1362. Vụ Văn Giang-Ecopark: Giáo sư Võ nhận thiếu sót, bà con Văn Giang cảm thông
“Người dân Văn Giang cho rằng cần làm rõ đúng sai và tiếp tục yêu cầu GS Võ nhận cái sai mình đã gây ra.Dân Việt
GS Võ thừa nhận về thẩm quyền việc ký thu hồi đất trong vụ việc này không đúng thẩm quyền, hay hiểu cách khác là đã làm trái thẩm quyền trong việc này.”
GS Đặng Hùng Võ gặp gỡ nông dân Văn Giang trong buổi đối thoại. Ảnh Đàm Duy
Dân Việt – Sau gần 3 tiếng đối thoại, Giáo sư Võ thẳng thắn và thừa nhận thiếu sót. Buổi gặp gỡ cũng đồng thời là “nút cởi” khỏi sự ác cảm của bà con nông dân Văn Giang đối với Giáo sư.
Chiều nay, 8.11, Giáo sư (GS) Đặng Hùng Võ gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với những người dân bị thu hồi đất cho Dự án khu đô thị nhà vườn Ecopark ở Văn Giang (Hưng Yên).
Tại buổi đối thoại này, GS Đặng Hùng Võ làm rõ những băn khoăn của người dân liên quan đến 2 tờ trình Thủ tướng Chính phủ về việc thu hồi đất để xây dựng đường cao tốc nối thành phố Hưng Yên và Hà Nội, có chạy qua khu đô thị nhà vườn Ecopark.
Đúng 14h tại trụ sở của Bộ Tài nguyên và Môi trường, cuộc đối thoại chính thức bắt đầu. Cuộc đối thoại có sự tham gia của đông đảo đại diện bà con nông dân Văn Giang.
Mở đầu cuộc đối thoại, GS Võ khẳng định, đây là buổi nói chuyện nhằm tháo gỡ nhiều bức xúc cho bà con nông dân. GS cũng cho biết sẽ tiếp thu, cố gắng giải quyết bức xúc cho bà con và nếu đòi được quyền lợi cho bà con nông dân thì ông luôn sẵn sàng.
Về 2 tờ trình Thủ tướng Chính phủ với nội dung thu hồi đất ở Văn Giang năm 2004 (số 14/TTr-BTNMT và 99/TTr-BTNMT), khi đó GS Võ đang là Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, GS thừa nhận ông đã trình không đúng thẩm quyền.
Luật sư Trần Vũ Hải – đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho một số bà con nông dân, khẳng định việc Bộ Tài nguyên và Môi trường đúng ra phải trình lên Chính phủ.
Luật sư Hải đặt câu hỏi vì sao thủ tục trình và thu hồi đất lại nhanh như vậy. GS Võ cho biết chủ trương thu gồi đất gắn liền với cầu Thanh Trì và các dự án trọng điểm khác.
GS Võ cho rằng đó là chủ trương đúng đắn, con đường cao tốc từ Hưng Yên về Hà Nội qua cầu Thanh Trì là con đường chiến lược, là dự án trọng điểm nên phải đẩy nhanh tiến độ và việc đổi đất lấy hạ tầng là việc tốt.
Bên cạnh đó, GS Võ cũng trình bày các trình tự các văn bản liên quan đến việc thu hồi đất của bà con Văn Giang.
“Việc ký trình nhanh như vậy tôi biết sẽ có điều tiếng nhưng tất cả là vì tiến độ dự án”, GS Võ nói.
Luật sư Hải cho rằng việc đẩy nhanh việc ký duyệt các văn bản chỉ phục vụ cho chủ đầu tư dự án chứ chưa thấy bà con nông dân được lợi gì.
Không khí cuộc đối thoại từ đầu đến giờ khá căng thẳng và nặng nề.
Bà con nông dân Văn Giang nói chính quyền đã biết có dự án từ năm 2003 nhưng năm 2006 người dân mới biết.
Luật sư Hải yêu cầu cần mổ xẻ hồ sơ vụ việc, và các chữ ký liên quan có thật hay không và cả việc chính quyền địa phương lúc xác nhận biết dự án đổi đất lấy hạ tầng, nhưng sau đó lại nói không biết gì.
GS Võ trao đổi với Luật sư Trần Vũ Hải. Ảnh Đàm Duy
Giáo sư Võ khẳng định khi có dự án thì
chính quyền đều biết từ năm 2004, có biên bản cuộc họp ở huyện Văn
Giang. Giáo sư Võ cũng cung cấp biên bản họp HĐND huyện Văn Giang và chủ
tịch các xã.Luật sư Hải cho rằng biên bản mà ông Võ trình lên chưa đúng luật vì không có chữ ký đầy đủ của người tham gia và không có dấu khi các tờ trình cũng không đúng về văn bản pháp luật.
Luật sư Hải cung cấp cho báo chí tờ trình số 14 mà luật sư cho rằng chưa đúng theo quy định pháp luật.
Tranh luận về các tờ trình vẫn chưa ngã ngũ khi luật sư Hải cho rằng nội dung tờ trình của GS Võ là sai thời điểm. GS Võ khá lung túng khi luật sư Hải đề cập đến vấn đề này.
GS Võ ngồi khá lâu rồi tìm tài liệu và thừa nhận có sai lệch về thời gian, kế hoạch. Việc điều chỉnh bổ sung kế hoạch sử dụng đất hàng năm là loại các dự án không khả thi và đưa vào các dự án khả thi vào.
Giáo sư Võ và luật sư Hải tranh luận về việc thẩm định hồ sơ đất đai và quy hoạch đất đai có ảnh hưởng đến nhau hay không.
Tiếp sau, luật sư Hải đề cập đến nội dung tờ trình 99/TTr-BTNMT. Luật sư Hải cho rằng trong nội dung tờ trình không có từ nào là “thu hồi đất” mà là “giao đất”. Luật sư Hải đề nghị GS Võ cần đề nghị sửa đổi tên tờ trình từ “giao đất” sang “thu hồi đất”.
Khoảng 15h50, một số người dân ở Văn Giang bắt đầu “chất vấn” GS Võ.
Một nông dân Văn Giang yêu cầu GS Võ cần giải thích rõ về việc làm các thủ tục quá nhanh và có dấu hiệu bất thường trong việc thu hồi đất của người dân.
GS Võ trả lời việc làm các tờ trình nhanh như thế đã được cấp trên “thông qua”.
Luật sư Trần Vũ Hải cho rằng tờ trình của GS Võ đã làm người dân Văn Giang mất đất trong khi đường thì chưa có, chủ đầu tư thì lại đã xây dựng cơ sở hạ tầng và bán lấy lãi, còn lại người dân chưa được hưởng lợi gì.
Tất cả bà con nông dân tại toạ đàm đều hưởng ứng ý kiến của luật sư Hải.
Nông dân Văn Giang cũng khẳng rằng định hiện tại không có công nhân thi công gì, đường thì cũng chưa thấy. Một người nông dân Văn Giang hỏi tiếp: “Trả lời báo chí, GS Võ nói việc thu hồi đất cơ bản là đúng luật, vậy ông trả lời trong 3 ngày ký thu hồi 500ha đất của dân liệu có đúng không?”.
Toàn cảnh đối thoại của GS Đặng Hùng Võ với nông dân Văn Giang. Ảnh Đàm Duy
GS Võ khẳng định đã giải thích việc này
rồi, ông khẳng định việc thu hồi trong 3 ngày là đúng vì đã có quá trình
trước đó. GS Võ cho rằng cần tìm tiếp văn bản khác để phân tích việc
thu hồi đất này có đúng luật hay không.Buổi hội đàm trở nên nóng hơn sau câu nói của GS Võ.
Người dân yêu cầu GS Võ phải xin lỗi công khai việc ông trình lên Thủ tướng một cách trái thẩm quyền, từ đó gây ảnh hưởng cho hàng nghìn người dân bị mất đất.
Người dân Văn Giang tiếp tục cung cấp văn bản vừa thu hồi vừa giao đất cho chủ đầu tư trong một ngày của chính quyền và họ cho rằng đó là điều bất thường.
Giáo sư Võ hứa với nông dân Văn Giang sau buổi này sẽ có bài viết liên quan đến vụ việc.
Luật sư Hải ý kiến, hiện mọi người vẫn hiểu những người dân ở Văn Giang đi khiếu kiện là người chống đối nhưng bây giờ, khi mọi việc đã tương đối rõ ràng, thì phải giải cái oan này cho những người dân ấy.
Người dân Văn Giang cho rằng cần làm rõ đúng sai và tiếp tục yêu cầu GS Võ nhận cái sai mình đã gây ra.
GS Võ thừa nhận về thẩm quyền việc ký thu hồi đất trong vụ việc này không đúng thẩm quyền, hay hiểu cách khác là đã làm trái thẩm quyền trong việc này.
Người dân Văn Giang đã tỏ thái độ chia sẻ với GS Võ.
GS Võ thừa nhận và thẳng thắn nhìn vào khuyết điểm, thiếu sót. “Làm gì thất thoát cho bà con là lỗi của tôi”, GS Võ nói.
Buổi đối thoại kết thúc. Bà con nông dân cảm ơn GS và báo chí đã đến tham dự cuộc đối thoại. Cuộc đối thoại cũng là nút cởi khỏi sự ác cảm của bà con nông dân Văn Giang đối với GS Võ vì 2 tờ trình mà ông đã ký cách đây 8 năm.
Trước đó, ngày 25.10, những người dân bị thu hồi đất ở Văn Giang đã có thư ngỏ * đề nghị Giáo sư Đặng Hùng Võ trả lời, giải thích rõ về 2 tờ trình Thủ tướng Chính phủ với nội dung thu hồi đất ở Văn Giang năm 2004 (số 14/TTr-BTNMT và 99/TTr-BTNMT), khi đó Giáo sư Võ đang là Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên – Môi trường.
Thư ngỏ của các hộ dân bị thu hồi đất có viết: “Chúng tôi thấy ông (Giáo sư Võ – PV) đã làm trái pháp luật khi ký 2 tờ trình trên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của chúng tôi… Trong thời hạn một tuần (tính từ ngày 25.10) nếu ông không có phản hồi, chúng tôi buộc phải có đơn tố cáo chính thức gửi cơ quan pháp luật để truy cứu trách nhiệm cá nhân ông”.
Trao đổi với Dân Việt sáng 7.11, Giáo sư Đặng Hùng Võ cho biết: “Tôi cho rằng việc bà con tố cáo tôi là tốt chỉ vì một lý do rất giản dị, nếu tôi bị thiệt thòi mà người dân được lợi thì tôi sẵn sàng. Hơn nữa, tôi rất muốn mọi việc đều minh bạch. Đây cũng là sự việc rất bổ ích cho sửa đổi Luật Đất đai, một nhiệm vụ rất phức tạp hiện nay từ cả góc độ lý luận và thực tiễn, một bài học rất đáng giá. Tôi đã sắp xếp cuộc gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với những hộ dân nói trên vào chiều ngày 8.11”.
Giáo sư Võ cũng khẳng định lại: “Việc ký 2 tờ trình vào thời điểm đó là đúng đắn và tốt cho đại cục, tốt cho sự phát triển kinh tế của hai địa phương Hà Nội và Hưng Yên, như vậy cũng có nghĩa người dân cũng sẽ được hưởng lợi từ sự phát triển đó”.Thắng Quang – P.V
1363. MỸ VÀ TRUNG QUỐC: LỢI ÍCH VỪA ĐAN XEN, VỪA THÁCH THỨC
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Tạp chí “The World” (Mỹ) vừa có bài phân tích sự tranh giành ảnh
hưởng và lợi ích giữa Mỹ với Trung Quốc tại một số địa bàn trọng yếu
trên thế giới. Nội dung chính như sau:
Cả hai cùng giành giật châu Phi
Mới đây, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tiến hành chuyến thăm nhiều nước châu Phi, với mục tiêu được công bố là “xúc tiến nền dân chủ”, nhưng thực ra còn có một mục tiêu khác, quan trọng hơn, đó là nhằm cảnh báo các nhà lãnh đạo châu Phi trước mối nguy hiểm của cuộc tấn công kinh tế của Trung Quốc.
Từ nhiều năm nay, một cuộc chiến tranh bí mật tranh giành nguồn tài nguyên ở châu Phi đã diễn ra giữa các nước phương Tây đang trên đà suy giảm và Trung Quốc đang bành trướng rất mạnh mẽ. Từ năm 2009, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại hàng đầu của châu Phi. Năm 2009, kim ngạch thương mại giữa hai bên đạt kỷ lục tới 166,3 tỷ USD, tăng 83% so với năm 2008. Trung Quốc lại vừa thông báo tăng (tới 20 tỷ USD các khoản tín dụng cho châu Phi. Trung Quốc xây dựng đường sá, tài trợ cho các trường đại học và các trung tâm xã hội tại các nước mà người Trung Hoa gọi là “bị thế giới lãng quên”. Trong những chuyến thăm trên, bà Hillary Clinton đã nhiều lần nói úp mở với các vị chủ nhà châu Phi rằng lịch sử xưa và nay đã cho thấy cần phải dè chừng Trung Quốc như thế nào.
Mỹ và châu Âu vẫn tiếp tục chi phối châu Phi thông qua các mạng lưới chính trị kinh doanh của họ và các thể chế đa phương, như Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB), và đã đạt được kết quả. Chẳng hạn, Mali đã bị WB buộc phải chuyên về sản xuất bông, cạnh tranh với bông của Bắc Mỹ là nơi được hưởng trợ cấp của cường quốc tự do hàng đầu. Bà Clinton chắc chắn đã không yêu cầu châu Phi phải dè chừng các tổ chức này, nhưng bà đã đề nghị họ quan hệ với Trung Quốc như thế.
Trung Quốc và Mỹ với những lợi ích ở châu Á-Thái Bình Dương
Tình hình căng thẳng mới đây trong khu vực, nhất là về vấn đề kiểm soát một số hòn đảo ở Biển Đông, đã cho thấy những tham vọng ngày càng tăng của Trung Quốc, và Mỹ đang tìm cách ngăn chặn bằng mọi giá.
Tình hình căng thẳng ở châu Á-Thái Bình Dương có nguy cơ biến thành cuộc khủng hoảng hoặc chiến tranh, đấy là nhận xét của Mỹ tại diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), được tổ chức tại Vladivostok, miền cực Đông của Nga, cách đây chưa lâu. Diễn đàn năm nay được tổ chức nhằm thảo luận về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng nó cũng bị chi phối bởi các cuộc tranh cãi về lãnh thổ đang nổi lên mới đây giữa các nước châu Á tại Biển Đông. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương gồm 21 nước nằm xung quanh Thái Bình Dương. Trong cuộc họp cấp cao này, nhiều nhà lãnh đạo đã bày tỏ mối lo ngại về tình hình ở Biển Đông. Nguyên nhân gây ra tình hình căng thẳng này là do Trung Quốc, nước không ngừng đòi chủ quyền đối với toàn bộ vùng Biển Đông (nằm ở Thái Bình Dương và giàu tài nguyên thiên nhiên), kể cả các vùng gần bờ biển của các nước láng giềng như Việt Nam và Philíppin. Các ý đồ này của Trung Quốc đã khiến các nước ASEAN chia rẽ tới mức đây là lần đầu tiên trong 45 năm tồn tại, các nước ASEAN đã không thỏa thuận được với nhau về một thông cáo chúng trong một cuộc họp cấp cao vào tháng 7 vừa qua.
Việt Nam và Philíppin đã tố cáo Trung Quốc có những hành động hăm dọa để mở rộng chủ quyền của mình trên Biển Đông. Ngoài hai nước này, mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng nhanh chóng bị xấu đi nghiêm trọng trong những ngày qua do tranh chấp chủ quyền các đảo Senkaku/Điếu Ngư là trung tâm của một cuộc chiến đòi chủ quyền giữa hai nước. Các hòn đảo này, giàu cá và dầu lửa, hiện thuộc Nhật Bản, và những người theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Nhật Bản đã thể hiện ý muốn quốc hữu hóa nó. Thông báo này đã lập tức châm ngòi và làm bùng phát tình hình căng thẳng giữa Tôkyô và Bắc Kinh. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi đây là một sự khiêu khích mới và một sự vi phạm lãnh thổ của Trung Quốc, và đòi Nhật Bản phải chấm dứt ý tưởng trên, phải thực hiện những hành động cụ thể để cùng với Trung Quốc giảm bớt tình hình căng thẳng.
Trong một nỗ lực tháo ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng giữa hai siêu cường kinh tế này, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã thực hiện một chuyến thăm tới Bắc Kinh, tại đây bà đã ủng hộ một quan điểm đa phương để tìm cách giải quyết bất đồng về lãnh thổ ở Biển Đông. Trên thực tế, từ khi cuộc khủng hoảng diễn ra, Mỹ đã đứng về phía đồng minh của mình là Nhật Bản. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, Victoria Nuland, đã thẳng thắn chỉ rõ Senkeku/Điếu Ngư nằm trong điều khoản 5 của Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ, vì vậy, Mỹ sẵn sàng tới cứu giúp Nhật Bản bảo vệ các hòn đảo này. Chính vì thế mà bà Clinton đã nhận được “một sự đón tiếp lạnh nhạt” từ phía các nhà lãnh đạo Trung Quốc, họ đã công khai yêu cầu bà đừng dính líu vào cuộc tranh chấp lãnh thổ và cảnh cáo bà trước mọi sự gây tổn hại của Mỹ đến nhũng lợi ích cơ bản của Trung Quốc.
Được Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đón tiếp, bà Clinton đã đưa ra những lời lẽ mang tính hòa giải, khẳng định rằng vì lợi ích chung nên Trung Quốc và các nước ASEAN, cũng như các nước có tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải khác với Trung Quốc, phải tiến hành một tiến trình ngoại giao, phải đối thoại để giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, chuyến thăm Trung Quốc của bà Hillary Clinton nằm trong khuôn khổ một chuyến thăm châu Á-Thái Bình Dương kéo dài 10 ngày bắt đầu là Inđônêxia, sau đó là Timo Lexte, Brunây và cuối cùng là Vladivostok của Nga. Chuyến thăm này của bà Clinton nhằm chống lại hoặc đúng hơn là cân bằng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực và tăng cường tình đoàn kết của các nước ASEAN mới đây đang bị sứt mẻ do những bất đồng về lãnh thổ với nước láng giềng hùng mạnh Trung Quốc. Trong chuyến thăm của mình, bà Clinton đã khuyến khích các nước châu Á lập ra một mặt trận vững chắc trước nhừng tham vọng của Trung Quốc.
Theo các chuyên gia, chuyến thăm này đã khiến Trung Quốc rất lo ngại bởi Ngoại trưởng Mỹ đã không ngừng nói rằng Thái Bình Dương đã trở thành một khu vực mang tính sống còn đối với Mỹ về mặt kinh tế và chiến lược, thể hiện tham vọng của Mỹ biến thế kỷ 21 thành “thế kỷ của nước Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương”. Trong những năm qua, Mỹ đã tiến hành một cuộc tấn công ngoại giao chưa từng thấy trong khu vực này, gia tăng các chuyến thăm chính thức, trong khi vẫn quyết định triển khai 60% khả năng quân sự của mình tới khu vực này. Dường như là Trung Quốc khó mà thực hiện được những tham vọng của mình tại Biển Đông bởi Mỹ đang là đối trọng đáng gờm đối với sự trỗi dậy của một siêu cường Trung Quốc trong khu vực.
Ai Cập: Một mục tiêu tranh giành mới
Một đoàn đại biểu kinh tế quan trọng của Mỹ vừa mới hoàn thành một chuyến thăm 4 ngày tới Ai Cập, nhằm tạo đà mới cho mối quan hệ giữa hai nước. Đoàn đại biểu lớn chưa từng thấy mà Mỹ đã phái tới một nước Arập này, gồm hơn 100 giám đốc của 54 công ty hùng mạnh trong giới kinh doanh Mỹ, như Boeing, General Electric, IBM, Google, Microsoft, Citigroup hay Coca Cola. Mục tiêu của chuyến thăm, như người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, Patrick Ventrell, cho biết là “xác định những cơ hội mới về sự hợp tác và quan hệ đối tác, bày tỏ niềm tin của Mỹ trong lĩnh vực kinh doanh của Ai Cập và chứng tỏ cam kết về lâu dài của Mỹ ủng hộ sự phát triển kinh tế của Ai Cập”. Chuyến thăm diễn ra vào lúc Chính phủ Mỹ đang chuẩn bị xóa một tỷ USD khoản nợ của Ai Cập đối với Mỹ. Số tiền này tương đương với một phần ba toàn bộ số tiền nợ 3,2 tỷ USD của Ai Cập đối với Mỹ. Chính quyền Barack Obama cũng lập ra nhiều quĩ và chương trình kinh tế trị giá 500 triệu USD để giúp Ai Cập tạo công ăn việc làm. Cuối cùng, Mỹ đã sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy IMF chấp nhận khoản tín dụng 4,8 tỷ USD mà Ai Cập cần để lấp đầy khoản thâm hụt ngân sách và đẩy mạnh nền kinh tế của mình.
Đối với Mỹ, sự việc là rõ ràng: các chương trình khác nhau này và các kế hoạch cứu trợ về kinh tế là nhằm bảo đảm cho mình có được thiện chí về chính sách đối ngoại của chế độ mới ở Ai Cập do tổ chức Anh em Hồi giáo chi phối. Đây cũng là nhằm bảo đảm sao cho chế độ Hồi giáo tiếp tục tôn trọng hiệp định Trại David đã ký năm 1979 với Ixraen. Cũng cần phải nói thêm rằng Mỹ vẫn thường xuyên sử dụng đòn bẩy về kinh tế cũng như viện trợ về quân sự để gây ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Ai Cập, từ thời kỳ Tổng thống Anouar Al-Sadate trong những năm 1970. Giờ đây, bằng cách viện trợ kinh tế, Mỹ đang tìm cách có lợi về chính trị từ tình hình kinh tế xấu đi của Ai Cập do cuộc cách mạng ngày 25/1/2011 gây ra. Đúng là Ai Cập đang cấp bách tìm kiếm viện trợ kinh tế và tài chính của nước ngoài, trông chờ tất cả các bên nước ngoài có thể cung cấp cho mình, chẳng hạn các chế độ quân chủ vùng Vịnh, IMF, WB, Trung Quốc, và nhất là Mỹ. Nhận thức được rằng các yêu cầu về kinh tế là quan trọng nhất đối với đa số người dân Ai Cập do các cuộc nổi dậy của nhân dân lật đổ Hosni Mubarak, chế độ Hồi giáo mới ở Ai Cập không thể tự mình đáp ứng những yêu cầu này nhưng cũng không thể thất bại về mặt kinh tế vì sự sống còn của mình, và Mỹ đang hoạt động một cách chủ động theo hướng này để giữ vững và cải thiện chỗ đứng của mình ở Ai Cập, và rộng ra là toàn khu vực Trung Đông-Bắc Phi.
Sau những do dự trong việc ủng hộ một chế độ do người Hồi giáo chi phối, cuối cùng Mỹ đã quyết định ủng hộ họ xuất phát từ chủ nghĩa thực dụng về chính trị. Dù vẫn bất đồng với Tổ chức Anh em Hồi giáo, Mỹ vẫn phải bắt tay với họ để bảo vệ những lợi ích của nước này tại khu vực Trung Đông. Sự vồn vã mới đây của Mỹ trong việc tỏ ý sẵn sàng giúp đỡ Ai cập về kinh tế và tài chính ngay trước khi Tổng thống Ai Cập Mohamad Morsi tiến hành chuyến thăm Mỹ ngày 24/9 vừa qua liên quan đến những mối lo ngại của Mỹ về phương hướng mới trong chính sách đối ngoại của Ai Cập. Các chuyến thăm của Tổng thống Morsi tới Trung Quốc, đối thủ về kinh tế của Mỹ ở cấp độ thế giới, và tới Iran, kẻ đối đầu với Mỹ ở khu vực Trung Đông đã khiến Mỹ lo ngại và tức giận vì Mỹ lo ngại Ai Cập sẽ rời xa khỏi phạm vi ảnh hưởng của mình. Tổng thống Morsi không che giấu ý muốn tái cân bằng chính sách đối ngoại của Ai Cập và thoát khỏi liên minh quá chặt chẽ với Mỹ, được thiết lập trong suốt 4 thập kỷ qua. Đối với ông Morsi, đây là tìm lại một sự độc lập lớn hơn và một sự tự do hành động quan trọng hơn trong thế giới bên ngoài. Đối với vị tổng thống đầu tiên được bầu lên một cách dân chủ thì đây cũng là đáp ứng những khát vọng của người dân, phản đối những sự can thiệp của Mỹ, bằng cách sử dụng viện trợ kinh tế và quân sự hàng năm, vào các công việc nội bộ của đất nước và bất bình trước sự liên kết có hệ thống của Mỹ với chính sách xâm lược của Ixraen chống nhân dân Palextin. Trong những điều kiện này, chế độ mới của Ai Cập một mặt đang tìm cách giữ khoảng cách đối với Mỹ, nhưng mặt khác vẫn phải làm sao để không gây tổn hại đến những lợi ích kinh tế của Ai Cập và của quân đội nước này, hàng năm vẫn nhận được 1,3 tỷ USD viện trợ của Mỹ.
Để thành công trong hoạt động này đòi hỏi trước tiên phải có những giải pháp thay thế đáng tin cậy hơn Mỹ về mặt tài chính và vũ khí. Đây không hề là việc làm dễ dàng. Trung Quốc, từ khi có chuyến thăm của Tống thống Morsi tới Bắc Kinh từ ngày 27 đến 29/8, thường được nêu lên là sự lựa chọn thay thế cường quốc Mỹ của Ai Cập. Người Ai Cập thời hậu Mubarak hiểu rất rõ ràng với vị trí là cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, Trung Quốc có thể truất ngôi của Mỹ trong vài thập kỷ tới, và vì thế, họ cũng đang tìm mọi cách tranh thủ quốc gia này. Ý muốn của Ai Cập thời hậu cách mạng thực hiện một sự tái cân bằng chính sách đối ngoại của mình đã mang tới cho Trung Quốc nhũng cơ hội lớn bành trướng về kinh tế trong thị trường rộng lớn nhất của thế giới Arập. Để thu hút vốn đầu tư của
Trung Quốc mà Ai Cập có nhu cầu rất lớn, trong chuyến thăm của mình,
ông Morsi đã khiến Trung Quốc hoa mắt vì khả năng nước ông trở thành một
bàn đạp cho nền công nghiệp Trung Quốc ở châu Phi nhờ nhân công dồi dào
và giá rẻ. Trung Quốc, đối tác thương mại hàng đầu của châu lục đen từ
năm 2008, có một vùng công nghiệp ở tỉnh Xuyê mà Trung Quốc đang muốn mở
rộng. Ngoài ra, cũng phải nhắc đến một lợi thế khác của Trung Quốc, đó
là người dân Ai Cập có cảm tình với họ hơn so với Mỹ, băng chứng là một
cuộc thăm dò dư luận mới đây do trung tâm thăm dò dư luận Mỹ Pew thực
hiện, đã cho thấy rằng 52% người dân Ai Cập thích Trung Quốc so với 17%
thích Mỹ.Cả hai cùng giành giật châu Phi
Mới đây, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tiến hành chuyến thăm nhiều nước châu Phi, với mục tiêu được công bố là “xúc tiến nền dân chủ”, nhưng thực ra còn có một mục tiêu khác, quan trọng hơn, đó là nhằm cảnh báo các nhà lãnh đạo châu Phi trước mối nguy hiểm của cuộc tấn công kinh tế của Trung Quốc.
Từ nhiều năm nay, một cuộc chiến tranh bí mật tranh giành nguồn tài nguyên ở châu Phi đã diễn ra giữa các nước phương Tây đang trên đà suy giảm và Trung Quốc đang bành trướng rất mạnh mẽ. Từ năm 2009, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại hàng đầu của châu Phi. Năm 2009, kim ngạch thương mại giữa hai bên đạt kỷ lục tới 166,3 tỷ USD, tăng 83% so với năm 2008. Trung Quốc lại vừa thông báo tăng (tới 20 tỷ USD các khoản tín dụng cho châu Phi. Trung Quốc xây dựng đường sá, tài trợ cho các trường đại học và các trung tâm xã hội tại các nước mà người Trung Hoa gọi là “bị thế giới lãng quên”. Trong những chuyến thăm trên, bà Hillary Clinton đã nhiều lần nói úp mở với các vị chủ nhà châu Phi rằng lịch sử xưa và nay đã cho thấy cần phải dè chừng Trung Quốc như thế nào.
Mỹ và châu Âu vẫn tiếp tục chi phối châu Phi thông qua các mạng lưới chính trị kinh doanh của họ và các thể chế đa phương, như Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB), và đã đạt được kết quả. Chẳng hạn, Mali đã bị WB buộc phải chuyên về sản xuất bông, cạnh tranh với bông của Bắc Mỹ là nơi được hưởng trợ cấp của cường quốc tự do hàng đầu. Bà Clinton chắc chắn đã không yêu cầu châu Phi phải dè chừng các tổ chức này, nhưng bà đã đề nghị họ quan hệ với Trung Quốc như thế.
Trung Quốc và Mỹ với những lợi ích ở châu Á-Thái Bình Dương
Tình hình căng thẳng mới đây trong khu vực, nhất là về vấn đề kiểm soát một số hòn đảo ở Biển Đông, đã cho thấy những tham vọng ngày càng tăng của Trung Quốc, và Mỹ đang tìm cách ngăn chặn bằng mọi giá.
Tình hình căng thẳng ở châu Á-Thái Bình Dương có nguy cơ biến thành cuộc khủng hoảng hoặc chiến tranh, đấy là nhận xét của Mỹ tại diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), được tổ chức tại Vladivostok, miền cực Đông của Nga, cách đây chưa lâu. Diễn đàn năm nay được tổ chức nhằm thảo luận về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng nó cũng bị chi phối bởi các cuộc tranh cãi về lãnh thổ đang nổi lên mới đây giữa các nước châu Á tại Biển Đông. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương gồm 21 nước nằm xung quanh Thái Bình Dương. Trong cuộc họp cấp cao này, nhiều nhà lãnh đạo đã bày tỏ mối lo ngại về tình hình ở Biển Đông. Nguyên nhân gây ra tình hình căng thẳng này là do Trung Quốc, nước không ngừng đòi chủ quyền đối với toàn bộ vùng Biển Đông (nằm ở Thái Bình Dương và giàu tài nguyên thiên nhiên), kể cả các vùng gần bờ biển của các nước láng giềng như Việt Nam và Philíppin. Các ý đồ này của Trung Quốc đã khiến các nước ASEAN chia rẽ tới mức đây là lần đầu tiên trong 45 năm tồn tại, các nước ASEAN đã không thỏa thuận được với nhau về một thông cáo chúng trong một cuộc họp cấp cao vào tháng 7 vừa qua.
Việt Nam và Philíppin đã tố cáo Trung Quốc có những hành động hăm dọa để mở rộng chủ quyền của mình trên Biển Đông. Ngoài hai nước này, mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng nhanh chóng bị xấu đi nghiêm trọng trong những ngày qua do tranh chấp chủ quyền các đảo Senkaku/Điếu Ngư là trung tâm của một cuộc chiến đòi chủ quyền giữa hai nước. Các hòn đảo này, giàu cá và dầu lửa, hiện thuộc Nhật Bản, và những người theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Nhật Bản đã thể hiện ý muốn quốc hữu hóa nó. Thông báo này đã lập tức châm ngòi và làm bùng phát tình hình căng thẳng giữa Tôkyô và Bắc Kinh. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi đây là một sự khiêu khích mới và một sự vi phạm lãnh thổ của Trung Quốc, và đòi Nhật Bản phải chấm dứt ý tưởng trên, phải thực hiện những hành động cụ thể để cùng với Trung Quốc giảm bớt tình hình căng thẳng.
Trong một nỗ lực tháo ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng giữa hai siêu cường kinh tế này, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã thực hiện một chuyến thăm tới Bắc Kinh, tại đây bà đã ủng hộ một quan điểm đa phương để tìm cách giải quyết bất đồng về lãnh thổ ở Biển Đông. Trên thực tế, từ khi cuộc khủng hoảng diễn ra, Mỹ đã đứng về phía đồng minh của mình là Nhật Bản. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, Victoria Nuland, đã thẳng thắn chỉ rõ Senkeku/Điếu Ngư nằm trong điều khoản 5 của Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ, vì vậy, Mỹ sẵn sàng tới cứu giúp Nhật Bản bảo vệ các hòn đảo này. Chính vì thế mà bà Clinton đã nhận được “một sự đón tiếp lạnh nhạt” từ phía các nhà lãnh đạo Trung Quốc, họ đã công khai yêu cầu bà đừng dính líu vào cuộc tranh chấp lãnh thổ và cảnh cáo bà trước mọi sự gây tổn hại của Mỹ đến nhũng lợi ích cơ bản của Trung Quốc.
Được Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đón tiếp, bà Clinton đã đưa ra những lời lẽ mang tính hòa giải, khẳng định rằng vì lợi ích chung nên Trung Quốc và các nước ASEAN, cũng như các nước có tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải khác với Trung Quốc, phải tiến hành một tiến trình ngoại giao, phải đối thoại để giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, chuyến thăm Trung Quốc của bà Hillary Clinton nằm trong khuôn khổ một chuyến thăm châu Á-Thái Bình Dương kéo dài 10 ngày bắt đầu là Inđônêxia, sau đó là Timo Lexte, Brunây và cuối cùng là Vladivostok của Nga. Chuyến thăm này của bà Clinton nhằm chống lại hoặc đúng hơn là cân bằng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực và tăng cường tình đoàn kết của các nước ASEAN mới đây đang bị sứt mẻ do những bất đồng về lãnh thổ với nước láng giềng hùng mạnh Trung Quốc. Trong chuyến thăm của mình, bà Clinton đã khuyến khích các nước châu Á lập ra một mặt trận vững chắc trước nhừng tham vọng của Trung Quốc.
Theo các chuyên gia, chuyến thăm này đã khiến Trung Quốc rất lo ngại bởi Ngoại trưởng Mỹ đã không ngừng nói rằng Thái Bình Dương đã trở thành một khu vực mang tính sống còn đối với Mỹ về mặt kinh tế và chiến lược, thể hiện tham vọng của Mỹ biến thế kỷ 21 thành “thế kỷ của nước Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương”. Trong những năm qua, Mỹ đã tiến hành một cuộc tấn công ngoại giao chưa từng thấy trong khu vực này, gia tăng các chuyến thăm chính thức, trong khi vẫn quyết định triển khai 60% khả năng quân sự của mình tới khu vực này. Dường như là Trung Quốc khó mà thực hiện được những tham vọng của mình tại Biển Đông bởi Mỹ đang là đối trọng đáng gờm đối với sự trỗi dậy của một siêu cường Trung Quốc trong khu vực.
Ai Cập: Một mục tiêu tranh giành mới
Một đoàn đại biểu kinh tế quan trọng của Mỹ vừa mới hoàn thành một chuyến thăm 4 ngày tới Ai Cập, nhằm tạo đà mới cho mối quan hệ giữa hai nước. Đoàn đại biểu lớn chưa từng thấy mà Mỹ đã phái tới một nước Arập này, gồm hơn 100 giám đốc của 54 công ty hùng mạnh trong giới kinh doanh Mỹ, như Boeing, General Electric, IBM, Google, Microsoft, Citigroup hay Coca Cola. Mục tiêu của chuyến thăm, như người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, Patrick Ventrell, cho biết là “xác định những cơ hội mới về sự hợp tác và quan hệ đối tác, bày tỏ niềm tin của Mỹ trong lĩnh vực kinh doanh của Ai Cập và chứng tỏ cam kết về lâu dài của Mỹ ủng hộ sự phát triển kinh tế của Ai Cập”. Chuyến thăm diễn ra vào lúc Chính phủ Mỹ đang chuẩn bị xóa một tỷ USD khoản nợ của Ai Cập đối với Mỹ. Số tiền này tương đương với một phần ba toàn bộ số tiền nợ 3,2 tỷ USD của Ai Cập đối với Mỹ. Chính quyền Barack Obama cũng lập ra nhiều quĩ và chương trình kinh tế trị giá 500 triệu USD để giúp Ai Cập tạo công ăn việc làm. Cuối cùng, Mỹ đã sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy IMF chấp nhận khoản tín dụng 4,8 tỷ USD mà Ai Cập cần để lấp đầy khoản thâm hụt ngân sách và đẩy mạnh nền kinh tế của mình.
Đối với Mỹ, sự việc là rõ ràng: các chương trình khác nhau này và các kế hoạch cứu trợ về kinh tế là nhằm bảo đảm cho mình có được thiện chí về chính sách đối ngoại của chế độ mới ở Ai Cập do tổ chức Anh em Hồi giáo chi phối. Đây cũng là nhằm bảo đảm sao cho chế độ Hồi giáo tiếp tục tôn trọng hiệp định Trại David đã ký năm 1979 với Ixraen. Cũng cần phải nói thêm rằng Mỹ vẫn thường xuyên sử dụng đòn bẩy về kinh tế cũng như viện trợ về quân sự để gây ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Ai Cập, từ thời kỳ Tổng thống Anouar Al-Sadate trong những năm 1970. Giờ đây, bằng cách viện trợ kinh tế, Mỹ đang tìm cách có lợi về chính trị từ tình hình kinh tế xấu đi của Ai Cập do cuộc cách mạng ngày 25/1/2011 gây ra. Đúng là Ai Cập đang cấp bách tìm kiếm viện trợ kinh tế và tài chính của nước ngoài, trông chờ tất cả các bên nước ngoài có thể cung cấp cho mình, chẳng hạn các chế độ quân chủ vùng Vịnh, IMF, WB, Trung Quốc, và nhất là Mỹ. Nhận thức được rằng các yêu cầu về kinh tế là quan trọng nhất đối với đa số người dân Ai Cập do các cuộc nổi dậy của nhân dân lật đổ Hosni Mubarak, chế độ Hồi giáo mới ở Ai Cập không thể tự mình đáp ứng những yêu cầu này nhưng cũng không thể thất bại về mặt kinh tế vì sự sống còn của mình, và Mỹ đang hoạt động một cách chủ động theo hướng này để giữ vững và cải thiện chỗ đứng của mình ở Ai Cập, và rộng ra là toàn khu vực Trung Đông-Bắc Phi.
Sau những do dự trong việc ủng hộ một chế độ do người Hồi giáo chi phối, cuối cùng Mỹ đã quyết định ủng hộ họ xuất phát từ chủ nghĩa thực dụng về chính trị. Dù vẫn bất đồng với Tổ chức Anh em Hồi giáo, Mỹ vẫn phải bắt tay với họ để bảo vệ những lợi ích của nước này tại khu vực Trung Đông. Sự vồn vã mới đây của Mỹ trong việc tỏ ý sẵn sàng giúp đỡ Ai cập về kinh tế và tài chính ngay trước khi Tổng thống Ai Cập Mohamad Morsi tiến hành chuyến thăm Mỹ ngày 24/9 vừa qua liên quan đến những mối lo ngại của Mỹ về phương hướng mới trong chính sách đối ngoại của Ai Cập. Các chuyến thăm của Tổng thống Morsi tới Trung Quốc, đối thủ về kinh tế của Mỹ ở cấp độ thế giới, và tới Iran, kẻ đối đầu với Mỹ ở khu vực Trung Đông đã khiến Mỹ lo ngại và tức giận vì Mỹ lo ngại Ai Cập sẽ rời xa khỏi phạm vi ảnh hưởng của mình. Tổng thống Morsi không che giấu ý muốn tái cân bằng chính sách đối ngoại của Ai Cập và thoát khỏi liên minh quá chặt chẽ với Mỹ, được thiết lập trong suốt 4 thập kỷ qua. Đối với ông Morsi, đây là tìm lại một sự độc lập lớn hơn và một sự tự do hành động quan trọng hơn trong thế giới bên ngoài. Đối với vị tổng thống đầu tiên được bầu lên một cách dân chủ thì đây cũng là đáp ứng những khát vọng của người dân, phản đối những sự can thiệp của Mỹ, bằng cách sử dụng viện trợ kinh tế và quân sự hàng năm, vào các công việc nội bộ của đất nước và bất bình trước sự liên kết có hệ thống của Mỹ với chính sách xâm lược của Ixraen chống nhân dân Palextin. Trong những điều kiện này, chế độ mới của Ai Cập một mặt đang tìm cách giữ khoảng cách đối với Mỹ, nhưng mặt khác vẫn phải làm sao để không gây tổn hại đến những lợi ích kinh tế của Ai Cập và của quân đội nước này, hàng năm vẫn nhận được 1,3 tỷ USD viện trợ của Mỹ.
Để thành công trong hoạt động này đòi hỏi trước tiên phải có những giải pháp thay thế đáng tin cậy hơn Mỹ về mặt tài chính và vũ khí. Đây không hề là việc làm dễ dàng. Trung Quốc, từ khi có chuyến thăm của Tống thống Morsi tới Bắc Kinh từ ngày 27 đến 29/8, thường được nêu lên là sự lựa chọn thay thế cường quốc Mỹ của Ai Cập. Người Ai Cập thời hậu Mubarak hiểu rất rõ ràng với vị trí là cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, Trung Quốc có thể truất ngôi của Mỹ trong vài thập kỷ tới, và vì thế, họ cũng đang tìm mọi cách tranh thủ quốc gia này. Ý muốn của Ai Cập thời hậu cách mạng thực hiện một sự tái cân bằng chính sách đối ngoại của mình đã mang tới cho Trung Quốc nhũng cơ hội lớn bành trướng về kinh tế trong thị trường rộng lớn nhất của thế giới Arập. Để thu hút vốn đầu tư của
Bức tranh này, đã biến Ai Cập thời hậu cách mạng thành một địa điểm lý tưởng đối với cường quốc Trung Quốc, nhưng không ai có thể nói rằng vị tổng thống Hồi giáo và Tổ chức Anh em Hồi giáo của ông lại muốn thay thế Mỹ bằng Trung Quốc “cộng sản”. Tất cả những gì mà họ tìm kiếm trong ngắn hạn và trung hạn là tái cân bằng chính sách đối ngoại của Ai Cập và giảm bớt sự phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ thông qua việc tăng cường quan hệ với các nền kinh tế mới nổi. Vì vậy, không phải là Ai Cập muốn thay thế cường quốc này bằng một cường quốc khác, mà là Ai Cập sử dụng các con bài để phục vụ những lợi ích kinh tế của mình và mở rộng phạm vi hoạt động ở bên ngoài.
Về phần mình, Trung Quốc, là một người khổng lồ về kinh tế trên thế giới, vẫn chưa thể hiện tham vọng thực hiện vai trò như vậy ở cấp độ chính sách đối ngoại. Chẳng hạn, vị trí hàng đầu của Trung Quốc trong quan hệ thương mại với châu lục đen đã không thể hiện bằng một chính sách đối ngoại tích cực đối với các cuộc xung đột đang tàn phá châu Phi. Mong muốn lớn nhất của Trung Quốc vẫn là có được nguồn nguyên liệu và năng lượng của châu Phi để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình. Trừ khu vực Đông Á, Trung Quốc có xu hướng thông qua một chính sách không can thiệp vào các cuộc xung đột lớn đang tàn phá các vùng khác nhau trên thế giới, như trường họp cuộc xung đột Ixraen – Palextin, cho dù Bắc Kinh có tỏ ra tích cực hơn về một số vấn đề như chương trình hạt nhân của Iran. Tuy nhiên, với đất nước Ai Cập mới thời hậu Mubarak, dường như Trung Quốc đang có cách tiếp cận khác hẳn, có vẻ như họ đang công khai thách thức lợi ích và ảnh hưởng của Mỹ tại đây. Và chắc chắn, nếu thành công, sau đó người Trung Quốc sẽ sớm mở rộng những thành quả đã đạt được trong cuộc cạnh tranh ấy ra cả một vùng rộng lớn, giàu tài nguyên ở Trung Đông-Bắc Phi./.
1364. MỸ VÀ NHỮNG BÀI HỌC ĐẮT GIÁ TẠI CHÂU Á
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAMTài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Tư, ngày 7/11/2012
TTXVN (Hồng Công 4/11)
Theo báo mạng Asia Times Online số ra ngày 27/10, hoạt động thực tế ảnh hưởng đến quan hệ Trung – Mỹ tuần qua không phải là việc chĩa mũi nhọn có thể đoán trước được vào Trung Quốc trong vòng tranh luận thứ ba giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và “kẻ thách thức” của Đảng Cộng hòa Mitt Romney tại Florida vào ngày 22/10 vừa qua, mà là chuyến thăm đồng thời ít được chú ý tới châu Á của một nhóm các nhà ngoại giao có ảnh hưởng đã nghỉ hưu của Mỹ.
Trong bài phân tích trên Asia Times Online, tác giả Peter Lee cho biết nhóm các nhà ngoại giao thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa bao gồm Richard Armitage, Stephen Hadley, James Steinberg và Joseph Nye mang theo một nhiệm vụ rõ ràng. Với sự đồng ý của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton về việc đóng vai trò là một đoàn đại biểu bán chính thức, các quan chức phụ trách những vấn đề châu Á này được cho là sẽ phải thuyết phục về chính sách của Chính quyền Obama đối với châu Á – vấn đề đóng quân, ngoại giao và sự khởi đầu kinh tế cũng như sự chú ý chiến lược – có thể mang lại sự cam kết ngoại giao hiệu quả với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa, chứ không chỉ tạo ra những sự đe dọa và giận dữ đối với người Trung Quốc.
Nhiệm vụ của nhóm người này có thể là bất khả thi “ điều có thể giải thích vì sao nó được thực hiện bởi một nhóm những người đã nghỉ hưu mà khôngphải là các quan chức chính phủ nhạy cảm. Trung Quốc không hề muốn ủng hộ mong muốn của Mỹ để trở thành nhà trung gian trung thực không thể thiếu và duy nhất tại khu vực. Bắc Kinh muốn trừng phạt Mỹ vì sự hiện diện của Oasinhtơn tại khu vực, điều được xem như không gì khác ngoài sự chống phá Trung Quốc.
Đây là khoảng thời gian căng thẳng cho sự hiện diện của Mỹ. Trung Quốc đang dò xét chiến lược của Mỹ theo một cách không mong đợi: để yên cho Mỹ và tấn công có lựa chọn vào đồng minh của Mỹ là Nhật Bản với vấn đề tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Đây là một tình huống mà Mỹ dường như không dự đoán được.
Hồi cuối tháng 9 vừa qua, trong một buổi phỏng vấn dài với cộng sự kỳ cựu Mike Chinoy tại Đại học Trung tâm Đông Á Nam California, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Kurt Campbell đã nhận định sự hiện diện là một miếng đòn khôn khéo trong nghệ thuật của Mỹ.
Campbell phụ trách Nhật Bản. Ông được đưa lên vị trí trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á – và chuyến thăm sau đó của James Steinberg – phụ trách Trung Quốc của Bộ Ngoại giao Mỹ – được xem là một biểu hiện của sự chuyển hướng quan trọng trong chiến lược của Chính quyền Obama khi nghĩ về việc đối mặt với Trung Quốc.
Trung Quốc không còn được nhìn nhận tích cực là một cường quốc đang nổi, một quốc gia mà cuộc cách mạng dân chủ tự do có thể làm chệch hướng sự tăng trưởng kinh tế dễ dàng, cho dù có sự chậm trễ trong một số năm. Sự thất vọng nhiều mặt từ biến đổi khí hậu tới Bắc Triều Tiên cho đến việc định giá tiền tệ đã thuyết phục Chính quyền Obama rằng vì những mục tiêu thực tế, Trung Quốc đã được xem là một quốc gia độc đoán với giới tinh hoa cứng nhắc về mặt pháp lý đối với Mỹ và các mong muốn của Mỹ.
Nói cách khác, đối phó với Trung Quốc không phải là vấn đề gây thu hút về lợi ích chung, thay vào đó nó đòi hỏi kế sách “cây gậy và củ cà rốt”.
Trong cuộc phỏng vấn hồi tháng 9, Campbell đã miêu tả sự hiện diện của Mỹ là có lợi cho cả Trung Quốc và thế giới, trong một tái khẳng định, bằng giọng nam trầm. Campbell làm rõ ràng rằng các nước láng giềng đang lo lắng của Trung Quốc sẽ hoan nghênh việc Mỹ “trở lại châu Á”. Nhà ngoại giao này cũng đưa ra những lời khẳng định phần nào gây tranh cãi hơn rằng sự chuyển hướng của Mỹ được thiết kế tính tới điều tốt đẹp cho Trung Quốc, rằng việc đa phương hóa các tranh chấp lãnh thổ song phương của Trung Quốc với các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một sáng kiến để chia sẻ gánh nặng với Bắc Kinh, rằng việc Mỹ nối lại quan hệ với Mianma không liên quan đến Trung Quốc, và Học thuyết “Tác chiến trên không – trên biển”, kế hoạch về trận quyết tử chống lại Trung Quốc, chỉ đơn giản là một biểu hiện của sự bực tức tự nhiên của Hải quân Mỹ trong “thế kỷ trước”.
về các vấn đề khó xử trong “tranh chấp chủ quyền” – xung đột giữa Trung Quốc với các nước láng giềng đã bị kích động bởi sự hiện diện của Mỹ – Campbell hy vọng rằng các nhà lãnh đạo của Trung Quốc nhận ra tầm quan trọng của việc duy trì mối quan hệ tốt với Mỹ và do đó sẽ có cái nhìn vượt ra ngoài sự khó chịu hiện tại.
Như ông Campbell đã nói: “Chúng tôi có cảm giác Chủ tịch sắp tới của Trung Quốc Tập Cận Bình là một người cam kết tiếp tục một mối quan hệ mạnh mẽ giữa Trung Quốc và Mỹ… [Thủ tướng tương Ịai] Lý Khắc Cường … cũng rất rõ ràng về quyết tâm giữ cho quan hệ Mỹ-Trung ở trong một tiến trình ổn định … Vì vậy, tôi nghĩ chúng tôi có thể tự tin rằng các nhà lãnh đạo sẽ hành động phù hợp… Chúng tôi suy nghĩ một cách sâu sắc cho lợi ích của Trung Quốc trong việc duy trì một mối quan hệ tốt với Mỹ … và chúng tôi nghĩ những cái đầu lạnh có thể sẽ có giá trị với cách nhìn nhận đó trong chu kỳ lãnh đạo tiếp theo [có thể được tiến hành trong tháng 11...]”.
Campbell có một sự tự tin rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ xem việc cố gắng ngang hàng với Mỹ là điều vô lý.
Dường như là sự tự do hành động của Trung Quốc sẽ bị hạn chế bởi thực tế rằng sự huênh hoang công khai của Trung Quốc có thể phản tác dụng, khiến các đồng minh gần hơn với Mỹ, cô lập Trung Quốc hơn và củng cố cho sự hiện diện của Mỹ.
Một kế hoạch hoàn hảo?… Không.
Tác giả Peter Lee nhấn mạnh: “Tôi không tin rằng Campbell và nhóm của ông tính đến sự thích nghi của Trung Quốc với một loạt hành động khiêu khích về tranh chấp biển đảo của Việt Nam, Phipíppin và Nhật Bản, hay quyết tâm của Trung Quốc về lập trường chống lại những gì mà nước này coi là một cuộc diễn tập rõ ràng của Mỹ về sự ngăn chặn.
Học được bài học về sự thông thạo của phương Tây trong ngoại giao và thương mại quốc tế trong vụ bắt giữ nhục nhã thuyền trưởng Chiêm Kỳ Hùng và các tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku trong năm 2010, Trung Quốc chuyển sang chiến lược sử dụng các cuộc biểu tình rầm rộ và tẩy chay trong nước để tạo ra sức ép kinh tế chính trị đối với Nhật Bản.
Như một dấu hiệu cho thấy cách giải quyết của Trung Quốc trong vấn đề này, nên nhớ rằng việc Chính phủ Nhật Bản mua lại quần đảo Senkaku được hiểu phần lớn là hành động hòa giải, để ngăn nhân vật bài Trung Quốc Shintara Ishihara mua các đảo và sử dụng chúng vào các hành động khiêu khích liên tiếp chống lại Trung Quốc.
Ở điểm này, có lẽ xét thấy rằng Chính quyền Obama đã mong muốn xảy ra một cuộc xung đột nóng của Trung Quốc ở thời điểm giữa cuộc chạy đua tranh chức tổng thống Mỹ, Trung Quốc đã quyết định nắm hành động mua đảo và thúc đẩy sự giận giữ của dân chúng để “đo” sự khắc nghiệt nếu trừng phạt lợi ích của Nhật Bản tại Trung Quốc, trong khi tránh sử dụng các hành động chính thức có thể được hiểu như là xâm lược quân sự hay kinh tế chống lại Nhật Bản hoặc cơ chế tự do thương mại trên thế giới.
Tại Bộ Ngoại giao Trung Quốc, vấn đề Điếu Ngư chiếm toàn bộ thời gian. Chính quyền cho thấy rõ ràng rằng họ sẽ không lùi bước về vấn đề này, không màng đến việc những người nước ngoài có thể nói về các thiệt hại cho vị thế ở khu vực, nền kinh tế hay tương lai của Trung Quốc như là con gấu trúc có quyền lực mềm được yêu quý, vuốt ve của thế giới.
Những sự đối đầu kinh tế đó, trong khi gây thiệt hại cho quyền lợi của Trung Quốc, chắc chắn cũng không được Nhật Bản hoan nghênh. Trong một nền kinh tế nói chung ảm đạm, không thể loại trừ yếu tố về Điếu Ngư/Senkaku khỏi các vấn đề đầu tư và thương mại quốc tế khác.
Tuy nhiên, trong tháng 9, xuất khẩu của Nhật Bản sang Trung Quốc giảm 14,3% so với cùng kỳ năm ngoái, góp phần (cùng với sự sụt giảm thảm hại trong xuất khẩu sang Khu vực đồng euro) tạo nên tháng thâm hụt thương mại thứ hai của Nhật Bản trong 30 năm qua. Các nhà sản xuất Nhật Bản được cho là đang xem xét lại việc đầu tư vào Trung Quốc, với lý do dễ hiểu; thời gian sẽ cho biết liệu điều này có hại cho Trung Quốc hay không, hay chỉ đơn giản là mở ra cơ hội cho các đối thủ cạnh tranh không phải người Nhật. Trong bất kỳ trường hợp nào, tranh cãi quyết liệt về chủ quyền quần đảo Điếu Ngư/Senkaku không phải là tin tài chính tốt đối với các tập đoàn Nhật Bản.
Vào năm 2012, với phong trào trong nước được lập kế hoạch cẩn thận nhằm chống lại Nhật Bản, Trung Quốc đã xếp Mỹ vào vị thế gã khổng lồ vô dụng không được chào đón, không thể mang sức mạnh quân sự, uy tín hoặc sự thống trị của mình trong các tổ chức tài chính và đối ngoại đa phương quan trọng để chống đỡ nhân danh Nhật Bản.
Vì vậy, liên đoàn siêu anh hùng gồm các nhà ngoại giao đã nghỉ hưu được triệu tập từ các cơ quan tư vấn và cơ quan nhà nước để bay tới Tôkyô và Bắc Kinh. Nhóm này bao gồm hai thành viên đảng Cộng hòa: Richard Armitage, Thứ trưởng Ngoại giao dưới thời George w. Bush và một trợ lý thân thiết của cựu Ngoại trưởng và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Colin Powell, và Stephen Hadley, một quan chức khác dưới thời Chính quyền Bush, nhưng có xu hướng tân bảo thủ hơn và được ca ngợi với tư cách một cố vấn thân cận của Mitt Romney về các vấn đề đối ngoại. Hai thành viên đảng Dân chủ là James Steinberg, cựu Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề Trung Quốc của Chính quyền Obama và Joseph Nye, cố vấn tự do và là người đưa ra khái niệm “quyền lực mềm”.
Tại Tôkyô, nhiệm vụ của họ là tư vấn cho Chính phủ Nhật Bản rằng sẽ không có sự thay đổi từ phía Mỹ về các vấn đề Trung Quốc ngay cả khi Romney được bầu làm tổng thống. Kể từ khi Romney cam kết cứng rắn hơn với Trung Quốc so với Tổng thống Obama, có thể giả định mục đích của các đoàn đại biểu lưỡng đảng là để truyền đạt tới Chính phủ Nhật Bản rằng họ không nên mong đợi bất kỳ sự nâng cấp nào trong việc ủng hộ quân sự hay ngoại giao của Mỹ cho Nhật Bản về vấn đề Senkaku nếu ông Romney trở thành Tống thống.
Nhóm này cũng có thể chuyển thông điệp cho Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản Shinzo Abe. Do chính phủ của Thủ tướng Yoshihiko Noda cho thấy một tỷ lệ ủng hộ chỉ là 18%, Abe – người đã đổ dầu vào lửa cho vấn đề Senkaku với chuyến thăm mới đây tới đền Yasukuni – có một cơ hội tốt để trở thành thủ tướng một lần nữa vào mùa Hè tới, nếu không nói là sớm hơn.
Armitage đã cung cấp một thông tin thú vị – và đối với Nhật Bản, không phải là quá tích cực – về vấn đề Senkaku trong một cuộc phỏng vấn với Thời báo Nhật Bản hồi đầu tháng 10, ám chỉ rằng Chính phủ Mỹ, khi có cơ hội đã không xem xét tuyên bố của Nhật Bản một cách quá nghiêm túc:
Theo Armitage, Mỹ đã quyết định không đứng về phía nào trong vấn đề này sau khi đảo Okinawa được trả lại cho Nhật Bản kiểm soát vào năm 1972, khi Oasinhtơn được cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan vào thời điểm đó yêu cầu không công nhận chủ quyền của Nhật Bản đối với các đảo nhỏ.
Đoàn đại biểu cũng có nhiệm vụ giải quyết vấn đề sự giận dữ trở lại tại Okinawa về sự hiện diện quân sự của Mỹ – một điểm tựa mà sự hiện diện của Mỹ phụ thuộc vào đó – do sự phẫn nộ về vụ lính Mỹ cưỡng bức tập thể một cô gái tại Okinawa, phản đối với việc triển khai máy bay Osprey, và sự giận dữ đang chờ nổ tung về lời hứa tái bố trí lực lượng Mỹ làm nổi bật cái giá chính trị trong thế giới thực của một nước cờ chiến lược mỹ miều, mặc nhiên công nhận rằng chỉ Trung Quốc mới phải chịu những phí tổn thực sự trong một quan điểm về trò chơi được mất ngang nhau với Mỹ.
Trung Quốc đã nói rõ ràng rằng họ không có tâm trạng nào chào đón Mỹ tới thăm vì vấn đề Điếu Ngư/Senkaku, chắc chắn không phải dưới các hình thức của một phái đoàn bán chính thức.
Ngày 22/10, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố:
Đoàn đại biểu được Hiệp hội các vấn đề đối ngoại mời Ông Stephen Hadley, cố vấn Hội đồng An ninh Quốc gia dưới thời chính quyền tổng thống trước, và các cựu quan chức chính phủ khác sẽ thăm Trung Quốc từ ngày 22 – 24/10 để trao đổi quan điểm về quan hệ Trung-Mỹ và các vấn đề hai bên cùng quan tâm. Đoàn đại biểu này không có các chức năng để tham gia cái gọi là “hòa giải” hay “nhiệm vụ tốt đẹp”.
Trong trường hợp ai đó không hiểu điều này, Thời báo Hoàn cầu đăng bài báo có tiêu đề “Trung Quốc tránh các nỗ lực hòa giải Điếu Ngư của đoàn đại biểu Mỹ”:
Ngày 29/10, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho biết phái đoàn sẽ tập trung vào mối quan hệ Trung-Mỹ.
Vương Phẩm, một chuyên gia nghiên cứu về Nhật Bản thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho Thời báo Hoàn cầu biết: “Nhận xét của ông Hồng Lỗi chỉ ra rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận sự hòa giải của Mỹ, vốn không thể hiện bất kỳ sự chân thành nào trong việc xoa dịu tranh chấp tại Điếu Ngư cho đến thời điểm này”.
Để làm lu mờ hình ảnh về vai trò trung gian lớn hơn của Mỹ, Thời báo Hoàn cầu chế nhạo: ông Vương Phẩm cho biết trong khi Mỹ đang tất bật ngăn chặn các cuộc đụng độ quân sự giữa hai cường quốc châu Á để quyền lợi của Mỹ không bị tổn hại, Mỹ cũng đang cố gắng hết sức mình để khuyến khích Nhật Bản đẩy mạnh quốc phòng nhằm kiềm chế Trung Quốc.
Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc và Thủ tướng tương lai Lý Khắc Cường đã gặp gỡ đoàn đại biểu và hướng cuộc gặp trở lại thảo luận về những hạn chế của Mỹ đối với đầu tư của Trung Quốc, tạo ra tình thế mối quan hệ Trung-Mỹ quá quan trọng đối với Mỹ nên Mỹ không thể xem nhẹ.
Vấn đề quần đảo Điếu Ngư đã được đề cập:
Ông Lý Khắc Cường cũng khẳng định lập trường của Trung Quốc về vấn đề quần đảo Điếu Ngư, nhấn mạnh cộng đồng quốc tế cần cùng nhau bảo vệ các kết quả của chiến thắng sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai và trật tự quốc tế thời hậu chiến.
Khuôn khổ này đặt Mỹ vào vị trí mà Trung Quốc muốn: kẻ gây rối bất lực không thể bảo vệ đồng minh hoặc kiềm chế các đối thủ.
Mặc dù kêu gọi một giải pháp hòa bình cho tranh chấp quần đảo Điếu Ngư, Nhật Bản thể hiện toàn bộ nỗ lực trong các chuyến thăm của Ngoại trưởng Koichiro Gemba đến Pháp, Anh và Đức mới đây để tìm kiếm sự ủng hộ cho tuyên bố chủ quyền đối với các đảo. Tuy nhiên, tờ Mainichi Shimbun của Nhật Bản cho biết những nỗ lực trong các chuyến thăm này chỉ nhận được phản ứng lạnh nhạt khi thảo luận về vấn đề tranh chấp. Tờ báo cho biết cả ba quốc gia mà ông Gemba tới thăm đều không thể hiện quan điểm về vấn đề này. Hãng tin Kyodo đưa tin khi được hỏi có nhận được sự hỗ trợ nào trong các chuyến công du không, Ngoại trưởng Gemba đã không trả lời trực tiếp, chỉ nói rằng mỗi nước trên có lập trường khác biệt và không một chi tiết nào về vấn đề này được tiết lộ. Hãng tin Kyodo cho biết ông Gemba đã rất kỳ vọng về chuyến công du nhung đã nhận ra rất khó nhận được sự ủng hộ tại các nước ông đã đến.
Trong khi đó, Tôkyô đã bắt đầu chuyển hướng sang Mátxcơva. Trong một cuộc họp giữa Nhật Bản và Nga tại Tôkyô ngày 26/10, người Nhật yêu cầu Nga thể hiện sự thông cảm đối với lập trường của Nhật Bản về quần đảo Điếu Ngư/Senkaku.
Nhật báo Sankei Shimbun cho biết sự hiện diện trên biển của Trung Quốc đang mở rộng và Nhật Bản cùng Nga có một “niềm tin chung về việc kiềm chế Trung Quốc”.
Lo lắng của thế giới về sự trỗi dậy của Trung Quốc và tinh thần bài Trung Quốc đang leo thang mạnh tại Nhật Bản có thể sẽ không để cho Trung Quốc có bất kỳ chiến thắng rõ ràng và sự thỏa mãn nào trước Nhật Bản. Tuy nhiên, giả định trước đó rằng Trung Quốc chỉ đơn thuần là một con hổ giấy không muốn và không thể trả đũa trong bất kỳ cách nào cần phải được xem xét lại.
Sự phát triến này có thể sẽ không khiến các kiến trúc sư của sự chuyển hướng sang châu Á, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Rodham Clinton và Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách khu vực Đông Á Kurt Campbell đánh giá lại các chính sách cơ bản.
Thay vào đó, nó sẽ được nhìn nhận như là một thử nghiệm về quyết tâm của Mỹ để thực hiện chính sách – “kiểm tra lòng can đảm” – mặc dù “lòng can đảm” trong thế giới thực trong câu hỏi nằm tại các lĩnh vực yếu của nền kinh tế Nhật Bản – và, gần như chắc chắn Chính quyền Obama có thể sẽ “xuống nước gấp đôi”, chứ không phải “quay trở lại”.
Ban đầu, tình trạng phân cực bị kích động bởi sự chuyển hướng có thể được coi như là một đặc điểm, chứ không phải là một sai sót. Nhật Bản, ngày càng xa lạ với Trung Quốc, nước sẽ liên kết nhiệt tình và hiệu quả hơn với Mỹ.
Tuy nhiên, khi Nhật Bản và Trung Quốc leo thang tranh chấp Senkaku (Điếu Ngư), khả năng của Mỹ để ngăn chặn, hạn chế, khai thác, hoặc xoáy vào xung đột này sẽ giảm đi tương ứng.
Tại Nhật Bản, chống Trung Quốc hiện là một lối sống chính trị, không chỉ là một mưu kế ngoại giao, ở Trung Quốc, chống Nhật Bản đang trở thành một vấn đề của bản sắc dân tộc.
Uichiro Niwa, một doanh nhân, người đã từ bỏ cương vị Đại sứ Trung Quốc tại Nhật Bản vì quan điểm ôn hòa, không thay đổi quan điểm về vấn đề Senkaku (ông hiện vẫn tạm quyền do người kế nhiệm đã chết vì đau tim trước khi nhận nhiệm vụ), buồn rầu nói: “Hiện các chương trình truyền hình của Trung Quốc liên tục đưa hình ảnh lá cờ Nhật Bản và một bức ảnh của tôi. Họ nói bằng ngôn ngữ đơn giản rằng Nhật Bản là một tên trộm đã đánh cắp lãnh thổ Trung Quốc. Ngay cả học sinh tiểu học có thể liên tưởng các hành vi trộm cắp với lá cờ và hình ảnh của tôi. Ở Trung Quốc, tôi cảm thấy như mình là kẻ cầm đầu”.
Ông Niwa cho biết nhiều tình nguyện viên Nhật Bản dạy tiếng Nhật hoặc làm việc như những người chăm sóc, theo một chương trình của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, cũng cảm nhận một cảm giác căng thẳng cực độ. Ông Niwa, người trở thành Đại sứ tại Trung Quốc năm 2010, nói: “Đây là lần đầu tiên họ báo cáo về một tình hình như vậy kể từ khi tôi đến Trung Quốc”.
Bản thân ông Campbell đã công nhận sai lầm cơ bản của chiến lược chuyển hướng sang châu Á của Mỹ khi ông đề cập tới sự thù địch gia tăng giữa Nhật Bản và Trung Quốc, nảy sinh tất nhiên bởi các yếu tố trong quá khứ và hiện tại, nhưng trầm trọng hơn do sự hiện diện của Mỹ.
Chúng tôi đang lo lắng rằng mức độ căng thẳng cao, dai dẳng làm mất đi lợi thế thương mại Trung-Nhật, và các mối liên kết rất lớn đã phát triển giữa con người với con người, về văn hoá, kinh doanh… nó đang khuấy động cảm xúc tiêu cực ở cả hai bên… Chúng tôi thừa nhận rằng thiệt hại đã xảy ra, và chúng tôi đang lo lắng về nó.
Theo tác giả Peter Lee, những con người này đang học cách căm ghét nhau vì những lý do hiện tại cũng như những lý do lịch sử, và Mỹ không làm gì được nhiều về điều này. Điều đó có thể là hậu quả lâu dài nhất từ sự chuyển hướng của Mỹ./.
1365. 5 VẤN ĐỀ BỊ TÁC ĐỘNG NHIỀU NHẤT TỪ KẾT QUẢ BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAMTài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Tư, ngày 7/11/2012
TTXVN (Niu Yoóc 5/11)
Mức độ quan tâm của thế giới đến cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm nay có thể không bằng năm 2008. Nguyên nhân của vấn đề này một phần do cuộc bầu cử năm nay chủ yếu tập trung vào chính sách đối nội của nước Mỹ. Ngoài ra, khi theo dõi cuộc tranh luận trực tiếp trên truyền hình lần thứ ba khán giả toàn cầu đã không thể tìm thấy sự khác biệt nào trong chính sách đối ngoại của Mitt Romney với những gì Nhà Trắng đang làm. Mỹ hiện vẫn là cường quốc số một về sức mạnh quân sự và là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Dù khả năng định hình các sự kiện kinh tế và địa chính trị của Mỹ đã giảm đáng kể trong thập kỷ qua, đây có thể là Ápganixtan, Irắc, thế giới Arập đang thay đổi hoặc cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, thế nhưng trong ngắn hạn, Oasinhtơn vẫn có khả năng áp đặt được ý chí của mình đối với nơi này. Điều đó cho thấy rằng Nhà Trắng vẫn là trung tâm quyền lực mạnh nhất thế giới và kết quả cuộc bầu cử ngày 6/11 sẽ được thế giới theo dõi sát sao. Tạp chí Time (Mỹ) ngày 5/11 đã đề cập đến 5 vấn đề có thể bị tác động nhiều nhất từ kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2012.
1. Xyri: Phá vỡ thế bế tắc?
Cuộc nội chiến ở Xyri đã làm hơn 20.000 người thiệt mạng nhưng đất nước này vẫn đang ở thế hoàn toàn bế tắc: chế độ của Tổng thống Bashar Assad không thể tiêu diệt được quân nổi dậy, và quân nổi dậy cũng không thể lật đổ được chế độ al Assad. Xét nguy cơ tạo ra một cuộc xung đột rộng lớn hơn ở khu vực, tạo cơ hội cho lực lượng Hồi giáo cực đoan trà trộn vào nước này, Mỹ lại do dự trước quyết định can thiệp trực tiếp, ngay cả khi muốn tạo điều kiện cho quân nổi dậy tiếp cận vũ khí hạng nặng nhằm tạo thế cân bằng với quân chính phủ. Cả Barack Obama lẫn Mitt Romney đều khẳng định họ phản đối việc đưa binh sỹ Mỹ vào Xyri ngay cả giới hạn ở việc thực thi một “vùng cấm bay” hoặc bảo vệ những nơi mà quân nổi dậy đã kiểm soát được, khiến cho các đồng minh của Mỹ như Thổ Nhĩ Kỳ và Pháp tức giận. Chính quyền Obama đang tập trung thiết lập một cơ cấu lãnh đạo đối lập thống nhất với quan điểm ôn hòa để thu hút sự hỗ trợ của bên ngoài cho lực lượng này. Nhiều nhà hoạt động đối lập và quân nổi dậy đã bày tỏ sự không hài lòng và giận dữ trước tính bị động trong chính sách của Chính quyền Obama bất chấp gây thương vong ngày càng tăng cho dân thường. Vì vậy, cùng với việc Romney công khai bày tỏ sẵn sàng trang bị vũ khí cho quân nổi dậy và một số tuyên bố cứng rắn đối với Tổng thống al Assad đã đem lại tia hy vọng cho lực lượng nổi dậy rằng mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn cho số này nếu Romney thắng cử.
2. Ixraen: Một nhà nước Do Thái “Đỏ”
Tổng thống Obama đã giành được 78% số phiếu từ cử tri Mỹ gốc Do Thái trong cuộc bầu cử năm 2008, và dù phe Cộng hòa đã nỗ lực hết sức để xóa bỏ lợi thế này của Obama trong cuộc bầu cử năm nay nhưng theo thăm dò dư luận Obama sẽ vẫn giành được tới 70% số phiếu từ cử tri Do Thái, so với khoảng 25% bỏ phiếu cho Romney. Như vậy, con số này cho thấy Ixraen không phải là vấn đề duy nhất tác động đến cử tri Mỹ gốc Do Thái dù ở Ixraen phần lớn người dân nước này (khoảng 52%) ủng hộ Romney, so với chỉ 25% ủng hộ Obama thắng cử.
Dù sao Ixraen cũng chỉ là một trong số ít quốc gia trên thế giới mà người dân muốn Romney trúng cử. Điều này có thể bắt nguồn từ căng thẳng giữa Tổng thống Barack Obama và Thủ tướng Ixraen Benjamin Netanyahu trước nỗ lực năm 2009 của Obama muốn tái khởi động tiến trình hòa bình với người Palextin. Bình luận của Romney bị ghi lén trong buổi gây quỹ ở Florida đầu năm nay (Romney bày tỏ nghi ngờ về bất kỳ giải pháp nào đối với cuộc xung đột Ixraen – Palextin và đổ lỗi cho người Palextin cho thế bế tắc hiện nay) chắc chắn đã củng cố suy nghĩ của người Ixraen tới thời điểm này. Tuy nhiên, sau đó ít lâu Romney lại bày tỏ mong muốn một giải pháp 2 nhà nước được hai bên đàm phán. Hiện vẫn chưa rõ các ứng cử viên sẽ làm gì để khởi động lại tiến trình đàm phán nếu trúng cử.
Với mối quan ngại hàng đầu của Chính phủ Ixraen hiện nay – Iran, Romney đã sử dụng những ngôn từ khá cứng rắn nhưng các cam kết chính sách thực tế của ứng cử viên này lại có vẻ gần giống với những gì Obama đang làm – tăng cường cấm vận kết hợp với đe dọa hành động quân sự. Tuy nhiên, việc ông Romney vẽ ranh giới với Iran nếu nước này có khả năng chế tạo vũ khí hạt nhân và tuyên bố của một trong những cố vấn hàng đầu của Romney rằng phe Cộng hòa sẽ tôn trọng quyết định của Ixraen sử dụng vũ lực đối với Iran, dường như đã làm giới diều hâu ở quốc gia này hài lòng. Bộ máy hoạch định chiến lược của Ixraen vẫn ngầm hiểu rằng kịch bản tối ưu nhất không phải là Mỹ bật đèn xanh cho một cuộc tấn công vào Iran, mà chính Mỹ sẽ phải lãnh đạo một cuộc tấn công như thế. Về vấn đề này, Romney cũng đã bày tỏ rõ quan điểm rằng ông “không tin rằng trong những phân tích mới nhất của mình, nước Mỹ sẽ phải sử dụng tới hành động quân sự” (đối với Iran). Nỗ lực tìm kiếm giải pháp ngoại giao đối với thế bế tắc hiện nay nhiều khả năng sẽ được nối lại sau cuộc bầu cử tổng thống và chính phủ diều hâu Ixraen có thể hy vọng vào một chính quyền Romney cởi mở hơn trước những thuyết phục của Ixraen trong lựa chọn biện pháp cứng rắn khi đối thoại với Iran.
3. Trung Quốc: Sẽ không có thay đổi lớn
Trong ngày có mặt đầu tiên ở Nhà Trắng nếu được bầu, Romney thề rằng ông sẽ tuyên bố Trung Quốc là “kẻ lũng đoạn tiền tệ”, đe dọa một cuộc chiến thương mại với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này. Về phần mình, Chính quyền Obama đã cố gắng đưa việc ngăn chặn Trung Quốc là ưu tiên chiến lược hàng đầu. Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc không lấy gì làm sợ hãi. Mặc dù thăm dò dư luận cho thấy người Trung Quốc có thái độ tích cực hơn với Obama, giới lãnh đạo nước này vẫn đưa ra lời cảnh cáo đối với cả hai ứng cử viên vì đã lạm dụng quá nhiều chủ đề Trung Quốc trong tranh cử. Bắc Kinh không xem mối đe dọa về tiền tệ của Romney là đặc biệt nghiêm trọng. Nhà phân tích Jia Qinggua cho biết: “Theo kinh nghiệm của lịch sử, một tổng thống mới sẽ không thay đổi đáng kể chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc vì mối quan hệ giữa hai nước quá gần gũi và lợi ích quá đan xen. Rất khó để một chính quyền mới thay đổi đột ngột chính sách đối với Trung Quốc nếu nó mang lại nhiều thiệt hại cho kinh tế và lợi ích quốc gia của Mỹ”.
Do ưu tiên hàng đầu của Bắc Kinh là sự ổn định trong quan hệ, giới lãnh đạo Trung Quốc đang hy vọng cho sự tái cử của Obama vì quan hệ với bất kỳ chính quyền mới nào thường bắt đầu không được suôn sẻ. Mặt khác như nhà nghiên cứu Shen Dingli thuộc Đại học Phúc Đán lại lập luận: “Nếu Romney trúng cử, cả ông và Tập Cận Bình vẫn sẽ bắt tay nhau và quên ngay những gì ứng cử viên đã nói cũng giống như những gì mà Bắc Kinh và Oasinhtơn đã vượt qua sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2008”. Như vậy, bất chấp những gì các ứng cử viên tổng thống đã thể hiện, Bắc Kinh dường như không quá bận tâm vì khoảng cách giữa lời nói và việc làm ở đây là hoàn toàn khác nhau.
4. Liên minh châu Âu (EU): Thắt lưng buộc bụng hay nới lỏng tiền tệ?
Cuộc khủng hoảng nợ công kéo dài suốt 4 năm qua đã cho thấy 27 quốc gia trong cộng đồng này ngày càng trở lên gắn kết chặt chẽ với nhau. Cuộc khủng hoảng này cũng cho thấy mức độ ảnh hưởng đối với kinh tế toàn cầu, trong đó phải kể đến trước hết là kinh tế Mỹ. Sự sụt giảm tiêu dùng ở Mỹ là nguồn gốc chính cản trở sự phục hồi của các nền kinh tế EU do xuất khẩu giảm sút trong khi đó, tình trạng nợ nần ở Mỹ có ảnh hưởng lớn đến thị trường tài chính ở mọi nơi.
Obama là ứng cử viên được ưa thích ở châu Âu và những người cùng phe với Tổng thống Pháp Francois Hollande coi Obama như một đồng minh quan trọng trong cuộc tranh luận giữa chính sách trung tả – thúc đẩy tăng trưởng theo trường phái Keynes với chủ trương thắt lưng buộc bụng theo trường phái trung – hữu do Thủ tướng Đức Angela Merkel đứng đầu. Trong khi đó, các tiếp cận với thách thức kinh tế của Romney có vẻ thiên hữu, giống với quan điểm của bà Merkel nhưng nhìn nhận chung của giới lãnh đạo EU cho rằng quan điểm kinh tế của Romney vẫn chưa rõ ràng. Những ngôn từ diều hâu của Romney với Nga và Iran làm các chính phủ ở châu Âu cảm thấy không thật thoải mái trong khi việc ông ta phản đối giám sát chặt chẽ hơn đối với các thị trường tài chính đã không được giới lãnh đạo châu Âu hoan nghênh.
Sự suy yếu tương đối của Mỹ đồng nghĩa với việc châu Âu không còn phải nhất nhất tuân theo chỉ đạo từ Oasinhtơn đối với các vấn đề từ quy mô ngân sách quân sự của mình, việc chia sẻ các cam kết của NATO đến điều hành nền kinh tế của mình. Vào ngày 6/11, quan ngại chính của châu Âu, giống như của phần lớn cử tri Mỹ, là xem nước Mỹ có sớm vực dậy được nền kinh tế của mình hay không. Một nền kinh tế Mỹ phục hồi mạnh mẽ sẽ có tầm quan trọng đặc biệt đến kinh tế toàn cầu.
5. Băng ở Bắc Cực đang tan nhanh
Bắc Cực, nơi tốc độ băng tan nhanh chóng đang khiến sự mong chờ từ kết quả cuộc bầu cử vào ngày 6/11 tăng lên. Băng tan là dấu hiệu của hành tinh ấm lên, một hiện tượng đã nhận được sự đồng thuận của các nhà khoa học rằng nguyên nhân chủ yếu là do lượng khí thải cácbon do con người gây ra. Thế nhưng việc hạn chế lượng khí thải này lại không được ứng cử viên nào đề cập trong cuộc bầu cử mà chỉ tập trung vào vấn đề tạo việc làm, ít nhất là cho tới khi có sự đổ bộ của bão Sandy.
Thị trưởng thành phố Niu Yoóc, Michael Bloomberg, từng là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa, cuối tuần trước đã bày tỏ ủng hộ Barack Obama tái cử với lập luận rằng Obama đã có những chính sách tích cực nhằm hạn chế lượng khí thải cácbon, trong khi Romney đã thay đổi quan điểm trước đó về sự ủng hộ hành động chống biến đổi khí hậu. Bloomberg đã ủng hộ Obama vì ứng cử viên này có thể tiến hành các hành động cần thiết hơn dù vị đương kim tổng thống này đã làm nhiều nhà hoạt động môi trường thất vọng trong nhiệm kỳ đầu tiên. Nếu gấu bắc cực được quyền bỏ phiếu, Bắc Cực đã không phải thấp thỏm chờ đợi sự lựa chọn được đưa ra vào ngày 6/11. Nhưng như Ngài Thị trưởng Bloomberg, chúng có thể lựa chọn ứng cử viên mà chúng tin là ít thất hứa hơn./.\
1366. Chính phủ có cố ý làm trái luật đất đai?
“Giá mà có cuộc đối thoại tương tự giữa bà con nông dân Văn Giang với nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và giá như ông cũng can đảm nhận sai lầm, nếu ông đã sai, và trong trường hợp ấy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định của nguyên phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thì uy tín của Thủ tướng chắc sẽ lên cao.”
Nguyễn Quang A
Gs. TsKH Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường (TNMT), đã mạnh bạo lên tiếng về sự thu hồi đất trái pháp luật của chính quyền Hải Phòng đối với gia đình anh Đoàn Văn Vươn. Ông được đánh giá là chuyên gia đất đai số một của Việt Nam và sự lên tiếng này của ông được báo giới đánh giá rất cao.
Bà con nông dân Văn Giang liên quan đến dự án Ecopark đã liên tục khiếu kiện suốt 8 năm nay. Và vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Văn Giang ngày 25-4-2012 với lực lượng vũ trang hùng hậu đã gây xôn xao dư luận trong nước và quốc tế.
Ba ngày sau, 28-4-2012 BBC phỏng vấn chuyên gia đầu ngành về đất đai, Gs. TsKH Đặng Hùng Võ. Với câu hỏi của BBC “quyết định thu hồi đất của chính quyền Văn Giang có đúng với pháp luật hay không?” ông trả lời “Tôi cho rằng đây là một quyết định đúng”. Ông cho rằng những bất cập của dự án Ecopark “chủ yếu thuộc về khung pháp luật mà không thuộc về phần thực thi pháp luật”. Nói cách khác việc thực thi pháp luật là đúng (thẩm quyền, thủ tục) nhưng do pháp luật chưa hoàn chỉnh nên đã nảy sinh những rắc rối.
Rồi những người nông dân Văn Giang cho biết: Ngày 28/6/2004 UBND tỉnh Hưng Yên ký tờ trình lên Bộ TNMT; ngày 29-6-2004 thứ trưởng Bộ TNMT Đặng Hùng Võ đã ký tờ trình số 99/TTr-BTNMT gửi Thủ tướng Chính phủ về việc giao đất để xây dựng tuyến đường liên tỉnh Hưng Yên-Hà Nội và xây dựng Khu đô thị thương mại-Du lịch Văn Giang; trên cơ sở đó phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 30-6-2004 về việc thu hồi đất và giao đất cho dự án (đổi đất lấy hạ tầng) này đúng (chưa đầy) một ngày trước khi Luật Đất đai 1993 (đã được sửa và bổ sung năm 1998 và 2001) hết hiệu lực và Luật Đất đai 2003 (được thông qua ngày 26-11-2003) bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1-7-2004. Luật 1993 còn cho phép “đổi đất lấy hạ tầng”, luật 2003 thì không. Bà con nông dân Văn Giang rất bức xúc với phát ngôn của Gs. Võ.
Bà con nông dân Văn Giang đã nhờ các luật sư tư vấn cho mình và đã có một cuộc đối thoại rất văn minh và mang tính xây dựng với Bộ TNMT tại trụ sở của Bộ vào ngày 21-8-2012. Bà con nông dân nói các quyết định thu hồi và giao đất là trái pháp luật, Bộ nói không sai và đã cung cấp cho bà con các bản sao của các tờ trình của Bộ khi đó do thứ trưởng Đặng Hùng Võ ký.
Bà con, thông qua các luật sư của mình, đã gửi ý kiến của họ đến Gs. Võ và yêu cầu có đối thoại với ông.
Ngày 7-11-2012 Gs. Võ trả lời phỏng vấn nhiều báo rằng ông sẽ mượn hội trường của Bộ TNMT để đối thoại với bà con nông dân Văn Giang từ 2 giờ chiều ngày 8-11-2012.
Trong các phỏng vấn này ông vẫn nhấn mạnh: “Thanh thiên bạch nhật mà nói thì thủ tục thu hồi đất của dự án này, tôi nhắc lại, không có gì sai pháp luật”; “Việc ký 2 tờ trình vào thời điểm đó là đúng đắn và tốt cho đại cục, tốt cho sự phát triển kinh tế của Hà Nội và Hưng Yên, như vậy có nghĩa là người dân cũng sẽ được hưởng lợi”; ông muốn “giúp bà con hiểu về pháp luật đất đai”; làm cho “bà con hiểu rõ tính chính đáng của dự án và tôi tin rằng không ai có thể cãi về điều này”. Ông cũng mời các nhà báo đến dự và đưa tin.
Có thẻ nhà báo từ cả chục năm rồi nhưng năm nay không được cấp lại, nên tôi chỉ ké các nhà báo thật để vào quan sát để học hỏi.
Hàng trăm nông dân Văn Giang tụ tập bên ngoài Bộ TNMT. Chỉ có một số đại diện của họ, các luật sư, các nhà báo (có cả 3-4 đài TV ghi hình liên tục), khoảng 50-60 người dự đối thoại. Cuộc đối thoại đã kéo dài gần 3 giờ liên tục, không có giải lao. Nội dung chỉ xoay quanh 3 câu hỏi mà bà con nông dân Văn Giang đã gửi cho Gs Võ:
1) Quyết định thu hồi đất và giao đất số 742/QĐ-Ttg do Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 30-6-2004 dựa trên tờ trình số 99/Ttr -BTNMT do chính Gs. Võ ký có đúng thẩm quyền hay không?
2) Quyết định giao đất cho chủ đầu tư (mà bà con cho là không đúng quy hoạch và chủ đầu tư chưa đủ điều kiện được giao đất theo luật lúc đó) có đúng luật hay không?
3) Quyết định giao đất có đúng không khi không nghi rõ tên người sử dụng đất (mà bà con cho rằng thực chất là ủy quyền cho cấp dưới [UBDN tỉnh Hưng Yên] là không phù hợp với Điều 25 của Luật Đất đai 1993]?
Chỉ cần ít nhất một 3 câu trả lời cho 3 câu hỏi trên là không [đúng] thì có nghĩa là Quyết định 742/QĐ-Ttg do Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký là trái luật và trong trường hợp đó tất cả các quyết định của các cơ quan cấp dưới dựa vào Quyết định đó cũng trái luật và bà con yêu cầu Gs Võ chính thức cải chính lời tuyên bố của ông với BBC (ngày 28-4-2012) và với các phóng viên báo chí (ngày 7-11-2012).
Cuộc trao đổi đã hết sức sôi nổi, đôi khi khá gây cấn.
Gs. Võ lúc đầu vẫn giữ quan điểm của mình như đã nói với BBC và phóng viên các báo ngày 7-11-2012.
Đại diện của bà con nông dân Văn Giang (và các luật sư của họ) đã trưng ra hết bằng chứng này đến bằng chứng khác của Luật đất đai khi đó (1993 và được sửa đổi bổ sung 1998 và 2001), tranh cãi khá gay gắt về sự hiểu luật kém cỏi của những người ký các tờ trình. Gs Võ đã thực sự bị các đại diện của bà con Văn Giang áp đảo về lý lẽ. Nhưng sau hơn 2 giờ trao đổi ông vẫn không nhận mình sai khi ký các tờ trình.
Tôi có cảm giác rằng những người nông dân Văn Giang hiểu luật đất đai sành hơn ông Giáo sư và chính họ đã giúp ông “hiểu về pháp luật đất đai” chứ không phải ngược lại. Mỗi lần ông thanh minh hay giải thích khá lòng vòng, thì luật sư hay bà con nông dân đưa ra những lý lẽ, bằng chứng bằng các điều khoản của luật, nghị định, thậm chí thông tư của chính Bộ của ông để bác lại.
Về thẩm quyền ký quyết định thu hồi đất và giao đất bà con lập luận: luật đất đai 1993 đã giao cho thủ tướng chính phủ quyết định; nhưng sau đó do thấy tập trung quyền lực vào ta một người dễ gây ra sự lạm dụng hay quyết định thiếu cơ sở nên Quốc hội (trong đợt sửa 1998 và 2001) đã chuyển quyền đó sang cho Chính phủ chứ không phải Thủ tướng. Thế nhưng trong tờ trình số 99/Ttr –BTNMT Gs. Võ đã ghi “kính gửi Thủ tướng Chính phủ” chứ không phải Chính phủ và khiến cho phó Thủ tướng đã ký Quyết định 742/QĐ-Ttg (chứ không phải Chính phủ có một nghị quyết rồi trên cơ sở đó Thủ tướng thay mặt Chính phủ ra Quyết định). Gs. Đặng Hùng Võ nói, Chính phủ đã ủy quyền cho Thủ tướng. Bị truy, quyết định ủy quyền đâu? Ông trả lời có nghe nói thế và ông nói thêm tất cả các dự án tương tự từ trước đến nay đều làm thế chứ không chỉ dự án này.
Tôi phát hoảng nên nói xem vào: Xin Gs. Võ thận trọng bởi vì nếu đúng như Giáo sư nói là Chính phủ đã ủy quyền cho Thủ tướng quyết định về thu hồi đất và giao đất đối với các dự án như vậy, thì không khác gì bảo “Chính phủ đã cố ý làm trái luật vì trước kia do ngại một mình Thủ tướng quyết định là không tốt nên Quốc hội mới bỏ việc đó và bắt Chính phủ phải quyết định. Nay nếu Chính phủ lại ủy quyền cho Thủ tướng thì chẳng phải Chính phủ (tất cả các thành viên Chính phủ) đã cố tình vi phạm luật hay sao?”
Kết quả có hậu là, cuối cùng Gs Võ đã được bà con nông dân và các luật sư của họ thuyết phục và đã thừa nhận và trả lời rành rọt cho các câu hỏi: 1) không đúng thẩm quyền và thậm chí ông còn nói là trái luật; với câu hỏi 2) ông thừa nhận mình đã sai vì đã dùng từ “giao đất” [mà lẽ ra phải là từ “thu hồi đất”] trong Tờ trình số 99 [trong đó có 7 lần nhắc đến “giao đất” (4 lần của Bộ TNMT), 2 lần của Hưng Yên, 1 lần của Bộ Tài chính], nói cách khác câu trả lời cho câu hỏi 2 cũng là không; về câu hỏi thứ 3) quyết định thu hồi đất không ghi tên từng người bị thu hồi đất (được quy định bởi luật lúc đó và hiện hành) cũng như không ghi tên người được giao đất cũng là sai luật.
Mỗi lần Gs Võ trả lời “không” cho các câu hỏi trên thì bà con tham dự đã vỗ tay nhiệt liệt hoan nghênh. Bà con đã đại xá cho Gs Võ.
Thật đáng trân trọng sự dũng cảm của Gs Võ khi ông thực sự hiểu mình đã sai và thừa nhận sự sai đó. Sai là chuyện con người, ai cũng mắc phải. Vấn đề là có dám nhận sai không để tìm ra cách khắc phục những sai lầm đó, thay cho việc coi bà con đi khiếu kiện là bị “các thế lực thù địch” xúi giục.
Đối thoại trên tinh thần xây dựng để tìm ra sự thật như đã xảy ra tại Bộ Tài Nguyên Môi trường lần trước và lần này rất đáng được hoan ngênh. Và đấy là cách duy nhất để giải quyết thấu đáo các rắc rối hiện tại sao cho có lợi cho bà con nông dân, cho chủ đầu tư và cho chính nhà nước, rút kinh nghiệm để cho việc sửa đổi Luật đất đai hiện thời tốt hơn.
Các quan chức nhà nước khác và cơ quan nhà nước khác có thể lấy đấy làm tấm gương.
Giá mà có cuộc đối thoại tương tự giữa bà con nông dân Văn Giang với nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và giá như ông cũng can đảm nhận sai lầm, nếu ông đã sai, và trong trường hợp ấy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định của nguyên phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thì uy tín của Thủ tướng chắc sẽ lên cao.
Giá mà các quan chức nhà nước và các cơ quan nhà nước bớt được 50% (hay hơn) số vụ họ vi phạm luật do chính họ (nhà nước) làm ra, thì sự phát triển của đất nước đã tốt đẹp hơn rất nhiều.
Tản Mạn Trong Góc Tù Vietbao
Tác giả : Nguyệt Quỳnh
Tôi nhớ đã đọc được ở đâu đó một câu thơ viết về người tù “Mười năm
còn quen ngồi một mình trong bóng tối” và chạnh nhớ đến thi sĩ Phùng
Cung. Khi đang thụ án 12 năm tù vì một bài viết đăng trên Nhân Văn Giai
Phẩm; một đêm, Phùng Cung bỗng sững sờ vì bắt gặp ánh trăng len qua các
song sắt vào thăm mình. Trên vai áo người tù đơn độc, ánh trăng dịu dàng
vá cái khoảng rách của chiếc áo. Cái cảm giác được ân cần vỗ về chợt
làm thi sĩ ngậm ngùi: “Ngày xưa ơi! Xa mãi đến bao giờ.” Cái ngày
xưa của Phùng Cung cũng là những ngày xưa của Trần Dần, Phùng Quán,
Nguyễn Hữu Đang… những chàng trai Việt, đầy nhiệt huyết sẵn sàng phanh
ngực áo ra trước lằn đạn của thực dân. Những ngày thắm tươi của những
con người biết rõ lý do để họ sẵn sàng sống hoặc chết để bảo vệ nó.
Phùng Cung đâu ngờ rằng cái khoảnh khắc đó của ông cũng làm ngậm ngùi
biết bao người đời sau khi đọc Trăng Ngục. Lúc ấy, Phùng Cung cô đơn
lắm, ông đang đối diện với cái nền tường u ám của tù ngục trong khi bên
ngoài cả đất nước đang phất cờ hát vang những bài hát quốc tế ca!
Hoàn cảnh của Phùng Cung lúc ấy khác hẳn hoàn cảnh của người tù bây giờ.
Sau 70 năm đảng Cộng Sản Nga nắm quyền. Di sản của họ để lại là một nước Nga bị phá huỷ gần như tất cả những giá trị về tinh thần. Nhà văn Alexander Solzhenitsyn đã kêu lên rằng: người dân nước Nga sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế, cốt sao sự tồn tại mong manh của họ không bị phá vỡ. Ông cho rằng người dân Nga chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một chút nhiệt huyết nào…Tiếc thay, những nhận xét của Solzhenitsyn cũng không xa mấy đối với người dân Việt Nam sau gần 70 năm sống dưới chế độ Cộng Sản; tính từ ngày ông Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình.
Nhưng truyền thống chống ngoại xâm của người dân Việt Nam là một điều bất khả huỷ diệt. Phải chăng chính lòng yêu nước đó đang vực dậy dân khí, dân trí của cả một dân tộc?
Điều gì đã làm cho cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên dám đi dán truyền đơn và viết bốn câu thơ chống Trung Quốc lên những tờ giấy bạc. Hành động của em có khác gì Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản ngày xưa. Tức giận vì còn nhỏ tuổi ông không được dự bàn chuyện nước, Trần Quốc Toản đã bóp nát trái cam trong tay mà không hay. Rồi ông cũng tự mình huy động người nhà, tự mình rèn vũ khí, tự may cờ với sáu chữ “Phá giặc mạnh, báo ơn vua”. Trong ánh mắt sáng trong của Phương Uyên chúng ta nhìn thấy rất rõ một điều: bất chấp những đàn áp diễn ra hằng ngày đối với người biểu tình, bất chấp những bản án khắc nghiệt dành cho người yêu nước, vẫn chảy tràn giòng máu truyền đời không chấp nhận sống kiếp nô lệ trong mỗi người Việt Nam. Và sự sống còn của đất nước đã không cho phép người dân Việt tiếp tục cúi đầu.
Chưa bao giờ người Việt ta sẵn sàng đối mặt với rủi ro, chưa lúc nào những người con yêu tổ quốc sẵn sàng chấp nhận tù đày như lúc này. Những trại giam ở Việt Nam bây giờ là nơi giam nhốt những tinh hoa của dân tộc. Họ là những người thiết tha yêu nước nhất như: Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Huỳnh Duy Thức,… Họ là những người yêu tha nhân hơn bản thân mình như: Mục sư Dương Kim Khải, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, cô Đỗ thị Minh Hạnh, chị Trần thị Thuý,… Họ là những người sẵn sàng hy sinh để bảo vệ công lý như: Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, Thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, Luật sư Lê Công Định… Và họ cũng là những người yêu tự do nhất để chấp nhận tù đày như: Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, Blogger Điếu Cày, …
Tù ngục đã và đang biến những người con yêu ấy của tổ quốc trở thành biểu tượng của tự do. Họ vượt qua hầu hết những nỗi sợ hãi vì đã đối diện đầy đủ mọi đòn phép của công an — từ đoạ đày thể chất đến áp lực tinh thần. Họ vượt qua hết những nỗi lo mất mát vì đã đối diện với thực tế mất mát — từ tên tuổi bị bôi nhọ đến tài sản bị cướp trắng và mọi thứ tự do bị xoá sạch. Chính họ, chính những người tù đen đủi, xơ xác về thể chất đó lại đang là những ngọn lửa hy vọng của cả dân tộc, là những tấm gương sống vì tha nhân cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ Việt Nam. Họ làm chúng ta nhớ đến hình ảnh một Nelson Mandela, người lãnh tụ cuộc cách mạng chống sự kỳ thị chủng tộc tại Nam Phi. Trên đường bị đưa đi đày ở Robben Island, tại hải khẩu, Nelson Mandela đã để lại những cảm tưởng nổi tiếng, trong đó có đoạn: “Tôi trân qúy cái lý tưởng một xã hội tự do dân chủ trong đó mọi người sống chung trong hòa đồng hòa hợp và có cơ hội bình đảng. Đó là một lý tưởng mà tôi sống cho nó, và thực hiện cho được. Nó cũng là lý tưởng mà nếu phải chết, tôi sẽ chết vì nó”. Và dù đang là một tù nhân của trại tù Robben Island, trước mắt thế giới, ông trở nên một thần tượng, một thánh tử đạo đòi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc.
Việt Nam là một dân tộc bất diệt, tôi tin như vậy. Kẻ hào kiệt, người anh thư vẫn xuất hiện ở những giai đoạn hiểm nghèo của đất nước. Và sự đồng lòng, sự có mặt cùng nhau để đấu tranh cho an nguy của dân tộc đã nối kết họ thành một khối. Nam giới ngày nay đã không còn e ngại khi ngợi ca sự can đảm của các chị Trần Khải Thanh Thuỷ, Luật sư Lê Thị Công Nhân, chị Bùi Minh Hằng và xem hành động can đảm của các chị là chuẩn mực cho mình bước tới. Đối với những cựu tù nhân như Luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thăng Long, Nguyễn Bắc Truyển…vừa bước chân ra khỏi nhà tù, họ lại quên mình chi vì nhìn thấy cảnh chung quanh. Bất chấp sự xách nhiểu liên tục và các đòn thù của công an, những con người nhân bản này lại lập tức lên tiếng cho lẽ phải, cho những bất công đối với người chung quanh. Và trên tất cả, họ lại nhập giòng đấu tranh.
Nhân nói về người tù chính trị, tôi lại nhớ đến thi sĩ Richard Lovelace. Ông bị bắt giam trong cuộc nội chiến ở Anh vào thế kỷ thứ 17. Ở trong tù, Richard đã thể hiện sự khát khao sống một cách mãnh liệt. Mặc cho tù ngục, mặc cho tường cao hào sâu bao quanh, những vần thơ viết về người phụ nữ xinh đẹp sinh ra từ trí tưởng tượng của nhà thơ đã làm nên một thi phẩm nổi tiếng.
Còn trong các thi phẩm của Phùng Cung, hình ảnh người phụ nữ của ông lúc nào cũng mang dáng dấp một quê hương bất hạnh. Nếu không “bước héo, áo gầy, Gió va nón cũ” thì cũng “ Thương em đứng giữa mùa nước mắt”. Viết tới đây chợt ngậm ngùi thương cho người tù Việt Nam. Cũng cùng một tâm tình như Phùng Cung, hai nhạc sĩ trẻ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình lại vừa bị kết án tổng cộng đến mười năm tù. Điều đáng sợ và đáng hối tiếc là Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình cũng bị bắt giam bởi cái chế độ đã từng bắt giam Phùng Cung hơn nữa thế kỷ trước. Đáng sợ vì tâm hồn giới nghệ sĩ trí thức Việt đã bị tù đày hơn năm mươi năm!
Mãi mãi người ta sẽ còn nhớ tới cái bóng một mình của Phùng Cung in trên tường đá suốt 12 năm. Nhưng có một điều thi sĩ không hề biết. Những người tù ngày nay không đơn độc như Phùng Cung, họ đã được nhìn bằng đôi mắt khác. Cứ nhìn cảnh cả nước ôm choàng lấy Bùi Minh Hằng và Phạm Thanh Nghiên khi hai chị vừa bước chân ra khỏi tù thì hiểu ngay rằng – trong mắt dân tộc, hình ảnh cái cùm mang tên “tù chính trị” với đầy cảm giác sợ hãi, kinh hoàng của thế kỷ trước nay đang chuyển dần sang lòng cảm phục và thương yêu.
Sau 70 năm đảng Cộng Sản Nga nắm quyền. Di sản của họ để lại là một nước Nga bị phá huỷ gần như tất cả những giá trị về tinh thần. Nhà văn Alexander Solzhenitsyn đã kêu lên rằng: người dân nước Nga sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế, cốt sao sự tồn tại mong manh của họ không bị phá vỡ. Ông cho rằng người dân Nga chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một chút nhiệt huyết nào…Tiếc thay, những nhận xét của Solzhenitsyn cũng không xa mấy đối với người dân Việt Nam sau gần 70 năm sống dưới chế độ Cộng Sản; tính từ ngày ông Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình.
Nhưng truyền thống chống ngoại xâm của người dân Việt Nam là một điều bất khả huỷ diệt. Phải chăng chính lòng yêu nước đó đang vực dậy dân khí, dân trí của cả một dân tộc?
Điều gì đã làm cho cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên dám đi dán truyền đơn và viết bốn câu thơ chống Trung Quốc lên những tờ giấy bạc. Hành động của em có khác gì Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản ngày xưa. Tức giận vì còn nhỏ tuổi ông không được dự bàn chuyện nước, Trần Quốc Toản đã bóp nát trái cam trong tay mà không hay. Rồi ông cũng tự mình huy động người nhà, tự mình rèn vũ khí, tự may cờ với sáu chữ “Phá giặc mạnh, báo ơn vua”. Trong ánh mắt sáng trong của Phương Uyên chúng ta nhìn thấy rất rõ một điều: bất chấp những đàn áp diễn ra hằng ngày đối với người biểu tình, bất chấp những bản án khắc nghiệt dành cho người yêu nước, vẫn chảy tràn giòng máu truyền đời không chấp nhận sống kiếp nô lệ trong mỗi người Việt Nam. Và sự sống còn của đất nước đã không cho phép người dân Việt tiếp tục cúi đầu.
Chưa bao giờ người Việt ta sẵn sàng đối mặt với rủi ro, chưa lúc nào những người con yêu tổ quốc sẵn sàng chấp nhận tù đày như lúc này. Những trại giam ở Việt Nam bây giờ là nơi giam nhốt những tinh hoa của dân tộc. Họ là những người thiết tha yêu nước nhất như: Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Huỳnh Duy Thức,… Họ là những người yêu tha nhân hơn bản thân mình như: Mục sư Dương Kim Khải, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, cô Đỗ thị Minh Hạnh, chị Trần thị Thuý,… Họ là những người sẵn sàng hy sinh để bảo vệ công lý như: Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, Thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, Luật sư Lê Công Định… Và họ cũng là những người yêu tự do nhất để chấp nhận tù đày như: Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, Blogger Điếu Cày, …
Tù ngục đã và đang biến những người con yêu ấy của tổ quốc trở thành biểu tượng của tự do. Họ vượt qua hầu hết những nỗi sợ hãi vì đã đối diện đầy đủ mọi đòn phép của công an — từ đoạ đày thể chất đến áp lực tinh thần. Họ vượt qua hết những nỗi lo mất mát vì đã đối diện với thực tế mất mát — từ tên tuổi bị bôi nhọ đến tài sản bị cướp trắng và mọi thứ tự do bị xoá sạch. Chính họ, chính những người tù đen đủi, xơ xác về thể chất đó lại đang là những ngọn lửa hy vọng của cả dân tộc, là những tấm gương sống vì tha nhân cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ Việt Nam. Họ làm chúng ta nhớ đến hình ảnh một Nelson Mandela, người lãnh tụ cuộc cách mạng chống sự kỳ thị chủng tộc tại Nam Phi. Trên đường bị đưa đi đày ở Robben Island, tại hải khẩu, Nelson Mandela đã để lại những cảm tưởng nổi tiếng, trong đó có đoạn: “Tôi trân qúy cái lý tưởng một xã hội tự do dân chủ trong đó mọi người sống chung trong hòa đồng hòa hợp và có cơ hội bình đảng. Đó là một lý tưởng mà tôi sống cho nó, và thực hiện cho được. Nó cũng là lý tưởng mà nếu phải chết, tôi sẽ chết vì nó”. Và dù đang là một tù nhân của trại tù Robben Island, trước mắt thế giới, ông trở nên một thần tượng, một thánh tử đạo đòi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc.
Việt Nam là một dân tộc bất diệt, tôi tin như vậy. Kẻ hào kiệt, người anh thư vẫn xuất hiện ở những giai đoạn hiểm nghèo của đất nước. Và sự đồng lòng, sự có mặt cùng nhau để đấu tranh cho an nguy của dân tộc đã nối kết họ thành một khối. Nam giới ngày nay đã không còn e ngại khi ngợi ca sự can đảm của các chị Trần Khải Thanh Thuỷ, Luật sư Lê Thị Công Nhân, chị Bùi Minh Hằng và xem hành động can đảm của các chị là chuẩn mực cho mình bước tới. Đối với những cựu tù nhân như Luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thăng Long, Nguyễn Bắc Truyển…vừa bước chân ra khỏi nhà tù, họ lại quên mình chi vì nhìn thấy cảnh chung quanh. Bất chấp sự xách nhiểu liên tục và các đòn thù của công an, những con người nhân bản này lại lập tức lên tiếng cho lẽ phải, cho những bất công đối với người chung quanh. Và trên tất cả, họ lại nhập giòng đấu tranh.
Nhân nói về người tù chính trị, tôi lại nhớ đến thi sĩ Richard Lovelace. Ông bị bắt giam trong cuộc nội chiến ở Anh vào thế kỷ thứ 17. Ở trong tù, Richard đã thể hiện sự khát khao sống một cách mãnh liệt. Mặc cho tù ngục, mặc cho tường cao hào sâu bao quanh, những vần thơ viết về người phụ nữ xinh đẹp sinh ra từ trí tưởng tượng của nhà thơ đã làm nên một thi phẩm nổi tiếng.
Còn trong các thi phẩm của Phùng Cung, hình ảnh người phụ nữ của ông lúc nào cũng mang dáng dấp một quê hương bất hạnh. Nếu không “bước héo, áo gầy, Gió va nón cũ” thì cũng “ Thương em đứng giữa mùa nước mắt”. Viết tới đây chợt ngậm ngùi thương cho người tù Việt Nam. Cũng cùng một tâm tình như Phùng Cung, hai nhạc sĩ trẻ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình lại vừa bị kết án tổng cộng đến mười năm tù. Điều đáng sợ và đáng hối tiếc là Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình cũng bị bắt giam bởi cái chế độ đã từng bắt giam Phùng Cung hơn nữa thế kỷ trước. Đáng sợ vì tâm hồn giới nghệ sĩ trí thức Việt đã bị tù đày hơn năm mươi năm!
Mãi mãi người ta sẽ còn nhớ tới cái bóng một mình của Phùng Cung in trên tường đá suốt 12 năm. Nhưng có một điều thi sĩ không hề biết. Những người tù ngày nay không đơn độc như Phùng Cung, họ đã được nhìn bằng đôi mắt khác. Cứ nhìn cảnh cả nước ôm choàng lấy Bùi Minh Hằng và Phạm Thanh Nghiên khi hai chị vừa bước chân ra khỏi tù thì hiểu ngay rằng – trong mắt dân tộc, hình ảnh cái cùm mang tên “tù chính trị” với đầy cảm giác sợ hãi, kinh hoàng của thế kỷ trước nay đang chuyển dần sang lòng cảm phục và thương yêu.
Hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam bị tụt hạng
Hoà Ái, phóng viên RFA - 2012-11-08
Kết quả mới nhất của nhóm nghiên cứu SCImago công bố về năng lực và chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam tiếp tục bị tụt hạng.
Có phải hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam đang ở mức báo động? Hòa Ái phỏng vấn Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn thuộc viên nghiên cứu Y Khoa Garvan và Đại học New South Wales xoayquanh đề tài này. Cuộc phỏng vấn được phát trong 2 kỳ.
Phương thức đánh giá
Trả lời câu hỏi đầu tiên về kết quả công bố của viện SCImago, một tổ chức uy tín về đánh giá khoa học, có phản ánh đúng thực tiễn tình hình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam hay không?
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn: Trước hết thì giới báo chí nói chung có một hiểu lầm ở đây. Tổ chức SCImago của Tây Ban Nha là họ nói rất rõ là họ không có xếp hạng đại học và nghiên cứu trên thế giới. Họ chỉ cung cấp thông tin liên quan đến nghiên cứu khoa học và chất lượng nghiên cứu khoa học để các nhà chức trách cũng như giáo sư tự quyết định và đánh giá để biết mình đang ở đâu trên bảng đồ khoa học thế giới.
Qua báo cáo đó, tôi nghĩ rằng chúng ta cũng có thể biết một trung tâm hay một đại học đang đứng ở đâu trong vùng và trên thế giới. Trong lần này họ có đưa vô danh sách 4 trường, viện của Việt Nam. Đó là Viện Khoa học và Công Nghệ ở Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. HCM, Đại học Quốc Gia Hà Nội và Đại học Bách Khoa Hà Nội. Mỗi một trường, họ đánh giá qua 7 chỉ số.
Sở dĩ tôi phải nói ra 7 tiêu chí bây giờ là bởi vì nếu dựa vào một tiêu chí thì một đại học này có thể được xếp hạng nhất, đại học kia được xếp hạng ba, nhưng nếu ví dụ dựa vào tiêu chí chất lượng thì đại học đó có thể xếp hạng ba thay vì hạng nhất. Tức là thay đổi tùy theo tiêu chí mình sử dụng. Do đó chuyện các đại học Việt Nam bị thay đổi vị trí tăng hay giảm tùy theo tiêu chí nào cũng không có ngạc nhiên.
Tuy nhiên, nhìn mặt tổng thể thì bảng xếp hạng cung cấp thông tin cho dù ở tiêu chí nào thì các đại học Việt Nam vẫn ở vị trí rất thấp so với các nước trong vùng như Thái Lan hay Malaysia, còn so với thế giới thì thấp hơn nữa. Ở đây tôi phải thêm một chú ý (note) mang tính tích
cực hơn là mặc dù Đại Học Quốc Gia TP. HCM kém về số lượng hơn so với
các đại học khác trong vùng nhưng về chất lượng nghiên cứu thì cao hẳn
hơn. Tôi nghĩ rằng đó là điều hình như báo chí Việt Nam không để ý. Cái
nào kém thì nói kém, cái nào tốt thì cũng nên ghi nhận ở đây.
Hòa Ái: Dạ thưa GS thì theo như báo chí trong nước đăng tải thì các nhà nghiên cứu khoa học nêu lên các công trình nghên cứu khoa học của họ không được theo như ý muốn vì rất nhiều nguyên nhân. Có thể nói là không có các hội đồng đánh giá độc lập hay là khâu đào tạo tổ chức không hợp lý hay thậm chí vì cơ chế tài chính khắt khe nên có thể nhà khoa học phải nói dối để theo đuổi công trình nghiên cứu của mình. Theo GS. đánh giá thì cái gốc của vấn đề là ở chổ nào?
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn: Tôi nghĩ đây là một câu hỏi chắc có lẽ cần đến một hội thảo khoa học để mổ xẻ vấn đề cho đến nơi đến chốn. Riêng tôi thì cũng chỉ có một số nhận xét cá nhân thôi. Tôi nghĩ khá nhiều về những lý do các đồng nghiệp trong nước vừa nêu, tôi nghĩ đều đúng cả. Theo tôi, là người ở ngoài nhìn vào, thì có lẽ có 5 lý do chính.
Lý do thứ nhất có lẽ ai cũng thấy là các đại học ở Việt Nam chưa chú trọng vào nghiên cứu khoa học như là một cứu cánh. Các đại học lớn như Đại Học Quốc Gia và Đại Học Bách Khoa thì cũng có nghiên cứu nhưng các giảng viên, giáo sư ở đó xem giảng dạy là nhiệm vụ chính, nghiên cứu là phụ thôi. Do đó, họ không có động cơ để theo đuổi nghiên cứu khoa học.
Lý do thư ba về vấn đề phân phối tài trợ, tôi nghĩ rằng ở Việt Nam không thiếu tiền cho nghiên cứu khoa học đâu. Tại sao tôi nói như vậy? Hiện nay nhà nước Việt Nam đầu tư 2% ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học, tức là 500 triệu mỹ kim, đó không phải là con số nhỏ đâu, nhất là trong tình trạng kinh tế còn nghèo nàn như bây giờ.
Đó là điều rất khó hiểu. Lý do thứ tư là thiếu các nhà khoa học có tài, có kinh nghiệm cao đẳng cấp quốc tế hoặc có thì cũng không có cơ hội làm việc đúng chổ đúng việc. Thứ năm, tôi nghĩ cũng rất là quan trọng, liên quan đến vấn đề văn hóa, đó là tôi gọi là thiếu tính thực học.
Trong nước hiện nay có một vấn nạn, có nhiều người thích học bằng tiến sĩ hay thạc sĩ thì những người này học không phải vì khoa học mà mục tiêu của họ học để có bằng cấp tiến thân trong quản lý hành chính hay gì đó, không phải vì mục tiêu sáng tạo tri thức hay đi tìm sự thật gì đâu. Đó là một điều rất là đáng buồn. Đó là năm lý do tôi nghĩ rằng làm cho nền khoa học Việt Nam trì trệ cho đến ngày hôm nay.
Vừa rồi là phần trình bày của GS. TS Nguyễn Văn Tuấn về hiện trạng của nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Mời quý thính giả xem phần tiếp theo của buổi phỏng vấn về giải pháp nào trong tương lai để hoạt động nghiên cứu khoa học có bước đột phá.
Kết quả mới nhất của nhóm nghiên cứu SCImago công bố về năng lực và chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam tiếp tục bị tụt hạng.
Source vnu.edu.vn Trong phòng thí nghiệm (ảnh minh hoạ)
Tải xuống – download Có phải hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam đang ở mức báo động? Hòa Ái phỏng vấn Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn thuộc viên nghiên cứu Y Khoa Garvan và Đại học New South Wales xoayquanh đề tài này. Cuộc phỏng vấn được phát trong 2 kỳ.
Phương thức đánh giá
Trả lời câu hỏi đầu tiên về kết quả công bố của viện SCImago, một tổ chức uy tín về đánh giá khoa học, có phản ánh đúng thực tiễn tình hình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam hay không?
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn: Trước hết thì giới báo chí nói chung có một hiểu lầm ở đây. Tổ chức SCImago của Tây Ban Nha là họ nói rất rõ là họ không có xếp hạng đại học và nghiên cứu trên thế giới. Họ chỉ cung cấp thông tin liên quan đến nghiên cứu khoa học và chất lượng nghiên cứu khoa học để các nhà chức trách cũng như giáo sư tự quyết định và đánh giá để biết mình đang ở đâu trên bảng đồ khoa học thế giới.
Qua báo cáo đó, tôi nghĩ rằng chúng ta cũng có thể biết một trung tâm hay một đại học đang đứng ở đâu trong vùng và trên thế giới. Trong lần này họ có đưa vô danh sách 4 trường, viện của Việt Nam. Đó là Viện Khoa học và Công Nghệ ở Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. HCM, Đại học Quốc Gia Hà Nội và Đại học Bách Khoa Hà Nội. Mỗi một trường, họ đánh giá qua 7 chỉ số.
Họ chỉ cung cấp thông tin liên quan đến nghiên cứu khoa học và chất lượng nghiên cứu khoa học để các nhà chức trách cũng như giáo sư tự quyết định và đánh giá để biết mình đang ở đâu trên bảng đồ khoa học thế giớiThứ nhất là đầu ra về nghiên cứu khoa học, thứ hai là tỉ lệ hợp tác quốc tế, thứ ba là số công trình được công bố trên các tập san được xem như hàng đầu trong mỗi chuyên ngành, thứ tư tôi tạm dịch là chỉ số tác động tức là chỉ số phản ảnh mức độ ảnh hưởng của công trình nghiên cứu như thế nào, thứ năm là chỉ số chuyên biệt hóa, thứ sáu là chỉ số xuất sắc và mới đây nhất là chỉ số lãnh đạo.
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Sở dĩ tôi phải nói ra 7 tiêu chí bây giờ là bởi vì nếu dựa vào một tiêu chí thì một đại học này có thể được xếp hạng nhất, đại học kia được xếp hạng ba, nhưng nếu ví dụ dựa vào tiêu chí chất lượng thì đại học đó có thể xếp hạng ba thay vì hạng nhất. Tức là thay đổi tùy theo tiêu chí mình sử dụng. Do đó chuyện các đại học Việt Nam bị thay đổi vị trí tăng hay giảm tùy theo tiêu chí nào cũng không có ngạc nhiên.
Tuy nhiên, nhìn mặt tổng thể thì bảng xếp hạng cung cấp thông tin cho dù ở tiêu chí nào thì các đại học Việt Nam vẫn ở vị trí rất thấp so với các nước trong vùng như Thái Lan hay Malaysia, còn so với thế giới thì thấp hơn nữa. Ở đây tôi phải thêm một chú ý (note) mang tính tích
Phòng thí nghiệm trọng điểm của ĐH Quốc gia TP.HCM – Photo: Nhu Hung/TTre
Tuy nhiên, nhìn mặt tổng thể thì bảng xếp hạng cung cấp thông tin cho dù ở tiêu chí nào thì các đại học Việt Nam vẫn ở vị trí rất thấp so với các nước trong vùng như Thái Lan hay Malaysia, còn so với thế giới thì thấp hơn nữaNguyên nhân xa gần
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Hòa Ái: Dạ thưa GS thì theo như báo chí trong nước đăng tải thì các nhà nghiên cứu khoa học nêu lên các công trình nghên cứu khoa học của họ không được theo như ý muốn vì rất nhiều nguyên nhân. Có thể nói là không có các hội đồng đánh giá độc lập hay là khâu đào tạo tổ chức không hợp lý hay thậm chí vì cơ chế tài chính khắt khe nên có thể nhà khoa học phải nói dối để theo đuổi công trình nghiên cứu của mình. Theo GS. đánh giá thì cái gốc của vấn đề là ở chổ nào?
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn: Tôi nghĩ đây là một câu hỏi chắc có lẽ cần đến một hội thảo khoa học để mổ xẻ vấn đề cho đến nơi đến chốn. Riêng tôi thì cũng chỉ có một số nhận xét cá nhân thôi. Tôi nghĩ khá nhiều về những lý do các đồng nghiệp trong nước vừa nêu, tôi nghĩ đều đúng cả. Theo tôi, là người ở ngoài nhìn vào, thì có lẽ có 5 lý do chính.
Lý do thứ nhất có lẽ ai cũng thấy là các đại học ở Việt Nam chưa chú trọng vào nghiên cứu khoa học như là một cứu cánh. Các đại học lớn như Đại Học Quốc Gia và Đại Học Bách Khoa thì cũng có nghiên cứu nhưng các giảng viên, giáo sư ở đó xem giảng dạy là nhiệm vụ chính, nghiên cứu là phụ thôi. Do đó, họ không có động cơ để theo đuổi nghiên cứu khoa học.
Các đại học lớn như Đại Học Quốc Gia và Đại Học Bách Khoa thì cũng có nghiên cứu nhưng các giảng viên, giáo sư ở đó xem giảng dạy là nhiệm vụ chính, nghiên cứu là phụ thôi.Thứ hai, một điều nhiều người nói đi nói lại rất là nhiều lần là sự tách rời giữa các trường đại học với các viện nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam có rất nhiều viện nghiên cứu khoa học, có thể đếm tới hàng trăm, có người nói là hàng ngàn viện nghiên cứu khoa học độc lập mà người ta không biết họ làm nghiên cứu gì.
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Lý do thư ba về vấn đề phân phối tài trợ, tôi nghĩ rằng ở Việt Nam không thiếu tiền cho nghiên cứu khoa học đâu. Tại sao tôi nói như vậy? Hiện nay nhà nước Việt Nam đầu tư 2% ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học, tức là 500 triệu mỹ kim, đó không phải là con số nhỏ đâu, nhất là trong tình trạng kinh tế còn nghèo nàn như bây giờ.
Có nhiều người thích học bằng tiến sĩ hay thạc sĩ thì những người này học không phải vì khoa học mà mục tiêu của họ học để có bằng cấp tiến thân trong quản lý hành chính hay gì đó, không phải vì mục tiêu sáng tạo tri thứcVậy mà mỗi năm, Bộ Khoa học Công nghệ vẫn phải trả lại cho ngân sách nhà nước khoảng mười mấy, hai chục triệu, năm nào cũng vậy. Vấn đề ở đây như vậy thì không phải là thiếu tiền, nhưng mà cách phân phối làm sao cho hợp lý thì đó là vấn đề. Mà nói đến vấn đề này thì nói nhiều lắm. Vấn đề ở tổ chức xét duyệt rồi phân phối tài trợ không hợp lý, bất bình đẳng và rất là nhiêu khê. Có lần tôi nêu trước đây là về vấn đề phân bố ngân sách nghiên cứu. Một số các ngân sách nghiên cứu lớn như cấp bộ, cấp nhà nước thì hầu như không đến tay các đồng nghiệp trong các tỉnh phía nam.
GS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Đó là điều rất khó hiểu. Lý do thứ tư là thiếu các nhà khoa học có tài, có kinh nghiệm cao đẳng cấp quốc tế hoặc có thì cũng không có cơ hội làm việc đúng chổ đúng việc. Thứ năm, tôi nghĩ cũng rất là quan trọng, liên quan đến vấn đề văn hóa, đó là tôi gọi là thiếu tính thực học.
Trong nước hiện nay có một vấn nạn, có nhiều người thích học bằng tiến sĩ hay thạc sĩ thì những người này học không phải vì khoa học mà mục tiêu của họ học để có bằng cấp tiến thân trong quản lý hành chính hay gì đó, không phải vì mục tiêu sáng tạo tri thức hay đi tìm sự thật gì đâu. Đó là một điều rất là đáng buồn. Đó là năm lý do tôi nghĩ rằng làm cho nền khoa học Việt Nam trì trệ cho đến ngày hôm nay.
Vừa rồi là phần trình bày của GS. TS Nguyễn Văn Tuấn về hiện trạng của nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Mời quý thính giả xem phần tiếp theo của buổi phỏng vấn về giải pháp nào trong tương lai để hoạt động nghiên cứu khoa học có bước đột phá.
Những yếu tố dẫn đến chiến thắng của ông Obama?
Thanh Quang, phóng viên RFA -2012-11-07
Hoa Kỳ tiếp tục gặp khó khăn không ít về lãnh vực kinh tế, nạn thất nghiệp, mức thâm hụt ngân sách.
GS Nguyễn Mạnh Hùng, dạy môn Bang giao Quốc tế tại Đại học George Mason, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, nhận xét:
Thật ra không phải tất cả cử tri Mỹ đều chọn ông Barack Obama. Cuộc tuyển cử này, nhất là “popular vote” – số phiếu bầu phổ thông – cho thấy, tuy ông Obama thắng một cách vẻ vang trong phiếu gọi là “electoral college”, tức phiếu cử tri đoàn, thì số phiếu bầu này cũng suýt soát nhau lắm. Nhưng may cho ông là ông được đa số thay vì thiểu số.
Vấn đề đặt ra là như vậy chúng ta thấy có sự chia rẽ rõ rệt chứ không phải là có sự chọn lựa rõ rệt giữa cử tri Mỹ.
Bây giờ lý do tại sao ông Obama thắng, thì tôi nghĩ bởi vì có một số điều mà người ta nhận thấy ông Obama đã thành công, như về chính sách ngoại giao.
Về chính sách kinh tế thì rõ ràng là như lời giải thích của ông Obama rằng do ông thừa hưởng một nền kinh tế, tài chánh rất tệ hại gần đến bờ vực thẳm, mà ông đã cứu lên được, thì nền kinh tế này phải cần một thời gian dài mới phục hồi nổi, và không ai có thể phục hồi được trong một nhiệm kỳ. Như vậy rõ ràng lời giải thích của ông Obama đã được đa số cử tri ủng hộ.
Thanh Quang: Thưa GS, còn phía Cộng Hoà gặp trở ngại ra sao trong kỳ bầu cử Tổng thống vừa rồi ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Chúng ta thấy phía đảng Cộng Hoà cũng có những nhược điểm của nó, mà quan trọng nhất là 3 loại làm cho nhiều cử tri không thích. Thứ nhất là “Tea Party” với thái độ rất cứng rắn và cực đoan. Thứ hai là phe “Religious Rights” là phe tôn giáo cực đoan, không tha thứ quan niệm social issue nào mới mà ngược với người ta. Và thứ ba về cung cách ngoại giao bị ảnh hưởng quá lớn của phe “Neoconservative” (Tân Bảo thủ). Phe này đã đưa nước Mỹ vào 2 cuộc chiến tranh Ả Rập mà đã làm cho Mỹ gần như phá sản.
Thanh Quang: Theo cái nhìn của GS thì việc Tổng thống Obama tái đắc cử như vậy có thể mang lại triển vọng ra sao cho Hoa Kỳ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Thật sự, thứ nhất, là thế giới sẽ yên lòng và người Mỹ cũng yên lòng là sẽ không bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh nào vội vàng; nếu có chiến tranh thì đó rõ rệt có sự suy tính chứ không phải vội vàng, mà vì lý do ý thức hệ. Thứ hai, là có nhiều kinh tế gia đã nói rằng từ năm 2013- 14 trở đi, thì nền kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi, bởi vì tất cả điều căn bản đã thành công, đã đạt được rồi.
Hôm trước tôi đọc được tiên đoán của kinh tế gia khác ở Mỹ nói là dự đoán khoảng tháng 6 năm 2013, nền kinh tế Mỹ sẽ có chỉ dấu phục hồi. Người ta nói rằng người nào làm Tổng thống cũng sẽ được hưởng thuận lợi này, bởi vì chu kỳ kinh tế đến giai đoạn đó sẽ phục hồi.
Còn về vấn đề xã hội thì phụ nữ Mỹ lo đạo luật Rose vs Wade cho phép phá thai có thể bị đảo ngược, nhất là trong thời gian tới, có thể có 2 thẩm phán Tối Cao Pháp Viện Mỹ sẽ về hưu, thì tổng thống sẽ có quyền bổ nhiệm người thay thế. Như vậy khuynh hướng bảo thủ của Tối Cao Pháp Viện sẽ không còn nữa trong thời gian dài lâu.
Một vấn đề khác nữa về vấn đề “Obamacare”, thì bây giờ nó đã được thiết lập rồi, không có chuyện xoá bỏ luật này. Nhưng chắc chắn sẽ có một vài sửa đổi Obamacare, vì chính ông Obama cũng phải nhìn nhận nó không phải là đạo luật hoàn hảo.
Thanh Quang: Thưa GS, ngoài số cử tri da trắng ủng hộ Tổng thống Obama, được biết chiến thắng của ông hiện giờ, một phần đáng kể, cũng là nhờ ở lá phiếu của cử tri da màu. GS có nhận xét như thế nào về điều gọi là “sức mạnh da màu” tại Hoa Kỳ, ít ra, cũng từ bây giờ trở đi?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Chúng ta thấy có 2 chuyện phải phân biệt rõ ràng, là trong vấn đề đi bầu phiếu, thì người da màu, ngoại trừ người Nhật, ít chịu đi bỏ phiếu lắm. Thí dụ trong số người Mỹ có tới khoảng 65% đi bầu, thì người gốc Nhật mới đạt được tỷ lệ đó thôi. Còn người gốc Trung Hoa cũng ít. Và nhất là người Mỹ gốc Việt thì chỉ khoảng 40% đi bầu thôi. Thật ra lá phiếu người da màu đáng lẽ được vận động nhiều hơn, nhưng bởi vì người ta không chịu đi bầu thì số phiếu không được như ý. Tuy nhiên, năm nay chúng ta thấy vấn đề da màu quan trọng bởi vì vấn đề người Hispanic, những người gốc vùng Nam Mỹ, họ đông lắm. Và đó là thành phần không những đông mà còn phát triển nhanh lắm. Do đó, ở những nơi, những tiểu bang quan trọng mà ông Obama được phiếu là bởi yếu tố này khiến ông thành công ở những tiểu bang ấy, mở đường cho ông lại vào Bạch Cung kỳ này.
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ có giúp hay không, thì chúng ta thấy có chuyện khác biệt giữa ông Obama và ông Romney. Thứ nhất là chính chính quyền Obama quyết định chương trình gọi là “pivot to Asia”, tức Mỹ quay trở lại Biển Đông, quay lại vùng Á Châu-TBD. Tất cả những người lãnh đạo Mỹ, từ Tổng thống Obama, Tổng trưởng Quốc phòng Leon Panetta cho tới Ngoại trưởng Hillary Clinton đều chứng tỏ là Hoa Kỳ có quan tâm đến Biển Đông và có chính sách cứng rắn, chứ không phải chịu hoàn toàn nhân nhượng TQ tại Biển Đông.
Chúng ta thấy điểm đó là điều thứ nhất. Thứ nhì là chúng ta thấy, ngày trước, Tổng thống Bush hờ hững với Biển Đông, với vùng Á Châu-TBD, bởi vì bị sa lầy bởi 2 cuộc chiến Ả Rập, không thắng được mà lại còn tốn kém nữa. Và chính phủ Bush không có khả năng nào, mà dù có muốn, cũng không thể nào lo đến vấn đề Á Châu được. Cho nên khi lãnh tụ Singapore Lý Quang Diệu khi sang Hoa Kỳ nhận phần thưởng ở Wilson Center, thì ông có nói rằng Hoa Kỳ như vậy để cho “sân Á Châu” này TQ chiếm hết.
Thanh Quang: Cảm ơn GS Nguyễn Mạnh Hùng.
Hoa Kỳ tiếp tục gặp khó khăn không ít về lãnh vực kinh tế, nạn thất nghiệp, mức thâm hụt ngân sách.
AFP photo -Tổng thống Obama, Phó Tổng thống Biden cùng hai vị phu nhân mừng chiến thắng tối 06/11/2012 tại Chicago
Chiến thắng vừa rồi của Tổng thống Barack Obama khiến người ta nêu
lên câu hỏi rằng sao cử tri Mỹ lại quyết định chọn ông Obama cầm quyền
thêm 4 năm nữa, và sự thành công ấy có thể góp phần ra sao cho vấn đề
Biển Đông.GS Nguyễn Mạnh Hùng, dạy môn Bang giao Quốc tế tại Đại học George Mason, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, nhận xét:
Thật ra không phải tất cả cử tri Mỹ đều chọn ông Barack Obama. Cuộc tuyển cử này, nhất là “popular vote” – số phiếu bầu phổ thông – cho thấy, tuy ông Obama thắng một cách vẻ vang trong phiếu gọi là “electoral college”, tức phiếu cử tri đoàn, thì số phiếu bầu này cũng suýt soát nhau lắm. Nhưng may cho ông là ông được đa số thay vì thiểu số.
Vấn đề đặt ra là như vậy chúng ta thấy có sự chia rẽ rõ rệt chứ không phải là có sự chọn lựa rõ rệt giữa cử tri Mỹ.
Bây giờ lý do tại sao ông Obama thắng, thì tôi nghĩ bởi vì có một số điều mà người ta nhận thấy ông Obama đã thành công, như về chính sách ngoại giao.
Về chính sách kinh tế thì rõ ràng là như lời giải thích của ông Obama rằng do ông thừa hưởng một nền kinh tế, tài chánh rất tệ hại gần đến bờ vực thẳm, mà ông đã cứu lên được, thì nền kinh tế này phải cần một thời gian dài mới phục hồi nổi, và không ai có thể phục hồi được trong một nhiệm kỳ. Như vậy rõ ràng lời giải thích của ông Obama đã được đa số cử tri ủng hộ.
Thanh Quang: Thưa GS, còn phía Cộng Hoà gặp trở ngại ra sao trong kỳ bầu cử Tổng thống vừa rồi ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Chúng ta thấy phía đảng Cộng Hoà cũng có những nhược điểm của nó, mà quan trọng nhất là 3 loại làm cho nhiều cử tri không thích. Thứ nhất là “Tea Party” với thái độ rất cứng rắn và cực đoan. Thứ hai là phe “Religious Rights” là phe tôn giáo cực đoan, không tha thứ quan niệm social issue nào mới mà ngược với người ta. Và thứ ba về cung cách ngoại giao bị ảnh hưởng quá lớn của phe “Neoconservative” (Tân Bảo thủ). Phe này đã đưa nước Mỹ vào 2 cuộc chiến tranh Ả Rập mà đã làm cho Mỹ gần như phá sản.
“Sức mạnh da màu”
Cử tri vui mừng trước chiến thắng của Tổng Thống Obama. AFP photo
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Thật sự, thứ nhất, là thế giới sẽ yên lòng và người Mỹ cũng yên lòng là sẽ không bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh nào vội vàng; nếu có chiến tranh thì đó rõ rệt có sự suy tính chứ không phải vội vàng, mà vì lý do ý thức hệ. Thứ hai, là có nhiều kinh tế gia đã nói rằng từ năm 2013- 14 trở đi, thì nền kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi, bởi vì tất cả điều căn bản đã thành công, đã đạt được rồi.
Hôm trước tôi đọc được tiên đoán của kinh tế gia khác ở Mỹ nói là dự đoán khoảng tháng 6 năm 2013, nền kinh tế Mỹ sẽ có chỉ dấu phục hồi. Người ta nói rằng người nào làm Tổng thống cũng sẽ được hưởng thuận lợi này, bởi vì chu kỳ kinh tế đến giai đoạn đó sẽ phục hồi.
Còn về vấn đề xã hội thì phụ nữ Mỹ lo đạo luật Rose vs Wade cho phép phá thai có thể bị đảo ngược, nhất là trong thời gian tới, có thể có 2 thẩm phán Tối Cao Pháp Viện Mỹ sẽ về hưu, thì tổng thống sẽ có quyền bổ nhiệm người thay thế. Như vậy khuynh hướng bảo thủ của Tối Cao Pháp Viện sẽ không còn nữa trong thời gian dài lâu.
Một vấn đề khác nữa về vấn đề “Obamacare”, thì bây giờ nó đã được thiết lập rồi, không có chuyện xoá bỏ luật này. Nhưng chắc chắn sẽ có một vài sửa đổi Obamacare, vì chính ông Obama cũng phải nhìn nhận nó không phải là đạo luật hoàn hảo.
Thanh Quang: Thưa GS, ngoài số cử tri da trắng ủng hộ Tổng thống Obama, được biết chiến thắng của ông hiện giờ, một phần đáng kể, cũng là nhờ ở lá phiếu của cử tri da màu. GS có nhận xét như thế nào về điều gọi là “sức mạnh da màu” tại Hoa Kỳ, ít ra, cũng từ bây giờ trở đi?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Chúng ta thấy có 2 chuyện phải phân biệt rõ ràng, là trong vấn đề đi bầu phiếu, thì người da màu, ngoại trừ người Nhật, ít chịu đi bỏ phiếu lắm. Thí dụ trong số người Mỹ có tới khoảng 65% đi bầu, thì người gốc Nhật mới đạt được tỷ lệ đó thôi. Còn người gốc Trung Hoa cũng ít. Và nhất là người Mỹ gốc Việt thì chỉ khoảng 40% đi bầu thôi. Thật ra lá phiếu người da màu đáng lẽ được vận động nhiều hơn, nhưng bởi vì người ta không chịu đi bầu thì số phiếu không được như ý. Tuy nhiên, năm nay chúng ta thấy vấn đề da màu quan trọng bởi vì vấn đề người Hispanic, những người gốc vùng Nam Mỹ, họ đông lắm. Và đó là thành phần không những đông mà còn phát triển nhanh lắm. Do đó, ở những nơi, những tiểu bang quan trọng mà ông Obama được phiếu là bởi yếu tố này khiến ông thành công ở những tiểu bang ấy, mở đường cho ông lại vào Bạch Cung kỳ này.
Vấn đề biển đông
Thanh Quang: Có một câu hỏi chót, thưa GS, chiến thắng của Tổng thống Obama có thể giúp ích gì thêm cho vấn đề ở Biển Đông hiện giờ?GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi nghĩ có giúp hay không, thì chúng ta thấy có chuyện khác biệt giữa ông Obama và ông Romney. Thứ nhất là chính chính quyền Obama quyết định chương trình gọi là “pivot to Asia”, tức Mỹ quay trở lại Biển Đông, quay lại vùng Á Châu-TBD. Tất cả những người lãnh đạo Mỹ, từ Tổng thống Obama, Tổng trưởng Quốc phòng Leon Panetta cho tới Ngoại trưởng Hillary Clinton đều chứng tỏ là Hoa Kỳ có quan tâm đến Biển Đông và có chính sách cứng rắn, chứ không phải chịu hoàn toàn nhân nhượng TQ tại Biển Đông.
Chúng ta thấy điểm đó là điều thứ nhất. Thứ nhì là chúng ta thấy, ngày trước, Tổng thống Bush hờ hững với Biển Đông, với vùng Á Châu-TBD, bởi vì bị sa lầy bởi 2 cuộc chiến Ả Rập, không thắng được mà lại còn tốn kém nữa. Và chính phủ Bush không có khả năng nào, mà dù có muốn, cũng không thể nào lo đến vấn đề Á Châu được. Cho nên khi lãnh tụ Singapore Lý Quang Diệu khi sang Hoa Kỳ nhận phần thưởng ở Wilson Center, thì ông có nói rằng Hoa Kỳ như vậy để cho “sân Á Châu” này TQ chiếm hết.
Chiến thắng này của ông Barack Obama cho thấy là nguy cơ Mỹ lại bị sa lầy vào cuộc chiến tranh khác nữa để không có khả năng lo vấn đề Á Châu, thì nguy cơ đó bớt đi rất nhiều.Thành ra bây giờ giả sử trường hợp ông Romney đắc cử tổng thống, thì những cố vấn của ông ta là phe “Tân Bảo thủ”. Mà những người Tân Bảo thủ này luôn luôn có mộng biến vùng Ả Rập trở thành vùng tự do dân chủ. Vì thế mới phát sinh chính sách “regime change” (thay đổi chế độ). Họ đánh Iraq rồi có thế tiến vào Syria. Mà nếu có cuộc chiến tranh nữa thì nước Mỹ lại sa lầy và như vậy sẽ không để ý đến Biển Đông được. Do đó, chiến thắng này của ông Barack Obama cho thấy là nguy cơ Mỹ lại bị sa lầy vào cuộc chiến tranh khác nữa để không có khả năng lo vấn đề Á Châu, thì nguy cơ đó bớt đi rất nhiều.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Thanh Quang: Cảm ơn GS Nguyễn Mạnh Hùng.
Danlambao 8/11/2012
Hãy thấy rõ kẻ địch, người thù
Huỳnh Tâm (Danlambao) - “… Đây là lần đầu tiên quân đội Trung Quốc thực hiện tác chiến với sự kết hợp của xe tăng, pháo binh, cộng với không quân và thủy quân. Nhưng sự lạc hậu trong học thuyết và chiến thuật khiến quân đội không có sự phối hợp cần thiết…”Nhà nước, Đảng ‘ta’ và bầu cử Mĩ
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) – Không biết “Hoàng Đế” Tổng Bí Thư đảng “Ta”, chủ nhân ông của đất nước có cái tiêu đề “độc lập-tự do-hạnh phúc” nhưng khống thấy “Dân Chủ” chỗ nào này có đủ can đảm gửi điện chúc mừng Chủ Tịch đảng “Dân Chủ” Mỹ vừa dành thắng lợi Bầu Cử với Tổng Thống Obama không? Nhưng chắc rằng Vua, Chúa Ba – Tư sẽ tranh thủ làm cái việc hệ trọng ấy, bởi dù sao cái quốc gia “Tecniccolor hợp chủng quốc” Mỹ dù chỉ hơn 200 năm lập quốc (so với Việt Nam 4000 năm) nhưng nó rất mạnh thuộc hạng “Ờ, ba, má” vẫn nằm trong tay TT Obama mà tiềm năng quân sự dư sức làm cho Tàu Cộng khó lòng “Sơn Đông mãi võ” độc quyền xưng danh “cha chú” trong khu vực Đông Nam và Châu Á, nhất là Biển Đông – Nơi CSVN đang lực bất tòng tâm “già nhân ngải non vợ chồng” với Bắc Kinh nhưng mắt thì vẫn lúng liếng đưa tình với chàng “GI” (lính Mỹ – Government issue).Con dại cái mang – Đừng bóp chết lòng yêu nước của tuổi trẻ
Nguyễn Trung (Viet-studies) - Chẳng lẽ một sinh viên năm thứ ba, đoàn viên và cán bộ Đoàn TNCS HCM Nguyễn Phương Uyên
không hiểu được những việc làm như đại tá Nguyễn Sáu phổ biến tại buổi
họp báo 03-11-2012 là phạm pháp so với pháp luật hiện hành?…
Chế độ chính trị của nước ta đang có những vấn đề gì khiến cho
Uyên tuy được giáo dục kỹ mà vẫn hành xử chống đối như vậy? Chế độ chính
trị nước ta như thế nào mà đến nỗi phải chống lại nó vì yêu nước?…
Một chế độ chính trị đúng với tinh thần là hiện thân của một nhà
nước của dân, do dân, vì dân còn phải qua vụ Nguyễn Phương Uyên nhìn
nhận lại những khuyết tật hay yếu kém của chính mình đã tạo ra những
nguyên nhân dẫn đến vụ Nguyễn Phương Uyên. Gìn giữ đất nước thì phải làm
như thế…Chuyện phiếm về những cái đuôi
Trần Hoàng Lan (Danlambao) – Với những người phát minh ra, chúng lại không hề vô dụng. Vì chúng đã làm được chức năng là những chiếc vòi để tiền thuế của dân, tài nguyên đất nước qua đó chảy vào túi họ. Những kẻ phát minh ra “cái đuôi” này cũng không hổ danh là các “đỉnh cao trí tuệ”. Chỉ khổ cho “cái thân mình” là nền kinh tế Việt Nam bị “cái đuôi” này bòn rút trở thành tiêu điều, xơ xác…Công an ra tay bắt dân oan biểu tình
VRNs (08.11.2012) – Sài Gòn – Từ Hải Phòng, nhà dân quyền Phạm Thanh Nghiên cho biết: “Tin tôi vừa nhận được: Đêm qua, 29 người Dân Oan khiếu kiện đã bị một lực lượng lớn công an (ước tính lên đến gần 200 người) cưỡng chế và bắt đi. Hiện 29 người này đã bị đưa đến TT Bảo trợ xã hội 1 (Thôn Đồng Dầu, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội) .Một trong số những người bị bắt cho tôi biết, đây là nơi “giam giữ” những người tàn tật, cơ nhỡ, lang thang không nơi nương tựa”.Sự xâm nhập của đảng vào lề Dân
Vũ Đông Hà (Danlambao) - Để hạ thủ nhau trong cuộc đấu đá nội bộ với mục tiêu tranh giành quyền lực, các cán bộ quan chức đảng và bộ hạ của phe nhóm không thể sử dụng hệ thống truyền thông chính thống của đảng. Họ phải sử dụng phương thức thông tin rò rĩ qua các trang mạng lề Dân, thế giới của những blogger độc lập đứng ngoài sự kiểm soát của đảng. Khi “công cuộc” đấu đá lên đến cao điểm, nhu cầu tố cáo, sát phạt nhau trở thành cấp bách, không thể phụ thuộc vào các trang blog khác, họ chuyển hướng và tự biến mình thành một “truyền thông blog”. Đó là sự ra đời của trang Quan Làm Báo.Dự án Ecopark – Văn giang; Tránh luật mới, “chạy” theo luật cũ vẫn không “trôi”!
Trần Ngọc Kha - Chiều nay, 8/11, Tại hội trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trưởng, 83 – Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội, GS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng này có cuộc tiếp xúc đối thoại với bà con các xã thuộc diện bị thu hồi đất ở huyện Văn Giang, thực hiện dự án Ecopark – Văn Giang (Hưng Yên), dự án do chính ông từng trực tiếp ký các văn bản thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khi còn tại vị.Đua nhau báo lỗ: Nguy cơ phá sản đến rất gần?
Thanh Thảo (Vietstock) - Hàng
trăm doanh nghiệp tiếp tục báo lỗ trong quý 3 và 9 tháng đầu năm. Nợ
nần nới rộng so với tài sản và nguồn vốn, đẩy các doanh nghiệp đến rủi
ro phá sản nếu tình hình vẫn chưa cải thiện.
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, việc kinh doanh kém
hiệu quả dẫn đến tình trạng lỗ lãi không phải là chuyện lạ. Bằng chứng
là 113/580 doanh nghiệp đã công bố BCTC quý 3/2012 với tổng mức lỗ lên
đến gần 2,000 tỷ đồng. Trong đó, 10 doanh nghiệp lỗ nhiều nhất đã chiếm
xấp xỉ 1,300 tỷ đồng.
Dịch lỏng trong áo ngực Trung Quốc có chất độc
TP - Viện Hóa học (Viện KH&CN Việt Nam) vừa giải mã gần như toàn bộ thành phần các viên chất rắn và dịch lỏng trong áo ngực ghi nhãn xuất xứ từ Trung Quốc, khẳng định sự hiện diện của một chất có khả năng gây ung thư, rối loạn nội tiết…Đêm biển Đông nghe Mẹ khóc
Trên biển Đông, đêm nghe hồn mẹ hát
vừa thiết tha vừa dào dạt âm buồn
trăng vầng cao soi mắt mẹ sầu tuôn
con nước đục lạc nguồn trôi mãi…Đầu tư công: Cấp xã cũng “vẽ” to được dự án
Thành Tâm (Toquoc)
– “Chính việc phân cấp quá mạnh khiến cấp xã mặc dù không có chuyên môn
cũng như năng lực vẫn được giao các nhóm dự án vài chục tỷ đến hàng
trăm tỷ đồng. Dự án càng lớn chính quyền xã càng vẽ to ra”.
Không đơn giản chỉ “yes or no”
Đào Tuấn
Tháng Mười Một 8, 2012Việt Nam chưa từng có một cuộc trưng cầu dân ý, dù hàng năm, các quyết sách liên quan đến “vận mệnh quốc gia” vẫn được quyết đều đều.
Nhân dân đáng lẽ có quyền quyết định những dự án như Bauxite Tây Nguyên, Đường sắt cao tốc, Điện hạt nhân. Người dân Hà Tây, Hà Nội đáng lẽ có quyền được trưng cầu về việc sáp nhập Thủ đô. Rồi thì dân Quảng Nam, Đồng Nai, cũng đáng lẽ có quyền có ý kiến về những dự án thủy điện đang đe dọa nguồn nước, rừng cây, sinh kế, đến những vấn đề phạm trù “môi trường sống”. Khi mà chúng ta đáng lẽ phải trưng cầu dân ý đối với những vấn đề liên quan đến đất nước, đến nhân dân nhiều như vậy.
Chữ “đáng lẽ” được Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp Đinh Xuân Thảo dùng, như ông cũng thẳng thắn trả lời nguyên nhân việc trưng cầu dân ý chưa bao giờ được thực hiện trên thực tế là bởi “Chúng ta chưa coi trọng”.
Mà trưng cầu dân ý thì thuộc về phạm trù “dân chủ trực tiếp”, thuộc về vấn đề quyền công dân.
Hôm qua, một số ý kiến đã “việt vị” khi đánh giá quy định này là “mới”.
Trưng cầu dân ý, hay bỏ phiếu toàn dân, từ năm 1898 đã diễn ra ở Canada liên quan đến việc Chính phủ muốn cấm rượu mạnh. Ở Việt Nam, Điều 21 của bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 quy định rất rõ ràng: Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có liên quan đến vận mệnh quốc gia (Do Quốc hội quyết định). Quy định trưng cầu dân ý được nhắc lại trong điều 53 của Hiến pháp 1959 (do Ủy ban thường vụ QH quyết định). Tới Hiến pháp 1980, nó vẫn đàng hoàng nằm trong điều 100 và việc trưng cầu do Hội đồng nhà nước quyết định. Và Hiến pháp 1992, trưng cầu dân ý được quy định trong thậm chí 2 điều: 53 và 84, với thẩm quyền quyết định là Quốc hội.
Phải liệt kê dài dòng như vậy là để thấy những quy định về dân chủ trực tiếp ở ta chả phải thiếu. Cái thiếu là ở Việt Nam chưa từng có một cuộc trưng cầu dân ý, dù hàng năm, các quyết sách liên quan đến “vận mệnh quốc gia” vẫn được quyết đều đều.
“Theo ông thì quy mô, tính chất vấn đề như thế nào bắt buộc chúng ta phải đưa ra trưng cầu dân ý?”. Lao động hôm qua đã đặt câu hỏi với một trong những tác giả của Hiến pháp, Viện trưởng Thảo. Ông Thảo nói, đúng một cách tuyệt đối: Cái này sẽ được quy định trong luật.
Có lẽ, cũng không cần nêu thêm câu hỏi “bao giờ”, bởi đó là câu hỏi mà không ai có thể trả lời cho dân chúng được.
Nhưng từ năm 1946, luật trưng cầu dân ý vẫn đang là món nợ mà chúng ta đang nợ dân, một món nợ về quyền hiến định của họ. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Bởi có những quy định về dân chủ trực tiếp trong hiến pháp, đạo luật “mẹ của các luật”- là một chuyện. Cái quyền đó có được thực hiện trong thực tế hay không lại là câu chuyện hoàn toàn khác.
Trước Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban tư pháp Nguyễn Đình Quyền nói trưng cầu đơn giản chỉ là việc “yes or no” (đồng ý hay không đồng ý) và nhiều nước trên thế giới, việc trưng cầu dân ý đã thành truyền thống. Nhưng để việc người dân có thể đồng ý hay không đồng ý, trước hết lại không phụ thuộc vào việc họ “yes or no”, mà phụ thuộc vào việc “chúng ta” có đồng ý hay không đồng ý, phụ thuộc vào việc chúng ta “yes or no” thời điểm món nợ với dân đang lần lữa suốt 66 năm nay.
Lê Cao – Quyền phúc quyết của người dân có không?
Danluan
Lê Cao
Hiến pháp không đơn giản là một đạo luật gốc để
các văn bản luật cụ thể hóa tinh thần pháp lý của một xã hội, Hiến pháp
còn kết tinh của văn hóa lịch sử và tầm vóc của một dân tộc. Nhìn vào
nội dung Hiến pháp, trong một chừng mực nào đó người ta có thể đo đếm
được mức độ dân chủ, văn minh mà người dân của một quốc được hưởng hay
không. Sửa Hiến pháp do đó là việc làm rất quan trọng, liên quan đến vận
mệnh, tương lai của một đất nước.
Ngày 06/08/2011, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 06/2011/QH13 về
việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo
Hiến pháp năm 1992.
Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã được trình Quốc hội vào ngày 29 -10 và nay đang được thảo luận cho ý kiến. Như vậy, theo quy định tại Điều 147 Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đang thực thi quyền sửa đổi Hiến pháp của mình, quyền của người dân trong việc sửa đổi Hiến pháp chỉ thông qua những người đại diện cho mình là các vị ĐBQH.
Trong không khí thảo luật sửa Hiến pháp đó, mấy ngày qua nhiều ý kiến của các vị ĐBQH, cũng là nói hộ ý nguyện của nhân dân cho rằng cần quy định quyền quyết định của người dân khi sửa Hiến pháp hoặc là những vấn đề hệ trọng của quốc gia.
Con đường đi tìm quyền phúc quyết của dân thực ra không khó, bởi trong quá khứ, khi ban hành Hiến pháp năm 1946 tại các Điều 21, Điều 70 đã quy định rất rõ “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”.
Thực ra việc khẳng định quyền phúc quyết của dân trong bản Hiến pháp sẽ được sửa đổi sắp tới không phải là một sáng tạo mới, mà đó là câu chuyện cần phải kế thừa giá trị tiến bộ của bản Hiến pháp cũ, với nội dung quyền lực nhân dân được tôn trọng, phù hợp với tư tưởng “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Thực ra, quyền lực ở nơi dân, do dân, vì dân là điều hiển nhiên, tất yếu được khẳng định ở bất kỳ quốc gia dân chủ nào trên thế giới.
Hiến pháp không đơn giản là một đạo luật gốc để các văn bản luật cụ thể hóa tinh thần pháp lý của một xã hội, Hiến pháp còn kết tinh của văn hóa lịch sử và tầm vóc của một dân tộc. Nhìn vào nội dung Hiến pháp, trong một chừng mực nào đó người ta có thể đo đếm được mức độ dân chủ, văn minh mà người dân của một quốc được hưởng hay không. Sửa Hiến pháp do đó là việc làm rất quan trọng, liên quan đến vận mệnh, tương lai của một đất nước.
Việc hệ trọng đó cần được dân biết, dân bàn và dân quyết định. Thế nhưng, cho đến nay, khi chúng ta tự hỏi những người dân bình thường nào đó ở một góc phố, ở một mảnh vườn, thửa ruộng xem họ có biết dự thảo Hiến pháp đang nói về điều gì không, đang bàn chuyện gì không thì chắc chắn chỉ có một số ít người có thể trả lời.
Sửa Hiến pháp, nhiều vị ĐBQH đang nói về sắp xếp lại quyền lực nhà nước, rồi thì bàn về quyền sở hữu đất đai, quyền cơ bản của người dân… Nhưng, nếu quên việc tìm lại, ghi nhận quyền được quyết định của người dân trong việc ban hành, sửa đổi Hiến pháp sẽ là một khoảng trống mênh mông trùm lên tất cả. Bởi nếu người dân không thể quyết, thì tất cả những điều khoản của Hiến pháp hay quyết định hệ trọng nào đó đối với quốc gia đều không thể hiện đúng ý chí của người dân, không bảo vệ cho người dân và người dân chẳng có thực quyền của mình.
Đi tìm quyền phúc quyết của người dân trong Hiến pháp không phải là việc người dân đòi chuyện lập pháp, bởi lẽ các đạo luật dưới Hiến pháp cần phải do các nhà làm luật chuyên nghiệp thực hiện. Đi tìm quyền phúc quyết của dân trong vấn đề sửa Hiến pháp hay quyết định những việc hệ trọng của đất nước là để người có cơ sở để có thể quyết định vận mịnh của dân tộc mình và cho chính mình một cách trực tiếp và hiện thực.
Từ thực tiễn cuộc sống đòi hỏi, dự thảo Luật trưng cầu dân ý cũng đã được bàn tới và sẽ được thông qua trong nay mai, đưa trở lại quyền phúc quyền của người dân trong Hiến pháp là một đòi hỏi rất thực tế và cần thiết để từ đó, Luật trưng cầu dân ý có sơ sở pháp lý vững chắc triển khai quyền của người dân vào trong cuộc sống.
Hiến pháp 1946 với nhiều nội dung tiến bộ, quyền phúc quyết của người dân là một điểm nhấn tiến bộ nhất không hề thua kém so với các Hiến pháp tiến bộ trên thế giới, từ quyền này người dân có thể quyết định được những quyền khác có hay không cho mình thông qua một bản Hiến pháp thể hiện được ý nguyện của nhân dân.
Điều tiến bộ ấy chúng ta đã biết, cần phải tìm lại để kế thừa và phát triển. Mong những khắc khoải của người dân thông qua những ý kiến được nêu lên ở nghị trường sẽ được các vị dân biểu khác lắng nghe, đừng tiếp tục bỏ đi quyền phúc quyết của nhân dân đối với những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước.
Lê Cao
Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã được trình Quốc hội vào ngày 29 -10 và nay đang được thảo luận cho ý kiến. Như vậy, theo quy định tại Điều 147 Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đang thực thi quyền sửa đổi Hiến pháp của mình, quyền của người dân trong việc sửa đổi Hiến pháp chỉ thông qua những người đại diện cho mình là các vị ĐBQH.
Trong không khí thảo luật sửa Hiến pháp đó, mấy ngày qua nhiều ý kiến của các vị ĐBQH, cũng là nói hộ ý nguyện của nhân dân cho rằng cần quy định quyền quyết định của người dân khi sửa Hiến pháp hoặc là những vấn đề hệ trọng của quốc gia.
Con đường đi tìm quyền phúc quyết của dân thực ra không khó, bởi trong quá khứ, khi ban hành Hiến pháp năm 1946 tại các Điều 21, Điều 70 đã quy định rất rõ “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”.
Thực ra việc khẳng định quyền phúc quyết của dân trong bản Hiến pháp sẽ được sửa đổi sắp tới không phải là một sáng tạo mới, mà đó là câu chuyện cần phải kế thừa giá trị tiến bộ của bản Hiến pháp cũ, với nội dung quyền lực nhân dân được tôn trọng, phù hợp với tư tưởng “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Thực ra, quyền lực ở nơi dân, do dân, vì dân là điều hiển nhiên, tất yếu được khẳng định ở bất kỳ quốc gia dân chủ nào trên thế giới.
Hiến pháp không đơn giản là một đạo luật gốc để các văn bản luật cụ thể hóa tinh thần pháp lý của một xã hội, Hiến pháp còn kết tinh của văn hóa lịch sử và tầm vóc của một dân tộc. Nhìn vào nội dung Hiến pháp, trong một chừng mực nào đó người ta có thể đo đếm được mức độ dân chủ, văn minh mà người dân của một quốc được hưởng hay không. Sửa Hiến pháp do đó là việc làm rất quan trọng, liên quan đến vận mệnh, tương lai của một đất nước.
Việc hệ trọng đó cần được dân biết, dân bàn và dân quyết định. Thế nhưng, cho đến nay, khi chúng ta tự hỏi những người dân bình thường nào đó ở một góc phố, ở một mảnh vườn, thửa ruộng xem họ có biết dự thảo Hiến pháp đang nói về điều gì không, đang bàn chuyện gì không thì chắc chắn chỉ có một số ít người có thể trả lời.
Sửa Hiến pháp, nhiều vị ĐBQH đang nói về sắp xếp lại quyền lực nhà nước, rồi thì bàn về quyền sở hữu đất đai, quyền cơ bản của người dân… Nhưng, nếu quên việc tìm lại, ghi nhận quyền được quyết định của người dân trong việc ban hành, sửa đổi Hiến pháp sẽ là một khoảng trống mênh mông trùm lên tất cả. Bởi nếu người dân không thể quyết, thì tất cả những điều khoản của Hiến pháp hay quyết định hệ trọng nào đó đối với quốc gia đều không thể hiện đúng ý chí của người dân, không bảo vệ cho người dân và người dân chẳng có thực quyền của mình.
Đi tìm quyền phúc quyết của người dân trong Hiến pháp không phải là việc người dân đòi chuyện lập pháp, bởi lẽ các đạo luật dưới Hiến pháp cần phải do các nhà làm luật chuyên nghiệp thực hiện. Đi tìm quyền phúc quyết của dân trong vấn đề sửa Hiến pháp hay quyết định những việc hệ trọng của đất nước là để người có cơ sở để có thể quyết định vận mịnh của dân tộc mình và cho chính mình một cách trực tiếp và hiện thực.
Từ thực tiễn cuộc sống đòi hỏi, dự thảo Luật trưng cầu dân ý cũng đã được bàn tới và sẽ được thông qua trong nay mai, đưa trở lại quyền phúc quyền của người dân trong Hiến pháp là một đòi hỏi rất thực tế và cần thiết để từ đó, Luật trưng cầu dân ý có sơ sở pháp lý vững chắc triển khai quyền của người dân vào trong cuộc sống.
Hiến pháp 1946 với nhiều nội dung tiến bộ, quyền phúc quyết của người dân là một điểm nhấn tiến bộ nhất không hề thua kém so với các Hiến pháp tiến bộ trên thế giới, từ quyền này người dân có thể quyết định được những quyền khác có hay không cho mình thông qua một bản Hiến pháp thể hiện được ý nguyện của nhân dân.
Điều tiến bộ ấy chúng ta đã biết, cần phải tìm lại để kế thừa và phát triển. Mong những khắc khoải của người dân thông qua những ý kiến được nêu lên ở nghị trường sẽ được các vị dân biểu khác lắng nghe, đừng tiếp tục bỏ đi quyền phúc quyết của nhân dân đối với những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước.
Lê Cao
Nguyễn Vạn Phú – Thương hiệu vàng quốc gia, có cần không?
Danluan
Nguyễn Vạn Phú
Chuyện vàng trở thành đề tài bàn tán sôi nổi, cả ngoài xã hội lẫn
trên hội trường Quốc hội. Nhưng có một câu hỏi chưa thấy ai, kể cả các
quan chức ở Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trả lời: Vì sao cần có một thương hiệu vàng quốc gia?
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình chỉ giải thích vì sao chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia (“SJC chiếm 93-95% thị trường vàng miếng; để tránh sự nhầm lẫn và lãng phí nên chúng tôi chọn thương hiệu này”) mà không nói vì sao cần phải có một sự chọn lựa như thế. Ông khẳng định không hề bắt buộc người dân phải chuyển đổi từ các loại vàng khác sang vàng SJC cũng như không hề có sự phân biệt đối xử giữa các loại vàng này. Thế thì chọn SJC làm thương hiệu vàng của NHNN để làm gì?
Nếu nói NHNN đang nỗ lực chống hiện tượng “đô-la hóa”, “vàng hóa” trong nền kinh tế thì việc có một thương hiệu vàng quốc gia lại góp phần làm nặng thêm tình trạng “vàng hóa” chứ đâu phải ngược lại.
Theo thông lệ quốc tế, vàng được chia làm hai loại: vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ, tức là vàng hàng hóa. Vàng tiền tệ là vàng do ngân hàng trung ương sở hữu và nắm giữ làm tài sản dự trữ, lúc đó vàng cũng tương đương như ngoại tệ. Ví dụ, chính phủ Mỹ nắm giữ 8.133 tấn vàng, chiếm đến 76,6% tổng dự trữ ngoại tệ của nước này; hay Trung Quốc có chừng 1.054 tấn vàng dự trữ, chỉ chiếm 1,8% tổng dự trữ ngoại tệ (số liệu cuối năm 2010). Vàng phi tiền tệ là vàng do người dân, doanh nghiệp hay thậm chí do các ngân hàng thương mại nắm giữ cho dù mục đích là kinh doanh hay lưu giữ giá trị.
Nếu NHNN bỏ tiền ra mua vàng đưa vào kho dự trữ của mình thì lúc đó mới gọi là hạn chế tình trạng “vàng hóa”. Vàng đưa vào dự trữ là vàng thỏi bốn số 9, chứ cần gì phải là vàng có thương hiệu quốc gia. Đằng này khi quyết định chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia trong khi trong tay nắm không bao nhiêu số lượng vàng này, có nghĩa NHNN đã “vàng hóa” trên quy mô lớn, thậm chí là rất lớn, bởi vàng SJC trong tay người dân có khả năng biến thành vàng tiền tệ trong một sớm một chiều. Hay nói cách khác, vàng SJC trong dân từ chỗ là hàng hóa bình thường nay bỗng trở thành một dạng ngoại tệ, càng làm chính sách tiền tệ khó điều hành.
Nhìn như thế mới thấy vì sao giữa vàng SJC và vàng thương hiệu khác đang có chênh lệch lớn về giá, vì sao người dân cứ chuyển đổi vàng phi SJC thành vàng SJC cho yên tâm bất kể lời trấn an hay lời khuyên của quan chức không nên vội vàng chuyển đổi.
Ở góc độ quản lý, có người giải thích, sở dĩ NHNN quyết định có một thương hiệu vàng quốc gia là để ngăn ngừa chuyện nhập lậu vàng, làm thất thoát ngoại tệ và gây căng thẳng tỷ giá. Mỗi khi giá vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế, dân buôn lậu sẽ thu gom đô-la Mỹ đem ra nước ngoài mua vàng, chuyển lậu về Việt Nam để hưởng chênh lệch giá. Nay vàng lậu đem về lại bằng giá quốc tế (hiện giá vàng phi SJC thấp hơn giá vàng SJC nên gần như tương đương giá vàng thế giới) thì sẽ không còn ai buôn lậu, cầu ngoại tệ không có thì áp lực lên tỷ giá sẽ không tồn tại.
Ở đây chúng ta thấy ngay hàng loạt lỗ hổng về quản lý. Có gì bảo đảm vàng lậu nhập về không được chuyển thành vàng SJC với chi phí không đáng kể dưới dạng vàng phi SJC muốn chuyển đổi thành vàng SJC? Hiện nay quá trình này vẫn đang diễn ra và NHNN chịu áp lực phải giúp chuyển đổi nhanh, đi đến chỗ không còn chênh lệch giá giữa các loại vàng. Như thế chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia có giúp ổn định tỷ giá chăng? Có ai bảo đảm tỷ giá không biến động nhờ chính sách vàng hay nhờ Việt Nam từ chỗ nhập siêu lớn sang xuất siêu hay do đồng đô-la Mỹ yếu đi so với nhiều đồng tiền khác? Quan trọng hơn, một khi NHNN khẳng định không phân biệt đối xử giữa các loại vàng thì làm sao hạn chế được vàng nhập lậu như mong muốn.
Việc quyết định phải có một thương hiệu vàng quốc gia đang gây ra nhiều xáo động trên thị trường, tạo ra nhiều khe hở dễ bị lợi dụng, đồng thời tạo ra cơ chế xin cho nên sẽ có nhiều người hưởng lợi và nhiều người, chủ yếu là người dân thiếu thông tin bị thiệt hại.
Đáng ngạc nhiên nhất, thương hiệu vàng quốc gia là chuyện nói miệng chứ không có cơ sở pháp lý nào cả. Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng hoàn toàn không có dòng nào về thương hiệu vàng quốc gia. Nghị định này chỉ nêu nguyên tắc quản lý là “Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng” và định nghĩa rõ: “Vàng miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ”. Rõ ràng tinh thần của Nghị định này là sẽ tồn tại song song nhiều thương hiệu vàng miếng chứ đâu nói gì đến một thương hiệu vàng quốc gia!
Hôm nay 08/11/2012, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 đảng Cộng
sản Trung Quốc khai mạc tại Đại lễ đường Nhân dân, ở thủ đô Bắc Kinh.
Hơn 2200 đại biểu tham dự Đại hội. Trên bục chủ tịch đoàn Đại hội, ngoài
những lãnh đạo cấp cao của Đảng, còn có sự hiện diện của cựu Tổng bí
thư, nguyên Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân, cựu Thủ tướng Lý
Bằng.
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình chỉ giải thích vì sao chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia (“SJC chiếm 93-95% thị trường vàng miếng; để tránh sự nhầm lẫn và lãng phí nên chúng tôi chọn thương hiệu này”) mà không nói vì sao cần phải có một sự chọn lựa như thế. Ông khẳng định không hề bắt buộc người dân phải chuyển đổi từ các loại vàng khác sang vàng SJC cũng như không hề có sự phân biệt đối xử giữa các loại vàng này. Thế thì chọn SJC làm thương hiệu vàng của NHNN để làm gì?
Nếu nói NHNN đang nỗ lực chống hiện tượng “đô-la hóa”, “vàng hóa” trong nền kinh tế thì việc có một thương hiệu vàng quốc gia lại góp phần làm nặng thêm tình trạng “vàng hóa” chứ đâu phải ngược lại.
Theo thông lệ quốc tế, vàng được chia làm hai loại: vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ, tức là vàng hàng hóa. Vàng tiền tệ là vàng do ngân hàng trung ương sở hữu và nắm giữ làm tài sản dự trữ, lúc đó vàng cũng tương đương như ngoại tệ. Ví dụ, chính phủ Mỹ nắm giữ 8.133 tấn vàng, chiếm đến 76,6% tổng dự trữ ngoại tệ của nước này; hay Trung Quốc có chừng 1.054 tấn vàng dự trữ, chỉ chiếm 1,8% tổng dự trữ ngoại tệ (số liệu cuối năm 2010). Vàng phi tiền tệ là vàng do người dân, doanh nghiệp hay thậm chí do các ngân hàng thương mại nắm giữ cho dù mục đích là kinh doanh hay lưu giữ giá trị.
Nếu NHNN bỏ tiền ra mua vàng đưa vào kho dự trữ của mình thì lúc đó mới gọi là hạn chế tình trạng “vàng hóa”. Vàng đưa vào dự trữ là vàng thỏi bốn số 9, chứ cần gì phải là vàng có thương hiệu quốc gia. Đằng này khi quyết định chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia trong khi trong tay nắm không bao nhiêu số lượng vàng này, có nghĩa NHNN đã “vàng hóa” trên quy mô lớn, thậm chí là rất lớn, bởi vàng SJC trong tay người dân có khả năng biến thành vàng tiền tệ trong một sớm một chiều. Hay nói cách khác, vàng SJC trong dân từ chỗ là hàng hóa bình thường nay bỗng trở thành một dạng ngoại tệ, càng làm chính sách tiền tệ khó điều hành.
Nhìn như thế mới thấy vì sao giữa vàng SJC và vàng thương hiệu khác đang có chênh lệch lớn về giá, vì sao người dân cứ chuyển đổi vàng phi SJC thành vàng SJC cho yên tâm bất kể lời trấn an hay lời khuyên của quan chức không nên vội vàng chuyển đổi.
Ở góc độ quản lý, có người giải thích, sở dĩ NHNN quyết định có một thương hiệu vàng quốc gia là để ngăn ngừa chuyện nhập lậu vàng, làm thất thoát ngoại tệ và gây căng thẳng tỷ giá. Mỗi khi giá vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế, dân buôn lậu sẽ thu gom đô-la Mỹ đem ra nước ngoài mua vàng, chuyển lậu về Việt Nam để hưởng chênh lệch giá. Nay vàng lậu đem về lại bằng giá quốc tế (hiện giá vàng phi SJC thấp hơn giá vàng SJC nên gần như tương đương giá vàng thế giới) thì sẽ không còn ai buôn lậu, cầu ngoại tệ không có thì áp lực lên tỷ giá sẽ không tồn tại.
Ở đây chúng ta thấy ngay hàng loạt lỗ hổng về quản lý. Có gì bảo đảm vàng lậu nhập về không được chuyển thành vàng SJC với chi phí không đáng kể dưới dạng vàng phi SJC muốn chuyển đổi thành vàng SJC? Hiện nay quá trình này vẫn đang diễn ra và NHNN chịu áp lực phải giúp chuyển đổi nhanh, đi đến chỗ không còn chênh lệch giá giữa các loại vàng. Như thế chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia có giúp ổn định tỷ giá chăng? Có ai bảo đảm tỷ giá không biến động nhờ chính sách vàng hay nhờ Việt Nam từ chỗ nhập siêu lớn sang xuất siêu hay do đồng đô-la Mỹ yếu đi so với nhiều đồng tiền khác? Quan trọng hơn, một khi NHNN khẳng định không phân biệt đối xử giữa các loại vàng thì làm sao hạn chế được vàng nhập lậu như mong muốn.
Việc quyết định phải có một thương hiệu vàng quốc gia đang gây ra nhiều xáo động trên thị trường, tạo ra nhiều khe hở dễ bị lợi dụng, đồng thời tạo ra cơ chế xin cho nên sẽ có nhiều người hưởng lợi và nhiều người, chủ yếu là người dân thiếu thông tin bị thiệt hại.
Đáng ngạc nhiên nhất, thương hiệu vàng quốc gia là chuyện nói miệng chứ không có cơ sở pháp lý nào cả. Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng hoàn toàn không có dòng nào về thương hiệu vàng quốc gia. Nghị định này chỉ nêu nguyên tắc quản lý là “Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng” và định nghĩa rõ: “Vàng miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ”. Rõ ràng tinh thần của Nghị định này là sẽ tồn tại song song nhiều thương hiệu vàng miếng chứ đâu nói gì đến một thương hiệu vàng quốc gia!
Việt Nam không phản đối việc xây đập Xayaburi?
RFA-08-11-2012
VN có vẻ như rút lại lời phản đối kế hoạch xây đập thuỷ điện của Lào trên dòng Mekong, với lời tuyên bố hôm nay rằng xứ láng giềng đã có đổi thay trong đồ án thiết kế nhằm giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực cho vùng hạ nguồn.
Hôm thứ hai, Hoa Kỳ chỉ trích quyết định xúc tiến xây đập của Vientiane, viện dẫn ảnh hưởng môi sinh đáng ngại cho các nước hạ nguồn.
Được biết các viên chức Lào lên tiếng hồi tuần này rằng việc xây đập Xayaburi đã được tiến hành, và họ đưa một số nhà báo cùng các nhà ngoại giao tới địa điểm xây đập. Công tác xây đường dẫn tới con đập cùng những cơ sở hạ tầng liên quan đã bắt đầu.
VN có vẻ như rút lại lời phản đối kế hoạch xây đập thuỷ điện của Lào trên dòng Mekong, với lời tuyên bố hôm nay rằng xứ láng giềng đã có đổi thay trong đồ án thiết kế nhằm giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực cho vùng hạ nguồn.
RFA file -Vị trí đập thuỷ điện Xayaburi trên dòng sông Mekong==>>
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VN, ông Lương Thanh Nghị, hôm nay cho
biết Lào đã quyết định xây đập Xayaburi với phí tổn dự trù 3,5 tỷ đô la
“sau khi đã điều chỉnh thiết kế dự án để làm giảm ảnh hưởng ở khu vực hạ
nguồn”.Hôm thứ hai, Hoa Kỳ chỉ trích quyết định xúc tiến xây đập của Vientiane, viện dẫn ảnh hưởng môi sinh đáng ngại cho các nước hạ nguồn.
Được biết các viên chức Lào lên tiếng hồi tuần này rằng việc xây đập Xayaburi đã được tiến hành, và họ đưa một số nhà báo cùng các nhà ngoại giao tới địa điểm xây đập. Công tác xây đường dẫn tới con đập cùng những cơ sở hạ tầng liên quan đã bắt đầu.
Khai mạc Đại hội đảng CS Trung Quốc: Hồ Cẩm Đào tố cáo nạn tham nhũng
Đại hội 18 đánh dấu sự chuyển giao thế hệ lãnh đạo. Trong tư cách
tổng thư ký Đại hội, ông Tập Cận Bình, hiện là Phó chủ tịch nước, chắc
chắn sẽ được chỉ định làm Tổng bí thư Đảng, thay thế cho ông Hồ Cẩm Đào.
Vào lúc 9h00, giờ địa phương, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào đọc diễn văn, thực chất là một bản tổng kết 10 năm cầm quyền của ông.
Đại hội đảng Cộng sản Trung Quốc lần này diễn ra trong khi đất nước đang trải qua những căng thẳng xã hội, người dân tố cáo nạn tham nhũng tràn lan, hố ngăn cách giàu nghèo gia tăng.
Ông Hồ Cẩm Đào tuyên bố : « Chống tham nhũng và tăng cường liêm chính chính trị, mối quan tâm chính của người dân, là một cam kết rõ ràng và và lâu dài của Đảng ». Lãnh đạo Trung Quốc cảnh báo : « Nếu chúng ta thất bại trong việc giải quyết vấn đề (tham nhũng), điều này có thể đe dọa sự tồn vong của Đảng, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của Đảng và sự sụp đổ của Nhà nước ».
Mặc dù trong bài diễn văn dài tới hai tiếng đồng hồ, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào không nhắc một câu chữ nào tới tên ông Bạc Hy Lai, nhưng rõ ràng, những lời cảnh báo nói trên hàm ý nói vụ cựu Bí thư thành ủy Trùng Khánh, bị cáo buộc lạm dụng quyền lực, tham nhũng và những tội khác, buộc đảng Cộng sản Trung Quốc phải khai trừ nhân vật này.
Vẫn theo ông Hồ Cẩm Đào, « Tất cả những ai vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật, bất kỳ họ là ai, có quyền lực như thế nào, ở vị trí xã hội nào, đều phải bị đưa ra xét xử và trừng phạt ». Đồng thời, Tổng bí thư mãn nhiệm kêu gọi : « Các lãnh đạo, đặc biệt là những lãnh đạo cấp cao, phải nghiêm khắc tự giác kỷ luật, chú ý đến việc giáo dục, giám sát gia đình và cấp dưới của mình. Các lãnh đạo không bao giờ được tìm kiếm các đặc quyền ».
Tuần trước, vào lúc đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị Đại hội lần thứ 18, báo Mỹ The New York Times đã đăng bài điều tra, cho biết gia đình Thủ tướng Ôn Gia Bảo, người vẫn hô hào mạnh mẽ chống tham nhũng, có tài sản trị giá tới 2,7 tỉ đô la, kể từ khi ông nhậm chức.
Vào lúc 9h00, giờ địa phương, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào đọc diễn văn, thực chất là một bản tổng kết 10 năm cầm quyền của ông.
Đại hội đảng Cộng sản Trung Quốc lần này diễn ra trong khi đất nước đang trải qua những căng thẳng xã hội, người dân tố cáo nạn tham nhũng tràn lan, hố ngăn cách giàu nghèo gia tăng.
Ông Hồ Cẩm Đào tuyên bố : « Chống tham nhũng và tăng cường liêm chính chính trị, mối quan tâm chính của người dân, là một cam kết rõ ràng và và lâu dài của Đảng ». Lãnh đạo Trung Quốc cảnh báo : « Nếu chúng ta thất bại trong việc giải quyết vấn đề (tham nhũng), điều này có thể đe dọa sự tồn vong của Đảng, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của Đảng và sự sụp đổ của Nhà nước ».
Mặc dù trong bài diễn văn dài tới hai tiếng đồng hồ, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào không nhắc một câu chữ nào tới tên ông Bạc Hy Lai, nhưng rõ ràng, những lời cảnh báo nói trên hàm ý nói vụ cựu Bí thư thành ủy Trùng Khánh, bị cáo buộc lạm dụng quyền lực, tham nhũng và những tội khác, buộc đảng Cộng sản Trung Quốc phải khai trừ nhân vật này.
Vẫn theo ông Hồ Cẩm Đào, « Tất cả những ai vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật, bất kỳ họ là ai, có quyền lực như thế nào, ở vị trí xã hội nào, đều phải bị đưa ra xét xử và trừng phạt ». Đồng thời, Tổng bí thư mãn nhiệm kêu gọi : « Các lãnh đạo, đặc biệt là những lãnh đạo cấp cao, phải nghiêm khắc tự giác kỷ luật, chú ý đến việc giáo dục, giám sát gia đình và cấp dưới của mình. Các lãnh đạo không bao giờ được tìm kiếm các đặc quyền ».
Tuần trước, vào lúc đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị Đại hội lần thứ 18, báo Mỹ The New York Times đã đăng bài điều tra, cho biết gia đình Thủ tướng Ôn Gia Bảo, người vẫn hô hào mạnh mẽ chống tham nhũng, có tài sản trị giá tới 2,7 tỉ đô la, kể từ khi ông nhậm chức.
Chưa từng có
Cuối tháng 10 vừa qua, Quốc Hội Việt Nam thảo luận nghị quyết về
việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc Hội
và Ủy ban nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Theo đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, mục tiêu của việc bỏ
phiếu tín nhiệm là “nhằm bổ sung căn cứ để thực hiện công tác quy hoạch,
đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ một cách hiệu quả, đúng người, đúng
việc. Khuyến khích những người tín nhiệm thấp tự nguyện từ chức,
kịp thời đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý những người không hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ được giao mà không phải chờ đến hết nhiệm
kỳ”.
Đối tượng được đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc Hội bao gồm: Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội, các phó chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, chủ nhiệm các ủy ban của Quốc hội, các thành viên khác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Thủ tướng, các phó thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác của Chính phủ; Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước.
Bên cạnh Quốc Hội, Hội đồng nhân dân ở các địa phương cũng sẽ thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên thường trực hội đồng nhân dân, trưởng các ban của hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên của ủy ban nhân dân.
Đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội đang được thảo luận. Có người đề nghị đổi cái tên “bỏ phiếu tín nhiệm” bằng “bỏ phiếu bất tín nhiệm”. Có người chủ trương việc bỏ phiếu tín nhiệm/bất tín nhiệm nên tổ chức hằng năm; người khác lại đề nghị chỉ thực hiện hai lần trong mỗi nhiệm kỳ. Có người đề nghị chia phiếu thành bốn loại, gồm “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm trung bình”, “tín nhiệm thấp” và “chưa có ý kiến”; người khác lại đề nghị chỉ nên có hai loại phiếu: tín nhiệm hay không tín nhiệm.
Chưa biết cuối cùng, nội dung chính thức của nghị quyết sẽ như thế nào. Chỉ biết được hai điều. Một, dự kiến nghị quyết sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/2013. Hai, dù chưa biết nội dung cụ thể và cũng chưa biết chắc hiệu quả của các nghị quyết ấy, một số người trong giới lãnh đạo Việt Nam đã khoe khoang om sòm về “tính cách mạng” của nó. Đáng chú ý nhất là phát biểu của ông Phạm Quang Nghị, bí thư Thành ủy Hà Nội và là một trong 14 ủy viên Bộ chính trị:
Ông Phạm Quang Nghị mở đầu bằng cách cho việc đánh giá giới lãnh đạo
mà Việt Nam đang muốn làm là một mô hình “rất hiếm có trên thế giới”,
rồi ngay sau đó, nhấn mạnh thêm: “chưa từng có”.
Ở đây, nảy ra hai câu hỏi: Thứ nhất, có thực như vậy không? Và thứ hai, nếu thực, điều đó có thực sự cần thiết hay không?
Với câu hỏi thứ nhất, xin lưu ý là ở tất cả các quốc gia dân chủ, việc đánh giá chính phủ cũng như người đứng đầu chính phủ là điều người ta làm thường xuyên, ba hay bốn năm một lần, qua các cuộc bầu cử. Trong các cuộc bầu cử ấy, dân chúng sẽ đánh giá lại toàn bộ các thành tựu của người (hoặc đảng) lãnh đạo trong suốt nhiệm kỳ vừa qua và sẽ quyết định, bằng lá phiếu của mình, cho phép người ấy hoặc đảng ấy tiếp tục cầm quyền hoặc thay thế bằng người và đảng khác. Các cuộc bầu cử đều được tổ chức một cách công khai, công bằng, tự do và minh bạch; ở đó, mọi người đều có quyền phanh phui tất cả những dối trá hay ỡm ờ của nhau để cho công luận được biết và dân chúng được quyết định.
Hơn nữa, nên lưu ý, ở các nước dân chủ, không phải chỉ có dân chúng mới đánh giá giới lãnh đạo và chỉ đánh giá qua các cuộc bầu cử. Trong các trường hợp đặc biệt, Quốc Hội cũng có thể đứng ra đàn hặc (impeachment) tổng thống, phó tổng thống và tất cả các nhà lãnh đạo quan trọng khác, kể cả các chánh án thuộc tòa án tối cao. Ở Mỹ, từ năm 1789 đến nay, Quốc Hội đã tiến hành 64 vụ đàn hặc như vậy. Trong đó có ba cuộc đàn hặc nhắm trực tiếp vào tổng thống. Thứ nhất Tổng thống Andrew Johnson vào năm 1868 vì tội vi hiến trong việc phủ quyết đạo luật về Quyền Dân sự. Thứ hai là Tổng thống Richard Nixon vào năm 1974 vì vụ Watergate. Có điều, biết chắc chắn mình sẽ thua, Nixon tuyên bố từ chức trước khi vụ đàn hặc chính thức bắt đầu. Năm 1998, Tổng thống Bill Clinton trở thành vị tổng thống thứ ba bị mang ra đàn hặc trước Quốc Hội. May, cũng giống như Tổng thống Andrew Johnson hơn một trăm năm trước đó, số phiếu chống ông chưa tới 2/3 nên ông được thoát.
Như vậy, không thể nói trên thế giới chưa từng có hiện tượng Quốc Hội đánh giá và quyết định số phận của giới lãnh đạo.
Đó là chưa kể, ở Việt Nam, từ việc bầu cử Quốc Hội đến việc bỏ phiếu tín nhiệm/bất tín nhiệm như vậy chỉ là những màn kịch giả dối. Ừ, thì Việt Nam cũng bầu cử Quốc Hội. Tuy nhiên, ở đây lại có mấy điều. Một, muốn ứng cử thì phải được Mặt trận Tổ Quốc, tổ chức ngoại vi của đảng, giới thiệu. Hai, việc kiểm tra phiếu bầu không bao giờ được bảo đảm về tính minh bạch và công bằng cả. Ba, hầu hết đại biểu Quốc Hội là đảng viên. Là đảng viên thì phải theo chỉ thị của đảng. Thành ra, cho đến nay, Quốc Hội chả làm được gì ngoài một thứ công cụ cho đảng sai khiến. Sau này, khi nghị quyết về việc bỏ phiếu tín nhiệm được thực hành, liệu có đại biểu-đảng viên nào dám chống lại mệnh lệnh của đảng hay không?
Về câu hỏi thứ hai, liệu người ta có cần phải bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm các chức vụ như Bộ trưởng, Thứ trưởng, v.v. hay không? Xin lưu ý là: nếu một vị Bộ trưởng hay Thứ trưởng hay bất cứ một công chức cao cấp nào đó trong chính phủ phạm sai lầm hay bất lực thì tội không phải chỉ thuộc về họ mà còn thuộc cả người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ ấy nữa. Một trong những yêu cầu và là trách nhiệm lớn nhất của người lãnh đạo chính phủ là phải biết phát hiện ra nhân tài và biết bổ nhiệm đúng người vào đúng việc. Bởi vậy, thượng cấp phải chia sẻ trách nhiệm với thuộc cấp về những sai lầm mà họ phạm phải, nhất là những sai lầm do bất lực. Tháng 8 năm 2005, khi FEMA, Cơ quan chuyên trách việc đối phó với tình trạng khẩn cấp thuộc liên bang Mỹ, phản ứng chậm chạp trước cơn bão Katrina ở vùng New Orleans, Louisiana, người bị dư luận lên án không phải chỉ là Michael Brown, giám đốc cơ quan ấy mà còn cả Tổng thống George W. Bush, người bổ nhiệm Brown vào chức vụ ấy nữa.
Ở Việt Nam, trong mấy năm vừa qua, trước sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế nhà nước, người ta chỉ tập trung phê phán các giám đốc hay tổng giám đốc mà lại làm ngơ trước trách nhiệm của Bộ trưởng liên hệ và của chính Thủ tướng, người ký quyết định bổ nhiệm những người ấy. Ở đây, Thủ tướng mắc đến ba lỗi: Một, đưa ra một chính sách đầy tham vọng nhưng vượt ra ngoài khả năng của mình (thành lập các tập đoàn kinh tế); hai, chọn không đúng người nắm giữ các tập đoàn ấy; và ba, không kiểm soát để phát hiện ra sớm những hành vi sai trái của họ để đến khi các hành vi sai trái ấy gây nên những tác hại nghiêm trọng, ai cũng thấy, thì Thủ tướng mới ra tay. Đó là chúng ta chưa kể đến một lỗi khác có thể có: dính líu đến các việc chia ghế, từ đó, chia tiền.
Ngày xưa, Việt Nam tự hào “ra ngõ cũng gặp anh hùng”. Bây giờ khi ra ngõ là gặp toàn ăn cắp và ăn cướp, người ta lại tự hào về những điều mà người ta hoang tưởng là trên thế giới “chưa từng có”.
Chán.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Đối tượng được đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc Hội bao gồm: Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội, các phó chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, chủ nhiệm các ủy ban của Quốc hội, các thành viên khác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Thủ tướng, các phó thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác của Chính phủ; Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước.
Bên cạnh Quốc Hội, Hội đồng nhân dân ở các địa phương cũng sẽ thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên thường trực hội đồng nhân dân, trưởng các ban của hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên của ủy ban nhân dân.
Đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội đang được thảo luận. Có người đề nghị đổi cái tên “bỏ phiếu tín nhiệm” bằng “bỏ phiếu bất tín nhiệm”. Có người chủ trương việc bỏ phiếu tín nhiệm/bất tín nhiệm nên tổ chức hằng năm; người khác lại đề nghị chỉ thực hiện hai lần trong mỗi nhiệm kỳ. Có người đề nghị chia phiếu thành bốn loại, gồm “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm trung bình”, “tín nhiệm thấp” và “chưa có ý kiến”; người khác lại đề nghị chỉ nên có hai loại phiếu: tín nhiệm hay không tín nhiệm.
Chưa biết cuối cùng, nội dung chính thức của nghị quyết sẽ như thế nào. Chỉ biết được hai điều. Một, dự kiến nghị quyết sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/2013. Hai, dù chưa biết nội dung cụ thể và cũng chưa biết chắc hiệu quả của các nghị quyết ấy, một số người trong giới lãnh đạo Việt Nam đã khoe khoang om sòm về “tính cách mạng” của nó. Đáng chú ý nhất là phát biểu của ông Phạm Quang Nghị, bí thư Thành ủy Hà Nội và là một trong 14 ủy viên Bộ chính trị:
Mới mẻ
|
Ở đây, nảy ra hai câu hỏi: Thứ nhất, có thực như vậy không? Và thứ hai, nếu thực, điều đó có thực sự cần thiết hay không?
Với câu hỏi thứ nhất, xin lưu ý là ở tất cả các quốc gia dân chủ, việc đánh giá chính phủ cũng như người đứng đầu chính phủ là điều người ta làm thường xuyên, ba hay bốn năm một lần, qua các cuộc bầu cử. Trong các cuộc bầu cử ấy, dân chúng sẽ đánh giá lại toàn bộ các thành tựu của người (hoặc đảng) lãnh đạo trong suốt nhiệm kỳ vừa qua và sẽ quyết định, bằng lá phiếu của mình, cho phép người ấy hoặc đảng ấy tiếp tục cầm quyền hoặc thay thế bằng người và đảng khác. Các cuộc bầu cử đều được tổ chức một cách công khai, công bằng, tự do và minh bạch; ở đó, mọi người đều có quyền phanh phui tất cả những dối trá hay ỡm ờ của nhau để cho công luận được biết và dân chúng được quyết định.
Hơn nữa, nên lưu ý, ở các nước dân chủ, không phải chỉ có dân chúng mới đánh giá giới lãnh đạo và chỉ đánh giá qua các cuộc bầu cử. Trong các trường hợp đặc biệt, Quốc Hội cũng có thể đứng ra đàn hặc (impeachment) tổng thống, phó tổng thống và tất cả các nhà lãnh đạo quan trọng khác, kể cả các chánh án thuộc tòa án tối cao. Ở Mỹ, từ năm 1789 đến nay, Quốc Hội đã tiến hành 64 vụ đàn hặc như vậy. Trong đó có ba cuộc đàn hặc nhắm trực tiếp vào tổng thống. Thứ nhất Tổng thống Andrew Johnson vào năm 1868 vì tội vi hiến trong việc phủ quyết đạo luật về Quyền Dân sự. Thứ hai là Tổng thống Richard Nixon vào năm 1974 vì vụ Watergate. Có điều, biết chắc chắn mình sẽ thua, Nixon tuyên bố từ chức trước khi vụ đàn hặc chính thức bắt đầu. Năm 1998, Tổng thống Bill Clinton trở thành vị tổng thống thứ ba bị mang ra đàn hặc trước Quốc Hội. May, cũng giống như Tổng thống Andrew Johnson hơn một trăm năm trước đó, số phiếu chống ông chưa tới 2/3 nên ông được thoát.
Như vậy, không thể nói trên thế giới chưa từng có hiện tượng Quốc Hội đánh giá và quyết định số phận của giới lãnh đạo.
Đó là chưa kể, ở Việt Nam, từ việc bầu cử Quốc Hội đến việc bỏ phiếu tín nhiệm/bất tín nhiệm như vậy chỉ là những màn kịch giả dối. Ừ, thì Việt Nam cũng bầu cử Quốc Hội. Tuy nhiên, ở đây lại có mấy điều. Một, muốn ứng cử thì phải được Mặt trận Tổ Quốc, tổ chức ngoại vi của đảng, giới thiệu. Hai, việc kiểm tra phiếu bầu không bao giờ được bảo đảm về tính minh bạch và công bằng cả. Ba, hầu hết đại biểu Quốc Hội là đảng viên. Là đảng viên thì phải theo chỉ thị của đảng. Thành ra, cho đến nay, Quốc Hội chả làm được gì ngoài một thứ công cụ cho đảng sai khiến. Sau này, khi nghị quyết về việc bỏ phiếu tín nhiệm được thực hành, liệu có đại biểu-đảng viên nào dám chống lại mệnh lệnh của đảng hay không?
Về câu hỏi thứ hai, liệu người ta có cần phải bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm các chức vụ như Bộ trưởng, Thứ trưởng, v.v. hay không? Xin lưu ý là: nếu một vị Bộ trưởng hay Thứ trưởng hay bất cứ một công chức cao cấp nào đó trong chính phủ phạm sai lầm hay bất lực thì tội không phải chỉ thuộc về họ mà còn thuộc cả người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ ấy nữa. Một trong những yêu cầu và là trách nhiệm lớn nhất của người lãnh đạo chính phủ là phải biết phát hiện ra nhân tài và biết bổ nhiệm đúng người vào đúng việc. Bởi vậy, thượng cấp phải chia sẻ trách nhiệm với thuộc cấp về những sai lầm mà họ phạm phải, nhất là những sai lầm do bất lực. Tháng 8 năm 2005, khi FEMA, Cơ quan chuyên trách việc đối phó với tình trạng khẩn cấp thuộc liên bang Mỹ, phản ứng chậm chạp trước cơn bão Katrina ở vùng New Orleans, Louisiana, người bị dư luận lên án không phải chỉ là Michael Brown, giám đốc cơ quan ấy mà còn cả Tổng thống George W. Bush, người bổ nhiệm Brown vào chức vụ ấy nữa.
Ở Việt Nam, trong mấy năm vừa qua, trước sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế nhà nước, người ta chỉ tập trung phê phán các giám đốc hay tổng giám đốc mà lại làm ngơ trước trách nhiệm của Bộ trưởng liên hệ và của chính Thủ tướng, người ký quyết định bổ nhiệm những người ấy. Ở đây, Thủ tướng mắc đến ba lỗi: Một, đưa ra một chính sách đầy tham vọng nhưng vượt ra ngoài khả năng của mình (thành lập các tập đoàn kinh tế); hai, chọn không đúng người nắm giữ các tập đoàn ấy; và ba, không kiểm soát để phát hiện ra sớm những hành vi sai trái của họ để đến khi các hành vi sai trái ấy gây nên những tác hại nghiêm trọng, ai cũng thấy, thì Thủ tướng mới ra tay. Đó là chúng ta chưa kể đến một lỗi khác có thể có: dính líu đến các việc chia ghế, từ đó, chia tiền.
Ngày xưa, Việt Nam tự hào “ra ngõ cũng gặp anh hùng”. Bây giờ khi ra ngõ là gặp toàn ăn cắp và ăn cướp, người ta lại tự hào về những điều mà người ta hoang tưởng là trên thế giới “chưa từng có”.
Chán.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nhiều ngân hàng lãi vì ‘né’ dự phòng rủi ro
Theo Ngân hàng Nhà nước, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần báo
cáo lãi nhưng sau khi thanh tra lại phát hiện ra lỗ bởi họ né trích lập
dự phòng rủi ro theo quy định.
Trong bản báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn mới gửi tới các đại biểu, Ngân hàng Nhà nước cho biết, năm 2012, đã quyết liệt thanh tra toàn diện 32 tổ chức tín dụng. “Hầu hết các tổ chức tín dụng đều giảm kết quả kinh doanh sau thanh tra do phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định. Nhiều ngân hàng thương mại cổ phần báo cáo có lãi nhưng qua thanh tra làm rõ thực tế là lỗ, giảm vốn điều lệ, thậm chí không còn vốn điều lệ”, Thống đốc Nguyễn Văn Bình nêu trong báo cáo.
Trả lời các đại biểu tại phiên họp Quốc hội tuần trước, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng khẳng định sẽ quyết liệt yêu cầu các nhà băng trích lập dự phòng đầy đủ. Thống đốc nhấn mạnh: “Kiên quyết đến cuối năm, ngân hàng nào không trích lập dự phòng rủi ro đủ, thì không được chia cổ tức. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước sẽ có biện pháp thanh tra cần thiết để đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng trước tiên phải phục vụ cho xử lý vấn đề nợ xấu”.
Về kết quả xử lý nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến nay các nhà băng đã tự xử lý được gần 8.000 tỷ đồng nợ xấu. Nguồn để xử lý “cục máu đông” được lấy từ khoản dự phòng rủi ro tự có của các ngân hàng. Tính đến cuối tháng 8, số dự phòng rủi ro đã được các tổ chức tín dụng trích lập chưa sử dụng là 79.907 tỷ đồng, tăng hơn 14.000 tỷ đồng so với cuối năm 2011.
Ngân hàng Nhà nước đã thống nhất con số sát thực tế là 8,6% như công bố của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia lo ngại con số này đã tăng lên đáng kể từ khi cơ quan của Ngân hàng Nhà nước đưa ra đánh giá từ tháng 3/2012. Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia ngân hàng cho rằng: “Từ đó đến nay, kinh tế chưa có dấu hiệu cải thiện, doanh nghiệp khó có cơ hội phục hồi nên theo ý kiến tôi, tỷ lệ nợ xấu hiện phải lên tới 15%. Nếu lấy tổng dư nợ 2,5 triệu tỷ đồng nhân với 15% thì nợ xấu hiện đâu đó khoảng 375.000 tỷ đồng”.
2 nguồn xử lý nợ xấu theo vị chuyên gia này là từ dự phòng rủi ro và tài sản đảm bảo. “Tuy nhiên, với mức dự phòng hơn 70.000 tỷ đồng mà các tổ chức tín dụng trích lập được đem so với số nợ xấu 375.000 tỷ đồng thì số trích lập dự phòng rủi ro quá ít. Chúng ta cần ít nhất 2,5 lần số trích lập dự phòng trên để bù đắp nợ xấu”, ông Hiếu phân tích.
Ngân hàng Nhà nước cho rằng nợ xấu đang có xu hướng giảm tốc. Theo ông Nguyễn Văn Bình, trong bối cảnh môi trường kinh doanh khó khăn, nhưng nợ xấu vẫn có chiều hướng tăng chậm lại từ quý II/2012. Tốc độ nợ xấu tăng trong tháng 1 là 7,29% tháng 2 là 8,42%; tháng 3 là 9,35%; tháng 4 là 8,28%; tháng 5 là 6,59% và theo con số cập nhật mới nhất đến tháng 6 là 1,2%.
Thống đốc cho hay, trong thời gian tới, các ngân hàng sẽ tiếp tục phối hợp tích cực với khách vay cơ cấu lại nợ, xử lý tài sản bảo đảm, trích lập và sử dụng dự phòng rui ro để xử lý nợ xấu.
Về tiến trình xử lý các ngân hàng yếu kém, Ngân hàng Nhà nước cho biết trong giai đoạn 2011 – 2011 đã tập trung đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Sau khi xác định được 9 ngân hàng cổ phần yếu kém, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cơ cấu lại được 5 trường hợp (3 ngân hàng hợp nhất đầu tiên: SCB, Tín Nghĩa và Đệ Nhất; trường hợp tự cơ cấu của TienPhong Bank và thương vụ sáp nhập Habubank và SHB).
“Đối với các ngân hàng yếu kém còn lại, Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các ngân hàng này khẩn trương xây dựng và hoàn thiện phương án cơ cấu”, Thống đốc nêu trong văn bản báo cáo. Ngoài ra, ông cũng khuyến nghị, khi xử lý ngân hàng yếu kém cần phải làm khẩn trương để hạn chế tổn thất từ kinh doanh thua lỗ, từ tình trạng mất thanh khoản diễn ra từng ngày.
Thanh Thanh Lan
Theo Vnexpress
http://www.vinacorp.vn/news/thong-doc-nhnn-cong-bo-dich-danh-ngan-hang-khong-con-von-dieu-le/ct-536173
Kẻ chăn dân không hiểu hết lòng dân
Nước lại mất lại tìm đường cứu nước
Đầu lại rơi, máu lại đổ tràn”
Tạ Khắc Cư
Theo dõi cuộc gặp gỡ giữa ông Gs Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường với bà con Văn Giang chiều nay 8/11/2012, người ta thấy có nhiều bài học cần được rút ra.
Cuộc chiến giữ đất của người dân Văn Giang kéo dài đến 8 năm, ở đó đã có đầy đủ đoạn trường gian nan vất vả, có đạn dược và quân lính, có súng nổ và bạo lực rồi máu đổ. Ở đó cũng có tấm lòng người dân ba xã Xuân Quan, Cửu Cao, Phụng Công thuộc huyện Văn Giang muôn đời vẫn là người nông dân muốn giữ lại mảnh đất cha ông của mình đã bao đời kiến tạo và giữ gìn.
Buổi gặp gỡ chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ, đã giải tỏa được khá nhiều vấn đề người dân ba xã nói chung và nhân dân cả nước nói chung mong đợi. Kết luận cuối cùng là Giáo sư Đặng Hùng Võ xin lỗi người nông dân Văn Giang. Và bà con nông dân Văn Giang vỗ tay.
<<<===Nông đân mất đất khiếu kiện tại Hà Nội
Như vậy, lòng vòng qua lại cả mấy năm, mọi chuyện trắng đen, sai đúng được giải tỏa chỉ trong có 3 tiếng đồng hồ. Vậy lý do gì mà cuộc gặp này không được tiến hành sớm hơn để cho những uẩn khuất, những thắc mắc được giải tỏa, để người dân Văn Giang không phải cứ hàng tuần, hàng ngày lo lắng đạp xe sang Hà Nội cả mấy chục cây số đi biểu tình? Để góp phần cho đường phố Hà Nội hàng đoàn, hàng đoàn người dân oan ngày càng đông đúc đến kêu cứu hết mọi cơ quan “của dân, do dân, vì dân” và nhận được những sự im lặng đáng sợ sau những cánh cổng im ỉm đóng. Để những người dân, người chủ đất nước này nhận được sự gườm ghè, bắt bớ của lực lượng an ninh, cảnh sát, dân phòng. Để đến giờ này trên mạng vẫn loang rộng tin tức là đêm qua bà con dân oan đã bị xúc sang Lộc Hà mấy chục người, kẻ bị thương, kẻ ốm đang kêu cứu bên đó. Để đến mức nơi vui chơi của người dân là các công viên bị giăng dây, đặt biển cấm người dân sinh hoạt mà chỉ để dành cho chó tập tành? Và nói như Nguyễn Thế Thảo, ủy viên trung ương Đảng CS, Chủ tịch Hà Nội là “biểu tình làm xấu hình ảnh Thủ đô”, lại còn “ảnh hưởng đến ngoại giao”?
Theo như quan chức Hà Nội cũng như các quan chức nói chung thì mọi chuyện phức tạp đều do dân, do các thế lực thù địch nhan nhản trong dân mà ra. Còn quan chức nhà nước này thì mọi chuyện đều tuyệt vời, chỉ có “một bộ phận không nhỏ” bị hư hỏng, biến chất và trở thành “bầy sâu” đục khoét, tham nhũng, cướp bóc của dân mà thôi(!) Thực ra cũng đúng, nếu như dân cứ im lặng, nhà nước muốn lấy bao nhiêu đất, dù là đất hương hỏa ngàn đời, mồ mả cha ông, dù là mảnh ruộng cày cuối cùng nuôi đàn con dại, dù là nơi an nghỉ cuối cùng của người chết hay đất nhà thờ, tu viện, nơi thờ tự… dân cứ thế câm miệng mà chấp nhận. Nếu nhà nước hô hào góp vàng, góp bạc, góp cửa nhà hay mạng sống, cứ thế mà góp, đừng một lời kêu ca, đói ráng chịu, khổ đừng kêu… thì đâu có những chuyện biểu tình, làm “xấu hình ảnh thủ đô”.
Tiếc rằng, bọn dân này cũng là con người, cũng cần sống, cần ăn, cần ở, cũng cần nuôi con cái. Cũng chính vì bọn dân này là con người, nên mới có thể làm lụng, chắt chiu, chịu thương chịu khó đổ mồi hôi sôi nước mắt làm nên của cải vật chất nuôi một bầy sâu “không nhỏ”. Chính vì vậy mà họ có nhận thức, họ biết phân biệt đúng, sai, ân, oán và họ hiểu được ai vì họ và ai đang nô lệ hóa cuộc đời họ. Và chính cũng vì vậy, từ chỗ được coi là liên minh của giai cấp tiên tiến, là cha mẹ của quan chức, nuôi nấng quan chức, người nông dân bỗng nhiên được chuyển đổi thành thế lực thù địch rất nhanh chóng và bị đối xử như thù địch.
“Khi cuộc sống cần thì không thể chờ luật” – Gs Đặng Hùng Võ==>>
Trong buổi gặp gỡ chiều nay, ông Đặng Hùng Võ đã có một câu nói rất hay: “Khi cuộc sống cần thì không thể chờ luật”. Nếu như câu nói này, được nói để ông Nguyễn Thế Thảo biết khi nói về những cuộc biểu tình của những người yêu nước chống Trung Quốc hoặc dân oan mất đất thì ý nghĩa biết chừng nào? Chắc chắn là sẽ hơn dùng để biện minh cho cái sai của nhà nước.
Chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ, mọi chuyện đã rõ, quan chức sai, nhà nước sai và dân đúng.
Hèn chi, Bộ Tài Nguyên – Môi trường đã không đồng ý cho ông Võ gặp dân sớm hơn, vì mọi việc đã có “Bộ” lo. Bộ lo ngày lo đêm nên dân dãi dầm mưa nắng tháng này qua năm khác. Bộ lo nên máu người dân đã đổ, công an, chiến sĩ, nhà báo đã đánh nhau chí tử, bạt mạng như một trận chiến còn khốc liệt hơn đánh Trung Quốc năm 1979. Sở dĩ khốc liệt hơn, vì ở đây là người Việt đánh người Việt. Người ta ước mơ rằng, trong đoạn video đánh người dân tại Văn Giang đó, thay người nông dân bằng một tên lính Tàu đang cướp chiếm Hoàng Sa thì người dân Việt Nam đỡ tủi hổ biết bao?
Thực ra, ông Gs Đặng Hùng Võ nhận sai và xin lỗi nhân dân Văn Giang ở đây là chưa đúng, ông Võ giờ đây cũng chỉ là một công dân như bà con Văn Giang không hơn. Cái sai mà ông Võ nhận ở đây, là cái sai của Bộ Tài Nguyên môi trường mà ông Võ giữ chức Thứ trưởng chứ không phải là cái sai của cá nhân công dân Đặng Hùng Võ với bà con nông dân Văn Giang. Còn cái sai cuối cùng để đẩy người dân Văn Giang đến tình cảnh hôm nay, là chính Thủ tướng bằng những quyết định sai trái của mình. Vì thế, người xin lỗi nhân dân Văn Giang, phải là Bộ Tài nguyên – Môi trường và Thủ tướng chứ không phải cá nhân ông Đặng Hùng Võ.
Qua buổi gặp gỡ, mới biết được rằng, cái cố hữu, cái kiêu ngạo và bệnh điếc của người Cộng sản là quá nặng. Dù với tư cách một công dân bình thường, trước đó chỉ có một ngày, ông Đặng Hùng Võ, người được coi là một chuyên gia đầu ngành về đất đai vẫn còn phát biểu lại rằng: “Thanh thiên bạch nhật mà nói thì thủ tục thu hồi đất của dự án này, tôi nhắc lại, không có gì sai pháp luật” và “Tôi tự tin mình không sai ở Văn Giang”.Thậm chí ông còn muốn biến cuộc gặp gỡ này thành một buổi để giải thích pháp luật cho bà con hiểu. Nhưng chỉ một ngày sau, sau 3 giờ tiếp xúc với dân, ông đã phải nhận lỗi. Vậy thì ở đây, người được giải thích pháp luật cho hiểu là chính ông Giáo sư đầu ngành này chứ không phải là mấy ông bà nông dân chân lấm tay bùn kia. Thế mới hiểu, nguồn gốc nhiều vấn đề hiện nay, là ở chỗ cái nhà nước “của dân, do dân, vì dân” nhưng đã coi thường, xa lánh và không chấp nhận hiểu dân đã đến độ nào. Dù cho hôm qua, ông Võ đã xác nhận rằng “không có vấn đề “chạy” dự án Ecopark”, nhưng điều đó đúng hay không chắc chưa ai kiểm chứng được, bởi cũng chính ông Võ tháng trước đã nói rằng “không có tiền bôi trơn không chạy được đất đâu”. Vậy chẳng lẽ duy nhất dự án này nằm ngoài “thông lệ” đó?
Buổi gặp gỡ chiều nay, ông Đặng Hùng Võ đã nhận lỗi với bà con nông dân, nhưng như trên đã nói việc nhận lỗi này chỉ có một ý nghĩa duy nhất là khẳng định Bộ Tài nguyên – Môi trường và Thủ tướng chính phủ đã quyết định sai đối với người dân Văn Giang. Vấn đề tiếp theo là nhận lỗi rồi thì sao, sửa lỗi ra sao? Nếu như người ta cứ gây lỗi lầm, rồi nhận lỗi là xong, thì chắc rằng ai cũng muốn phạm lỗi. Vì phạm lỗi là thỏa mãn được những thứ cá nhân mình muốn, mình cần mà bất chấp luật pháp. Chính vì vậy phải sòng phẳng mà nói: Nhận lỗi phải có mục đích bắt đầu cho việc thực hiện sửa lỗi, đền bù thiệt hại từ những lỗi lầm của mình gây ra. Còn theo kiểu nhận lỗi suông là xong, để rồi lại tiếp tục lỗi mới, thì việc nhận lỗi đó càng thể hiện sự trơ tráo, đồi bại và bất lương.
Lời nhận lỗi của ông Đặng Hùng Võ chiều nay, nói ra nhẹ nhàng đơn giản. Nhưng hậu quả của lỗi đó, là người nông dân cay đắng đã 8 năm nay trên quê hương, đất đai của mình, cha ông họ bị đào xới, đất đai, ruộng vườn của họ bị chiếm đoạt. Đó là sự chia ly gia đình, mất đi nghĩa tình làng xóm, đặc biệt là làm rạn vỡ truyền thống yêu thương, đùm bọc nhau vốn có tự ngàn đời nay trong nông thôn Việt Nam.
Thế nhưng, sau lời nhận lỗi của ông, bà con nông dân Văn Giang đã vỗ tay nhiệt liệt. Tại sao vậy?
Có phải họ nghĩ rằng cuộc đấu tranh của họ tám năm nay, chỉ là để nhận được lời xin lỗi của một quan chức hồi hưu, mà thân phận giờ đây cũng chỉ bằng họ là xong, là thỏa mãn? Có lẽ không phải thế.
Trước hết, phải hiểu rằng tấm lòng người dân vẫn bao dung, vẫn luôn rộng mở cho những ai biết “chạy lại” mà không nỡ đánh thêm. Dù họ đã gây cho người dân bao đau khổ khi còn quyền chức trong tay. Thế nhưng khi đã biết hướng thiện, nhìn nhận trách nhiệm của mình, thì họ sẵn sàng cảm thông và đón nhận. Đức tính đáng quý này may vẫn còn ở người nông dân Việt Nam, là nét văn hóa của người Việt dù mai một vẫn chưa mất hẳn.
Những tràng vỗ tay chiều nay khi ông Võ nhận lỗi, là một minh chứng cho thấy rằng việc họ gian nan đấu tranh bao tháng năm qua của người dân Văn Giang là cuộc đấu chính nghĩa, sự thật và lẽ phải thuộc về họ. Vì thế họ vui, họ phấn khởi khi lời nhận lỗi là một bằng chứng sống động.
Và như thế, họ sẽ còn đấu tranh, còn tiếp tục khẳng định những giá trị của mình và họ tin rằng cuối cùng thì công lý sẽ phải đứng về phía họ.
Vấn đề là với những con người, cơ quan, nhà nước đã gây lỗi với họ sẽ làm gì trong thời gian tới.
Hãy chờ xem.
Hà Nội, ngày 8/11/2012
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Đọc thêm: Khi người cộng sản nhận lỗi
ĐH ĐCS TQ XVII chỉ có búa liềm. Ảnh: internet
HM Blog. Số La mã XVIII là 18, một số độc, 1+8 = 9. Trong chữ Nho, cửu (9) là tột đỉnh. Khi đã là tột đỉnh thì anh bắt đầu trượt dốc.
Người ta luôn đặt câu hỏi, đại hội ĐCS Trung Quốc lần thứ 18 này có phải là lần cuối hay không?
Theo dõi các đại hội Đảng của Trung Quốc người ta từng thấy ảnh Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông, rồi Carl Marx treo trên hội trường. Nhưng mấy đại hội gần đây chỉ còn búa liềm và cờ đỏ. Họ còn nói Lê Nin, Mao Trạch Đông sẽ không được nhắc đến trong ĐH Đảng thứ 18.
Trong lúc đại hội ĐCS Việt Nam thì hầu như hai ảnh Carl Marx và Lê Nin luôn là chủ đạo trên hội trường.
Chỉ cần nhìn những chi tiết đó cũng biết mầu sắc đảng CS của mỗi nước cũng rất khác nhau dù họ vẫn dùng mầu đỏ là chủ đạo, tặng nhau 16 chữ vàng, 4 tốt.
Lang thang trên mạng, thấy bài trên viet-studies do anh Phạm Gia Minh, một đồng nghiệp cũ ở IOIT, dịch từ tiếng Anh. Nghe nói bài này sẽ in ở Tạp chí Thời đại mới tháng 11 này. Bài vẫn đang tiếp tục biên tập.
Trong bối cảnh ĐHĐCS TQ đang tiến hành tại Bắc Kinh, bài viết như thế này rất có ý nghĩa thời sự.
Tác giả là ông Cheng Li (Lý Thành), Giám đốc trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Viện Brookings. Washington DC.
Hiệu Minh blog chỉ đăng phần tóm tắt và vài suy nghĩ cuối để bạn đọc nắm được ý chính.
Cảm ơn Ts. Phạm Gia Minh và viet-studies.
Tóm tắt những ý chính
Bài tiểu luận này thách thức quan điểm đang thịnh hành về cái đuợc xem là “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai”của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Quan điểm này khẳng định rằng hệ thống chính trị độc đảng của Trung Quốc có khả năng củng cố năng lực đất nước nhằm quản trị có hiệu quả xã hội thông qua những thích ứng về định chế và điều chỉnh chính sách.
Những phân tích cuộc khủng hoảng gần đây vẫn còn tiếp tục được tiết lộ ra về Bạc Hy Lai cho thấy các vết nhơ trong hệ thống chính trị Trung Quốc, đó là tình trạng dung túng người thân và phe cánh cùng những mối liên kết kiểu bảo trợ – đỡ đầu trong quá trình lựa chọn các nhà lãnh đạo; tham nhũng tràn lan, sự lũng đoạn quyền lực chính trị bởi một nhóm quan chức cấp cao ở các công ty thuộc sở hữu nhà nước ngày càng gia tăng, sự coi thường pháp luật của giới chóp bu và thất bại tiềm tàng trong các thỏa thuận mặc cả giữa các phe phái cạnh tranh lẫn nhau trong hàng ngũ lãnh đạo đảng.
Bài tiểu luận cho thấy rằng “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai “của đảng cộng sản Trung Quốc thực ra chỉ là một hệ thống trì trệ xét cả trên lý luận và thực tiễn bởi lẽ, hệ thống này chống đối lại những thay đổi mang tính dân chủ rất cần thiết ở quốc gia này.
Luận điểm về chế độ độc đoán chuyên quyền có tính bền bỉ và dẻo dai có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng Trung Quốc là một thể thống nhất vững chắc đang đặt ra những vấn đề liên quan tới sự thất bại của nó trong việc đánh giá các xu hướng thay đổi dường như có tính nghịch lý ở quốc gia này.
Trong tiểu luận, những nghịch lý đó được khắc họa bởi ba quá trình phát triển đồng thời, cụ thể là:
(1) Lãnh đạo yếu nhưng phe phái mạnh;
(2) Chính phủ yếu nhưng nhóm lợi ích mạnh và;
(3) Đảng yếu nhưng đất nước mạnh.
Không nên nhầm lẫn giữa tính bền bỉ và dẻo dai của đất nước Trung Quốc (nếu căn cứ vào vị thế của giới trung lưu đang hình thành, sự khôn ngoan, sắc bén của các nhóm lợi ích mới và tính năng động của toàn xã hội) với năng lực và tính chính danh của đảng cộng sản Trung Quốc để điều hành đất nước.
Bài tiểu luận này đưa ra kết luận cho rằng nếu như đảng cộng sản vẫn muốn lấy lại lòng tin của quần chúng và tránh một cuộc cách mạng hướng từ dưới lên thì đảng này phải tránh quan điểm về một “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai”, đồng thời đi theo đường lối chuyển đổi dân chủ một cách có hệ thống với những bước đi dũng cảm về phía bầu cử dân chủ trong nội bộ đảng, thiết lập sự độc lập của tòa án và dần dần mở cửa cho truyền thông chủ đạo.
…. xem toàn bộ bài viết ở đây ĐCS TQ đi đến hồi kết
Những suy nghĩ cuối
Quan sát trên một bối cảnh rộng hơn, mặc dù ba lần thay đổi quyền lực là nguyên nhân cho những căng thẳng trong quản trị đất nước và làm nảy sinh tâm lý bất an, nhưng chính đó lại đáng được coi là những phát triển tích cực, đáng khích lệ đối với Trung Quốc.
Giám sát và đối trọng giữa các phe phái trong lãnh đạo của ĐCSTQ, các nhóm lợi ích năng động – đặc biệt là vai trò ngày càng tăng của giới trung lưu và nhận thức được chia sẻ rộng rãi về một thế lực toàn cầu đang lên cùng sự tự tin của công chúng là những gì mới mẻ đã ra đời gần đây.
Và tất cả những điều đó sẽ là những nhân tố quan trọng cho một sự chuyển tiếp tất yếu tới dân chủ.
Trong tương lai gần, tiêu điểm của các nhà phân tích về Trung Quốc không nên chỉ là việc liệu lãnh đạo ĐCSTQ có sử dụng đúng các thủ tục pháp lý để xử lý vụ Bạc Hy Lai, mà còn phải xem liệu họ có thể tận dụng cơ hội đó để đạt được sự đồng thuận mới và theo đuổi cải cách chính trị.
Một điều mà có lẽ hôm nay ai cũng thấy rõ hơn bất cứ lúc nào trong suốt cả thời kỳ cải cách (ý nói cải cách kinh tế- ND) đó là chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai của ĐCSTQ, xét cả về mặt lý luận và thực tiễn chỉ là một hệ thống trì trệ bởi lẽ hệ thống này chống đối lại các chuyển biến dân chủ.
Nếu ĐCS mong muốn lấy lại lòng tin của quần chúng và tránh một cuộc cách mạng hướng từ dưới lên thì đảng phải tiến hành những thay đổi dân chủ thực sự, có hệ thống, ở trong nước.
Những biến đổi sâu sắc sau đây cần phải được thực hiện.
Thứ nhất, cùng với việc xử lý vụ Bạc Hy Lai qua cơ chế pháp lý hiện hành thì việc kêu gọi cải cách luật pháp – kể cả cải cách thực tiễn công tác xét xử của tòa án, thực thi nguyên tắc nhà nước pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến là điều đã trở nên vô cùng quan trọng.
Điều này có thể là một cơ hội tuyệt vời cho các nhà lãnh đạo có tư tưởng cách tân, và ở một mức độ nhất định cho tất cả các lãnh đạo, để họ nhận thức được rằng, cải cách luật pháp là con đường tốt nhất để họ tự bảo vệ trong một đất nước còn thiếu vắng nguyên lý pháp quyền.
Có thể Trung Quốc sẽ phải mất nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ để thiết lập một hệ thống hiến pháp đầy đủ, tuy nhiên, sẽ sớm cần một tuyên bố chính thức mang tính tư tưởng, chính trị và pháp lý rằng, đảng phải ở dưới hiến pháp, chứ không phải là ngự trị bên trên hiến pháp.
Thứ hai, quản lý và điều hành truyền thông cũng là một việc cần cải cách gấp. Trung Quốc hiện đang bước vào “mùa của các lời đồn”và truyền thông xã hội đã trở nên quyền lực đến nỗi chính quyền Trung Quốc phải thường xuyên dừng những dịch vụ micro-bloging. Đó không phải là phương cách hiệu quả để điều hành đất nước (đặc biệt khi Trung Quốc dự định xây dựng một nền kinh tế định hướng sáng tạo). Lý do vì sao người dân tìm đến với truyền thông xã hội là bởi vì truyền thông chủ đạo không phản ánh nhiều sự thật cuộc sống.
Do đó, con đường để ngăn chặn chủ nghĩa giật gân sinh ra bởi truyền thông xã hội là hãy cởi mở, khai phóng truyền thông chủ đạo. Điều đó không chỉ có lợi cho giới trí thức tự do, dân chủ mà còn lợi cho chính các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Càng đè nén, bưng bít những tin giật gân thì chúng càng trở nên mạnh mẽ và lan tỏa.
Sau mười năm thương mại hóa, ngành truyền thông Trung Quốc đã góp phần tạo nên những nhà báo Trung Quốc biết đi theo con đường của tự do báo chí. Những biến chuyển cách mạng đang diễn ra trước mắt trong lĩnh vực truyền thông xã hội và viễn thông sẽ biến tự do truyền thông trở thành một sự cần thiết chứ không phải là một sự lựa chọn.
Thứ ba, sẽ là ngây thơ về chính trị và thiểu năng về trí tuệ nếu tin rằng sự sụp đổ của họ Bạc chỉ kéo theo những diễn biến tích cực và không có gì sai lầm xảy ra ở Trung Quốc nữa.
Tuy vậy cũng đáng nhớ lại rằng vụ ám sát một nhà văn Đài Loan bởi các điệp viên của Quốc Dân đảng Đài Loan đã giúp khởi động quá trình chuyển tiếp từ chế độ chuyên chế sang dân chủ vào giữa những năm 1990.
Cũng tương tự như vậy, ĐCSTQ hiện nay cần phải hoặc tiến hành những thay đổi để tiến bước cùng lịch sử, hoặc là sẽ bị lịch sử bỏ lại sau lưng. Trong một viễn cảnh rộng lớn hơn, các lãnh đạo yếu, chính phủ yếu và đảng yếu cũng không phải là xu hướng chỉ ở Trung Quốc mới có; đó cũng chính là những thách thức chung trong thế giới hôm nay.
Xin chào mừng đất nước Trung Quốc bước vào thế kỷ XXI!
Tác giả: Lý Thành (Cheng Ly)
Xem toàn bài ĐCS TQ đi đến hồi kết?
Phát biểu tại nghị trường sáng nay 9.11, đại biểu Quốc hội Lê
Bá Thuyền đề xuất: Luật Phòng chống tham nhũng phải quy định không được
đặc xá, không giảm án, không cho hưởng án treo đối với tội phạm tham
nhũng.
ĐBQH Lê Bá Thuyền cũng đề nghị cần bổ sung cố ý làm trái cũng là hành vi tham nhũng. Nêu ra 3 trường hợp điển hình về việc “hành vi tham nhũng đang được chuyển sang tội cố ý làm trái”. Ông Thuyền khẳng định: “Chúng ta đang bỏ lọt hành vi này”, và bởi “Tham nhũng về chính sách, về chế độ mới là lớn. Chứ không phải chỉ mấy đồng chí công an nhận tiền ngoài đường”.
Luật Phòng chống tham nhũng sẽ được thảo luận trong ngày hôm nay và được phát thanh truyền hình trực tiếp để cử tri và nhân dân theo dõi.
http://laodong.com.vn/Chinh-tri/Phai-coi-tham-nhung-nhu-toi-phan-quoc/90987.bld
Hà Nội:
Huyện Hoài Đức thừa nhận sai sót, xã Cát Quế vẫn cưỡng chế đất
Nội dung đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Oanh nêu: Ngày 30/4/1969, chồng bà là ông Lê Văn Phát mua lại một phần ao rộng 65m2 của bà Lê Thị Lễ. Việc mua bán giữa ông Phát và bà Lễ có xác nhận của Chủ nhiệm HTX Xuân Thắng khi đó xác nhận và đề nghị UBNX xã Vinh Quang khi đó cho phép.
Được đăng bởi XUANVN
Được đăng bởi XUANVN
“ Bùi Hằng vừa nhận được điện thoại từ những số maý sau đây: 01693768054 – 0163947030-01992295804. Bà con thông báo họ là dân oan các tỉnh trong những ngày qua kéo ra Hà Nội khiếu kiện. Những người này không có tiền ngủ nhà trọ nên trong đêm qua . Lợi dụng đêm tối chính quyền đã càn quét và bắt cóc tất cả 29 người đưa về Đông Anh- Hà Nội giam giữ. Nhiều người bị đánh đập tàn nhẫn. Họ gọi điện tứ tung cầu cứu …”
Vào lúc 21h30, tôi gọi điện cho chị Vũ Thị Thuận 50 tuổi ở Ninh Bình theo số máy 01693768054 để hỏi thăm tình hình bà con. Chị cho biết, lúc 20h20, xe ở Quảng Ninh đã lên chở bà Nguyễn Thị Yến về địa phương, hiện còn 28 người. Số người bị bắt tối qua họ đưa về trại Đồng Dầu, Dục Tú, Đông Anh.
Chị Thuận cho biết thêm, đợt này, các chị đã ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng trong các ngày 4, 5, 6/11. Có cả bà con các tỉnh phía Nam như Trà Vinh.
23 giờ 11 phút đêm qua, 7/11, họ mang xe đến hốt bà con đi. Khi bị bắt lên xe, chị và những ai đã quen rồi thì tự nguyện lên xe, còn bà con ở miền Nam mới ra lần đầu thì chưa biết nên họ cưỡng bức. Bản thân chị đã bị bắt 6 lần.
Chị nói, thoạt đầu các chị ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, nhưng họ đuổi sang vườn hoa Lý Tự Trọng. Bà con hàng ngày ra đường giương các biểu ngữ kêu cứu Quốc hội trên đường các đoàn đại biểu Quốc hội đi qua để cho các đại biểu Quốc hội nhìn thấy nhưng sau họ đi tránh đi bằng đường khác.
Tôi có hỏi thêm về thông tin của bà Phạm Thị My 76 tuổi ở Kiên Giang, chị cho biết do quá bức xúc nên bà định đập đầu vào tường nhưng được mọi người can ngăn kịp thời. Bà Lê Thị Yến cũng ở Trà Vinh, hiện sức khỏe rất yếu, mọi người nấu cháo cho bà ăn vì nếu cần ăn cháo thì phải báo từ hôm trước hoặc buổi trước. Bà con có xin dầu gió hoặc viên thuốc cảm nhưng họ bảo không có.
Mặt khác, bà con bảo nhau cảnh giác, không nhận bất cứ sự chăm sóc y tế nào của trại.
Hiện nay bà con không rõ bị giam ở đấy bao lâu. Có lẽ họ đợi quốc hội họp xong thì thả ra chăng? Nguyện vọng của bà con là được ra sớm để kêu oan lên Quốc hội. Chị Thuận cho biết thế và nói, chứ hàng ngày đến các cơ quan thì họ đuổi không tiếp nên chỉ còn cách chờ Quốc hội họp mới kêu được nhưng bây giờ lại lâm vào tình cảnh như thế này.
22h30 ngày 8/11
Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa khai mạc hôm
thứ Năm 8/11 tại Bắc Kinh với báo cáo chính trị của Chủ tịch,
Tổng Bí thư Đảng Hồ Cẩm Đào.
Bản báo cáo chính trị đồ sộ này đang là tâm điềm phân tích và bình luận của các nhà quan sát.
Chuyên gia Tiền Cương từ Đại học Hong Kong cho biết một vài nhận định của ông.
Ông Tiền Cương chủ trương phân tích ý tứ của văn bản thông qua 10 cụm từ khóa. Đó là
1. Bốn nguyên tắc, trong đó có tư tưởng Mao Trạch Đông
2. Giữ ổn định
3. Cải cách chính trị
4. Cách mạng văn hóa
5. Quyền lực nhân dân
6. Quyền đưa ra quyết sách, quyền chấp hành và quyền giám sát
7. Dân chủ trong Đảng
8. Xây dựng xã hội
9. Tư duy khoa học trong phát triển
10. Chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc
Từ việc tìm kiếm các cụm từ này, ông Tiền cho rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đang giữ quan điểm về các vấn đề chính yếu như sau:
Nếu cụm từ này được sử dụng rộng rãi, như chúng ta chứng kiến hồi năm 2007, hoặc chỉ giảm đi chút ít thì điều này có nghĩa rằng tình hình không có gì biến chuyển và công cuộc cải cách không có tiến bộ gì.
Trong báo cáo chính trị của ông Hồ Cẩm Đào, cụm từ Bốn nguyên tắc và Tư tưởng Mao Trạch Đông tiếp tục xuất hiện.
Cần xem xét tần số xuất hiện của cụm từ này, cũng như các cụm từ “bảo vệ quyền lợi, giám sát quyền lực” để thấy liệu xu hướng cải tổ cải cách có đi lên hay không, trong khi nếu các cụm từ như ‘chống Tây hóa’ hay ‘Năm không’ của giới bảo thủ được sử dụng thi ̀đây sẽ là chỉ dấu xu hướng đi xuống.
Trong báo cáo chính trị của ông Hồ Cẩm Đào tại Đại hội 18, chương 5 có tựa đề: “Tiếp tục con đường phát triển Chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc và thúc đẩy cải cách chính trị”.
Không có các cụm từ thủ cựu về chống phương Tây nhưng báo cáo chính trị lại có câu: “Chúng ta nhất định không theo hình mẫu hệ thống chính trị Tây phương”, vốn chưa thấy trong báo cáo chính trị năm 2007.
Báo cáo chính trị lần này cũng khẳng định: “Chúng ta không theo con đường sai lầm mà thay đổi ngọn cờ”.
Báo cáo chính trị Đại hội 18 có câu: “Đảng cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống quyền lực để cân bằng các quyền quyết sách, chấp hành và giám sát, cải thiện cơ chế chung”. Câu này đã có từ báo cáo chính trị 2007, lần này được giữ y nguyên, có nghĩa không có gì cởi mở hơn trước.
Cụm từ nói trên do ông Tập Cận Bình đưa ra sau Đại hội 17. Sự có mặt của nó trong các văn bản chính thức chắc chắn là chỉ dấu tốt, nhưng nó vắng bóng trong diễn văn của ông Hồ Cẩm Đào.
Cụm từ này đã không còn trong văn kiện Đại hội 18, và được thay thế bằng “tự quản lý theo luật pháp”.
Câu đầy đủ thực ra là: “. . . hoàn thiện cơ chế chính sách và công tác an ninh quốc gia, giữ cảnh giác cao trước các hoạt động ly khai, xâm nhập và lật đổ của các thế lực thù địch, bảo đảm an ninh quốc gia”.
Đây là dấu hiệu cho thấy sẽ có một sự quản lý xã hội chặt chẽ theo quan điểm cứng rắn.
Nếu như nó tiếp tục được nhắc tới trong báo cáo chính trị lần này cùng các biện pháp cụ thể hơn, như “đề cử và bầu cử trực tiếp” hay “giới hạn nhiệm kỳ”… thì đây sẽ là chỉ dấu chiều hướng tốt.
Trong báo cáo chính trị lần này, “dân chủ trong Đảng” xuất hiện ít hơn và cũng không có đề cập gì tới đề cử hay bầu cử trực tiếp và các biện pháp khác.
Vậy đây là bước thụt lùi.
Nếu như lần này nó còn được nhắc tới nhiều lần hơn, thì là chỉ dấu rằng ông Hồ Cẩm Đào muốn tiếp tục tầm ảnh hưởng của mình sau Đại hội 18.
Cũng cần xem xét liệu có thay đổi gì trong khái niệm tư duy khoa học của ông Hồ Cẩm Đào, thí dụ nhấn mạnh quyền tự quyết của người dân hay quyền chính trị và dân sự gì hay không.
Trong báo cáo chính trị năm nay, “Tư duy khoa học” xuất hiện khá nhiều lần và cùng với “Học thuyết Đặng Tiểu Bình” và “thuyết Ba Đại diện” nó đã trở thành một trong các tư tưởng chính yếu của Đảng.
Báo cáo chính trị Đại hội 18 không hề có cụm từ “quyền dân sự”.
Đây là một trong các ngọn cờ của ba thế hệ lãnh đạo Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào và việc báo cáo chính trị năm nay dẫn giải như thế nào về khái niệm này là điều quan trọng.
Năm nay, khái niệm CNXH mang màu sắc Trung Quốc bao gồm Bốn nguyên tắc cơ bản, nghĩa là có chiều hướng quay lại tôn chỉ cứng rắn và bảo thủ hơn.
Dựa trên tất cả các yếu tố nói trên, có thể tạm kết luận rằng lực lượng bảo thủ trong Đảng còn rất mạnh.
Theo những gì được trình bày trong báo cáo chính trị Đại hội 18, không có mấy hy vọng rằng quá trình cải cách chính trị sẽ có tiến bộ gì đáng kể trong những năm tới.
Ông Tiền Cương là Giám đốc dự án Báo chí Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Báo chí, Đại học Hong Kong. Ông từng làm việc cho báo Quân Giải phóng những năm 1970 và viết một số sách về chính trị Trung Quốc.
Được đăng bởi Tâm Sự Y Giáo
Trong bản báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn mới gửi tới các đại biểu, Ngân hàng Nhà nước cho biết, năm 2012, đã quyết liệt thanh tra toàn diện 32 tổ chức tín dụng. “Hầu hết các tổ chức tín dụng đều giảm kết quả kinh doanh sau thanh tra do phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định. Nhiều ngân hàng thương mại cổ phần báo cáo có lãi nhưng qua thanh tra làm rõ thực tế là lỗ, giảm vốn điều lệ, thậm chí không còn vốn điều lệ”, Thống đốc Nguyễn Văn Bình nêu trong báo cáo.
Trả lời các đại biểu tại phiên họp Quốc hội tuần trước, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng khẳng định sẽ quyết liệt yêu cầu các nhà băng trích lập dự phòng đầy đủ. Thống đốc nhấn mạnh: “Kiên quyết đến cuối năm, ngân hàng nào không trích lập dự phòng rủi ro đủ, thì không được chia cổ tức. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước sẽ có biện pháp thanh tra cần thiết để đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng trước tiên phải phục vụ cho xử lý vấn đề nợ xấu”.
Về kết quả xử lý nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến nay các nhà băng đã tự xử lý được gần 8.000 tỷ đồng nợ xấu. Nguồn để xử lý “cục máu đông” được lấy từ khoản dự phòng rủi ro tự có của các ngân hàng. Tính đến cuối tháng 8, số dự phòng rủi ro đã được các tổ chức tín dụng trích lập chưa sử dụng là 79.907 tỷ đồng, tăng hơn 14.000 tỷ đồng so với cuối năm 2011.
Ngân hàng Nhà nước đã thống nhất con số sát thực tế là 8,6% như công bố của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia lo ngại con số này đã tăng lên đáng kể từ khi cơ quan của Ngân hàng Nhà nước đưa ra đánh giá từ tháng 3/2012. Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia ngân hàng cho rằng: “Từ đó đến nay, kinh tế chưa có dấu hiệu cải thiện, doanh nghiệp khó có cơ hội phục hồi nên theo ý kiến tôi, tỷ lệ nợ xấu hiện phải lên tới 15%. Nếu lấy tổng dư nợ 2,5 triệu tỷ đồng nhân với 15% thì nợ xấu hiện đâu đó khoảng 375.000 tỷ đồng”.
2 nguồn xử lý nợ xấu theo vị chuyên gia này là từ dự phòng rủi ro và tài sản đảm bảo. “Tuy nhiên, với mức dự phòng hơn 70.000 tỷ đồng mà các tổ chức tín dụng trích lập được đem so với số nợ xấu 375.000 tỷ đồng thì số trích lập dự phòng rủi ro quá ít. Chúng ta cần ít nhất 2,5 lần số trích lập dự phòng trên để bù đắp nợ xấu”, ông Hiếu phân tích.
Ngân hàng Nhà nước cho rằng nợ xấu đang có xu hướng giảm tốc. Theo ông Nguyễn Văn Bình, trong bối cảnh môi trường kinh doanh khó khăn, nhưng nợ xấu vẫn có chiều hướng tăng chậm lại từ quý II/2012. Tốc độ nợ xấu tăng trong tháng 1 là 7,29% tháng 2 là 8,42%; tháng 3 là 9,35%; tháng 4 là 8,28%; tháng 5 là 6,59% và theo con số cập nhật mới nhất đến tháng 6 là 1,2%.
Thống đốc cho hay, trong thời gian tới, các ngân hàng sẽ tiếp tục phối hợp tích cực với khách vay cơ cấu lại nợ, xử lý tài sản bảo đảm, trích lập và sử dụng dự phòng rui ro để xử lý nợ xấu.
Về tiến trình xử lý các ngân hàng yếu kém, Ngân hàng Nhà nước cho biết trong giai đoạn 2011 – 2011 đã tập trung đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Sau khi xác định được 9 ngân hàng cổ phần yếu kém, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cơ cấu lại được 5 trường hợp (3 ngân hàng hợp nhất đầu tiên: SCB, Tín Nghĩa và Đệ Nhất; trường hợp tự cơ cấu của TienPhong Bank và thương vụ sáp nhập Habubank và SHB).
“Đối với các ngân hàng yếu kém còn lại, Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các ngân hàng này khẩn trương xây dựng và hoàn thiện phương án cơ cấu”, Thống đốc nêu trong văn bản báo cáo. Ngoài ra, ông cũng khuyến nghị, khi xử lý ngân hàng yếu kém cần phải làm khẩn trương để hạn chế tổn thất từ kinh doanh thua lỗ, từ tình trạng mất thanh khoản diễn ra từng ngày.
Thanh Thanh Lan
Theo Vnexpress
http://www.vinacorp.vn/news/thong-doc-nhnn-cong-bo-dich-danh-ngan-hang-khong-con-von-dieu-le/ct-536173
Tại sao người dân Văn Giang phải vỗ tay?
J.B Nguyễn hữu Vinh
“Người dựng nước không biết gìn giữ nướcKẻ chăn dân không hiểu hết lòng dân
Nước lại mất lại tìm đường cứu nước
Đầu lại rơi, máu lại đổ tràn”
Tạ Khắc Cư
Theo dõi cuộc gặp gỡ giữa ông Gs Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường với bà con Văn Giang chiều nay 8/11/2012, người ta thấy có nhiều bài học cần được rút ra.
Cuộc chiến giữ đất của người dân Văn Giang kéo dài đến 8 năm, ở đó đã có đầy đủ đoạn trường gian nan vất vả, có đạn dược và quân lính, có súng nổ và bạo lực rồi máu đổ. Ở đó cũng có tấm lòng người dân ba xã Xuân Quan, Cửu Cao, Phụng Công thuộc huyện Văn Giang muôn đời vẫn là người nông dân muốn giữ lại mảnh đất cha ông của mình đã bao đời kiến tạo và giữ gìn.
Buổi gặp gỡ chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ, đã giải tỏa được khá nhiều vấn đề người dân ba xã nói chung và nhân dân cả nước nói chung mong đợi. Kết luận cuối cùng là Giáo sư Đặng Hùng Võ xin lỗi người nông dân Văn Giang. Và bà con nông dân Văn Giang vỗ tay.
<<<===Nông đân mất đất khiếu kiện tại Hà Nội
Như vậy, lòng vòng qua lại cả mấy năm, mọi chuyện trắng đen, sai đúng được giải tỏa chỉ trong có 3 tiếng đồng hồ. Vậy lý do gì mà cuộc gặp này không được tiến hành sớm hơn để cho những uẩn khuất, những thắc mắc được giải tỏa, để người dân Văn Giang không phải cứ hàng tuần, hàng ngày lo lắng đạp xe sang Hà Nội cả mấy chục cây số đi biểu tình? Để góp phần cho đường phố Hà Nội hàng đoàn, hàng đoàn người dân oan ngày càng đông đúc đến kêu cứu hết mọi cơ quan “của dân, do dân, vì dân” và nhận được những sự im lặng đáng sợ sau những cánh cổng im ỉm đóng. Để những người dân, người chủ đất nước này nhận được sự gườm ghè, bắt bớ của lực lượng an ninh, cảnh sát, dân phòng. Để đến giờ này trên mạng vẫn loang rộng tin tức là đêm qua bà con dân oan đã bị xúc sang Lộc Hà mấy chục người, kẻ bị thương, kẻ ốm đang kêu cứu bên đó. Để đến mức nơi vui chơi của người dân là các công viên bị giăng dây, đặt biển cấm người dân sinh hoạt mà chỉ để dành cho chó tập tành? Và nói như Nguyễn Thế Thảo, ủy viên trung ương Đảng CS, Chủ tịch Hà Nội là “biểu tình làm xấu hình ảnh Thủ đô”, lại còn “ảnh hưởng đến ngoại giao”?
Theo như quan chức Hà Nội cũng như các quan chức nói chung thì mọi chuyện phức tạp đều do dân, do các thế lực thù địch nhan nhản trong dân mà ra. Còn quan chức nhà nước này thì mọi chuyện đều tuyệt vời, chỉ có “một bộ phận không nhỏ” bị hư hỏng, biến chất và trở thành “bầy sâu” đục khoét, tham nhũng, cướp bóc của dân mà thôi(!) Thực ra cũng đúng, nếu như dân cứ im lặng, nhà nước muốn lấy bao nhiêu đất, dù là đất hương hỏa ngàn đời, mồ mả cha ông, dù là mảnh ruộng cày cuối cùng nuôi đàn con dại, dù là nơi an nghỉ cuối cùng của người chết hay đất nhà thờ, tu viện, nơi thờ tự… dân cứ thế câm miệng mà chấp nhận. Nếu nhà nước hô hào góp vàng, góp bạc, góp cửa nhà hay mạng sống, cứ thế mà góp, đừng một lời kêu ca, đói ráng chịu, khổ đừng kêu… thì đâu có những chuyện biểu tình, làm “xấu hình ảnh thủ đô”.
Tiếc rằng, bọn dân này cũng là con người, cũng cần sống, cần ăn, cần ở, cũng cần nuôi con cái. Cũng chính vì bọn dân này là con người, nên mới có thể làm lụng, chắt chiu, chịu thương chịu khó đổ mồi hôi sôi nước mắt làm nên của cải vật chất nuôi một bầy sâu “không nhỏ”. Chính vì vậy mà họ có nhận thức, họ biết phân biệt đúng, sai, ân, oán và họ hiểu được ai vì họ và ai đang nô lệ hóa cuộc đời họ. Và chính cũng vì vậy, từ chỗ được coi là liên minh của giai cấp tiên tiến, là cha mẹ của quan chức, nuôi nấng quan chức, người nông dân bỗng nhiên được chuyển đổi thành thế lực thù địch rất nhanh chóng và bị đối xử như thù địch.
“Khi cuộc sống cần thì không thể chờ luật” – Gs Đặng Hùng Võ==>>
Trong buổi gặp gỡ chiều nay, ông Đặng Hùng Võ đã có một câu nói rất hay: “Khi cuộc sống cần thì không thể chờ luật”. Nếu như câu nói này, được nói để ông Nguyễn Thế Thảo biết khi nói về những cuộc biểu tình của những người yêu nước chống Trung Quốc hoặc dân oan mất đất thì ý nghĩa biết chừng nào? Chắc chắn là sẽ hơn dùng để biện minh cho cái sai của nhà nước.
Chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ, mọi chuyện đã rõ, quan chức sai, nhà nước sai và dân đúng.
Hèn chi, Bộ Tài Nguyên – Môi trường đã không đồng ý cho ông Võ gặp dân sớm hơn, vì mọi việc đã có “Bộ” lo. Bộ lo ngày lo đêm nên dân dãi dầm mưa nắng tháng này qua năm khác. Bộ lo nên máu người dân đã đổ, công an, chiến sĩ, nhà báo đã đánh nhau chí tử, bạt mạng như một trận chiến còn khốc liệt hơn đánh Trung Quốc năm 1979. Sở dĩ khốc liệt hơn, vì ở đây là người Việt đánh người Việt. Người ta ước mơ rằng, trong đoạn video đánh người dân tại Văn Giang đó, thay người nông dân bằng một tên lính Tàu đang cướp chiếm Hoàng Sa thì người dân Việt Nam đỡ tủi hổ biết bao?
Thực ra, ông Gs Đặng Hùng Võ nhận sai và xin lỗi nhân dân Văn Giang ở đây là chưa đúng, ông Võ giờ đây cũng chỉ là một công dân như bà con Văn Giang không hơn. Cái sai mà ông Võ nhận ở đây, là cái sai của Bộ Tài Nguyên môi trường mà ông Võ giữ chức Thứ trưởng chứ không phải là cái sai của cá nhân công dân Đặng Hùng Võ với bà con nông dân Văn Giang. Còn cái sai cuối cùng để đẩy người dân Văn Giang đến tình cảnh hôm nay, là chính Thủ tướng bằng những quyết định sai trái của mình. Vì thế, người xin lỗi nhân dân Văn Giang, phải là Bộ Tài nguyên – Môi trường và Thủ tướng chứ không phải cá nhân ông Đặng Hùng Võ.
Qua buổi gặp gỡ, mới biết được rằng, cái cố hữu, cái kiêu ngạo và bệnh điếc của người Cộng sản là quá nặng. Dù với tư cách một công dân bình thường, trước đó chỉ có một ngày, ông Đặng Hùng Võ, người được coi là một chuyên gia đầu ngành về đất đai vẫn còn phát biểu lại rằng: “Thanh thiên bạch nhật mà nói thì thủ tục thu hồi đất của dự án này, tôi nhắc lại, không có gì sai pháp luật” và “Tôi tự tin mình không sai ở Văn Giang”.Thậm chí ông còn muốn biến cuộc gặp gỡ này thành một buổi để giải thích pháp luật cho bà con hiểu. Nhưng chỉ một ngày sau, sau 3 giờ tiếp xúc với dân, ông đã phải nhận lỗi. Vậy thì ở đây, người được giải thích pháp luật cho hiểu là chính ông Giáo sư đầu ngành này chứ không phải là mấy ông bà nông dân chân lấm tay bùn kia. Thế mới hiểu, nguồn gốc nhiều vấn đề hiện nay, là ở chỗ cái nhà nước “của dân, do dân, vì dân” nhưng đã coi thường, xa lánh và không chấp nhận hiểu dân đã đến độ nào. Dù cho hôm qua, ông Võ đã xác nhận rằng “không có vấn đề “chạy” dự án Ecopark”, nhưng điều đó đúng hay không chắc chưa ai kiểm chứng được, bởi cũng chính ông Võ tháng trước đã nói rằng “không có tiền bôi trơn không chạy được đất đâu”. Vậy chẳng lẽ duy nhất dự án này nằm ngoài “thông lệ” đó?
Buổi gặp gỡ chiều nay, ông Đặng Hùng Võ đã nhận lỗi với bà con nông dân, nhưng như trên đã nói việc nhận lỗi này chỉ có một ý nghĩa duy nhất là khẳng định Bộ Tài nguyên – Môi trường và Thủ tướng chính phủ đã quyết định sai đối với người dân Văn Giang. Vấn đề tiếp theo là nhận lỗi rồi thì sao, sửa lỗi ra sao? Nếu như người ta cứ gây lỗi lầm, rồi nhận lỗi là xong, thì chắc rằng ai cũng muốn phạm lỗi. Vì phạm lỗi là thỏa mãn được những thứ cá nhân mình muốn, mình cần mà bất chấp luật pháp. Chính vì vậy phải sòng phẳng mà nói: Nhận lỗi phải có mục đích bắt đầu cho việc thực hiện sửa lỗi, đền bù thiệt hại từ những lỗi lầm của mình gây ra. Còn theo kiểu nhận lỗi suông là xong, để rồi lại tiếp tục lỗi mới, thì việc nhận lỗi đó càng thể hiện sự trơ tráo, đồi bại và bất lương.
Lời nhận lỗi của ông Đặng Hùng Võ chiều nay, nói ra nhẹ nhàng đơn giản. Nhưng hậu quả của lỗi đó, là người nông dân cay đắng đã 8 năm nay trên quê hương, đất đai của mình, cha ông họ bị đào xới, đất đai, ruộng vườn của họ bị chiếm đoạt. Đó là sự chia ly gia đình, mất đi nghĩa tình làng xóm, đặc biệt là làm rạn vỡ truyền thống yêu thương, đùm bọc nhau vốn có tự ngàn đời nay trong nông thôn Việt Nam.
Thế nhưng, sau lời nhận lỗi của ông, bà con nông dân Văn Giang đã vỗ tay nhiệt liệt. Tại sao vậy?
Có phải họ nghĩ rằng cuộc đấu tranh của họ tám năm nay, chỉ là để nhận được lời xin lỗi của một quan chức hồi hưu, mà thân phận giờ đây cũng chỉ bằng họ là xong, là thỏa mãn? Có lẽ không phải thế.
Trước hết, phải hiểu rằng tấm lòng người dân vẫn bao dung, vẫn luôn rộng mở cho những ai biết “chạy lại” mà không nỡ đánh thêm. Dù họ đã gây cho người dân bao đau khổ khi còn quyền chức trong tay. Thế nhưng khi đã biết hướng thiện, nhìn nhận trách nhiệm của mình, thì họ sẵn sàng cảm thông và đón nhận. Đức tính đáng quý này may vẫn còn ở người nông dân Việt Nam, là nét văn hóa của người Việt dù mai một vẫn chưa mất hẳn.
Những tràng vỗ tay chiều nay khi ông Võ nhận lỗi, là một minh chứng cho thấy rằng việc họ gian nan đấu tranh bao tháng năm qua của người dân Văn Giang là cuộc đấu chính nghĩa, sự thật và lẽ phải thuộc về họ. Vì thế họ vui, họ phấn khởi khi lời nhận lỗi là một bằng chứng sống động.
Và như thế, họ sẽ còn đấu tranh, còn tiếp tục khẳng định những giá trị của mình và họ tin rằng cuối cùng thì công lý sẽ phải đứng về phía họ.
Vấn đề là với những con người, cơ quan, nhà nước đã gây lỗi với họ sẽ làm gì trong thời gian tới.
Hãy chờ xem.
Hà Nội, ngày 8/11/2012
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Đọc thêm: Khi người cộng sản nhận lỗi
Đại hội ĐCS Trung Quốc XVIII có thể là lần cuối?
Hiệu Minh
ĐH ĐCS TQ XVII chỉ có búa liềm. Ảnh: internet
HM Blog. Số La mã XVIII là 18, một số độc, 1+8 = 9. Trong chữ Nho, cửu (9) là tột đỉnh. Khi đã là tột đỉnh thì anh bắt đầu trượt dốc.
Người ta luôn đặt câu hỏi, đại hội ĐCS Trung Quốc lần thứ 18 này có phải là lần cuối hay không?
Theo dõi các đại hội Đảng của Trung Quốc người ta từng thấy ảnh Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông, rồi Carl Marx treo trên hội trường. Nhưng mấy đại hội gần đây chỉ còn búa liềm và cờ đỏ. Họ còn nói Lê Nin, Mao Trạch Đông sẽ không được nhắc đến trong ĐH Đảng thứ 18.
Trong lúc đại hội ĐCS Việt Nam thì hầu như hai ảnh Carl Marx và Lê Nin luôn là chủ đạo trên hội trường.
Chỉ cần nhìn những chi tiết đó cũng biết mầu sắc đảng CS của mỗi nước cũng rất khác nhau dù họ vẫn dùng mầu đỏ là chủ đạo, tặng nhau 16 chữ vàng, 4 tốt.
Lang thang trên mạng, thấy bài trên viet-studies do anh Phạm Gia Minh, một đồng nghiệp cũ ở IOIT, dịch từ tiếng Anh. Nghe nói bài này sẽ in ở Tạp chí Thời đại mới tháng 11 này. Bài vẫn đang tiếp tục biên tập.
Trong bối cảnh ĐHĐCS TQ đang tiến hành tại Bắc Kinh, bài viết như thế này rất có ý nghĩa thời sự.
Tác giả là ông Cheng Li (Lý Thành), Giám đốc trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Viện Brookings. Washington DC.
Hiệu Minh blog chỉ đăng phần tóm tắt và vài suy nghĩ cuối để bạn đọc nắm được ý chính.
Cảm ơn Ts. Phạm Gia Minh và viet-studies.
Hồi kết cho chế độ chuyên chế dẻo dai của Đảng Cộng sản Trung Quốc?
Một đánh giá ba phần về sự thay đổi quyền lực ở Trung Quốc.
Tác giả Cheng Ly. Bản dịch của Ts. Phạm Gia MinhTóm tắt những ý chính
Bài tiểu luận này thách thức quan điểm đang thịnh hành về cái đuợc xem là “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai”của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Quan điểm này khẳng định rằng hệ thống chính trị độc đảng của Trung Quốc có khả năng củng cố năng lực đất nước nhằm quản trị có hiệu quả xã hội thông qua những thích ứng về định chế và điều chỉnh chính sách.
Những phân tích cuộc khủng hoảng gần đây vẫn còn tiếp tục được tiết lộ ra về Bạc Hy Lai cho thấy các vết nhơ trong hệ thống chính trị Trung Quốc, đó là tình trạng dung túng người thân và phe cánh cùng những mối liên kết kiểu bảo trợ – đỡ đầu trong quá trình lựa chọn các nhà lãnh đạo; tham nhũng tràn lan, sự lũng đoạn quyền lực chính trị bởi một nhóm quan chức cấp cao ở các công ty thuộc sở hữu nhà nước ngày càng gia tăng, sự coi thường pháp luật của giới chóp bu và thất bại tiềm tàng trong các thỏa thuận mặc cả giữa các phe phái cạnh tranh lẫn nhau trong hàng ngũ lãnh đạo đảng.
Bài tiểu luận cho thấy rằng “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai “của đảng cộng sản Trung Quốc thực ra chỉ là một hệ thống trì trệ xét cả trên lý luận và thực tiễn bởi lẽ, hệ thống này chống đối lại những thay đổi mang tính dân chủ rất cần thiết ở quốc gia này.
Luận điểm về chế độ độc đoán chuyên quyền có tính bền bỉ và dẻo dai có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng Trung Quốc là một thể thống nhất vững chắc đang đặt ra những vấn đề liên quan tới sự thất bại của nó trong việc đánh giá các xu hướng thay đổi dường như có tính nghịch lý ở quốc gia này.
Trong tiểu luận, những nghịch lý đó được khắc họa bởi ba quá trình phát triển đồng thời, cụ thể là:
(1) Lãnh đạo yếu nhưng phe phái mạnh;
(2) Chính phủ yếu nhưng nhóm lợi ích mạnh và;
(3) Đảng yếu nhưng đất nước mạnh.
Không nên nhầm lẫn giữa tính bền bỉ và dẻo dai của đất nước Trung Quốc (nếu căn cứ vào vị thế của giới trung lưu đang hình thành, sự khôn ngoan, sắc bén của các nhóm lợi ích mới và tính năng động của toàn xã hội) với năng lực và tính chính danh của đảng cộng sản Trung Quốc để điều hành đất nước.
Bài tiểu luận này đưa ra kết luận cho rằng nếu như đảng cộng sản vẫn muốn lấy lại lòng tin của quần chúng và tránh một cuộc cách mạng hướng từ dưới lên thì đảng này phải tránh quan điểm về một “chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai”, đồng thời đi theo đường lối chuyển đổi dân chủ một cách có hệ thống với những bước đi dũng cảm về phía bầu cử dân chủ trong nội bộ đảng, thiết lập sự độc lập của tòa án và dần dần mở cửa cho truyền thông chủ đạo.
…. xem toàn bộ bài viết ở đây ĐCS TQ đi đến hồi kết
Những suy nghĩ cuối
Quan sát trên một bối cảnh rộng hơn, mặc dù ba lần thay đổi quyền lực là nguyên nhân cho những căng thẳng trong quản trị đất nước và làm nảy sinh tâm lý bất an, nhưng chính đó lại đáng được coi là những phát triển tích cực, đáng khích lệ đối với Trung Quốc.
Giám sát và đối trọng giữa các phe phái trong lãnh đạo của ĐCSTQ, các nhóm lợi ích năng động – đặc biệt là vai trò ngày càng tăng của giới trung lưu và nhận thức được chia sẻ rộng rãi về một thế lực toàn cầu đang lên cùng sự tự tin của công chúng là những gì mới mẻ đã ra đời gần đây.
Và tất cả những điều đó sẽ là những nhân tố quan trọng cho một sự chuyển tiếp tất yếu tới dân chủ.
Trong tương lai gần, tiêu điểm của các nhà phân tích về Trung Quốc không nên chỉ là việc liệu lãnh đạo ĐCSTQ có sử dụng đúng các thủ tục pháp lý để xử lý vụ Bạc Hy Lai, mà còn phải xem liệu họ có thể tận dụng cơ hội đó để đạt được sự đồng thuận mới và theo đuổi cải cách chính trị.
Một điều mà có lẽ hôm nay ai cũng thấy rõ hơn bất cứ lúc nào trong suốt cả thời kỳ cải cách (ý nói cải cách kinh tế- ND) đó là chế độ chuyên quyền bền bỉ, dẻo dai của ĐCSTQ, xét cả về mặt lý luận và thực tiễn chỉ là một hệ thống trì trệ bởi lẽ hệ thống này chống đối lại các chuyển biến dân chủ.
Nếu ĐCS mong muốn lấy lại lòng tin của quần chúng và tránh một cuộc cách mạng hướng từ dưới lên thì đảng phải tiến hành những thay đổi dân chủ thực sự, có hệ thống, ở trong nước.
Những biến đổi sâu sắc sau đây cần phải được thực hiện.
Thứ nhất, cùng với việc xử lý vụ Bạc Hy Lai qua cơ chế pháp lý hiện hành thì việc kêu gọi cải cách luật pháp – kể cả cải cách thực tiễn công tác xét xử của tòa án, thực thi nguyên tắc nhà nước pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến là điều đã trở nên vô cùng quan trọng.
Điều này có thể là một cơ hội tuyệt vời cho các nhà lãnh đạo có tư tưởng cách tân, và ở một mức độ nhất định cho tất cả các lãnh đạo, để họ nhận thức được rằng, cải cách luật pháp là con đường tốt nhất để họ tự bảo vệ trong một đất nước còn thiếu vắng nguyên lý pháp quyền.
Có thể Trung Quốc sẽ phải mất nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ để thiết lập một hệ thống hiến pháp đầy đủ, tuy nhiên, sẽ sớm cần một tuyên bố chính thức mang tính tư tưởng, chính trị và pháp lý rằng, đảng phải ở dưới hiến pháp, chứ không phải là ngự trị bên trên hiến pháp.
Thứ hai, quản lý và điều hành truyền thông cũng là một việc cần cải cách gấp. Trung Quốc hiện đang bước vào “mùa của các lời đồn”và truyền thông xã hội đã trở nên quyền lực đến nỗi chính quyền Trung Quốc phải thường xuyên dừng những dịch vụ micro-bloging. Đó không phải là phương cách hiệu quả để điều hành đất nước (đặc biệt khi Trung Quốc dự định xây dựng một nền kinh tế định hướng sáng tạo). Lý do vì sao người dân tìm đến với truyền thông xã hội là bởi vì truyền thông chủ đạo không phản ánh nhiều sự thật cuộc sống.
Do đó, con đường để ngăn chặn chủ nghĩa giật gân sinh ra bởi truyền thông xã hội là hãy cởi mở, khai phóng truyền thông chủ đạo. Điều đó không chỉ có lợi cho giới trí thức tự do, dân chủ mà còn lợi cho chính các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Càng đè nén, bưng bít những tin giật gân thì chúng càng trở nên mạnh mẽ và lan tỏa.
Sau mười năm thương mại hóa, ngành truyền thông Trung Quốc đã góp phần tạo nên những nhà báo Trung Quốc biết đi theo con đường của tự do báo chí. Những biến chuyển cách mạng đang diễn ra trước mắt trong lĩnh vực truyền thông xã hội và viễn thông sẽ biến tự do truyền thông trở thành một sự cần thiết chứ không phải là một sự lựa chọn.
Thứ ba, sẽ là ngây thơ về chính trị và thiểu năng về trí tuệ nếu tin rằng sự sụp đổ của họ Bạc chỉ kéo theo những diễn biến tích cực và không có gì sai lầm xảy ra ở Trung Quốc nữa.
Tuy vậy cũng đáng nhớ lại rằng vụ ám sát một nhà văn Đài Loan bởi các điệp viên của Quốc Dân đảng Đài Loan đã giúp khởi động quá trình chuyển tiếp từ chế độ chuyên chế sang dân chủ vào giữa những năm 1990.
Cũng tương tự như vậy, ĐCSTQ hiện nay cần phải hoặc tiến hành những thay đổi để tiến bước cùng lịch sử, hoặc là sẽ bị lịch sử bỏ lại sau lưng. Trong một viễn cảnh rộng lớn hơn, các lãnh đạo yếu, chính phủ yếu và đảng yếu cũng không phải là xu hướng chỉ ở Trung Quốc mới có; đó cũng chính là những thách thức chung trong thế giới hôm nay.
Xin chào mừng đất nước Trung Quốc bước vào thế kỷ XXI!
Tác giả: Lý Thành (Cheng Ly)
Xem toàn bài ĐCS TQ đi đến hồi kết?
Danlambao 9/11/2012
Chi tiết cuộc gặp mặt Blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải
Nguyễn Trí Dũng – Thứ ba ngày 6 tháng 10 sau nhiều ngày xin giấy thăm gặp bố tôi là blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải tại các cơ quan: số trại giam số 4 Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, VKSNDTP, TANDTP, UBND Phường 6 Quận 3, TANDTC, và cuối cùng là VKSNDTC (tại Sài Gòn), gia đình đã được cấp giấy thăm gặp “có giá trị một lần”. Tôi và mẹ tôi là bà Dương Thị Tân đã được VKSNDTC duyệt để thăm gặp.Nguyễn Phương Uyên – nạn nhân trong trận đánh “đồng chí X”?
Nguyễn Quang Duy (Danlambao) - Bài tháng trước khi viết về những tranh chấp nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam, tôi có nhắc đến bạn Nguyễn Phương Uyên một bạn trẻ trong Phong Trào Tuổi Trẻ Yêu Nước vừa bị công an bắt. Bạn bị bắt vì đã rải truyền đơn với hai câu thơ “Vì Danh Dự Dân Tộc Chống Giặc Tầu, Vì Tương Lai Đất Nước Chống Tham Nhũng”. (xin xem bài “Đánh ‘Đồng Chí X’: Chơi Mà Thực – Thực Mà Chơi.”). Thứ bảy vừa rồi Phương Uyên bị đưa lên truyền hình đọc lời “thú tội” đã viết dán truyền đơn, vẽ treo cờ vàng ba sọc đỏ. Bài viết này xin tiếp tục sử dụng năm yếu tố cơ bản của lý thuyết trò chơi làm rõ tình hình vụ án.Obama thua xa Nguyễn Tấn Dũng
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao)
– Một ông thủ tướng của nước CHXHCN Việt Nam, một ông tổng thống của
Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Hai ông có con/dân để làm “xui quốc” với nhau
nhưng chẳng “môn đăng hộ đối chút nào cả”. Ông Obama thua xa ông Nguyễn
Tấn Dũng một trời một vực.
Anh xui Obama thua xa anh xui Ba Dê về mặt nào mới được chứ? Bách
diện bách bại, mặt nào cũng thua. Ở đây tác giả chỉ lạm bàn một thua. Đó
là cái thua trong việc làm thế nào để giữ “cái ghế” tê tê tờ tờ: anh
Tủn Tủn, anh Tông Tông.Cảm nghĩ sau ngày bầu cử tổng thống Hoa Kỳ
Bùi Lộc (Danlambao) - Hơn một tuần trước ngày bầu cử, mấy người bạn từ xa gọi tới, vừa cầm máy lên đã nghe thấy: Chết bỏ mẹ rồi, theo thăm dò, Obama lại thắng kỳ này nữa rồi. Thế rồi một ông bạn gần hay gặp mỗi khi đến nhà thờ vào sáng Chúa nhật: chắc Obama lại thắng nữa. Nếu ông ta thắng kỳ này nữa thì Giáo hội kẹt cứng. Khi sắp hàng bỏ phiếu sớm cũng lại gặp một cặp vợ chồng quen biết nói: Bỏ cho Obama là chết đó nghe không.Biết thờ ai đây?
Nhà báo Châu Thành (Danlambao) - Xưa nay, đảng cộng ta thờ ông Mác, ông Lê, ông Xit, ông Mao. Sau khi cộng sản Liên xô và Đông Âu bị đạp đổ, họ vứt mấy ông ấy vào sọt rác, đảng ta quay sang ôm chân Trung cộng và vẫn thờ các ông Mác-Lê-Xít-Mao. Nay Trung cộng không còn thờ các ông ấy cùng ta, vậy đảng ta còn thờ các ông ấy nữa không?Nhà nước, đảng ‘ta’ và bầu cử Mĩ
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) – Không biết “Hoàng đế” Tổng bí thư đảng “Ta”, chủ nhân ông của đất nước có cái tiêu đề “độc lập-tự do-hạnh phúc” nhưng không thấy “Dân Chủ” chỗ nào này có đủ can đảm gửi điện chúc mừng Chủ tịch đảng “Dân Chủ” Mỹ vừa dành thắng lợi bầu cử với Tổng Thống Obama không? Nhưng chắc rằng Vua, Chúa Ba-Tư sẽ tranh thủ làm cái việc hệ trọng ấy, bởi dù sao cái quốc gia “Tecnicolor hợp chủng quốc” Mỹ dù chỉ hơn 200 năm lập quốc (so với Việt Nam 4000 năm) nhưng nó rất mạnh thuộc hạng “Ờ, ba, má” vẫn nằm trong tay TT Obama mà tiềm năng quân sự dư sức làm cho Tàu cộng khó lòng “sơn đông mãi võ” độc quyền xưng danh “cha chú” trong khu vực Đông Nam và Châu Á, nhất là biển Đông – nơi CSVN đang lực bất tòng tâm “già nhân ngải non vợ chồng” với Bắc Kinh nhưng mắt thì vẫn lúng liếng đưa tình với chàng “GI” (lính Mỹ – Government issue).Giữ nguyên điều 4, sửa Hiến pháp làm gì?
Phạm Trần - Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Trưởng ban soạn thảo sửa đổi Hiến pháp của nhà nước Cộng sản Việt Nam đã tạt gáo nước lạnh vào mặt toàn dân khi quyết định “vẫn thống nhất giữ nguyên điều 4 Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng.”Chính phủ có cố ý làm trái luật đất đai?
Nguyễn Quang A (Anhbasam) - Gs. TsKH Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường (TNMT), đã mạnh bạo lên tiếng về sự thu hồi đất trái pháp luật của chính quyền Hải Phòng đối với gia đình anh Đoàn Văn Vươn. Ông được đánh giá là chuyên gia đất đai số một của Việt Nam và sự lên tiếng này của ông được báo giới đánh giá rất cao.Giáo sư Võ nhận thiếu sót, bà con Văn Giang cảm thông
Thắng Quang (Dân Việt) – Sau gần 3 tiếng đối thoại, Giáo sư Võ thẳng thắn và thừa nhận thiếu sót. Buổi gặp gỡ cũng đồng thời là “nút cởi” khỏi sự ác cảm của bà con nông dân Văn Giang đối với Giáo sư.Thảo nào, người ta chạy hết cách để LÀM QUAN
Bùi Văn Bồng (Bongbvth) - Hôm qua, 8-11, nguyên Thứ trưởng Bộ TNMT, Gs. Đặng Hùng Võ, tình huống đã đến mức buộc phải vạch râu, nhếch mép nói với bà con Văn Giang hai từ “xin-lỗi”. Làm lãnh đạo sướng ở chỗ đó. Đối với họ, từ hiến pháp cho đến pháp luật, rồi cả cái mớ dưới luật như nghị định, thông tư, chỉ thị…chỉ cần hai chữ “xin-lỗi” mà thôi… Ôi, giá như các cháu thanh niên, sinh viên cho dẫu gì đi nữa mà đã bị đối xử mạnh tay, nặng hơn các vị – là bị công an bắt giam, tra hỏi, chỉ cần qua hai làn môi ngây thơ, duyên dáng “AI-EM XÓ -RỈ” là coi như ‘”OK, very good!”, được tha về cho đi học tiếp khỏi tàn đời hoa thì tuyệt vời biết bao nhiêu…Bộ Chính trị VN ‘sẽ giáo dục thân nhân’
Lê Hồng Anh: Các lãnh đạo đương chức của Việt Nam đã cam kết
với các cựu lãnh đạo đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân.
Nhiệm vụ của các lãnh đạo phải “giáo dục gia đình, vợ (chồng), con,
người thân, chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng”. Thân nhân của các
lãnh đạo cũng được yêu cầu phải tuân theo “chính sách, pháp luật của
Nhà nước, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống…”
Thức ăn có dòi, công nhân bỏ việc
Bùi Liêm – Đoàn Anh (TTO)
– Trưa 8-11, hơn 1.000 công nhân Công ty TNHH Free Well (Khu công
nghiệp Bắc Đồng Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước) đã bỏ ăn, bỏ làm
việc để phản đối việc thức ăn có dòi, bốc mùi hôi thối.
Thảo nào, người ta chạy hết cách để LÀM QUAN
Bùi văn Bồng blog
Bongbvth -
Hàng loạt sự kiện gần đây cho thấy, ở Việt Nam có những lời “xin lỗi”
đáng giá “tỉ vàng triệu ngọc”. Đó là lời xin lỗi phát ra từ “môi lưỡi
đầy quyền lực” của các quan chức, các vị lãnh đạo. Có những vụ việc đã
rõ “thanh thiên bạch nhật”, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho quốc
gia, gây nên thiệt hại nặng nề cho cả nền kinh tế đất nước, ảnh hưởng
lớn đến uy tín lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nhưng chỉ cần đằng hắng, dụi
mắt, liếm môi cố nói ra hai từ “xin-lỗi”, thế là coi như mọi sự được
nhanh chóng lướt qua, đủ giấy thông hành như lệnh bài vua ban ngày xưa
để được vô can, ra cửa có thể cười tự tin như mới thoát chết đuối vớ
được tàu cánh ngầm loại tốc lực lớn siêu hạng rước đi.
Hôm qua, 8-11, nguyên Thứ trưởng Bộ TNMT, Gs. Đặng Hùng Võ, tình huống đã đến mức buộc phải vạch râu, nhếch mép nói với bà con Văn Giang hai từ “xin-lỗi”. Làm lãnh đạo sướng ở chỗ đó. Đối với họ, từ hiến pháp cho đến pháp luật, rồi cả cái mớ dưới luật như nghị định, thông tư, chỉ thị…chỉ cần hai chữ “xin-lỗi” mà thôi.
Thảo nào, người ta cứ ráng sức, ráng công, ráng tiền, ráng quỳ lụy, chyạ chọt, đủ mọi thứ ráng…miễn là được làm lãnh đạo.
Cứ làm bừa, làm liều, làm ẩu, lách luật, bơ pháp luật đi, gây ra những cảnh dân tình đói khổ, kêu oan gọi khốc, đánh nhau rối loạn, chết chóc, nhưng khi cần chỉ lựa lúc lựa chiều đưa cái thứ “hiến-luật pháp” ngắn gọn, loại “bìa X” chỉ có hai từ “xin-lỗi”, thế là xong, ngon ơ, tỉnh bơ, tiếp tục “giương cao ngọn cờ”…T
Xem ra, lời xin lỗi của Việt Nam có giá trị gấp triệu-triệu lần các nước trên thế giới. Kiểu này, thế giới mà biết được “bảo bối” này thì quan quyền, lãnh đạo các nước chỉ cần học cách phát âm hai từ “xin lỗi” bằng tiếng Việt hẳn hoi là coi như vô cùng yên tâm vũng bước mà đi.
Ôi, giá như các cháu thanh niên, sinh viên cho dẫu gì đi nữa mà đã bị đối xử mạnh tay, nặng hơn các vị - là bị công an bắt giam, tra hỏi, chỉ cần qua hai làn môi ngây thơ, duyên dáng “AI-EM XÓ -RỈ” là coi như ‘”OK, very good!”, được tha về cho đi học tiếp khỏi tàn đời hoa thì tuyệt vời biết bao nhiêu – (BVB)…
Hôm qua, 8-11, nguyên Thứ trưởng Bộ TNMT, Gs. Đặng Hùng Võ, tình huống đã đến mức buộc phải vạch râu, nhếch mép nói với bà con Văn Giang hai từ “xin-lỗi”. Làm lãnh đạo sướng ở chỗ đó. Đối với họ, từ hiến pháp cho đến pháp luật, rồi cả cái mớ dưới luật như nghị định, thông tư, chỉ thị…chỉ cần hai chữ “xin-lỗi” mà thôi.
Thảo nào, người ta cứ ráng sức, ráng công, ráng tiền, ráng quỳ lụy, chyạ chọt, đủ mọi thứ ráng…miễn là được làm lãnh đạo.
Cứ làm bừa, làm liều, làm ẩu, lách luật, bơ pháp luật đi, gây ra những cảnh dân tình đói khổ, kêu oan gọi khốc, đánh nhau rối loạn, chết chóc, nhưng khi cần chỉ lựa lúc lựa chiều đưa cái thứ “hiến-luật pháp” ngắn gọn, loại “bìa X” chỉ có hai từ “xin-lỗi”, thế là xong, ngon ơ, tỉnh bơ, tiếp tục “giương cao ngọn cờ”…T
Người ta cũng nói nhiều đến “lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng chỗ hở của pháp luật, lợi dụng lòng tốt…”.
Thế nên, lợi dụng lòng tốt của nhân dân, lòng vị tha, dễ cho qua, không
đánh “kẻ chạy lại”, các vị quan quyền của ta được nương nhờ vào lòng
tốt ấy của người dân Việt, nên được thể làm liều. Vậy mà nhiều kẻ không
thấu hiểu điều đó, khỏi vòng cong đuôi, qua cầu rút ván, hết nạn lại
“lấy tiểu nhân đáp lại lòng nhân”, lo trả thù. Đức nhân hậu, lòng vị
tha của dân được tác giả J.B Nguyễn Hữu Vinh viết: “Cuộc chiến giữ
đất của người dân Văn Giang kéo dài đến 8 năm, ở đó đã có đầy đủ đoạn
trường gian nan vất vả, có đạn dược và quân lính, có súng nổ và bạo lực
rồi máu đổ. Ở đó cũng có tấm lòng người dân ba xã Xuân Quan, Cửu Cao,
Phụng Công thuộc huyện Văn Giang muôn đời vẫn là người nông dân muốn giữ
lại mảnh đất cha ông của mình đã bao đời kiến tạo và giữ gìn. (Thế
mà)…Buổi gặp gỡ chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ, đã giải tỏa được khá
nhiều vấn đề người dân ba xã nói chung và nhân dân cả nước nói chung
mong đợi. Kết luận cuối cùng là Giáo sư Đặng Hùng Võ xin lỗi người nông
dân Văn Giang. Và bà con nông dân Văn Giang vỗ tay”.
Dân ta vốn hiền lành chất phác, giàu dức hy sinh, giàu lòng vị tha
vậy, sao mà các vị quan tham, các đại gia còn chứa trọng bụng đầy chất
lưu manh lừa đảo lại nỡ đi cướp đất của dân, lại nỡ bắt bớ, đánh đập,
trấn áp với nhân dân để họ ngán sợ phải ngậm miệng chịu mất đất mất
nhà, để rồi hí hửng “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham?”. Chỉ cần
xin lỗi dân là thoát tội, lại còn được vỗ tay, lại đỡ tốn dung lượng,
trang in của báo mạng, báo viết, thời lượng phát sóng, thế mà nhiều vị
còn ngã giá kia đấy, không dễ dàng nói lời xin lỗi đâu, ấm ớ chờ dịp nếu
đến mức thấy quá cần thiết mới tung chiêu “xin lỗi”. Lời xin lỗi của
các “quan phạm” quả là quý báu biết bao (?!).Xem ra, lời xin lỗi của Việt Nam có giá trị gấp triệu-triệu lần các nước trên thế giới. Kiểu này, thế giới mà biết được “bảo bối” này thì quan quyền, lãnh đạo các nước chỉ cần học cách phát âm hai từ “xin lỗi” bằng tiếng Việt hẳn hoi là coi như vô cùng yên tâm vũng bước mà đi.
Ôi, giá như các cháu thanh niên, sinh viên cho dẫu gì đi nữa mà đã bị đối xử mạnh tay, nặng hơn các vị - là bị công an bắt giam, tra hỏi, chỉ cần qua hai làn môi ngây thơ, duyên dáng “AI-EM XÓ -RỈ” là coi như ‘”OK, very good!”, được tha về cho đi học tiếp khỏi tàn đời hoa thì tuyệt vời biết bao nhiêu – (BVB)…
>> Ông Đặng Hùng Võ
‘xin lỗi’ người dân Văn Giang
“Ở cương vị công tác của mình khi đó, không giám sát
được để có những chệch choạc thì tôi chịu trách nhiệm. Những gì gây thất
thoát cho bà con là lỗi của tôi”, nguyên Thứ trưởng Đặng Hùng Võ nói
trước người dân Văn Giang (Hưng Yên) chiều 8/11.
> Bộ Tài nguyên đối thoại với người dân Văn Giang/ Hơn 160 hộ dân Văn Giang bị cưỡng chế thu hồi đất
Chiều 8/11, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường Đặng Hùng Võ đã có cuộc đối thoại gần 3 giờ với đại diện người
dân Văn Giang. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh việc 8 năm trước, khi
còn đương chức, ông Võ đã ký hai tờ trình lên Thủ tướng, đề xuất thu hồi
đất để xây dựng đường cao tốc nối Hưng Yên và Hà Nội qua cầu Thanh Trì
và khu đô thị Văn Giang (huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên).
Trong đó, ngày 29/6/2004, ông Đặng Hùng Võ thừa lệnh
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường ký tờ trình số 99 lên Thủ tướng.
Trước đó một ngày, 28/4/2004, UBND tỉnh Hưng Yên có tờ trình về thu hồi,
giao đất cho Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng để
xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị thị Thương mại, du lịch Văn Giang
và tuyến đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội (đoạn Văn Giang
đến xã Dân Tiến, Khoái Châu).
Khoảng 30 người dân Văn Giang, luật sư đại diện cho người dân đối thoại với một mình ông Đặng Hùng Võ. Ảnh: Nguyễn Hưng.
|
Người dân Văn Giang cho rằng, trong khi đất của họ
chưa bị thu hồi thì đã giao cho nhà đầu tư. Tại buổi đối thoại, ông Võ
chủ động đính chính: “Đây là tờ trình về thu hồi đất chứ không phải giao
đất. Vì lúc đó cơ chế là không có giao đất (chỉ trừ trường hợp có một
nhà đầu tư duy nhất, không qua đấu thầu) mà là đấu thầu, nên đáng ra đây
là quyết định thu hồi đất để đấu giá”.
Theo luật sư Trần Vũ Hải (được người dân Văn Giang
thuê bảo vệ quyền lợi), bằng tờ trình, Bộ Tài nguyên Môi trường đã tham
mưu sai. “Thẩm định quy hoạch sử dụng đất phải là Chính phủ. Chính phủ
phải ra quyết định thu hồi đất, nên Bộ phải trình Chính phủ”, luật sư
Hải dẫn nghị định 66 năm 2001 của Chính phủ về thi hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật đất đai.
Đáp lại, ông Võ cho rằng, vì phê duyệt kế hoạch sử
dụng đất đều là quyết định, mà Chính phủ không có hình thức quyết định
nên mới giao cho Thủ tướng. Điều này theo ông Võ là “thông lệ”.
Theo ông Võ, chủ trương gắn cầu Thanh Trì với các đầu đường mới, gắn
với xây dựng cầu Thanh Trì ở thời điểm đó là chủ trương đúng. Đây là
cũng là thời điểm giao giữa Luật đất đai cũ và mới nên “có cái theo luật
cũ và có cái theo luật mới”. Trong khi đó, Chính phủ chỉ đạo đường nối
Hưng Yên với Hà Nội và đường quốc lộ 5B là 2 dự án trọng điểm…Ông Võ nói lời xin lỗi người dân Văn Giang tại buổi đối thoại. Ảnh: Nguyễn Hưng. |
“Sở dĩ phải đẩy nhanh tiến độ vì là dự án trọng
điểm. Khi cuộc sống cần thì không thể chờ luật. Tôi quan điểm như vậy
khi đứng trước dự án dù bà con có thể cho rằng tôi sai. Đó là con đường
chiến lược, mang lại lợi ích cho Hưng Yên, Hà Nội và ngay cho người dân
Văn Giang”, ông Võ giải thích.
Nguyên Thứ trưởng Võ cho biết, khi ký trình ông đã
cân nhắc kỹ, nếu dừng lại dự án sẽ phải chậm 1,5-2 năm vì phải làm lại
từ đầu (theo Luật Đất đai 2003 có hiệu lực từ 1/7/2004). “Ký thì chắc
chắn có điều tiếng. Nhưng nếu phân tích lịch trình toàn bộ như trên thì
thấy hợp lý thôi”, ông Võ nói.
Liên quan tới việc ký quyết định giao đất ở thời
điểm đó, ông Võ “công nhận là không đúng thẩm quyền, kể cả trường hợp có
ủy quyền cũng không đúng pháp luật”.
“Việc điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất mà không
điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất cũng là không đúng. Ở cương vị công tác
của mình khi đó, tôi không giám sát được để có những chệch choạc thì
tôi chịu trách nhiệm. Còn những cái gì gây thất thoát cho bà con thì là
lỗi của tôi”, ông Võ bộc bạch vào cuối buổi đối thoại khiến toàn bộ đại
diện người dân Văn Giang vỗ tay.
Tuy được tổ chức tại trụ sở cũ của Bộ Tài nguyên Môi
trường (83 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội) song không có đại diện nào của Bộ
tham dự. Cuộc đối thoại nhiều lúc khá căng thẳng bởi những đối đáp qua
lại giữa ông Võ, người dân và luật sư đại diện cho quyền lợi của người
dân. Ông Võ cũng nhiều lúc lúng túng và mất thời gian để tìm tài liệu,
dẫn chứng để trả lời trước các câu hỏi liên tiếp từ phía luật sư Hải và
người dân.
Dự án khu đô thị Văn Giang được Thủ tướng cho phép
thực hiện, giao Công ty Đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng làm chủ
đầu tư. Ngày 30/6/2004, Thủ tướng có quyết định thu hồi, giao đất để
thực hiện. Dự án có quy mô xấp xỉ 500 ha thuộc 3 xã Xuân Quan, Phụng
Công, Cửu Cao thuộc huyện Văn Giang và 55 ha để làm đường giao thông
liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên. Đây là dự án khu đô thị sinh thái lớn nhất
miền Bắc với tổng vốn đầu tư ban đầu lên tới 6 tỷ USD.
Sáng 24/4, UBND huyện Văn Giang đã thực hiện cưỡng
chế 5,8 ha đất của 166 hộ tại xã Xuân Quan. Theo tỉnh Hưng Yên, khoảng
200 người đã chuẩn bị cuốc, xẻng, dao, liềm, gậy gộc, gạch đá, chai xăng
chống lại lực lượng làm nhiệm vụ cưỡng chế. 19 người được cho là có
hành vi quá khích, chống trả người thực thi nhiệm vụ đã bị tạm giữ trong
ngày cưỡng chế.
Trao đổi với báo chí sau cuộc đối thoại, ông Đặng Hùng
Võ cho biết: “Tôi vẫn đang cố gắng để người dân hiểu rằng cái trái thẩm
quyền nó có hoàn cảnh. Nhưng người dân không muốn hiểu vì họ bức xúc
quá, chẳng thể làm thế nào được. Chúng ta có thể thông cảm”.
Sau cuộc đối thoại, ông Võ sẽ có kiến nghị gửi tới Bộ
Tài nguyên Môi trường. “Trong giai đoạn ấy luật pháp về đất đai rất lơ
mơ, có thể xây dựng luật thì chặt chẽ nhưng thực hiện hầu như các chính
quyền địa phương mỗi nơi có một kiểu. Việc ưu tiên tôi cho là có lý do
chính đáng, địa phương đang nghèo nàn như thế tự nhiên có nhà đầu tư
đến, để họ chờ mãi thì không được. Nếu không ưu tiên thì người ta sẽ
đi”, ông Võ nói.
|
Nguyễn Hưng (VnE)
——————
> Đọc thêm:
Nghệ thuật xin lỗi
> Đọc thêm:
Nghệ thuật xin lỗi
* Xin lỗi càng sớm càng tốt
Nếu bạn đã biết hay làm điều gì sai, đừng để quá lâu rồi mới nói lời xin lỗi. Bạn không nên chần chừ hãy đợi đến lúc thích hợp mới xin lỗi mà phải nói ngay. Khi xin lỗi bạn không cần kiểu cách hay trau chuốt lời nói mà chỉ cần sự chân thành.
Nếu bạn đã biết hay làm điều gì sai, đừng để quá lâu rồi mới nói lời xin lỗi. Bạn không nên chần chừ hãy đợi đến lúc thích hợp mới xin lỗi mà phải nói ngay. Khi xin lỗi bạn không cần kiểu cách hay trau chuốt lời nói mà chỉ cần sự chân thành.
* Mặt đối mặt
Tùy theo từng hoàn cảnh nhưng nếu có thể, bạn nên xin lỗi mặt đối mặt là hay nhất. Nếu không bạn có thể dùng nhiều phương cách khác nhau như gọi điện thoại, viết mail, gởi hoa… Bằng cách này người bị tổn thương sẽ cảm thấy đỡ hơn rất nhiều do sự chân thành của bạn và do sự trung thực của bạn.
* Chân thành lắng nghe
Bạn đã làm điều lỗi với “đối phương”, nay bạn chịu nhận lỗi và lắng nghe sự giận dữ một cách chân thành. Hãy để “đối phương” nói ra hết suy nghĩ, bực bội oán giận và rồi mọi thứ sẽ sớm được giải quyết. Bạn không nên mất kiên nhẫn khi nghe hay tỏ thái độ nóng lòng.
* Cử chỉ đẹp tiếp theo sau
Nếu bạn nghĩ rằng việc gởi thiệp, hoa hay kẹo tiếp sau đó có thể giúp “đối phương” vui hơn… thì bạn cứ tiếp tục làm. Việc này có ý nghĩa hơn nếu bạn trực tiếp mang hoa, quà tặng đến cho họ.
* Không vội vàng
Thật là khó để bắt “đối phương” chịu tha lỗi cho bạn ngay được vì nó còn tùy thuộc vào việc họ cảm thấy bị lỗi ít hay nhiều. Nó đòi hỏi phải có thời gian cho họ tha lỗi và quên đi. Bạn không nên tạo áp lực cho họ khi họ chưa thật sự sẵn sàng. Trong những khoảng thời gian này điều cần thiết ở bạn chính là sự chân thành. Bạn đã làm một điều sai vậy hãy chờ thời gian để chúng phai nhạt dần…
Tùy theo từng hoàn cảnh nhưng nếu có thể, bạn nên xin lỗi mặt đối mặt là hay nhất. Nếu không bạn có thể dùng nhiều phương cách khác nhau như gọi điện thoại, viết mail, gởi hoa… Bằng cách này người bị tổn thương sẽ cảm thấy đỡ hơn rất nhiều do sự chân thành của bạn và do sự trung thực của bạn.
* Chân thành lắng nghe
Bạn đã làm điều lỗi với “đối phương”, nay bạn chịu nhận lỗi và lắng nghe sự giận dữ một cách chân thành. Hãy để “đối phương” nói ra hết suy nghĩ, bực bội oán giận và rồi mọi thứ sẽ sớm được giải quyết. Bạn không nên mất kiên nhẫn khi nghe hay tỏ thái độ nóng lòng.
* Cử chỉ đẹp tiếp theo sau
Nếu bạn nghĩ rằng việc gởi thiệp, hoa hay kẹo tiếp sau đó có thể giúp “đối phương” vui hơn… thì bạn cứ tiếp tục làm. Việc này có ý nghĩa hơn nếu bạn trực tiếp mang hoa, quà tặng đến cho họ.
* Không vội vàng
Thật là khó để bắt “đối phương” chịu tha lỗi cho bạn ngay được vì nó còn tùy thuộc vào việc họ cảm thấy bị lỗi ít hay nhiều. Nó đòi hỏi phải có thời gian cho họ tha lỗi và quên đi. Bạn không nên tạo áp lực cho họ khi họ chưa thật sự sẵn sàng. Trong những khoảng thời gian này điều cần thiết ở bạn chính là sự chân thành. Bạn đã làm một điều sai vậy hãy chờ thời gian để chúng phai nhạt dần…
Công Sở
——————————-
Được đăng bởi Bùi Văn Bồng
Phải coi tham nhũng như tội phản quốc
ĐBQH Lê Bá Thuyền phát biểu ý kiến sáng 9.11. Ảnh: TTXVN
(LĐO) – Thứ sáu 09/11/2012 11:08
Phải coi tham nhũng như ma túy, như tội phản quốc. Phải tuyên chiến
với tham nhũng khi nó đang thách thức sự lãnh đạo của Đảng- ông Thuyền
nói.
Chúng ta nói rất nhiều về tham nhũng. QH ban hành Luật Phòng chống
tham nhũng, Chính phủ cũng ban hành vô số văn bản khác, có thể nói là
một rừng luật, nhưng vì sao vẫn không chống được tham nhũng?- Viện
trưởng VKSND tỉnh Lâm Đồng đặt câu hỏi, và ông trả lời “Vì pháp luật quy
định chưa chặt chẽ. Vì chúng ta thực hiện chưa tốt…”
Luật Phòng chống tham nhũng sửa đổi lần này quy định 12 hành vi là
tham nhũng. Tuy nhiên, ĐBQH Nguyễn Xuân Thường lại cho rằng có tới 5/12
hành vi không được quy định trong Luật Hình sự. Chẳng hạn hành vi giả
mạo để trục lợi, là hành vi tham nhũng nhưng thực tế, lại chỉ có thể xử
lý hành chính.ĐBQH Lê Bá Thuyền cũng đề nghị cần bổ sung cố ý làm trái cũng là hành vi tham nhũng. Nêu ra 3 trường hợp điển hình về việc “hành vi tham nhũng đang được chuyển sang tội cố ý làm trái”. Ông Thuyền khẳng định: “Chúng ta đang bỏ lọt hành vi này”, và bởi “Tham nhũng về chính sách, về chế độ mới là lớn. Chứ không phải chỉ mấy đồng chí công an nhận tiền ngoài đường”.
Luật Phòng chống tham nhũng sẽ được thảo luận trong ngày hôm nay và được phát thanh truyền hình trực tiếp để cử tri và nhân dân theo dõi.
http://laodong.com.vn/Chinh-tri/Phai-coi-tham-nhung-nhu-toi-phan-quoc/90987.bld
Hà nội – Quan xã, quan huyện thi nhau ăn cướp !
Xuanvietnam blog
Trái pháp luật vẫn làm, huyện bảo sai, xã vẫn cố tình cưỡng chế đất đai của dân. Mấy ông quan xã với trình độ văn hóa lớp 4 trường làng nhưng bản lĩnh ăn cướp thì có thừa, không coi dân ra gì. Vì sao lại cố tình ăn cướp khi đã biết sai phạm ? ăn cướp thì bản chất vẫn là ăn cướp, đâu cần luật. Kẻ cướp đâu quan tâm đến pháp luật ?
Hà Nội:
Huyện Hoài Đức thừa nhận sai sót, xã Cát Quế vẫn cưỡng chế đất
(Dân trí) – Sở hữu mảnh đất 65m2 tại khu ao gò Trung Quân, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức từ năm 1969. Đến năm 1992, huyện Hoài Đức cấp sổ đỏ cho ông Lê Văn Phát. Năm 2011, xã Cát Quế bất ngờ đưa ra quyết định cưỡng chế vì cho rằng đó là đất công.
Theo đơn khiếu nại gửi đến báo Dân trí và các cơ quan chức năng của TP. Hà Nội, bà Nguyễn Thị Oanh (vợ ông Lê Văn Phát) trú tại Khu vực 4, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, TP. Hà Nội phản ánh, UBND xã Cát Quế ban hành quyết định cưỡng chế dự kiến áp dụng ngày 9/11/2012, là sai quy định của pháp luật, gây tổn hại về danh dự và vật chất với gia đình, trong khi gia đình sở hữu hợp pháp mảnh đất 65m2 tại khu ao gò Trung Quân kể từ năm 1969 đến nay.Nội dung đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Oanh nêu: Ngày 30/4/1969, chồng bà là ông Lê Văn Phát mua lại một phần ao rộng 65m2 của bà Lê Thị Lễ. Việc mua bán giữa ông Phát và bà Lễ có xác nhận của Chủ nhiệm HTX Xuân Thắng khi đó xác nhận và đề nghị UBNX xã Vinh Quang khi đó cho phép.
Phần đất nhà bà Oanh bị coi là lấn chiếm dù có đủ giấy tờ (Ảnh: Ngọc Cương)
Từ khi mua lại, gia đình ông Lê Văn Phát đã sử dụng
ổn định, không xảy ra tranh chấp với bất kỳ ai. Ngày 25/3/1992, mảnh
đất này và các phần đất khác của nhà ông Phát được Chủ tịch UBND huyện
Hoài Đức Nguyễn Huy Cung ký cấp giấy chứng nhận QSDĐ số 00736/QSDĐ. Giấy
chứng nhận QSDĐ của nhà ông Lê Văn Phát ghi rõ: Diện tích đất ở là 125m2 (số thửa 137); diện tích đất làm kinh tế 120m2; đất ao là 65m2 (số thửa 138A).
Suốt từ năm 1992 đến năm 2011, gia đình ông Phát bà
Oanh tiếp tục sử dụng ổn định, không nhận được quyết định của các cấp
chính quyền về việc thu hồi diện tích đất ao của gia đình. Đến ngày
5/10/2012, gia đình bà Oanh bị UBND xã Cát Quế lập biên bản về hành vi
vi phạm hành chính số 15 với lý do nhà bà Oanh tự ý lấn chiếm đất công,
đổ đất trồng cây, dựng hàng rào tre nứa, tập kết gạch đá ong trên phần
đất 65m2 của gia đình đã được thừa nhận “chủ quyền” thông qua giấy chứng
nhận QSDĐ.
Đến ngày 10/12/2010, UBND xã Cát Quế tiếp tục ban hành quyết định số 126/QĐ – CC về việc “Cường
chế thi hành quyết định áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi
phạm hành chính gây ra trong trường hợp không áp dụng xử phạt về lĩnh
vực đất đai”. Không hài lòng với quyết định của xã Cát Quế, bà
Nguyễn Thị Oanh gửi đơn khởi kiện ra TAND huyện Hoài Đức nhưng đến nay
chưa nhận được câu trả lời từ phía TAND huyện Hoài Đức.
Trong khi đó, UBND xã Cát Quế vẫn ra quyết định tổ
chức cưỡng chế đối với phần diện tích 65m2. Theo kế hoạch, ngày
9/11/2012, UBND xã Cát Quế sẽ thực hiện việc cưỡng chế, dù cho UBND
huyện và xã đều chưa đưa ra được văn bản trả lời thấu đáo cho công dân
về chủ sở hữu mảnh đất và vị trí 65m đất ao đã được cấp giấy chứng nhận
QSDĐ nằm ở đâu trên địa bàn xã Cát Quế.
Giấy chứng nhận QSDĐ huyện Hoài Đức cấp năm 1992
Làm việc việc với PV Dân trí ngày 8/11/2012,
ông Nguyễn Trọng Lương, Phó phòng TNMT huyện Hoài Đức khẳng định việc
cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Lê Văn Phát ngày 25/3/1992 không sai,
trong đó có phần nội dung ghi diện tích đất ao là 65m2. Tuy nhiên, việc
xác định vị trí phần đất ao đã có sự nhầm lẫn, bởi ao nhà ông Phát không
nằm ở khu ao gò Trung Quân.
Theo lời ông Lương, phần diện tích 65m2 này được
UBND xã Cát Quế xác định nằm trong phần diện tích đất ở của nhà bà Oanh.
Nhưng phần ao này nằm ở đâu thì đến nay Phòng TNMT và xã Cát Quế vẫn
chưa đưa ra được câu trả lời rõ ràng. Tuy nhiên, hiện phần đất ở mà bà
Nguyễn Thị Oanh đang sử dụng hiện tại lại có phần diện tích hụt 65m2,
trái ngược hẳn với câu trả lời của lãnh đạo Phòng TNMT.
Cụ thể, phần đất ở thể hiện trong giấy chứng nhận
QSDĐ cấp năm 1992 cho nhà ông Phát bà Oanh là 125m2 (thửa 137); Phần
diện tích đất ao là 65m2 (thửa 138 A). Nếu phần đất ao nằm trong phần
diện tích đất ở, tổng số diện tích đất ở nhà bà Oanh sử dụng là 190m2.
Tuy nhiên, trên thực tế phần đất ở nhà bà Oanh đang sử dụng chỉ là 125m2
đất ở thuộc thửa 137, nếu cộng cả 65m2 thửa 138A mới có con số 190m2.
Vậy phần diện tích đất ao 65m2 mà Phòng TNMT và xã Cát Quế khẳng định
nằm trong khuôn viên diện tích đất ở của nhà bà Oanh nằm vị trí nào?
Cũng theo lời ông Lương, khi Phòng TNMT chưa thu
hồi giấy chứng nhận QSDĐ, chưa tiến hành điều chỉnh thì giấy chứng nhận
QSDĐ số 00736 cấp cho ông Lê Văn Phát vẫn còn nguyên giá trị pháp lý.
Điều đó có nghĩa, bà Oanh vẫn sở hữu hợp pháp của 125m2 thuộc thửa 137
và 65m2 thuộc thửa 138A như thể hiện trên chứng nhận QSDĐ số 00736. Đồng
nghĩa, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế của UBND xã Cát Quế với lý do
đất lấn chiếm là thiếu cơ sở.
Ông Lương khẳng định, UBND xã Cát Quế là đơn vị
trực tiếp ban hành quyết định cưỡng chế và thực hiện cưỡng chế nên sẽ
phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, nếu việc cưỡng chế sai quy định và xảy
ra sự cố (nếu có).
Ông Nguyễn Danh Ngọ (bên phải) khẳng định quyết định cưỡng chế
không vi phạm quy định pháp luật (Ảnh: Ngọc Cương)
Trao đổi với PV Dân trí tại trụ sở UBND xã
Cát Quế, Chủ tịch Nguyễn Danh Ngọ vẫn khẳng định việc áp dụng kế hoạch
cưỡng chế với phần diện tích 65m2 là đúng thẩm quyền địa phương và tuân
thủ theo đúng trình tự pháp luật. Theo lời ông Ngọ, trước khi ban hành
kế hoạch cưỡng chế UBND xã Cát Quế đã xin ý kiến và nhận được sự đồng ý
của UBND huyện Hoài Đức, nhưng chính quyền xã vẫn là người chịu trách nhiệm chính nếu cưỡng chế sai.
Chủ tịch UBND xã Cát Quế thừa nhận có chuyện nhầm
lẫn trong việc xác định vị trí thửa đất ao nhà bà Oanh. Tuy nhiên, ông
Nguyễn Danh Ngọ lại không chỉ ra được phần 65m2 bị “hao hụt” nằm ở đâu.
Ông Ngọ cho rằng, phần diện tích đất ao này vẫn nằm trong khuôn phiên
diện tích đất ở nhà bà Oanh, mặc dù trên thực tế phần diện tích sử dụng
vẫn bị hao hụt 65m2.
Để bảo vệ danh dự và quyền lợi của gia đình, bà
Nguyễn Thị Oanh đề nghị UBND xã Cát Quế, UBND huyện Hoài Đức tạm dừng
việc cưỡng chế ngày 9/11/2012, trong khi đợi TAND huyện Hoài Đức ra văn
bản chính thức về vụ việc theo đơn kiện của bà Oanh.
Trao đổi cùng PV Dân trí, luật sư Lê Văn
Thiệp, Văn phòng Luật sư Toàn Cầu, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho rằng:
“Việc UBND xã Cát Quế ra quyết định cưỡng chế khi còn chưa làm rõ sai
sót trong việc xác định vị trí mảnh đất 65m2 là vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật.
Theo quy định Điều 136 Luật Đất đai thì thẩm quyền giải quyết tranh
chấp thuộc về TAND, không phải thẩm quyền thu hồi của UBND xã Cát Quế.
Việc ra các quyết định liên quan đến thửa đất trên là trái các quy định
của pháp luật về đất đai”.
Báo Dân trí đề nghị UBND TP. Hà Nội. Thanh
tra TP. Hà Nội khẩn trương vào cuộc làm rõ vụ việc này nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên.
Vũ Văn Tiến – Ngọc Cương
Được đăng bởi XUANVN
Giả danh côn đồ để đe dọa dân oan.
XuanVN
Vài nhóm giả danh côn đồ để đe dọa dân oan có mặt tại các trụ sở
khiếu kiện, vườn hoa…nơi mà bà con hay đến đó khiếu kiện, kêu oan.
Thực ra đó toàn là công an, an ninh của Hà nội, chỉ thoáng qua
cũng có thể biết các thanh niên này là ai mà họ lại đi xe máy, dừng xe
ngồi chễm chệ trên hè, trên vườn hoa, quay phim, la cà mà không bị dân
phòng hay công an phường nhắc nhở hay yêu cầu giải tán.
Ba thanh niên tay cầm báo này cũng là an ninh Hà nội
Một nhóm khác đang giả vờ gây rối.
Đóng giả côn đồ nhưng lao vào bắt dân oan cùng công an
Côn đồ nhưng thục ra là công an
Với tình trạng dân oan ngày càng nhiều như thế này, với tính chính
danh khi không được phép ngăn cản bà con khiếu kiện thì an ninh Hà nội
phải dùng các ” biện pháp nghiệp vụ” là giả danh côn đồ, gây rối rồi vu
cho bà con, bắt giải tán hoặc bắt bà con về trại Lộc Hà như đã làm với
dân oan Văn Giang, Dương nội là chuyện hàng ngày.
Đó cũng là cách bịt miệng, ngăn cản quyền công dân, bịt miệng dư
luận trong thời buổi internet này, tuy nhiên những việc làm trái pháp
luật của họ đã và sẽ bị Nhân dân ghi vào lịch sử và sẽ có ngày phán xét.
Dân oan Văn Giang và Dương nội tiếp tục biểu tình, đến trụ sở tiêp dân của Quốc hội.
XuanVN
Sáng nay, gần 400 bà con Văn Giang đã kéo đến Quán thánh, trụ sở
ban dân nguyện của Quốc hội. Sau đó họ kéo sang trụ sở tiếp dân của
Quốc hội tại 35 Ngô Quyền, vẫn những đơn từ khiếu nại, tố cáo chính
quyền Hưng yên và các cơ quan trung ương bảo kê cướp đất của họ.
Chiều nay, 2 giờ họ sẽ đến bộ TNMT để đối thoại với ông Hũng Võ
– một cựu cán bộ của bộ từng tiếp tay cho các sai phạm khi còn đương
chức, ký duyệt trái luật dự án Ecopak chiếm 500 hecta đất của Văn Giang
Hưng Yên.
Các công an giả danh thanh niên để sẵn sàng gây rối, trấn áp bà con.
Hai phóng viên bồi bút Hà nội mới đang lấy tư liệu để nói xấu bà con như Nguyễn Thế Thảo đã làm.
Tác phong rất phản cảm của công an.
Nông dân áo đỏ Dương nội cũng có mặt gần phố Thụy Khuê.
Chiều nay, mời bà con và các phóng viên đến 83 Nguyễn Chí Thanh để dự
buổi đối thoại với ông Hùng Võ, xem ông ấy uốn lưỡi ra sao trước sai
phạm của mình và các cấp chính quyền.Tin về số dân oan bị bắt đưa về Đông Anh:
Nguyễn tường Thụy
“ Bùi Hằng vừa nhận được điện thoại từ những số maý sau đây: 01693768054 – 0163947030-01992295804. Bà con thông báo họ là dân oan các tỉnh trong những ngày qua kéo ra Hà Nội khiếu kiện. Những người này không có tiền ngủ nhà trọ nên trong đêm qua . Lợi dụng đêm tối chính quyền đã càn quét và bắt cóc tất cả 29 người đưa về Đông Anh- Hà Nội giam giữ. Nhiều người bị đánh đập tàn nhẫn. Họ gọi điện tứ tung cầu cứu …”
Vào lúc 21h30, tôi gọi điện cho chị Vũ Thị Thuận 50 tuổi ở Ninh Bình theo số máy 01693768054 để hỏi thăm tình hình bà con. Chị cho biết, lúc 20h20, xe ở Quảng Ninh đã lên chở bà Nguyễn Thị Yến về địa phương, hiện còn 28 người. Số người bị bắt tối qua họ đưa về trại Đồng Dầu, Dục Tú, Đông Anh.
Chị Thuận cho biết thêm, đợt này, các chị đã ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng trong các ngày 4, 5, 6/11. Có cả bà con các tỉnh phía Nam như Trà Vinh.
23 giờ 11 phút đêm qua, 7/11, họ mang xe đến hốt bà con đi. Khi bị bắt lên xe, chị và những ai đã quen rồi thì tự nguyện lên xe, còn bà con ở miền Nam mới ra lần đầu thì chưa biết nên họ cưỡng bức. Bản thân chị đã bị bắt 6 lần.
Chị nói, thoạt đầu các chị ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, nhưng họ đuổi sang vườn hoa Lý Tự Trọng. Bà con hàng ngày ra đường giương các biểu ngữ kêu cứu Quốc hội trên đường các đoàn đại biểu Quốc hội đi qua để cho các đại biểu Quốc hội nhìn thấy nhưng sau họ đi tránh đi bằng đường khác.
Tôi có hỏi thêm về thông tin của bà Phạm Thị My 76 tuổi ở Kiên Giang, chị cho biết do quá bức xúc nên bà định đập đầu vào tường nhưng được mọi người can ngăn kịp thời. Bà Lê Thị Yến cũng ở Trà Vinh, hiện sức khỏe rất yếu, mọi người nấu cháo cho bà ăn vì nếu cần ăn cháo thì phải báo từ hôm trước hoặc buổi trước. Bà con có xin dầu gió hoặc viên thuốc cảm nhưng họ bảo không có.
Mặt khác, bà con bảo nhau cảnh giác, không nhận bất cứ sự chăm sóc y tế nào của trại.
Hiện nay bà con không rõ bị giam ở đấy bao lâu. Có lẽ họ đợi quốc hội họp xong thì thả ra chăng? Nguyện vọng của bà con là được ra sớm để kêu oan lên Quốc hội. Chị Thuận cho biết thế và nói, chứ hàng ngày đến các cơ quan thì họ đuổi không tiếp nên chỉ còn cách chờ Quốc hội họp mới kêu được nhưng bây giờ lại lâm vào tình cảnh như thế này.
22h30 ngày 8/11
Phe bảo thủ vẫn mạnh trong Đảng CSTQ
-BBCBản báo cáo chính trị đồ sộ này đang là tâm điềm phân tích và bình luận của các nhà quan sát.
Chuyên gia Tiền Cương từ Đại học Hong Kong cho biết một vài nhận định của ông.
Ông Tiền Cương chủ trương phân tích ý tứ của văn bản thông qua 10 cụm từ khóa. Đó là
1. Bốn nguyên tắc, trong đó có tư tưởng Mao Trạch Đông
2. Giữ ổn định
3. Cải cách chính trị
4. Cách mạng văn hóa
5. Quyền lực nhân dân
6. Quyền đưa ra quyết sách, quyền chấp hành và quyền giám sát
7. Dân chủ trong Đảng
8. Xây dựng xã hội
9. Tư duy khoa học trong phát triển
10. Chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc
Từ việc tìm kiếm các cụm từ này, ông Tiền cho rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đang giữ quan điểm về các vấn đề chính yếu như sau:
Cụm từ “Bốn nguyên tắc cơ bản” (bao gồm Tư tưởng Mao Trạch Đông):
Được cho như biểu thị ảnh hưởng của cánh tả Maoist ở Trung Quốc. Nếu như cụm từ này biến mất hoàn toàn, thì đó có thể là chỉ dấu rằng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản thực sự có ý định thúc đẩy cải cách chính trị.Nếu cụm từ này được sử dụng rộng rãi, như chúng ta chứng kiến hồi năm 2007, hoặc chỉ giảm đi chút ít thì điều này có nghĩa rằng tình hình không có gì biến chuyển và công cuộc cải cách không có tiến bộ gì.
Trong báo cáo chính trị của ông Hồ Cẩm Đào, cụm từ Bốn nguyên tắc và Tư tưởng Mao Trạch Đông tiếp tục xuất hiện.
“Giữ ổn định”:
Cụm từ này không xuất hiện trong các điểm chính của báo cáo chính trị, do vậy nó không cho thấy một sự quay ngoặt trong chính sách của Trung Quốc.“Cách mạng văn hóa”:
Cụm từ này cũng không xuất hiện trong các chủ đề chính của báo cáo chính trị. Nếu như lãnh đạo Đảng tỏ ra ăn năn về cuộc cách mạng văn hóa trước kia thì đây có thể là dấu hiệu tích cực rằng đang có chuyển biến tốt về cải cách chính trị. Tuy nhiên điều này đã không xảy ra.“Cải cách chính trị”:
Thực tế trong báo cáo chính trị các kỳ đại hội từ 13 tới 16, cụm từ này đã xuất hiện trong văn bản. Đại hội 17 năm 2007 nó không được cho vào báo cáo chính trị của ông Hồ Cẩm Đào.Cần xem xét tần số xuất hiện của cụm từ này, cũng như các cụm từ “bảo vệ quyền lợi, giám sát quyền lực” để thấy liệu xu hướng cải tổ cải cách có đi lên hay không, trong khi nếu các cụm từ như ‘chống Tây hóa’ hay ‘Năm không’ của giới bảo thủ được sử dụng thi ̀đây sẽ là chỉ dấu xu hướng đi xuống.
Trong báo cáo chính trị của ông Hồ Cẩm Đào tại Đại hội 18, chương 5 có tựa đề: “Tiếp tục con đường phát triển Chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc và thúc đẩy cải cách chính trị”.
Không có các cụm từ thủ cựu về chống phương Tây nhưng báo cáo chính trị lại có câu: “Chúng ta nhất định không theo hình mẫu hệ thống chính trị Tây phương”, vốn chưa thấy trong báo cáo chính trị năm 2007.
Báo cáo chính trị lần này cũng khẳng định: “Chúng ta không theo con đường sai lầm mà thay đổi ngọn cờ”.
“Phân cấp quyền lực trong Đảng”:
Cụm từ này và “quyền hoạch định chính sách, quyền chấp hành và giám sát”, nếu không xuất hiện trong báo cáo chính trị lần này thì sẽ là chỉ dấu tiêu cực về quá trình dân chủ trong Đảng.Báo cáo chính trị Đại hội 18 có câu: “Đảng cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống quyền lực để cân bằng các quyền quyết sách, chấp hành và giám sát, cải thiện cơ chế chung”. Câu này đã có từ báo cáo chính trị 2007, lần này được giữ y nguyên, có nghĩa không có gì cởi mở hơn trước.
Cụm từ “Quyền lực của nhân dân”:
Một điểm gây thất vọng nữa là cụm từ này đã không xuất hiện trong báo cáo chính trị 18.Cụm từ nói trên do ông Tập Cận Bình đưa ra sau Đại hội 17. Sự có mặt của nó trong các văn bản chính thức chắc chắn là chỉ dấu tốt, nhưng nó vắng bóng trong diễn văn của ông Hồ Cẩm Đào.
“Xây dựng xã hội”:
Văn kiện Đại hội 17 có câu “tăng quyền tự quyết ở cơ sở”, và nếu nó biến mất khỏi báo cáo chính trị năm nay thì đây sẽ là chỉ dấu tiêu cực.Cụm từ này đã không còn trong văn kiện Đại hội 18, và được thay thế bằng “tự quản lý theo luật pháp”.
Câu đầy đủ thực ra là: “. . . hoàn thiện cơ chế chính sách và công tác an ninh quốc gia, giữ cảnh giác cao trước các hoạt động ly khai, xâm nhập và lật đổ của các thế lực thù địch, bảo đảm an ninh quốc gia”.
Đây là dấu hiệu cho thấy sẽ có một sự quản lý xã hội chặt chẽ theo quan điểm cứng rắn.
“Dân chủ trong Đảng”:
Cụm từ này xuất hiện năm lần liền trong báo cáo chính trị Đại hội 17, tức là khá thường xuyên.Nếu như nó tiếp tục được nhắc tới trong báo cáo chính trị lần này cùng các biện pháp cụ thể hơn, như “đề cử và bầu cử trực tiếp” hay “giới hạn nhiệm kỳ”… thì đây sẽ là chỉ dấu chiều hướng tốt.
Trong báo cáo chính trị lần này, “dân chủ trong Đảng” xuất hiện ít hơn và cũng không có đề cập gì tới đề cử hay bầu cử trực tiếp và các biện pháp khác.
Vậy đây là bước thụt lùi.
“Tư duy khoa học về phát triển”:
Đây là cụm từ ưa thích của ông Hồ Cẩm Đào, xuất hiện 21 lần trong báo cáo chính trị năm 2007.Nếu như lần này nó còn được nhắc tới nhiều lần hơn, thì là chỉ dấu rằng ông Hồ Cẩm Đào muốn tiếp tục tầm ảnh hưởng của mình sau Đại hội 18.
Cũng cần xem xét liệu có thay đổi gì trong khái niệm tư duy khoa học của ông Hồ Cẩm Đào, thí dụ nhấn mạnh quyền tự quyết của người dân hay quyền chính trị và dân sự gì hay không.
Trong báo cáo chính trị năm nay, “Tư duy khoa học” xuất hiện khá nhiều lần và cùng với “Học thuyết Đặng Tiểu Bình” và “thuyết Ba Đại diện” nó đã trở thành một trong các tư tưởng chính yếu của Đảng.
Báo cáo chính trị Đại hội 18 không hề có cụm từ “quyền dân sự”.
“Chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc”:
5 năm trước, cụm từ này xuất hiện 51 lần trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng.Đây là một trong các ngọn cờ của ba thế hệ lãnh đạo Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào và việc báo cáo chính trị năm nay dẫn giải như thế nào về khái niệm này là điều quan trọng.
Năm nay, khái niệm CNXH mang màu sắc Trung Quốc bao gồm Bốn nguyên tắc cơ bản, nghĩa là có chiều hướng quay lại tôn chỉ cứng rắn và bảo thủ hơn.
Dựa trên tất cả các yếu tố nói trên, có thể tạm kết luận rằng lực lượng bảo thủ trong Đảng còn rất mạnh.
Theo những gì được trình bày trong báo cáo chính trị Đại hội 18, không có mấy hy vọng rằng quá trình cải cách chính trị sẽ có tiến bộ gì đáng kể trong những năm tới.
Ông Tiền Cương là Giám đốc dự án Báo chí Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Báo chí, Đại học Hong Kong. Ông từng làm việc cho báo Quân Giải phóng những năm 1970 và viết một số sách về chính trị Trung Quốc.
Dân Trung Quốc qua Mỹ sống tăng kỷ lục
WASHINGTON - Trong
năm 2011, số người Hoa di dân sang Mỹ và được hưởng qui chế thường trú
lên đến 87,000, so với 70,000 của một năm trước đây. Theo The New York
Times, vì lo âu trước viễn ảnh thay đổi chính trị, giới chuyên môn có
kinh nghiệm đang rời bỏ Trung Quốc cộng sản ở con số kỷ lục.
Mặc dù kinh tế nở rộ, Trung Quốc vẫn còn là một xã hội khép kín,
không có tự do chính trị lẫn tôn giáo. Cộng thêm sự thiếu kiểm soát về
vấn đề ô nhiễm môi sinh và một tân chính quyền không bảo đảm, không lạ
gì số người chuyên môn đang tìm cách thoát ra ngoài bằng mọi cách có thể
được.
2010, năm cuối cùng hoàn tất cuộc thống kê dân số, dữ liệu cho thấy có hơn 508,000 người Hoa rời khỏi nước để di dân đến 34 quốc gia phát triển có chân trong Tổ Chức Phát Triển và Hợp Tác Kinh Tế. Ðây là sự gia tăng 45% so với năm 2000.
Ít người nêu lý do ra đi vì chính trị nhưng nhấn mạnh đến nhiều nỗi ưu tư. Họ nói về chiến lược phát triển bằng mọi giá của chính quyền khiến gây hủy hoại môi sinh, kể cả tình trạng xã hội và đạo đức suy đồi làm Trung Quốc biến thành một nơi lạnh lùng hơn lúc họ mới lớn lên.
Cao Cong, phụ tá giáo sư trường University of Nottingham, chuyên nghiên cứu về sự di dân của người Hoa, nhận định: “Giới trung lưu ở Trung Quốc cảm thấy tương lai không bảo đảm, đặc biệt cho con cái. Họ nhận thấy tình hình chính trị không được ổn định.”
Hầu hết di dân đều cho rằng một giấy thông hành ngoại quốc khiến họ cảm thấy được an toàn khi xảy ra tình huống tồi tệ, thay vì bỏ nước mà đi ngay. (TP)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=157517&zoneid=1#.UJywKWdPXcs
Heng Lin (trái) di dân từ Trung Quốc học Anh văn trong lớp ESL ở Miami, Florida. Số người Hoa được cấp thẻ xanh trong năm 2011 là 87,000 so với 70,000 của năm trước. (Hình: Joe Raedle/Getty Images) |
2010, năm cuối cùng hoàn tất cuộc thống kê dân số, dữ liệu cho thấy có hơn 508,000 người Hoa rời khỏi nước để di dân đến 34 quốc gia phát triển có chân trong Tổ Chức Phát Triển và Hợp Tác Kinh Tế. Ðây là sự gia tăng 45% so với năm 2000.
Ít người nêu lý do ra đi vì chính trị nhưng nhấn mạnh đến nhiều nỗi ưu tư. Họ nói về chiến lược phát triển bằng mọi giá của chính quyền khiến gây hủy hoại môi sinh, kể cả tình trạng xã hội và đạo đức suy đồi làm Trung Quốc biến thành một nơi lạnh lùng hơn lúc họ mới lớn lên.
Cao Cong, phụ tá giáo sư trường University of Nottingham, chuyên nghiên cứu về sự di dân của người Hoa, nhận định: “Giới trung lưu ở Trung Quốc cảm thấy tương lai không bảo đảm, đặc biệt cho con cái. Họ nhận thấy tình hình chính trị không được ổn định.”
Hầu hết di dân đều cho rằng một giấy thông hành ngoại quốc khiến họ cảm thấy được an toàn khi xảy ra tình huống tồi tệ, thay vì bỏ nước mà đi ngay. (TP)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=157517&zoneid=1#.UJywKWdPXcs
ÔNG OBAMA THEO CHỦ NGHĨA GÌ ?
Tamsuygiao blog
(THƯ GỬI ÔNG OBAMA)
Thưa Ông Obama,
Là một người dân Việt Nam luôn ngưỡng mộ Ông, trước hết tôi xin
chúc mừng nước Mỹ, chúc mừng Ông và Đảng Dân chủ về chiến thắng vang dội
của Ông trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, sự kiện không chỉ nước Mỹ mà
cả triệu triệu người dân ở các quốc gia khác vẫn dõi theo một cách hồi
hộp và lo lắng.
Hậu phương của ông Obama - bà Michelle cùng chồng trong đêm mừng chiến thắng tại Chicago 6-11 . Ảnh: Telegraph
Thưa Ông Obama,
Từ nước Việt xa xôi, tôi biết rằng cái tay Romney kia đâu phải là
tầm thường, nhưng vẫn phải chấp nhận thua Ông trong một cuộc bầu cử tuy
cồng kềnh tốn kém, nhưng cũng hết sức công khai minh bạch và dân chủ.
Nói không phải nịnh Ông, chẳng qua là do Ông giỏi quá, những việc Ông
làm hợp với lòng dân quá, thế thôi!
Mà Ông cũng nên cảm ơn Thượng đế, đã cho Ông được làm một người con
của nước Mỹ. Nhờ đó Ông mới có cơ hội trở thành một Thượng nghị sĩ, để
rồi Ông làm Tổng thống của nước Mỹ hùng mạnh bậc nhất trong nhiệm kỳ đã
qua, và tới đây là nhiệm kỳ thứ hai. Cứ giả sử như Ông được tạo hóa cho
làm một công dân của nước Việt Nam chúng tôi, thì tôi tin rằng với sự
phức tạp về mặt lý lịch của gia đình và những rào cản về màu da, cùng
lắm Ông chỉ có thể làm tay điếu đóm nước nôi trong ủy ban xã ở một nơi
khỉ ho cò gáy nào đó mà thôi.
Hơn nữa, người tài giỏi như Ông thì VN chúng tôi có rất nhiều, nên
nếu ở VN mà Ông lỡ rơi vào hoàn cảnh thất nghiệp thì cũng là điều dễ
hiểu. Giới thiệu để Ông biết: đội ngũ GS, PGS, TS của chúng tôi thuộc
hàng đẳng cấp cao trên thế giới, tuy rằng do điều kiện đặc thù của đất
nước, chỉ có khoảng 1/3 trong số đó là còn làm công tác nghiên cứu khoa
học thôi. Tôi không rõ là Ông đã có bằng Tiến sĩ hay chưa, mà hình như
chưa thì phải. Nhưng giờ đây, điều đó đâu còn quan trọng gì, bởi vì Ông
đã tái đắc cử Tổng thống nước Mỹ, sang VN mà làm gì, có phỏng. Điều quan
trọng nhất của ngày hôm nay là Ông đã vượt qua cái tay Romney diều hâu
trong cuộc quyết đấu.
Ồ, có lẽ tôi lại lan man mất rồi. Chắc là do sung sướng và xúc động quá mà ra đó thôi Ông ạ.
Ông Obama ơi,
Có một điều tôi vẫn phân vân bấy lâu nay mà chưa tiện hỏi vì thấy
Ông quá bận rộn cho chiến dịch bầu cử. Nay Ông đã đăng quang rồi, mọi lu
bu lo lắng thì xin Ông tạm gác qua, giải thích mấy nhời cho tôi và
thằng con được rõ.
Ấy là về vấn đề tư tưởng, vấn đề học thuyết, Ông ạ. Những vấn đề
này đối với hai cha con tôi là quan trọng lắm lắm. Không giải quyết được
vấn đề tư tưởng thì chẳng thà tôi lên Sao Hỏa mà sống chứ còn ở Trái
Đất làm gì nữa Ông ơi.
Quan sát Ông và những người đồng hành như ông Biden, bà Clinton …
trong suốt nhiệm kỳ qua, tôi chưa bao giờ thấy ai đó hé lộ về hệ tư
tưởng, về hệ thống lý luận của Ông và các phụ tá. Ở nước tôi, nếu thiếu
những thứ ấy, có thể coi như đang đi bồng bềnh trên mây, đi mà không có
tai có mắt và các giác quan khác, thiếu hẳn một yếu tố mà nước tôi gọi
là định hướng, rồi dứt khoát sẽ rơi vào tình cảnh đáng thương là cứ đi
bon bon mà không biết đi đâu.
Ông Obama à,
Tôi lấy làm lạ do sự thiếu vắng về cơ sở lý luận và nền tảng tư
tưởng của các ông, và nói không phải, có gì mong Ông bỏ quá cho, rằng
tôi cảm thấy chiến thắng của Ông cũng như vị trí đỉnh cao là lãnh đạo
nước Mỹ của Ông chưa thật hoàn hảo, chính vì sự thiếu vắng ấy.
Nước Mỹ của Ông thiếu hẳn một hệ tư tưởng chủ đạo có tầm vóc để chi
phối mọi hoạt động của quốc gia, thiếu cả một hệ thống các trường, học
viện chính trị, từ cấp liên bang cho đến các bang, các hạt, các quận
trên khắp nước Mỹ. Thử hỏi lập trường, tinh thần và tâm hồn của nhân dân
Mỹ sẽ méo mó, lệch lạc như thế nào khi không được hướng dẫn, đào tạo
đến nơi đến chốn về tư tưởng chính trị, khi mà cả một quốc gia hùng mạnh
như nước Mỹ không có lấy một học thuyết xứng tầm dẫn đường chỉ lối?
Tôi trộm nghĩ, mặc dù hùng mạnh nhất thế giới, nước Mỹ vẫn có những
vấn đề nghiêm trọng của nó trong đối nội, đối ngoại. Đó là vì chính
quyền của các ông chưa bao giờ thể hiện được “Quyết tâm chính trị” trong
bất cứ việc gì, chưa bao giờ có những cuộc “Vận động” hoành tráng, chưa
bao giờ các ông phải huy động toàn bộ “Sức mạnh của Hệ thống chính
trị”, và cũng chưa bao giờ tôi chứng kiến các ông “Phê và Tự Phê” cả.
Quả là một thiếu sót ghê gớm trong việc vận hành bộ máy của chính quyền
nước Mỹ. Ấy thế mà qua bao nhiêu năm bộ máy của Ông vẫn chạy tốt! Quá ư
là lạ lùng !
Hiện nay, các thế lực thù địch nhan nhản khắp mọi nơi. Chúng đang hết
sức điên cuồng chống phá sự nghiệp xây dựng của bất kỳ quốc gia nào.
Nước Mỹ của Ông cũng không là ngoại lệ. Ấy thế nhưng dường như các ông
đang chủ quan vô cùng, xem nhẹ các nguy cơ to lớn và tiềm tàng từ các
thế lực thù địch, coi bọn chúng chẳng ra gì. Thông tin tình báo cho biết
bọn chúng đang tiến hành các âm mưu diễn biến hòa bình, thậm chí khủng
bố nhằm lật đổ chính quyền của Ông trong thời gian sớm nhất. Cũng chỉ vì
nhận thức chính trị chưa đầy đủ, không được trang bị những tư tưởng
tiên tiến mà chính quyền Mỹ đã không kịp thời phát hiện, nhận ra chân
tướng của bọn chúng, không phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù.
Riêng với Ông, tôi đã đọc nhiều lần bản tiểu sử đầy đủ nhất và mới
nhất của Ông nhưng không thể xác định được rằng Ông đang theo chủ nghĩa
gì hay là theo học thuyết nào? Thằng con tôi trong khi tranh luận các
vấn đề thời sự, cũng thường hỏi khó bố nó rằng: Liệu ông Obama có thể là
nhân vật số 1 thế giới mà lại không cần trang bị vũ khí tư tưởng?
Thật là kỳ lạ và khó chấp nhận đối với kẻ kém cỏi này và con của
hắn, khi một người “lãnh đạo thế giới” như Ông lại không phải là môn đồ
của một học thuyết chính trị tiên tiến. Dẫn dắt nước Mỹ, dẫn dắt cả thế
giới mà lại chẳng mảy may cần tới một chủ thuyết triết học - kinh tế
chính trị học nào đó là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại? Không một chút
hành trang về tư tưởng và chủ thuyết chính trị, vậy mà Ông vẫn được dân
chúng Mỹ tín nhiệm, bầu tiếp lần nữa. Thật là hết sức kỳ lạ, và quá sức
tưởng tượng!
Tóm lại, điều mà cha con tôi nóng lòng muốn được biết ngay lúc này là: Ông theo chủ nghĩa gi?
Có thể câu trả lời của Ông sẽ làm cha con tôi thất vọng, chẳng hạn
như Ông sẽ phang bừa không cần suy nghĩ dù chỉ là tích tắc: “chẳng có gì
sất”, mà cũng có thể chúng tôi sẽ cảm thấy sáng ra khi Ông giải thích
một cách cụ tỉ (tức là cụ thể và tỉ mỉ) về những gì trong hệ tư tưởng
thâm trầm, sâu sắc, huyền bí của Ông.
Dù sao, cha con tôi vẫn rất mong được Ông hồi âm. Chắc chắn rằng
thư của Ông sẽ như cơn mưa đầu hạ, làm dịu mát những bức bối tinh thần
của hai cha con chúng tôi, và cả nhiều bà con hàng xóm nữa. Thank you
Ông, Ông nhé.
Chúc Ông Bà đêm nay ngủ ngon và Ông sẽ có thêm một nhiệm kỳ thắng lợi.
Gửi Ông lời chào thân ái và quyết thắng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét