CUỘC CHIẾN VIỆT NAM 1945-1975: ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN
NTT: Trong khi Nhà báo Huy Đức vừa tung ra cuốn sách “Bên thắng cuộc” giá 40 USD làm nóng thị trường sách thì Long Điền (nguyên sĩ quan Tham Mưu Chính Trị QLVNCH) cũng công bố sách tìm hiểu lịch sử “Cuộc Chiến Việt Nam 1945-1975″ 1124 trang gồm 2 tập, giá 50 USD. Qua 45 nhân vật lịch sử bao gồm 15 nhân vật phía Quốc Gia, 15 nhân vật phía Công Sản và 15 nhân vật phía Quốc Tế. Tác giả bỏ công sưu tầm các văn khố, thư viện, tài liệu lịch sử Việt Nam và quốc tế, để đưa ra các nhận định về Cuộc Chiến Việt Nam 1945-1975 của các nhân chứng lịch sử từ các nhật ký, hồi ký, các lời phát biểu của chính nhân vật đó. (Mua online bấm vào Buy Now để trả qua hệ thống PayPal).
Để soi chiếu lịch sử nhìn từ nhiều phía, xin giới thiệu cùng bạn một phần của cuốn sách đã được công bố trên mạng. Dưới đây là phần viết về Đại tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.
Cao Văn Viên (1921-2008)
Tiểu sử: Đại Tướng Cao Văn Viên sanh ngày 11/12/1921 Tại thành phố Vạn Tượng , Lào Quốc. Gia cảnh Vợ và 4 con, Ông có bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp tại trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn.
- Tốt nghiệp Trường Quân Sự Cap Saint Jacque (Vũng Tàu ) năm 1949
- Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, Forth Leavenworth, Hoa Kỳ
- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLVNCH
- Chứng Chỉ Phi Công KQVNCH
- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLHK
- Chứng Chỉ Phi Công Trực Thăng Hoa Kỳ
Chức Vụ đảm nhiệm :
Tướng Cao Văn Viên là một trong năm Đại Tướng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và cũng là vị Tướng giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng trong thời gian lâu nhất (1965-1975).
Ông sinh ngày 11 tháng 12 năm 1921 tại Vientiane, Lào ( vì vậy mà ông có tên là Viên ). Sau khi tốt nghiệp trường trung học Pavie làm nghề huấn luyện viên thể thao trung học. Ông đã bị quân Nhật bắt giữ khi chính quyền Pháp thua trận ở Đông Dương năm 1945.
Sau đó ông trốn về Việt Nam và đến năm 1949, ông gia nhập quân đội và được đưa đi học khóa đào tạo sĩ quan tại trường Võ bị Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Khóa nầy gồm 124 khóa sinh, có 21 người trúng tuyển và được mang cấp bậc Thiếu Úy (Sous-Lieutenant). Thiếu Úy Cao Văn Viên đỗ thủ khoa. Sau khi tốt nghiệp, ông được đưa về phục vụ tại Bộ Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, giữ những chức vụ như sĩ quan phòng tuyển mộ nhập ngũ, phòng báo chí Bộ Quốc Phòng.
Năm 1951 ông được thăng cấp Trung Úy và được bổ nhiệm chức vụ Phó Trưởng Phòng Hành Chánh, rối Trưởng Phòng Báo Chí và Thông Tin. Sau đó ông được đi thụ huấn khóa Chiến Thuật rồi về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 10 trong năm 1952 tại Bắc Việt.
Năm 1953, ông được thăng cấp Đại Úy và được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Ban 2 rồi Trưởng Ban 4 Lực Lượng Dã Chiến Hưng Yên .
Năm 1954, sau Hiệp định đình chiến Geneve rút về Nam, Ông được chỉ định chỉ huy Tiểu Đoàn 56 tiếp thu Tỉnh Quảng Ngải. Năm 1955, ông được thăng cấp Thiếu Tá, khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa được thành lập, ông được chỉ định làm Trưởng Phòng 4 (Tiếp vận) Bộ Tổng Tham Mưu và sau đó ông được theo học trường Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu ), ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Ky.
Năm 1956, trở lại Việt Nam, với cấp bực Trung Tá, Ông được đề cử làm Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống.
Ngày 12/11/1960, ông được cử làm Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù và thăng cấp Đại Tá thay thế Đại Tá.Nguyễn Chánh Thi vừa tham gia đảo chính thất bại vào ngày 11 tháng 11 năm 1960.
Trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống Ngô Đình Diệm, không đứng về phe đảo chính do các Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim tiến hành. Vì vậy ông bị tước quyền chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên do sự can thiệp của Tướng Tôn Thất Đính và Tướng Trần Thiện Khiêm nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại Tá Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung.
Sau ngày đảo chánh hơn một tuần, do sự dàn xếp của Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham mưu Trưởng Liên Quân, ông nhận được sự vụ lệnh về nắm lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù. Cuối tháng 1-1964, với cương vị Tư Lệnh Nhảy Dù, Tướng Viên là thế lực chính phía sau cuộc chỉnh lý của hai Trung Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm hạ bệ Tướng Dương Văn Minh.
Sau chiến thắng trận Hồng Ngự ngày 4/3/1964 ( Đại Tá Viên đã đích thân chỉ huy cuộc hành quân của Chiến Đoàn Nhảy Dù với 2 Tiểu Đoàn 1, và 8 chận đánh một lực lượng cộng sản cấp Trung Đoàn tại Giồng Bàn, Hồng Ngự sát biên giới Miên Việt, và ông bị thương ở cánh tay phải, Cố Vấn Trưởng của Tiểu Đoàn 1ND là Đại Úy Mc Cathy bị tử thương ) ông được đặc cách mặt trận vinh thăng Thiếu Tướng và bàn giao nhiệm vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù cho Trung Tá Dư Quốc Đống, đáo nhậm chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân (Bộ Tổng Tham Mưu ) và đến cuối tháng 6 năm đó, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Sau cuộc chính biến ngày 19/2/1965, Hội đồng Tướng lảnh gạt bỏ Tướng Nguyễn Khánh ra khỏi chính quyền, ông được thăng cấp Trung Tướng và được đề cử giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng vào ngày 14 tháng 10 năm 1965, thay Tướng Nguyễn Hữu Có ( lúc đó kiêm nhiệm). Năm 1967, khi Tướng Nguyễn Hữu Có bị bãi chức, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng trong một thời gian ngắn. Cũng trong năm này, một lần nữa ông được sự tin tưởng của Hội Đồng Tướng Lãnh là một sĩ quan không liên hệ phe phái chánh trị khi ông được vinh thăng Đại Tướng.
Tháng 2/1966, ở hội nghị thượng đỉnh Honolulu, Tướng Viên đã đề nghị với Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson về một chiến lược cô lập CSBV bằng cách lập một hàng rào phòng thủ dọc theo vĩ tuyến 17, hoặc là đánh thẳng qua các cơ sở hậu cần của CSBV ở Hạ Lào và Quảng Bình-Vĩnh Linh. Phía Hoa Kỳ không chánh thức trả lời, nhưng tài liệu cho thấy đầu năm 1967 đại tướng William Westmoreland đã ra lệnh cho MACV soạn thảo dự trù một kế hoạch tấn công qua Lào có tên là Hành Quân El Paso.
Trong thời gian biến động của hai năm 1966-67, Tướng Viên tham dự vào nhiều quyết định quân sự và chính trị trong nội bộ của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.
Trong vụ Phật Tử dấy loạn ở Miền Trung khởi đầu từ tháng 3/1966, Phật giáo chia làm hai khối: Ấn Quang chống Chính phủ và VN Quốc Tự thân chính phủ. Mặt khác, một số Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và SĐ1 có cảm tình với thành phần tranh đấu chống chánh phủ như Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Đính, trong khi Nguyễn Văn Chuân và Huỳnh Văn Cao thì lừng khừng. Vì thế có một lúc Miền Trung gần như không có Chính phủ: Thị trưởng Đà Nẳng, Bs Nguyễn Văn Mẫn, cũng như một số quân nhân, công chức…cùng các thành phần quá khích đem bàn thờ Phật xuống đường biểu tình. Phong trào có nguy cơ lan tràn đến Miền Nam. Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lịnh lực lượng Cảnh Sát phải ra Đà Nẳng để theo sát tình hình và hành động tại chổ. Nhưng hai tuần sau, tình hình càng thêm tồi tệ nguy kịch.
Tướng Cao Văn Viên là một trong năm Đại Tướng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và cũng là vị Tướng giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng trong thời gian lâu nhất (1965-1975).
Ông sinh ngày 11 tháng 12 năm 1921 tại Vientiane, Lào ( vì vậy mà ông có tên là Viên ). Sau khi tốt nghiệp trường trung học Pavie làm nghề huấn luyện viên thể thao trung học. Ông đã bị quân Nhật bắt giữ khi chính quyền Pháp thua trận ở Đông Dương năm 1945.
Sau đó ông trốn về Việt Nam và đến năm 1949, ông gia nhập quân đội và được đưa đi học khóa đào tạo sĩ quan tại trường Võ bị Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Khóa nầy gồm 124 khóa sinh, có 21 người trúng tuyển và được mang cấp bậc Thiếu Úy (Sous-Lieutenant). Thiếu Úy Cao Văn Viên đỗ thủ khoa. Sau khi tốt nghiệp, ông được đưa về phục vụ tại Bộ Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, giữ những chức vụ như sĩ quan phòng tuyển mộ nhập ngũ, phòng báo chí Bộ Quốc Phòng.
Năm 1951 ông được thăng cấp Trung Úy và được bổ nhiệm chức vụ Phó Trưởng Phòng Hành Chánh, rối Trưởng Phòng Báo Chí và Thông Tin. Sau đó ông được đi thụ huấn khóa Chiến Thuật rồi về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 10 trong năm 1952 tại Bắc Việt.
Năm 1953, ông được thăng cấp Đại Úy và được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Ban 2 rồi Trưởng Ban 4 Lực Lượng Dã Chiến Hưng Yên .
Năm 1954, sau Hiệp định đình chiến Geneve rút về Nam, Ông được chỉ định chỉ huy Tiểu Đoàn 56 tiếp thu Tỉnh Quảng Ngải. Năm 1955, ông được thăng cấp Thiếu Tá, khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa được thành lập, ông được chỉ định làm Trưởng Phòng 4 (Tiếp vận) Bộ Tổng Tham Mưu và sau đó ông được theo học trường Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu ), ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Ky.
Năm 1956, trở lại Việt Nam, với cấp bực Trung Tá, Ông được đề cử làm Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống.
Ngày 12/11/1960, ông được cử làm Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù và thăng cấp Đại Tá thay thế Đại Tá.Nguyễn Chánh Thi vừa tham gia đảo chính thất bại vào ngày 11 tháng 11 năm 1960.
Trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống Ngô Đình Diệm, không đứng về phe đảo chính do các Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim tiến hành. Vì vậy ông bị tước quyền chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên do sự can thiệp của Tướng Tôn Thất Đính và Tướng Trần Thiện Khiêm nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại Tá Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung.
Sau ngày đảo chánh hơn một tuần, do sự dàn xếp của Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham mưu Trưởng Liên Quân, ông nhận được sự vụ lệnh về nắm lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù. Cuối tháng 1-1964, với cương vị Tư Lệnh Nhảy Dù, Tướng Viên là thế lực chính phía sau cuộc chỉnh lý của hai Trung Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm hạ bệ Tướng Dương Văn Minh.
Sau chiến thắng trận Hồng Ngự ngày 4/3/1964 ( Đại Tá Viên đã đích thân chỉ huy cuộc hành quân của Chiến Đoàn Nhảy Dù với 2 Tiểu Đoàn 1, và 8 chận đánh một lực lượng cộng sản cấp Trung Đoàn tại Giồng Bàn, Hồng Ngự sát biên giới Miên Việt, và ông bị thương ở cánh tay phải, Cố Vấn Trưởng của Tiểu Đoàn 1ND là Đại Úy Mc Cathy bị tử thương ) ông được đặc cách mặt trận vinh thăng Thiếu Tướng và bàn giao nhiệm vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù cho Trung Tá Dư Quốc Đống, đáo nhậm chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân (Bộ Tổng Tham Mưu ) và đến cuối tháng 6 năm đó, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Sau cuộc chính biến ngày 19/2/1965, Hội đồng Tướng lảnh gạt bỏ Tướng Nguyễn Khánh ra khỏi chính quyền, ông được thăng cấp Trung Tướng và được đề cử giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng vào ngày 14 tháng 10 năm 1965, thay Tướng Nguyễn Hữu Có ( lúc đó kiêm nhiệm). Năm 1967, khi Tướng Nguyễn Hữu Có bị bãi chức, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng trong một thời gian ngắn. Cũng trong năm này, một lần nữa ông được sự tin tưởng của Hội Đồng Tướng Lãnh là một sĩ quan không liên hệ phe phái chánh trị khi ông được vinh thăng Đại Tướng.
Tháng 2/1966, ở hội nghị thượng đỉnh Honolulu, Tướng Viên đã đề nghị với Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson về một chiến lược cô lập CSBV bằng cách lập một hàng rào phòng thủ dọc theo vĩ tuyến 17, hoặc là đánh thẳng qua các cơ sở hậu cần của CSBV ở Hạ Lào và Quảng Bình-Vĩnh Linh. Phía Hoa Kỳ không chánh thức trả lời, nhưng tài liệu cho thấy đầu năm 1967 đại tướng William Westmoreland đã ra lệnh cho MACV soạn thảo dự trù một kế hoạch tấn công qua Lào có tên là Hành Quân El Paso.
Trong thời gian biến động của hai năm 1966-67, Tướng Viên tham dự vào nhiều quyết định quân sự và chính trị trong nội bộ của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.
Trong vụ Phật Tử dấy loạn ở Miền Trung khởi đầu từ tháng 3/1966, Phật giáo chia làm hai khối: Ấn Quang chống Chính phủ và VN Quốc Tự thân chính phủ. Mặt khác, một số Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và SĐ1 có cảm tình với thành phần tranh đấu chống chánh phủ như Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Đính, trong khi Nguyễn Văn Chuân và Huỳnh Văn Cao thì lừng khừng. Vì thế có một lúc Miền Trung gần như không có Chính phủ: Thị trưởng Đà Nẳng, Bs Nguyễn Văn Mẫn, cũng như một số quân nhân, công chức…cùng các thành phần quá khích đem bàn thờ Phật xuống đường biểu tình. Phong trào có nguy cơ lan tràn đến Miền Nam. Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lịnh lực lượng Cảnh Sát phải ra Đà Nẳng để theo sát tình hình và hành động tại chổ. Nhưng hai tuần sau, tình hình càng thêm tồi tệ nguy kịch.
Ngày 15/5/1966 Tướng Viên quyết định can thiệp. Ông ra lệnh cho các
đơn vị Tổng Trừ Bị bất thần chuyển quân ra Đà Nẳng ngay đêm đó, nhập
chung với 4 Tiểu Đoàn khác thuộc một Trung Đoàn của SĐ1BB giao cho Đại
Tá Ngô Quang Trưởng (đang là Tư Lệnh Phó SĐND) chỉ huy tiến vào Thành
Phố Huê và Đà Nẳng để giải tỏa các lực lượng võ trang chống đối. Và rồi
cuộc hành quân cương quyết này đã hoàn thành êm đẹp không một thiệt hại
nhân mạng.
Vào năm bầu cử Tổng Thống 1967 ông là sĩ quan đại diện cho Hội Đồng Quân Lực giải quyết sự bế tắt giữa Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Kỳ, khi cả hai đều muốn tranh cử chức Tổng Thống trong và dưới sự ủng hộ của quân đội. Hội Đồng Quân Lực định đưa Tướng Viên lên chức Quốc Trưởng vì ông là vị tướng có thâm niên nhứt, nhưng Ông đã một mực từ chối vì nhận thức lương thiện khả năng của mình.
Trong suốt thời gian giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng, ông được đánh giá là một Tướng Lảnh có thực tài và không liên quan đến các hoạt động chính trị. Tuy nhiên từ năm 1969 trở đi, vai trò của Tướng Viên như một Tổng Tham Mưu Trưởng bị lu mờ khi Tổng Thống Thiệu bắt đầu trực tiếp điều khiển quân đội thay vì qua hệ thống quân giai của Bộ Tổng Tham Mưu. Tổng Thống Thiệu đã tập trung hết quyền bính trong tay, đã cho thiết lập một hệ thống truyền tin tại dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các Quân Khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm Tư Lệnh Vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu chỉ còn giữ vai trò tuân hành và thị chứng. Do đó, ông đã nhiều lần xin từ chức nhưng không được chấp thuận. Vì vậy ông chỉ có thể phản ứng bằng cách tiêu cực.
Vào năm bầu cử Tổng Thống 1967 ông là sĩ quan đại diện cho Hội Đồng Quân Lực giải quyết sự bế tắt giữa Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Kỳ, khi cả hai đều muốn tranh cử chức Tổng Thống trong và dưới sự ủng hộ của quân đội. Hội Đồng Quân Lực định đưa Tướng Viên lên chức Quốc Trưởng vì ông là vị tướng có thâm niên nhứt, nhưng Ông đã một mực từ chối vì nhận thức lương thiện khả năng của mình.
Trong suốt thời gian giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng, ông được đánh giá là một Tướng Lảnh có thực tài và không liên quan đến các hoạt động chính trị. Tuy nhiên từ năm 1969 trở đi, vai trò của Tướng Viên như một Tổng Tham Mưu Trưởng bị lu mờ khi Tổng Thống Thiệu bắt đầu trực tiếp điều khiển quân đội thay vì qua hệ thống quân giai của Bộ Tổng Tham Mưu. Tổng Thống Thiệu đã tập trung hết quyền bính trong tay, đã cho thiết lập một hệ thống truyền tin tại dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các Quân Khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm Tư Lệnh Vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu chỉ còn giữ vai trò tuân hành và thị chứng. Do đó, ông đã nhiều lần xin từ chức nhưng không được chấp thuận. Vì vậy ông chỉ có thể phản ứng bằng cách tiêu cực.
Sau cuộc rút lui thất bại ở Quân đoàn II và Quân đoàn I, và khi
tình hình quân sự trở nên bi đát, Tướng Viên có xin bác sĩ Phạm Hà Thanh
(Cục Trưởng Cục Quân Y) thuốc độc loại Cyanid để thủ thân, vì biết chắc
chắn nếu bị bắt ông sẽ bị cộng sản hành hạ một cách tàn bạo.
-Hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” của tướng Trần Văn Đôn viết: “Có lần
ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều. Ông Thiệu
nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu trưởng, về việc ông này cứ
ở mãi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời:
“Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở
văn phòng làm việc mà thôi!”
- http://www.nhaydu.com/index_83hg_files/main_files/TS-TuongCaoVanVien.htm -ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN (1921-2008)
“Năm 1975, trước sức ép của dư luận và áp lực quân sự của quân Cộng
sản, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Không lâu sau đó tối Chủ
Nhật 27 tháng 4, sau khi Quốc Hội biểu quyết trao quyền lại cho Tướng
Dương Văn Minh, Ông đã trình lên Tổng Thống Trần Văn Hương nguyện vọng
được về hưu đã xin từ năm năm về trước. Tổng Thống Hương đã thông cảm và
ký sắc lệnh cho ông về hưu. Trong khi chờ đợi tân Tổng Thống Dương Văn
Minh chính thức bổ nhiệm Tổng Tham Mưu Trưởng mới, Tướng Viên chỉ định
Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bô TTM, xử lý thường vụ
chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng. Sau đó ông được di tản ra Hạm Đội 7 vào
trưa thứ Hai, 28/4/1975. di tản sang Mỹ, và định cư tại Arlington.- http://www.nhaydu.com/index_83hg_files/main_files/TS-TuongCaoVanVien.htm -ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN (1921-2008)
Đại tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong ký ức mọi người từng biết ông – thân hữu, bạn đồng đội – hình ảnh của lòng chung thủy, không a dua, không phản trắc, từ tốn, chủ trương đoàn kết trong tình huynh đệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trường, không đạp trên xác đồng đội để tiến thân. Ông là một nhà Tướng phi chính trị nhưng bị thời thế cuốn hút vào chính trường. Sau 1975, ông sống bình lặng tại Arlington, Virginia. Thời gian gần đây ông sống cô đơn trong viện dưỡng lão. Ông mất vào lúc 6.15 sáng ngày 22 tháng 1 năm 2008, hưởng thọ 87 tuổi (1921-2008)
http://www.tqlcvn.org/tqlc/tl-tuongniem-tuong-caovanvien.htm : Nhận định về nhân cách và sự nghiệp ĐT Cao Văn Viên do nhà báo Trần Đông Phong viết:
“Kể từ khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tiền thân của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, được thành lập dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại cho đến ngày
30 tháng 4 năm 1975, người nắm giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng
Tham Mưu lâu đời nhất, từ 1965 đến 1975, tưc là gần 10 năm, là Đại Tướng
Cao Văn Viên, kế đó là Thống Tướng Lê Văn Tỵ, gần 8 năm, từ 1955 đến
1963, còn những vị khác thì thời gian họ nắm giữ chức vụ này rất ngắn
ngủi, có người chỉ chừng vài năm, có người chỉ chừng vài tháng mà thôi.
Tuy nhiên trong số những vị này, Đại Tướng Cao Văn Viên là người duy
nhất đã nắm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng khi quân số của Quân Lực VNCH lên
đến trên 1 triệu người cả nam lẫn nữ và vào những ngày cuối cùng của
Việt Nam Cộng Hòa, ông đã được Tổng Thống Trần Văn Hương bổ nhiệm làm
Tổng Tư Lệnh QLVNCH, một chức vụ mà trong suốt thời Đệ Nhị Cộng Hòa do
chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nắm giữ…..
“Ông Cao Văn Viên sau đó có nói thêm rằng ông “thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” vì vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đã bị còng tay tại Bộ Tổng Tham Mưu vì không chịu tham gia với phe đảo chánh.
“Đại Tướng William C. Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đã nói về Đại Tướng Cao Văn Viên như sau : “tôi rất thán phục Đại Tướng Cao Văn Viên vì tính tình chân thật, trung tín, ít nói, thông minh, lịch duyệt như là một nhà ngoại giao… Lúc ông Diệm bị lật đổ, ông Viên là tư lệnh Nhảy Dù. Mặc dù bị đe doạ đến tính mạng, ông Viên vẫn một lòng trung thành với tổng thống nên không chịu tham gia đảo chánh. Do đó sau khi đảo chánh, ông bị cầm tù và lên án tử hình. Nhưng vì ảnh hưởng cuả ông quá mạnh nên cuối cùng được trả tự do và được trở lại nắm quyền…”
“Tướng Cao Văn Viên Đã Xin Từ Chức Năm, Sáu Lần.
“Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đã đệ đơn xin TT Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lý do là vì tác giả đã ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quá lâu (trên 5 năm,) đã đủ thâm niên quân vụ cùng sức khoẻ kém (có kèm theo giấy bác sĩ chứng nhận.) Trong một cuộc phỏng vấn thu hình dành cho Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh tại Virginia vào năm 2006, cựu Đại Tướng cao Văn Viên cho biết ông đã xin từ chức tất cả là 6 lần”
Lâm Lễ Trinh: Mạn đàm Với ĐT Cao Văn Viên,” ngày 27 tháng 2 năm 2006 đã viết về đại tướng Cao Văn Viên như sau:
“….Là một tướng lãnh trước tình thế hổn loạn ở miền Trung do một nhóm Phật Giáo thân cộng chủ trương phá hoại , ông đã cương quyết đặt quyền lợi Dân Tộc lên trên hết:
“Tôi ra lệnh chính thức cho đơn vị này tập trung đúng ngày, giờ ấn định, tại sân bay Quảng Ngãi nói là để không vận về Sàigòn, thay bằng một tiểu đoàn khác. Phải dùng mưu ấy để đánh lạc hướng Viện Hoá Đạo có người gài khắp nơi. Đêm hôm đó, đúng 12 giờ, tôi đưa thêm 4 tiểu đoàn khác nhập chung với tiểu đoàn có sẵn, thành 5, giao cho đại tá Ngô Quang Trưởng chỉ huy, tràn vô các chùa bắt các phần tử nguy hiểm, giải tán bằng biện pháp mạnh các ổ dân quân, buộc họ buông súng. Cuộc hành quân cương quyết này đã đem lại kết quả.”
“Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim “Rashomon”. Một trăm chứng nhân, một trăm sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hảy để cho hậu thế lượng định và phân xét”.
-Trả lời cuộc phỏng vấn cuả L/S lâm Lể Trinh 9 tháng 5 năm 2006 Đại
Tướng Cao Văn Viên có những nhận định về cuộc chiến VN như sau:“Ông Cao Văn Viên sau đó có nói thêm rằng ông “thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” vì vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đã bị còng tay tại Bộ Tổng Tham Mưu vì không chịu tham gia với phe đảo chánh.
“Đại Tướng William C. Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đã nói về Đại Tướng Cao Văn Viên như sau : “tôi rất thán phục Đại Tướng Cao Văn Viên vì tính tình chân thật, trung tín, ít nói, thông minh, lịch duyệt như là một nhà ngoại giao… Lúc ông Diệm bị lật đổ, ông Viên là tư lệnh Nhảy Dù. Mặc dù bị đe doạ đến tính mạng, ông Viên vẫn một lòng trung thành với tổng thống nên không chịu tham gia đảo chánh. Do đó sau khi đảo chánh, ông bị cầm tù và lên án tử hình. Nhưng vì ảnh hưởng cuả ông quá mạnh nên cuối cùng được trả tự do và được trở lại nắm quyền…”
“Tướng Cao Văn Viên Đã Xin Từ Chức Năm, Sáu Lần.
“Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đã đệ đơn xin TT Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lý do là vì tác giả đã ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quá lâu (trên 5 năm,) đã đủ thâm niên quân vụ cùng sức khoẻ kém (có kèm theo giấy bác sĩ chứng nhận.) Trong một cuộc phỏng vấn thu hình dành cho Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh tại Virginia vào năm 2006, cựu Đại Tướng cao Văn Viên cho biết ông đã xin từ chức tất cả là 6 lần”
Lâm Lễ Trinh: Mạn đàm Với ĐT Cao Văn Viên,” ngày 27 tháng 2 năm 2006 đã viết về đại tướng Cao Văn Viên như sau:
“….Là một tướng lãnh trước tình thế hổn loạn ở miền Trung do một nhóm Phật Giáo thân cộng chủ trương phá hoại , ông đã cương quyết đặt quyền lợi Dân Tộc lên trên hết:
“Tôi ra lệnh chính thức cho đơn vị này tập trung đúng ngày, giờ ấn định, tại sân bay Quảng Ngãi nói là để không vận về Sàigòn, thay bằng một tiểu đoàn khác. Phải dùng mưu ấy để đánh lạc hướng Viện Hoá Đạo có người gài khắp nơi. Đêm hôm đó, đúng 12 giờ, tôi đưa thêm 4 tiểu đoàn khác nhập chung với tiểu đoàn có sẵn, thành 5, giao cho đại tá Ngô Quang Trưởng chỉ huy, tràn vô các chùa bắt các phần tử nguy hiểm, giải tán bằng biện pháp mạnh các ổ dân quân, buộc họ buông súng. Cuộc hành quân cương quyết này đã đem lại kết quả.”
“Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim “Rashomon”. Một trăm chứng nhân, một trăm sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hảy để cho hậu thế lượng định và phân xét”.
“Tại Miền Nam, chúng ta thiếu các yếu tố thuận lợi ấy, chúng ta không liên tục trong sự lãnh đạo. Với một đồng minh như Hoa kỳ, thử hỏi làm gì được? Đồng minh với Mỹ khó hơn là kẻ thù của Mỹ. VN không phải là quốc gia đầu tiên thí nghiệm bài học đau đớn này! VNCH chỉ là một con cờ trong chiến lược toàn cầu của đại cường Hoa kỳ. Chiến lược ấy đạt được mục tiêu sau khi Nixon gặp Mao Trạch Đông năm 1972 tại Bắc kinh…”
Nhận định về con người của đại tướng Cao Văn Viên, Ông Lâm Lể Trinh viết :
“Đại tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong ký ức các người từng biết ông – thân hữu, bạn đồng đội như kẻ bất đồng ý kiến – hình ảnh của lòng chung thủy, “trước sau như một”, không a dua, không phản trắc, từ tốn khi phê bình, chủ trương đoàn kết trong tình huynh đệ chi binh.”
Long Điền tóm lược các nhận định của Đại tướng Cao Văn Viên về cuộc chiến Việt Nam như sau:
1-Ông Cao Văn Viên mặc dù lên đến cấp bậc đại tướng, giử chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH một chức vụ cao nhất trong quân đội nhưng ông không hề có tham vọng chính trị mà chỉ muốn thi hành các nhiệm vụ trong Quân Lực VNCH giao phó.
2-Ông gần như không tham gia vào các cuộc đảo chánh dù có bị mua chuộc hoặc ép buộc bởi các phe đảo chánh.
3-Trong biến động Miền Trung 1966 ông là một trong những nhân vật có công trong việc dẹp loạn Cộng Sản với ý đồ lợi dụng Phật Giáo để cướp chính quyền.
4-Ông Cao Văn Viên là một tướng lãnh gương mẫu về tư cách, đạo đức, tình chiến hữu xứng đáng làm gương cho các quân nhân QLVNCH.
Đọc từ đầu: “Cuộc chiến Việt Nam 1945-1975″1 - 2 - 3 - 4 - 5.-6 - 71-Ông Cao Văn Viên mặc dù lên đến cấp bậc đại tướng, giử chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH một chức vụ cao nhất trong quân đội nhưng ông không hề có tham vọng chính trị mà chỉ muốn thi hành các nhiệm vụ trong Quân Lực VNCH giao phó.
2-Ông gần như không tham gia vào các cuộc đảo chánh dù có bị mua chuộc hoặc ép buộc bởi các phe đảo chánh.
3-Trong biến động Miền Trung 1966 ông là một trong những nhân vật có công trong việc dẹp loạn Cộng Sản với ý đồ lợi dụng Phật Giáo để cướp chính quyền.
4-Ông Cao Văn Viên là một tướng lãnh gương mẫu về tư cách, đạo đức, tình chiến hữu xứng đáng làm gương cho các quân nhân QLVNCH.
_____
Nội Dung cuốn sách:
Chương Một : Mục đích quyển sách . (Từ trang 5-16)
Chương Hai :Nhận định cuộc chiến : (16-959)
a-Nhận định cuộc chiến Việt Nam của phía Quốc Gia: (14-180)
1-Quốc Trưởng Bảo Đại , (14-27)
2-Tổng thống Ngô Đình Diệm , (27-49)
3-Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu , (49-64)
4- Tổng thống Trần Văn Hương, (64-66)
5-Chủ tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn , (66-69)
6-Đại Tướng Cao Văn Viên,Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (70-96)
7- Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, (96-110)
8-Sử gia Trần Trọng Kim, (111-115)
9-Sử gia đại tá Phạm Văn Sơn, (115-120)
10 Sử gia Hoàng Cơ Thụy, (120-123)
11-Sử gia Trần Gia Phụng, (123-142)
12-Nhà nghiên cứu sử Minh Võ, (142-147)
13-Luật Sư Lâm Lể Trinh, (147-166)
14-Sử gia Hứa Hoành , (166-170)
15-Sử gia tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu. (170-180)
b-Nhận định cuộc chiến Việt Nam của phía Cộng sản(và thân cộng sản): (181-589)
1- Hồ Chí Minh,chủ tịch đảng Cộng sản VN (181-228)
2- Phạm Văn Đồng,thủ tướng (228-234)
3- Võ Nguyên Giáp, đại tướng (234-264)
4-Lê Duẩn, Tổng Bí Thư (264-268)
5- Trường Chinh,Tổng Bí Thư (268-292)
6- Võ Văn Kiệt,Thủ Tướng (292-318)
7- Trần Văn Giàu, Sử gia (318-369)
8- Trần Quốc Vượng ,Sử gia (370-384)
9-Nguyễn Văn Trấn, nhà báo (384-412)
10- Trần Bạch Đằng, Chính trị gia (412-423)
11 Tố Hữu, ủy viên Bộ Chính Trị (423-445)
12-Nguy ễn Văn Linh, Tổng Bí Thư (445-459)
13-Nguyễn Mạnh Tường, trí thức yêu nước (460-499)
14-Bùi Tín, đại tá Phó Biên Tập báo Nhân Dân (499-532)
15-Nguyễn Minh Cần, nhà văn CSVN (532-589)
c-Nhận định cuộc chiến phía Quốc Tế : (589-959)
1-Harry S. Truman,tổng thống Hoa Kỳ (591-595)
2-Winston Churchill, Thủ tướng Anh (596-615)
3-Josef Stalin, Tổng Bí Thư đ ảng CS Liên Xô (615-635)
4-John Kennedy,Tổng Thống HK (635-642)
5-Richard Nixon. Tổng Thống Hoa Kỳ. (642-653)
6-Henry Kissinger, Ngoại trưởng Hoa Kỳ (653-681)
7-Bill Laurie, sử gia (681-705)
8-Mark Moyar, sử gia (705-752)
9-Stephen Young, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ (752-761)
10-W.Westmoreland, Đại tướng TTM Trưởng Lục Quâ n Hoa Kỳ (761-827)
11-Vanuxem, Đại tướng Pháp (828-850)
12-Pierre Darcourt, Sử gia (850-868)
13-Michel Tauriac, Nhà văn,nhà báo Pháp. (868-886)
14-Rudolph J.Rummel,Sử gia. (886-894)
15-Lewis Sorley, GS Đại Học Chiến tranh Hoa Kỳ (894-915)
Chương Ba :Sự tác hại của cuộc chiến do Cộng sản Việt Nam chủ mưu (915-915)
Chương Bốn :Đường hướng đấu tranh tương lai cho một nước Việt Nam Dân Chủ và Tự Do thật sự (916-916).
Chương Năm :Kết luận (917)
Chương Sáu: Phụ chú (918)
TỪ VẬN ĐỘNG VÃN HỒI HIỆP ĐỊNH PARIS 1973 ĐẾN SOẠN THẢO HIẾN CHƯƠNG 2000 : MỘT GIẢI PHÁP TRUNG LẬP CHO VIỆT NAM ? *
TrinhanMedia
Lê Quế Lâm
16-7-2011
trích từ “Những Đóng Góp Cho Đất Nước Sau 1975 Của Một Chứng Nhân Lịch Sử: GS Vũ Quốc Thúc”
trích từ “Những Đóng Góp Cho Đất Nước Sau 1975 Của Một Chứng Nhân Lịch Sử: GS Vũ Quốc Thúc”
Nhân kỷ niệm lần thứ 38 Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Gs VQT
[Vũ Quốc Thúc] tổ chức cuộc hội thảo ngày 7/12/1986 tại Paris về vấn đề
thuyền nhân.
Ông mời một số luật sư tên tuổi làm thuyết trình viên như Thẩm phán
Nguyễn Thạch Vân, cựu Bộ trưởng Phủ Tổng thống, Luật sư Vương Văn Bắc,
cựu Bộ trưởng Ngoại giao, Luật sư Trần Thanh Hiệp, cựu bộ trưởng…
Thảm cảnh thuyền nhân theo phân tích của các luật gia, xuất phát từ
quyền tự quyết của nhân dân bị tước đoạt. Nhà cầm quyền CS bắt dân VN
chấp nhận nếp sống trái ngược với truyền thống văn hóa mình, trái ngược
với nguyện vọng dân tộc của mình và tồi tệ hơn nữa, trái hẳn với nhân
phẩm của mình. Người ta không có lối thoát nào khác nên phải liều mạng
ra đi.
Luật sư Vương Văn Bắc kết luận: HĐ Paris 1973 cũng như văn kiện ngày
2/3/1973 của Hội nghị quốc tế về VN đều có chứa đựng một số điều khoản
nếu được thi hành đứng đắn đã tránh được thảm họa thuyền nhân. Các thỏa
hiệp đó chưa hề mất giá trị. Nếu bây giờ làm sống lại, người ta có hy
vọng thiết lập một nền hòa bình lâu dài ở Đông Dương và như vậy sẽ giải
quyết một cách dứt khoát thảm trạng thuyền nhân. Nếu thảm họa này kéo
dài, hiển nhiên đó là một mối đe dọa thường xuyên đối với nguyên tắc
thượng tôn pháp luật. Sau ba tiếng đồng hồ hội thảo, các tham dự viên đã
đi đến quyết định thành lập Ủy ban Luật gia Vận động Vãn hồi Hiệp định
Paris 1973 do Gs VQT làm chủ tịch.
Lúc bấy giờ, thế giới lên án CSVN can dự vào cuộc chiến ở Campuchea
và vi phạm nhân quyền trầm trọng. Nghị quyết của Đại hội Đồng LHQ năm
1985, yêu cầu quân ngoại nhập (CSVN) phải rút khỏi Miên với 114 phiếu
thuận, chỉ có 21 phiếu chống và 16 nước vắng mặt. Với gần 200 ngàn quân
đang bị sa lầy ở Miên, nền hòa bình và thịnh vượng mà người dân VN mong
đợi như là phần thưởng sau mấy chục năm chiến tranh vẫn còn là giấc mơ.
Trong tình thế đó, việc Vãn hồi HĐ Paris 1973 trở nên cấp bách. Gs VQT
cảnh báo các cường quốc đừng nên lầm tưởng có thể giải quyết riêng biệt
vấn đề hòa bình ở Campuchea. Muốn tiến tới một nền hòa bình thực sự ở
Đông Dương cần phải để những người Quốc gia chia sẻ quyền hành với Đảng
CSVN. Giải pháp thích hợp nhất là trở lại HĐ Paris 1973: không phải mãi
mãi chia đôi VN, mà là để hoàn thành sự tái thống nhất trong tinh thần
hoà hợp, hòa giải bằng thương thuyết giữa hai bên đối nghịch.
Vận động vãn hồi HĐ Paris 1973
Ngày 23/5/1987 tại Paris, với sự hỗ trợ tích cực của Ủy ban Pháp
Quốc yểm trợ một nước VN tự do (Comité Francais de soutien pour un
Vietnam libre), Gs VQT đã tổ chức một cuộc hội thảo công khai về việc
trở lại HĐ Paris 1973. Nhân dịp này Ủy ban Luật gia VN đặt lại vấn đề
hiệu lực của HĐ Paris 1973 (Comité de juristes Vietnamiens pour la
remise en vigueur des Accords de Paris de 1973) đã công bố chính thức
Bạch thư (Libre blanc) với tựa đề Guèrre et Paix en Indochine (Chiến
tranh và hòa bình ở Đông Dương). Để trở lại HĐ Paris 1973, nhằm giải
quyết các vấn đề nan giải của các nước ĐD, Bạch thư kêu gọi Pháp đứng ra
triệu tập một hội nghị Paris mở rộng, bao gồm 5 Ủy viên Thường trực Hội
đồng Bảo An LHQ, bốn nước nguyên thành viên Ủy hội Quốc tế Kiểm soát
Đình chiến ĐD năm 1954, hai phe Quốc Cộng của ba nước Việt Miên Lào.
Cuộc hội thảo do Gs VQT chủ tọa cùng với Dân biểu Georges Mesmin,
Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ Nghị Viên Quốc hội Pháp, đồng thời cũng là
Thị trưởng Quận 16 Paris. Và dân biểu Pierre Bas, Chủ tịch Ủy ban Pháp
Quốc Yểm trợ một nước VN Tự do. Ông này là thành viên của Đảng
Rassemblement pour la Republique (RPR) đang nắm đa số tại Quốc hội.
Ngoài chức vụ dân biểu quốc hội, ông Pierre Bas còn là thị trưởng của
Quận 6 Paris. Mục đích của buổi hội thảo là giải quyết vấn đề VN kèm
theo vấn đề Cam Bốt trên cơ sở lý luận, không thể giải quyết vấn đề hòa
bình Cam Bốt một cách riêng rẽ, vì tình hình Cam Bốt với tình hình VN và
Lào gắn bó mật thiết với nhau.
Trong hồi ký, Gs VQT thừa nhận: “Dù không tin tưởng triển vọng HĐ
Paris có thể sống lại, nhưng ít ra nó cũng đem lại cho mọi người một tia
sáng nào đó, khi mọi người còn đang ở trong đường hầm. Ít nhất người ta
thấy có một giải pháp cụ thể hơn là những bản tuyên ngôn thông thường.
Chúng ta là người VN tự do, chúng ta có bổn phận đòi vãn hồi HĐ Paris
1973, vì chúng ta bị tước đoạt một quyền thiêng liêng được minh thị bảo
đảm trong hiệp định. Đó là quyền tự quyết của nhân dân MN. Nếu chúng ta
không yêu sách, thì ai đòi hỏi cho chúng ta? Giải pháp do anh em luật
gia đưa ra dựa trên những nguyên tắc quốc tế công pháp, trên những bản
hiệp định vẫn còn giá trị theo công pháp quốc tế. Chúng tôi chỉ còn
trông mong vào sự phù hộ, tin tưởng ở sự huyền diệu của Đức Mẹ. Nếu đạt
được phần nào kết quả cũng là nhờ ơn thiên điển mà thôi”.
Lúc bấy giờ, một số người không muốn TT Thiệu trở lại vai trò tổng
thống VNCH trong đó có Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy không tán thành việc coi
ông Thiệu là đại diện của phe quốc gia. Trái lại ông Thiệu lại tha thiết
với việc làm sống lại HĐ Paris. Còn phần HK, trước buổi hội thảo một
ngày, một luật sư HK tên David Steinman xin gặp ông Thúc,nói rằng ông là
cộng sự viên của ông Moynihan, Thượng Nghĩ Sĩ Đảng Dân chủ HK Tiểu bang
New York, đại diện không chính thức của Kissinger. Luật sư Steinman cho
biết HK không muốn ông Thiệu tham dự công khai cuộc hội thảo, vì nó có
thể gây nên nhiều ngờ vực, thắc mắc với những bình luận không có lợi cho
HK. Ông đề nghị để ông Thiệu tham dự ở hậu trường, đừng ra mặt. Ông
Thúc đề cập với David Steinman về “công cuộc đấu tranh của chúng tôi để
biến VN thành một nước tự do”. Ông ta nói “Sớm muộn gì quý vị cũng phải
dùng biện pháp “civil disobedience” (bất tuân dân sự). Phải có phong
trào bất tuân dân sự trên toàn quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ
cộng sản độc tài”.
Sau đó ít lâu, vào khoảng 12/1987 một buổi hội thảo tổ chức ở Paris
và lần này có sự tham dự của Kissinger. Ông ta giải thích sở dĩ HK
không phản ứng sau khi Hà Nội vi phạm hiệp định vì HK đang bị lúng túng
vì vụ Watergate. Dư luận HK cho rằng Mỹ đã rút hết quân rồi, việc BV vi
phạm hiệp định Paris xâm chiếm MN, là việc nội bộ của VN, HK không thể
nào nhân cơ hội này trở lại VN để bị lôi cuốn một lần nữa vào “vũng bùn
chiến tranh” và Quốc hội Mỹ cũng không chấp nhận. Như vậy sự ngăn chận
không cho ông Thiệu lên tiếng công khai để đặt lại vấn đề VN cũng là
điều dễ hiểu. Mặc dù vậy, ông Thiệu cũng vẫn tiếp tục sang Paris nhiều
lần sau đó. Năm 1993, ông cỏn gởi thư đến Tổng Thư ký LHQ yêu cầu thi
hành trở lại HĐ Paris 1973.
Quả thật, lúc đó HK đã có nổ lực giúp giải quyết vấn đề hòa bình ở
Cam Bốt. Kết quả là một hiệp định Paris thứ hai ra đời ngày 23/10/1991
để giải quyết cuộc chiến ở Cam Bốt. Hiệp này rập khuôn HĐ Paris 1973 về
VN, cũng được một hội nghị quốc tế thừa nhận, bao gồm 5 nước Ủy viên
Thường trực HĐBA, 6 nước ASEAN và các nước khác là Nhật, Úc, Gia Nã Đại,
Ấn Độ và Zimbabwean ký trước sự hiện diện của ông Boutros Boutros
Ghali. Năm 1993 cuộc tổng tuyển cử dân chủ tự do có sự quan sát của quốc
tế được tổ chức, từ đó Cam Bốt trở thành một quốc gia với thể chế dân
chủ đa đảng.
HĐ Paris 1991 được ký kết giữa bốn bên người Khmer: Hun Sen (Khmer
Đỏ thân VN) Khieu Samphan (Khmer Đỏ thân TC), Son Sann (Khmer Tự do) và
thái tử Ranaridh Sihanouk (trung lập). Theo đó, việc vãn hồi HĐ Paris
1973 chỉ có thể thành tựu, nếu có sự hiện diện của 4 phe VN, họ chịu
ngồi lại với nhau là: CSVN, VNCH, MTGPMN và Thành phần Thứ Ba. Việc này
vô cùng khó khăn và cũng không có cường quốc nào có khả năng dàn xếp
được, vì thế việc Vãn hồi HĐ Paris 1973 thất bại.
Soạn thảo Hiến Chương 2000
Sau khi nhận thấy công cuộc vãn hồi HĐ Paris 1973 không đem lại kết
quả, trong khi HK chuẩn bị bình thường hóa bang giao với Hà Nội. Việc
này đã xảy ra năm 1995 sau những biến chuyển ở Liên Xô và Đông Âu. TT
Bill Clinton tuyên bố “Tôi tin rằng việc bình thường hóa và tăng cường
các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người VN sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở
VN như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”. Sự kiện này
khiến Gs VQT nhớ đến nhận định của L/sư David Steinman sau cuộc hội thảo
về HĐ Paris 1973 ngày 23/5/1987. Ông ta đưa ra ý kiến: muốn thay đổi
thể chế chính trị ở quốc nội VN cần phải tạo được một phong trào bất
tuân dân sự. Phong trào đó phải được nhiều người trong chính quyền yểm
trợ, đặc biệt ở thủ đô, nói cách khác không thể trông cậy vào sự can
thiệp từ bên ngoài.
Cuộc cách mạng dân chủ hóa ở nhiều nước cựu CS như Tiệp Khắc, Ba
Lan Đông Đức, Hung Gia Lợi…đã xảy ra nhờ sự tranh đấu ôn hòa nhưng quyết
liệt của nhân dân, trong đó phương pháp bất tuân dân sự là lợi khí chủ
yếu. Nhân dân không tuân lịnh nhà cầm quyền, đòi hỏi nhà cầm quyền phải
thay đổi thể chế, rốt cuộc, nhà cầm quyền đã phải nhượng bộ trước áp lực
của quần chúng. Một cuộc cách mạng nhung (Velvet Revolution) ở Tiệp
Khắc có thể xảy ra ở VN được không? Gs Thúc trả lời: Có.Tại sao? Vì có
nhiều khả năng quần chúng càng ngày càng ý thức được quyền tự do thiên
bẩm của mình, rồi chính những kẻ cầm quyền cũng càng ngày càng có khả
năng phản tỉnh, bỏ dần đường lối độc tài của họ để đi tới đa nguyên đa
đảng.
Theo Gs Thúc, cần phải làm một cái gì để kích thích lòng ham muốn
tự do, đánh thức tinh thần tranh đấu của những người trong nước. Bắt đầu
với những người cầm quyền, nghĩa là những đảng viên CS. Phải làm cho họ
ý thức được xu hướng của thế giới là dân chủ hóa, là tiến tới thể chế
chính trị đa đảng đa nguyên trong đó người dân thực sự làm chủ đất nước.
Khẩu hiệu chế độ “của dân, do dân, vì dân” không phải khẩu hiệu suông
nữa. Giáo sư Nguyễn Bá Long ở Canada đưa ra ý kiến soạn thảo một hiến
chương giống như Hiến chương 77 của các nhà dân chủ Tiệp Khắc dưới sự
lãnh đạo tinh thần của học giả Vaclav Havel. Gs Thúc tán thành, tham gia
soạn thảo hiến chương và nhận làm đồng sáng lập viên của Phong trào
Hiến chương 2000. Bản HC 2000 được công bố tại Paris ngày 25/11/2000.
Đây là một tuyên ngôn về dân chủ tự do dưới hình thức một bản hiến
chương, để làm cơ sở cho một thể chế chính trị mới, một xã hội dân chủ
mới.
Từ chủ trương trên, Gs VQT cho rằng chỉ còn cách là đấu tranh với
Đảng CSVN để tranh thủ nhân dân. Sau 30/4/1975, người Việt tự do không
còn phương tiện nào cả thì làm sao tiếp cận và tranh thủ được nhân dân.
Tuy nhiên, chế độ đương quyền ở VN đã tồn tại, bằng cách “luồn lách”,
“đổi màu như con tắc kè” “lột xác” như rắn độc.
Sau khi LX giải thể, Hà Nội lập tức thay đổi đường lối chạy theo
Bắc Kinh, không ngần ngại chấp nhận mọi yêu sách của BK. Như vậy VN đã
phải trả một giá rất đắt để được BK yểm trợ. Càng ngày họ càng thấy bá
quyền của TQ nặng nề hơn, dù muốn chống lại cũng không phải dễ dàng gì,
trong khi nguyện vọng thay đổi thể chế vẫn tồn tại trong nhiều tầng lớp
nhân dân. Những tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực truyền thông mang lại
cho họ niềm hy vọng mới: chính quyền độc tài không thể nắm được bộ máy
thông tin cũng như bộ máy giáo dục quần chúng một cách tuyệt đối nữa.
Bằng mọi cách người dân có thể thu nhận tin tức từ các nơi đưa lại. Nhờ
đó, sớm muộn gì người dân các nước độc tài cũng sẽ trở lại truyền thống,
vẫn thiết tha đến tự do, đến tư hữu.
Ngoài ra, nhân số của đảng cầm quyền ngày càng tăng vì có nhiều đặc
quyền đặc lợi. Nhưng khi đảng viên đông quá làm sao chia “chiếc bánh
chung” cho toàn thể mọi người được. Lúc đó giữa các đảng viên sẽ xuất
hiện sự phân biệt: có những phe được lợi nhiều vì chiếm được những địa
vị “béo bở”, còn đại đa số đảng viên khác không được như vậy. Hiện tượng
“trâu buộc ghét trâu ăn” sẽ xuất hiện ngay trong nội tâm chế độ, trong
đầu óc các đảng viên. Phe nọ phe kia tranh giành nhau quyền lực, nên
tìm cách mị dân, dùng những khẩu hiệu như tự do, dân chủ, bảo vệ những
kẻ “thấp cổ bé miệng” chống lại sự lạm dụng quyền hành, chống lại sự
tham nhũng. Đó là mầm móng đưa tới sự thay đổi thể chế chính trị. Tệ nạn
tham nhũng khiến cho đảng CS sẽ phải sụp đổ để nhường cho một chế độ
dân chủ hơn.
Giải pháp để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn: VN xây dựng chế độ Dân chủ Tự do và trung lập
Ngày 10/7/2011 vừa qua, tại Bắc Kinh, Đô đốc Mike Mullen, Tổng TMT (Liên quân) Quân đội HK tuyên bố: “Mỹ
đã hiện diện lâu dài trong khu vực Á Châu, vì thế HK cũng có một trách
nhiệm lâu dài. Sự hiện diện lâu dài của chúng tôi trong khu vực đã rất
quan trọng với các đồng minh của chúng tôi trong nhiều thập kỷ qua và sẽ
tiếp tục đóng vai trò như vậy”. Lời xác định sự hiện diện của HK ở
Biển Đông, khiến người ta nhớ lại nhận định của Gs VQT ngày 24/7/2008 về
hai cuộc vận động ngoại giao cấp cao của chính quyền Hà Nội về chủ
quyền của VN trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuối tháng 5/2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cầm đầu phái đoàn sang
Bắc Kinh, gồm hầu hết các đảng viên cao cấp đang chủ trì các ban ngành
trong bộ máy đảng. Phó trưởng đoàn là Phạm Gia Khiêm, Uỷ viên Bộ Chính
trị, vừa là Phó thủ tướng kiêm nhiệm Bộ trưởng Ngoại giao. Còn phía Đảng
CSTQ, những lãnh tụ cao cấp như Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng như Bộ trưởng
Ngoại giao công khai vắng mặt. Còn Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chỉ dự buổi tiếp
tân, theo đúng nghi lễ mà thôi. Qua cách xử sự này, cho thấy nhà cầm
quyền BK phân biệt rõ ràng hai tư cách Đảng CSTQ và Chính phủ TQ. Do đó
các vấn đề đất đai như Hoàng Sa và Trường Sa phải dành lại cho chính phủ
hai nước điều đình với nhau.
Để tránh sự đổ vỡ trong quan hệ giữa hai đảng Cộng sản VN và TQ,
bản Thông cáo chung đề ngày 1/6/2008 nhắc lại khẩu hiệu 16 chữ đã được
hai bên long trọng chấp nhận làm cơ sở giao hữu. Một điều đáng để ý là
ngay trong phần nhập đề, bản Thông cáo chung đã gián tiếp xác định một
nguyên tắc rất quan trọng. Đó là mỗi bên, TC cũng như CSVN, có quyền tùy
theo hoàn cảnh đặc thù của nước mình chọn một đường lối riêng để tiến
tới đích chung là thực hiện xã hội chủ nghĩa. Nói rõ hơn là VN không bó
buộc phải theo đúng kiểu mẫu cũng như chính sách đối nội và đối ngoại
của TQ (miễn là không chống TQ) Nếu theo đúng nguyên tắc này, quan hệ
giữa VN với TQ, rồi đây, có thể giống như một tiền lệ lịch sử là quan hệ
giữa Nam Tư cũ (Yougoslavie) với Liên Xô cũ. Không những Nam Tư theo
thể chế tự quản mà lại còn công khai đứng trong hàng ngũ các quốc gia
không liên kết, nghĩa là đứng trung lập trong cuộc chiến tranh lạnh giữa
HK và LX.
Cuộc vận động ngoại giao ở BK đã mang lại cho chính quyền Hà Nội
một bài học, đó là các nhà lãnh đạo TQ dù theo ý thức hệ CS vẫn đặt
quyền lợi cụ thể của nước họ lên trên hết.
Chỉ mấy ngày sau khi phái đoàn Nông Đức Mạnh trở về nước, một phái
đoàn chính phủ VN do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cầm đầu đã lên đường đi
HK. Cùng đi với Dũng có Phạm Gia Khiêm, người đã tham dự cuộc vận động
ngoại giao ở BK. Các quan sát viên vô tư không khỏi thắc mắc: Tổng thống
HK G. W. Bush sắp hết nhiệm kỳ. Người kế vị có thể là John McCain hay
Barack Obama. Dù sáng kiến cuộc gặp gỡ Mỹ-Việt này do phía nào chăng
nữa, ta vẫn phải tìm hiểu tại sao người ta không đợi tới sau cuộc bầu cử
tổng thống Mỹ? Phải có một nguyên nhân nào đó khiến cho cuộc gặp gỡ trở
nên khẩn trương. Tất nhiên nguyên nhân này liên can đến cả hai nước HK
và VN.
Về phần VN, việc nổi bật là vụ TQ coi quần đảo Trường Sa của họ
rồi. TQ cũng không giấu diếm ý định sát nhập Trường Sa, Hoàng Sa và một
quần đảo nữa thành huyện Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam. Rồi một số cơ
quan truyền thông tiết lộ là TQ đã thiết lập tại đảo Hải Nam một căn cứ
hải quân tối tân có thể dùng làm cứ điểm cho nhiều tàu ngầm và cả hàng
không mẫu hạm. Như vậy TQ không che dấu tham vọng khống chế toàn khu vực
Biển Đông, là một đường tiếp tế có tầm quan trọng chiến lược đối với
họ.
Về phần HK, Bản thông cáo chung được phổ biến sau cuộc gặp gỡ giữa
ông G. W. Bush và Nguyễn Tấn Dũng rất ngắn ngũi và mơ hồ. Tuy nhiên có
một điểm khiến chúng tôi chú ý đặc biệt, đó là: HK xác nhận nguyên tắc
tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của VN. Khẳng định lập trường này, rõ
ràng là ông G.W.Bush muốn gởi một tín hiệu cho TQ: Các ông đừng vội coi
quần đảo Trường Sa là đất của các ông trong khi chủ quyền quần đảo này
còn đang là nội dung tranh chấp giữa các ông với nhiều nước trong vùng.
Những sự việc vừa duyệt lại, đưa chúng tôi tới kết luận: tình hình
quân sự-chính trị ở Biển Đông đang trở nên nghiêm trọng. Một lần nữa quê
hương chúng ta lại lâm vào thế kẹt, giữa hai lực lượng quốc tế đối
nghịch. Đã đến lúc không thể úp úp mở mở được nữa mà phải minh bạch hóa
thế đứng của mình. Những người Việt tha thiết với tiền đồ của dân tộc,
có trách nhiệm làm mọi cách để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn
trên quê hương đã quá đau khổ của chúng ta. (Paris, ngày 24/7/2008 –
VQT)
Giải pháp mà Gs VQT đề nghị từ ba nước là VN phải dân chủ hóa thể
chế chính trị để kiện toàn nền độc lập của xứ sở. VN đi theo con đường
trung lập để tránh va chạm với HK và TQ. Sau đó vận động thành lập một
khu vực trung lập với các nước láng giềng ở phương Nam TQ. Nhờ đó VN dễ
dàng hòa nhập với các nước chung quanh Biển Đông để cùng nhau thương
lương với TQ về chủ quyền các quần đảo trong khu vực.
Qua nhận định trên của Gs VQT, cho thấy từ giữa năm 2008, thái độ của
giới lãnh đạo Đảng CSTQ đối với CSVN bắt đầu lạnh nhạt, khác xa cuộc họp
thượng đỉnh Thành Đô năm 1990. Trong 18 năm sau đó “VN đã phải trả một
giá rất đắt để được BK yểm trợ Đảng CSVN”. Những gì mà Đảng CSVN đã
nhượng bộ và thỏa thuận với TQ, đặc biệt là Biển Đông, từ nay nếu có sự
tranh chấp, sẽ được giải quyết giữa hai chính phủ theo công pháp quốc
tế.
Chính phủ có thể làm được việc này, nhưng Đảng CSVN đành bó tay, vì
đã có sự đồng thuận ở cấp cao nhất giữa TT Phạm Văn Đồng và TT Chu Ân
Lai năm 1958 cũng như giữa Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ
Mười năm 1990. Điều khó khăn là Đảng CS đang lãnh đạo toàn diện đất
nước.
Trong Đại hội XI Đảng CSVN vừa qua, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Ủy
viên Bộ Chính trị Phạm Gia Khiêm đã bị loại, trong khi TT Nguyễn Tấn
Dũng vẫn còn tại vị. Nguyễn Phú Trọng, một người thân TQ được bầu làm
Tổng Bí thư Đảng, chỉ là một bóng mờ trước TT Nguyễn Tấn Dũng mà quyền
thế ngày càng gia tăng. Rồi đây, ông Trương Tấn Sang đảm nhận vai trò
Chủ tịch nước, Hiến pháp có thể được tu chính để Chủ tịch nước đảm nhận
vai trò lãnh đạo tối cao của nước VN, chớ không phải Tổng Bí thư Đảng
CSVN. Chủ tịch nước và thủ tướng đều là dân biểu được nhân dân bầu chọn
và được Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất tấn phong, sẽ thay mặt
nhân dân thương thảo với chính phủ TQ mới có cơ may thu hồi cương thổ.
Chớ Đảng CS không làm gì được.
Sự khẳng định của HK duy trì sự hiện diện lâu dài ở châu Á, cho
thấy đã đến thời điểm “VN không thể úp úp mở mở được nữa”. Xin nhắc lại,
trong diễn văn trước phiên họp cuối cùng của Đại hội Đặc biệt toàn Đảng
CS Liên Xô hồi cuối tháng 6/1988, Tổng Bí thư Gorbachev cho rằng hệ
thống Xô Viết sẽ sụp đổ nếu họ không kịp thời nhận thức bài học của lịch
sử và nhìn nhận những sai lầm trầm trọng mà các lãnh tụ đảng đã theo
đuổi trong mấy chục năm qua. Ông nhấn mạnh “sự sống còn của chủ nghia xã
hội đang nằm trong tay của đảng. Nó sẽ chết nếu chúng ta không trao
quyền cho nhân dân”.
Tình thế VN đã chín muồi. Đảng CSVN dính liền với Công hàm năm 1958
của TT Phạm Văn Đồng và 16 chữ vàng từ 1990 đến nay. Nếu Quốc hội không
sớm giải quyết, thì đến lượt nhân dân phải hành động qua các đòi hỏi ôn
hòa để bảo vệ giang sơn của tiền nhân để lại. Tính đến nay đã có ba
kiến nghị của những trí thức nổi tiếng trong nước lên tiếng đòi Bộ Chính
trị Đảng CSVN phải có hành động. Đại đa số đảng viên CS không có những
địa vị “béo bỡ”, sẽ cân phân giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi đất
nước, họ sẽ đồng tình với toàn dân để cứu nước, vừa để bảo vệ sự an toàn
cho cá nhân và gia định họ.
Lòng yêu nước của nhân dân và sự thức tỉnh của những người CS trong
bộ máy chuyên chính sẽ tạo ra cuộc Cách mạng Nhung, chuyển đổi thể chế
độc tài chuyên chính sang một nền Dân chủ đích thực tại đất nước ta,
trong đó các nhân quyền và quyền tự do căn bản phải được tôn trọng, vừa
đoàn kết toàn dân bảo vệ đất nước
…..
Lê Quế Lâm
* Trí Nhân Media đặt tựa đề Ý tưởng cho một Hiến pháp mới
Boxitvn
Nguyễn Khắc Mai
Hai văn bản chính thống,
một là của TBT TƯ Đảng chỉ thị về tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về
Hiến pháp, và Nghị quyết của Quốc hội về vấn đề trên đều chỉ đưa ra
những hướng dẫn có tính chất kỹ thuật, tuyệt không có nói gì đến một tư
tưởng, một triết lý mới cho một Hiến pháp mới của Dân tộc trong một thế
kỷ mới khi nhân loại đã bước vào một thời đại mới.
2/ Tiền đề cho một cuộc
thảo luận dân chủ rộng rãi, với văn hóa biện luận văn minh, khoa học là
phải vượt lên trên mọi suy diễn, áp đặt, khiến cho một cuộc thảo luận
dân chủ, thu thập được các ý kiến khác nhau của mọi tầng lớp nhân dân có
chính kiến khác nhau thật sự thành tâm mong có một Hiến pháp xứng tầm
của Dân tộc trong thời kỳ mới, là phải vượt qua điều 88 luật Hình sự.
Cần tuyên bố rằng mọi ý kiến trong thảo luận Hiến pháp mới không được
lấy làm căn cứ để kết tội chống phá đường lối của Đảng, của Nhà nước. Có
như thế cuộc trưng cầu ý kiến của nhân dân này mới thật “đàng hoàng tử
tế” (chữ đàng hoàng là chữ của cụ Hồ).
Nguyễn Khắc Mai
|
a. Phục hưng
Chấn chỉnh những sai lệch do quá trình theo mô hình
“Xô viết”, tư tưởng Mao và duy trì tâm thức tiểu nông lạc hậu kéo dài
ngót một thế kỷ, khiến cho các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 (sửa đổi
năm 2001) không làm tròn được nhiệm vụ mở đường rộng rãi để Dân tộc phát
triển kịp với xu thế khu vực và thế giới. Đất nước ngày càng tụt hậu,
xã hội bất an và suy thoái. Sau nửa thế kỷ, đất nước ta ngày càng tụt
hậu xa so với khu vực. Thế mà 40, 50 năm trước chúng ta đã có cùng họ
một trình độ phát triển!
b. Phát triển
- Phải từ bỏ con đường theo mô hình “xô viết”. Cần
phân biệt rõ hai phạm trù rất khác nhau là Những tư tưởng XHCN và phạm
trù gọi là “Chế độ XHCN”. Cái gọi là chế độ XHCN về cả lý thuyết lẫn
thực tiễn đã thật sự phá sản ngay trên quê hương của nó.
- Giữ gìn nền Độc lập mà nội hàm của Độc lập là phát
triển hạnh phúc của nhân dân và dân chủ xã hội (như Hồ Chí Minh quan
niệm, mà các HP vừa qua đã không làm tròn sứ mệnh).
- Hội nhập với thế giới.
- Thực thi dân chủ đa nguyên, tam quyền phân lập.
- Thi hành kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Công nhận
quyền sở hữu của Dân như Các Mác từng nói vào cuối đời: “Những người sản
xuất chỉ trở thành người Tự do chỉ khi họ có sở hữu: đất đai, nhà
xưởng, tàu thuyền, ngân hàng, tín dụng…” (xem Các Mác Ekonomic I). Thật
sự mở đường cho nhân dân làm kinh tế thị trường đầy đủ chứ không phải là
đi van xin nước ngoài công nhận thị trường đầy đủ.
- Phát triển xã hội dân sự. Thực thi chế độ tự do lập
hội kể cả quyền bình đẳng của các Đảng chính trị vì dân vì nước. Tự do
báo chí, tự do xuất bản, tự do tư tưởng và ngôn luận tự do tôn giáo và
tín ngưỡng…”. Làm cho Nhân dân dùng được, hưởng được quyền dân chủ như
Hồ Chí Minh từng nói, khiến cho mọi quyền dân chủ mà nhân loại đã hình
thành nên thì dân ta cũng có quyền dùng có quyền hưởng. Đó mới thật sự
là văn minh và đạo đức của mọi chính đảng biết đi tiên phong mở đường
cho sự phát triển Dân tộc trong thời đại mới.
- Hòa hợp, hòa giải Dân tộc. Vượt lên tâm thức Quốc-Cộng, kiến tạo một sự nghiệp Đoàn kết Dân tộc, chung sức xây dựng Đất Nước.
II- Những vấn đề cụ thể
a. Thể chế chinh trị
Tên Nhà nước hiện nay viết sai ngữ pháp Việt Nam vì
viết theo ngữ pháp Tàu. Mà tên XHCN không đúng là thực thể của nước ta
hiện nay, một thực thể tưởng tượng ảo tưởng chưa có. Nó tựa như tâm thức
của Hồ Quý Ly đặt tên nước là Đại Ngu. Nên trở lại tên Nhà nước là Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Vừa nhấn mạnh dân chủ vừa nhấn mạnh cộng hòa, vừa
đúng theo nhu cầu của Dân tộc, vừa hợp với xu thế thời đại. Chính Mác
và Ăng ghen cũng từng nhấn mạnh rằng “Những người cộng đồng chủ nghĩa
phải biết căn cứ từ những thực tế văn minh của các Dân tộc hiện đại để
làm căn cứ cho chính sách của mình”.
- Có thể giữ điều 4 với nội dung tôn trọng quyền bình đẳng của các đảng dân tộc dân chủ mà Tuyên ngôn các đảng cộng đồng chủ nghĩa do Mác và Ăng ghen tuyên bố
cũng đã khẳng định. Tách hoạt đông của đảng khỏi Nhà
nước làm theo phương thức tiên tiến hợp lý mà các đảng cầm quyền trên
thế giới ngày nay đang theo.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân VN, hòa
nhập với trào lưu chung của nhân loại hiện đại theo hướng: Nhà nước phục
vụ, Nhà nước phúc lợi, Nhà nước giỏi, trong sạch, công tâm. Phân biệt
rành mạch ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện chế độ Tổng
thống và Thủ tướng hành pháp. Tòa án độc lập.
- Xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại theo
cơ chế thị trường đầy đủ(trước khi van xin các nước công nhận thị
trường đầy đủ hãy làm cho nhân dân thực hiện được thị trường hoàn
chỉnh).
- Xây dựng nền văn hóa nhân văn hiện đại.
- Phát triển xã hội dân sự, làm cho xã hội dân sự chủ
động sáng tạo, tích cực tham gia phát triển xã hội, bảo vệ môi trường,
phát triển văn hóa, khoa học, giáo dục, chăm lo phúc lợi và công bằng
XH. Phát huy nguồn sức mạnh của cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
III- Tóm lại Hiến pháp mới phải mở đường cho:
- Phát triển tự do, dân chủ, dân quyền của nhân dân.
- Phát triển mọi nguồn lực vật chất, tinh thần, năng lực sáng tạo của nhân dân, và xã hội.
- Hòa giải và đoàn kết dân tộc để đi vào TK 21.
- Xây dựng một nhà nước hiện đại của VN; Pháp quyền
của Dân, Không phải pháp quyền XHCN. Như Các Mác từng khẳng định: “Khi
chưa có con người toàn diện và chưa có nền kinh tế sản xuất vật phẩm,
hàng hóa dồi dào trên cơ sở kỹ thuật cao, thì pháp quyền tư sản dù hạn
hẹp cũng không thể vượt qua”! Thực hiện một Nhà nước phục vụ, Nhà nước
phúc lợi, Nhà nước giỏi, trong sạch, công tâm, Nhà nước của Dân tộc, của
thị tương văn minh và của xã hội dân sự.
Cho nên không nên vội vàng làm lấy được. Hãy thành
lập một Hội đồng Lập hiến gọi là “Hội Đồng 100” với thành phần: Đảng
Cộng đồng chủ nghĩa (cộng sản, đã đến lúc phải dịch cho đúng tên gọi
đảng Comuniste như trong tuyên ngôn của Mác và Ăng ghen) 30%, các Hội
đoàn CTXH 15%, trí thức ở hai Liên Hiệp 15 %, Phật giáo 10%, Thiên chúa
giáo”10%, Dân tộc ít người 10%.Việt kiều 10%. Hội đồng này Xây dựng một
Hiến Pháp mới gọi là Hiến Pháp Dân tộc TK21 (sẽ không còn lắt nhắt cứ
mươi năm lại đổi một hiến pháp như vừa qua. Phải tổ chức thảo luận 3
quý, quý 4. Đưa toàn dân phúc quyết.
Những ý kiến trên đây được chắt lọc từ khát vọng của
Dân tộc VN từ đầu TK20 từ tư tưởng của các bậc tiền bối Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh…, của các nhà văn hóa lớn, các nhà Mác xít chân chính
ngoài đảng và trong đảng mà Hồ Chí Minh là tiêu biểu, cũng như từ thăng
trầm của Dân tộc Việt Nam hiện đại và cả những bài học quốc tế…
Xin mạo muội trình bày.
Đầu tháng 1 năm 2013
Nguyễn Khắc Mai trình bày tại Hội nghị lấy ý kiến về HP của LHHKHKTVN
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Thư ngỏ gửi ông Phan Trung Lý
Boxitvn
Nhà Báo Nguyễn Thượng Long
Ông Phan Trung Lý vừa có
lời tuyên bố rằng góp ý cho Hiến pháp là không có ranh giới cấm kỵ.
Không ai tin lời ông đâu, phải nói thật như thế, nhưng lời ông cũng là
một căn cứ để BVN đăng tải những ý kiến nghiêm túc của bạn đọc cũng như
cộng tác viên với tinh thần họ tự chịu trách nhiệm về ý kiến của mình.
Trên một ý nghĩa khác, đó cũng chính là một cách thử nghiệm xem người
nhà nước có nói thật hay không và có chút quyền hạn thực thi việc nói
thật hay không, sau bao nhiêu năm nói những lời mà người dân lặng im vì
biết rằng không thật. Bài viết của nhà báo Nguyễn Thượng Long mà chúng
tôi trân trọng đăng sau đây, là một trong những thử nghiệm như vậy.
Bauxite Việt Nam
|
.
Thưa ông Phan Trung Lý – Chủ nhiệm UB Pháp luật Quốc hội, Trưởng Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992,
Tôi là Nguyễn Thượng Long, giáo viên Địa lý, Thanh
tra của ngành GD – ĐT Hà Tây cũ, đã hưu trí nhiều năm rồi. Ngay từ những
ngày còn đứng trên bục giảng tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi được nghe bà
Luật sư Ngô Bá Thành nói thẳng thừng trước Quốc hội rằng: “Ở Việt Nam đã có cả một rừng luật, nhưng khi xét xử lại dùng luật rừng!”,
lại càng ngạc nhiên hơn khi năm 2008, giữa Quốc hội ông Trịnh Ngọc
Dương – Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao lại tuyên bố xanh rờn:
“Ở Việt Nam: xử đúng cũng được, xử sai cũng được,
xử hoà cũng được, xử thắng cũng được!”
Theo tôi ông Chánh án đã nói thật lòng. Chúng ta đã
có 4 bản Hiến pháp, trừ bản HP 1946 có nội dung Dân chủ – Đa nguyên dù
là còn sơ khai, 3 bản HP còn lại (1959, 1980, 1992), bên cạnh những điều
vì dân rất chung chung vô thưởng vô phạt thì những điều vì Đảng lại rất
cụ thể và không hề có chỉ dấu nào cho biết đó là ý nguyện của nhân dân,
xin đơn cử:
– HP 1959 là HP dọn đường cho đại hội Đảng 3 (1960)
triển khai 2 nhiệm vụ chiến lược thống nhất đất nước bằng vũ lực và áp
chế chuyên chính vô sản lên miền Bắc, dọn đường để cả nước tiến lên
XHCN.
– HP 1980 ra đời để thích ứng với sự tan vỡ tình đồng
chí cộng sản Răng – Môi Việt Trung, còn đó những dòng chữ trong HP này
rằng… “Trung quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam”.
– HP 1992 là hiến pháp ra đời để thích ứng với thực
trạng Liên Xô – thành trì của CNXH thế giới và Đông Âu cộng sản – sụp đổ
và Việt Nam lại ngã nhào vào Trung Quốc sau Hội nghị Thành Đô, hoan hỉ
đón nhận phương châm “16 chữ vàng” và “4 tốt” từ phía Trung Quốc.
Là một người Việt Nam bình thường nào cũng vậy, chẳng
ai có thể yên tâm khi đất nước của mình lại có một thứ Hiến pháp kiểu
như thế. Cho nên vào chiều 29 – 12 – 2012 nghe ông tuyên bố trong một
cuộc họp báo rằng: “…Nhân dân có thể cho ý kiến đối với Điều 4 HP như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì là cấm kỵ cả”, dù trước đó ông Nguyễn Phú Trọng, sau đó là ông Đinh Thế Huynh, ông Lê Hồng Anh đã có những lời răn đe bóng gió xa gần kiểu:“…Công
an và Quân đội phải ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý
kiến nhân dân để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá đảng và nhà nước…”,
tôi vẫn không nguôi sự phấn chấn, dù chưa biết lần sửa đổi này, “Luật
Mẹ” của Việt Nam sẽ có diện mạo như thế nào? …Và ngay từ đêm Giáng Sinh
2013 tôi cũng đã thao thức những điều như thế này:
– Sửa HP hướng tới việc trở về tên nước cũ là Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà hay là một quốc danh nào khác phù hợp với thời đại
là điều cần thiết. Tên nước là thể hiện sự hướng tới của cả xã hội. Vẫn
cứ để tiếp đầu ngữ XHCN lên trên tên nước Việt Nam là không ổn, vì danh
xưng XHCN đã được thực tế thế giới chứng minh là ảo tưởng rồi, chúng ta
không nên hướng tới một ảo tưởng, một viễn cảnh thất bại và không có
thật.
– Sửa HP mà không xem xét tới việc xoá bỏ điều 4 là
không sửa gì cả, vì chỉ riêng điều 4 thôi đã vô hiệu hoá hết các điều
còn lại. Điều 4 đã biến Hiến pháp thành ra là Đảng pháp. Nếu chưa dám
xoá bỏ điều 4 thì lần sửa đổi này cũng rất cần phải luật hoá điều 4 cùng
với luật hoá điều 69 để nhân dân Việt Nam được hưởng những quyền căn
bản mà nhân loại văn minh đã được hưởng. Luật hoá điều 4 cũng là hành
động hối lỗi của ĐCS Việt Nam, vì bao lâu nay rồi điều 4 cũng như điều
69 không hề được luật hoá, nhưng người dân mà thực hiện điều 69 (tự do
biểu tình, tự do ngôn luận…) thì đi tù, đi phục hồi nhân phẩm, trong khi
đó từ HP 1959 – 1980 – 1992… đến nay, điều 4 quy định ĐCS Việt Nam độc
quyền lãnh đạo, bên cạnh những thành công, ĐCS cũng đưa cách mạng Việt
Nam lún sâu vào bao sai lầm đau đớn: Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai
Phẩm, Công Nghiệp Hoá, Cải Tạo công thương nghiệp TB tư doanh (2 lần),
Thời kỳ quá độ… và đau xót nhất là Việt Nam tụt hậu đến thê thảm trở
thành miếng mồi ngon trước những tham vọng vô độ của TQ. Vậy mà Đảng vẫn
vô tư vi hiến, vẫn vô tư bắt nhân dân coi mình là Mùa Xuân của đất
trời.
– Sửa Hiến pháp mà vẫn khẳng định sự bất tử của học
thuyết Mác – Lê là sai lầm, vì học thuyết này đã được chứng minh là ảo
tưởng, là phản khoa học trên phạm vi thế giới rồi.
– Sửa Hiến pháp để Hiến pháp thực sự là một khế ước
của toàn xã hội. Hiến pháp đó không có nhiệm vụ phải phục tùng các nghị
quyết của các Đại hội Đảng.
– Sửa Hiến Pháp để ĐCS cũng phải tôn trọng Hiến pháp,
Đảng không thể đứng trên Hiến pháp. Ví dụ: Sự xuất hiện Ban Nội chính
Trung ương là để đối phó với hiện tượng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đang
bị dư luận mô tả là một chính phủ tham nhũng… Đây là dấu hiệu Đảng suy
yếu, phải đá lộn sân, phải làm thay việc của chính quyền. Đây không phải
là sự tôn trọng Hiến pháp. Triển khai 19 điều cấm Đảng viên, cấm Đảng
viên ký tên vào đơn thư các loại của quần chúng là vi hiến, vì như thế
Đảng Viên không còn tư chất của con người công dân nữa ?
– Sửa Hiến pháp phải tạo cơ sở để huỷ bỏ cơ chế song
trùng giữa lãnh đạo Đảng với lãnh đạo chính quyền vô cùng cồng kềnh, kém
hiệu quả, tiến tới Đảng hoạt động nhờ quỹ đảng phí của đảng, không dùng
ngân sách nhà nước như các đảng cầm quyền ở các quốc gia dân chủ văn
minh.
– Sửa Hiến pháp để thực thi cơ chế Tam Quyền Phân Lập
tạo điều kiện để xã hội Việt Nam tiến tới thể chế chính trị Dân chủ –
Đa nguyên như các nước văn minh.
– Sửa Hiến pháp để Quân đội Nhân dân sẽ trung với
nước, hiếu với dân chứ không phải trung với Đảng như lúc này. Công an
Nhân dân sẽ chỉ chí thú vào nhiệm vụ bảo vệ trật tự trị an cho người
dân, không phải cúi mặt “Còn Đảng – Còn Mình” như lúc này.
Cuối cùng, sửa Hiến pháp để ra đời một Quốc hội có
tính chuyên nghiệp, các ĐBQH phải là những chuyên gia làm luật, không
thể coi công tác Quốc hội chỉ là công việc kiêm nhiệm, công việc làm
thêm để trang trí cho thể chế này như hiện nay.
Thưa ông Phan Trung Lý!
Không biết có đúng là nói trước bước không qua không,
nhưng tôi vẫn nghĩ: Sửa đổi Hiến pháp là để Hiến pháp sau sẽ khác Hiến
pháp trước, tốt hơn Hiến pháp trước và những tháng ngày tới, nhân dân
Việt Nam sẽ có một bộ Hiến pháp mới mà người dân Việt Nam được tham gia
bàn thảo, góp ý và phúc quyết bằng một cuộc trưng cầu dân ý chứ không
phải là một bộ Hiến pháp từ trên đỉnh cao trí tuệ rơi xuống như những
lần trước. Với bộ Hiến pháp mới đó, chúng ta sẽ không còn là một dị
thường trong con mắt của nhân loại văn minh và một vận hội mới sẽ mở ra
trước mắt mọi người:
Bộ HP đó sẽ tạo ra một xã hội mà trong đó các thành
viên từ ông Chủ tịch nước, ông Tổng bí thư, ông Thủ tướng… đến một người
dân thường không khác gì nhau về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm trước
xã hội.
Người nông dân sẽ không dễ dàng mà trắng tay vì mất
đất đai của chính ông cha mình để lại, sẽ không thể tái diễn những gì đã
xảy ra ở Tiên Lãng – Hải Phòng, Văn Giang – Hưng Yên, Vụ Bản – Nam
Định… đội ngũ Dân Oan theo thời gian sẽ ngày càng thưa vắng. Nhân sĩ,
trí thức yêu nước không còn bị coi khinh, không bị ngược đãi như lúc
này. Người Việt Nam yêu nước thật sự không bị bỏ tù sau những bóp méo,
bôi nhọ một cách vô cớ. Ngành lập pháp (Quốc hội), các hội đoàn quần
chúng (Mặt trận, Đoàn thanh niên, Phụ nữ…) sẽ không thể là cánh tay nối
dài của Đảng. Các ngành hành pháp sẽ không thể tham nhũng, chia chác,
chạy chọt. Giáo dục – thầy sẽ ra thầy, y tế – thầy thuốc ra thầy thuốc,
công an sẽ không còn những “Anh hùng Núp”. Non sông gấm vóc, môi trường
sống sẽ thoát cảnh là bãi rác như lúc này… Ngành tư pháp sẽ không còn
những phiên toà với án bỏ túi, những phiên toà công khai mà chẳng cho ai
vào ngoài nhân viên công lực… Nguyên khí đất nước sẽ tụ về, vận nước sẽ
đổi thay cùng văn minh nhân loại…
Bộ HP đó sẽ có tác dụng hoá giải xung đột giữa lợi
ích cá nhân, bè đảng, phe nhóm với lợi ích toàn cộng đồng, là rào cản
hữu hiệu “Không cho phép bất cứ ai có thể bước qua những chuẩn mực
đạo đức truyền thống để dành những ưu tiên riêng như một biệt lệ cho
những quyền lợi vị kỷ” (Nguyễn Gia Kiểng – Bàn về chủ nghĩa thực tiễn).
Bộ HP đó sẽ tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả mọi người trên tinh thần:
“ Người ta có quyền làm tất cả những gì mà Hiến
pháp và Pháp luật không cấm. Người ta không được phép làm những gì mà
Hiến pháp và Pháp luật đã cấm”.
Và bất cứ người Việt Nam nào khác sẽ không thể bị đối
xử vô lý như sau đây, nếu đất nước chúng ta có một bộ Hiến pháp thực sự
“Của Dân – Do Dân – Vì Dân” trên tinh thần của Dân chủ – Đa nguyên:
“Ngày 20 – 11- 2012 vừa qua, một số giáo viên Hà
Đông trong đó có tôi đã tổ chức gặp gỡ nhau cùng một số bạn bè không
ngoài mục đích động viên nhau “ Sống vui – Sống khoẻ – Sống có
ích”… vậy mà không đầy 24 giờ sau tôi bị ném đá tơi bời trên Facebook,
người khủng bố tôi là ai? Tôi không quan tâm. Có thể giữa lúc “Phải kiên
quyết không cho xuất hiện các tổ chức chính trị đối lập” (NTD)… tôi đã
quá khinh xuất mà ngang nhiên dùng thuật ngữ “Nhóm Giáo hữu Hà Đông” trong bài báo đó! Chính tôi đã hồn nhiên khởi động cho trận ném đá này mà không biết.
Sau đó, tôi liên tiếp nhận được những lời nhắc nhở
cả trực tiếp lẫn gián tiếp rằng: “Ông ta (tôi) viết càng ngày càng
mạnh! Chắc là viết thuê cho hải ngoại để ăn tiền?”. Tôi nghĩ, viết mạnh
hay viết nhẹ không quan trọng bằng viết đúng hay viết sai. Còn nói tôi
viết thuê là không biết gì về những người cầm bút. Viết thuê giỏi lắm
cũng chỉ trình ra được những dòng chữ nhợt nhạt, vô hồn, không mị được
ai trong thời Internet đã tràn vào tận buồng ngủ của mỗi gia đình, chưa
kể nghề cầm bút viết phản biện trong xã hội Việt Nam đương đại là nghề
nguy hiểm nhất trong các nghề nguy hiểm. Về việc này, ai muốn tường
minh, xin đừng hỏi các nhà báo đã bán linh hồn cho quyền lực, hãy hỏi
các nhà báo Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Nguyễn Việt Chiến, Hoàng Khương… sẽ
rõ.
Về tiền bạc, tôi soi mãi 4 bộ Hiến pháp (1946 –
1959 – 1980 – 1992), bộ Luật hình sự hiện đang dùng, chẳng thấy điều
luật nào cấm người Việt Nam trong nước, ngoài nước không được giúp đỡ
nhau bằng tiền lúc hoạn nạn. Theo tôi giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn không
kèm theo điều kiện nào là điều rất đỗi bình thường. Nhân đây, tôi gửi
lời cám ơn chân thành tới bạn bè xa gần đã vô tư giúp đỡ tôi khắc phục
những tổn thất trong lần tôi bị khám nhà, bị thu giữ máy tính, tài liệu,
thư từ, sách vở, kỷ niệm của bạn bè… trong ngày 15 – 6 – 2010. Nhờ có
sự giúp đỡ vô tư đó, tôi có điều kiện để tiếp tục cầm bút cho đến hôm
nay.
Ngược dòng lịch sử tôi thấy chỉ các cụ tiền nhân
trước kia bảo vệ bờ cõi và hưng thịnh xứ sở là không nhận gì của ngoại
bang, còn những người cộng sản Việt Nam nếu không nhận: lý tưởng, chỉ
thị, tiền bạc, súng đạn, của nước ngoài… thì làm sao họ đánh Pháp, đuổi
Nhật rồi lại “Đánh cho Mỹ cút – đánh cho Nguỵ nhào”? Nếu sự giúp đỡ nào
cũng là có tội, thì giải thích sao đây việc ông Đỗ Mười nhận 1 triệu USD
của tư bản Hàn Quốc mà trong bài viết mới về Đảng hôm qua và Đảng hôm
nay cụ thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lại vừa nhắc lại! Vậy ra hôm nay
ông lớn tham nhũng này đặt lên bàn ông lớn tham nhũng kia những “Cục
gạch” to tướng bằng USD tiền thuế của dân… thì không sao, TBT Đảng nhận
cả triệu đô của nước ngoài không nộp lại cho ngân sách… cũng không sao
hết, còn người Việt Nam giúp người Việt Nam vượt qua khó khăn, hoạn nạn…
không kèm điều kiện nào lại là có tội hay sao?
Thưa ông Phan Trung Lý!
Tôi hiểu tấm lòng ông, nhưng điều mà ông đã nói trong cuộc họp báo ngày 29 – 1 – 2013 rằng: “…Không có điều gì là cấm kỵ cả! Kể cả điều 4!”
và những thao thức trong Đêm Giáng Sinh 2013 của tôi có nguy cơ không
trở thành hiện thực. Bản tráng ca “Mùa Xuân Hy Vọng” của toàn dân tộc
chưa kịp cất lên thì gậy chỉ huy trong tay các nhạc trưởng đã vung lên
đầy giận dữ và chỉ vào những giai điệu, nhịp, phách của những bi ca “Mùa
Đông Ảm Đạm” quá xưa cũ.
Buồn thay! Lẽ nào đất nước này nó thế! Và dân tộc này
không biết vì tiền oan nghiệp chướng nào! Có tội tình gì trong suốt
chiều dài lịch sử mà nay lại phải sống những ngày như vậy, Thưa ông Phan
Trung Lý!
Hà Đông một ngày cuối đông rét mướt 10 – 1 – 2013
N.T.L.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Hiến pháp sao phải sửa?
Boxitvn
TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức
(Bản gốc bài đã đăng trên Tia Sáng)
Hiến pháp không phải sản phẩm tự nhiên mà do con
người tạo ra phục vụ lợi ích nó, tất phải thay hoặc sửa, một khi lợi ích
đó đòi hỏi.
Gần đây nhất, như hầu hết mọi cuộc cách mạng xã hội,
Ai Cập đã hủy bỏ Hiến pháp năm 1971 thay bằng Hiến pháp mới có hiệu lực
từ ngày 26.12.2012, sau khi lật đổ chế độ Mubarak.
Hiến pháp là văn bản luật gốc làm nền tảng pháp lý
cho một nhà nước, quy định bộ máy của nó, cùng các chuẩn mực, thước đo,
quy tắc xử sự nhà nước phải tuân thủ, nên một khi chế độ bị lật đổ buộc
phải thay bằng Hiến pháp mới, là tất yếu. Ở đây, Hiến pháp là hệ quả của
cách mạng xã hội.
Khác với lật đổ chế độ ở Ai Cập, khoảng thập niên
trước, các quốc gia thuộc Liên bang Xô viết và các nước Xã hội Chủ nghĩa
Đông Âu đều thay Hiến pháp, việc này được cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Văn An cắt nghĩa “để xác lập chính thể mới phù hợp với thông lệ quốc tế
nhằm sửa cái lỗi hệ thống của họ. Một bài học quá đắt giá trong lịch sử
nhân loại (Tuần Việt Nam)“.
Tương tự, năm 2008, chính phủ quân sự Miến Điện đã
chủ động trưng cầu dân ý Hiến pháp mới, có hiệu lực từ tháng 1.2011,
khởi đầu cho quá trình chuyển đổi chế độ quân sự cầm quyền dai dẳng tới
nửa đời người từ năm 1962 bị thế giới cô lập, sang dân sự, với cuộc bầu
cử Quốc hội bổ sung ngày 1.4.2012, có 17 đảng phái tham gia, chiếm 45
ghế, trong đó có “cựu thù“ chống chế độ quân phiệt, người đoạt giải
Nobel Hoà Bình, bà Aung San Suu. Ở các nước trên,Hiến pháp đều đóng vai
trò chủ động tạo ra một thể chế mới xuất phát từ ý chí nguyện vọng của
đông đảo người dân mà lãnh đạo đất nước họ tự ý thức được, nếu không sẽ
không tránh khỏi bị lật đổ; từ Tunisia, Ai Cập, Lybi, tới Xyri hiện nay
chính nằm trong quy luật đào thải tự nhiên nghiệt ngã đó, bất chấp sức
mạnh chính quyền cũ lớn tới đâu.
Hầu hết các nước trên, Hiến pháp mới đều được phúc
quyết, dấu hiệu không thể thiếu của một nhà nước dân chủ, bởi đó là
quyền tự thân của người dân; nhà nước của họ, do họ sinh ra vì chính họ
chứ không phải ngược lại; không lý gì là chủ nhân, họ vừa không phải tự
chịu trách nhiệm vừa không có thực quyền quyết định cái của họ. Trong
trường hợp này vai trò ý nghĩa của nó tương đương bầu tổng thống, quốc
hội, khác bản chất với vua chúa lên ngôi chỉ cần tuyên cáo với bá tính
là đủ. Giải thích tại sao Hiến pháp Việt Nam năm 1946 có điều khoản phúc
quyết, hay Hiến pháp Đức điều khoản 146 quy định Hiến pháp họ không
phải vĩnh viễn, mà chỉ: “có hiệu lực tới ngày có một Hiến pháp mới được
nhân dân Đức tự do quyết định“. Nghĩa là người dân chứ không phải nhà
nước, có quyền quyết định tất cả – dấu hiệu phân biệt với mọi Hiến pháp
khác – Hiến pháp dân chủ luôn thừa nhận người dân ở vai trò tối thượng
có toàn quyền giữ hay hủy bỏ Hiến pháp hiện hành bất cứ lúc nào.
Hiến pháp có thể là hệ quả, có thể là mở đầu hình
thành nên một nhà nước mới, nhưng hoàn toàn không bất biến. Đến quốc gia
có Hiến pháp được coi bền vững bậc nhất thế giới là Hoa Kỳ, trong vòng
200 năm từ 1791 tới 1992, cũng sửa tổng cộng tới 27 lần, nghĩa là 7-8
năm sửa 1 lần. Đức được cho là quốc gia điển hình sửa Hiến pháp, trong
vòng 40 năm, từ 1951 đến 1990 sửa tới 38 lần, bình quân mỗi năm gần 1
lần, có năm sửa tới 3 lần; tổng cộng 14 lần sửa 1 điều, 8 lần 1 điểm, 4
lần 1 câu, số lần còn lại sửa cả đoạn. Khác với trường hợp thay Hiến
pháp nhằm thiết lập nền tảng pháp lý cho một chính thể mới, sửa Hiến
pháp nói trên nhằm thay đổi hoặc mở rộng giới hạn một hoặc một vài chuẩn
mực thước đo quy tắc xử sự “nhà nước được phép làm“. Lý do họ buộc phải
sửa, xuất pháp từ nguyên lý: mọi điều khoản Hiến pháp họ đều mang tính
chế tài trực tiếp, không cần qua bất cứ văn bản luật nào dưới nó nếu
không kèm phụ chú; buộc mọi cơ quan nhà nước kể cả tổng thống, quốc hội,
chính phủ, viện kiểm sát, toà án phải tuân thủ, nếu không sẽ bị tài
phán. Đến cựu Tổng thống Đức Köhler cũng buộc phải từ chức cách 2 năm
trước chỉ bởi phát biểu trước quân đội Đức đồn trú ở Afghanistan, sai
Hiến pháp đúng mỗi nửa câu, “…quân đội Đức có mặt ở nước ngoài để bảo vệ
lợi ích kinh tế Đức“. Nói Hiến pháp tối thượng, không hàm nghĩa thứ
bậc, đạo luật gốc rễ nó vốn có, mà chính bởi sức mạnh thực tế vô biên
của nó như vậy, nếu không thứ bậc cao siêu mấy cũng chỉ làm vì. Cách mấy
năm trước, Bộ luật Xã hội Đức quy định không cấp tiền con cho người
nước ngoài lưu trú có thời hạn; mãi không sao, tới khi có 2 gia đình
người nước ngoài đâm đơn kiện, lập tức bị Toà án Hiến pháp buộc hủy bỏ.
Tới năm ngoái, mức trợ cấp cho người nước ngoài chờ xét duyệt đơn xin tỵ
nạn quy định trong Bộ Luật Xã hội thấp hơn tiêu chuẩn trợ cấp cho người
Đức thất nghiệp lâu năm, cũng bị Toà án bác bỏ, với lập luận, Hiến pháp
quy định nhân phẩm con người không thể phân biệt; trợ cấp cho người
thất nghiệp lâu năm là mức tối thiểu để bảo đảm nhân phẩm đó, vậy không
có lý do gì cấp cho người chờ xét tỵ nạn thấp hơn.
Mới đây nhất, ngày 29.12.2012, ở Pháp, Hội đồng Bảo
Hiến đã ra phán quyết bác bỏ mức thuế 75% áp dụng cho nguời có thu nhập
cao do Tổng thống François Hollande và Chính phủ cánh tả của ông chủ
trương, với lý giải, không tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về đóng góp đã
được hiến định.
Chính do Hiến pháp có chức năng chế tài trực tiếp đối
với nhà nước, nên để bảo vệ văn bản luật mình ban hành, Quốc hội không
còn cách nào khác phải thay hoặc sửa điều khoản Hiến pháp đã giới hạn
nó.
Tuy nhiên không phải nhà nước họ cứ muốn sửa là sửa,
bởi Hiến pháp của dân do dân phúc quyết chứ không phải của riêng nhà
nước, nên dù sửa cũng không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ chính bản
thân Hiến pháp cho phép, nếu không sẽ bị tuyên phán vô hiệu. Năm 1996,
Bộ trưởng Nội vụ Đức đưa vào Luật An ninh Hàng không điều khoản cho phép
quân đội bắn hạ máy bay chở khách bị bọn khủng bố cướp, kết qủa bị Toà
án Hiến pháp bác bỏ, do vi phạm Hiến pháp về quyền được sống của con
người, không thể lấy mạng sống người này cứu mạng sống người khác. Tiếp
tục theo đuổi mục đích trên, năm 2007, Bộ trưởng Nội vụ xếp khủng bố
cướp máy bay vào tình huống thảm hoạ quốc gia, xoay sang đòi sửa đổi
điều 87a Hiến pháp vốn cấm sử dụng quân đội ngoại trừ bảo vệ tổ quốc,
nay cho phép cả khi xảy ra thảm hoạ. Mãi tới tháng 8.2012, Toà Hiến pháp
mới ta tuyên phán đồng ý sửa Hiến pháp cho phép sử dụng quân đội trong
trường hợp thảm hoạ đe doạ quốc gia, nhưng vẫn cấm bắn máy bay chở
khách, bởi quyền được sống thuộc điều khoản cấm sửa đổi, bất di bất
dịch, ngoại trừ trên máy bay chỉ có mỗi khủng bố. Ở Mỹ, vụ cuồng sát gần
đây nhất tại trường tiểu học Sandy Hook giết chết 27 nhân mạng làm chấn
động không chỉ nước Mỹ, nhưng Chính phủ Mỹ vẫn không thể cấm sở hữu vũ
khí, bởi tu chính Hiến pháp số II quy định: “người dân có quyền sở hữu
và mang theo vũ khí“. Điều khoản này đã qua bao đời Tổng thống vận động
hủy bỏ đều bất thành, bởi quyền sở hữu được coi là quyền người dân,
không được xâm phạm. Ở Miến Điện, để có thể bầu bà Aung San Suu Kyi có
chồng và con là người Anh, làm Tổng thống nhiệm kỳ tới, Tổng thống đương
nhiệm Thein Sein đã tuyên bố cần phải sửa đổi điều khoản Hiến pháp cấm
người có thân nhân nước ngoài giữ chức vụ cao. Thế giới đang phấp phỏng
chờ đợi, bởi mức độ sửa đổi Hiến pháp theo hướng dân chủ tùy thuộc mức
độ dân chủ người dân giành được vốn quyết định số phận mỗi quốc gia.
Sửa Hiến pháp gần đây nhất dẫn tới thay đổi bản chất
nó được thế giới đặc biệt quan tâm diễn ra tại 2 nước Venezuela và Thổ
Nhĩ Kỳ. Ở Venezuela, năm 2009, bản Hiến pháp năm 1999 được đưa ra trưng
cầu dân ý sửa đổi điều 160, 162, 174, 192 và 230 nhằm bảo đảm cho đương
kim Tổng thống Hugo Rafael Chávez Frías không bị giới hạn 2 nhiệm kỳ, có
thể tại vị tới tận năm 2050 lúc 95 tuổi, và được phép nắm quân sự nhiều
hơn, kiểm soát truyền thông trong các trường hợp khẩn cấp, xóa quy chế
ngân hàng trung ương tự chủ, để đưa đất nước tiến vững vàng lên chủ
nghĩa xã hội như ông chính thức tuyên bố. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, Hiến pháp sửa
đổi 26 điều khoản được đưa ra trưng cầu dân ý năm 2010, nhằm tước bỏ
quyền lực của giới quân sự tưởng chừng như bất khả xâm phạm xưa nay.
Còn sửa Hiến pháp toàn diện nhằm cải tổ, nhưng vẫn
giữ nguyên bản chất, đã được Liên Xô thực hiện vào năm 1990, với 75 điều
khoản được sửa đổi trên tổng số 174 điều, chiếm 43%, kết quả chỉ tồn
tại được tới ngày 5.9.1991. Đa số học giả cho đó là quá trình cải cách,
kiểu vượt qua một chiếc hố bằng 2 bước nhảy.
Hiện nay, Quốc hội nước ta đã ra nghị quyết tổ chức
lấy ý kiến nhân dân, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, với tổng số 124 điều
được sửa hoặc thêm bớt lời văn, hoặc bổ sung hoàn toàn mới, hoặc thay
đổi vị trí điều, mục, đoạn, câu; liệu có nằm trong trường hợp nào thế
giới đã trải qua? Trong thời đại toàn cầu hoá, không thể không đặt ra
câu hỏi trên, ít nhất có thể biết Việt Nam đứng đâu trên bản đồ Hiến
pháp thế giới, để có thể “sánh vai các cường quốc năm châu“.
Trong khi ở các nước việc thay, sửa Hiến pháp được
đặt ra bởi cách mạng xã hội, hoặc để tạo ra thể chế mới, hoặc nhằm cải
cách, hoặc để ban hành luật vượt ra ngoài giới hạn điều khoản Hiến pháp
hiện hành, hoặc thay đổi bản chất Hiến pháp cũ… mục đích sửa Hiến pháp
nước ta lần này viết ở Lời nói đầu khác họ ở điểm: “… ghi nhận những
thành quả to lớn mà nhân dân Việt Nam đã đạt được, tạo nền tảng vững
chắc cho sự ổn định và phát triển đất nước“. Giống với họ ở điểm “Xây
dựng và thi hành Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh“, vốn là mục đích tự thân sâu xa của bất kỳ bản Hiến
pháp nào, được thể hiện thành văn hoặc mặc định; còn thực tế nó có khả
năng đó hay không lại thuộc vấn đế khác.
Với mục đích trên, điều 2 Nghị quyết của Quốc hội lấy
ý kiến nhân dân quy định, để “Phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ,
tâm huyết của nhân dân, tạo sự đồng thuận của nhân dân, thể hiện ý chí,
nguyện vọng của nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992“. Tinh
thần trên, có thể tìm thấy phần nào ở Hiến pháp Nam Phi trong công đoạn
lấy ý kiến nhân dân. Hội đồng Lập hiến họ đã thực hiện được hơn 1.000
cuộc hội thảo với 95.000 người dân tham gia; nhận được khoảng 2 triệu
thư kiến nghị / tổng dân số 46 triệu người. Sau khi sửa lần 2, nhận được
tiếp 250.000 ý kiến đóng góp. Liệu nghị quyết của Quốc hội nước ta có
thu được kết qủa như Nam Phi? Đó là điều không chỉ các cơ quan nhà nước
liên quan mà bất cứ người dân nào tâm huyết cũng phải trăn trở, được cựu
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An giải bày: “Nếu nhân dân được tham gia
và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì đây là một cơ hội to lớn do
ta tạo ra để thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện công cuộc đổi mới đất nước“.
“Tôi vừa hy vọng, lại cũng vừa lo, vừa băn khoăn trăn trở, vì không biết
sửa đổi lần này có đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân không?“. “Nếu
nhân dân không được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì
chúng ta lại bỏ lỡ mất cơ hội vô cùng quan trọng“. Liệu lo âu, nỗi
niềm, tâm nguyện cuối đời của một cựu Chủ tịch Quốc hội tên tuổi có được
chính Quốc hội lắng nghe? Khi điều 124, điểm 4, câu 2, bản Dự thảo hiến
định “Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định“; vậy
nếu Quốc hội từ chối thì sao đây? Bởi ngày nay, phúc quyết là dấu hiệu
không thể thiếu, tức điều kiện cần, của bất kỳ một bản Hiến pháp dân chủ
nào, được khoa học chuyên ngành luật pháp thừa nhận!
N.S.P.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Chủ nghĩa dân tộc thông minh kiểu Nhật
Báo SGTT đã “dẫn đầu” câu in đậm.nhưng lại “để dành” ở sau 8 chữ để cuối cùng mới đọc???“Dân tộc chủ nghĩa hay chăm lo bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ lợi ích dân tộc? Một sắc thái lành mạnh của tinh thần dân tộc khác với chủ nghĩa bành trướng, bá quyền và khác cả với chủ nghĩa đầu hàng!“SGTT.VN - Dân tộc chủ nghĩa hay chăm lo bảo vệ chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc? Một sắc thái lành mạnh của tinh thần dân tộc khác với chủ nghĩa bành trướng, bá quyền!
Chiến hạm sân bay trực thăng của Nhật tập trận với Mỹ trên biển Hoa Đông. Ảnh: TL
Chủ nhật 13.1 vừa qua, Nhật Bản đã tiến hành một cuộc tập
trận với mục đích rõ ràng là củng cố khả năng phòng vệ cho
một quần đảo hiện đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc
trên biển Hoa Đông. Cuộc tập trận diễn ra tại một địa điểm gần
thủ đô Tokyo.Chuẩn bị quả đấm
Theo VOV (Việt Nam), ngày 14.1, chín máy bay chiến đấu tàng hình F-22 của Mỹ, từ căn cứ không quân Langley-Eustis, đã đến căn cứ Kadena của lực lượng không quân Mỹ ở Okinawa (Nhật Bản) trong đợt triển khai lực lượng kéo dài bốn tháng.
Bộ Quốc phòng Nhật cho biết đây là lần đầu tiên cuộc tập trận thường niên của nước này lấy chủ đề phòng vệ biển đảo. Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Itsunori Onodera cho biết nước ông cần phải nâng cao tầm chiến thuật quân sự trong bối cảnh có tranh chấp với Trung Quốc.
Bộ trưởng Onodera đánh giá: “Môi trường an ninh đất nước đang ngày càng trở nên căng thẳng với các vụ việc như phi cơ và tàu thuyền Trung Quốc xâm phạm hải phận và không phận xung quanh quần đảo Senkaku… Chúng ta sẽ tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng phòng vệ bằng cách xem xét lại chính sách quốc phòng để bảo vệ cuộc sống và tài sản của người dân, lãnh thổ, vùng trời và vùng biển của chúng ta trước bất kỳ mối đe doạ nào”.
Từ một cánh quân khác ở tỉnh Miyazaki, Nhật Bản và Mỹ đã triển khai cuộc tập trận chung, tại căn cứ không quân của lực lượng phòng vệ trên không, với sự tham gia của các máy bay chiến đấu F/A-18. Đây là các phi đội máy bay tiêm kích đến từ sân bay quân sự Iwakuni thuộc lực lượng lính thuỷ đánh bộ Mỹ, đóng tại tỉnh Yamaguchi. Phía Nhật Bản có bốn máy bay chiến đấu F-4 của lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản.
Để tránh chiến tranh
Mặc dầu những căng thẳng do tranh chấp chủ quyền giữa Nhật Bản với Trung Quốc sẽ tiếp tục, nhưng theo GS Malcolm Cook, chuyên gia an ninh Đông Bắc Á của đại học Flinders (Úc), đôi bên sẽ không để xảy ra chiến tranh. GS Cook nhắc lại khi được bầu làm thủ tướng lần trước vào năm 2006, ông Abe đã chọn Trung Quốc làm nơi thực hiện chuyến công du nước ngoài đầu tiên nhằm giảm thiểu những mối căng thẳng.
Tuy nhiên, kỳ này, tân Thủ tướng Shinzo Abe đã chọn Hà Nội làm điểm đột phá đầu tiên trong mũi tiến công ngoại giao của Nhật Bản vào Đông Nam Á, thay vì đến Washington như dự kiến ban đầu. Ông Abe sẽ thăm ba nước Đông Nam Á từ ngày 16 – 19.1. Mục đích của chuyến công du này là làm sâu sắc thêm các mối quan hệ hợp tác chiến lược với các nước trong khu vực.
Dân tộc chủ nghĩa hay chăm lo bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ lợi ích dân tộc? Một sắc thái lành mạnh của tinh thần dân tộc khác với chủ nghĩa bành trướng, bá quyền và khác cả với chủ nghĩa đầu hàng!
GS Carl Thayer, một chuyên gia chính trị Á châu của đại học New South Wales ở Úc, cho rằng tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ buộc Thủ tướng Nhật Abe và Tổng bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình phải đặt các vấn đề quốc nội làm ưu tiên trong nghị trình làm việc.
Hồng Mai
Nhìn lại hai trận đánh lớn trên biển Đông (1)
Lê Mai blog
Tháng Một 15, 2013 — Lê Mai
Theo thiển nghĩ của tôi, bất cứ trận đánh nào có ý nghĩa bảo vệ chủ quyền đất nước, dù xét về quy mô tác chiến, lực lượng tham chiến hay vũ khí sử dụng hạn chế, vẫn phải được coi là trận đánh lớn. Trên ý nghĩa đó, hai trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974 và Trường Sa ngày 14.3.1988 giữ VN và TQ là hai trân đánh lớn trên biển Đông.
Mà trận đánh lớn thực sự, bởi ngay từ đầu, lãnh đạo cao nhất của hai bên đã nắm rất vững tình hình và trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ huy trận đánh Hoàng Sa. Hiển nhiên, trận hải chiến Hoàng Sa không phải là một sự xung đột cục bộ ngãu nhiên mà là một trận đánh mang tầm vóc quốc gia, đã được TQ trù tính kỹ.
Về phía VNCH, trong các ngày 16 và 17.1.1974, Tổng thống Thiệu lúc này đang đi kinh lý miền Trung đã được báo cáo toàn bộ tình hình Hoàng Sa và sự khiêu khích của TQ. Tổng thống trực tiếp viết: “Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng Một: Tìm cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Quốc ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”. Những người trực tiếp chỉ huy trận đánh từ Đà Nẵng là Đề đốc Lâm Ngươn Tánh và tướng Hồ Văn Kỳ Thoại.
Phản ứng của Tổng thống Thiệu rất nhanh chóng, quả đoán, chỉ thị phát ra rất rõ ràng, thái độ rất kiên quyết vì “sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”. Nói gì thì nói, đó là phẩm chất cần có của một người đang nắm trong tay quyền chỉ huy quân đội. Làm sao chúng ta có thể hiểu nổi khi chủ quyền quốc gia bị đe dọa mà quân đội lại tự trói tay mình, tuyên bố không can dự, đứng ngoài các tranh chấp trên biển, cho đó là tranh chấp dân sự nên không tham gia?
Cùng lúc đó, tại Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đang thẩm duyệt báo cáo khẩn cấp của Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh về hoạt động của hải quân VNCH tại khu vực Hoàng Sa. Mao nhanh chóng phê chuẩn: “Trận này không thể không đánh”. (Năm 1979, Đặng cũng lại nói về cuộc xâm lược VN: “Trận này không thể không đánh”). Diệp Kiếm Anh liền triệu tập Đặng Tiểu Bình, bắt tay vào việc bố trí hành động quân sự nhằm đánh chiếm Hoàng Sa của VN.
Đặng Tiểu Bình là người vốn có uy vọng rất cao trong quân đội TQ, trực tiếp chỉ huy trận đánh Hoàng Sa – trận hải chiến trên biển đầu tiên với nước ngoài của TQ. Ông ta là người có nhiều ân oán đối với VN và lịch sử sẽ không quên các vết nhơ này trong sự nghiệp của ông ta.
Đặng vừa được khôi phục công tác sau mấy năm đi lao động cải tạo ở Giang Tây. Cuối năm 1973, Mao Trạch Đông triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị tại phòng đọc sách của mình. Mao phán:
- Nay tôi mời đến một quân sư, tên là Đặng Tiểu Bình. Ông này có nhiều người sợ, nhưng làm việc tương đối quả đoán. Ra một thông báo làm Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên quân ủy. Tôi nghĩ phải thêm một Bí thư trưởng cho Bộ Chính trị, song ông không cần cái danh hiệu đó mà Tổng tham mưu trưởng kia. Tôi xin tặng ông hai câu: trong nhu có cương, trong bông có kim, bên ngoài hòa khí một chút mà bên trong là cả một công ty gang thép.
Bối cảnh của trận đánh là bấy giờ, Hiệp định Pari mới được ký kết gần một năm. Hoa Kỳ với chiến lược toàn cầu mới: rút ra khỏi Nam VN, hòa hoãn với LX, đột phá quan hệ với TQ, khai thác sự đối đầu Xô – Trung. Dĩ nhiên VNCH không còn là ưu tiên trong chiến lược của họ nữa. Viện trợ sút giảm và Tổng thống Thiệu đã phải kêu gọi quân đội “đánh theo kiểu con nhà nghèo”. Thêm nữa, Hoa Kỳ đã đi đêm với TQ, bỏ mặc Hoàng Sa cho TQ tấn công. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Hoàng Sa – một vị trí ở phía Đông VN có giá trị rất lớn về quân sự, kinh tế không nằm ngoài dã tâm của TQ.
Như vậy, có thể thấy, âm mưu đen tối chiếm toàn bộ Hoàng Sa của TQ đã nung nấu từ rất lâu, chỉ chờ thời cơ là họ ra tay hành động. Chỉ cần nhìn vào sự bố trí lực lượng sau đây của Quân ủy Trung ương TQ là rõ:
- Cử tàu 396, 389 của đại đội tàu quét mìn số 10 thuộc căn cứ Quảng Châu và tàu 271, 274 đại đội săn tàu ngầm số 73 căn cứ Du Lâm trong 2 ngày 17, 18 phải có mặt ở vùng biển phụ cận cụm đảo Vĩnh Lạc, Hoàng Sa để làm nhiệm vụ tuần tra.
- Lệnh cho quân khu Nam Hải cử 4 trung đội vào đóng trên 3 đảo Tấn Khanh, Tham Hàng, Quảng Kim.
- Căn cứ Quảng Châu cử tàu 281, 282 của đại đội săn tàu ngầm số 74 vào gần cụm đảo Vĩnh Lạc làm nhiệm vụ cơ động.
- Đặt sở chỉ huy trên biển trên tàu 271 thuộc đại đội săn tàu ngầm số 73.
- Để phối hợp hành động của hải quân, Quân khu Quảng Châu lệnh cho Trung đoàn 22 không quân thuộc Hạm đội Nam Hải cử 2 phi đội máy bay chiến đấu, bay trinh sát tuần tra trên bầu trời cụm đảo Vĩnh Lạc, đồng thời yêu cầu không quân thuộc quân khu Quảng Châu cử một bộ phận làm nhiệm vụ sẵn sàng chi viện.
Do không đủ thông tin, một số tài liệu cho rằng lực lượng hải quân VNCH mạnh hơn, vì có tàu to hơn? Thực ra, hải quân VNCH chỉ có hai tuần dương hạm Trần Bình Trọng và Lý Thường Kiệt, khu trục hạm Trần Khánh Dư và hộ tống hạm Nhật Tảo. Còn TQ đã giương bẫy chờ sẵn, cộng thêm so sánh lực lượng hoàn toàn có lợi cho phía TQ.
Nhưng sự quyết tâm, lòng dũng cảm của hải quân VNCH làm cho quân TQ cũng phải nể phục. Sau đây là mô tả của Sa Lực Mân Lực – tác giả TQ:
“Sáng sớm ngày 18.1, tàu Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng của Nam VN trong mấy ngày qua vẫn lởn vởn ở vùng biển gần đảo Cam Tuyền, lại đến gần tàu cá (?) số 407 của TQ, dùng loa gào thét, buộc tàu cá TQ phải ra khỏi vùng biển này. “Không đi, coi chừng chúng tao sẽ tiêu diệt cả tàu lẫn người bây giờ” – viên sỹ quan Nam VN đe dọa. Trong khi đe dọa không có kết quả, cáu tiết, tàu Trần Khánh Dư chạy hết tốc lực, lao thẳng vào tàu cá 407, phá hủy buồng lái của tàu”.
“Sáng sớm ngày 19.1, sau một ngày “thi gan” với hải quân TQ, hải quân Nam VN quyết tâm lợi dụng tàu chiến hòng nuốt chửng các tàu tuần tiễu có trang bị kém hơn của hải quân TQ (?), tiến tới chiếm cả cụm đảo Vĩnh Lạc”.
“Hai tàu Lý Thường Kiệt và Sóng Gầm (có lẽ chỉ hộ tống hạm Nhật Tảo) giàn sẵn thế trận từ vùng biển phía bắc đảo Quảng Kim tiếp cận biên đội tàu hải quân TQ. Còn hai tàu Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng thì từ phía Nam tiếp cận hai đảo Tham Hàng và Quảng Kim”.
“Tàu Lý Thường Kiệt giương cao nòng pháo, lao thẳng vào biên đội hải quân TQ. Ỷ vào thế có lớp vỏ thép dày, tàu Lý Thường Kiệt không những không thay đổi hướng đi, ngược lại còn dùng mũi tàu húc thẳng vào tàu 396, làm hỏng cột đài chỉ huy, lan can mạn trái và máy quét mìn”.
“Tàu Lý Thường Kiệt ngang nhiên đi giữa 2 tàu hải quân TQ, lao về phía đảo Tham Hàng, Quảng Kim, sau đó thả 4 xuồng cao su, chở hơn 40 tên sỹ quan binh sỹ Nam VN đổ bộ lên đảo ngay trước mặt tàu chiến TQ”.
“Sau khi chiếm lĩnh vị trí có lợi ở vòng ngoài, cả 4 tàu chiến hải quân Nam VN bỗng nhiên đồng loạt nổ súng vào 4 tàu chiến của biên đội hải quân TQ. Dưới làn pháo dày đặc của tàu địch, tàu chiến của hải quân TQ liên tiếp bị trúng đạn, một số nhân viên bị thương”.
(còn tiếp)
http://lemaiblog.wordpress.com/2013/01/15/nhin-lai-hai-tran-lon-danh-tren-bien-dong-1/
Theo thiển nghĩ của tôi, bất cứ trận đánh nào có ý nghĩa bảo vệ chủ quyền đất nước, dù xét về quy mô tác chiến, lực lượng tham chiến hay vũ khí sử dụng hạn chế, vẫn phải được coi là trận đánh lớn. Trên ý nghĩa đó, hai trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974 và Trường Sa ngày 14.3.1988 giữ VN và TQ là hai trân đánh lớn trên biển Đông.
Mà trận đánh lớn thực sự, bởi ngay từ đầu, lãnh đạo cao nhất của hai bên đã nắm rất vững tình hình và trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ huy trận đánh Hoàng Sa. Hiển nhiên, trận hải chiến Hoàng Sa không phải là một sự xung đột cục bộ ngãu nhiên mà là một trận đánh mang tầm vóc quốc gia, đã được TQ trù tính kỹ.
Về phía VNCH, trong các ngày 16 và 17.1.1974, Tổng thống Thiệu lúc này đang đi kinh lý miền Trung đã được báo cáo toàn bộ tình hình Hoàng Sa và sự khiêu khích của TQ. Tổng thống trực tiếp viết: “Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng Một: Tìm cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Quốc ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”. Những người trực tiếp chỉ huy trận đánh từ Đà Nẵng là Đề đốc Lâm Ngươn Tánh và tướng Hồ Văn Kỳ Thoại.
Phản ứng của Tổng thống Thiệu rất nhanh chóng, quả đoán, chỉ thị phát ra rất rõ ràng, thái độ rất kiên quyết vì “sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”. Nói gì thì nói, đó là phẩm chất cần có của một người đang nắm trong tay quyền chỉ huy quân đội. Làm sao chúng ta có thể hiểu nổi khi chủ quyền quốc gia bị đe dọa mà quân đội lại tự trói tay mình, tuyên bố không can dự, đứng ngoài các tranh chấp trên biển, cho đó là tranh chấp dân sự nên không tham gia?
Cùng lúc đó, tại Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đang thẩm duyệt báo cáo khẩn cấp của Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh về hoạt động của hải quân VNCH tại khu vực Hoàng Sa. Mao nhanh chóng phê chuẩn: “Trận này không thể không đánh”. (Năm 1979, Đặng cũng lại nói về cuộc xâm lược VN: “Trận này không thể không đánh”). Diệp Kiếm Anh liền triệu tập Đặng Tiểu Bình, bắt tay vào việc bố trí hành động quân sự nhằm đánh chiếm Hoàng Sa của VN.
Đặng Tiểu Bình là người vốn có uy vọng rất cao trong quân đội TQ, trực tiếp chỉ huy trận đánh Hoàng Sa – trận hải chiến trên biển đầu tiên với nước ngoài của TQ. Ông ta là người có nhiều ân oán đối với VN và lịch sử sẽ không quên các vết nhơ này trong sự nghiệp của ông ta.
Đặng vừa được khôi phục công tác sau mấy năm đi lao động cải tạo ở Giang Tây. Cuối năm 1973, Mao Trạch Đông triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị tại phòng đọc sách của mình. Mao phán:
- Nay tôi mời đến một quân sư, tên là Đặng Tiểu Bình. Ông này có nhiều người sợ, nhưng làm việc tương đối quả đoán. Ra một thông báo làm Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên quân ủy. Tôi nghĩ phải thêm một Bí thư trưởng cho Bộ Chính trị, song ông không cần cái danh hiệu đó mà Tổng tham mưu trưởng kia. Tôi xin tặng ông hai câu: trong nhu có cương, trong bông có kim, bên ngoài hòa khí một chút mà bên trong là cả một công ty gang thép.
Bối cảnh của trận đánh là bấy giờ, Hiệp định Pari mới được ký kết gần một năm. Hoa Kỳ với chiến lược toàn cầu mới: rút ra khỏi Nam VN, hòa hoãn với LX, đột phá quan hệ với TQ, khai thác sự đối đầu Xô – Trung. Dĩ nhiên VNCH không còn là ưu tiên trong chiến lược của họ nữa. Viện trợ sút giảm và Tổng thống Thiệu đã phải kêu gọi quân đội “đánh theo kiểu con nhà nghèo”. Thêm nữa, Hoa Kỳ đã đi đêm với TQ, bỏ mặc Hoàng Sa cho TQ tấn công. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Hoàng Sa – một vị trí ở phía Đông VN có giá trị rất lớn về quân sự, kinh tế không nằm ngoài dã tâm của TQ.
Như vậy, có thể thấy, âm mưu đen tối chiếm toàn bộ Hoàng Sa của TQ đã nung nấu từ rất lâu, chỉ chờ thời cơ là họ ra tay hành động. Chỉ cần nhìn vào sự bố trí lực lượng sau đây của Quân ủy Trung ương TQ là rõ:
- Cử tàu 396, 389 của đại đội tàu quét mìn số 10 thuộc căn cứ Quảng Châu và tàu 271, 274 đại đội săn tàu ngầm số 73 căn cứ Du Lâm trong 2 ngày 17, 18 phải có mặt ở vùng biển phụ cận cụm đảo Vĩnh Lạc, Hoàng Sa để làm nhiệm vụ tuần tra.
- Lệnh cho quân khu Nam Hải cử 4 trung đội vào đóng trên 3 đảo Tấn Khanh, Tham Hàng, Quảng Kim.
- Căn cứ Quảng Châu cử tàu 281, 282 của đại đội săn tàu ngầm số 74 vào gần cụm đảo Vĩnh Lạc làm nhiệm vụ cơ động.
- Đặt sở chỉ huy trên biển trên tàu 271 thuộc đại đội săn tàu ngầm số 73.
- Để phối hợp hành động của hải quân, Quân khu Quảng Châu lệnh cho Trung đoàn 22 không quân thuộc Hạm đội Nam Hải cử 2 phi đội máy bay chiến đấu, bay trinh sát tuần tra trên bầu trời cụm đảo Vĩnh Lạc, đồng thời yêu cầu không quân thuộc quân khu Quảng Châu cử một bộ phận làm nhiệm vụ sẵn sàng chi viện.
Do không đủ thông tin, một số tài liệu cho rằng lực lượng hải quân VNCH mạnh hơn, vì có tàu to hơn? Thực ra, hải quân VNCH chỉ có hai tuần dương hạm Trần Bình Trọng và Lý Thường Kiệt, khu trục hạm Trần Khánh Dư và hộ tống hạm Nhật Tảo. Còn TQ đã giương bẫy chờ sẵn, cộng thêm so sánh lực lượng hoàn toàn có lợi cho phía TQ.
Nhưng sự quyết tâm, lòng dũng cảm của hải quân VNCH làm cho quân TQ cũng phải nể phục. Sau đây là mô tả của Sa Lực Mân Lực – tác giả TQ:
“Sáng sớm ngày 18.1, tàu Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng của Nam VN trong mấy ngày qua vẫn lởn vởn ở vùng biển gần đảo Cam Tuyền, lại đến gần tàu cá (?) số 407 của TQ, dùng loa gào thét, buộc tàu cá TQ phải ra khỏi vùng biển này. “Không đi, coi chừng chúng tao sẽ tiêu diệt cả tàu lẫn người bây giờ” – viên sỹ quan Nam VN đe dọa. Trong khi đe dọa không có kết quả, cáu tiết, tàu Trần Khánh Dư chạy hết tốc lực, lao thẳng vào tàu cá 407, phá hủy buồng lái của tàu”.
“Sáng sớm ngày 19.1, sau một ngày “thi gan” với hải quân TQ, hải quân Nam VN quyết tâm lợi dụng tàu chiến hòng nuốt chửng các tàu tuần tiễu có trang bị kém hơn của hải quân TQ (?), tiến tới chiếm cả cụm đảo Vĩnh Lạc”.
“Hai tàu Lý Thường Kiệt và Sóng Gầm (có lẽ chỉ hộ tống hạm Nhật Tảo) giàn sẵn thế trận từ vùng biển phía bắc đảo Quảng Kim tiếp cận biên đội tàu hải quân TQ. Còn hai tàu Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng thì từ phía Nam tiếp cận hai đảo Tham Hàng và Quảng Kim”.
“Tàu Lý Thường Kiệt giương cao nòng pháo, lao thẳng vào biên đội hải quân TQ. Ỷ vào thế có lớp vỏ thép dày, tàu Lý Thường Kiệt không những không thay đổi hướng đi, ngược lại còn dùng mũi tàu húc thẳng vào tàu 396, làm hỏng cột đài chỉ huy, lan can mạn trái và máy quét mìn”.
“Tàu Lý Thường Kiệt ngang nhiên đi giữa 2 tàu hải quân TQ, lao về phía đảo Tham Hàng, Quảng Kim, sau đó thả 4 xuồng cao su, chở hơn 40 tên sỹ quan binh sỹ Nam VN đổ bộ lên đảo ngay trước mặt tàu chiến TQ”.
“Sau khi chiếm lĩnh vị trí có lợi ở vòng ngoài, cả 4 tàu chiến hải quân Nam VN bỗng nhiên đồng loạt nổ súng vào 4 tàu chiến của biên đội hải quân TQ. Dưới làn pháo dày đặc của tàu địch, tàu chiến của hải quân TQ liên tiếp bị trúng đạn, một số nhân viên bị thương”.
(còn tiếp)
http://lemaiblog.wordpress.com/2013/01/15/nhin-lai-hai-tran-lon-danh-tren-bien-dong-1/
Chống tham nhũng “chỉ mới bắt được mèo con”
16/01/2013 3:20- ThanhnienNhiều phát biểu tại hội thảo khoa học “Bàn về những giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, do Tạp chí Cộng sản phối hợp ĐH Quốc gia TP.HCM tổ chức ngày 15.1, đều cho rằng tham nhũng nhiều nhưng được phanh phui chỉ là những vụ nhỏ, ở cấp dưới, còn tỷ lệ phanh phui ở cấp cao là rất ít (cán bộ cấp xã phường chiếm tỷ lệ khoảng 30%, còn cấp T.Ư chỉ chiếm 0,3%).
GS Trần Đình Bút, nguyên thành viên tư vấn Chính phủ, khẳng định: “Chống tham nhũng chỉ mới bắt được mèo con nên tác nhân gây ra những vụ tham nhũng cực kỳ lớn vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, tuồng như là một thách đố đối với dư luận, và cả với kỷ cương đất nước”.GS-TS Nguyễn Trọng Chuẩn, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, cảnh báo: “Nếu tình hình cứ tiếp tục diễn tiến xấu, nếu tham nhũng tiếp tục lan tràn trong khi các cơ quan thi hành pháp luật tỏ ra bất lực, nếu mọi cái vẫn được giấu kín theo kiểu “bảo vệ cán bộ” hay “nếu cách chức đi thì lấy ai mà làm việc” thì đó là lúc niềm tin sẽ suy giảm nặng nề”. Ông Chuẩn cho rằng cần phát huy việc thanh toán bằng tài khoản ngân hàng, bởi theo kinh nghiệm của nhiều nước, qua đó có thể hồi tố mọi vụ tham nhũng, ở mọi cấp, mọi ngành, kể cả khi người tham nhũng được coi là đã “hạ cánh an toàn”.
GS-TS Hoàng Chi Bảo, Hội đồng Lý luận T.Ư, đề nghị cần thiết có bộ luật về đạo đức của xã hội và buộc “Tất cả công chức bắt buộc phải qua khóa học đạo đức công chức, công vụ trước khi ngồi vào nhiệm sở”.
Đình Phú – Nguyễn Tập
>> Tìm giải pháp phòng chống tham nhũng
>> Kiểm toán mạnh để chống tham nhũng
>> Đối thoại về phòng chống tham nhũng
Công an đàn áp Dân oan phường Phước Long, Tp. Nha Trang
VRNs (15.01.2013)
– Nha Trang - Đứng trước quyết định cưỡng chế thu hồi đất tại phường
Phước Long, Tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa vào ngày 18/01/2013 sắp tới,
dân oan tại đây đang rất hoang mang và kêu cứu khắp nơi. Người dân tại
đây đã gửi đến 30 đơn tố cáo đi khắp nơi nhưng những kẻ tham nhũng vẫn
không bị trừng trị, mà ngược lại những chủ đất thực sự đang đứng trước
nguy cơ bị đàn áp và sẽ mất đất, mất nhà.
Mời quý độc giả lắng nghe đoạn phỏng vấn của phóng viên không biên giới Trâm Oanh từ Đức quốc và tiếng kêu cứu của Dân oan Lê Bích Lan từ Nha Trang.
Mời quý độc giả lắng nghe đoạn phỏng vấn của phóng viên không biên giới Trâm Oanh từ Đức quốc và tiếng kêu cứu của Dân oan Lê Bích Lan từ Nha Trang.
Phác họa chân dung Nguyễn Bá Thanh
Boxitvn
CÁNH CHIM BÁO BÃO
Vũ Lương
Kỹ sư và nhà báo Vũ
Lương với tôi là chỗ thân tình, nhưng trước nay, không bao giờ vì sự
thân tình mà anh ép tôi đồng nhất với quan điểm của anh trong các vấn đề
thời sự xã hội được anh kỳ công viết và cho công bố trên BVN.
Việc Vũ Lương đánh giá ông Nguyễn Bá Thanh trong bài viết này xuất phát
từ trải nghiệm thực tế riêng, do anh có những cuộc tiếp xúc đặc biệt với
đương sự mà người khác không dễ có. Và niềm tin duy nhất ở người đọc
đầu tiên là tôi, là sự chân thật của một ngòi bút biết tự trọng. Còn
cách nhìn của chúng tôi thì cố nhiên không có cái cự ly của Vũ Lương,
nên cũng không thể hay chưa thể nhìn được như anh.
Xin được nhắc lại ở đây
những câu tôi từng viết trong lời đề từ cho bài “Hố sâu cũng tương ứng
với tai ương đã dựng” của TS Tô văn Trường (http://www.boxitvn.net/bai/44174), nói lên những mối phân vân nhiều chiều mà cho đến lúc này vẫn chưa tìm ra được một đáp án sáng rõ:
“Việc đề cử hai ông
Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào hai chức vụ Trưởng ban Nội chính
và Trưởng ban Kinh tế của Đảng nhằm cứu nguy cho tình trạng bên bờ vực
thẳm của ĐCSVN, đang làm cho dư luận hết sức “nóng” trong mấy ngày qua.
Vương Đình Huệ thôi khỏi nói làm gì, một người chưa để lại dấu ấn, nhưng
Nguyễn Bá Thanh thì gần như là một ẩn số với nhiều giải đoán trái ngược
trên cả báo chính thống lẫn báo không chính thống – báo mạng.
Quan trọng hơn nữa là
liệu một vài cá nhân như bóng cây trên sa mạc có vực lại được một cục
diện mà quy luật “thành, trụ, hoại, diệt” của nhà Phật đã ứng hiện quá
rõ? Hay là lần này may ra có hy vọng lội ngược dòng, thực hiện được câu
ngạn ngữ Việt Nam “Thời thế tạo anh hùng”, mà một nhà phân tâm học hậu
cấu trúc luận người Pháp Jacques Lacan (1901 – 1981) cũng nói gần tượng
tự: “En chacun de nous, il y a la voie tracée pour un héros” (Trong mỗi
một chúng ta đều có con đường được vạch sẵn cho một anh hùng)”?
Chỉ xin bổ sung thêm vào đây một ý nhỏ thôi, rằng ngạn ngữ Việt Nam còn có câu “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng / Thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân”.
Ở con người ông Nguyễn Bá Thanh phải chăng có sự trộn lẫn đến một chừng
mực nào đó cả hai phẩm tính trong câu ngạn ngữ vừa dẫn? Chẳng thế mà
ngay khi ông tỏ ra quyết đoán làm đến cùng việc này việc kia, ta vẫn
thấy bộc lộ đó đây những nét “ương” và “thô” – thô đến dường như sống
sượng – trong khu xử? Và khi quyền lợi của ông trực tiếp bị đụng chạm,
chẳng hạn trong vụ Thiếu tướng Trần Văn Thanh đối đầu với ông mấy năm
trước, thì cái “cố cùng” bỗng thắng cái “anh hùng”, cho đến đỗi đối thủ
của ông thất điên bát đảo, đang đột quỵ cũng cứ phải thượng xe lăn trong
tư thế nằm ngửa để xuất hiện trước tòa?
Một con người như vậy
nếu được lịch sử trao cho sứ mệnh một “cánh chim báo bão”, thì khi cơn
bão đi qua, liệu NHÂN DÂN có trụ được trong tư thế LÀM CHỦ hay không?
Nguyễn Huệ Chi
|
Từ tháng 9/1998, khi Công ty cầu 12 thuộc Tổng công
ty xây dựng công trình giao thông 1 Bộ GTVT tham gia xây dựng dự án cầu
sông Hàn, tôi mới gặp ông Chủ tịch thành phố Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh vài
lần nhưng chưa có dịp tiếp xúc với ông. Tuy nhiên, tôi đã kịp ghi lại
hình ảnh người đứng đầu thành phố thường xuyên có mặt trên công trường,
hoặc lúc lũ lớn về đột ngột gây nhiều thiệt hại cho nhà thầu và đặc biệt
hơn, vào dịp tết, ông dẫn đầu đoàn tới chúc mừng kèm theo lợn, gà, tiền
thưởng… động viên những người công nhân ở lại, quên nỗi nhớ nhà để đẩy
nhanh tiến độ thi công cho kịp lễ khánh thành tổ chức vào sáng 29/3/2000
để buổi chiều, khánh thành tuyến cáp treo lên đỉnh Bà Nà… Khó có thể
quên không khí sôi nổi và phấn khởi của nhân dân thành phố đổ về chật
kín hai bên bờ sông Hàn chứng kiên giờ phút thông xe… Kể từ ngày ấy Đà
Nẵng bật dậy, đổi thay từng ngày làm nức lòng người và tên tuổi Nguyễn
Bá Thanh được nhắc tới với lòng ngưỡng mộ chân thành nhưng cũng không ít
lời đàm tiếu ngoài lề…
Hãy nhìn mặt mà… bắt hình dong ông Nguyễn Bá Thanh các bạn nhé
Cho tới tháng 6/2002, tôi và nhà báo Khắc Bình – ở báo Sài Gòn giải phóng
được phân công đưa đoàn nhà báo đang công tác tại thành phố Hồ Chí Minh
và các tỉnh phía Nam đi tham quan công trường xây dựng đường Hồ Chí
Minh. Theo lịch sắp sẵn sau chuyến đi tiền trạm, Đoàn nhà báo đầu tiên
hơn 40 người ghé thăm Đà Nẵng. Hội nhà báo Đà Nẵng tiếp đón rất ân cần
và lịch thiệp. Thời gian tuy ngắn nhưng các anh cũng tổ chức một buổi
gặp mặt ông Nguyễn Bá Thanh, lúc ấy là Chủ tịch UBND thành phố. Ông mời
cả đoàn vào phòng khách và chuyện trò cởi mở, thân tình, trả lời rất
nhiều câu hỏi của các nhà báo phương Nam vì đã lâu nghe tên, nghe lắm
chuyện về Nguyễn Bá Thanh mà giờ mới được gặp. Chiều tối, vị Chủ tịch
chiêu đãi các nhà báo trên con tàu – nhà hàng nổi, chạy dọc sông Hàn
lộng gió… Ông Thanh chúc rượu từng người, vui vẻ nghe “cây nhà lá vuờn”
hát những bài ca viết về thành phố đang thay da đổi thịt từng ngày… Cuộc
gặp ấy để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong lòng các nhà báo phía Nam… Từ dạo
ấy, chúng tôi thân biết nhau. Ông cho số điện thoại và dặn rằng, khi
nào cần cứ gọi. Số điện thoại của ông được thông báo công khai để mọi
người dân đều biết. Ai gọi tới, ông đều dành thời gian lắng nghe và vui
vẻ trả lời. Mười năm trước đây, là một câu chuyện khá lạ lùng. Đến bây
giờ, chuyện công khai số điện thoại liệu có mấy vị quan đầu tỉnh làm
được như Nguyễn Bá Thanh nhỉ?
Vào một sáng giữa tháng 5/20007, tôi nhận được tin
nhắn bay gấp ra Đà Nẵng… Tôi cùng một đồng nghiệp vội vàng ra sân bay
lấy vé đi liền. May sao hôm ấy còn vài chỗ trống… Hơn một giờ bay, chúng
tôi hạ cánh an toàn và chiếc xe đón sẵn chở chúng tôi ghé khách sạn cất
đồ rồi chạy thẳng vào văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố. Tiến sĩ Trần
Văn Minh – Chủ tịch UBND đợi sẵn và sau vài câu chào hỏi, anh vào
chuyện luôn vì chính hôm đó, UBND thành phố tổ chức công bố kết luận của
thanh tra Chính phủ về những vấn đề nổi cộm và bức xúc “của những người
khiếu kiện dài ngày đã gửi đơn thư khiếu nại, tố cáo tới các cơ quan
Trung ương tại Hà Nội. Truớc đó cả tuần, ngoài việc đưa giấy mời tới 13
gia đình ở Đà Nẵng, đích thân vị Chủ tịch cùng một số cán bộ lặn lội ra
Hà Nội, trao thư mời tới từng người đang “thường trực” tại các điểm tiếp
dân về Đà Nẵng họp. Thế nhưng buổi họp ấy… chẳng có một người nào được
mời có mặt! Hay nói cho đúng hơn, chỉ có một người từ Hòa Vang tới dự
nhưng lại không có tên trong danh sách mời!
Tại sao một cuộc họp quan trọng đến vậy liên quan tới
những người khiếu kiện mà họ cố tình vắng mặt??? Thì ra, trước đó vài
ngày, trên một tờ báo lớn, có khá đông độc giả ở TP Hồ Chí Minh đã đăng
tải bài quy kết lãnh đạo Đà Nẵng làm nhiều việc sai trái, bán đổ bán
tháo tài sản nhà nước và xâm phạm nghiêm trọng tài sản, đất đai của công
dân… Bài báo lại được photo thành nhiều bản, phát tán công khai khắp
nơi như một loại tờ rơi trước ngày bầu cử Quốc hội khóa XII (sẽ diễn ra
vào ngày 21/5/2007) như một đòn giáng mạnh vào uy tín của nhiều người,
trong đó có các ứng viên Quốc hội khóa XII. Trong khí đó kết luận của
Thanh tra Chính phủ trái ngược với nội dung bài báo nên những người
khiếu kiện và những người “tát nước theo mưa” hy vọng sẽ đảo ngược tình
thế, hạ bệ người mà họ đang tập trung sức vùi dập. Đó chính là Nguyễn Bá
Thanh, khi ấy, ông đang ở cương vị Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội
đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Theo lời hẹn, chiều hôm ấy, tại căn phòng làm việc
Chủ tịch HĐND đầy ắp sách báo, tài liệu, ông Nguyễn Bá Thanh dành trọn
buổi tiếp chúng tôi. Ông thuộc lòng tên tuổi, địa chỉ và nội dung đơn
thư của hơn chục người theo đuổi ông nhiều năm nay, ông cũng nhiều lần
trực tiếp nghe và trao đổi ý kiến đồng thời chỉ đạo các cơ quan chức
năng tìm hiểu, điều tra và giải quyết dứt điểm những vấn đề viết trong
đơn khiếu kiện. Nhiều lá đơn được Thanh tra Chính phủ xem xét và giải
quyết, có kết luận rõ ràng… nhưng người ta vẫn tiếp tục… kiện! Ông Thanh
kể, có một bà giáo già nói rằng sẽ kiện Nguyễn Bá Thanh đến khi nào
chết mới thôi. Lý do lại hết sức đơn giản vì khi thu hồi đất của bà ở
trong hẻm để mở rộng sân vận động Chi Lăng, theo quy chế bà được đền bù 2
lô đất, một lô ngay tại nơi giải tỏa đã trở thành mặt phố và một lô ở
địa điểm khác. Bà nằng nặc đòi 2 lô cùng nơi giải tỏa. Đòi không được,
bà mang đơn đi kiện khắp nơi và ra tận Hà Nội… Trong câu chuyện, ông
Nguyễn Bá Thanh cho thấy sự cảm thông với người đi kiện nên ông không
ngần ngại tiếp xúc với họ, lắng nghe và trao đổi cởi mở, thẳng thắn. Ông
đã nhiều lần xuống tận hiện trường, nếu phát hiện thấy cán bộ, nhân
viên có thiếu sót, khuyết điểm, làm bừa, làm ẩu, là ông yêu cầu phải sửa
ngay để bảo đảm quyền lợi của người dân. Có lẽ nhờ vậy mà với hơn một
trăm dự án mở đường xây cầu, chỉnh trang đô thị, xây dựng các khu dân cư
mới làm ảnh hưởng tới hơn một trăm hộ gia đình nhưng chỉ có hơn 30
trường hợp “khiếu kiện” và sau nhiều lần họp lên, họp xuống thanh tra
thành phố, thanh tra Chính phủ vào cuộc thì chỉ còn lại hơn chục hộ
“kiên quyết” khiếu kiện đến cùng. Và… một số người vốn không ưa ông đã
lợi dụng kết hợp với những vấn đề đã từng liên quan tới ông để khoét sâu
thêm mâu thuẫn và chọn thời điểm chuẩn bị bầu cử Quốc hội “tung chưởng”
nhằm hạ gục ông! Những đơn thư tố cáo, những văn bản cũ liên quan đến
ông đều trở thành vũ khí của họ nhưng cuối cùng, tư cách ứng viên của
ông vẫn được các cơ quan chức năng xác nhận đầy đủ nên sự hằn học, quấy
rối vẫn tiếp diễn đến phút chót. Tuy nhiên, cuộc bầu cử Quốc hội tại Đà
Nẵng vẫn diễn ra trong trật tự và kết quả cho thấy các cử tri vẫn tín
nhiệm ông với tỉ lệ rất cao so với nhiều ứng cử viên khác tại Đà Nẵng.
Mười mấy năm trên cuơng vị Chủ tịch rồi làm Bí thư
Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, ông Nguyễn Bá Thanh đã có
nhiều công tích, xây dựng Đà Nẵng thành một nơi “đáng sống” và bộ mặt đô
thị khang trang, sạch đẹp. Trong quá trình điều hành, ông là người biết
mở, biết thắt, sẵn sàng lắng nghe nhưng cũng quyết đoán và sẵn sàng
chịu trách nhiệm về các chỉ đạo của mình. Giữa những người cộng sự, ông
là người lãnh đạo cao nhất nhưng cũng là người anh lớn nên nhiều vấn đề
gay cấn, ông vẫn phải đứng ra dàn xếp, giải quyết để trong ấm ngoài êm.
Cuộc đời ông vốn trải nhiều lúc thăng trầm dù ông có một lý lịch đáng nể
bởi thân phụ của ông là một cán bộ cách mạng đã anh dũng hy sinh cho sự
nghiệp giải phóng đất nước. Bản thân ông cũng lăn lộn, tự vươn lên từ
một Kỹ sư nông nghiệp bình thường tới Giám đốc nông trường rồi về Sở
Nông nghiệp… Ông có cá tính mạnh mẽ, ý thích rèn luyện thân thể, chơi đá
bóng, cầu lông… là những dịp để ông “hạ hỏa” và có dịp thư giãn sau
những giờ phút căng thẳng. Ông kể rằng, đã có lúc “người ta” suýt đánh
bại ông, đã có lúc tưởng như đất trời sụp đổ dưới chân ông nhưng rồi…
Ông vẫn đứng vững. Sống trong một vùng đất có nhiều đặc đỉểm hay dở của
Xứ Quảng, ông chịu đựng sóng gió ba bốn bề… Khi được cử đi học thêm, ông
những tưởng mình sẽ “lên” nhưng không ngờ, lại quay về chốn cũ… đợi
chờ. Số phận trớ trêu nhiều lần đùa cợt với ông, thử thách hệ thần kinh
thép của ông!
Ông càng chịu trận bao nhiêu thì ông lại cởi mở bấy
nhiêu. Ông giãi bày lòng mình không giấu giếm điều gì. Yêu thì nói là
yêu, ghét thì nói là ghét. Ông khẳng định mình không có kẻ thù mà chỉ có
người tỵ hiềm. Điều đó khiến ông vui vẻ hợp tác, làm việc bình thường
với những người mà ông cho là “giống vợ chồng đã ly hôn” nhưng vẫn sống
cùng một mái nhà! Ước vọng của ông về xây dựng Đà Nẵng vươn lên bằng
anh, bằng chị, tạm gọi là thành công mặc dù còn nhiều khiếm khuyết. Hy
vọng một thành phố không có người ăn xin, không có người nghiện hút
trong cộng đồng, không có giết người, cướp của… trên thực tế đã làm cho
Đà Nẵng an toàn, sạch sẽ hơn xưa nhiều lần. Ông thường xuống họp, tiếp
xúc với đủ loại người. Từ người đi tù về, từ anh chàng hay đánh đập vợ
con… cho tới viên cảnh sát giao thông… ông không thể theo sát họ nhưng
sau những lần gặp gỡ ấy, nhiều người đã sống tốt hơn, các ngành chức
năng đã giúp cho họ cải thiện điều kiện làm việc, ăn ở để Đà Nẵng bớt đi
cái xấu góp phần an dân và xã hội ổn định và phát triển vững chắc hơn.
Sau nhiều năm xây dựng cơ ngơi, Đà Nẵng trở thành
điểm đến của nhiều nhà đầu tư, sự hấp dẫn về tiềm năng du lịch, nghỉ
dưỡng và có một hệ thống giao thông thủy, hộ, hàng không, đường sắt…
tương đối hoàn chỉnh, chính là cơ hội vàng cho Đà Nẵng hiện tại và tương
lại. Chân dung Nguyễn Bá Thanh cũng sáng láng và hoàn thiện nhờ ông dày
công khổ luyện, chịu nhiều búa rìu dư luận để lập nên những kì tích mà
chưa tỉnh thành nào sánh nổi. Trước đây năm, bảy năm, đã có nhiều bậc
lão trượng tiền bối, nhiều vị cao niên đáng kính đã tiến cử Nguyễn Bá
Thanh, mong muốn ông được giao trọng trách cao để ông có dịp kinh bang,
tế thế, phục vụ cho đất nước, phục vụ nhân dân nhiều hơn nữa. Tuy nhiên,
chẳng có con đường nào không có chông gai… nên ông vẫn “giữ gôn” ở Đà
Nẵng mà lòng ngổn ngang trăm mối. Những người yêu mến ông tiếc cho một
tài năng, một nhân vật hiếm hoi giữa thời củi quế, gạo châu chưa được
trọng dụng xứng đáng.
Phải đợi đến những ngày cuối năm 2012 này, khi Bộ
Chính trị ra quyết định tái lập Ban Nội chính và cử ông Nguyễn Bá Thanh
giữ chức Trưởng ban thì dư luận vỡ òa! Điều mọi người trông chờ bấy lâu
đã thành sự thật. Quả là một hạnh phúc lớn cho một người như Nguyễn Bá
Thanh bởi trước ông (và có lẽ sau ông) chưa có một ai “lên chức” được dư
luận xã hội đánh giá cao như thế. Nói cho đúng nghĩa, phần lớn cán bộ,
đảng viên và nhân dân khắp nước mừng cho ông, gửi gắm niềm tin, niềm hy
vọng vào ông. Họ từng tin, từng khắc khoải và cũng từng chán chường khi
nhìn thấy sự xuống cấp nghiêm trọng, sự băng hoại đạo đức xã hội và cái
xấu, cái ác ngự trị mọi nơi, vì thế, trách nhiệm của ông càng nặng nề,
càng khó khăn trước ước vọng của nhân dân. Ông là người vực dậy thành
công bộ môn bóng đá ở Đà Nẵng với việc trải thảm đỏ mời Lê Huỳnh Đức từ
Sài Gòn ra làm Huấn luyện viên trưởng và Đức không phụ lòng ông. Bây
giờ, ông ra Hà Nội, ở một góc độ nào đó, ông cũng giống người huấn luyện
viên được giao nhiệm vụ phải đoạt được cúp vàng trong khi các cầu thủ
đều rệu rã và thể trạng yếu ớt! Cũng bởi vậy, nhiều người kỳ vọng vào
ông và lo lắng cho ông một mình một ngựa xông pha, hòn tên, mũi đạn làm
sao tránh hết?
Báo chí trong và ngoài nuớc và cư dân mạng đã viết
hàng chục bài về việc ông trở thành tân Trưởng ban Nội chính. Bài viết
này chỉ thêm vài chi tiết vì tác giả đã nhiều dịp đàm đạo cùng ông với
tư cách một nhà báo, một người bạn già. Tôi cũng như nhiều người, trân
trọng và quý mến ông nhưng tôi không đòi ông sự vội vã. Hãy cho ông thời
gian để ông xốc lại đội hình, có thêm người tâm huyết để ông chọn lựa
chiến thuật, chiến lược. Ông vốn là người có bản lĩnh, quen trận mạc nên
chắc chắn ông sẽ có nhiều quyết sách hợp lý, thực tế.
Dục tốc, bất đạt – người xưa đã dạy cần sự kiên nhẫn mới thành công.
Phía trước ông Nguyễn Bá Thanh là một chuổi ngày gian
khổ vất vả gấp mấy lần khi ông phải tạm xa gia đình, vợ con, xa nơi ông
gắn bó gần cả cuộc đời. Ông phải lao tâm, khổ tứ, phải gánh vác công
việc nặng nề nhưng nặng hơn cả đó là bao nhiêu niềm tin còn sót lại mọi
người giao hết cho ông!
Có nhiều người ví ông sẽ là Triệu Tử Long, là Bao Thanh Thiên…
Còn tôi, tôi đã được nghe, đã hiểu ông có nhiều trăn
trở, suy tư trước thời cuộc, trước vận mệnh của nhân dân, của đất nước,
của Đảng mà ông đã chọn, nên tôi cầu chúc cho ông chân cứng đá mềm, luôn
là một Nguyễn Bá Thanh sống và làm việc bằng cả tấm lòng và đầy sáng
tạo.
Tháng 4 này, ông tròn tuổi sáu mươi.
Ông còn đủ thời gian để trả lại cho nhân dân niềm tin đã bị đánh cắp.
Ông sẽ là CÁNH CHIM BÁO BÃO!
V.L.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét