Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Bài viết đáng chú ý

Nguyễn Thông - Đây mới chính là sự suy thoái, thưa ông Tổng bí thư

Tôi tự hỏi "cớ sao lại ra nông nỗi này?".
Dồn dập trong thời gian gần đây, trên báo chí truyền thông có quá nhiều tin tức về những vụ việc đau lòng xảy ra trong phạm vi gia đình, giữa những người ruột thịt: bị chồng hành hạ, người vợ cột con vào mình nhảy xuống sông tự tử; mang công mắc nợ, chồng ép vợ và con uống thuốc trừ sâu cùng chết; con trai giận dỗi, đổ xăng đốt sống cả bố, vợ, con 6 mạng người; vợ đầu độc chồng, cha mẹ giết con ruột, anh chị em ruột hại nhau; bán người yêu như bán rau… Sự bất an, nguy hiểm, tàn bạo, táng tận lương tâm đã mò vào tận từng gia đình, nơi được coi là tế bào xã hội, là pháo đài cố thủ của đạo đức. Nguy lắm thay. Đáng sợ lắm thay.
Phải nói thẳng ra rằng đây là tình trang cực kỳ nguy hiểm, báo hiệu sự xuống cấp cùng cực của đạo đức, nhân tính. Nếu chỉ nơi này nơi kia, thi thoảng người này người khác mới xảy ra sự tha hóa ấy cũng đã đáng sợ rồi, chứ đâu lại dồn dập, cấp tập thế. Rõ ràng là đạo đức xã hội đang bị khủng hoảng nghiêm trọng, vọng lên hồi chuông cấp báo. Một chút liên tưởng: hằng năm vào mùa khô, ngành lâm nghiệp mỗi ngày đều đưa ra mức cảnh báo mối nguy cháy rừng, từ cấp nguy hiểm, rất nguy hiểm, đến cực kỳ nguy hiểm. Vậy thì rừng đạo đức xã hội, nhân tính đang rơi vào mức cuối cùng.
Cái gì đã đẩy con người vào bi kịch tha hóa ghê gớm ấy? Ngày trước, thời mở cửa, đã có cảnh báo rác rưởi sẽ tràn vào. Ừ thì thế đi, phải chấp nhận, nhưng đây là rác nội, thứ phế thải độc hại sinh ra từ quá trình buông lỏng giáo dục đạo đức, lòng nhân ái, tính người trong cả gia đình, nhà trường, xã hội chúng ta. Thậm chí có người quá lo lắng còn bảo rằng suốt chuỗi lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có sự tuột dốc như vậy. Những tấn bi kịch gia đình kiểu như trên, ngày xưa thường chỉ xuất hiện nhiều khi xã hội nhiễu nhương, loạn lạc, khủng hoảng vô phương cứu chữa. Cụ Hồ từng chỉ ra "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn/Phần nhiều do giáo dục mà nên". Thời thực dân phong kiến xưa kia nền tảng đạo đức, nhân tính cũng không đến nỗi bi đát thế, nay ta tốt đẹp gấp vạn lần mà sao sự tàn ác lại trỗi dậy, thiên lương trong con người bị dồn đến đường cùng?
Chúng ta đang tồn tại cả hệ thống chính trị chặt chẽ từ trên xuống dưới, từ trung ương tới cấp làng xã, đủ cả cơ quan đoàn thể đảng, mặt trận, phụ nữ, thanh niên, chính quyền. Đang duy trì biết bao nhiêu viện, trường, cơ sở nghiên cứu về xã hội học, tâm lý học, khoa học xã hội với hàng vạn giáo sư, tiến sĩ chuyên nghiên cứu về tâm tính con người. Trường học từ mầm non, tiểu học đến đại học đều có chương trình phần rao giảng đạo đức, lối sống, tính thiện. Báo chí truyền thông vẫn thường ca ngợi những tấm gương đạo đức, gương mẫu… Vậy thì tại sao lại không thu được kết quả mong muốn? Có phải chúng ta quá hời hợt, xem nhẹ, làm cho hình thức, cho có chứ đâu phải thực sự quan tâm bồi dưỡng liên tục, thường xuyên, sâu sắc lòng nhân ái, vị tha cho mỗi con người? Dường như chúng ta đã quá chú trọng đến việc phát triển kinh tế mà xem nhẹ việc bồi dưỡng nhân cách, đạo đức. Chính ông bộ trưởng Giáo dục Phạm Vũ Luận khi trả lời chất vấn của Ủy ban thường vụ QH hôm 22.3 cũng phải thừa nhận rằng trong nhà trường "chúng ta quan tâm nhiều đến việc dạy chữ mà không xem trọng việc dạy người".
Vừa qua ngày 20.3 toàn thế giới hưởng ứng kỷ niệm Ngày hạnh phúc thế giới. Liên Hiệp Quốc không phải không có lý khi ra hẳn một nghị định về ngày hạnh phúc, bởi con người ta sinh ra và sống ở trên đời, ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đem lại hạnh phúc thực sự, chúng ta đang có quá nhiều việc phải làm, nhưng trước hết hãy xóa đi những bi kịch, nỗi đau nhân tình mà con người và xã hội đang oằn lưng gánh chịu.
Đây mới chính là sự suy thoái, thưa ngài tổng bí thư.
Hãy cứu lấy con người. Có ai nghe thấy không....
23.3.2013
Nguyễn Thông

Nguyễn Đắc Kiên - Trách nhiệm với chữ ký

Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Ban soạn thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 bỏ những ý kiến khác dự thảo vào sọt rác, với lý lẽ: “Có những ý kiến trái chiều nhưng đa số người dân ủng hộ dự thảo”. Tuy nhiên, sẽ là một nỗi thất vọng to lớn nếu một cách hành xử tương tự xảy ra với những người chủ trương Kiến nghị 72 và Tuyên bố Công dân Tự do.
Đằng sau mỗi chữ ký trong hàng nghìn, vạn chữ ký của Kiến nghị 72 – Tuyên bố Công dân Tự do là một con người với những trăn trở, suy tư, thậm chí cả những rủi ro cho bản thân họ và gia đình. Vì thế, có quá đáng không khi chúng ta đòi hỏi một hành xử có trách nhiệm và thực xứng đáng với những chữ ký của mình?
Trả lời BBC Tiếng Việt, GS Nguyễn Huệ Chi cho biết, có nhiều người đã viết những lá thư bày tỏ nỗi buồn, nỗi đau và xin rút tên khỏi danh sách vì thế: “Anh (ông Lộc) vẫn cố giữ được chữ ký thế là tốt rồi”(*).
Còn trả lời RFA Tiếng Việt, ông Nguyễn Đình Lộc nói rằng: “Cái việc hôm ấy đã làm xong rồi thì rút hay không rút làm gì nữa? Chỉ làm bằng ấy thôi chứ có làm thêm điều gì đâu? Chuyện gì mà ân hận nhỉ? Quốc hội kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến thì chúng tôi góp ý kiến thôi có gì đâu mà ân hận? Tiếp thu hay không thì đó là việc của ban soạn thảo, đem trình Quốc hội thì Quốc hội quyết chứ ” (**).
Trong tư cách một người đã ký tên mình vào Kiến nghị 72, tôi hy vọng rằng, đây chỉ là những ý kiến cá nhân của GS Chi và ông Lộc, không phải là quan điểm chính thức của nhóm chủ trương Kiến nghị 72.
“Chỉ làm bằng ấy thôi chứ có làm thêm điều gì đâu?… Tiếp thu hay không thì đó là việc của ban soạn thảo”. Bằng ấy thôi là bằng thế nào? Tốt rồi là tốt thế nào? – tôi đã tự hỏi mình như vậy.
Tôi tin rằng, người ta sẽ có đủ lý lẽ để biện minh cho cái “bằng ấy thôi”, cho cái “tốt rồi”. Tôi sẽ không bàn đến cái “bằng ấy thôi”, “tốt rồi” ở đây, mà sẽ bàn đến cái khác, cái liệu rằng chúng ta có thể làm tốt hơn, có trách nhiệm hơn không?
Tôi luôn tin tưởng vào ý hướng tốt đẹp và tính chính trực của những người chủ trương Kiến nghị 72, nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ họ đã làm chưa hết nhẽ.
Khi quyết định ký tên mình vào bản Kiến nghị 72, tôi đã băn khoăn: Tại sao nhóm chủ trương không đưa ra một thời hạn tiếp nhận chữ ký? Tại sao nhóm chủ trương không đưa ra một lộ trình, mục tiêu, sau khi hết thời hạn tiếp nhận chữ ký, họ sẽ xử lý ra sao với những chữ ký đó?
Những câu hỏi này đã trở lại mạnh mẽ với tôi khi nghe ý kiến của GS Nguyễn Huệ Chi và ông Nguyễn Đình Lộc đã nói ở trên.
Cá nhân tôi cho rằng, các nhóm chủ trương Kiến nghị 72 và Tuyên bố Công dân Tự do hoàn toàn có thể làm khác. Ngay bây giờ, họ có thể đưa ra một thời hạn lấy chữ ký. Sau thời hạn đó, có thể cử đại diện trực tiếp trao bản Kiến nghị, lời Tuyên bố cùng với danh sách người đã ký tên cho Ban soạn thảo Hiến pháp, đồng thời, yêu cầu một sự giải trình, đối thoại, tranh luận sòng phẳng về những điểm khác biệt. Tôi nhấn mạnh là đối thoại, tranh luận hoặc nếu là giải trình cũng phải trực tiếp và công khai, tuyệt đối không phải là hình thức trả lời bằng văn bản.
10.000 chữ ký theo Dự thảo Hiến pháp 2013 (tài liệu tham khảo đi kèm Kiến nghị 72) đã có thể mở đường cho một người ứng cử vào Quốc hội làm Nghị sỹ, thì với 11.688 chữ ký trong bản Kiến nghị 72 hay 8.300 chữ ký trong bản Tuyên bố Công dân Tự do hiện có, tại sao lại không thể đòi hỏi một đối thoại chính thức với chính quyền?
Trong trả lời phỏng vấn với BBC Tiếng Việt, GS Chi cũng cho rằng, việc truyền thông nhà nước tuyên truyền, phản bác bản Kiến nghị 72 và các ý kiến khác dự thảo là lẽ thường, là dân chủ. Tôi không đồng ý với cách lập luận này.
Có lẽ vì GS Chi đã không theo dõi những diễn biến gần đây trên truyền hình nên mới có ý kiến như vậy. Tôi theo dõi sát sao cách đưa thông tin trên các đài, báo của nhà nước, đặc biệt trên kênh 1 của Đài truyền hình VN (VTV1). Ở đó, tôi chỉ thấy được một chiều thông tin là có một dự thảo nhà nước đưa ra và hàng loạt các ý kiến bảo vệ cho các điểm trong dự thảo. Tôi không thấy những ý kiến trái chiều và những lập luận để bảo vệ cho các ý kiến đó. Tức là, không có một sự tranh luận, đối thoại sòng phẳng trong chủ đề này. Vì thế, tôi cho rằng, sẽ theo nguyên tắc dân chủ nếu có một diễn đàn tranh luận, đối thoại sòng phẳng trên các kênh thông tin quan trọng trên của nhà nước. Nên nhớ, Đài truyền hình VN cũng như các đài, báo khác của nhà nước như: Nhân Dân, QĐND… là của người dân VN, hoạt động từ tiền thuế của nhân dân nên đòi hỏi này là chính đáng.
Tôi xin mượn lại hình ảnh “hầm trú ẩn” của Nhà báo Huy Đức để nói rằng, không chỉ ĐCS VN, kể cả những người có mong muốn thúc đẩy dân chủ tự do trên đất nước chúng ta, có lẽ đã đến lúc chúng ta cần phải ra khỏi hầm trú ẩn cuối cùng của mình.
Nguyễn Đắc Kiên

“Không có con tàu hải giám nào đe doạ được ngư dân mình!”

(nó vừa bắn cháy cả tàu đó!!!!)

Như cây phong ba trên đảo Hoàng Sa (NXB Trẻ, 2013) là cuốn ký sự của đại uý Lê Văn Chương, 40 tuổi, hiện công tác tại văn phòng thường trú Quảng Ngãi của báo Biên phòng, vừa được NXB Trẻ cho ra mắt tuần qua. Trong vài năm gần đây, với tư cách nhà báo, ông Chương đã có mặt trong hầu hết các điểm nóng thiên tai, nhân tai xảy ra dọc vùng biển Quảng Ngãi, Quảng Nam để kịp chuyển đến người đọc cả nước tiếng nói của ngư dân trước tình hình thời tiết lẫn an ninh chủ quyền biển đang phức tạp.
Tác giả Như cây phong ba… đã dành cho phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị những trao đổi thú vị bên lề cuốn sách mới của mình.
Viết về một vùng biển đảo quê hương mà chính người viết lại chưa từng đặt chân đến, buộc phải “thực tế gián tiếp” qua ký ức cộng đồng nhưng vẫn hướng tới tính trung thực và sống động, hẳn là việc rất khó?
Trước khi chuyển về báo Biên phòng (năm 2012) thì phần lớn thời gian quân ngũ của tôi là công tác trong lực lượng trinh sát biên phòng. Lính trinh sát muốn hoàn thành nhiệm vụ thì phải luôn dựa vào bà con ngư dân; cùng ăn cùng ở, cùng làm với họ; phải luôn thấu hiểu bà con, biết họ đang làm gì ngoài biển, chuyến đánh bắt thuận lợi, khó khăn như thế nào; phải lắng nghe tiếng ngư dân qua đài canh Icom để biết ngoài quần đảo Hoàng Sa thì nơi nào nhiều tôm cá, nhưng khi đánh bắt ở vùng đó sẽ gặp những rủi ro gì...
Để hiểu bà con thì đôi khi cũng phải cùng ra biển trên con tàu lênh đênh, hò dô kéo lưới giữa đêm khuya, thấm được sự nhọc nhằn của người dân chài. Và ngược lại, khi đi biển về, bà con ngư dân đều chia sẻ mọi điều mà tai nghe, mắt thấy cho anh em trinh sát biên phòng. Những năm tháng đó đã giúp cho mình nguồn tư liệu viết về ngư dân Hoàng Sa.

Một thời, việc viết về Hoàng Sa không đơn giản, nhất là với những người trong quân ngũ. Anh vượt qua trở lực đó như thế nào trong quá trình thu thập tư liệu cho cuốn sách?
Làm người lính thì phải chấp hành kỷ luật. Thời mới chỉ là cộng tác viên, chưa phải là phóng viên chính thức, khi viết tin, bài thì tôi luôn cân nhắc và đặt vị trí của mình đang là một cộng tác viên, tham gia cộng tác, đóng góp cho báo, không được phép gặp cơ quan này cơ quan khác để phỏng vấn, lấy ý kiến. Việc làm công khai, rõ ràng, cấp trên ghi nhận và điều động sang nhận công tác mới tại báo Biên phòng.
Sống cùng với ngư dân, mình là người con ở chính làng chài đó. Con cái mà nghe anh em, bà con bị Trung Quốc xua đuổi, vô cớ phạt tiền thì rất đau xót.
Ông Chương trong một chuyến đi thực tế. Ảnh: do nhân vật cung cấp
Còn việc thu thập tư liệu và viết về Hoàng Sa với tôi không gặp trở ngại gì cả. Mình thu thập để lưu giữ như một cuốn tư liệu bình thường, như câu chuyện đời của người lính với ngư dân Hoàng Sa. Ngày 21.6.2012, Quốc hội đã thông qua luật Biển Việt Nam, hiệu lực từ 1.1.2013. Ngay tại điều 1 của luật Biển đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chủ trương Nhà nước và ý chí của toàn dân giờ được luật hoá. Mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc làm của tôi cũng là một cách góp phần đưa luật Biển đi vào thực thi.
Câu hỏi tế nhị: có bao giờ ông rơi vào thế buộc chọn lựa giữa một bên là tư cách một nhà báo độc lập tuân thủ sự trung thực khi phản ánh đời sống người dân, và một bên là chiếc áo đại uý đang khoác trên mình? Nếu phải chọn lựa...?
(Cười) Nhà báo khoác áo lính phải bản lĩnh, khi sắp nói mà đưa tay lên vai nhủ thầm “coi chừng rớt sao, bẻ gạch” thì không được. Tuy nhiên, nhà báo mà thấy đâu cũng xốc tới phang tơi bời thì cũng giống như anh thợ đụng.
Trong vai trò một đại uý quân đội, xin cho biết suy nghĩ, cảm xúc của ông trong những lần đi thực tế, lắng nghe ngư dân kể về chuyện bị tàu Trung Quốc xua đuổi, bắt tàu đòi tiền khi đánh bắt hải sản ngay trên chính biển đảo quê hương mình?
Sống cùng với ngư dân, mình là người con ở chính làng chài đó. Con cái mà nghe anh em, bà con bị Trung Quốc xua đuổi, vô cớ phạt tiền thì rất đau xót. Cuốn sách Như cây phong ba trên đảo Hoàng Sa chính là tiếng nói của ngư dân. Nhiều ngư dân nhắn nhủ rằng, dù khó khăn nhưng họ vẫn bám biển Hoàng Sa, bởi đó chính là quê hương, là mảnh đất máu thịt cha ông để lại.
Nghe nói, ngư dân ở Quảng Ngãi coi giới làm báo như người nhà. Rõ ràng, việc truyền thông về đời sống ngư dân, về Hoàng Sa đang cần được quan tâm. Và phải chăng, hơn ai hết, ngư dân đang rất cần các kênh ngôn luận để những khó khăn của họ được chia sẻ?
Ngư dân ở Quảng Ngãi có việc gì đều tìm cách liên lạc với anh em phóng viên báo chí. Thậm chí có những việc ngoài biển, bà con điện Icom vào đất liền nói với người thân nhờ tìm nhà báo để “báo cáo”. Bởi vì thời gian qua, báo chí đã giúp cho ngư dân kể lại câu chuyện của họ, chuyển tải tiếng nói của bà con đến với người dân cả nước. Những tâm tư, nguyện vọng của ngư dân đều được phản ảnh kịp thời đến các cơ quan chức năng để tháo gỡ, lên tiếng bảo vệ. Bên cạnh đó, báo chí còn giúp đỡ ngư dân về mặt vật chất, thông qua rất nhiều chương trình như Cùng ngư dân bám biển của báo Sài Gòn Tiếp Thị phối hợp với ngân hàng Đông Á giúp ngư dân vượt qua khó khăn khi bị thiên tai, bắt bớ trên biển; chương trình Tấm lưới nghĩa tình của báo Lao động, tiếp sức ngư dân bám biển của VTV, HTV, VOV...
Nhưng dường như ngư dân Việt Nam đang cần đến những hậu thuẫn, hỗ trợ cụ thể, song hành mạnh mẽ hơn nữa?
Tháng 3.2012, hai chiếc tàu Trần Hiền và Lê Vinh ở huyện đảo Lý Sơn bị Trung Quốc bắt giữ ở quần đảo Hoàng Sa. Vào thời điểm đó, ngày nào cũng có đoàn ở các tỉnh ra đảo Lý Sơn thăm hỏi và động viên người thân của các ngư dân. Tôi nhớ rất rõ, nhiều anh chị em cán bộ công nhân viên chức các công ty, xí nghiệp ra đảo đã chia sẻ lòng mình “chúng tôi trích mỗi người một ngày lương ủng hộ bà con ngư dân tỉnh Quảng Ngãi”. Điều đó cho thấy, một chiếc tàu bị bắt, cả nước lại bùng lên tình cảm hướng về mảnh đất chủ quyền Hoàng Sa. Sức mạnh đó như một bó đũa. Tình cảm của người dân cả nước đã giúp các ngư dân yên tâm bám biển Hoàng Sa. Không có con tàu hải giám, kiểm ngư nào có thể đe doạ được bà con ngư dân mình. Khi một chiếc đũa đang bị lôi ra thì lập tức có cả bó đũa liên kết. Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc chính là “vũ khí” để bảo vệ ngư dân Hoàng Sa.
Điều gì đặc biệt ở tâm tính ngư dân Việt khiến anh muốn gắn bó và học hỏi nhất?
Người ta nói ngư dân thường ăn sóng nói gió. Đó là ông ngư dân đã đặt chân lên bờ. Còn từ lúc ngồi trên con tàu, nổ máy ra biển thì lập tức giọng nói của ngư dân khác hẳn. “Đồng đội ơi, mình hỏi tình hình ngoài đó thế nào; đồng đội cho mình xin vài đoạn dây cước...”, ngoài biển thì ngư dân ăn nói ngọt xớt vậy đó.
Tình cảm của người dân cả nước đã giúp các ngư dân yên tâm bám biển Hoàng Sa. Không có con tàu hải giám, kiểm ngư nào có thể đe doạ được bà con ngư dân mình. Khi một chiếc đũa đang bị lôi ra thì lập tức có cả bó đũa liên kết.
Bước chân lên cạn thì xưng hô là tôi, ông. Nhưng khi ra biển thì giống như ra mặt trận, các ngư dân xưng hô bằng đồng đội để sẵn sàng trợ giúp lẫn nhau. Nhiều tàu dứt lưới, chạy trọn cả ngày đêm, vượt qua sóng cao lút đầu đi cứu bạn là chuyện bình thường. Chương trình Người đương thời trên tivi nếu chọn về ngư dân thì cả năm cũng không xuể. Tuy nhiên, nhiều ngư dân không dám ngồi trên ghế nóng để nói chuyện. Ngư dân thuộc típ người làm giỏi, nói kém, ngại đám đông. Khi làm thì rất khá, nhưng kể chuyện và để truyền hình trực tiếp thì “mẻ đĩa, rớt sô” là bình thường.
Sẽ ra sao nếu một ngày vùng ngư trường Hoàng Sa vắng bóng những tấm lòng hào hiệp, những người hùng ngư dân can trường mà ông đề cập trong cuốn sách?
“Ở ngoài đó tàu bà con mình nhiều như thành phố”, đó là câu nói của một ngư dân trong đầu mùa biển vừa rồi. Tôi rất vui khi nghe điều đó. Bởi ngôi nhà, mảnh đất chúng ta ở, nếu lâu ngày không đến đó thì lập tức có người tuyên bố là nhà vô chủ rồi cứ ngang nhiên chiếm lấy. Quần đảo Hoàng Sa là ngư trường đánh bắt truyền thống của hơn 20.000 ngư dân tỉnh Quảng Ngãi và hàng trăm ngàn ngư dân cả nước. Nơi đây, các thế hệ cha ông đã hy sinh khi phụng mệnh triều đình ra cắm bia khẳng định chủ quyền. Hoàng Sa không thể vắng bóng những con tàu và ngư dân Việt Nam, không thể vắng bóng chủ nhân của nó.
Vậy, hình dung của ông về biểu tượng “cây phong ba trên đảo Hoàng Sa” thế nào?
Có nhiều ngư dân bị dính bão ở Hoàng Sa, tàu bè tan nát, người trôi vào đảo hoang. Khi lên đảo bà con ngư dân chứng kiến cả hòn đảo nằm rạp xuống, những cây phong ba bị đánh bật gốc, chỉ một mẩu rễ nhỏ cắm xuống cát. Trong chuyến biển sau, ngư dân rất ngạc nhiên khi thấy cây phong ba lại sừng sững, xanh tốt. Cây phong ba có sức sống mãnh liệt trong bão giông. Và ngư dân cũng giống như cây phong ba. Họ luôn đi về phía quần đảo Hoàng Sa, dù nhiều lần bị thiên tai, bị bắt bớ, xua đuổi. Có thể khẳng định, ngư dân Hoàng Sa có sức sống mãnh liệt.
Phong ba trên đảo Hoàng Sa cắm rễ dưới nền cát mặn. Còn cây phong ba ngư dân cắm rễ trên nền đất tình yêu Tổ quốc mình.
thực hiện: Nguyễn Nguyên Thảo

Cuốn sách "Như cây phong ba trên đảo Hoàng Sa" của đại uý Lê Văn Chương
Cuốn sách dày 295 trang, chia làm bảy phần: Nắm cát Hoàng Sa, Phong ba trên đảo Hoàng Sa, Mưu sinh ở Hoàng Sa, Người hùng trên biển, Tết giữa Hoàng Sa, Đại đoàn kết hướng ra biển lớn và Tiến ra biển lớn.
Nhiều bài viết trong phần đầu của cuốn sách là những ghi chép kết hợp khảo cứu cho thấy Hoàng Sa sống động như một phần máu thịt đất nước qua các thư tịch cổ, các phong tục truyền thống và những lễ nghi tưởng nhớ tiền nhân mà ngư dân Lý Sơn, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) ngày nay vẫn lưu giữ, tái hiện (như lễ khao lề thế lính, tục mở biển đầu năm, phục dựng chiếc thuyền, thờ bài vị của những đội hùng binh Hoàng Sa Bắc Hải năm xưa, tết thuyền, đầu năm cúng cụ Hoàng Sa...) Phần này cũng cho thấy Hoàng Sa sống động nhất là qua ký ức, tâm thức cộng đồng bám biển, hướng biển không chỉ như một sự ký thác mưu sinh mà còn là một cam kết thiêng liêng, là chữ hiếu với tiên tổ.
Câu chuyện ngư dân mưu sinh khổ cực, vật lộn với thiên tai, và đặc biệt là phải đối diện với những đội tàu hải giám hiện đại, tàu cá có vũ trang của Trung Quốc; những chuyện kể cảm động về ngư dân Việt Nam hy sinh sau các cơn bão, những cuộc thất lạc trôi nổi trên biển, bị Trung Quốc xua đuổi, bắt giữ, đòi chuộc tiền... được tác giả kể lại một cách sống động.
Phần lớn các bài viết trong cuốn sách đã mô tả nhiều chân dung hào hiệp, người hùng trên biển, từ ngư dân, dân quân biển đến bộ đội biên phòng. Chuyện thuyền trưởng Nguyễn Đức vượt 360 hải lý cứu bạn ngoài Hoàng Sa, 42 ngư dân xả thân cứu tàu bị nạn, thuyền trưởng Bùi Quang Mông cứu mười thuỷ thủ tàu Malaysia gặp nạn, những người đàn bà xứ biển ở đất liền nhưng luôn “giữ sóng” với chồng con lênh đênh trên biển, chuyện anh Nguyễn Tấn Hiếu chế ra một loại đèn địa phủ giúp ngư dân lặn biển hay thuyền trưởng Mai Phụng Lưu, kình ngư trẻ Trương Quang Thiên nối nghiệp cha... tất cả được thể hiện cảm động, ấm áp tình người qua những bài ký giàu chất liệu thực tế, đầy cảm xúc.
Tiếp cận, lắng nghe và chuyển tải tiếng nói của ngư dân đến với người đọc, bản thân điều đó đã cho thấy góc tiếp cận, thái độ phía sau trang viết của một nhà báo quân đội giữa lúc tình hình Biển Đông nói chung, Hoàng Sa – Trường Sa nói riêng đang đứng trước nhiều bất ổn ngấm ngầm gia tăng. Như cây phong ba trên đảo Hoàng Sa của Lê Văn Chương do NXB Trẻ xuất bản và ra mắt ngày 19.3.2013.
(SGTT)

Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh: Quân đội Việt-Trung tuyệt đối không dùng vũ lực

(sao không hỏi nó vụ bắn tàu ngư dân mình vừa rồi có phải là không dùng vũ lực không??????)

Quân đội Việt-Trung khẳng định trong bất kỳ tình huống nào cũng không sử dụng lực lượng quân sự để trấn áp, ngăn cản hoặc đe dọa các hoạt động hòa bình trên biển như nghiên cứu khoa học, lưu thông hàng hải, khai thác tài nguyên…, tuyệt đối không sử dụng vũ lực để đối phó với nhau khi có vấn đề phát sinh - Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh.
Trong cuộc trao đổi với báo Quân đội Nhân dân cuối tuần qua, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đề cập những nội dung liên quan tranh chấp Biển Đông tại đối thoại chiến lược quốc phòng lần thứ ba Việt - Trung diễn ra trước đó. Cuộc đối thoại do Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đồng chủ trì với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Ông cho biết: Chủ đề nội dung thứ hai của cuộc đối thoại là cách ứng xử của hai quân đội trong vấn đề Biển Đông. Đây là lần đầu tiên chủ đề này được chính thức đưa vào chương trình Đối thoại và hai bên đã trao đổi kỹ lưỡng, thẳng thắn, không né tránh. Về phần mình, Việt Nam khẳng định rõ quan điểm chủ quyền trước sau như một về Hoàng Sa, Trường Sa, về thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
"Khi nêu vấn đề Biển Đông quan điểm của hai bên khác nhau, song chúng tôi nhất trí rằng tuy vấn đề do lịch sử để lại nhưng lịch sử đó phải phù hợp với luật pháp quốc tế đương đại mà chúng ta cần phải nghiêm túc tuân thủ" - Thượng tướng cho hay.
Không sử dụng quân sự để trấn áp
Ông cho biết hai bên cũng đã trao đổi cách ứng xử của quân đội hai nước khi Việt Nam và Trung Quốc còn tồn tại những khác biệt, bất đồng về chủ quyền. Liên quan tới vấn đề này, một sự kiện quan trọng đối với hai nước là cuối năm 2011, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng lãnh đạo Trung Quốc đã ký Thỏa thuận về những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển.
Phía Việt Nam đối thoại đã khẳng định lại, trước hết, vấn đề chủ quyền của mỗi nước là rất thiêng liêng và chủ quyền ấy phải dựa trên luật pháp quốc tế, được thế giới thừa nhận, không ai có thể đưa ra đòi hỏi vô lý, không tôn trọng luật pháp quốc tế về chủ quyền. Khi còn tranh chấp về chủ quyền, mọi vấn đề liên quan đến Biển Đông phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cụ thể là UNCLOS 1982, và các điều ước khu vực như DOC.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh:  Chủ quyền, lãnh thổ là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và không thể đánh đổi. Ảnh: Minh Thăng

Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn ASEAN cùng Trung Quốc tiến tới COC. Bên cạnh đó, các tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc, tranh chấp nào song phương thì giải quyết song phương, tranh chấp đa phương thì giải quyết đa phương, nhưng cần phải công khai minh bạch và tôn trọng quyền lợi chính đáng của tất cả các quốc gia có lợi ích ở Biển Đông.
"Đối với quân đội, hai bên khẳng định trong bất kỳ tình huống nào cũng không sử dụng lực lượng quân sự để trấn áp, ngăn cản hoặc đe dọa các hoạt động hòa bình trên biển như nghiên cứu khoa học, lưu thông hàng hải, khai thác tài nguyên… Quân đội hai nước tuyệt đối không sử dụng vũ lực để đối phó với nhau khi có vấn đề phát sinh".
Đặc biệt, phía Việt Nam cũng đề xuất, trên cơ sở nguyên tắc hai Đảng, hai Nhà nước đã ký, quân đội Việt Nam và quân đội Trung Quốc xây dựng cam kết trong bất kỳ tình huống nào cũng không được sử dụng lực lượng quân sự để xử lý vấn đề dân sự, cũng như tuyệt đối không sử dụng vũ lực đối đầu. Thượng tướng Mã Hiểu Thiên đã ghi nhận tích cực đề xuất của Việt Nam và hai bên đang nghiên cứu triển khai.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cũng cho hay: những điểm còn khác biệt đã được nêu ra thẳng thắn, ý kiến của mỗi bên được tôn trọng. Hai bên thống nhất giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, trên cơ sở quan hệ hữu nghị giữa hai nước láng giềng XHCN được thể hiện đầy đủ trong Thỏa thuận về những Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển.
Tại cuộc đối thoại, những sự việc phức tạp trên Biển Đông do quốc phòng không trực tiếp tham gia và xử lý nên không nêu cụ thể. Tuy nhiên, với trách nhiệm của lực lượng quốc phòng, những vụ việc đó cũng được điểm qua.
"Hai bên khẳng định, lực lượng quốc phòng không tham gia giải quyết xung đột. Bên cạnh đó, quân đội phải đóng góp ý kiến tham mưu để hai Đảng, hai Nhà nước giải quyết các vấn đề bằng biện pháp hòa bình. Quan hệ quốc phòng cần phải được tăng cường nhằm xây dựng lòng tin giữa hai Đảng, hai Nhà nước để từng bước giải quyết những bất đồng. Vấn đề Biển Đông là đại sự trong quan hệ hai nước. Không thể nói quan hệ Việt - Trung là tốt đẹp nếu Biển Đông vẫn còn tồn tại những bất đồng có nguy cơ trở thành xung đột". (LB nói thế này Ông Vịnh to quyền quá nhỉ, nếu nó dùng dân sự cứ tiếp tục chiếm biển chiếm đảo của mình thì Quân đội cũng không tham gia nhỉ? Ô hay, quân đội là để bảo vệ chủ quyền đất nước hay để làm gì????)
Không đánh đổi chủ quyền, lãnh thổ
Thượng tướng có thể cho biết, tại sao tình hình Biển Đông lại diễn biến phức tạp trong thời gian qua?
Những năm qua, không chỉ Việt Nam, Trung Quốc hay các nước trong khu vực mà hầu như cả thế giới đều quan tâm tới vấn đề Biển Đông. Theo tôi, phải nhìn vấn đề này một cách toàn cục.
Trước hết, vị trí chiến lược và sự can dự của các nước lớn khiến giá trị lợi ích tại các khu vực trên Biển Đông trở nên rất lớn về cả khía cạnh kinh tế, địa chính trị lẫn quốc phòng -an ninh... Sự can dự của các nước lớn đem tới cả những lợi ích lẫn thách thức như đã nói ở trên. Bên cạnh đó, một số nước đưa ra những tuyên bố mang tính chất đơn phương, không phù hợp với luật pháp quốc tế.
Chỉ riêng những tuyên bố đó đã gây ra mất ổn định, gây ra lo ngại chung trên Biển Đông. Không chỉ vậy, có nước còn có những hành động không tôn trọng luật pháp quốc tế, không tôn trọng DOC với một nội dung quan trọng là giữ nguyên hiện trạng cho đến khi tìm được giải pháp để giải quyết tranh chấp.
Một phần nguyên nhân khác, thực ra không nằm trên biển mà ở trên đất liền. Những nước không ở gần Biển Đông, thậm chí ở tận châu Âu, châu Mỹ, cũng bàn về vấn đề Biển Đông khiến dư luận quan tâm hơn. Bản chất của sự việc này là do Biển Đông không còn là vấn đề của riêng một vài nước tranh chấp chủ quyền mà là vấn đề của tất cả các quốc gia trên thế giới có lợi ích ở khu vực.
Nói cách khác, Biển Đông đã trở thành vấn đề chung của cộng đồng quốc tế. Hiển nhiên, khi một khu vực quan trọng với tương lai thế giới mất ổn định, mọi người đều có quyền bày tỏ quan ngại. Mọi quốc gia đều có quyền, và có trách nhiệm tham gia đóng góp ý kiến và bằng các hành động thiện chí để giải quyết vấn đề này bằng biện pháp hòa bình, đúng theo luật pháp quốc tế.
Trước bối cảnh như vậy, quan điểm của Bộ Quốc phòng Việt Nam trong công tác bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ như thế nào thưa Thượng tướng?
Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần khẳng định rất rõ quan điểm về chủ quyền lãnh thổ. Tôi nhấn mạnh rằng, chủ quyền, lãnh thổ là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và không thể đánh đổi. Đất đai, sông núi, biển đảo Việt Nam không chỉ là sở hữu của hơn 80 triệu người dân ngày hôm nay, mà quan trọng hơn, bờ cõi ấy đã được cha ông ta hàng nghìn năm qua gìn giữ để lại.
Bờ cõi này cũng sẽ là sở hữu của các thế hệ người Việt Nam mai sau, là không gian sinh tồn của con cháu chúng ta. Không ai được phép nhân nhượng một tấc chủ quyền trên đất, trên trời, trên biển của Tổ quốc, và cũng là không gian sinh tồn và phát triển của muôn đời con cháu chúng ta mai sau.
Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, chúng ta phải giữ được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Do vậy, không thể manh động trong việc giải quyết tranh chấp để đánh mất hòa bình và ổn định. Có người sẽ đặt câu hỏi: Liệu như vậy có giữ được chủ quyền, lãnh thổ không?
Tôi tin là hoàn toàn được khi chúng ta giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, lấy luật pháp quốc tế làm cơ sở để đòi và bảo vệ chủ quyền, cũng như tăng cường hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước láng giềng có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam.
Xu thế chung trên thế giới hiện nay, các quốc gia đều đang cần môi trường hòa bình và ổn định để phát triển. Thế giới đương đại cũng đã có hệ thống pháp luật rõ ràng, tuy chưa đủ nhưng cũng quy định mỗi quốc gia có quyền gì trên đất, trên biển của mình.
Một hành động phi nghĩa, bất chấp luật pháp quốc tế, đi ngược lại trào lưu chung của cả nhân loại của bất kỳ quốc gia nào sẽ không bao giờ nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và của chính nhân dân mình, sẽ tạo nên làn sóng phản đối quốc tế và sự bất ổn nội tại khôn lường.
Tôi khẳng định rằng, để có thể bảo vệ chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình, điều tối quan trọng là phải giữ vững ổn định chính trị trong nước.
Chúng ta luôn phải nhớ nằm lòng kim chỉ nam “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” mà Đảng ta và Bác Hồ đã chỉ ra, bảo vệ vững chắc chế độ XHCN mới giữ được độc lập chủ quyền. Xử lý vấn đề Biển Đông là đại sự của đất nước, là việc của tất cả nhân dân Việt Nam.
Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần đoàn kết, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc, phát huy trí tuệ để tìm ra kế sách, nghiên cứu làm rõ các vấn đề pháp luật, xây dựng lòng tin với các nước tranh chấp để từng bước giải quyết vấn đề.
Bảo Trung
(Quân đội nhân dân)

Kami - Đảng CSVN có hội đủ điều kiện trong Điều 4 Hiến pháp hay không?

Đăng bởi Hai Hoang Van vào Thứ hai, ngày 25 tháng ba năm 2013

Trong thời điểm hiện tại, việc góp ý kiến cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang đi vào cao trào. Hiện nay đã xuất hiện một số vấn đề gây tranh cãi, ví dụ như việc quân đội nhân dân phải trung thành với ai? Trung thành với đảng CSVN hay chỉ trung thành với tổ quốc và nhân dân là đủ? Một vấn đề hết sức quan trọng nhưng hình như chưa ai động chạm đến đó là đảng CSVN có hội đủ điều kiện là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội như Điều 4 Hiến pháp quy định hay không?
Theo định nghĩa Hiến pháp là một hệ thống quy đinh những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập kiến trúc, thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Trong xã hội dân chủ, Hiến pháp không phải là văn bản do chính quyền tạo ra mà phải là của người dân, thông qua một Uỷ ban xây dựng (hoặc sửa đổi) do các đại biểu của nhân dân chỉ định để xây dựng. Và nếu chính quyền không được thiết lập bởi Hiến pháp của người dân là một chính quyền không có tính chính danh. Do vậy, Hiến pháp không phải là khế ước giữa người dân với chính quyền, mà là khế ước xã hội giữa người dân với nhau để thiết lập nhà nước, bởi Hiến pháp có trước chính quyền. Chính vì thế, chủ thể lập Hiến phải là nhân dân.
1. Quân đội phải trung thành với ai?
Theo cách hiểu thông thường nhất, Hiến pháp thành văn là một văn bản luật cơ bản có vị trí cao nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật của quốc gia. Và Hiến pháp là văn bản để thiết lập và trao những quyền lực cần thiết cho các cơ quan công quyền của một tổ chức nhà nước. Chính vì vậy, ở các quốc gia về mặt pháp lý thường có một hệ thống thiết chế bảo vệ Hiến pháp, với công việc áp dụng và giải thích Hiến pháp trong khi có các tranh chấp. Đó chính là Tòa án Hiến pháp, bình thường phán quyết của Tòa án Hiến pháp là quyết định cao nhất. Song trong điều kiện bất bình thường thì lực lượng quân đội giữ vị trí quyết định cao hơn cả Tòa án Hiến pháp trong việc bảo vệ Hiến pháp và thiết lâp lại trật tự.
Thời gian qua, ở Việt nam người ta tranh cãi xung quanh vấn đề "Quân đội phải trung thành với ai?" để chứng minh rằng quân đội bị chính trị hóa hay phi chính trị hóa. Theo Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992,  đã sửa đổi và bổ xung Điều 70 (sửa đổi, bổ sung Điều 45) là "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân...bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân". Có ý kiến cho rằng việc để quân đội trung thành với đảng CSVN có nghĩa là quân đội đã bị chính trị hóa, mà theo họ quân đội chỉ có nghĩa vụ trung thành và bảo vệ đối với Tổ quốc và nhân dân. Chứ dứt khoát không phải trung thành với bất kỳ đảng phái nào.
Trước tiên cần phải hiểu nhiệm vụ cao nhất của quân đội là trung thành và bảo vệ đối với Hiến pháp, trong việc bảo vệ Hiến pháp thì đương nhiên phải bảo vệ tổ quốc và nhân dân. (LB: chưa chắc nhá, đừng có làm lẫn lộn những khái niệm thế này nhá). Có một sự hiểu nhầm đáng tiếc từ lâu nay của không ít người, khi cho rằng trong một xã hội đa nguyên chính trị, thì các chính đảng sẽ có các đường lối chính trị khác nhau do đó quân đội không được trung thành với bất kỳ chính đảng nào. Từ đó họ suy ra quân đội phải phi chính trị. Mà họ quên rằng các chính đảng trong một xã hội tự do, đa nguyên chính trị dẫu có các xu hướng, đường lối chính trị khác nhau, nhưng tất cả các xu hướng, đường lối chính trị khác nhau ấy phải nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp quy định. Mỗi Hiến pháp của bất kỳ quốc gia nào cũng phải có một chế độ chính trị cụ thể của mình, do vậy quân đội không thể phi chính trị hóa. Đây cũng là lời giải thích để đập lại cái quan điểm cho rằng có đa đảng sẽ dẫn tới xáo trộn chính trị. Ví dụ trong một xã hội dân chủ đa nguyên, bỗng có một chính đảng cầm quyền đang nắm với một đa số ghế trong quốc hội nổi hứng thông qua quốc hội bổ xung điều 4 Hiến pháp. Tự cho họ cái quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội (độc đảng), như vậy là vi hiến. Trong trường hợp này, nếu Tòa án Hiến pháp không giải quyết được giải tán đảng cầm quyền theo luật pháp, thì lực lượng quân đội sẽ tiến hành đảo chính để thiết lập lại trật tự.
Ở Việt nam, đây là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó chính là vấn đề chính danh, cho phép lực lượng quân đội có thể tiến hành đảo chính xóa bỏ nhà nước hiện tại bất cứ lúc nào. Bởi chỉ riêng việc sửa đổi và bổ xung Điều 70 (sửa đổi, bổ sung Điều 45) là "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân...bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân" là một hành động vi hiến - vi phạm Hiến pháp. Thực ra, sửa Hiến pháp không cần thiết phải sửa nội dung này, vì thứ nhất là vi hiến, thứ 2 là không cần thiết, vì đương nhiên quân đội bắt buộc phải trung thành với Hiến pháp. Nhất là Hiến pháp Việt nam là Hiến pháp phục vụ cho đảng chính trị duy nhất, đó là đảng CSVN.
Có thể là những người lãnh đạo đảng CSVN dốt, không hiểu điều này, hay là vì tự họ đã tự nhận thấy đảng Cộng sản Việt Nam không có đủ điều kiện lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo như Điều 4 Hiến pháp quy định?

Bài báo của TTXVN tháng 3.2012, TBT Nguyễn Phú Trọng
khẳng định "Quân đội là của nhân dân, vì nhân dân"
2. Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ điều kiện lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo như Điều 4 hay không?
Bây giờ chúng ta căn cứ vào Điều 4 của Hiến pháp 1992 và Dự thảo Hiến pháp sửa đổi để phân tích thử xem đảng CSVN có đủ điều kiện là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội hay không?
Tại Hiến pháp 1992 (Đã sửa đổi bổ xung năm 2001) Điều 4 ghi rõ (trích):
"Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."
Và tại Dự thảo Hiến pháp Sửa đổi: Điều 4 (sửa đổi, bổ sung Điều 4) cũng ghi rõ (trích) :
"1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."
Chúng ta đi sâu vào phân tích các điều kiện cần và đủ để một đảng cần phải có để có thể đảm trách vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội như quy định của Hiến pháp.
2.1 Câu hỏi thứ 1: Đảng CSVN có trung thành với lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc hay không?
Trung thành có nghĩa là trước sau một lòng một dạ, giữ trọn niềm tin, giữ trọn những tình cảm gắn bó, những điều đã cam kết đối với ai hay cái gì. Trong trường hợp này sự trung thành của Đảng CSVN là  Đảng CSVN có trước sau một lòng một dạ, có giữ vững những điều cam kết với nhân dân hay không? Câu trả lời là không!
Thứ nhất, từ một bài báo của TTXVN đến nay vừa tròn một năm, khi đó Tổng Bí thư, Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm và làm việc với Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tai đây, Tổng Bí thư khẳng định "Quân đội là của nhân dân, vì nhân dân, là công cụ, chỗ dựa hết sức tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.".
Thứ 2, nếu đảng CSVN đã trung thành với lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc thì lý do vì sao đảng CSVN đã sửa đổi và bổ xung Điều 70 (sửa đổi, bổ sung Điều 45) là "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân...bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân". Đặt đảng CSVN lên trước Tổ quốc và nhân dân, khác hẳn với Điều 45 trong Hiến pháp 1992 chỉ có "Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân..".
Như thế thử hỏi Đảng CSVN trước sau một lòng một dạ, giữ vững những điều cam kết với nhân dân ở chỗ nào?
2.2 Câu hỏi thứ 2: Đảng CSVN có tuân thủ và trung thành với Chủ nghĩa Marx- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh hay không? Câu trả lời là hòan tòan không!
Như ta chúng đã biết, ông Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã truyền bá chủ nghĩa Chủ nghĩa Marx- Lenin vào Việt Nam, sau khi có điều kiện đọc tài liệu Sơ thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa lần thứ nhất của Lênin khi còn ở Pháp. Sau này Hồ Chí Minh cũng đã viết tác phẩm Đường Kách mệnh chứa đựng nhiều nội dung của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ trước đến nay, chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm là cơ sở lý luận của mình được coi là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân. Về mặt triết học nguyên tắc của Chủ nghĩa Marx- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chống và xóa bỏ giai cấp bóc lột, chế độ người bóc lột người để xây dựng một xã hội mà toàn bộ tư liệu sản xuất được công hữu hóa thuộc sở hữu của toàn dân. Nhưng trên thực tế hiện nay hoàn toàn không phải như vậy.
Cụ thể là Giáo sư triết học, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Đức Bình là một trong những nhà lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII, VIII, nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã cho rằng “... không thể vừa là chiến sĩ cộng sản lấy việc xóa bỏ chế độ bóc lột làm lý tưởng đời mình, lại vừa làm ông chủ tư bản lấy bóc lột lợi nhuận làm lẽ sống”. Và ông nói “Ông chủ tư bản làm sao có thể dễ dàng trở thành người cộng sản?... Thật không có gì sai bằng lập luận thế này: Ta đang ở thời kỳ quá độ, vậy trong thành phần xã hội của đảng viên cũng có sự quá độ. Nói thế khác gì quan điểm cho rằng kinh tế nhiều thành phần thì chính trị tất yếu phải đa đảng và tư tưởng trong Đảng tất yếu cũng phải đa nguyên". Chưa hết ông Nguyễn Đức Bình còn khẳng định:”Trước sau tôi vẫn không đồng ý quan điểm trong Đảng có thể có tư bản tư nhân”, vì theo Hồ Chí Minh và cũng là chủ nghĩa Marx-Lenin: “Không bóc lột người. Đảng chống chế độ “người bóc lột người”. Lẽ tự nhiên, ai bóc lột người thì không thể làm đảng viên” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, tr.237)”.
Trên thực tế hiện nay, từ năm 1986 đảng CSVN đã đổi mới kinh tế chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch Xã hội Chủ nghĩa theo kiểu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa mang màu sắc tư bản có việc bóc lột giá trị thặng dư. Và một điều hết sức nghiêm trọng, đó là đảng CSVN đang dần cổ phần hóa các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân, nghĩa là đang làm một điều hoàn toàn trái với chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà thực sự nền kinh tế ở Việt nam hiện nay là một nền kinh tế tư bản hoang dã, khi các ông chủ đối xử với người lao động như là súc vật theo lời của Lê nin.
Vậy thử hỏi đảng CSVN hiện nay có thỏa mãn các yếu tố quy định trong điều 4 của Hiến pháp để xứng đáng nắm vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội hay không?
3. Kết:
Nền chính trị Việt Nam hiện nay là một nền chính trị với một đảng chính trị duy nhất nắm toàn bộ vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội là đảng CSVN. Trên thực tế, bộ máy nhà nước hiện nay vẫn được hình thành thông qua các cuộc bầu cử mang nặng tính hình thức - dân chủ giả hiệu, hòng mang lại tính chính danh của chính quyền. Vì thực chất với lối  “đảng cử sẵn - dân bầu” nên tất cả những chức vụ cũng sẽ được quyết định từ đảng CSVN. Do đó, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mà cuối cùng thực chất nằm trong tay cơ quan quyền lực cao nhất là Bộ Chính trị với một đội ngũ 14 thành viên. Điều đó sẽ nảy ra mâu thuẫn là quyền lực của đảng CSVN hoàn toàn không bị kiểm soát. Cộng với vấn đề thực chất quyền lực nhà nước không chính danh, đây chính là mầm mống của sự bất ổn và đồng thời cũng là lý do vì sao các lãnh tụ cộng sản họ nhìn đâu cũng thấy kẻ thù.
Còn ở các nước tự do, dân chủ khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, được nhân dân trao cho những người được đa số dân chúng lựa chọn một cách thực sự. Đồng thời người dân cũng có toàn quyền thu lại quyền lực nhà nước đó nếu những người đó không thực hiện đúng, đủ các điều họ đã cam kết trong vận động tranh cử để tổ chức một cuộc bầu cử mới. Và ở đó các chính đảng chỉ là một tập hợp các cá nhân có cùng lý tưởng, xu hướng, mục đích giống nhau nên họ thực sự chỉ là những kẻ đầy tớ thực thụ. Và lãnh đạo nhà nước khi ấy chỉ là một nghề dành cho những ai  muốn thể hiện tài năng quản trị đất nước để cống hiến cho quốc gia nhiều nhất Một khi quyền lực là mục tiêu của những kẻ muốn kiếm chác như ở Việt nam hiện nay, thì nó mãi là mầm mống gây ra bất ổn về chính trị. Để chấm dứt sự tranh giành quyền lực khi quyền lực nhà nước đang không có tính chính danh thì cách tốt nhất là phải để nhân dân được quyền bỏ phiếu bầu một cách tự do và công bằng, cũng là cách để khẳng định được tính chính danh của quyền lực nhà nước.
Trình độ dân trí của nhân dân bây giờ khá cao, do vậy trong việc sửa đổi Hiến pháp 1992, đảng CSVN và chính quyền cần phải sáng suốt, tỉnh táo để sửa đổi kịp thời cho phù hợp để dảm bảo tính chính danh của mình. Đừng để Điều 4 như cũ hoặc sẽ sửa đổi như ta đã thấy, vì nó là lỗ hổng chết người, trong khi đảng CSVN thực chất đã và đang không hội đủ các yêu cầu cần và đủ như quy định cụ thể ở Điều 4 Hiến pháp. Thì nó sẽ là cái cớ cho nhóm quyền lực nắm quân đội sẽ ra tay thiết lập trật tự, trong cuộc đấu đá tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm trong nội bộ đảng CSVN. Do vậy, trong việc sửa đổi Hiến pháp, nếu không khéo, chế độ hiện tại rất dễ bị xóa bỏ để thay thế bằng một chế độ độc tài quân sự.
Ngày 24 tháng 3 năm 2013
© Kami - RFA Blog's
* Bài do tác giả gửi đến TTHN

Thế Thanh - Chuyện sửa đổi Hiến pháp Súc sinh ở Trại súc vật: “Tôi đồng ý”

Trong “Chuyện sửa đổi hiến pháp ở Trại súc vật” Phạm Vũ Lửa Hạ nói về sửa đổi nội dung hiến pháp. Bài viết dưới đây đề cập đến một khía cạnh khác: cách cưỡng bức lũ súc vật “đồng ý” với nội dung sửa đổi.
Tác phẩm trào phúng Animal Farm của George Orwell được NXB Hội Nhà văn, Công ty Văn hoá và Truyền thông Nhã Nam và Nhà sách Phương Nam phối hợp phát hành vào cuối tháng 2.2013 với tựa đề Chuyện ở nông trại. Trước đây nó đã từng được dịch ra tiếng Việt và xuất bản chui tại Việt Nam năm 2010, với tựa đề Trại súc vật. Nhiều người lấy làm ngạc nhiên tại sao một cuốn sách được cho là có nội dung “phản động” nhất thế giới này lại được phép xuất bản chính thức, trong lúc Việt Nam đang ở vào tình trạng dầu sôi lửa bỏng của không khí  tham gia ý kiến sửa đổi hiến pháp.
Cũng có tin đồn Cục Xuất bản của Bộ Thông tin và Truyền thông đã rút giấy phép xuất bản. Tuy nhiên, chắc đó chỉ là tin vịt vu khống của các “thế lực thù địch”. Độc giả ở Việt Nam cứ an tâm tìm sách này mà đọc vì đã có thông tin của các trang điện tử Đảng Cộng sản và Quân đội Nhân dân bảo lãnh, giới thiệu rất là hoành tráng (xem hình ). Thậm chí báo Quân đội còn đăng trên website tiếng Anh để cả thế giới được biết. Sau đó, nhiều báo chính thống cũng ăn theo giới thiệu, như Báo mới hay Phụ nữ. Sách bán chạy. Các nhà sách, kể cả các nhà sách online đều thông báo hết hàng. Tôi mua được một lần 5 cuốn trên mạng, bạn bè lấy hết, giờ không mua được nữa.
G. Orwell hoàn thành tác phẩm năm 1943. Ông lần lượt gửi bản thảo đến 4 nhà xuất bản nhưng đều bị từ chối. Không phải do chính sách kiểm duyệt của chính phủ Anh, mà là vì các nhà xuất bản không muốn bị phiền phức với dư luận. Báo chí Anh quốc lúc bấy giờ, theo như G. Orwell nhận xét là quá ngây thơ và lú lẫn đến độ hầu như tin và bảo vệ cho những luận điệu tuyên truyền của Liên Xô. Nhà xuất bản nào dính líu vào việc chỉ trích Liên Xô, sẽ có khả năng bị giới báo chí và công chúng Anh phẫn nộ. Dĩ nhiên, đứng đàng sau và cánh tay nối dài cho những luận điệu tuyên truyền đó tại Anh quốc là Đảng Cộng sản Anh. G. Orwell thậm chí đã gọi đây là hiện tượng sùng bái Xô-viết của báo giới Anh.
Những nhận xét của G. Orwell về báo chí Anh lúc bấy giờ khiến người ta nhớ đến tác dụng của bộ máy tuyên truyền Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam. Nhiều người Mỹ và trên thế giới dễ dàng ủng hộ Bắc Việt một cách ngây thơ, không dám nói là lú lẫn, khi Hà Nội trưng ra những bằng chứng tội ác chiến tranh của Mỹ. Dĩ nhiên, trong chiến tranh, chẳng có bên nào mà không gây ra tội ác với địch thủ của mình. Nhưng thông tin sẽ trở thành một thứ tuyên truyền sai lệch, đáng lên án, khi nó chỉ cho thấy sự thật về một phía, hoặc phóng đại sự thật, hoặc bày ra cái gọi là “sự thật”. Ngay nay, nhiều người trên thế giới thậm chí vẫn tin vào những lời lẽ của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam qua các công cụ thông tin, báo chí có kiểm duyệt của Đảng.
Trong câu chuyện Trại súc vật, G.Orwell cho thấy hiệu quả của việc vận dụng bộ máy tuyên truyền vào mục đích ngu hoá và lừa phỉnh lũ súc vật như thế nào. Dĩ nhiên bộ máy tuyên truyền ấy chỉ có thể lừa phỉnh được các con vật ở những điền trang xung quanh, chứ không lừa nổi bầy súc vật trong trại. Chính vì vậy, Heo Thủ Lĩnh đã phải dùng đến lũ chó an ninh để khuất phục những kẻ chống đối và những kẻ đồng đảng, cùng loài heo với nó. Nhất là, khi phải tiến hành sửa đổi Bảy Điều Luật của Trại súc vật (để dễ hiểu có thể gọi là Hiến pháp Súc sinh), bộ máy tuyên truyền và lũ chó an ninh được sử dụng một cách triệt để nhằm bảo vệ cho sự tồn tại của “chính quyền cách mạng”. Trước hết, Heo Thủ Lĩnh chỉ đạo Heo Chỉ Điểm huấn luyện lũ cừu, chúng chỉ có mỗi nhiệm vụ rống thật to để giải thích chủ trương, chính sách “ưu việt” của Đảng Lợn đã được chính Chỉ Điểm lén lút đưa vào Hiến pháp Súc sinh trong đêm tối. Sau đó, lũ chó an ninh (tuyệt đối trung thành với Đảng Heo) được Heo Thủ Lĩnh xua đi hít hà khắp nơi nhằm tìm các dấu hiệu tội phạm:
âm mưu phản động,
âm mưu chống phá chính quyền cách mạng,
âm mưu chống Đảng Lợn,
– âm mưu chống chính quyền Lợn,
âm mưu diễn biến hoà bình,
âm mưu suy thoái đạo đức, chính trị, tư tưởng,
âm mưu đòi dân chủ, đòi đa đảng, đòi bình đẳng, đòi đất…
 Nhiều con vật thậm chí chỉ mới “âm mưu” trong đầu về “dân chủ”, “đa đảng”, “bình đẳng”, “công lý”, v.v… thôi là đã sợ vãi. Một vài con hãi quá, đã thú nhận “âm mưu” để mong được hưởng chính sách “khoan hồng, nhân đạo” của Đảng Lợn. Nhưng, ngay lập tức chúng bị lũ chó an ninh xé tan xác. Lũ súc vật sợ hãi cũng phải thôi. Đàn chó an ninh của Heo Thủ Lĩnh rất giỏi đánh hơi, chúng lại có quyền tiền trảm hậu tấu, chỉ cần phát hiện có dấu hiệu âm mưu là có thể nhảy xổ vào đám xúc vật cắn xé. (Cũng may, nhà nước của Đảng Lợn mới khai sinh, lũ chó này chưa được huấn luyện dùng súng để trấn áp lũ súc vật có “âm mưu” chống an ninh thi hành công vụ! May nữa là Đảng Lợn cũng chưa kịp thành lập Quân đội Súc sinh tuyệt đối trung thành với Đảng, nếu không thì lũ súc vật còn phải khốn đốn hơn nữa!)
Hiến pháp Súc sinh ban đầu xem ra rất hấp dẫn, văn minh và dân chủ. Nhưng rồi thì lý tưởng ấy sẽ phải được sửa đổi cho đúng với thực tế, đúng với thân phận nô lệ của đám súc sinh, và – theo ngôn từ luật ngày nay – hiến định hoá đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, hưởng thụ, v.v… của Đảng Lợn. Nắm trong tay sức mạnh của hai công cụ: tuyên truyền và an ninh, Đảng Lợn đã cưỡng bức lũ súc vật phải be be đồgn ý với những dự thảo sửa đổi Hiến pháp Súc sinh:
Đồgn ý chủ nghĩa súc sinh do loài Lợn sáng tạo ra là nền tảng tư tưởng định hướng hoạt động của xã hội loài vật, con vật nào trong Trại có tư tưởng khác với chủ nghĩa ấy là phản động, phải bị giết!
Đồgn ý chỉ loài Lợn, là loài trí tuệ, mới có quyền tư duy. Những loài khác chỉ cần lặp đi, lặp lại “Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng” là đủ!
Đồgn ý loài Lợn và Đồng chí Lãnh tụ luôn yêu nước, thương dân, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, canh giữ sự bình an cho mọi loài, bảo vệ chủ quyền của Trại, tránh sự xâm lược của hàng xóm tốt bụng!
Đồgn ý loài Lợn có độc quyền lãnh đạo, và do đó cũng có độc quyền hưởng thụ, độc quyền sở hữu mọi thứ!
Đồgn ý Đảng Lợn có quyền dùng an ninh, mật thám với nanh nhọn vũ khí, trấn áp và giết hại các loài vật khác, khi lũ vật này dám đòi quyền bình đẳng, tự do!
Những dự thảo sửa đổi trên đây sẽ được bổ sung một cách hoàn hảo vào Hiến pháp Súc sinh bằng một điều thâu tóm mọi điều: “Mọi con vật đều bình đằng, nhưng một số con bình đẳng hơn”.
Cũng rất may cho đám súc vật ngu xuẩn, chúng không biết viết. Nếu không, chúng không những phải be be “đồgn ý”, mà còn phải viết xuống bằng giấy trắng mực đen, “tôi đồng ý”, để sau khỏi chối cãi. Cái thứ be be, cục tác, rống, sủa rất nguy hiểm, rất dễ phát âm nhầm, nghe nhầm thành đồgn ý. Các thế lực thù địch rồi sẽ lợi dụng xuyên tạc thành “đồ ngu ý” lũ Lợn!
Suy nghĩ đến đây, tôi cảm thấy tủi phận mà ước rằng giá mình được như lũ súc vật kia, mù chữ, không biết viết, biết đọc gì ráo cả, để khỏi phải “đồng ý” với “không đồng ý”.
Sài Gòn, 19.03.2013
Thế Thanh
© 2013 Thế Thanh & pro&contra

Các thế lực thù địch lại có thêm những luận điệu mới

Thật là không thể nào chịu nổi những luận điệu vô cùng nham hiểm của các thế lực thù địch trong thời gian gần đây.
Trong khi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang hăng hái, nô nức góp ý cho Bản Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi thì những tiếng nói của các thế lực thù địch lại cất lên, không đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ một tí nào.
Những quan điểm sai trái, những lập luận vô lý như đòi hủy bỏ Điều 4, đòi phi chính trị hóa quân đội đã được các cơ quan truyền thông cực kỳ uy tín như báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, VTV, VOV vạch rõ những mưu mô thủ đoạn vô cùng nguy hiểm ẩn đằng sau những kiến nghị ấy, thể hiện qua các bài viết của các cây viết chính luận xuất sắc như Nguyễn Viết Thông, Nguyễn Thanh Tú, Trung Thành (Mỹ), Tuyên Trần (Mỹ) ...
Trong bài viết này, với tư cách là một dư luận viên năng nổ nhiệt tình, tôi sẽ chỉ ra những luận điệu mới, thậm chí rất mới của các thế lực thù địch, lợi dụng việc góp ý Hiến pháp để đưa ra các ý kiến ý cò xằng bậy và vô nghĩa.
Trước hết, phải nói về hiện tượng một số vị bỗng dưng đòi hỏi Ủy ban soạn thảo Hiến pháp sửa đổi phải làm rõ khái niệm Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quả thật, mấy ông này dường như học nhiều quá, đọc nhiều quá nên mắc bệnh hoa mắt, đến nỗi một khái niệm rõ tựa ban ngày như trên mà cũng không hiểu, lại còn thắc với chả mắc. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế tuân theo các qui luật của thị trường, nhưng được định hướng bởi các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội. Đây là một khái niệm hoàn toàn mới so với kho tàng lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin. Người sáng tạo ra nó hiện vẫn đang được giữ kín tên tuổi nhằm đảm bảo an toàn về uy tín và thể xác, để đồng chí ấy có thể tiếp tục sáng tạo thêm những khái niệm mới bổ sung cho suối nguồn lý luận dào dạt và sang trọng mà chúng ta đang có. Công lao trời biển của đồng chí ấy sẽ được ghi nhận một cách xứng đáng trong giai đoạn này, giai đoạn đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Cũng chưa biết đến bao giờ giai đoạn này mới kết thúc, nhưng chúng ta và các thế hệ con cháu, chắt chút chít... phải vững niềm tin, kiên định lập trường thì mới mong đến được đích.
Những người thắc mắc hết sức hàm hồ khi nói rằng kinh tế thị trường là kinh tế thị trường, xã hội chủ nghĩa là xã hội chủ nghĩa, hai phạm trù này không thể kết hợp với nhau được. Nói như thế là chỉ biết một chứ không biết mười. Trên thế gian bao la rộng lớn này, không có gì là không thể kết hợp với nhau được. Nếu nước và lửa không kết hợp với nhau thì làm sao chúng ta có cơm để ăn, có nước sôi để pha trà, pha cà phê? Ngay cả uống nước đun sôi để nguội thì cũng phải đun sôi đã chứ. Bởi thế nên mới có “sự thống nhất của các mặt đối lập”. Sự kết hợp nói trên hoàn toàn biện chứng, là một qui luật mang tính tất yếu khách quan. Các thế lực thù địch hãy trả lời câu hỏi: Ví thử không có sự kết hợp diệu kỳ đầy sáng tạo về lý luận như thế, thì đất nước ta có được phát triển như ngày hôm nay không?
Một số người khác lại yêu cầu làm rõ khái niệm “sở hữu toàn dân về đất đai”, thậm chi còn đòi hỏi phải đa sở hữu đất đai. Thật là quá quắt.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, có nghĩa là đất đai thuộc về toàn thể nhân dân. Nhân dân ta nắm quyền lực cao nhất, nên cũng chính là chủ nhân của tất cả đất đai trên mảnh đất hình chữ S này, chứ không phải là một kẻ ngoại bang nào khác. Tài sản nào mà chẳng có người quản lý. Và nhân dân do không có năng lực quản lý nên đã trao quyền thống nhất quản lý cho Nhà nước. Chuyện rành rành như thế mà cứ đòi hỏi làm rõ là thế nào? Còn có những người biểu tình khiếu kiện về đất đai chẳng qua là do họ vẫn nặng đầu óc tư hữu. Tư duy này hoàn toàn đi ngược lại tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội của cả dân tộc mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Hơn nữa, nhiều người trong số họ không có kiến thức luật pháp, thiếu thông tin chính thống. Đã thế lại còn lười đọc báo Nhân Dân, báo Quân Đội, lười xem VTV, ít nghe đài VOV… Dốt lại còn tỏ ra nguy hiểm!
Một luận điệu nguy hiểm nữa mà tôi muốn đề cập, là đang có những ý kiến ý cò về cụm từ “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, đòi bỏ cụm từ “xã hội chủ nghĩa” trong tổ hợp ngôn ngữ nói trên. Thật là không thể xằng bậy hơn được nũa. Bỏ là bỏ thế nào? Nếu vậy thì té ra là Tổ quốc Việt Nam không xã hội chủ nghĩa à?
Những kẻ đang thắc mắc đòi hỏi, lẽ nào không biết rằng thời đại này là thời đại của cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhiều dòng thác cách mạng khác của các nước xã hội chủ nghĩa như Cuba, Triều tiên,Trung Quốc, của phong trào công nhân, phong trào không liên kết? Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội vừa là giấc mơ vừa là hiện thực. Chẳng thế mà bên Venezuela, ông Chavez ngay cả khi bị ung thư giai đoạn cuối, chết đến nơi  vẫn kêu gào, ấy quên, kêu gọi quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội của thế kỷ 21 đó sao? Ngày nay, yêu nước cũng chính là yêu chủ nghĩa xã hội, đồng nghĩa với việc đã yêu nước thì không được yêu bất cứ học thuyết nào khác.
Nói tóm lại, những đòi hỏi, yêu cầu, kiến nghị … nói trên có vẻ ngây ngô đơn giản, nhưng thực chất là những luận điệu mới và vô cùng nguy hiểm của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Mà cái bọn thù địch này dường như mỗi ngày một nhiều lên, ý kiến ý cò râm ran khắp nơi. Dứt khoát phải chặn đứng ngay lập tức những luận điệu này, không để chúng ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân, ngay cả khi lòng tin ấy không còn.
Tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng góp ý để chống phá. Cần phải quán triệt tinh thần cơ bản xuyên suốt, đó là: Góp ý nhưng phải đồng thuận với quan điểm của lãnh đạo, nghĩa là được góp ý thỏai mái, nhưng không được trái ý.

Dư luận viên Vo Văn Ve
(Blog Tâm sự Y Giáo) 
Tanh bành bờ biển miền Trung (P1)
TP - Cả một dải đất ven biển miền Trung sở hữu tiềm năng du lịch lớn nhất nước đang chịu sức ép ô nhiễm ghê gớm từ các hoạt động sản xuất và sinh hoạt. Một trong những tác động nhãn tiền ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe hàng triệu người là ô nhiễm do khai thác quặng titan.
Kỳ 1: Hội chứng kỷ lục
Titan là vật liệu không thể thiếu đối với ngành công nghiệp hàng không và vũ trụ. Titan và sản phẩm của chúng trở nên đắt hàng trong khoảng chục năm lại đây. Nhiều địa phương miền Trung nuôi ý chí thoát nghèo từ titan.
Người nghèo cũng bị cuốn vào bẫy titan bằng việc đi mót lại quặng để kiếm sống qua ngày. Ảnh: QD
Người nghèo cũng bị cuốn vào bẫy titan bằng việc đi mót lại quặng để kiếm sống qua ngày. Ảnh: QD.
Giấc mơ hồng
Theo KS Trương Đức Chính, Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), nước ta đứng thứ 11 thế giới về trữ lượng quặng titan. Trong số 14 triệu tấn trữ lượng đã xác định, trên chín triệu tấn là sa khoáng titan phân bố dọc các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đổ vào, chủ yếu trải từ Hà Tĩnh vào đến Bà Rịa - Vũng Tàu.
Gần đây, theo thông tin từ Tổng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, vùng nam Trung bộ từ Ninh Thuận đến bắc Bà Rịa-Vũng Tàu, phát hiện nguồn tài nguyên titan trong tầng cát đỏ, với đánh giá sơ bộ trên 200 triệu tấn khoáng vật nặng. Ước tính lạc quan mới nhất lên đến 650 triệu tấn. Đây là một con số khổng lồ nếu so với tổng trữ lượng titan đã xác định của toàn thế giới chỉ là 1.400 triệu tấn.
Điều này mang lại triển vọng Việt Nam sẽ trở thành cường quốc titan trong bảng xếp hạng các nước có trữ lượng quặng titan trên thế giới.
Theo phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng titan giai đoạn 2007 - 2015, định hướng đến năm 2025, các vùng thuộc khu vực hoạt động khoáng sản titan gồm Thái Nguyên, vùng Thanh Hóa - Hà Tĩnh, vùng Quảng Trị- Thừa Thiên Huế, vùng Bình Định- Phú Yên, và vùng Bình Thuận- Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tuy nhiên, theo Th.S Phạm Quang Tú, Phó Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển (CODE): “Cần phân biệt khái niệm giữa tài nguyên và trữ lượng. Con số công bố kia chỉ mới là dự báo tài nguyên. Với những điều kiện khó khăn trong khai thác như tầng quặng sâu, các dải quặng phân bố không đồng đều, hàm lượng biên thấp nên, về lý thuyết, trữ lượng có thể khai thác vẫn có thể bằng không”, Th.S Tú nói.
“Vậy mà, lợi dụng điều này, mấy ông thầy dùi cứ nói Việt Nam ta có nhiều titan, nên đề nghị cho khai thác và bán ra ngoài để thu ngoại tệ, và rằng không lo hết titan đâu, vẫn còn 650 triệu tấn trên tầng cát đỏ kia kìa. Sự thực có thể hoàn toàn không phải như vậy. Rất có thể sau khi “xơi hết nạc để xuất khẩu”, chúng ta sẽ chỉ còn phần xương xẩu không thể khai thác, hoặc khai thác nhưng không mang lại hiệu quả kinh tế”.
“Chúng ta hay mắc bệnh nói vống”, GS.TSKH Đặng Trung Thuận – Chủ tịch Hội Địa hóa chất VN, nhận xét. “Chính vì sự không rõ ràng, sự mập mờ trong tài nguyên và trữ lượng nên mới dẫn đến nói vống. Tôi từng chứng kiến có vị bộ trưởng nói vống con số tài nguyên và trữ lượng một số khoáng sản được dư luận đặc biệt quan tâm gần đây mà sởn gai ốc. Với titan, bản thân con số 650 triệu tấn từng được công bố mập mờ bằng cụm từ “tài nguyên- trữ lượng”.
Thực tế, tài nguyên có thể cực lớn nhưng trữ lượng nhiều khi lại bằng không.
Háo hức múc phần nạc
Năm 2009, nhóm nghiên cứu của CODE và Trung tâm Con người&Thiên nhiên (PanNature) khảo sát ở Bình Định, tỉnh có hoạt động khai thác titan trên tầng cát đen lớn nhất nước.
Tại đây, họ gặp một phiên dịch tiếng Trung đồng thời làm tiếp thị cho một doanh nghiệp Trung Quốc. “Cô phiên dịch nói ta có bao nhiêu titan với hàm lượng nói trên họ cũng mua, mua hết, mua tuốt”, ông Tú cho hay.
Phong trào đào titan phát triển như vũ bão.
Những năm 2008-2009, thời điểm đào xúc titan rầm rộ nhất, mỗi năm tỉnh Bình Định khai thác trên dưới 800.000 tấn, chưa kể khai thác lậu không khai báo . Riêng con số không chính thức ấy cũng đã cao gấp nhiều lần số lượng được phép khai thác vào năm 2015 mà Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho Quy hoạch titan toàn quốc.
Hậu quả của việc nhắm đến khúc nạc titan trên tầng cát xám, ngon ăn, dễ đào là tanh bành nhiều bãi biển miền Trung. Hội chứng người người, nhà nhà đua nhau khai thác titan để lại những hậu quả khôn lường.
Từ năm 2010, sản lượng quặng titan tại Bình Định đã chiếm 70% tổng sản lượng toàn quốc. Năm 2012, theo ông Nguyễn Văn Thắng, Phó Giám đốc Sở Công Thương Bình Định, sản lượng khai thác chế biến titan của Bình Định lên đến 450.000 tấn. Năm 2013, sản lượng dự kiến vẫn không dưới 400.000 tấn.
Cả trung ương lẫn địa phương đều hối hả vào việc. Cấp địa phương, UBND tỉnh Bình Định đã cấp 36 giấy phép cho khai thác trên diện tích tổng cộng 656 ha. Cấp trung ương, Bộ Tài nguyên&Môi trường cấp 7 giấy phép nhưng tổng diện tích được khai thác khoảng 1.129 ha.
Không thua kém hàng xóm, ngày 19/3/2013, UBND tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty Cổ phần Vinaminco Ninh Thuận để thực hiện dự án đầu tư công trình khai thác và tuyển quặng sa khoáng titan-zircon Sơn Hải tại thôn Sơn Hải 2, xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam của tỉnh này, trên diện tích 1.200 ha, thời gian hoạt động dự án là 30 năm kể từ ngày được cấp chứng nhận đầu tư.
Khai thác ào ạt titan để lại những hậu quả khôn lường cho cả dải ven biển miền Trung.
Khai thác ào ạt titan để lại những hậu quả khôn lường cho cả dải ven biển miền Trung.
Dọc các bãi biển miền Trung, công trường khai thác titan mọc lên như nấm. Lấy titan trên nền cát đen quá dễ, chỉ cần bóc lớp cát lên là đã lộ quặng. Theo GS.TSKH Đặng Trung Thuận, tại tỉnh Bình Định, đào cát xuống vài mét là đã động đến quặng và có thể khai thác đến độ sâu 10-16 m.
Tại tỉnh Hà Tĩnh, sa khoáng còn nằm ở vị trí nông hơn, cách mặt đất cát chỉ 2-4 m. Của trời cho ấy bỗng chốc trở thành “cuộc chơi” của các doanh nghiệp chỉ giỏi kiếm tiền cho bản thân với sự ủng hộ và bật đèn xanh của nhiều cấp.
Titan trở thành cái bẫy khiến tất cả các bên cứ “sôi lên sùng sục”, từ doanh nghiệp, chính quyền, đến cộng đồng địa phương. Nhiều vùng quê yên ả bao năm qua, chỉ vì titan mà khắp nơi xảy ra nhiều chuyện khóc dở mếu dở.
Ông Thời - Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Mỹ (Bình Định) - chua xót: “Khai thác titan về chủ trương chắc chắn phải thông. Nhưng được cái gì, mất cái gì? Xin báo cáo với các đồng chí là mất thì nhiều mà được chẳng bao nhiêu. Mất đầu tiên là mất lòng dân”.
Tại cuộc trao đổi về tăng cường minh bạch và quản lý nguồn thu của hoạt động khai khoáng tổ chức ngày 20/3/2013 ở tỉnh Bình Định, ông Thời nói tiếp: “Quá trình khai thác, môi trưởng bị ảnh hưởng rất nhiều. Mất rừng, mất tài nguyên. Ảnh hưởng đến môi trường, đến sức khỏe như các đồng chí đã nghiên cứu. Dân không được hưởng lợi gì. Dẫn đến bức xúc trong dân, dẫn đến không tin trong đảng bộ. Mất thứ hai là cả tuyến biển dài 36 km, dải rừng nhiều năm tuổi đã bị phá. Lớp thực bì không còn nữa”.
Kỹ sư Trương Đức Chính, Tập đoàn Vinacomin, nhận định: Khai thác, tuyển sa khoáng ven biển đơn giản và dễ đem lại lợi nhuận cao. Điều đó khiến hoạt động này tràn lan ở nhiều tỉnh ven biển miền Trung.
“Rồi buôn bán lậu quặng titan ra nước ngoài với giá rẻ, chặt phá rừng phòng hộ ven biển, huỷ hoại môi trường” - kỹ sư Chính nói - “Tình trạng trên cho thấy những bất cập trong quy hoạch, quản lý vĩ mô đối với khai thác chế biến thô và xuất khẩu quặng titan”.
“Tiền mất tật mang, không thu được gì hết trọi. Công nhân làm ở đây cũng không được đóng bảo hiểm. Tôi cho rằng quy hoạch tổng thể không chuẩn. Quy hoạch chi tiết không bài bản. Thăm dò không chính xác. Cứ khoanh vùng như thế rồi doanh nghiệp đến xin khai thác”.
Ông Lê Minh Tuấn,
Chánh Văn phòng BCĐ Phòng chống Tham nhũng tỉnh Bình Định
Còn nữa
Quốc Dũng

Ý kiến của bạn
Quote:
Titan là kim loại chiến lược, dùng nhiều trong công nghiệp quốc phòng. Hiện nay, việc khai thác titan ồ ạt và bừa bãi. Đây là việc cực kỳ nguy hiểm, hậu quả khôn lường cho Việt Nam, khi mà nước láng giềng đang tăng cường hiện đại hóa lực lượng vũ trang. Titan là kim loại dùng trong sản xuất vũ khí công nghệ cao như sản xuất máy bay, tên lửa...Nhà nước cần cấm hoàn toàn việc xuất khẩu titan, đặc biệt là đối với Trung quốc.
trang
Trong các dự án khai thác tài nguyên khoáng sản với bản năng của con người là thu lợi trước mắt cho một bộ phận nhỏ. Đồng tiền mang về một cách béo bở này rồi cũng đội nón ra đi. nó để lại hậu quả mà con người biết nhưng không chịu suy nghĩ về mai sau. Một bộ phận những người có trách nhiệm đang ngộ nhận một cách mù quáng khi chỉ nghỉ đến đồng tiền trên tay.
Quang Linh

Ông Nguyễn Sinh Hùng lảng tránh hay đọc không hiểu thư đề nghị?

Ảnh nguyensinhhung.net
Ngày 8/3/2013, một nhóm 10 công dân Việt Nam gửi thư tới ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội đề nghị ông tiếp để chất vấn ông về những phát biểu của ông khi làm việc với lãnh đạo Thành phố Hà Nội, gây bức xúc, bất bình trong dư luận. Bức thư nêu rõ:
Được biết ông Nguyễn Sinh Hùng phát biểu với lãnh đạo thành phố Hà Nội vào ngày 27/02/2013 có ý cho rằng “Việc này tuyên truyền vận động nhân dân chống lại Đảng, Nhà nước, cái đó là ngược chiều, phải kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn”
“Bản lấy ý kiến là bản của ủy ban dự thảo Hiến pháp công bố, trên cơ sở tiếp thu thảo luận của Quốc hội”
“Đó là bản duy nhất. Còn anh tự tổ chức lấy ý kiến khác của anh, là không được”.
(Hết trích)
Tuy nhiên, trong công văn trả lời số 263/UBDTSĐHP ngày 22/3/2013 do ông Phan Trung Lý thừa lệnh ông Hùng ký lại không hề đề cập đến vấn đề này mà lại “hoan nghênh” những người ký tên “đã quan tâm tham gia ý kiến đóng góp vào bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” và “mong tiếp tục tham gia ý kiến
Bất kể ai đọc cũng hiểu rằng, trong bức thư đề nghị của chúng tôi, không hề có một ý kiến đóng góp nào về bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 mà UBDTSĐHP đưa ra. Mục đích của chúng tôi là muốn gặp ông Nguyễn Sinh Hùng để chất vấn ông về những phát biểu nêu trên, chứ chúng tôi không hỏi góp ý sửa đổi Hiến pháp ở đâu và góp ý như thế nào.
Không hiểu, khi ủy quyền ông Phan Trung Lý trả lời như thế, ông Nguyễn Sinh Hùng không đọc kỹ thư đề nghị hay là ông lảng tránh yêu cầu của nhóm công dân đã ký vào thư. Nhưng tôi tin rằng mọi người đều cho rằng đây là sự lảng tránh.
Cùng lúc với việc thư gửi cho ông Nguyễn Sinh Hùng, nhóm 10 công dân nói trên còn gửi thư cho đại biểu quốc hội Nguyễn Phú Trọng  đề nghị ông tiếp cũng xuất phát từ những lời phát biểu của ông khi làm việc với lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc gây bức xúc, bất bình trong dư luận. Hy vọng rằng, ông Nguyễn Phú Trọng không trả lời chúng tôi theo kiểu lảng tránh, tắc trách như ông Nguyễn Sinh Hùng.
(Blog Nguyễn Tường Thụy

Công bố clip bé 5 tuổi bưng bê cực nhọc ở trường mầm non Lê Quý Đôn

Thứ hai 25/03/2013 08:55
(GDVN) - Việc mang những chiếc thùng khiến các em phải liên tục nghỉ ở các chiếu nghỉ, thậm chí phải nghỉ ở giữa cầu thang…
Như tin đã đưa, ngày 20/3 Báo Giáo dục Việt Nam nhận được thông tin phản ánh từ bạn đọc về tình trạng một số bé 5 tuổi ở Trường Mầm non Lê Quý Đôn (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) đang bị lạm dụng sức lao động. Tuy nhiên, ngày 21/3 trả lời Báo Giáo dục Việt Nam, bà Phạm Thuý Khanh, quyền Hiệu trưởng Trường Mầm non Lê Quý Đôn nhiều lần khẳng định: Không có việc các cháu bé trong trường phải mang những thùng thức ăn, đựng cơm (kể cả có thức ăn và rỗng)! (xem bài phản ánh)

Nếu đúng là bà Phạm Thúy Khanh nói thì không hiểu bà sẽ trả lời ra sao về clip do độc giả cung cấp cho Báo Giáo dục Việt Nam?

Clip quay cảnh 2 em nhỏ lớp Mẫu giáo lớn A2 (MG Lớn A2) phải nhiều lượt khiêng những thùng bằng inox để đựng cơm, canh và xoong thức ăn từ trên tầng 4 xuống tầng 1.

Trong clip, có thể thấy rõ sự mệt mỏi và gắng sức của các em qua những lời hội thoại và cả những cố gắng mỗi khi nhấc những chiếc thùng lên. “Nặng quá”, một bé nói trong clip. Các em phải liên tục nghỉ ở các chiếu nghỉ, thậm chí phải nghỉ ở giữa cầu thang.

Người xem clip cũng dễ thấy mỗi khi các em bước được một bậc thì đáy chiếc thùng lại đập xuống cầu thang, không khó để hiểu rằng các em không thể nâng những chiếc thùng lên cao do không đủ sức và mệt.

Could not load plugins:
File not found

Qua tìm hiểu chúng tôi được biết những cậu bé tội nghiệp này được cho là to lớn và nhanh nhẹn trong lớp nên được các cô giáo “ưu ái” giao cho “trọng trách” mang xoong nồi, thùng cơm, thùng canh từ tầng 4 xuống tầng 1 trong khi đó các bạn khác sau bữa ăn thì được chơi và đi ngủ. Các em chỉ được ngủ khi nào đã “xong việc”.

Lớp MG Lớn A2 do 2 cô giáo Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn Minh Phương phụ trách.

Được biết, công việc rửa bát và bê xoong nồi là của một nhân viên có tên là Nguyễn Thu Huyền và không hiểu sao, việc này lại được hai cô giáo Hồng và Phương sai học sinh của mình làm.

* Giaoduc.net.vn sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc đến bạn đọc.
Trần Thiết 
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Hoc-duong/Cong-bo-clip-be-5-tuoi-bung-be-cuc-nhoc-o-truong-mam-non-Le-Quy-Don/285976.gd

Beo - Lăng ông Hồ là một kiến trúc cực đẹp nếu nó không phải là một cái...lăng

Lăng Hồ Chí Minh - Công trình được xây dựng vào thập niên 1970
Lăng ông Hồ
Lăng ông Hồ là một kiến trúc cực đẹp nếu, nó nằm ngoài châu Á và không phải là một cái...lăng khi, nó  thừa uy nghi mà thiếu hẳn ấm áp.
Lí do. Thứ nhất về phong tục tập quán. Người Việt, bất kể theo đạo giáo nào, đến trước nơi thờ tự vong linh muốn bày tỏ sự kính trọng, đều đứng nghiêm cẩn, chắp tay vái lạy. Trước các bậc cao tằng tổ phụ đã hiển thánh, thậm chí còn phải quỳ gối dập đầu sát đất.
Bạn không thể thực hiện được thói quen đơn giản như thế khi vào lăng Hồ Chí Minh, chỉ có thể làm một động tác mà suy ra khá bất kính là vừa đi (trôi theo dòng người) vừa vái.
Cũng theo phong tục, có hai sự tối kị với người Việt, tối kị đến mức biến thành câu rủa xả bởi nó bày tỏ sự tận diệt thế hệ đang sống: động mồ động mả và nhang lạnh khói tàn.
Kiến trúc lăng Hồ Chí Minh phạm cả hai điều tối kị này.
Lí do thứ hai  thuộc về phong thủy. Một mạn là quảng trường mênh mông mạn kia là vười cây bát ngát, hỏi một người Tây phối cảnh ấy đẹp không khó trả lời rằng không nhưng, với một lăng tẩm Việt nó lại quá chênh vênh, đơn độc.  Sau lưng không một điểm tựa trước mặt không một điểm tụ phúc, cho cháu con.
 Đài tưởng niệm Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan đơn giản là một pho tượng ngồi khổng lồ bằng đồng, sống động và tuyệt đẹp. Tại đây, quân cảnh có một nghi lễ đổi gác khá vui mắt và nay người Đài tận dụng nó thành một sản phẩm du lịch. Mình đứng chừng gần 10 phút quan sát nhưng không cách gì thấy được chú  lính gác này thở và chớp mắt ra sao. Mỗi chú làm robot như vầy đúng một tiếng mới đổi gác.
Hồ Thu Hồng
Trích từ: Má ơi đừng gả con xa!

Phạm Tín An Ninh - Ở Cuối Hai Con Đường

 
Những năm “cải tạo” ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi “biên chế” xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái lán lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ “đồng chí cán bộ quản giáo” đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào lán. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
Bằng một giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi “báo cáo” môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản “lý lịch trích ngang”.
Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ “tội” dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
- Trong này có anh nào thuộc Sư 23?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:
- Thưa cán bộ, có tôi ạ.
- Anh ở trung đoàn mấy.
- Trung Đoàn 44.
- Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
- Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
- Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
- Sau đó cán bộ được trao trả? tôi hỏi.
- Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi lán được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:
- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.
Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong lán, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.
Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
- Tôi để một giỏ cá đằng sau lán. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc giấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn-
Không biết tối hôm ấy, trong giờ “giao ban”, quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.
- Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? - một anh tù hỏi.
- Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằn vặt mãi cho đến hôm nay.
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
* * *
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 50 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.
Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị “hạ tầng công tác” ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: “ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn”. Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.
Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:
- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan?
- Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
- Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng nhiều lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.
- Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
- Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.
- Ba cháu bây giờ làm gì?
- Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.
Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.
    Các Anh thân quí

    Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: “Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại để chăm lo cho bộ lông của mình”. Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.

    Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.

    Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.

    Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.

    Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian…”
* * * * *
Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?
Phạm Tín An Ninh

Thư bạn đọc – Nỗi sợ hãi trong tôi

Phải thú nhận là trong lúc này đây tôi tim tôi đang đập loạn nhịp vì cái cảm giác hồi hộp, lo lắng, sợ sệt như thể đang làm một điều phi pháp và tội lỗi.
Có lẽ phải kể qua một chút về bản thân, không lại bị ai đó chụp mũ rằng tôi chỉ là nhân vật ảo.
Tôi là Đảng viên, ngụ tại tại Việt Trì, Phú Thọ, năm nay 33 tuổi, vào ĐCS tháng 12 năm 2003, trình độ Cử nhân, đã đi làm được 10 năm. Về thành phần gia đình: Bố là kỹ sư, 44 năm tuổi đảng; Mẹ là công nhân, cả 2 đã nghỉ hưu 20-25 năm rồi. Tôi hiện công tác tại một đơn vị sự nghiệp có thu cấp tỉnh, công việc nhẹ nhàng, thu nhập (lương, thưởng không có mầu) ổn định bình quân 5 triệu/tháng, vợ bán thuốc tây, con lớn 4 tuổi rưỡi, con nhỏ 6 tháng, đã có nhà xây 1 tầng 1 tum diện tích sử dụng gần 100 m2. Tóm lại là không giàu cũng chẳng nghèo, có chút vị trí trong xã hội vì dẫu sao cũng là một viên chức nhà nước của cơ quan đầu ngành ở tỉnh thuộc Chính phủ.
Tôi được tiếp cận internet rất sớm ngay từ thời sử dụng modem dialup 52k của Vinaphone. Trước đây tôi hay vào các trang Vietnamnet, Tienphong, Dantri, antg.cand, Vnexpress để đọc các tin tức trong nước và quốc tế. Từ ngày có blog tôi cũng lập nhưng chẳng để làm gì vì không thích thú vì vậy cũng chẳng quan tâm đến các blog cá nhân, tôi cho rằng đó chỉ là nơi mọi người giao lưu, tâm sự và chia sẻ cảm xúc. Các báo chính thống đã đưa tôi đến với thế giới lề trái (cảm ơn các báo chính thống đã quảng cáo cho blog). Từ đó tôi thường xuyên lướt qua các blog để đọc tin và sau đó các tin này xuất hiện trên các báo lề phải. Tôi đọc rất nhiều, hết blog này sang blog khác, không chỉ đọc các bài viết mà còn đọc các dòng comment. Tôi muốn biết mọi người đang nghĩ gì về vấn đề đang được nêu lên, điều này không có ở các báo lề phải, họa chăng chỉ là những bài không liên quan đến chính trị hay điều hành của chính phủ.
Tôi mới chỉ đọc, nghe và suy nghĩ mà chưa dám tham gia bình luận gì. Vậy mà khi đọc vẫn phải lén lút không dám để ai biết, có những tin rất hay, rất được lòng dân, giải tỏa được u mê, mụ mị trong đầu mình vậy mà không chia sẻ với ai được. Tôi tin rằng 80% đảng viên, công chức đang rơi vào hoàn cảnh như tôi, mọi người cũng đọc, cũng suy nghĩ nhưng không ai dám nói với ai cả, giả dối, không chia sẻ sợ hãi với chính những sự thật mình biết, sợ hãi người khác biết mình đang nghĩ gì và đáng sợ hơn nữa là sợ hãi chính bản thân mình. Điều gì đang diễn ra? Mình phải làm sao? Mình nghĩ như vậy có đúng không? Mình có suy thoái đạo đức, lối sống không? Tâm sự với ai? Ai hiểu cho mình? Người ta có quy kết là mình lập trường không kiên định, không vững vàng? Họ có báo cáo cấp trên? Báo cáo lãnh đạo? Báo cáo tổ chức? Nâng cao quan điểm, kiểm điểm??? Nhưng tôi vẫn lén lút đọc, càng đọc tôi càng bứt rứt, lo lắng, kìm nén, sợ hãi. Tôi sợ đến một ngày nào đó tôi không còn sợ nữa, nói ra tất cả, tung hê tất cả. Ngày 08/03 tôi uống rượu say bí tỉ, lấy hết dũng khí tìm bố đẻ để hỏi:
– Bố cho con hỏi bố thấy tình hình đất nước thế nào?
Bố: – Có thế nào đâu con.
Tôi: Con hỏi bố với tư cách là một đảng viên với tấm huy chương với 40 năm tuổi đảng, bố thấy thế nào?
Bố: – Công việc ở cơ quan thế nào à?
Tôi: – Công việc của con vẫn tốt, mối quan hệ tốt, chẳng có việc gì xảy ra cả. Con hỏi bố cái Hiến pháp ấy. Đảng đang kêu gọi góp ý và nói ra rả mấy tuần nay về điều 4 ấy bố thấy thế nào?
Bố: – Tốt thôi, chẳng thế nào cả.
Tôi: – Con định làm một điều gì đó theo đúng suy nghĩ của con nhưng trước khi con thực hiện con xin ý kiến bố xem có được không?
Bố: – Không được.
Tôi: – Vì sao lại không được ạ?
Bố: …
Tôi: – Tại sao lại không được?
Bố: (Tay run run tìm thuốc lá hút) Không được là không được.
Tôi: – Con đang suy nghĩ rất nhiều, chính vì vậy con muốn xin ý kiến bố. Bố không giải thích cho con là tại sao lại không được?
Bố: …
Tôi: – Bố phải giải thích cho con chứ? Bố thấy đảng ta thế nào, chủ nghĩa xã hội thế nào? Cái Hiến pháp đó có được không? Đất nước có trước hay đảng có trước? Đảng có 3 triệu người nhưng có đến 90 triệu dân, tại sao quân đội trung thành với đảng mà không trung thành với đất nước và nhân dân? Bảo vệ chế độ là bảo vệ ai? Bảo vệ đảng, bảo vệ lãnh đạo, bảo vệ cái ghế của lãnh đạo chính là bảo vệ một lũ quan tham hả bố?
Bố: – Không được, làm thế ảnh hưởng đến cả gia đình, ảnh hưởng đến vợ con, ...
Tôi: – Nhưng điều đó có phải là tham ô tham nhũng gì đâu, có ảnh hưởng đến đạo đức thuần phong mỹ tục gì đâu, con có làm gì sai đâu?
Bố: – Không sai nhưng làm vợ con khổ và ảnh hưởng đến gia đình là không được.
Tôi ra về, không muốn tranh luận với ông nữa, vì tôi biết bố tôi đang sợ. Trước đây ông hay nghe đài BBC, RFA nhưng từ khi có công cuộc góp ý sửa đổi Hiến pháp thì ông không dám nghe nữa. Có lẽ ông cũng có nỗi sợ giống tôi, sợ nghe nhiều, biết nhiều rồi đến lúc không sợ nữa thì lại sợ ảnh hưởng đến vợ con, gia đình, dòng tộc. Và tôi lại có nỗi sợ giống ông nên chỉ dám viết vài dòng tâm sự với mọi người. Tôi không biết chia sẻ cùng ông như thế nào để vượt qua nỗi sợ hãi của xã hội, nỗi sợ hãi về gia đình và nỗi sợ hãi chính bản thân mình.
Thanh Tâm
(BVN)

Bần thương ông Lộc

Ông Nguyễn Đình Lộc,
cựu Bộ trưởng Tư pháp
Ai ngờ cái ông Nguyễn Đình Lộc, cựu Bộ trưởng Tư pháp, “cựu” Trưởng đoàn trao kiến nghị 72 (giờ này chắc bị cách chức rồi nên chỉ là “cựu” thôi), người được Bần ưu ái chơi chữ trong bản “danh sách ma” lại là người tiết lộ những tình tiết phía sau hậu trường vụ trao bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp. Nào là ông Lộc không tham gia soạn thảo kiến nghị 7 điểm, có góp ý chỉnh sửa nhưng không được, nào là bị làm “trưởng đoàn bất đắc dĩ”, nào là không biết gì về bản Dự thảo Hiến pháp 2013.
Bần thương ông Lộc vì người ta “bắt” ông làm trưởng đoàn. Vì ông Lộc mới có giá, chứ nếu là Tương Lai hay Huệ Chi thì chai mặt cả rồi và cái kiến nghị 72 sẽ chỉ còn cỡ kiến nghị Phương Uyên thôi. Bần thương ông Lộc vì đã là trí thức, chuyên gia luật thì phải soạn lấy một cái góp ý cho riêng mình chứ sao lại ham vui chui vào cái mâm 72, để rồi có những ý muốn sửa nhưng không được vì số đông nó quyết thế. Bần thương ông Lộc vì ông đã dũng cảm nói sự thật về cái kiến nghị và cái Dự thảo Hiến pháp 2013, chứ không như những người kia, bị phát hiện gian lận nhưng vẫn la lên là “bỉ ổi”. Bần thương ông Lộc vì phỏng vấn VTV chưa nguội đã phải trả lời phỏng vấn của RFA, lúc ấy các bác trí thức mới chịu tin. Trả lời xong xuôi rồi nhưng đến cả ông Tương Lai vẫn chưa chịu, cái ông Tương Lai này nó thế, miệng lưỡi ngọng ngịu lắm, Bần đánh mấy lần rồi vẫn chưa chừa. Ông Tương Lai này cũng trả lời phỏng vấn RFA và khẳng định những gì ông Lộc nói là đúng, nhưng vẫn cố vớt vát: “Theo tôi người ta có thể khai thác những ý nói không thật rõ ràng của anh Lộc để người ta làm mất uy tín của anh ấy, đây là điều mà bản thân anh Lộc phải rút kinh nghiệm thôi”.
Ông thấy chưa ông Lộc ? Chính miệng cái thằng lợi dụng ông nó nói ông bị lợi dụng đấy! Hắn còn nói “mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về chính mình” nhưng ngay trong bài phỏng vấn RFA, người ta nói hắn là “giáo sư” thì chẳng thấy hắn sửa lại, không tự chịu trách nhiệm với học hàm phó giáo sư của mình thì dạy đời ai ?
Nhưng Bần thương ông Lộc nhất không phải vì những thứ kể trên mà vì trong ngày trao kiến nghị 72, ông đã nhớ đến những người nông dân như Bần: “Thật ra, nhân dân đã quan tâm đến Hiến pháp chưa? Bao nhiêu người quan tâm? Người nông dân ai nghĩ đến Hiến pháp? Cho nên làm thế nào những cái dịp như chúng ta tổ chức lấy ý kiến hiện nay phải là một cái cơ hội để làm thế nào để tuyên truyền thật rộng rãi đến những kiến thức rất là cơ bản nhưng cũng là tối thiểu có thể đến được đối với người nông dân. Không thì người dân vẫn cứ dửng dưng mà mình thấy hơi lo, hơi lo là vì cơ bản như thế mà mình xem thường thì tức là tai họa rồi”.
Có khi nào vì trăn trở đó của ông trưởng đoàn Lộc mà danh sách kiến nghị của trang boxit có đến hàng ngàn nông dân đang cắm mặt xuống đất cấy lúa tiện thể bẫy luôn “con chuột” đang chạy và hào hứng báo cho ông biết nông dân quan tâm đến Hiến pháp lắm đây này. Họ đã đưa luôn danh sách nông dân ma của Bần đấy ông ạ. Ông Lộc nói “người nông dân dửng dưng với Hiến pháp mà mình xem thường thì là tai họa”, ông nói hay quá, nhưng nếu đưa hàng ngàn nông dân ma vào danh sách ký kiến nghị thì sẽ là cái gì ? Chắc là đại họa rồi ông Lộc ơi!
Ông Lộc vì “một phút ham vui” lại nhờ chức vụ cựu Bộ trưởng Tư pháp mà được các nhân sĩ đầy mưu mẹo phong cho làm trưởng đoàn. Nay thì ông Lộc đã tỉnh ra rồi nên Bần mới thương ông Lộc. Thế là sau nghi án gian lận danh sách chữ ký mà Bần đã có công phát hiện thì đến bí ẩn đằng sau việc soạn thảo và gửi kiến nghị 72 đã được chính người trong cuộc công khai. Quả là trời giúp liên minh công nhân và nông dân rồi.
Bần Cố Nông
(Blog Bần Cố Nông)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét