanh
BĐS” – TS.Phạm Sỹ Liêm, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng khẳng định.
Thị trường BĐS “chết” sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế
Theo TS.Liêm, với doanh nghiệp BĐS, đã là kinh doanh, khi có rủi ro phải
tự chịu trách nhiệm, lỗ hay lãi hoặc phá sản - đó là việc của riêng một
cá thể.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Sỹ Liêm (phải), TS Alan Phan (trái). |
Ông Liêm cũng lưu ý: Gói cứu trợ
30.000 tỷ đồng của Nhà nước là để hỗ trợ thị trường bớt khó khăn, không
phải là để cứu doanh nghiệp BĐS.
Tuy vậy, ông Liêm cho rằng: Dù có chi ra 30.000 tỷ đồng để cứu giúp thị trường BĐS, tác động của Nhà nước cũng chỉ làm giảm mức độ trầm trọng của sự suy thoái, chứ không thay đổi được quy luật, cũng như không giải quyết được hết những “u nhọt” đã tồn tại suốt thời gian qua của thị trường BĐS.
Theo ông Phạm Sỹ Liêm, sự suy thoái của thị trường BĐS thời gian qua là một thách thức lớn đồng thời cũng là cơ hội. Nhờ sự suy thoái đó, BĐS mới bộc lộ những nhược điểm mà lúc thịnh vượng bị che khuất đi như việc nhiều nhà kinh doanh BĐS không những không có vốn mà còn không có cả kiến thức. Việc một số doanh nghiệp BĐS phá sản cũng là một bài học để sau này chúng ta đừng bao giờ tái phạm như vậy nữa - Đó cũng là điều tốt theo ý kiến của chuyên gia Phạm Sỹ Liêm.
Làm thế nào để đưa giá BĐS về mức hợp lý?
TS.Phạm Sỹ Liêm cho rằng: Sở dĩ giá BĐS của Việt Nam cao ngang với các nước phát triển bởi vì giá đất đai đô thị bị thổi phồng. Vì vậy, làm thế nào để đưa giá đất vào mức hợp lý đó là điều mà các cấp chính quyền Nhà nước cần phải xem xét.
Theo đề nghị của ông Liêm: Các đô thị phải tiến hành chế độ dự trữ đất đai, tức là phải giải phóng mặt bằng đất đai ở khu quy hoạch sắp thực hiện.
“Lúc bấy giờ chưa có dự án nào cả, sau khi thu hồi được đất đai, làm hạ tầng rồi, sau đó mới chia lô, lô làm trường học, lô làm trung tâm thương mại, lô làm nhà ở giá rẻ, lô cho chung cư cao cấp… tất cả đều được tổ chức đấu thầu tìm người đưa ra mức giá hợp lý nhất. Khi đấu thầu công khai minh bạch sẽ khó xảy ra tham nhũng. Đây là một kinh nghiệm chống tham nhũng đất đai bắt đầu từ Thụy Điển vào đầu thế kỷ XX và Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm đó” – TS.Liêm đưa ra giải pháp.
Tuy vậy, ông Liêm cho rằng: Dù có chi ra 30.000 tỷ đồng để cứu giúp thị trường BĐS, tác động của Nhà nước cũng chỉ làm giảm mức độ trầm trọng của sự suy thoái, chứ không thay đổi được quy luật, cũng như không giải quyết được hết những “u nhọt” đã tồn tại suốt thời gian qua của thị trường BĐS.
Theo ông Phạm Sỹ Liêm, sự suy thoái của thị trường BĐS thời gian qua là một thách thức lớn đồng thời cũng là cơ hội. Nhờ sự suy thoái đó, BĐS mới bộc lộ những nhược điểm mà lúc thịnh vượng bị che khuất đi như việc nhiều nhà kinh doanh BĐS không những không có vốn mà còn không có cả kiến thức. Việc một số doanh nghiệp BĐS phá sản cũng là một bài học để sau này chúng ta đừng bao giờ tái phạm như vậy nữa - Đó cũng là điều tốt theo ý kiến của chuyên gia Phạm Sỹ Liêm.
Làm thế nào để đưa giá BĐS về mức hợp lý?
TS.Phạm Sỹ Liêm cho rằng: Sở dĩ giá BĐS của Việt Nam cao ngang với các nước phát triển bởi vì giá đất đai đô thị bị thổi phồng. Vì vậy, làm thế nào để đưa giá đất vào mức hợp lý đó là điều mà các cấp chính quyền Nhà nước cần phải xem xét.
Theo đề nghị của ông Liêm: Các đô thị phải tiến hành chế độ dự trữ đất đai, tức là phải giải phóng mặt bằng đất đai ở khu quy hoạch sắp thực hiện.
“Lúc bấy giờ chưa có dự án nào cả, sau khi thu hồi được đất đai, làm hạ tầng rồi, sau đó mới chia lô, lô làm trường học, lô làm trung tâm thương mại, lô làm nhà ở giá rẻ, lô cho chung cư cao cấp… tất cả đều được tổ chức đấu thầu tìm người đưa ra mức giá hợp lý nhất. Khi đấu thầu công khai minh bạch sẽ khó xảy ra tham nhũng. Đây là một kinh nghiệm chống tham nhũng đất đai bắt đầu từ Thụy Điển vào đầu thế kỷ XX và Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm đó” – TS.Liêm đưa ra giải pháp.
(GDVN)
Bàn về luật hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1)
Bài 1: Phân biệt giữa quyền lực của Đảng và quyền lực của nhân dân
Người dân nói chung, trong đó có cộng đồng trí thức, đang tích cực thảo
luận một cách rộng rãi về Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp 1992 và một
trong các vấn đề được coi là “nhạy cảm” khi góp ý, đi cùng với các ý
kiến và quan điểm khác nhau, là vị trí và vai trò của Đảng CSVN được quy
định tại Điều 4 của Hiến pháp 1992 và cũng là Điều 4 (giữ nguyên) của
Dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Quan điểm của tác giả cho rằng trước hết, không thể tránh né vấn đề này,
bởi lẽ bản chất và trọng tâm của Hiến pháp là nói về quyền lực công
(hay quyền lực nhà nước), trong khi Đảng CSVN lại đang nắm giữ quyền lực
đó trên thực tế, vậy thì làm sao có thể bàn đến tổ chức quyền lực nhà
nước mà lại bỏ qua vai trò của Đảng CSVN. Thứ hai, như một cơ thể sống
được vận hành bởi các dòng khí hay năng lượng, quyền lực công trong xã
hội chính là các dòng khí và năng lượng ấy; do đó, nếu không được tổ
chức hợp lý để vận hành tốt, cơ thể sống cũng như đời sống xã hội sẽ bị
rối loạn.
Nói về việc sở hữu hay nắm giữ quyền lực nhà nước, Điều 2 của Dự thảo
Hiến pháp sửa đổi ghi rõ rằng: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân…” ; trong khi đó Điều 4 lại khẳng định: “Đảng CSVN … là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đương nhiên, hai điều khẳng định có tính
nguyên lý căn bản này đã và đang tồn tại trong cả Hiến pháp trước đây,
không chỉ tại văn bản dự thảo sửa đổi này. Vẫn đề ở chỗ sự tồn tại song
song của hai nguyên lý này có là điều mâu thuẫn, bất hợp lý và phi thực
tế hay không, xét cả về lý thuyết và thực tế? Và đó chính là bài toán
đang cần lời giải từ các học giả và nhà chuyên môn, trong đó có giới
luật học.
Trước hết nói về quyền lực. Bàn về Hiến pháp tức là nói đến quyền lực
nhà nước. Xét theo ý nghĩa chung, khác với các loại quyền lực khác,
quyền lực nhà nước có tính đặc thù ở chỗ gắn với bộ máy và phương tiện
cưỡng chế thi hành như cơ quan hành chính, thủ tục pháp lý, lực lượng vũ
trang v.v.. Do đó, một khi Điều 2 của Dự thảo Hiến pháp tuyên bố rằng
mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân thì phải hiểu rằng người
dân không thể thực thi các quyền lực ấy một cách trực tiếp được mà phải
thông qua bộ máy nhà nước do mình thành lập lên. Hay nói một cách khác,
chủ thể nắm giữ và thực thị quyền lực nhà nước chính là bộ máy nhà nước,
mà không phải người dân.
Đương nhiên, trên thực tế có các tình huống mà nhân dân thực thi quyền
lực của mình một cách trực tiếp, đó là cách mạng. Khi đó, như ông cha ta
đã từng nói: “Chở thuyền, đẩy thuyền đi là dân mà lật thuyền đi cũng là
dân”, nhân dân sẽ là người phá bỏ hoặc làm thay đổi căn bản nhà nước
đang tồn tại để thiết lập nên một nhà nước mới nhằm bảo đảm tốt hơn cho
việc đáp ứng các nguyện vọng của mình.
Chính theo bản chất của sự việc như vậy, cho nên Hiến pháp của nhiều
nước có một cách diễn đạt khác, khúc triết hơn, đó là “quyền lực nhà
nước xuất phát từ nhân dân” chứ không phải là “thuộc về” họ. Nói như vậy
tức coi nhân dân là “nguồn của quyền lực” chứ không phải chủ thể nắm
giữ hay thực thi quyền lực. Nếu cùng nhau xác định như thế thì lời kêu
gọi của nhiều người vừa qua rằng chúng ta hãy làm để cho “quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân” là không chính xác và phi thực tế. Nói đúng hơn
phải là làm sao để Nhà nước bảo đảm cho người dân thực thi được các
quyền cụ thể của mình.
Vậy còn quyền lực của Đảng. Câu hỏi là quyền lực của một Đảng được hình
thành như thế nào và Đảng có nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước hay
không?
Ở bất cứ quốc gia nào khi người dân bắt đầu tham gia các hoạt động chính
trị thì Đảng hình thành. Quyền lực của Đảng, hiểu theo khả năng mà nó
tác động vào tiến trình vận hành và phát triển của xã hội, được kết tinh
từ ý chí và hành động của các đảng viên và những người ủng hộ Đảng. Số
lượng Đảng viên và những người ủng hộ Đảng càng đông thì đương nhiên
Đảng càng mạnh. Tuy nhiên, quyền lực đó của Đảng (gọi là quyền lực chính
trị) không nhất thiết đồng nghĩa với quyền lực nhà nước, bởi sự phân
biệt ở đây không phải là khả năng tác động mà là cách thức tác động vào
các tiến trình xã hội. Chẳng hạn, Nhà nước có thể ra lệnh cho lực lượng
cảnh sát thực thi hoạt động cưỡng chế thực thi pháp luật trong khi Đảng
không thể làm như vậy. Với giới hạn tự nhiên và khách quan như vậy, ở
đâu cũng vậy, Đảng muốn hiện thực hóa quyền lực chính trị của mình đều
phải tiến hành thông qua Nhà nước, mà việc đầu tiên là phải giành lấy
quyền được can thiệp vào Nhà nước ấy. Tuy nhiên, sự hình thành, cấu trúc
và chức năng của Nhà nước lại là một phức hợp, bởi Nhà nước không chỉ
là phương tiện dành cho Đảng sử dụng, mà quan trọng hơn nó còn là công
cụ của người dân để tổ chức các hoạt động xã hội. Có nghĩa rằng, có rất
nhiều hoạt động mà Nhà nước buộc phải làm theo chức năng thông thường
của nó mà không có sự tác động chính trị của Đảng, chẳng hạn như bảo đảm
và duy trì trật tự công cộng và cung cấp các dịch vụ công ích thiết yếu
cho xã hội. Do đó, như một nguyên lý và thực tế phổ biến, các Đảng
chính trị khi tham gia vào quyền lực nhà nước thường chỉ tham vọng chi
phối hoặc tác động vào các định hướng phát triển lớn hay chính sách cơ
bản của Nhà nước mà thôi.
Trở lại Điều 4 của Dự thảo Hiến pháp sửa đổi với quy định rằng Đảng CSVN
là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Điều khẳng định rất quan
trọng này, đồng thời cũng gây tranh cãi trong thời gian qua, cần được lý
giải như thế nào?
Có ba câu hỏi cần được trả lời trước hết, đó là: thứ nhất, không có Đảng
thì Nhà nước có hình thành được không? Thứ hai, sau khi hình thành rồi
thì Nhà nước có cần Đảng lãnh đạo hay không? V�thứ ba, Đảng có cần và có
thể lãnh đạo một cách tuyệt đối và toàn diện đối với cả Nhà nước và xã
hội hay không?
Có thể nói trong xã hội hiện đại, nếu không có sự tác động và hỗ trợ của
các đảng phái chính trị, Nhà nước rất khó hình thành bởi xây dựng Nhà
nước là một công việc rất gian nan và phức tạp, đòi hỏi không chỉ nhiều
sức lực mà còn cả tinh hoa trí tuệ của dân tộc. Chỉ có những người có
nhiệt huyết và hiểu biết, có lý tưởng, ý chí và bản lĩnh được tập hợp
trong các tổ chức Đảng mới có thể đứng ra lãnh đạo quần chúng trong xã
hội để hình thành nên Nhà nước; đồng thời trong một thế giới đa dạng và
phức tạp như hiện nay thiếu một lực lượng chính trị tiên tiến làm nòng
cột, Nhà nước đó rất dễ dàng mất đi phương hướng hành động đúng đắn của
mình. Phân tích như vậy để thấy rằng Đảng lãnh đạo Nhà nước là cần thiết
và có cơ sở.
Nhưng Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách nào? Đó là bài toán khó. Bởi lẽ,
sự lãnh đạo của Đảng cũng tạo ra các nguy cơ cho chính bản thân Nhà nước
và xã hội nếu: thứ nhất, Đảng không hấp thụ thường xuyên được các yếu
tố tinh hoa từ xã hội thì sẽ suy thoái và dẫn Nhà nước suy thoái theo;
thứ hai Đảng chỉ nghĩ tới quyền lợi ích kỷ của mình thì sẽ dẫn tới sự
xung đột với bộ phận nhân dân còn lại; v�thứ ba, Đảng can thiệp một cách
tuyệt đối và toàn diện vào đời sống Nhà nước và xã hội thì sẽ tạo ra sự
đơn điệu, sơ cứng trong đời sống, làm thui chột sự sáng tạo của nhân
dân. Chính vì vậy, ở phần lớn các quốc gia, Đảng chỉ lãnh đạo bằng đường
lối và chủ trương chính sách lớn, thông qua sự can thiệp vào các yếu tố
ở thượng tầng kiến trúc như nhân sự lãnh đạo chủ chốt và cấp cao, cũng
như tinh thần và nội dung của các đạo luật cơ bản liên quan đến đời sống
phát triển quốc gia và con người.
Việc này cũng đồng nghĩa với một thực tế khác là Đảng không thể lãnh đạo
xã hội, bởi so với Nhà nước thì xã hội luôn luôn rộng lớn hơn, phong
phú và đa dạng hơn, trong khi Đảng, bao giờ cũng vậy, chỉ là tổ chức
chính trị của một bộ phận hay nhóm người cụ thể. Việc duy trì đời sống
tự nhiên của xã hội bằng việc giữ cho nó không bị phiến diện hay bóp méo
bởi các khuynh hướng chính trị khắt khe, nhiều khi quá hẹp hòi và thực
dụng sẽ không thể tạo cho quốc gia luôn luôn có một sức sống mãnh liệt
để ứng phó và thích nghi với mọi đổi thay của thế giới.Vì vậy một Đảng
chính trị nếu muốn mở rộng các tác động và ảnh hưởng của mình lên đời
sống xã hội cần phải được thực hiện thông qua quảng bá và thuyết phục để
mọi người đi theo mà tuyệt nhiên không thể là sự áp đặt.
Tóm lại, có thể chốt lại ở đây điều gì? Nhân dân là chủ thể quan trọng
nhưng không nắm giữ mà tạo ra nguồn gốc của quyền lực. Quyền lực nhà
nước luôn luôn nằm trong tay chính bản thân Nhà nước. Nhà nước đồng thời
cần được sự lãnh đạo và dẫn dắt của Đảng chính trị. Vấn đề, do đó, ở
chỗ Nhà nước cần được tổ chức làm sao để bảo đảm rằng luôn luôn duy trì
và bảo vệ được tính nguyên vẹn của nguồn gốc quyền lực, đồng thời lại
được định hướng bởi lực lượng tinh hoa nhất của xã hội được kết tinh
trong Đảng chính trị. Nguyên lý này, có thể được mô phỏng như một cái
cây cần có bộ rễ chắc bám vào đất để đứng một cách vững vàng, đồng thời
cần cái ngọn vươn cao để hấp thụ sự khí trời trong lành, nếu không như
vậy, sẽ dẫn đến sự trì trệ, bất ổn thậm chí rối loạn.
Bàn về luật hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (2)
Bài 2: Các bất hợp lý trong tổ chức quyền lực nhà nước hiện nay
Hiến pháp bútĐảng CSVN là lực lượng duy nhất lãnh đạo công cuộc xây dựng
không chỉ một chính thể mới, Nhà nước mới mà còn cả một xã hội mới, xã
hội xã hội chủ nghĩa, bằng cách đốt cháy giai đoạn, tức bỏ qua sự phát
triển tư bản chủ nghĩa.
Với mục tiêu vĩ đại ấy, đương nhiên Đảng CSVN phải bảo đảm sự lãnh đạo
tập trung, tuyệt đối và toàn diện đối với toàn bộ xã hội. Tuy nhiên, trở
lại bản chất tự nhiên của quyền lực công, Đảng không phải và không thể
là Nhà nước, do đó, để bảo đảm được tính hiệu lực thực tế của quyền lực
lãnh đạo của Đảng, hay nói một cách khác là “nhà nước hóa quyền lực
chính trị”, bộ máy nhà nước ta đã được tổ chức cũng theo nguyên tắc tập
trung quyền lực vào một đầu mối duy nhất thuộc thượng tầng kiến trúc,
được gọi là Quốc hội. Tuy nhiên, bởi Quốc hội là cơ quan nhà nước, do
đó, nó vẫn buộc phải tuân theo tính quy luật của một cơ quan quyền lực
công, tức là do dân bầu; và mặc dù có thể đa số Đại biểu Quốc hội là
Đảng viên thì nó vẫn có một sự độc lập tương đối với Đảng. Khoảng cách
này được bù đắp bởi một sáng tạo trong cách thức tổ chức của Đảng CS rất
đặc thù của nhà tư tưởng cộng sản chủ nghĩa tiền bối vĩ đại là Lenin,
theo đó, một hệ thống tổ chức rộng lớn và chặt chẽ các cơ sở của Đảng
được thiết lập trong tất cả các bộ phận và cấu trúc của bộ máy nhà nước
và thiết chế xã hội và được vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều này sẽ bảo đảm cho toàn bộ Nhà nước và xã hội sẽ đi theo đúng đường
ray chính trị do Đảng CS đặt ra.
Lịch sử đã và sẽ tiếp tục vận động theo một logic khoa học như vậy nếu
như không có sự chuyển đổi mang tính cách mạng tại Đại hội Đảng CSVN
khóa 6 năm 1986 với quyết định phá bỏ hệ thống kinh tế kế hoạch cũ,
thiết lập nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, và sau đó là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong suốt hơn 20 năm
qua. Nhà nước và xã hội được nuôi sống bởi nền kinh tế. Hệ thống kinh
tế thay đổi đương nhiên sẽ dần dần kéo theo hoặc ít nhất đặt ra nhu cầu
của sự thay đổi tận gốc dễ đối với toàn bộ các thiết chế của kiến trúc
thượng tầng của xã hội, trong đó đương nhiên bao gồm cả Đảng và Nhà
nước. Đó không có gì khác hơn là bản chất của phép biện chứng trong vận
động của sự vật. Trên thực tế, quá trình thay đổi này diễn ra như thế
nào, liên quan đến các quan hệ mang tính quyền lực?
Xin nhắc lại rằng quyền lực chính trị của Đảng được hình thành từ sự
thống nhất ý chí và hành động của Đảng viên và những người ủng hộ Đảng,
còn quyền lực nhà nước được thực thi và bảo đảm bằng các công cụ có tính
cưỡng chế. Như vậy, với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế nhiều
thành phần, tính đa dạng và sự khác biệt về địa vị kinh tế, đặc tính xã
hội, phương pháp tư duy, hay nói một cách tổng quát là sự khác biệt
trong tôn chỉ và mục tiêu hành động của các thành viên trong xã hội đã
xuất hiện trở lại. Hậu quả của quá trình này là sự hình thành tất yếu
của các nhóm lợi ích, trước hết được gắn kết bởi lợi ích kinh tế, sau đó
sẽ là lợi ích xã hội, văn hóa và chính trị. Quá trình này không chỉ tác
động vào các nhóm xã hội ngoài Đảng mà còn cả Đảng viên một khi Đảng
viên cũng được quyền hoạt động kinh tế tư nhân, hay chí ít thì người
thân trong gia đình họ cũng được làm như vậy. Thực tế này về mặt tự
nhiên dẫn đến tình trạng tính thống nhất trong ý chí và hành động, là
nền móng của quyền lực chính trị của Đảng, bị phá vỡ; hay xuất hiện sớm
hơn và biểu hiện rõ rệt nhất là sự giảm dần của tính thống nhất ấy trong
các bộ phận khác nhau của xã hội bên ngoài Đảng. Xã hội bắt đầu chuyển
động theo các khuynh hướng khác nhau, tuy nhiên lại không có sự dẫn dắt
một cách chính thống và có tổ chức bởi các thiết chế chính trị, do đó
làm phát sinh tình trạng bất ổn. Để cân bằng lại và duy trì trật tự và
ổn định, một khi quyền lực chính trị của Đảng giảm sút thì quyền lực nhà
nước sẽ phải tăng lên v�do đó, các biện pháp hành chính và cưỡng chế
được gia tăng áp dụng. Quyền lực nhà nước, một khi được nhấn mạnh và
thực thi thái quá sẽ trở thành “con dao hai lưỡi”, hay mang lại tác dụng
ngược đối với chính mục tiêu và tôn chỉ của Nhà nước là bảo đảm sự ổn
định và phát triển. Con người với mục đích và năng lực hành động khác
nhau thông qua các nhóm lợi ích sẽ có xu hướng phản kháng lại quyền lực
nhà nước, và cứ thế, nỗ lực và chi phí duy trì trật tự và ổn định của bộ
máy nhà nước lại tăng lên làm tiêu hao hết dần các nguồn lực cho sự
phát triển. Các biểu hiện bề nổi của quá trình vận động trong xã hội
nói trên đã được nhìn thấy rõ ràng. Đó là nạn tham nhũng tràn lan trong
khu vực công, kỷ cương nhà nước và hiệu lực pháp luật suy giảm, đạo đức
xã hội xuống cấp kèm theo bất ổn thậm chí rối lọan xã hội gia tăng.
Tựu trung, từ góc độ khoa học, có thể khái quát hóa lập luận trên như
sau: quyền lực trong xã hội, ví như các dòng năng lượng, bao gồm hai
dòng chủ là quyền lực chính trị (được sự dẫn dắt bởi các đảng phái và tổ
chức chính trị) và quyền lực nhà nước (được nắm bắt và sử dụng bởi bộ
máy nhà nước). Cả hai dòng quyền lực này đều đi ra từ một nguồn duy nhất
là nhân dân. Trong một bối cảnh mới là nền kinh tế thị trường và xã hội
mở, nguồn quyền lực là nhân dân sẽ ngày càng phong phú và đa dạng, do
đó, tổ chức quyền lực hợp lý chính là tái cấu trúc hệ thống cũ để bảo
đảm rằng hai dòng quyền lực chủ có thể hấp thụ một cách tối đa các nguồn
quyền lực từ nhân dân, sau đó được kết hợp với nhau một cách hợp lý và
hài hòa để tạo nên sức mạnh chung, vận động theo cùng một hướng cho sự
phát triển của đất nước và dân tộc, mang lại công bằng, dân chủ và văn
minh cho mọi người dân.
Bởi vậy, nhu cầu của sự đổi mới quan trọng nhất hiện nay là đổi mới cách
thức tổ chức quyền lực nhà nước hay nói một cách cụ thể là đổi mới mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Và nay là thời điểm chín muồi
để xem xét khía cạnh này, bên cạnh hàng loạt các vấn đề khác đang được
bàn đến trong quá trình góp ý sửa đổi Hiến pháp.
Luật sư Nguyễn Tiến Lập
(Tia sáng)
Nhóm Kiến nghị 72 yêu cầu chuyển từ toàn trị sang dân chủ
Nhóm chủ xướng Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp, còn gọi là
Kiến nghị 72, ra thông cáo nói 'chuyển từ toàn trị sang dân chủ là
yêu cầu cấp bách' của đất nước và nhân dân.
Sở dĩ có tên Kiến nghị 72 là vì có 72 người đứng tên trong
danh sách đầu tiên ký vào Kiến nghị, bao gồm nhiều nhân sỹ trí
thức được nhiều người biết đến như Nhà văn Nguyên Ngọc, Giáo
sư Tương Lai, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Tiến sỹ Lê Đăng
Doanh, Tiến sỹ Nguyễn Quang A...
Một số người đại diện cho nhóm này hôm 4/2 đã tới trao kiến nghị cho Quốc hội Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thời gian một tháng qua, Kiến nghị 72 dường như
đã trở thành mục tiêu chỉ trích của phương tiện truyền thông
nhà nước.
Mới nhất, Chương trình Thời sự VTV1 tối thứ Sáu 22/3/2013 chiếu
phỏng vấn với người dẫn đầu nhóm trí thức trao Kiến nghị 72
cho Quốc hội - cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc, trong đó
ông Lộc bác bỏ vai trò đại diện của mình.
Trước đó, một số báo cũng đăng cáo buộc nhiều chữ ký ủng hộ bản Kiến nghị 72 là "ngụy tạo".
Nhóm chủ xướng Kiến nghị 72 trong cuộc gặp trao kiến nghị cho Quốc hội |
Dường như để đáp lại 'chiến dịch' tấn công trên các luồng thông
tin chính thống, Thông cáo ra hôm thứ Ba 2/4 của nhóm chủ xướng
Kiến nghị 72 viết rõ: "cho đến nay nội dung của Kiến nghị 72... bị
một số vị lãnh đạo và một số bài viết trên báo hàm ý phê phán gay gắt,
kết tội là chống đối Đảng cầm quyền và Nhà nước, phá hoại đại đoàn kết
dân tộc, thậm chí đòi xử lý".
"Đổi mới căn bản thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ, là yêu cầu cấp bách của đất nước, của nhân dân."
Thông cáo của nhóm chủ xướng Kiến nghị 72
Tổng bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong một phát biểu hôm
25/2, dường như đã ngầm ám chỉ tới bản kiến nghị này khi gọi
các quan điểm về bỏ sự lãnh đạo của Đảng CSVN, tam quyền phân
lập, phi chính trị hóa quân đội.... là "suy thoái đạo đức".
Bản thông cáo của các trí thức mà BBC có trong tay giải thích
về tinh thần của Kiến nghị 72, trong đó nói: "Chưa bao giờ lòng
tin của dân đối với lãnh đạo ĐCSVN và Nhà nước thấp như ngày nay".
"Cuộc sống chỉ rõ nguyên nhân gốc rễ dẫn tới tình hình ấy chính là chế
độ toàn trị của một đảng trên thực tế đang chi phối toàn bộ quyền lực
nhà nước và hệ thống chính trị, đứng trên Nhà nước và pháp luật, vô hiệu
hóa nhiều quyền tự do, dân chủ đã được quy định trong Hiến pháp…"
Thông cáo thẳng thắn chỉ ra: "Vì vậy, đổi mới căn bản thể chế chính
trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ, là yêu cầu cấp bách của đất nước,
của nhân dân".
Kiến nghị 72 gồm 7 điểm, đặt khuyến nghị bỏ Điều 4 Hiến pháp
về quyền lãnh đạo của Đảng CSVN lên hàng đầu, coi đó là điều
kiện cần thiết để có thay đổi thực sự.
"Dùng bạo lực và những thủ đoạn không chính đáng để duy trì chế độ toàn
trị, cưỡng lại ý chí của nhân dân sẽ gây nguy hại lớn cho đất nước, cho
dân tộc và cho cả Đàng CSVN," bản thông cáo viết.
Các tác giả viết thêm: "Kiến nghị 72 không có mục đích nào khác hơn
là góp phần vào bước khởi đầu đổi mới thể chế chính trị theo tinh thần
đó".
Họ yêu cầu công bố Kiến nghị 72 cũng như các ý kiến khác với Dự thảo
mà giới chức đưa ra, "chấm dứt cách đưa tin, bình luận một chiều, tạo
điều kiện và khuyến khích thảo luận công khai, dân chủ, tranh luận
thẳng thắn, nhằm đạt được sự đồng thuận tối đa theo tinh thần đoàn kết
và hòa giải dân tộc".
(BBC)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét