Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

1344. Blogger Nguyễn Thiện Nhân có thể bị khởi tố vì tội ‘tuyên truyền chống phá nhà nước’

03-11-2012
Chúng tôi vừa nhận được thông tin từ blogger Nguyễn Thiện Nhân, chủ nhân blog Giải pháp Dân chủ, xin đăng nguyên văn như sau:
Tôi Nguyễn Thiện Nhân, chủ nhân blog Giải pháp Dân chủ. Tôi đính kèm 2 giấy mời của công an mời tôi lên làm việc.

Ngày 31.10.2012 công an Tp.HCM phối hợp công an Tỉnh Bình Dương, tất cả khoảng 10 người sắc phục, thường phục, dân phòng…đi ôtô đến nhà tôi đưa tôi về trụ sở công an Phường Chánh Nghĩa. Buổi làm việc bắt đầu lúc 9h30, đến 18h30 thì họ cho tôi về.

Ngày 2.11.2012 họ tiếp tục mời tôi về công an Tp.Thủ Dầu Một, buổi làm việc bắt đầu từ 9h30 đến 17h00 thì họ cho tôi về.
Tại hai lần làm việc tôi luôn đấu tranh quyết liệt để bảo vệ quan điểm của mình, họ quay video lại suốt buổi làm việc thứ hai. Tôi kiên quyết lập trường đến cùng.
Họ cho rằng tôi đã vi phạm pháp luật. Họ bảo bài GIẢI THOÁT DÂN TỘC VIỆT CỦA TÔI vi phạm điều 88BLHS (!)
Hiện nay tôi đang tạm thời bị quản thúc. Theo lời của họ, có khả năng tôi bị khởi tố vì tội ‘tuyên truyền chống phá nhà nước’ và bị phạt hành chính đến vài chục triệu. Kết thúc buổi làm việc thứ 2, họ bảo tôi viết bản cam kết, tôi cương quyết không viết.
Nếu tôi bị xử án, có thể tôi sẽ lấy mạng sống của mình để đấu tranh chống lại bản án phi nghĩa ấy. Họ sẽ phải cân nhắc điều này khi muốn bắt giữ tôi.
Blog Giải pháp Dân chủ của tôi đang bị hack, sẽ phải đóng lại.
Riêng bài GIẢI THOÁT DÂN TỘC VIỆT CỦA TÔI, nếu có thể, bạn hãy giúp tôi đăng tải nó để mọi người hiểu rằng vì bài này mà tôi phải chịu rủi ro và vất vả với an ninh như thế nào.
——–
Để rộng đường dư luận, cũng như để biết được blogger Nguyễn Thiện Nhân “tuyên truyền chống phá nhà nước” như thế nào, chúng tôi xin đăng lại toàn bộ nội dung tài liệu này:
Giải pháp Dân chủ

GIẢI THOÁT DÂN TỘC VIỆT-TOÀN TẬP

Nguyễn Thiện Nhân
26-08-2012
Tác phẩm gồm 5 phần. Phần I: Không thể đi theo Chủ nghĩa cộng sản. Phần II: Việt Nam nên đi theo con đường nào? Phần III: Những tử huyệt của chế độ cộng sản ở Việt Nam. Phần IV: Những thủ đoạn của đảng CSVN. Phần V: Giải pháp cho dân tộc.
Tác phẩm gồm tổng cộng hơn 40 trang (A4). Tập trung nhiều nhất vào phần giải pháp (phần chính) với 20 trang.
LỜI GIỚI THIỆU
Nước Việt Nam có vị trí địa lý tốt, có bờ biển dài, có những vùng đất màu mỡ, có tài nguyên thiên nhiên phong phú, có bề dày văn hóa mấy nghìn năm, có lực lượng lao động dồi dào, con người khá thông minh có thể thi thố với các quốc gia trên thế giới, đã hưởng nền hòa bình gần 40 năm(từ 1975). Thế mà nhân dân VN vẫn nghèo, khoa học cơ bản kém cỏi, công nghệ sản xuất lạc hậu, chưa sản xuất được một chiếc xe máy hoàn chỉnh chứ đừng nói đến xe hơi, máy bay hay máy vi tính. Vì sao? Tệ nạn xã hội đầy rẫy, môi trường ô nhiễm, nợ nần chồng chất, tài nguyên cạn dần, tham nhũng tràn lan, nhân quyền bị xâm phạm… Ai gây nên những họa này?
Nhìn lại những quốc gia giàu có xem họ đã làm gì?
Nhìn lại các quốc gia Châu Á giàu có, mà trước đây những năm sau chiến tranh thế giới lần II họ từng nghèo khổ, xem họ đã làm gì?
Nhìn sang Thái Lan, nước láng giềng xem họ đã làm gì?
Đừng đổ thừa chiến tranh, đừng đổ thừa dân trí thấp, đừng nói rằng đời sống nhân dân đã khá lên. Đó là thái độ của người vô trách nhiệm, lãng tránh và ngụy biện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
  • Không có gì quý hơn độc lập tự do
  • Dân có giàu thì nước mới mạnh
….
Nhưng dân tộc VN vẫn còn nghèo, và chưa thật sự được có độc lập tự do.
Nói chưa có độc lập là bởi vì hiện nay VN đang lệ thuộc chính trị vào Trung Quốc, là bởi vì TQ đã xâm chiếm Hoàng Sa và đang tiếp tục xâm chiếm Trường Sa của chúng ta. Nói chưa có tự do bởi chính quyền chưa cho phép thành lập phương tiện truyền thông của tư nhân (báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh), từ đó tiếng nói bất đồng/phản biện vẫn còn bị trù dập và hạn chế tác dụng.
Ai đang dẫn dắt dân tc VN? Đường lối như thế nào? Làm sao để có sự cải cách? Làm sao để giải thoát dân tộc Việt khỏi sự nghèo khổ và khỏi bàn tay của Trung cộng?

PHẦN I: KHÔNG THỂ ĐI THEO CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Tôi biết chủ đề “triết học” hiện nay ở VN thật là khô khan và nhàm chán. Tuy nhiên đất nước chúng ta đang đi vào khủng hoảng toàn diện, vì vậy sẽ không thừa chút nào khi tôi sờ vào những điểm nhức nhối nhối nhất của chủ đề này với mong mỏi đất nước chúng ta sẽ được cải cách và đi vào quỹ đạo đúng.
Học thuyết của Karl Marx đã được Lenin phát triển thành học thuyết Mac-Lenin, học thuyết này một thời được đông đảo các quốc gia hưởng ứng, nó trở thành ngọn cờ cho hàng tỷ người lao theo, trong số đó có hàng chục triệu sinh mạng đã hy sinh để chống lại tư sản (gồm tư sản phong kiến và tư sản trong CNTB). Vì vậy học thuyết Mac-Lenin trở thành CNCS.
Ngày nay (2012), CNCS đã teo tóp lại, chỉ còn TQ, VN, Cuba, Bắc Triều Tiên là các quốc gia xưng danh XHCN.
Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng đang lãnh đạo nước Việt Nam, đang đi theo chủ nghĩa cộng sản (CNCS), nói đúng hơn là đang đi theo Chủ nghĩa xã hội (CNXH), cần nói rõ là: về lý thuyết, CNXH là giai đoạn đầu của CNCS. Vì lẽ đó, tôi đã đọc lại, tư duy nó. Tôi muốn chỉ ra những thiếu sót, những mặt chưa phù hợp với thực tiễn xã hội chúng ta đang sống, từ đó có thể vạch trần âm mưu thối tha của những kẻ lợi dụng học thuyết Mac-Lennin làm tổn hại đến đất nước của chúng ta.
I. TÍNH BẤT KHẢ THI CỦA CNCS
Cụm từ “Chủ nghĩa cộng sản” chứa từ “cộng sản”.
Từ “sản” chỉ tư liệu sản xuất (TLSX).
Từ “tư sản” chỉ những người (cá nhân) sở hữu tư liệu sản xuất.
“Cộng sản” có nghĩa là “tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân”.
Người cộng sản là người theo quan điểm tư liệu sản xuất phải thuộc sở hữu toàn dân và chống lại tư sản.
1/ Bất khả thi từ định nghĩa
Định nghĩa CNCS (theo từ điển học sinh do NXB Giáo dục 1971): “Học thuyết chủ trương xây dựng một chế độ xã hội trong đó mọi điều kiện vật chất cần thiết cho sự sản xuất như ruộng đất, nhà máy, hầm mỏ,…đều là của chung của xã hội; mọi người đều lao động và cùng làm cùng hưởng, làm tùy sức hưởng theo sự cần dùng; trong xã hội không còn giai cấp, không còn nhà nước, do đó không còn áp bức bóc lột giữa người và người nữa”.
Một định nghĩa mà đến khi đọc hiểu được tôi lạnh toát mồ hôi bởi hai cụm từ chứa trong nó: “đều là của chung của xã hội” và “làm tùy sức hưởng theo sự cần dùng”. Hai cụm từ này chứa đựng sự bất khả thi của CNCS. Chủ nghĩa cộng sản bất khả thi từ định nghĩa!!! Từ sự manh nha tư tưởng đã là không thực tế. Tiếc thay người sáng lập ra nó không nhận thấy được. Tiếc thay hơn một nửa nhân loại thời ấy không nhận thấy được!!!
Tôi lạnh toát mồ hôi là vì dân tộc tôi đang bị dẫn dắt đi theo CNCS (mà tôi nhận ra ngay trong định nghĩa có 2 điểm rất lớn đã đẩy chủ nghĩa này đến chỗ bất khả thi), nói cụ thể hơn là đi đến sự nghèo đói và rối loạn.
Ở cụm từ thứ nhất: “đều là của chung của xã hội” , TLSX mà của chung của xã hội thì đặt nó ở đâu, do ai quản lý? Chắc chắn TLSX sẽ được để ở những đơn vị sản xuất (doanh nghiệp và HTX), một đơn vị sản xuất chắc chắn sẽ có ban lãnh đạo, đứng đầu là người thủ trưởng. Chao ôi, những người quản lý điều hành TLSX lại không phải là những người sở hữu TLSX thì họ sẽ làm gì chúng? Người sở hữu (toàn dân) lại là chung chung, dân đâu có cách nào để giám sát tài sản của mình khi tài sản đó đang nằm trong tay cũng như được định đoạt bởi kẻ khác. Vì vậy tài sản của dân (TLSX) chắc chắn sẽ bị tham ô, tham nhũng, bị xâu xé, chia chác bởi những quan tham. Thôi rồi, giao trứng cho ác!
Ở cụm từ thứ hai: “làm tùy sức hưởng theo sự cần dùng”, sức lao động của mỗi con người là khác nhau, có người khả năng lao động của họ gấp đôi gấp ba thậm chí gấp mười người khác, họ có sẵn sàng đem sức mình ra làm hết mình để những người làm ít hơn hưởng hay sao? Tệ hại hơn, những kẻ khả năng lao động kém họ cũng chẳng làm hết sức mình bởi dù họ làm ít hay nhiều họ cũng được hưởng theo sự cần dùng! Sự cần dùng ư? Lòng tham của con người thì dùng bao nhiêu mới đủ?! Hậu quả cuối cùng là năng suất sụt giảm thảm hại là cái chắc, hoặc chí ít nó chẳng bao giờ tăng và sự bất công sinh sôi nảy nở. Rối loạn!
Còn đây là lý giải của những người sáng lập chủ nghĩa (Marx _Anghen): hình thái xã hội cộng sản có hai giai đoạn phát triển: giai đoạn thứ nhất là giai đoạn mà xã hội mới xây dựng vừa thoát ra từ xã hội tư bản. Vì thế về mọi phương diện, xã hội ấy còn mang những dấu vết của xã hội cũ, xã hội đẻ ra nó, xã hội tư bản. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn xã hội chủ nghĩa, hay chủ nghĩa xã hội, giai đoạn thấp của CNCS. Nguyên tắc phân phối trong giai đoạn này là nguyên tắc phân phối theo lao động. Giai đoạn thứ hai của CNCS là giai đoạn xã hội cộng sản đã phát triển trên cơ sở riêng của nó, giai đoạn cao của CNCS. Trong giai đoạn này cá nhân không còn bị phụ thuộc một cách nô lệ vào sự phân công, sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc không còn; lao động trở thành nhu cầu bậc nhất của đời sống; lực lượng sản xuất cũng tăng lên cùng với sự phát triển mọi mặt của cá nhân, nguồn của cải dồi dào. Chỉ trong giai đoạn này, xã hội mới có thể thực hiện nguyên tắc phân phối của xã hội cộng sản: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Và cũng chỉ trong giai đoạn này mới tạo ra được những điều kiện cho sự phát triển toàn diện của cá nhân, các nguyên tắc của đạo đức cộng sản mới được khẳng định.
Tôi không phủ nhận các ông ấy là thiên tài bởi tầm ảnh hưởng của học thuyết do các ông ấy tạo ra và bởi tôi tin các ông ấy thực tâm đấu tranh cho lợi ích nhân dân lao động. Nhưng học thuyết các ông ấy là bất khả thi, chắc chắn điều đó. Sở dĩ tôi có thể tuyên bố điều như vậy là vì tôi sống ở thế kỷ 21 này, sau các ông ấy đến hàng trăm năm.
2/ Bất khả thi từ thực tiễn ở VN
Mô hình CNXH trên thực tế lại là mảnh đất cho độc tài sinh sôi nảy nở, nảy sinh bọn tư sản đỏ (như thời kỳ đầu của CNTB), sự lạm quyền đàn áp người bất đồng chính kiến đẩy nhiều người phải sống trong sự nô dịch về mặt tinh thần.
Lịch sử đã trả lời một số câu hỏi cho thấy tính bất khả thi của CNCS ở VN:
-         Câu hỏi: Tư liệu sản xuất là của toàn dân, vậy ai là người nắm giữ, quản lý và định đoạt khối tài sản ấy?
-         Trả lời: Nhà nước quản lý, nhà nước tổ chức một hệ thống các tổ chức kinh tế để nắm giữ và định đoạt TLSX theo quy định của pháp luật.
-         Câu hỏi: Hệ thống tổ chức nắm giữ và định đoạt TLSX là những tổ chức nào?
-         Trả lời: Trước đây gồm DNNN và HTX kiểu cũ. Hệ thống HTX kiểu cũ đã sụp đổ. Hiện nay ở VN chỉ còn DNNN là TLSX thuộc sở hữu công. Những nông trại, nông trường, nhà máy, công xưởng…thuộc DNNN.
-         Câu hỏi: Vậy ai lãnh đạo các DNNN?
-         Trả lời: những người do nhà nước bổ nhiệm đảm nhiệm các chức vụ điều hành doanh nghiệp, gọi là ban lãnh đạo. Người lãnh đạo cao nhất trong ban lãnh đạo là thủ trưởng. Thủ trưởng là một cá nhân.
-         Câu hỏi: Sở hữu là sở hữu công còn lãnh đạo lại là cá nhân. Liệu điều này có khả thi?
-         Trả lời: Đây chính là nhược điểm lớn nhất của CNCS. Nó dẫn đến hệ lụy to lớn gây tổn thất tài sản của nhân dân và làm giảm sút năng suất lao động.
-         Câu hỏi: tại sao vậy?
-         Trả lời: Những lãnh đạo trong bộ máy chính quyền là những cá nhân. Những lãnh đạo trong DNNN cũng là những cá nhân. Bản chất phổ biến của một con người là họ ưu tiên lo cho lợi ích bản thân họ trước cho dù miệng họ luôn nói vì dân vì nước, họ luôn nói chống tiêu cực nhưng họ vẫn thực hiện hành vi tiêu cực để mang lại lợi ích cho cá nhân họ. Vì vậy họ xâm phạm lợi ích của nhân dân để có lợi ích bản thân. Lãnh đạo doanh nhiệp nhà nước tham nhũng, họ không ăn hết mà trích lại một phần tiền tham những hối lộ cho lãnh đạo của chính quyền…. Sự liên kết lợi ích này bào mòn tiền của của nhân dân, nói đúng hơn là gây tổn thất của cải của nhân dân.
-         Câu hỏi: Vậy Đảng cộng sản lãnh đạo có giữ được vai trò là “đại biểu” cho lợi ích của người lao động?
-         Trả lời: Những lãnh đạo đảng nhận lợi ích lớn từ tiêu cực nghĩa là họ xâm hại lợi ích của nhân dân. Khi quá nhiều kẻ xâm hại lợi ích của nhân dân họ sẽ sợ nhân dân đấu tranh lật đổ, vì vậy xu hướng họ sẽ bảo vệ nhau, bao che nhau để cùng xâm hại lợi lợi ích nhân dân. Do vậy họ trở thành lực lượng nòng cốt trong giai cấp thống trị mà nhân dân là giai cấp bị trị. Đảng hiện nay không còn là “đại biểu” của nhân dân.
-         Câu hỏi: Vậy họ có chăm lo lợi ích nhân dân hay không?
-         Trả lời: Có. Cũng như bất kỳ giai cấp thống trị nào trên thế giới, họ luôn muốn dân họ giàu, quốc gia hùng mạnh. Tuy nhiên, họ ưu tiên cho lợi ích của họ trước. Và khi lợi ích này mâu thuẫn thì họ sẵn sàng xâm hại lợi ích của nhân dân.
-         Câu hỏi: Vậy tại sao hệ thống kiểm soát và thực thi pháp luật không hoạt động hiệu quả.
-         Trả lời: Đảng cộng sản là một tổ chức chính trị, cũng như tổ chức kinh tế hay bất kỳ tổ chức nào khác, họ sẽ ưu tiên chăm lo lợi ích thành viên của họ trước rồi mới đến lợi ích của nhân dân. Đảng cộng sản giữ độc quyền lãnh đạo, dĩ nhiên họ sẽ tổ chức hệ thống chính trị sao cho quyền lợi họ được cao nhất và thời gian tồn tại của họ được lâu nhất. Vì vậy họ sẽ tìm cách để những đảng viên nắm giữ những vị trí lãnh đạo trong chính quyền, những người giữ chức vụ cao trong đảng dễ dàng được đưa sang nắm giữ chức vụ cao trong chính quyền. Ở VN những tổ chức nhận lãnh nhiệm vụ kiểm soát kinh tế (VKS, thanh tra, và cơ quan điều tra tội phạm kinh tế) sẵn sàng gắn kết với đối tượng để chia lợi ích và bảo vệ nhau ở mức độ có thể. Mức độ có thể tùy thuộc vào cá nhân họ tự đánh giá, thường là mức độ họ cho rằng chưa đến nỗi ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ hay chưa đến nỗi bị người dân phát hiện. Tuy nhiên vẫn có nhiều vụ án bể ra, khi đó họ lại tìm cách bao che nhau tối đa. Vì vậy ta thường thấy những cá nhân trong cơ quan đảng, chính quyền, MTTQ bắt tay nhau trở thành lực lượng đối lập với lợi ích nhân dân nhưng họ luôn núp dưới cái bóng “của dân, do dân, vì dân” để ẩn mình trong những việc làm xấu xa, bỉ ổi.
Tóm lại: CNCS không khả thi ở bất kỳ quốc gia nào, do đó không thể tồn tại lâu dài. Các nhà sáng lập CNCS và các vị lãnh đạo cao nhất của CNCS chưa bao giờ đưa ra được một mô hình kinh tế khả thi, những năm tháng tăng trưởng kinh tế mạnh ở TQ và VN là nhờ họ cho phép kinh tế tư nhân tồn tại như trong mô hình CNTB, điều mà trước đó họ luôn bài trừ. Trên thế giới, trong thời gian tồn tại của mình, CNCS chỉ có thể thúc đẩy CNTB điều chỉnh hoàn thiện hơn mà thôi. CNCS là một bài học lớn của loài người về phương thức đấu tranh trong quan hệ xã hội giữa người với người cũng như giữa các lực lượng đối lập lợi ích với nhau.
II. TẠI SAO MỘT CHỦ NGHĨA BẤT KHẢ THI MÀ CÓ ĐẾN MỘT NỬA NHÂN LOẠI TỪNG THEO NÓ?
Karl Mark và Lenin là những thiên tài chính trị nhưng không phải là tiên tri. Có thể hai vị này muốn tìm cách để bọn tư sản thời ấy không còn bóc lột công nhân.
Trước tiên, cần nhìn nhận rằng với tình hình lúc ấy, CNCS là vũ khí lợi hại nhất để chống lại tư sản. Tư sản lúc ấy khác tư sản ngày nay nhiều. Tư sản ngày nay đa số là doanh nhân, được tôn trọng, thậm chí ngay tại VN còn được chọn vinh danh. Số lượng tư sản lúc ấy còn rất ít so với ngày nay và cũng còn rất ít so với lực lượng người lao động, bởi thế nên sự cạnh tranh giữa các tư sản trên thị trường hàng hóa và thị trường lao động chưa đủ mức cần thiết. Đó là nguyên nhân chính làm cho bọn chúng bóc lột quá mức và sẵn sàng hành hạ công nhân. Nhưng nhân loại lúc ấy chưa nhận thức ra rằng “không thể  chống lại sự bóc lột bằng cách triệt tiêu tư sản, cái cần thiết phải xây dựng cơ chế thị trường cạnh tranh mức độ cao và thiết lập một thể chế dân chủ”. Sự đấu tranh cũng rất cần thiết nhưng cách đấu tranh nhằm loại trừ vĩnh viễn tư sản và thiết lập chế độ công hữu TLSX là điều bất khả thi.
Bức tường Berlin đã sụp đổ là niềm vui của nhân dân Đức, là sự khẳng định CNCS không thể đưa con người phát triển được.
Cho dù bạn là tiến sĩ, giáo sư hay một chuyên gia nghiên cứu, việc bạn lập nên một dự án bất khả thi là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Hãy thử nghĩ về một dự án kinh doanh của bạn, đương nhiên bạn phải tin tưởng nó khả thi thì bạn mới thực hiện. Nhưng khi đi vào thực tiễn thực hiện gặp thất bại rồi bạn mới nhận ra bài học và thừa nhận nó bất khả thi. CNCS thời Karl Marx và Lenin đa số con người sống trên trái đất này không nhận ra tính bất khả thi của nó. Điều đó cũng giống như loài người từng ngộ nhận rằng “mặt trời quay quanh trái đất”, hay một số dân tộc từng ngộ nhận rằng “trái đất hình vuông”. Kể cả những người học cao hiểu rộng cũng từng nghĩ rằng CNCS là khả thi và sẵn sàng hy sinh để đưa loài người đến với nó. Rất tiếc, đó là sai lầm.
Một yếu tố tạo nên sức mạnh vũ bão của CNCS trước đây là tinh thần đấu tranh mãnh liệt đang lên đỉnh điểm của người lao động chống lại những ông chủ bóc lột. Họ sẵn sàng đi theo bất cứ ngọn cờ nào chống lại tư sản với lý tưởng cùng sự nôn nóng giành lại công bằng. Vì thế họ lao theo CNCS mà không hề biết hậu quả rằng điều gì sẽ đến sau khi tiêu diệt hoàn toàn tư sản. Tai họa!
Tại VN, CNCS được tiếp nhận như một con đường chống lại thực dân và đế quốc ngoại xâm. Ý thức bài ngoại ăn sâu trong tâm trí người việt là nhân tố cộng hưởng tạo nên làn sóng nhân dân đi theo cộng sản dâng lên cao ngút không những về lượng mà còn bằng cả sự hăng hái nhiệt tình. CNCS đã giúp nhân dân VN đẩy lùi nguy cơ bị thực dân và đế quốc thôn tín. Nhưng CNCS  vốn dĩ bất khả thi nên đã để hậu quả rất lớn mà nhân dân VN phải chịu đựng trong suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh. Nói rõ ràng là những tay cơ hội đã lợi dụng CNCS để nắm quyền cai trị độc tài với vỏ bọc là CNXH.
PHẦN II: VIỆT NAM NÊN ĐI THEO CON ĐƯỜNG NÀO?
1. Tất yếu phải đi theo con đường CNTB
Sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là ngành tin học đã giúp con người dễ dàng gắn kết với nhau. Sự tự do kinh doanh hình thành vô số doanh nghiệp cạnh tranh nhau. Từ đó tạo thế cân bằng giữa người lao động và người sử dụng lao động. Các quốc gia tiên tiến đi theo CNTB đã trao công cụ làm chủ cho nhân dân, thứ nhất nhân dân được bầu cử trực tiếp nguyên thủ quốc gia gắn với sự cạnh tranh chính trị đa nguyên đa đảng, từ đó người dân được chọn lựa người lãnh đạo đất nước mình, thứ hai người dân được phép biểu tình bất bạo động kèm theo những quyền khác như quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận…tạo nên một sức mạnh lớn lao trong dân chúng mà bất cứ chính phủ nào cũng phải khuất phục.
Đã qua rồi thời kỳ CNTB man rợ (thời Karl Marx sống). CNTB đã tiến bộ nhiều so với trước, cứ 50 năm nhìn lại là CNTB đã tiến một bước dài. Kinh tế phát triển rất mạnh mẽ trong giai đoạn CNTB so với giai đoạn chế độ quân chủ chuyên chế (Phong kiến). Ở các nước CNTB phát triển, ngày nay chế độ an sinh rất tốt. Người thất nghiệp, người đau ốm, người tàn tật, người về hưu, sản phụ…được chăm sóc tốt hơn. Đời sống người lao động đạt mức khá cao, có thể có nhà cửa khang trang, sở hữu xe ôtô, hưởng các dịch vụ công hiện đại, lại được sống trong môi trường sạch sẽ, tự do. Nạn bóc lột đã giảm thiểu, nạn tham nhũng được đẩy lùi thông qua sự cạnh tranh chính trị. Sự chênh lệch giàu nghèo mặc dù còn cao nhưng ngày càng được điều tiết tốt hơn qua thuế thu nhập (TNDN, TNCN).
CNCS có người sáng lập và có người tìm cách phát triển lên. CNTB lại phát triển không hề có người sáng lập, nó phát triển theo quy luật của sự vận động.
Nói ‘tư bản bóc lột công nhân tận xương tủy’ chỉ đúng ở giai đoạn đầu của CNTB. Ngày nay nó không đúng nữa. Một doanh nhân muốn có lợi nhuận họ phải chấp nhận rủi ro (có thể bị thua lỗ) và phải lao động trừu tượng từ sự tổ chức sản xuất, cải tiến công nghệ và nghiên cứu nhu cầu thị trường. Lợi nhuận của doanh nghiệp là động lực phát triển kinh tế, giúp con người thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu.
Mặt trái của CNTB: con người chạy theo vật chất, sự tích lũy ngày càng lớn của giới kinh doanh và sự tích lũy quá ít của người lao động làm thuê nên khoảng cách giàu nghèo trở thành sự thách thức cho xã hội. 1% dân số nắm giữ phần lớn TLSX làm cho 99% còn lại cảm thấy bị thiệt thòi.
Dù có những mặt hạn chế nhưng CNTB mang một sứ mệnh hết sức quan trọng trong lịch sử loài người, đó là khai bật sức lao động và sáng tạo của loài người làm cho của cải và trình độ dân trí tăng lên chưa từng có. CNTB giải phóng cuộc sống con người thông qua con đường kinh tế và kết nối con người trên toàn thế giới với nhau để chuẩn bị cho thế hệ tương lai sẵn sàng bước giai đoạn mới sau đó, có thể là cuộc cách mạng khám phá vũ trụ hay thế giới siêu hình, cũng có thể là giai đoạn con người vượt lên chính mình để làm chủ các tiểu hành tinh.
2) Tại sao phải đa nguyên đa đảng?
Thể chế đa nguyên đa đảng với môi trường cạnh tranh chính trị thông qua bầu cử có những ưu việt mà thể chế độc đảng không thể có được. Có 3 đặc tính ưu việt cốt lõi nhất, đó là:
-         Sự giám sát chéo: không có ai giám sát hiệu quả bằng đối thủ. Trong thể chế đa đảng, đảng này giám sát đảng kia, cái xấu của đối phương sẽ được lôi ra công luận để tất cả nhân dân đều biết. Khi một đảng có nhiều cái xấu bị phát hiện, nhân dân sẽ không bầu cho đảng đó, nói rõ hơn là nhân dân sẽ không bầu cho ứng cử viên tổng thống/thủ tướng của đảng bị mất lòng tin tại thời điểm bầu cử. Vì vậy các đảng sẽ tự mình phải chính đốn để không bị mất lòng tin.
-         Sự thi đua: Đó chính là sự phấn đấu cạnh tranh giữa các đảng, đảng nào cũng muốn thuyết phục với dân chúng khả năng lãnh đạo của mình, vì vậy có động lực để các đảng thi đua ra sức phục vụ nhân dân.
-         Nhân dân được trao công cụ làm chủ đất nước: nhân dân có trong tay 2 công cụ làm chủ: lá phiếu và biểu tình. Khi nhân dân bất mãn điều gì bức bách, nhân dân có thể biểu tình mà không sợ bị quy kết tội “gây rối trật tự công cộng’, và không ai phải sợ bị quy kết tội xúi giục/kích động hay tuyên truyền chống phá nhà nước. Khi nhân dân muốn chính phủ làm gì theo ý mình, nhân dân cũng có thể biểu tình. Khi một đảng dùng sức mạnh ‘cơ bắp’ của mình để trấn áp, tiêu diệt đảng khác, nhân dân sẽ không bầu cho chúng, nếu chúng còn hung hăng, nhân dân sẽ biểu tình để triệt tiêu quyền lực của chúng. Vì vậy nhân dân sẽ hẫu thuẫn cho đảng nào bị đảng khác làm tổn hại, để đảm bảo chính trường luôn được trong sạch, công bằng và bền vững.
Với 3 đặc tính ưu việt này, thể chế đa nguyên đa đảng sẽ đẩy lùi tiêu cực và khuyến khích năng lực phát huy nhằm phục vụ nhân dân được tốt nhất.
Trong chế độ độc đảng, cho dù lãnh đạo có năng lực đi nữa thì năng lực ấy sẽ bị danh lợi dìm chết, vị lãnh đạo độc tài lo vơ vét của cải và quyền lực về cho mình cùng phe cánh nên không chuyên tâm phục vụ nhân dân.
Do đó, trong thể chế đa đảng, tiêu cực khó phát sinh, đặc biệt là tiêu cực lớn rất khó phát sinh. Thay vào đó, người lãnh đạo sẽ cố gắng khai thác chất xám của mình để nâng cao giá trị cho chính mình, qua đó người dân sẽ được lợi. Sự phục tùng dân chúng sẽ trở thành nguyên tắc để các đảng phái tồn tại và tỏa sáng.
Bên cạnh đó, thực thi tam quyền phân lập sẽ tránh được tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi, lập pháp-hành pháp-tư pháp: mỗi ngành đều nổ lực phát huy quyền lực của mình mà không bị ngành khác khống chế hay áp đảo.
Kết luận: Tốt hơn hết, chúng ta hãy đi theo CNTB đa nguyên đa đảng tam quyền phân lập, và cố gắng khắc chế những mặt trái của nó, còn sau CNTB là cái gì thì để vài trăm năm nữa con cháu chúng ta sẽ tự lựa chọn cho mình.
3) Lý giải những băn khoăn
a) Tại sao một số nước đa đảng vẫn còn đói nghèo?
Tại sao một số nước có thể chế đa nguyên đa đảng lại còn nghèo, GDP/đầu người và HDI (chỉ số phát triển con người) thấp? Thậm chí còn có cả bạo lực, bất ổn ở các nước này.
Cụ thể là Pakistan, Bangladesh còn nghèo hơn cả VN.
Indonesia, Philippin độc lập đã lâu mà vẫn còn nghèo, mặc dù giàu hơn VN nhưng chỉ tương đương TQ?
Trả lời:
Đối với một vấn đề lớn, trước tiên ta hãy nhìn vào tổng thể của nó. Những nước tiên phong áp dụng thể chế đa đảng đã thành công.  Tiếp theo là các con hổ Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore…Hiện nay, đa số các nước có thể chế đa đảng là những nước phát triển. Tuy nhiên, một quốc gia phát triển nhanh hay chậm, có thịnh vượng hay không còn phụ thuộc vào một số yếu tố, có thể kể một vài yếu tố quan trọng: thể chế chính trị, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, địa hình, điều kiện tự nhiên, văn hóa, dân trí, … Thể chế chính trị là một yếu tố quan trọng cấu thành nên sự hưng thịnh của một quốc gia nhưng nó không phải là ‘thuốc tiên’ để có thể thay thế mọi thứ.
Indonesia, Philippin, Pakistan, Bangladesh…Nhìn vào các nước này, ta thấy họ có điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Nếu một nước có điều kiện tự nhiên không thuận lợi thì đất nước đó sẽ phát triển chậm hơn, những trở lực từ thiên nhiên như hạn hán, bão lụt, động đất, sóng thần (thiên tai), đất đai không màu mỡ, thiếu đồng bằng, nhiều đồi núi/sa mạc…
Tất nhiên tinh thần, ý thức con người có thể vượt qua, tấm gương điển hình là Nhật bản. Nhưng chuyện đòi hỏi dân tộc nào cũng có tinh thần, ý thức như Nhật bản là điều không thể!
Nói như vậy không có nghĩa là các nước này mãi nghèo. Indonesia và Philippin rất có tương lai.
Bắc Triều Tiên nghèo đói, một nước lẽ ra phải giàu như Hàn Quốc nhưng rớt vào cái nghèo thê thảm là do thể chế chính trị không phủ hợp, nói đúng hơn là một thể chế tai hại mà Bắc Triều không may gặp phải.
Về tổng thể, Việt Nam và TQ có điều kiện tự nhiên khá tốt. Nếu xét về ‘ tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên’ thì VN và TQ hơn hẳn Indonesia, Philippin. Vì vậy việc so sánh tốc độ tăng trưởng kinh tế trong một giai đoạn vủa VN (hay TQ) với Indonesia (hay Philippin) để nói thể chế nào tốt hơn là điều khập khiễng.
Điều cần thấy là nếu VN cổ phần hóa tất cả DNNN thì kinh tế VN sẽ tăng trưởng với tốc độ cao hơn. Điều cần thấy nữa là nếu đa đảng thì tham nhũng ở VN chắc chắn giảm đi nhiều lần và nhân quyền được tôn trọng hơn.
Rõ ràng là VN có điều kiện tự nhiên tốt hơn Ấn Độ nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế VN còn thua Ấn Độ. VN có đầy đủ các yếu tố, chỉ thiếu một thể chế chính trị phù hợp để trở thành quốc gia hưng thịnh.
Còn chuyện bạo lực ư? Chuyện bạo lực thường xuyên xảy ra tại một số vùng ở một số nước là có, nhưng nó còn đỡ hơn là thảm sát Thiên An Môn ở TQ và chà đạp nhân quyền ở VN hay Bắc triều Tiên.
Sau cùng, ta đừng nghĩ rằng Singapore là nước không dân chủ nhé. Đảng của ông Lý Quang Diệu thắng cử và lãnh đạo Singapore suốt hơn nửa thế kỷ. Đó là điều rất tốt mà Đảng CSVN phải học tập. Điều đó cho thấy trong thể chế đa đảng, một đảng tốt có thể được nhân dân tin tưởng và chọn lựa trong suốt nhiều thập kỷ.
b) Khi cải cách chính trị hoặc có những biến cố để chuyển sang thể chế đa đảng, liệu VN có gặp bất ổn, thậm chí là xảy ra đấu đá giữa các phe phái hay không?
Tổn thất từ hệ thống DNNN và tham nhũng từ 1975 đến nay (quy đổi) đã vượt qua con số 1 triệu tỷ đồng. Chúng ta có muốn tiếp tục tổn thất hay không?
Muốn có sự thay đổi phải chấp nhận sự xáo trộn nhất định.
Mức độ bất ổn tùy thuộc vào những hành động của Đảng CSVN. Đảng CSVN càng có thiện chí thì càng dễ dàng cho sự chuyển đổi. Nếu Đảng CSVN nhất quyết giữ chế độ độc đảng, đi ngược lại lợi ích dân tộc, sẽ có tổn thất về nhân mạng. Khi có càng nhiều tù nhân chính trị và những người đấu tranh hy sinh tính mạng, có nghĩa là Đảng CSVN tự đánh mất giá trị của mình, hơn thế nữa người dân sẽ có cái nhìn không tốt về quá khứ, như vậy những người lãnh đạo đảng hiện nay sẽ có tội với tiền nhân, có tội với bao lớp người theo đảng đã hy sinh xương máu của mình.
Nước Đức quá hạnh phúc khi thống nhất Đông Đức và Tây Đức để xóa bỏ CNCS mà không phải đổ máu (Khi sáp nhập, GDP của Đông Đức chỉ chiếm 7% trong tổng số, GDP của Tây Đức chiếm 93%). Liên Xô rất may mắn khi đã chuyển đổi thành công tuy có bất ổn kinh tế nhất định.
Dân tộc Việt Nam liệu có may mắn như thế chăng? Được hay không phụ thuộc vào sự đấu tranh của chúng ta, từ đấu tranh trong nội bộ đảng đến đấu tranh rộng rãi trong quần chúng, nhất là trong lực lượng trí thức, đặc biệt là sinh viên.
Bạn sợ tù tội ư? Bạn sợ bị trù dập ư? Bạn sợ ảnh hưởng đến người thân ư? Đến phần giải pháp, bạn sẽ nghĩ ra và chọn cho mình một cách phù hợp để góp phần vào phong trào đấu tranh, tình hình hiện nay đang rất cần những con người có trách nhiệm với đất nước.
PHẦN III: NHỮNG TỬ HUYỆT CỦA ĐẢNG CSVN
1)      Hệ thống DNNN yếu kém
-         Thứ nhất, DNNN là nơi tham nhũng sinh sôi không thể khống chế, nảy sinh bởi những kẻ điều hành nó (đã phân tích ở phần I)
-         Thứ hai, DNNN có năng suất sản xuất thấp và hoạt động kém hiệu quả.
Bởi những người điều hành DNNN không bỏ đồng xu nào trong vốn của DNNN nên họ chỉ lo tư túi chứ đâu có lo chuyện tăng năng suất hay hiệu quả của DNNN. Họ tham nhũng xong, trích một phần đem hối lộ cho lãnh đạo cơ quan quản lý của họ. Vì vậy DNNN như một cơ thể bệnh tật, thiếu đề kháng và đi dần đến chỗ thua lỗ, phải chuyển đổi hoặc phá sản. Tiền của dân đã chạy vào túi quan tham qua hệ thống DNNN này.
Thủ tướng chính phủ đã từng tuyên bố “ năm 2010 cơ bản hoàn thành cổ phần hóa DNNN” nhưng thực tế thì việc cổ phần hóa DNNN vẫn ì ạch, các DNNN tiếp tục thua lỗ và xảy ra tiêu cực.
2)      Tham nhũng tràn lan
-          Điều này ai cũng đã rõ, có lẽ không phải phân tích nhiều. Thể chế đẻ ra những cơ chế nuôi béo quan tham. Tham nhũng ở VN gắn liền với ‘kinh tế thị trường định hướng XHCN’ thống trị bởi một đảng duy nhất là Đảng CSVN. Tham nhũng xảy ra ở hai môi trường chính: chi tiêu ngân sách và hệ thống DNNN. Tham nhũng nhiều nhất dưới hai hình thức: nhận hối lộ (ăn hoa hồng, tiền bồi dưỡng, nhận tiền chạy án, tiền mua chức quyền…) và rút ruột công trình. Tham nhũng xảy ra ở mọi cấp từ TW đến địa phương nhưng thực tế TW vẫn luôn nằm trong “vùng tối”, cơ quan chống tham nhũng khó mà đụng vào.
3)      Lạm quyền và vi phạm nhân quyền
Lạm quyền ngày càng trầm trọng và trở nên nghiêm trọng từ sau đại hội đảng lần thứ 11 (năm 2011), năm 2012 liên tiếp các vụ cưỡng chế kinh hoàng xảy ra như vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng (Đoàn Văn Vươn), Văn Giang, Vụ Bản… Trước đó tòa án cấu kết với chính quyền địa phương vi phạm pháp luật, xử ép Đoàn Văn Vươn để thu hồi đất, tiếp theo huy động cả công an và quân đội mấy trăm người để cưỡng chế. Nhưng không có quan chức nào trong vụ này bị xử tù cả.
Công an bất chấp pháp luật, ngang nhiên hành hung nhiều người, nổi bật là vụ hành hung 2 nhà báo của VOV trong lần cưỡng chế ở Văn Giang. Cuối cùng, huề cả làng, không có thằng an ninh nào bị xử lý thích đáng cả!
Việt Nam đã tham gia Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc biểu quyết năm 1966 (Việt Nam tham gia năm 1982). Theo công ước này thì:
“Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng nào khác theo sự lựa chọn của mình” .
Thế nhưng hệ thống chính trị vẫn ngang nhiên vi phạm công ước này.
Bộ luật hình sự quy định tội “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88) và “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” (Điều 79), không có điều nào quy định tội “tuyên truyền chống phá đảng”. Nhưng công dân nào tuyên truyền (rải truyền đơn/viết bài trên mạng…) đòi đa đảng là bị quy chụp vào 1 trong 2 tội trên và bị xử tù giam. Bằng hành vi này, hệ thống chính trị đã vi phạm Hiến Pháp: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội” (Điều 69).
Dòng chúa cứu thế (DCCT) và một số tôn giáo khác thường lên tiếng bảo vệ nhân quyền, họ lên án chính quyền đã vi phạm nhân quyền…vì vậy họ đã bị chính quyền đàn áp. Do đó nhiều tổ chức ở nước ngoài và nhiều linh mục trong nước đã cáo buộc chính quyền đàn áp tôn giáo.
Như vậy hệ thống chính trị đã vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhưng họ vẫn cố tình tiếp tục vi phạm để đàn áp phong trào đấu tranh ngày càng dâng cao.
Vấn nạn lạm quyền và vi phạm nhân quyền được sinh sôi nảy nở bởi chế độ độc tài cộng sản đang hiện diện ở VN.
4) Lệ thuộc chính trị vào Trung Quốc dẫn đến chủ quyền HS-TS bị chiếm đã lâu chưa đòi lại được.
TQ vẫn ngang nhiên tiếp tục gây hấn. Hoàng Sa bị TQ chiếm trọn từ 1974, đến nay đã gần 40 năm nhưng vẫn chưa đòi lại được. Một phần Trường Sa bị TQ chiếm 1988, đến nay TQ cũng chưa trả lại còn muốn chiếm trọn TS của chúng ta. Nhân dân đấu tranh, biểu tình chống TQ xâm lược đã nổ tra trong 3 năm (2007, 2011 và 2012).
TQ có thể chế chính trị độc tài mang danh nước XHCN! VN cũng có thể chế chính trị độc tài mang danh nước XHCN (giống TQ). Có một sự lệ thuộc trong ý thức hệ vì sự tồn tại của Đảng CSVN!
VN từng được TQ viện trợ vũ khí trong kháng chiến chống Mỹ. Nhưng TQ cũng từng tiến hành chiến tranh biên giới với VN năm 1979.
VN là nước nhập siêu từ TQ rất lớn gây bất lợi cho VN trong cán cân thanh toán quốc tế. Hàng kém chất lượng, kém vệ sinh từ TQ vẫn thường xuyên tuồn qua VN.
Chính những yếu tố trên gây bức xúc trong dư luận, và này càng có nhiều người muốn rời xa bàn tay TQ để không bị lệ thuộc TQ nữa, điều này là điều Đảng CSVN không mong muốn, từ đó mâu thuẫn giữa ý chí của nhân dân và chính quyền ngày thêm sâu sắc.
5)   Rạn nứt trong hệ thống đảng và chính quyền
Đường lối của Đảng đã không đưa VN trở nên thịnh vượng.
Những người yêu nước muốn sự cải cách vì lợi ích của nhân dân.
Những người khác muốn bảo vệ chế độ để bản thân và con cháu họ có thể đứng vào hàng ngũ giai cấp thống trị được lâu dài, hưởng đặc quyền đặc lợi, sống cuộc sống giàu có và quyền lực.
Mâu thuẫn giữa 2 tư tưởng tạo ra sự rạn nứt trong đảng và chính quyền.
Sự đấu tranh ngày càng trở nên gay gắt.
6)   Bị các nước tiên tiến chỉ trích
Những quốc gia phát triển đều nhờ thể chế chính trị dân chủ đa đảng. Họ luôn có khuynh hướng bảo vệ nhân quyền và không thíchh độc tài. Vì vậy họ luôn chỉ trích TQ và VN vi phạm nhân quyền, hạn chế tự do ngôn luận. Họ luôn muốn TQ và VN cải cách chính trị.
Đây là những áp lực cho cả VN và TQ khi 2 nước đã mở cửa mậu dịch và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Tóm lại: Việt Nam mang danh XHCN nhưng thực ra là “hồn trương ba da hàng thịt”, chỉ có lợi cho giai cấp thống trị, đẻ ra bọn tư sản đỏ. Mô hình chính trị của VN mang màu sắc nửa phong kiến nửa tư bản nhưng lại mang danh XHCN, không phù hợp với sự tiến bộ của loài người. Điều đó báo hiệu một sự thay đổi trong tương lai không xa.
PHẦN IV: NHỮNG THỦ ĐOẠN CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG CSVN
Cần nói rõ rằng Đảng CSVN ngày nay đã biến chất so với Đảng CSVN do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Không thể chấp nhận việc lấy những giá trị của đảng trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, Mỹ để phủ bác sự ra đời của đảng mới. Càng không thể cho rằng nhân dân đã tin tưởng giao phó cho đảng  lãnh đạo nên đảng cứ tiếp tục lãnh đạo toàn diện được. Muốn biết nhân dân có còn tin đảng không, muốn biết nhân dân có chấp nhận đảng tiếp tục lãnh đạo hay không, muốn biết nhân dân có muốn đa đảng hay không, phải trưng cầu dân ý trong điều kiện tự do báo chí trong lĩnh vực chính trị.
Quyền lực của nhân dân dần trở nên mờ nhạt và chỉ còn về mặt hình thức, hay nói cụ thể hơn là chỉ còn trên ngôn từ trong văn kiện của Đảng mà thôi. Sự hấp dẫn của quyền lực và lợi ích vật chất kéo theo đã đẩy hệ thống XHCN đến chỗ độc tài. Quyền lực dồn về Đảng và tập trung ở bộ phận chóp bu. Chính trường do nhóm chóp bu này ở “hậu trường” đạo diễn. Quyền lực của QH yếu đi, quyền lực CTN yếu đi, quyền lực Đảng tăng lên và tập trung ở BCT do khoảng 15 ủy viên nắm giữ. UBMTTQ, đoàn thanh niên, công đoàn…trở thành công cụ của Đảng.
Cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh đã không được những người thừa kế áp dụng.
Từ trước khi thành lập Đảng CSVN (1930), Hồ Chí Minh đã chỉ trích thực dân Pháp kiểm duyệt báo chí. Thế mà ngày nay, điều này còn tồn tại ở Việt Nam.
Những người thừa kế xây dựng lăng tẩm, tượng đài và ra sức ca ngợi Hồ Chí Minh để núp vào đó ngấm ngầm thực hiện độc tài. Đây chắc chắn là điều mà Hồ Chí Minh không mong muốn.
Những con quỷ dữ đang chui vào trong đảng và giành lấy những vị trí cao nhất. Oan nghiệt. Dân tộc VN lại phải mang lấy một kiếp nạn. Khổ.
Đảng ngày nay đã khác, đã thối nát, và cần phải để nhân dân có quyền lựa chọn thể chế chính trị phù hợp cho đất nước của mình trong tình hình mới.
1)         Âm thầm phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh
Miệng nói một đằng, chân đi một nẻo. Đảng CSVN hiện nay không đi theo tư tưởng HCM, nhưng họ lãng tránh điều đó và ra vẻ như trung thành với tư tưởng của người.
Ngay khi Hồ Chí Minh vừa mất, người ta đã làm sai di chúc của người. Lợi dụng tình cảm nhân dân dành cho Bác, Đảng đã đem thi hài của người ướp hóa chất bảo quản và xây lăng tẩm thật hoành tráng. Trình độ dân trí lúc ấy làm sao nhận ra tác hại của việc này khi mà trong di chúc Hồ Chí Minh đã yêu cầu hỏa táng thi thể của mình và chia tro cho ba miền như lời dặn: “Hỏa táng thi hài; tro hỏa táng chia làm ba phần, bỏ vào ba hộp sành cho miền Bắc, Trung, Nam; mỗi hộp tro hỏa táng được chôn trên một quả đồi, không dựng tượng đồng, bia đá trên đó”.
Ngay ở nội dung này của di chúc, ta thấy cái tầm tư tưởng của Hồ Chí Minh. Cái quyền định đoạt thi thể của mình mà vị lãnh tụ vĩ đại cũng bị Đảng khước từ. Sự sai trái này của Đảng đã bị những lãnh đạo kế nhiệm sau này lợi dụng. Họ phô trương hình thức để núp bóng người cha già dân tộc đáng kính. Đảng ngày càng suy thoái, và càng suy thoái thì họ càng ca ngợi HCM, càng suy thoái thì họ càng ra sức hô hào về những trang sử hào hùng của đảng mà HCM đã dày công xây dựng. Họ mài lịch sử để mong được giữ quyền lực độc tài lâu hơn.
Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã nói “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”. Bây giờ, chẳng những che giấu khuyết điểm mà Đảng còn trù dập người chỉ vào những khuyết điểm của Đảng.
Tư tưởng cốt lõi của HCM là thực thi dân chủ, lấy dân làm gốc.
Hồ Chí Minh đã từng chỉ trích thực dân Pháp không cho tự do báo chí.
Dưới đây là 2 điểm chính mà Đảng đã làm trái tư tưởng HCM nhưng Đảng luôn né tránh, luôn tìm cách ngụy trang cho mình, ngụy biện cho hành vi gian trá này:
a) Vấn đề “tự do báo chí và tự do ngôn luận”
Năm 1919, HCM đã gửi đến chính phủ Pháp và các chính phủ đồng minh bản yêu sách gồm 8 điểm, trong đó có đòi tự do báo chí và tự do ngôn luận.
Năm 1920, tại đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã Hội Pháp, HCM phát biểu: “ Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có”.
Năm 1924, HCM viết như sau: “Giữa thế kỷ XX này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo! Các bạn có thể tưởng tượng được như thế không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi. Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như ta thấy ở Châu Âu và các nước Châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính quyền thành lập và do bọn tay chân điều khiển, chỉ nói đến chuyện nắng mưa, tán dương những kẻ quyền thế đương thời, kể chuyện vớ vẩn, ca tụng công ơn của nền khai hóa và ru ngủ dân chúng. Báo đầu đọc người ta như thế, thì ở Đông Dương cũng có 3-4 tờ đấy”.
Báo Dân Chúng ra đời vào năm 1938. Trụ sở báo Dân Chúng đặt tại số 43 đường Lê Thị Hồng Gấm, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, thời Pháp thuộc (1938) là đường Hamelin.
Nội dung chính của báo Dân Chúng là:
  • Tuyên truyền lý luận, đường lối quan điểm chính sách của Đảng;
  • Cổ động và tổ chức quần chúng đấu tranh thực hiện các khẩu hiệu dân chủ và          chống chiến tranh phát xít;
  • Đấu tranh chống Tơ rốt kít;
  • Cổ vũ cho mặt trận dân chủ Đông Dương, ủng hộ mặt trận dân chủ ở các nước đấu tranh chống phát xít, đặc biệt là ở Tây Ban Nha, Trung Quốc, ủng hộ mặt trận bình dân Pháp, chống sự hữu khuynh của Chính phủ Pháp, ủng hộ Liên bang Xô Viết.
Báo Dân Chúng là tờ báo ra được nhiều số, đứng thứ 3 trong lịch sử báo chí trước tháng 8 năm 1945, là tờ báo được vinh dự đăng bài đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cho báo trong nước trong thời kỳ vận động dân chủ, là tờ báo in có số lượng cao nhất, có nhiều bạn đọc nhất trên đất Đông Dương trong cả quá trình lịch sử trước Cách Mạng tháng 8 năm 1945.
Ngày 22/7/1938, báo Dân Chúng ra số báo đầu tiên. Ngày 7/9/1939, nhà cầm quyền Pháp đã ra lệnh đóng cửa báo Dân Chúng. Báo Dân Chúng đã ra 81 số. (Đọc thêm tại đây)
Như vậy dưới thời thực dân Pháp đã có hơn một năm, Thực dân Pháp cho phép tự do báo chí.
Còn ngày nay, 74 năm sau, năm 2012, dưới sự cai trị của Đảng CSVN thì sao?
Có đến hàng trăm tờ báo nhưng không có báo chí tư nhân. Tự do báo chí chỉ có ở các lĩnh vực phi chính trị. Lĩnh vực chính trị bị kiểm soát chặt, một sự kiểm duyệt kiểu mới. Trước tiên, lãnh đạo các tờ báo này đa số là những đảng viên, nhất là các tờ báo lớn, được quán triệt tư tưởng Đảng.
Ngày báo chí VN 21/6/2012, Bộ trưởng công an Trần Đại Quang đã cảnh báo báo chí không được xa rời mục tiêu chính trị và bỏ quên việc ‘định hướng dư luận xã hội’. Và đây, xem những gì ông này nhắc nhở:
“Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về an ninh, trật tự,” .
“Báo chí công an nhân dân cần tích cực tham gia và thể hiện vai trò đi đầu trong cuộc đấu tranh chống ‘diễn biến hòa bình’ trên lĩnh vực tư tưởng… phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh phòng, chống ‘diễn biến hòa bình’, ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’”
Lời của một ông quan nắm quyền ‘bắt bớ, giam giữ, điều tra’ để chuyển qua tòa án ‘xử tội’ những ai làm trái thì khó có lãnh đạo tờ báo nào dám chống lại.
Như vậy báo chí không những bị áp đặt tư tưởng chính trị mà còn bị ép làm công cụ tuyên truyền đường lối của Đảng, thử hỏi báo chí có tự do ngôn luận về mặt chính trị không?
Những nhân sự có tư tưởng đổi mới hay chỉ trích chính quyền hay cố phơi bày cái xấu của Đảng sẽ dần dần bị loại khỏi hàng ngũ. Những sự kiện “nhạy cảm” nổi cộm có ảnh hưởng đến quy tín của Đảng phải có chỉ đạo từ Đảng để xem xét cho đăng hay không đăng hoặc tóm gọn, gọt dũa, thậm chí bẻ cong nó rồi mới đăng tin.
Ví dụ 1:  tin tức về biều tình (2011) chống Trung Quốc xâm lược lúc thì “nín thinh”, lúc thì đăng cực ngắn với những từ ngữ đã bị “làm nhẹ” đi như từ “biểu tình” được viết thành “tụ tập”, thông tin đăng tải không phản ánh được mức độ, màu sắc của sự kiện.
Ví dụ 2: Tin tức về cưỡng chế ở Tiên Lãng thì được tự do đăng tải, nhưng ở các vụ sau đó như cưỡng chế ở Văn Giang, Vụ Bản thì không đăng!
Sự kiểm duyệt báo chí rất tinh vi của Đảng CSVN khiến nhiều thông tin bị bưng bít, đa số dân chúng không biết tin. Trong khi các tin tức phi chính trị thì đầy ắp các trang báo. Nhiều thông tin bị bẻ cong, đăng sai sự thật trên các báo nhất là báo QĐND, CAND, Hanoimoi, ANTĐ…Điều này gây ngộ nhận cho đa số người dân trong nhận thức chính trị, lĩnh vực vốn bị Đảng CSVN nhồi sọ học sinh sinh viên suốt những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường.
Như vậy tự do báo chí trong lĩnh vực chính trị đã chưa hề xuất hiện sau khi chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước (1975). Một điều tồi tệ hơn cả thời thực dân Pháp.
Mặc dù Hiến Pháp cho tự do báo chí, tự do ngôn luận (Điều 69), mặc dù VN đã tham gia công ước quốc tế nhằm thực thi quyền này, nhưng thực tế thì những người cầm quyền thông qua hệ thống công an, tòa án đã bất chất pháp luật, chà đạp quyền này của người dân. Ngày càng nhiều những nhà bất đồng chính kiến phải vào tù vì họ cố gắng bày tỏ mong muốn cải cách chính trị với mong muốn đa nguyên đa đảng…Chưa hề có tự do ngôn luận về mặt chính trị từ 1975 đến nay!
“Hội hè, tín ngưỡng, báo chương
Họp hành đi lại có quyền tự do”
(Hồ Chí Minh)
Tư tưởng của HCM về tự do báo chí, tự do ngôn luận nay đã bị những người lãnh đạo Đảng CSVN âm thầm phản bội.
b) Vấn đề “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
Các báo đài nhà nước, các cuộc họp của Đảng vẫn luôn tuyên truyền ra rả rằng “mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tất cả các vấn đề quốc kế dân sinh phải để cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; tinh thần dân chủ phải được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Đấy là lời đầu môi chót lưỡi, còn thực tế thì:
“Mấy trăm tờ báo toàn lề Đảng, làm gì có tự do báo chí! Dân cặm cụi làm ăn lo miếng cơm manh áo, nào biết gì chuyện của mấy quan, chỉ thấy  chúng thằng nào cũng giàu lên nhanh chóng. Những nhà bất đồng chính kiến, những người đấu tranh cho dân chủ bị chúng bắt giam, tòa án thông báo xử công khai nhưng thực tế dân không được đến, chân lý làm sao có được?”
Hàng chục vụ cưỡng chế đất đai ầm ĩ với hàng trăm công an nhúng tay thực hiện, các báo đâu có đưa tin (trừ vụ cưỡng gia đình anh Đoàn Văn Vươn). Hàng trăm cuộc biểu tình, khiếu nại của dân oan, có vụ lên đến hàng nghìn người, báo chí đâu có đưa tin. Biểu tình chống TQ xâm lược mấy nghìn người tham gia báo chí cũng né tránh, ú ớ không ra lời. Chuyện góp ý văn kiện đại hội đảng của 22 nhà trí thức là những vị Gs, Ts kỳ cựu báo chí nào có đăng!
Ở lĩnh vực chính trị, không có tự do báo chí, dân biết gì mà bàn, mà làm, mà kiểm tra?
Để “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tức là có dân chủ thì điều kiện cần là:
+ Tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội
+ Được bầu cử trực tiếp nguyên thủ quốc gia
+ Được biểu tình
+ Cạnh tranh chính trị (đa đảng)
+ Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập
Nhưng những lãnh đạo đảng cứ giả ngu giả ngơ như không biết, ai góp ý cứ mặc, chúng cứ làm cái gì lợi cho chúng thôi, chúng không thích cải cách bởi cải cách làm giảm quyền lực và giảm thu nhập bất chính của chúng.
Những cốt lõi về tự do-dân chủ ngày xưa Bác nói, Bác đấu tranh, Bác mong mỏi nay bị bọn hậu sinh phớt lờ, chúng chễm chệ trên ghế cao quyền lực với những chiếc mặt nạ giả dối,  miệng nói một đằng chân đi một nẻo. Hậu quả dân tình gánh chịu còn chúng cứ say sưa thụ hưởng giàu sang và quyền thế cho riêng bọn chúng. Một lũ súc sinh.
Đảng CSVN bây giờ như con ốc mượn hồn, vỏ khác ruột khác. Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, và sự vĩ đại của người bị lợi dụng, bị biến thành tượng đài che chắn cho một chế độ thối nát. Biết bao xương máu của các chiến sỹ cộng sản ngã xuống, nay bọn tham quan tham nhũng mặc sức mà tổ chức những buổi lễ ôn lại chiến tích hào hùng. Ôi, hài cốt. Ôi, linh hồn. Tội nghiệp!

2)      Giáo dục nhồi sọ, gian manh xảo trá
Một bộ sách giáo dục chính trị đồ sộ đề cao CNCS, công kích CNTB được đưa vào dạy chính thức cho sinh viên đại học.
Bộ sách này gồm 3 giáo trình:
-         Triết học Mác-Lênin (NXB Chính trị, biên soạn 2004, dày 670 trang)
-         Kinh tế chính trị Mác-Lênin (NXB Chính trị, biên soạn 2004, dày 673 trang)
-         Chủ nghĩa xã hội khoa học (NXB Chính trị, biên soạn 2004, dày 555 trang)
Bộ sách này quá dày! Không biết có được bao nhiêu lời lẽ của Mác và Lê nin trong hơn 1800 trang của bộ sách này, tôi nghĩ sự duy ý chí của những người Việt biên soạn đã làm dày bộ sách, quá nhiều thứ viết tràn lan, khô khan, với những ngôn từ rất ư là ‘khủng’ lập đi lập lại nhằm khẳng định đường lối của CNCS như “vĩ đại,  cao cả, đúng đắn, chân chính, tất yếu, trong sáng, vững mạnh, khoa học…”.
Tư duy của sách rất phiến diện, thiếu khách quan, đả kích CNTB bằng những lý luận áp đặt, quy chụp, phủ lấp, ích kỷ và khuyến khích bạo động. Trong khi không đi sâu vào tính khả thi hay bất khả thi của nó. Những ai từng đọc sẽ biết, nghĩ lại thấy thật ngán ngẫm, thật vô bổ, lãng phí thời gian của sinh viên, tiêu tốn tiền bạc của phụ huynh và ngân sách nhà nước.
Ngoài ra còn có hẳn môn ‘lịch sử đảng’ để tuyên truyền chiến công của Đảng CSVN, chiếm một lượng đáng kể thời gian.
Không chỉ ở bậc đại học, ở PTTH, Trung học, Cao đẳng…đều có những môn rao giảng về CNXH, nay chẳng còn phù hợp với thực tiễn.
Sinh viên nào dám nêu tư tưởng trái với những gì bị nhồi nhét thì rớt là cái chắc.
Giáo dục nhồi nhét và thi cử gian lận kéo dài do bệnh thành tích ở các trường PTTH.
Ngay sau khi thực hiện phong trào “Hai không”, kết thúc mùa thi năm 2007, cả xã hội bàng hoàng vì kết quả chấm thi cho thấy: Tỷ lệ tốt nghiệp THPT trung bình cả nước giảm từ 94% xuống 66%. Nhưng ở cái xã hội này, sự trung thực chỉ có thể tồn tại trong thời gian ngắn ngủi bởi một ‘phép thử’, sau đó đâu lại vào đấy, sự giả dối lại hồi sinh và ngự trị. Năm 2008: 75%. Năm 2009: 84%. Năm 2010: 93%. Năm 2011: 96% ( bằng con số của trước những năm “hai không”). Năm 2012: 98%.
Xã hội không chấp nhận thực tế là chỉ có 2/3 học sinh là thi đỗ bằng năng lực học tập. Bệnh thành tích luôn tồn tại có tính hệ thống. Người ta vui vẻ với kết quả giả dối: 95% đến 98%!
Trong kỳ thi tốt nghiệp PTTH 2012, một học sinh đã tung ra những clip gian lận thi cử mà em đã quay lén được ở Trường Đồi Ngô (Bắc Giang). Nhưng lãnh đạo tỉnh vẫn không thừa nhận tệ nạn này là phổ biến trong tỉnh và có cách xử lý né tránh.
Phó bí thư Bắc Giang khẳng định, năm nay kết quả tốt nghiệp hơn 99% của Bắc Giang đánh giá được thực chất quá trình dạy học của tỉnh: “Còn việc xảy ra ở Đồi Ngô do đây là trường dân lập, có vấn đề trong quản lý, giảng dạy. Tiêu cực thi ở Đồi Ngô không phải là tình trạng phổ biến ở Bắc Giang”.
Số liệu thống kê sẽ nói lên tất cả: Năm 2007, lần đầu làm ‘hai không’ nghiêm túc, tỉnh này đỗ hơn 60% hệ THPT và Đồi Ngô chỉ đỗ 6%. Vậy mà những năm gần đây, khi cuộc phát động 2 không chìm vào quên lãng thì tỷ lệ đỗ của tỉnh này lại cao vút, năm 2012 tỉnh này đỗ 99% và Đồi Ngô đỗ 78%.
Người trung thực không thể làm quan lớn trong cái xã hội nhiễu nhương này. Đúng như dân gian thường kêu ca “thời nhiễu nhương quỷ vương lộng hành”. Vì vậy nói dối nói nịnh đã trở thành bản chất của quan chức. Ông Phó Bí thư Bắc Giang cũng thế mà thôi.
3) Bầu cử hình thức, không có giá trị thực tiễn
Các cơ quan truyền thông, báo chí tập trung tuyên truyền rôm rả trước-trong và sau bầu cử. Nào là “ngày trọng đại”, nào là “ngày hội”, nào là “cơ hội để nhân dân chọn người đủ đức đủ tài…”. Hình ảnh bầu cử đông đúc (chế độ độc tài nào mà bầu cử chả đông!) kèm theo những lời xua nịnh được phát lên TV, báo chí.
Tôi trực tiếp đi bầu cử ngày 22.5.2011. Có bốn phiếu bầu, một là bầu HĐND cấp xã, hai là bầu HĐND cấp huyện, ba là bầu HĐND cấp tỉnh, bốn là bầu đại biểu quốc hội. Có cả thảy trên hai chục người ứng cử viên. Dân lo tất bật với cuộc sống, ai lo tìm hiểu hơn 20 vị này? Có tìm hiểu đi nữa thì cũng chả biết ai tốt ai xấu.
Thiết nghĩ,  cần phải xác định nguyên thủ quốc gia là ai, quyền hành phải được tập trung về vị lãnh đạo này và vị trí này phải được dân bầu trực tiếp. Ngoài ra dân địa phương phải được bầu Chủ tịch tỉnh. Đấy là hai vị trí then chốt mà dân cần được bầu. Tổng số vị trí mà dân phải bầu nên khoảng 3-7 vị trí. Không nên quá nhiều bởi nhiều quá thì dân nào theo dõi nổi! Mặc khác những chức vụ phải bầu cử thì phải cho những đối thủ tranh đua vận động bầu cử để người dân có điều kiện soi rọi, so sánh. Ở VN chưa có được điều này, bầu cử ở VN chỉ là phô trương hình thức, không có giá trị thực tiễn.
4) Tổ chức một hệ thống chính trị chằng chịt cắm sâu vào mọi ngóc ngách xã hội
Để đổ móng cho chế độ cai trị độc tài, Đảng CSVN triển khai một hệ thống chính trị chằng chịt cắm sâu vào mọi ngóc ngách xã hội. Cụ thể là:
+          Thâu tóm quyền lực qua triển khai hệ thống chi bộ đảng trong các cơ quan của chính quyền.
+          Gắn lý lịch đảng với đề bạt chức vụ trong chính quyền. Hầu hết các chức vụ quan trọng trong chính quyền đều do những đảng viên nắm giữ. Sự lạm quyền, che đậy tội lỗi cho nhau luôn hiện diện trong tư tưởng các quan chức.
+          Lợi dụng và khống chế tôn giáo, điển hình nhất là tại Giáo hội Phật giáo VN (Nhìn xem, trên đầu trang Web của GHPGVN có cụm từ CNXH đính trên đó. Trong lễ hoằng pháp 2011, bài diễn văn sặc mùi chính trị với những từ xua nịnh Đảng)
+          Khống chế và biến MTTQ, công đoàn, tòa án…thành các công cụ để củng cố và duy trì quyền lực thống trị.
+          Bắt buộc quân đội và an ninh trung thành với Đảng, thực hiện các nhiệm vụ mà Đảng chỉ đạo hoặc phân công.
5) Hứa suông và mồm mép
Hứa suông trở thành tật xấu với các quan chức từ trung ương đến địa phương, lời hứa riết rồi trở thành một thứ hình thức. Không ai còn hy vọng vào các lời hứa vĩ mô của các quan chức nữa. Khi không thực hiện được lời hứa của mình các quan không xin lỗi nhân dân, không bị cách chức, thậm chí vẫn thăng chức bình thường.
Năm 2006, khi mới nhậm chức, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hứa: ”sẽ từ chức nếu không chống được tham nhũng”, nhưng thực tế tham nhũng càng nghiêm trọng hơn còn ông thì chẳng những không từ chức mà còn làm thủ tướng thêm một nhiệm kỳ nữa.
Ông bộ trưởng bộ giáo dục Nguyễn Thiện Nhân khi nhậm chức vào ngày 17-11-2006 đã hứa “Bộ sẽ trình Chính phủ đề án cải cách tiền lương nhà giáo để đến năm 2010, nhà giáo có thể sống được bằng đồng lương của mình”. Rồi thì lời hứa tan theo mây khói, lương giáo viên vẫn không đủ sống, còn ông Bộ trưởng thì lên làm Phó thủ tướng.
Chính phủ luôn nói rằng “quyết tâm CPH DNNN”, dân nghe chính phủ lên kế hoạch rằng “đến năm 2010 sẽ CPH hầu hết các DNNN, sẽ CPH toàn bộ các Tổng công ty nhà nước…” rồi ra nghị quyết, quyết định…cuối cùng việc CPH đã diễn ra ì ạch suốt mười mấy năm trời. Kết quả là thế này đây: “Đến cuối 2010, có 1207 DNNN là công ty TNHH một thành viên, 1900 DN Nhà nước có cổ phần chi phối. Theo báo cáo của Ban Cải cách và phát triển doanh nghiệp-Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (đơn vị chủ trì đề án), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, DNNN hiện chiếm 70% vốn đầu tư của toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước, 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn ODA và chỉ đóng góp vào GDP ở mức khoảng 37-38%.” (Xem: http://www.mof.gov.vn)
Với bao lý do lý trấu được người ta đưa ra để biện hộ cho hành vi. Các công ty nhà nước hấp dẫn như những mỏ vàng mà các quan chức ra sức vơ vét cho vào túi riêng. Chúng đâu có dại gì mà vội vàng đóng cửa các mỏ vàng này. Nếu thực hiện đúng kế hoạch thì đâu có những tổn thất như ở Vinashin, vinalines…Chẳng ai xin lỗi dân cả. Cái gì có lợi cho quan thì quan làm, còn lợi cho dân thì quan đủng đỉnh từ từ, đổ thừa hoàn cảnh.

Lạm phát kéo dài, quan chỉ nêu nguyên nhân là do khó khăn chung của kinh tế thế giới, nào là giá dầu thô thế giới tăng, nào là do khủng hoảng kinh tế ở Mỹ, rồi khủng hoảng nợ ở Châu Âu….Không thấy quan nói vì sao lạm phát ở VN cao hàng topten thế giới, đến 2 con số và cứ tái đi tái lại! Cái nguyên nhân từ sự đầu tư lãng phí, không hiệu quả vào những DNNN và các dự án, công trình của nhà nước thì quan lại giấu đi. Đến khi lạm phát giảm (do quy luật là chủ yếu) thì quan hí hửng cho rằng “chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ đã phát huy tác dụng…”. Bởi thế nhân dân truyền miệng nhau câu rằng “Mất mùa là tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài Đảng ta”.
Thật tồi tệ, khi quan phá nhà gia đình Đoàn Văn Vươn thì quan đổ thừa “nhân dân bức xúc vào phá”, khi quan xua quân đánh dã man hai nhà báo VOV, bị dân quay lại clip thì quan báo cáo với thủ tướng rằng “clip giả do thế lực thù địch dựng lên”, làm sai mà quan thản nhiên đổ thừa ma quỷ. Cuối cùng, chẳng quan nào bị ở tù dù chỉ 1 ngày!…Miệng quan càng nói càng thối.
6) Bôi nhọ, trấn áp và bắt giam những người đấu tranh
Ngày càng đông lực lượng an ninh chìm và lực lượng thường phục tay sai để theo dõi,  trấn áp và bắt bớ những người đấu tranh.
Không cho thành lập báo chí tư nhân cũng như phương tiện truyền thông khác như truyền hình, phát thanh… Khống chế và sai khiến hệ thống báo chí nhà nước. Sử dụng hệ thống truyền thông nhà nước để xuyên tạc, bôi nhọ nhân phẩm những người đấu tranh. Ts Cù Huy Hà Vũ, Gs Nguyễn Huệ Chi, Ts Nguyễn Xuân Diện, cụ Lê Hiền Đức, chị Bùi Thị Minh Hằng… là những người đấu tranh mạnh mẽ đã bị chúng bôi nhọ.
Các báo đài đi đầu trong việc dùng xảo ngữ để bôi nhọ người đấu tranh là: Tờ CAND, tờ Hanoimoi, tờ QĐND, tờ ANTĐ, đài truyền hình Hà Nội…kế đến là Đài truyền hình Việt Nam (VTV). Cái hệ thống đã đẻ ra ‘những quái thai được tắm gội bằng nước hoa’. Hành vi bôi nhọ, lăng mạ người đấu tranh là nỗi nhục nhã cho hệ thống báo chí nhà nước cũng như hệ thống chính trị VN.
Nhiều người đấu tranh bị bọn ‘lạ mặt’ hành hung. Thậm chí còn bị bọn thường phục không bảng tên hành hung tại trụ sở công an.
Trấn áp biểu tình chống TQ xâm lược, biểu tình của dân oan và các thanh niên công giáo…
Nhiều trí thức đấu tranh đủ mọi trình độ lần lượt vào tù.
Trong khi đó, ở các trụ sở công an, nhan nhản các khẩu hiệu “học tập tấm gương đạo đức HCM” và trong các phòng làm việc của họ treo đầy các tấm bảng ghi 6 điều Bác Hồ dạy lực lượng CAND. Ấy thế mà, khi người đấu tranh bị bắt vào đây, thậm chí bị bắt chỉ vì bị nghi ngờ chứ chưa có bằng cớ, người bị bắt sẽ bị công an đối xử rất xấc xược, thiếu tôn trọng, bị làm khó, thậm chí bị hành hung. Như vậy ‘tấm gương đạo đức HCM’ bị chúng biến thành thứ trang sức che đậy thối quan liêu, hách dịch và hung ác mà thôi.
7) Ngụy biện để giữ chế độ độc đảng
Các bạn có thể tìm thấy những lời mị dân vô đạo đức này tại các địa chỉ sau:
- VOV_Vì sao Việt Nam không cần đa Đảng? (VOV_ Đài tiếng nói Việt Nam).
- Việt Nam Không Cần Đa Đảng-câu nói hay nhất đầu năm 2011 (Bài Của ĐBQH Hoàng Hữu Phước).

Với bài nịnh hót của kẻ nịnh bợ Hoàng Hữu Phước thì chẳng có gì đáng bàn, hắn là Đại biểu quốc hội đấy, nhưng hắn len lỏi vào quốc hội để kiếm chát danh lợi, hắn há mồm to tiếng để kiếm điểm mà thôi. Hắn là tên phản bác việc soạn thảo luật biểu tình, cũng may có ĐBQH Dương Trung Quốc lập luận vững vàng nên hắn đã thất bại.
Với bài đăng trên VOV- một công cụ tuyên truyền của Đảng mang danh ‘Đài tiếng nói VN’, lợi dụng sự độc quyền truyền thông, bài này được tung ra để ‘nhét’ chữ vào tai dân chúng theo lối áp đặt quan điểm, cho dân chúng phải nghe phải hiểu theo họ mà không hề cho đăng những quan điểm ngược lại, cũng không hề cho tranh luận gì hết. Họ tranh thủ ca ngợi và bảo vệ Đảng mà thôi.

PHẦN V: GIẢI PHÁP CHO DÂN TỘC

I. Hai khó khăn cốt lõi

1. Chặn tường lửa và tấn công các blog cá nhân
Sự độc quyền của truyền thông nhà nước: dẫn đến sự kiểm duyệt thông tin, đưa tin một chiều hoặc bưng bít thông tin(đã nêu ở phần trên)
Kênh đưa tin chủ yếu của những người đấu tranh là internet. Nhưng chính quyền quyết liệt ngăn chặn kênh này. Họ đánh sập hàng trăm trang mạng bị họ cho là ‘tuyên truyền chống phá nhà nước’. Họ hack các trang blog cá nhân nổi tiếng của những người đấu tranh, thậm chí hack cả những bài ‘nhạy cảm’ của tuanvietnam (vietnamnet), dần dần họ hack cả những trang blog nhỏ không theo chính kiến của họ. Và thật tồi tệ, trong tháng 6 và tháng 7/2012 họ ngăn chặn tất cả các blog của google (.blogspot) và hầu hết các trang blog ‘nhạy cảm’ của hệ thống wordpress (.wordpress). Một số hệ thống của FPT/VNPT còn vào được. Đa số hệ thống đã bị chặn, nhất là các hệ thống của viettel, muốn vào các trang này phải vượt tường lửa, một điều mà không phải người dùng internet nào cũng biết. Thậm chí, các video clip ‘nhạy cảm’ trên youtube cũng bị gây khó khăn, khó xem được trọn vẹn. Người đọc nản lòng. Số lượt truy cập tin tức ‘nhạy cảm’ giảm sút.
Sự ngăn chặn blog sẽ diễn biến như thế nào? Theo kiểu nhấp nhứ ‘lúc thả lúc cột’ hay đánh theo mục tiêu lựa chọn? Có lẽ họ áp dụng cả 2 chiến thuật.
2. Ảnh hưởng của Trung Quốc đến chế độ chính trị ở Việt Nam
Đây thực sự là vấn đề gay cấn hiện nay.
Thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ, TQ có viện trợ và giúp Đảng CSVN.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng vì nóng lòng nên đã vội vã ký công hàm năm 1958 gửi cho phía TQ để ‘ghi nhận và tán thành’ vùng biển mà TQ cho là chủ quyền của họ. Một công hàm mặc dầu chưa có giá trị pháp lý, chỉ thể hiện ý chí của riêng của ông Đồng nhưng cũng là cái cớ cho TQ gây áp lực, và cũng là điểm ‘kẹt’ cho Đảng CSVN hiện nay.
Năm 1974 TQ xâm chiếm Hoàng Sa, 1988 chiếm tiếp một số đảo ở Trường Sa của VN.
Từ năm 1975, chế độ cộng sản độc tài Campuchia do Polpot cầm đầu nắm quyền cai trị đất nước Campuchia. Trung Quốc hậu thuẫn bọn này gây nên họa diệt chủng giết hại ¼ dân số Campuchia. Việt nam tiêu diệt quân Polpot (1978-1979). Trung Quốc trả đũa VN bằng cách thực hiện chiến tranh biên giới 1979. Bài học này VN nên khắc ghi.
Trong mấy thập kỷ gần đây, VN luôn thâm hụt cán cân mậu dịch nặng nề bởi nhập siêu hàng kém chất lượng từ TQ. Và mấy năm gần đây, nhập siêu của VN từ TQ mỗi năm lên đến cả chục tỷ USD! Có thể nói VN nhập siêu là do nhập hàng TQ, loại hàng kém chất lượng, từ hàng điện tử, xe máy đến thực phẩm, đồ chơi trẻ em…tất cả chủ yếu là hàng kém chất lượng gây nguy hại cho đời sống người VN và khiến bãi rác công nghiệp ở VN ngày thêm đồ sộ.
Chưa hết, TQ đã trúng thầu nhiều các công trình ở VN (công trình nhà nước). Trung Quốc đã vào khai thác bauxite một vùng rộng lớn ở Tây Nguyên. Trung Quốc thuê hàng trăm nghìn hecta rừng VN…
Trung Quốc ngang nhiên gây hấn ở biển đông, thành lập cái gọi là ‘Thành phố Tam Sa’ bao gồm cả HS-TS của VN, chúng đem tàu chiến nghêng ngang đuổi tàu VN, bắt tàu VN đòi tiền chuộc, chúng cho đấu thầu khai thác dầu trong vùng biển VN (gần bờ biển VN thuộc tỉnh Khánh Hòa)…
Tại sao TQ lại có thể lộng hành trên đất nước chúng ta. Đó không chỉ là do VN là nước nhỏ. Đó thực sự có nguồn gốc sâu xa từ mối quan hệ giữa Đảng CSTQ và Đảng CSVN. Một mối quan hệ không đem lại lợi ích cho dân tộc chúng ta nếu không muốn nói là đã xâm hại lợi ích dân tộc VN.
Sự giao hảo trong ý thức hệ đã tạo thuận lợi cho Trung Quốc lấn lướt trong vấn đề biển đông và trong mậu dịch, đầu tư giữa hai nước.
Hiện nay, trong nội bộ Đảng CSVN, nhiều tay lãnh đạo dựa hơi TQ và sẵn sàng phục vụ giặc để duy trì quyền lực và ảnh hưởng trên chính trường VN. Bọn đê hèn cơ hội này sợ rằng buông bỏ TQ chúng sẽ bị đào thải, thậm chí phải bị đền tội nên chúng xem TQ như bạn vàng, như chiếc phao cứu cánh duy nhất cho bọn chúng. Sở dĩ chúng buộc phải dựa hơi TQ và tìm mọi các bưng bít thông tin, ra sức tuyên truyền một chiều là vì chúng đã không còn đủ lý do chính đáng để tồn tại, chúng bấu víu vào học thuyết Mac_lênin và dựa hơi TQ bởi tự thân chúng không còn sức lực nào. Mặc dù thế, chúng vẫn không thể phủ nhận chủ quyền HS-TS là của VN bởi chúng sợ nhân dân phẫn nộ sẽ lật đổ chúng.
Sẽ là bất công nếu nói tất cả lãnh đạo của Đảng CSVN đều muốn dựa hơi TQ. Chỉ là một phần trong số họ mà thôi. Nên hiểu những cán bộ cấp cao tỏ ra xem trọng TQ hay nín thở khi nói đến chuyện TQ chẳng qua là bất đắc dĩ.
Bản thân tôi nghĩ rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không phải là người dựa hơi TQ để duy trì hay phát triển thế lực. Tôi còn cho rằng Trung Quốc muốn phế truất thủ tướng VN, chúng xem ông Dũng như cái gai trong mắt chúng và muốn nhổ đi. Chúng ta nên thận trọng khi nhận định về thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bởi nói về mặt trái, mặt phải, mặt ưu, mặt nhược của thủ tướng thì đấy là câu chuyện dài và phải dùng đến những giả định. Nhưng nếu chúng ta không có những cuộc biểu tình lớn hơn thì có thể một ngày nào chúng ta thất vọng vì ông thủ thướng sẽ hết nhiệm kỳ  mà chưa kịp làm gì và trái bóng trách nhiệm tiếp tục lăn vô định. Tôi không bình phẩm về phẩm chất con người của thủ tướng, tôi chỉ chắc chắn rằng sự đấu tranh của chúng ta sẽ tiếp sức mạnh cho thủ tướng để bảo vệ lợi ích của nhân dân, của đất nước (cho dù trên bề nổi có thể có đàn áp xảy ra). Nếu sự đấu tranh đủ mạnh, sẽ là cơ hội cho ông ấy tuyên bố cải cách, điều mà nhân dân đang mỏi mòn chờ đợi.
Trên đây tôi chỉ nêu 2 khó khăn mà thôi, thực tế có nhiều khó khăn cho sự đấu tranh của chúng ta như hậu quả của nền giáo dục mấy mươi năm qua, nhiễu loạn thông tin và sự ngăn cản khó hiểu của chính quyền trong các cuộc biểu tình….Tuy nhiên dù khó khăn chúng ta cũng phải có giải pháp. Chỉ sợ chúng ta nản lòng mà thôi.
II. Biển đông: Gỡ rối hiện tại, mở cửa tương lai
Chuyên trang về biển đông: http://nghiencuubiendong.vn
Sơ lược thông tin về HS_TS:
“Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông. Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển của đất nước. Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển.
Biển Đông là vùng biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau Địa Trung Hải), chiếm khoảng 1/4 lưu lượng tàu hoạt động trên các vùng biển toàn cầu. Là tuyến hàng hải huyết mạch mang tính chiến lược của nhiều nước trên thế giới và khu vực, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Âu, Trung Đông với châu Á và giữa các nước châu Á với nhau. Cùng với đất liền, vùng biển nước ta là một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, là ngư trường giàu có nuôi sống hàng triệu ngư dân và gia đình từ bao đời qua, là một vùng kinh tế nhiều thập kỷ phát triển năng động, là nơi hấp dẫn của các nhà đầu tư và thị trường thế giới.
Bên cạnh nhiều đảo lớn nhỏ khác, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc về lãnh thổ Việt Nam. Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo, đá, cồn san hô và bãi cạn, nằm ở khu vực biển giữa vĩ độ 15045’00”Bắc – 17015’00”Bắc và kinh độ 111000’00”Đông – 113000’00”Đông trên vùng biển có diện tích khoảng 30.000km2, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi – Việt Nam) khoảng 120 hải lý. Đoạn biển từ Quảng Trị chạy tới Quảng Ngãi đối mặt với quần đảo Hoàng Sa luôn hứng gió mùa Tây Nam hay Đông Bắc nên thường có nhiều thuyền bị hư hại khi ngang qua đây vào mùa này. Các vua chúa Việt Nam thời xưa hay chu cấp cho các tàu thuyền bị nạn về nước, nên họ thường bảo nhau tìm cách tạt vào bờ biển Việt Nam để nhờ cứu giúp khi gặp nạn.
Chính vì thế, Hoàng Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới và xác lập chủ quyền của mình. Quần đảo Hoàng Sa chia làm hai nhóm An Vĩnh và Trăng Khuyết (hay còn gọi là Lưỡi Liềm). An Vĩnh nguyên là tên một xã thuộc Quảng Ngãi, theo Đại Nam Thực lục Tiền biên quyển 10: “Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát… chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu. Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi…”.

Quần đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông về phía Đông Nam nước ta, phía Nam quần đảo Hoàng Sa, cách Cam Ranh (Khánh Hoà – Việt Nam) 243 hải lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 585 hải lý và đến đảo Đài Loan khoảng 810 hải lý. Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 đảo lớn nhỏ và bãi san hô với diện tích vùng biển rộng khoảng 410.000 km2, từ vĩ độ 6000’00” Bắc – 12000’00” Bắc và kinh độ 111000’00” Đông – 117000’00” Đông. Diện tích phần nổi của đảo khoảng 3km2, chia làm 8 cụm (Song Tử, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên). Với vị trí giữa Biển Đông, quần đảo Trường Sa có lợi thế về dịch vụ hàng hải, hậu cần nghề cá trong khu vực, đồng thời cũng là một địa chỉ du lịch hấp dẫn.”
 (Trích từ tư liệu quí về HS-TScủa VN)
Những thuộc địa của các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp… đã được trao trả độc lập. Một điều lạ là nhiều thuộc địa đã trở nên giàu có trước khi được trao trả. Điển hình là Hồng Kông. Sau mấy chục năm chiếm đóng, cai trị, cuối cùng các đế quốc này cũng phải trao trả độc lập cho các thuộc địa. Việt Nam liên tục bị giặc phương bắc xâm chiếm và đô hộ nhưng cuối cùng phải lùi bước.
Đảng CSVN đang vấn an người dân rằng: “Đòi lại Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình là một việc lớn và lâu dài”.  Thậm chí có vị còn giảng cho SVHS rằng: “Nếu đời chúng ta chưa đòi lại được thì 50 năm sau (thậm chí 100 năm!) con cháu chúng ta sẽ đòi”.  Rồi họ khuyên người dân đừng đi biểu tình phản đối TQ gây hấn, tệ hơn, họ lại cố ngăn chặn biểu tình.
Câu hỏi đặt ra là “Có phải dù Trung Quốc chiếm Hoàng Sa 50 năm hay 100 năm đi nữa nhưng với sự đấu kiên trì bằng biện pháp hòa bình dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN thì cuối cùng VN cũng đòi lại được chủ quyền Hoàng Sa?”
Tôi cho rằng không thể. Lịch sử chỉ ra rằng xưa kia có những nước nhỏ bé từng là láng giềng của nước lớn hơn đã bị nước lớn thôn tín và mãi mãi không đòi lại được chủ quyền. Việc thôn tín có thể diễn ra một phần lãnh thổ cũng có thể là hoàn toàn.
Một điều kiện cần có trong lịch sử VN có thể đánh đuổi giặc Tàu là trên lãnh thổ bị chiếm đóng luôn tồn tại người dân VN, dù đang bị cai trị, người Việt vẫn sống trên lãnh thổ của mình. Còn Hoàng Sa thì sao?, khi không còn người Việt sinh sống hoặc đóng quân trên đó từ năm 1974? Câu trả lời được làm rõ trong năm 2012, khi Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa bao gồm cả HS-TS của VN. Điều gì sẽ xảy ra khi trong vòng 10 năm nữa trên các đảo ở Hoàng Sa đang nhộn nhịp cuộc sống của người Hoa với những đô thị, những giàn khoan dầu mỏ, những sân bay, những căn cứ quân sự đầy đặc trên đó? Xin thưa, dân tộc VN lúc ấy chỉ còn có thể đứng nhìn mà câm hận Đảng CSVN!
Bởi thế, không hành động hôm nay nghĩa là sẽ không còn kịp nữa.
Với vị trí chiến lược, với tiềm năng dầu mỏ dồi dào, với công năng thông thương vận tải biển tuyệt vời… Hoàng Sa – Trường Sa khi trở về VN sẽ mở ra cánh cửa tương lai cho đất nước. Đừng làm gì có lỗi với con cháu chúng ta.
III. Chúng ta cần thể chế tốt hơn là cần lãnh đạo đạo đức sáng ngời, chúng ta cần lãnh đạo đi đúng hướng hơn là lãnh đạo sạch sẽ.
Tất cả đều do thể chế mà ra. Thể chế tốt sẽ hội tụ cái tốt, thể chế xấu sẽ dung nạp cái xấu.
Thể chế phù hợp là cái đem lại sự vững bền cho dân sinh. Thể chế phù hợp sẽ hạn chế được tiêu cực phát sinh, tiêu cực là do lòng tham con người, phải hiểu rằng đa số con người trên trái đất này đều có lòng tham, một khi gặp môi trường dung túng lòng tham sẽ sinh ra tiêu cực. Lòng tham của quan chức là một sự tồn tại tất yếu và phổ biến. Nếu không có thể chế phù hợp để kiểm soát và trừng trị hiệu quả, lòng tham quan chức sẽ biến thành tham nhũng và tiêu cực khác như bệnh nói dối, nói nịnh, ca ngợi lãnh tụ …
Trong chế độ độc tài, tiếng nói phản biện bị trù dập, sự giả dối sẽ leo thang đến tận bục giảng của nhà trường, hiện diện ngay trong sách giáo khoa, đạo đức con người bị biến dạng ngay từ tuổi thiếu niên song song với nhận thức thiển cận bởi sự nhồi sọ, áp đặt trong giáo dục. Tệ hơn, trong môi trường an ninh quốc phòng và công an, kẻ thống trị đã thực hiện ‘tẩy não’ những con người chuẩn bị phục vụ chúng, khiến nhận thức của họ như bị u mê, sai lệch. Những con người đang phục vụ cho những kẻ thống trị tàn bạo mà họ lại ngộ nhận là đang phục vụ nhân dân.
Tại VN hiện nay, nhận thức nhân dân chưa được ánh sáng chân lý soi rọi, đa số nhân dân chỉ nghĩ được rằng xã hội xấu đi là do những người lãnh đạo, họ chưa nhận thức được thực chất là do thể chế. “Khi một vị lãnh tụ vĩ đại mất đi, sẽ chọn được một lãnh tụ vĩ đại khác thay thế, đó là cách mà bọn lãnh đạo cha truyền con nối ở cái đất nước Bắc Triều Tiên nhét vào đầu óc dân chúng của họ”, chúng ta đừng ảo vọng như thế.
Muốn nhân dân được phục vụ tốt nhất, không phải bằng cách đi tìm cho bằng được lãnh đạo giỏi, mà phải là một thể chế dân chủ thực sự.
Nhìn xem, chắc hẳn Mao Trạch Đông là người tài giỏi, nhưng khi có hòa bình ở đất nước Trung Hoa, ông ấy đã dẫn dắt dân tộc mình đi sai hướng, đẩy nhân dân Trung Hoa đến chỗ nghèo khổ và tàn sát lẫn nhau. Ở đây chúng ta không xét phẩm chất của Mao Trạch Đông, chúng ta không quan tâm ông ấy đã dẫn dân tộc đi sai hướng do nhận thức hay do ích kỷ cá nhân, chúng ta chỉ cần biết một vị lãnh tụ đi sai hướng là đẩy dân tộc đến nghèo khổ và lạc hậu.
Nhìn xem, Đặng Tiểu Bình thảm sát Thiên An Môn, hậu thuẫn Polpot, gây chiến tranh biên giới với VN (1979), hẳn ông ấy không phải là kẻ nhân từ. Nhưng xét về mặt kinh tế, ông ấy đã dẫn dắt nhân dân đi đúng hướng, nói chính xác là gần đúng hướng, nhờ thế mà đất nước Trung Hoa mới trỗi dậy được như ngày hôm nay.
Nhìn xem, Tưởng Giới Thạch, ai cũng biết hắn không phải là kẻ nhân từ, nhưng hắn đã đi con đường khác hẳn Mao Trạch Đông, nhờ thế mà Đài Loan được giải thoát khỏi nghèo khổ, vươn lên giàu có. So với Mao, Tưởng đã đi đúng hướng.
Nhìn xem, Elsin không phải là lãnh đạo giỏi cũng không phải là người có phẩm chất hơn người, nhưng hắn đã đã góp phần đưa nhân dân Liên Xô thoát nạn độc tài cộng sản nhanh hơn. Hắn đã đi đúng hướng.
‘Đúng hướng’, ở đây tôi muốn nói là mang lại lợi ích cho dân tộc, cho đất nước.
Có cho tiền, tôi cũng không dám mơ ở thế kỷ 21 này, VN sẽ có người tài năng và gương mẫu như Hồ Chí Minh. Tôi cũng không quan trọng điều đó. Cái tôi cần, là một thể chế tốt cho đất nước tôi.
Nhìn xem, thủ tướng của chúng ta. Ồh, đừng bảo tôi bình xét phẩm chất của ông ấy nhé, điều đó không quan trọng, quan trọng hay không là trong những năm tới, ông ấy có làm gì có lợi cho đất nước hay không. Và quan trọng hơn, chúng ta cần nhận ra rằng chúng ta phải làm gì để ông ấy ‘đi đúng hướng’.

IV. Những công việc cần làm

“Mục đích đấu tranh là dân chủ và chủ quyền HS-TS. Điều cần thiết là chúng ta không ngừng đấu tranh, cần có những cuộc biểu tình lớn để không những thủ tướng mà còn những vị lãnh đạo cấp cao khác mạnh dạn tuân theo mệnh lệnh của nhân dân, nhanh chóng dùng sức mạnh nhân dân kết hợp sức mạnh liên quân quốc tế khống chế TQ, thực thi nhân quyền, mở rộng dân chủ và từ bỏ chế độ độc tài cộng sản.”

1) Có nên lật đổ Đảng CSVN hay không?

Không nên lật đổ Đảng CSVN trừ phi họ điên cuồng thẳng tay giết hại, tiêu diệt người đấu tranh.
Quốc gia nào cũng cần phải có chính quyền, một cuộc nội chiến là cơ hội cho giặc cướp biển đảo của chúng ta. Nói như thế không có nghĩa là cúi đầu để đảng CSVN độc quyền thống trị theo lối độc tài. Đấu tranh bất bạo động là cần thiết. Đấu tranh để buộc Đảng CSVN thực thi chân lý, tôn trọng nhân quyền, bảo vệ biển đảo.
Thực tế, quyền lợi của nhân dân và của giai cấp thống trị là không đồng nhất, có cái song song nhưng cũng có cái đối lập. Nếu không đấu tranh, kẻ độc tài thống trị bao giờ cũng tìm cách củng cố quyền lực, tham nhũng và bao biện. Khi đến thời kỳ thối nát, quyền lực mềm giảm đi, kẻ thống trị sẽ tăng cường dùng đến lực lượng an ninh và quân đội, sẵn sàng đứng trên luật pháp để đàn áp phong trào đấu tranh.
Đảng CSVN đang thời kỳ suy thối, sự chân chính mất dần. Tuy nhiên, nguồn gốc Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập trong chính nghĩa là điều cần phải thừa nhận. Không vì cái xấu hôm nay mà hất bỏ giá trị của ngày hôm trước.
Nếu bỏ qua lời nói của Gorbachev thì hành động của ông sau khi nắm quyền là tốt cho đất nước Nga, tất nhiên tổn thất là có nhưng thay đổi mà không phải đổ máu là phước cho nhân dân Nga. Sự sụp đổ khá êm ái của Đảng cộng sản Liên xô đã giải thoát đất nước này khỏi nghèo đói và sự chà đạp nhân quyền  như trường hợp của Bắc Triều Tiên đang gặp phải.
Phương hướng đấu tranh đúng là bất bạo động để Đảng CSVN phải thực thi công lý, tôn trọng nhân quyền, bảo vệ biển đảo và tiến hành cải cách để thiết lập thể chế dân chủ cho đất nước. Nói cách khác, chúng ta không lật đổ đảng CSVN để chúng ta thực thi những điều đó mà chúng ta đấu tranh để đảng CSVN phải thực thi nó.
Sự gia tăng đàn áp dữ dội cũng là dấu hiệu sắp thay đổi trong tình hình hiện nay.
Nhờ những cuộc biểu tình mà luật biển được QH thông qua, thủ tướng đăng đàng chính thức khẳng định ‘TQ đã xâm chiếm Hoàng Sa từ năm 1974…’. Sự đấu tranh trong những năm qua đã làm cho Đảng, chính quyền khẩn trương và có trách nhiệm hơn trong ý thức bảo vệ chủ quyền HS-TS, nhưng chưa đủ. Sự đấu tranh còn phải mạnh mẽ hơn.

Sự đấu tranh của chúng ta không bao giờ thừa, cho dù đảng CSVN vẫn cố chấp không chịu thay đổi thì sự đấu tranh của chúng ta sẽ là vũ khí trao cho một ‘ẩn số’ trong đảng đứng về phía nhân dân hình thành đối lập, tạo niềm tin cho nhân dân vượt qua sợ hãi để vùng lên đòi chân lý.

2) Vai trò quốc tế

Quốc tế đối với chúng ta là ngoại lực.
So với Trung Quốc và Mỹ thì VN là nước nhỏ.
Trong lịch sử cận đại và hiện đại, muốn chống một cường quốc ngoại xâm thì chúng ta phải dựa vào quốc tế hoặc một nước lớn khác.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Hồ Chí Minh không thể đứng trong nước dấy cờ khởi nghĩa mà không có sự tiếp ứng của nước ngoài về cả phương diện dư luận và quân sự. Vì vậy, Bác đã ra đi tìm đường cứu nước: đến Pháp, Anh, Nga, Trung Quốc.
Và Nga và TQ là hai nước mà VN phải dựa vào để chống Pháp và chống Mỹ. Đó là sự thật.
Nếu chúng ta được dạy rằng “VN là nước nhỏ bé, lạc hậu nhưng nhân dân VN đã chiến đấu dũng cảm và chiến thắng hai đế quốc sừng sỏ nhất trên thế giới” thì đây là cách dạy chưa đầy đủ, còn dấu đi sức mạnh của ngoại lực.
Ngoại lực thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ chủ yếu là sức mạnh của vũ khí và tài khí mà Nga và TQ đã viện trợ cho VN.
Ngày nay, khi các quốc gia mở cửa mậu dịch và đầu tư, ngoại lực không chỉ là sức mạnh vũ khí và tài khí, sức mạnh ngoại lực căn bản là sức ép ngoại giao của các tổ chức quốc tế và những cường quốc: ASEAN, Liên minh Châu Âu, Nga, Mỹ, Ấn Độ…
Trung Quốc sẽ ra sao nếu họ bị bao vây kinh tế lẫn quân sự? Họ sẽ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán đa phương.
Nhưng để có ngoại lực hỗ trợ mạnh mẽ thì bản thân VN phải có những chuyển biến.
Việt Nam phải tự sửa mình.
Nếu bạn làm một việc sai trái, mọi người can ngăn, bạn lớn tiếng bảo “đừng can dự vào việc nội bộ của tôi”. Bạn hãy nghĩ lại đi, bạn sống với ai, chơi với ai?
Các tổ chức chính trị, nhân quyền của người việt ở hải ngoại tiếp sức người trong nước đưa thông điệp của nhân dân VN đến chính phủ các nước và bạn bè khắp thế giới này.
Những biểu tình chống TQ xâm lược 2007, 2011, 2012 đã đem lại kết quả lớn lao. Đến 2011, các cuộc biểu tình đã phá tung bức tường bưng bít thông tin về HS-TS trong hệ thống báo chí.  Đến 2012, các cuộc biểu tình đã tác động tích cực đến cộng đồng quốc tế. Bước đầu, Mỹ với vai trò đầu tàu đang bao vây TQ. Khi những người biểu tình kiên trì vượt qua sự trấn áp để thực hiện hàng chục cuộc biểu tình đã khiến TQ không còn có thể kiềm chế, bản tính hung hăng xấc láo của chúng nổi lên, TQ bị ‘lột mặt nạ’, nhiều nước bày tỏ quan ngại đối với tham vọng của TQ, Mỹ đang lên kịch bản chiến tranh với TQ. Như vậy cái thành công của người biểu tình VN là buộc TQ chuyển chiến thuật từ ‘âm thầm gặm nhấm’ sang ‘công khai ào ạt’, dụ dẫn TQ sa vào cuộc chiến với liên minh quốc tế. Điều này sẽ giúp VN đem vấn đề biển đông ra quốc tế để phân rõ trắng đen. Sở dĩ Đảng CSVN trấn áp biểu tình là vì họ sợ không giữ nổi chế độ độc tài cộng sản khi TQ ào ạt tiến ra biển đông, đó là sự hẹp hòi ích kỷ của một chế độ, một chế độ không đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết.
Hãy nhìn kìa, ngày 1.7.2012 có gần nửa triệu người HK biểu tình chống sự cai trị độc tài của Đảng CSTQ. Cái chế độ dối trá ấy đang muốn cướp HS-TS của VN. Tại sao VN chưa chịu từ bỏ con đường bị lệ thuộc vào bọn giặc cướp này?
Chúng ta đã biểu tình ‘chống TQ xâm lược’ và sẽ phải biểu tình lớn hơn nữa!
Một số người suy nghĩ thiển cận rằng “Mỹ chẳng có lòng tốt giúp VN đánh TQ lấy lại HS-TS, Mỹ cũng chẳng tốt lành để bênh vực VN trên nghị trường quốc tế, ắt hẳn Mỹ có âm mưu, Mỹ sẽ tìm cách xẻ nát biển đông chia cho các quốc gia ‘chư hầu’ của mình gồm Philippin, Indonesia, Đài Loan, Malaysia, VN chỉ được chia vài đảo mà thôi”.
Nói như thế là chưa nhận ra cái lợi của nước Mỹ ở biển đông. Đúng là Mỹ cũng như những nước khác chẳng thương yêu gì VN, họ lo cho lợi ích quốc gia họ thôi. Nhưng chắc chắn Mỹ không để TQ độc chiếm biển đông vì:
+ Sự trỗi dậy hung hăng của TQ là mối nguy hiểm cho an ninh thế giới và cho chính nước Mỹ. Trung Quốc chiếm được biển đông thì tương lai TQ sẽ là đối thủ quân sự đáng sợ nhất của Mỹ. Do vậy Mỹ muốn ngăn chặn điều đó. Ấn độ, Nhật Bản…cũng rất lo sợ sự đe dọa quân sự từ TQ nên họ sẵn sàng bắt tay Mỹ. Nga thận trọng hơn, nhưng TQ cũng lại là mối đe dọa của Nga, vì thế Nga sẽ đứng về phía VN khi cần thiết.
+ Chiếm được biển đông còn giúp TQ trỗi dậy mạnh mẽ về mặt kinh tế, điều này sẽ giúp TQ chi phối các quốc gia khác nhiều hơn khi thị trường TQ đứng đầu thế giới. Ta thấy rõ TQ đã chi phối Campuchia ngay trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN khi trước đó TQ đẩy mạnh đầu tư và viện trợ cho Campuchia.
+ Trung Quốc độc chiếm biển đông sẽ làm Mỹ mất kiểm soát vùng này, cản trở cho chiến lược quân sự của Mỹ.
+ Trung Quốc độc chiếm biển đông sẽ đe dọa sự tự do thông thương hàng hải của Mỹ trong khu vực. Đây là lý do Mỹ thường đưa ra nhưng kỳ thực nó không phải là lý do quyết định để Mỹ tìm cách bao vây TQ.
Chúng ta không nên lo lắng việc Mỹ sẽ ‘xẻ nát’ biển đông, bởi khi đem ra quốc tế xử lý, các nước phải chứng minh chủ quyền, chứ không phải Mỹ muốn chia ai thì chia.
Như vậy Mỹ can thiệp vào biển đông trước tiên là vì lợi ích của Mỹ. Hợp tác quân sự Mỹ-Việt là có lợi cho cả hai bên.
Trung Quốc sẽ lấn tới xây dựng căn cứ quân sự, tăng cường đánh bắt, khai thác tài nguyên và thậm chí là đưa dân tới sinh sống tại những hòn đảo mà TQ xâm chiếm, khi đó sự đấu tranh của người Việt yêu nước dâng cao. Nếu Đảng CSVN không có động thái đủ mạnh, dân chúng sẽ lật đổ Đảng CSVN! Vì vậy hợp tác quân sự với Mỹ là vấn đề cấp bách. Và chắc chắc một liên minh quốc tế sẽ ngày càng được đẩy mạnh và có những hành động đáp trả thích đáng cho lối hành xử hung hăng đầy tham vọng của chính quyền Bắc Kinh.

3)  Đấu tranh nội bộ

Đấu tranh nội bộ trong Đảng CSVN luôn diễn ra và đang diễn ra quyết liệt, cho dù chúng ta không thể nhìn thấy những sự việc ‘bên trong’ đảng nhưng có những dấu hiệu cho chúng ta cảm nhận điều đó. Theo dõi những thông tin nội bộ rò rĩ  ra trên mạng, tìm xem đâu là thông tin đúng. Theo dõi sự bổ nhiệm/thuyên chuyển các chức vụ ta sẽ thấy sự dịch chuyển quyền lực như thế nào. Theo dõi diễn biến những vụ án tiêu cực bị ‘xì ra’ ta sẽ hình dung được vây cánh của bọn cướp ngày.
Nhiều cán bộ lão thành từng là lãnh đạo đảng đã lần lượt công khai đấu tranh với số lượng ngày càng tăng, và giờ đây sự đấu tranh ấy đang được người dân mong chờ và hưởng ứng.
Trước đây, sự đấu tranh ấy rất đơn lẻ và bị trù dập bởi thiếu vắng sự hưởng ứng của nhân dân. Những tấm gương điển hình như Trần Xuân Bách (Từng là Bí thư TW Đảng, Ủy viên BCT), tướng Trần Độ (Từng là PCT quốc hội, Ủy viên TW Đảng).
Sự đấu tranh nội bộ có tác dụng rất lớn bởi đó là những tiếng nói chính danh, dũng cảm và trong sáng làm cảnh tỉnh và lung lay lòng người.
Hai luồng tư tưởng tương phản đang hiện diện trong nội bộ đảng, một phe chủ trương duy trì độc đảng thân TQ, phe kia chủ trương cải cách theo phương Tây thân Mỹ.
Sở dĩ có từ ‘thân TQ’ là vì TQ là chỗ dựa cho phe này tồn tại.
Sở dĩ có từ ‘thân Mỹ’ bởi Mỹ có vai trò trọng yếu trong cộng đồng quốc tế mà VN phải dựa vào mới chống nổi TQ xâm lăng.
Phân tích và nhận thức ra sự thật, tìm ra con đường tất yếu, ta sẽ biết mình cần phải ủng hộ cho hệ tư tưởng nào.

4)  Phản biện của cá nhân

Đấy là công việc thường xuyên của những trí thức đấu tranh, nhiều phản biện của nhiều trí thức về cùng một sự việc sẽ đem lại kết quả tốt, cảnh tỉnh và nhắc nhở những ai đang chủ trương thực hiện kế hoạch nguy hiểm.
Ví dụ phản biện dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận…Mặc dù sau phản biện những dự án này có thể vẫn tiếp tục nhưng những con người đang điều hành chúng sẽ tìm cách hạn chế rủi ro đã được cảnh báo, tránh thiệt hại nặng nề có thể xảy ra.
Sự phản biện là vũ khí đấu tranh, là củi trong lò lửa để soi rọi chân lý, hướng lái hành động của loài người theo hướng tiến bộ hơn.
Sự phản biện cần được người phản biện đưa lên các trang tin tức để dư luận soi rọi.

5) Vai trò trí thức soi đường

Hiện nay, những gương đấu tranh khó dập tắt như Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (nguyên đại sứ VN tại TQ), Gs Nguyễn Minh Thuyết (nguyên ĐBQH), NNC Nguyễn Đình Đầu, Bs Huỳnh Tấn Mẫm, Luật gia Lê Hiếu Đằng (nguyên PCT MTTQ Tp.HCM), Gs Nguyễn Huệ Chi, Ts Nguyễn Quang A, Gs Trần Phương, Gs Đào Công Tiến…đang được trí thức trẻ dõi theo và hưởng ứng. Mặc dù sự đấu tranh của những vị trí thức dày dạn này giờ đây không phải là đấu tranh nội bộ nhưng họ từng là những đảng viên, cống hiến nhiều công sức cho đảng, họ là thầy của nhiều cán bộ lãnh đạo đảng. Họ là những người thắp lên những ngọn lửa đấu tranh bên trong lẫn bên ngoài vì một đất nước VN văn minh và dân chủ.
Trí thức soi đường không chỉ nói bằng lời, họ còn hành động ứng theo các sự kiện, họ cũng xuống đường biểu tình chống TQ xâm lược, họ đoàn kết hình thành ‘tiếng nói chung’,  cụ thể nhất là ngày 6/8/2012 có 71 nhà khoa học, nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội nổi tiếng cả ở trong nước lẫn ở hải ngoại đồng ký tên vào bức thư ngõ gửi tới Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ Việt Nam, cũng như Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam yêu cầu “chấm dứt các hành động trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước”. Hoặc như trước đó, ngày 25.6.2011, họ đã quy tụ những ‘nhân sỹ trí thức’ đã đồng ký tên vào  ‘bản tuyên cáo’ phản đối TQ xâm phạm lãnh thổ VN.
Cái gì xảy ra trong đám tang Tướng TRẦN ĐỘ – 2002? Một người trí thức, tướng Trần Độ, vì cất tiếng nói yêu cầu cải cách theo xu thế khách quan, đã bị bọn súc sinh khai trừ đảng và diễn trò hèn hạ tại đám tang của ông. Tướng Trần Độ đã dũng cảm bảo vệ giá trị tư tưởng của mình trọn vẹn, ông là tấm gương sáng trong hàng ngũ trí thức soi đường.
Tiên phong tiếp bước trí thức soi đường là những nhà trí thức đấu tranh, một số đang ở trong lao tù, một số đang bị tạm giam chờ ngày xét xử, một số đang sống tự do nhưng luôn phải đối đầu nguy hiểm. Tôi muốn nhắn nhủ với các bạn đấu tranh rằng chúng ta đang nung ý chí ‘chân cứng đá mềm’, nếu các bạn bị truy tố và chuẩn bị bước ra tòa án, các bạn hãy bảo vệ sự thật, nói/viết đúng suy nghĩ của mình, nếu bạn nhận tội chỉ để giảm nhẹ án tù nghĩa là bạn tự đánh mất giá trị của mình. Đi vào ngục tối để mở cửa tương lai, niềm tin và ý chí phải luôn song hành.

6)  Vai trò trí thức hưởng ứng

Trí thức hưởng ứng đông đúc sẽ là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc đấu tranh.
Nhìn xem, những trí thức hưởng ứng ở Hà Nội thật là tuyệt vời, họ vừa dũng cảm vừa sáng tạo. Nhìn thấy Nguyễn Văn Phương đọc tuyên cáo trước nhà hát lớn trong lần biểu tình ngày 3.7.2011 mà cảm động và khâm phục họ làm sao!
Nếu bạn chưa có vị trí hoặc điều kiện để trở thành trí thức soi đường, bạn hãy là trí thức hưởng ứng. Đừng nghĩ nó quá nguy hiểm, chẳng có gì nghiêm trọng khi bạn đứng giữa đám đông với vai trò người hưởng ứng.
Đừng lo lắng quá, nếu bạn sợ, vẫn có cách an toàn tương đối cho bạn. Này nhé, bạn hãy thường xuyên theo dõi tin tức và thỉnh thoảng bạn tham gia biểu tình. Nếu bạn không phải là blogger thì chẳng có gì là rủi ro đáng kể, bạn sẽ rất thuận lợi khi bạn xông xáo hơn.
Tốt hơn nữa, thỉnh thoảng bạn lên tiếng bảo vệ một việc chính nghĩa. Phong trào cần bạn, đừng chần chừ, bạn sẽ không hổ thẹn khi bạn đã làm một việc có ích. Vô cảm là có lỗi với lương tâm. Đừng đứng ngoài khi xã hội đang cần bạn.
Đấy là những việc ít rủi ro cho bạn so với những người thường xuyên đấu tranh như Bùi Thanh Hiếu (nguoibuongio), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh(mẹ nấm), Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Quang Lập (Bọ lập), Phạm Viết Đào, Nguyễn Tường Thụy, Trương Duy Nhất, Nguyễn Thị Tường Huy…

7) Loan truyền tin tức và chỉnh sửa nhận thức (công việc khó nhất)

Nhiều người dân chưa tiếp cận được sự thật, trong đó có những trí thức ngoan hiền đang mang một nhận thức què quặt được nhồi nhét từ nền giáo dục áp đặt, giáo điều và hệ thống truyền thông bị ‘kiểm duyệt’.
Người dùng internet thì nhiều, có đến hàng triệu. Nhưng:
Có bao nhiêu người dùng internet xem tin tức ‘lề trái’? Có bao nhiêu người đã từng đọc blog của Ts Nguyễn Xuân Diện hoặc anhbasam hay Trương Duy Nhất? Đơn giản hơn, có bao nhiêu người trong nước tiếp cận tin tức trên BBC? Tại năm 2012, có lẽ chỉ 300.000 người việt!
Trước 2009, con số còn khiêm tốn hơn nhiều, sau vụ bắt giam 4 nhà đấu tranh cho dân chủ (các anh Thức, Định, Long, Trung), liên tiếp các sự kiện nổ ra dồn dập đã thu hút được người truy cập nhiều hơn. Blog bị chặn ngày càng quyết liệt và đến tháng 6/2012 thì các blog bị bao vây bởi hệ thống tường lửa dày đặc làm nhiều bạn đọc nản chí. Không những thế, các trang mạng, blog còn bị hack tê liệt, nhiều trang bị đánh sập, chẳng hề có tự do internet trên cái đất nước tội nghiệp này.
Với lượng người tiếp cận thông tin nhạy cảm ít ỏi, những ngọn cờ đấu tranh làm sao quy tụ được lực lượng? Chúng ta không thể ‘làm mưa bão trong cóc thủy tinh’ được.
Bị chính quyền ngăn chặn, đàn áp, tù tội đang chực chờ, sư loan truyền sự thật là công việc hết sức khó khăn.
Trước tiên, hãy chú trọng vào trí thức.
Tùy theo điều kiện của bạn, bạn có thể làm theo các cấp độ sau:
*          Nói cho một/những người bạn biết địa chỉ blog của một/những blogger đang đấu tranh (hãy chọn một blogger nổi tiếng như Ts Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hiền Đức…)
Hoặc rao giảng sự thật cho những người bạn cùng biết. Tôi nghĩ, tuyên truyền cho 1 hoặc 2 người là điều bạn hoàn toàn có thể làm được một cách dễ dàng, đúng không nào? Và hãy cố gắng nữa xem, càng nhiều càng tốt.
Tương tự, bạn có thể làm như thế cho:
-         Đồng nghiệp
-         Người thân
-         Học trò
-         Giáo dân
-         Phật tử
-         Nhân viên
-         Đối tượng mà bạn có thể.
*          Gửi mail cho mọi người, cung cấp cho họ những nguồn tin tức.
*          Rủ thêm một/nhiều người nữa cùng đi biểu tình.
*          Rải truyền đơn, rỉ tai nhau, viết lên tường, treo ngoài đường, vào trường học…. Tùy theo điều kiện và lòng dũng cảm của bạn, hãy chọn một việc dù nhỏ để loan truyền tin tức. Tất nhiên đó phải là tin tức sự thật mà chính quyền cố tình bưng bít.
Nếu bạn đã đủ can đảm, hãy nghĩ cách rải truyền đơn, nếu bạn có một nhóm người cùng làm thì tốt biết bao. Để tránh bị bắt và rải được nhiều truyền đơn, bạn cần sáng chế công cụ hỗ trợ và nên có người phối hợp.
Nếu bạn là sinh viên, bạn đang học tại trường đại học, bạn rất rõ ‘địa hình’ trong khuôn viên trường bạn, bạn sẽ rất thuận lợi để lên kế hoạch rải truyền đơn.
Điều quan trọng là bạn rải được thật nhiều ở nơi mà người nhặt có thể hiểu và làm theo. Con số phải hàng nghìn, bạn nhé. OK chứ?!
Một chiến dịch ‘rải truyền đơn’, tại sao không?
Nếu bạn có một nhóm 3 người, bạn có thể thực hiện chiến dịch rải 30.000 truyền đơn. Nếu bạn có một nhóm 5 người, bạn có thể thực hiện chiến dịch rải 50.000 truyền đơn.
Nếu bạn có một nhóm 10 người, bạn có thể thực hiện chiến dịch rải 100.000 truyền đơn.
Nếu bạn có một nhóm 100 người, bạn có thể thực hiện chiến dịch rải 1.000.000 truyền đơn!

*          Chụp ảnh, quay phim, tường trình các sự kiện đưa lên mạng
Luôn có những bạn can đảm làm việc này rất chuyên nghiệp với dụng cụ tác nghiệp khá tốt. Hiệu quả bước đầu của nó rất cao, nhờ vậy mà nhiều sự kiện được tường thuật chi tiết với hình ảnh, video đầy đủ, sinh động làm minh chứng.
Tuy nhiên, những bạn tác nghiệp thường xuyên đã bị công an nhận diện. Trong một số sự kiện ở một số địa phương, các bạn này tác nghiệp rất khó khăn do sự cản trở và trấn áp của an ninh. Trong hoàn cảnh như thế, những bạn ‘nghiệp dư’ chưa bị an ninh để ý sẽ có điều kiện thuận lợi hơn, các bạn hãy tranh thủ chụp một tấm hình hay quay một đoạn video và cung cấp cho các trang tin tức kịp thời. Chẳng có rủi ro nhiều với bạn, bạn có quyền công dân, an ninh không thể bắt giam hay truy tố bạn chỉ vì bạn ghi lại sự thật, đúng không?
*          Trở thành những người chủ động các sự kiện:
Khi gần đến ngày các sự kiện diễn ra như biểu tình chống TQ xâm lược, biểu tình/khiếu kiện của dân oan, xét xử những người đấu tranh, cầu nguyện cho công lý-sự thật…bạn hãy chuẩn bị các biểu ngữ, in các nội dung phản kháng, chuẩn bị các máy ghi hình, quay phim…nhằm chuyển tải được thông điệp đến cộng đồng một cách sinh động, hữu hiệu hơn.
Nhiều cuộc biểu tình của các bạn trẻ ở Sài Gòn, do bị an ninh kìm chân, vô hiệu hóa những nhân vật đi đầu nên nhiều lần các cuộc biểu tình ấy tuy số lượng người khá đông nhưng phải ngồi tại công viên 30/4 mà không tuần hành được. Nếu có thể, bạn hãy nghĩ cách để đột xuất biến mình thành ‘đầu tàu kéo’ khởi phát tuần hành. Việc này bạn có thể thực hiện phối hợp với vài người bạn của bạn, tuy nhiên bạn vẫn có thể thực hiện một mình với sự sáng tạo bất ngờ của bạn, khi an ninh chưa biết mặt bạn, bạn sẽ dễ dàng thực hiện hơn.
Ta thấy trong lần biểu tình ngày 3.7.2011 tại HN, người biểu tình đã chủ động từ sự chuẩn bị đến tinh thần đấu tranh, kết quả đã để lại những hình ảnh đẹp của Nguyễn Văn Phương đọc tuyên cáo và của Binh nhì Tiến Nam được giải cứu bất ngờ.
*          Tuyên truyền cho người xung quanh bạn (họ chưa tiếp cận tin tức): Bạn có thể bắt đầu câu chuyện với bạn bè/đồng nghiệp bằng những câu hỏi đơn giản rằng:
-         “Hôm Chủ nhật vừa rồi có biểu tình lớn ở Hà Nội, mày có xem trên mạng chưa?”
-         Hoặc: “Tình hình chính trị nước mình lúc này căng thẳng thật, mày có thường theo dõi tin tức trên mạng không?”…
Và sau đó bạn hướng dẫn bạn bè/đồng nghiệp cách truy cập tin tức bằng google với những ‘cụm từ khóa’ hoặc giới thiệu cho họ các địa chỉ trang mạng mà bạn hay đọc.
Bạn có thể gặp những người là nạn nhân của chế độ, bạn nói cho họ biết họ cần phải làm gì, bạn sẽ thông báo và hỗ trợ để họ cùng tham gia biểu tình.
Bạn có thể nghĩ ra cách tốt hơn tôi, đúng không?
Hãy làm tin tức lan truyền  theo cấp số nhân, để góp phần ‘khai dân trí’.
Khi một người thường xuyên cập nhật tin tức, họ sẽ nhận thức được sự thật, đó là cách chỉnh sửa nhận thức tốt nhất. Sự thật là quyền năng.
Nếu bạn là thầy/cô giáo, giảng viên hay linh mục… bạn có thể chỉ ra sự thật cho học trò/giáo dân của mình, từ đó sẽ chỉnh sửa được nhận thức của họ.

8) Sự đột phá cá nhân

Sự đột phá của một cá nhân đòi hỏi sự hy sinh và lòng dũng cảm lớn của cá nhân đó, bất kể sự hy sinh ấy là do tấm lòng yêu nước thương dân hay do bị đè nén quá sức chịu đựng.
Đầu tiên phải kể đến một số trí thức đột phá trong hàng ngũ những trí thức soi đường như Gs Nguyễn Huệ Chi (sáng lập trang Bauxite VN), Ts Cù Huy Hà Vũ, Ts Nguyễn Xuân Diện, Cụ Lê Hiền Đức…họ đã cống hiến tâm trí, thời gian, công sức và phải chịu sự bôi nhọ, trấn áp của chính quyền.
Những người đột phá khác, họ có thể là trí thức cũng có thể chưa phải, điển hình như anh Đoàn Văn Vươn, chị Bùi Thị Minh Hằng.
Anh Đoàn Văn Vươn bị chính quyền bức ép: UBND, tòa án kết hợp chà đạp luật pháp, xử ép anh, dồn anh đến bước đường cùng. Anh phải dùng chất nổ để phản kháng, gióng một hồi trống báo động cho xã hội sau hơn một thập niên dân oan khắp nơi chịu bao oan uất dìu dắt nhau đi khiếu kiện nhưng kết quả chỉ nhận lấy những thiệt thòi. Lạm quyền nối tiếp lạm quyền, bọn quan chức bè lũ dùng cả công an và quân đội hàng hàng lớp lớp đi cưỡng chế đất của gia đình anh và những hộ dân oan khác.  Sau khi dùng chất nổ gây sát thương một số người trong đoàn cưỡng chế, anh Vươn bị bắt giam (cùng một số người khác), trong khi bọn quan chức ‘lợi dụng chức quyền gây hậu quả nghiêm trọng’ thì chẳng thằng nào bị bắt giam cả. Họ còn thốt những lời bịa đặt rằng “việc san phẳng căn nhà gia đình ông Vươn sau vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng không phải bởi lực lượng của huyện mà do “nhân dân bất bình nên vào phá” , trước đó chúng lại nói “căn nhà của gia đình ông Đoàn Văn Vươn bị phá do đây là vị trí kẻ gây án ẩn nấp”. Chẳng dừng lại, các quan chức vô liêm sỉ tiếp tục trượt dài trên những hành vi giả dối để che tội cho nhau.
Chị B.T.M.Hằng vốn là người phụ nữ ăn to nói lớn, suốt nhiều năm chị va chạm với lề lối làm việc quan liêu, ách tắc, từ đó chị nhận ra bộ mặt đểu giả của bọn quan chức. Điều đó khiến cho chị bước vào con đường đấu tranh, không chỉ đấu tranh cho bản thân mà chị đấu tranh chống lại cường quyền. Chị xuất hiện những nơi nhạy cảm như bên ngoài những phiên tòa xử Ts CHHV và ở những cuộc biểu tình chống TQ xâm lược VN. Có lúc chị nóng nảy và ầm ỉ khiến nhiều người chỉ trích chị. Nhiều lúc chị quá bức xúc mà to tiếng với lời lẽ thô phàm. Sự nổi bật thường xuyên của chị gây khó chịu cho chính quyền. Bọn chúng ngang nhiên bắt chị đi ‘cải tạo’ 2 năm! Thực chất chị bị đối xử như tù nhân, chị đấu tranh quyết liệt bất kể thân xác đau đớn và sức khỏe suy kiệt, sau hơn 5 tháng bị giam cầm, bọn chúng phải trả tự do cho chị vì sức đấu tranh mãnh liệt của bản thân chị và những người trí thức trong nước cùng bạn bè quốc tế. Hơn 5 tháng, một người phụ nữ sụt giảm 15kg vì bị ‘cải tạo’! Quả thật, những gì diễn ra là một vết thương nhức nhối cho lương tri con người trong một chế độ đầy nhiễu nhương.
Và còn những dân oan bị thế lực đen hành hung, thế lực đỏ bức ép. Khi nào họ đứng lên quật khởi?
Trong chế độ độc tài thống trị bằng cách bưng bít thông tin và tạo ra nỗi sợ hãi bao trùm xã hội, những cá nhân có sự bức phá là rất đáng quý. Chúng ta hãy lên tiếng, hãy bước ra yểm trợ cho những người dấn thân.
Hàng trăm người đã chấp nhận tù tội để mong có sự thay đổi. Nếu chính quyền cứ lấn tới hà hiếp người đấu tranh, dồn họ vào ngõ cụt, sẽ có người dùng tính mạng để phản kháng, những ngọn lửa bùng lên cũng là lúc chính quyền trở thành thế lực tàn ác cần phải bị tiêu diệt. Và thế giới sẽ phải làm điều đó! Hy vọng cái viễn cảnh đen ấy đừng bao giờ xảy ra.

9) Kết nối tư tưởng

Kết nối tư tưởng là một động thái tự giác trong ý thức để bổ trợ và bảo vệ nhau vì một mục tiêu chung của những người đấu tranh.
Một người như một chiếc đũa, an ninh có thể bẻ dễ dàng. Nhiều người liên kết như một bó đũa, sức mạnh tăng lên. Tuy nhiên trong tình hình chưa thể thành lập tổ chức thì chúng ta cần kết nối tư tưởng. Ví dụ: một lời kêu gọi biểu tình được phát ra hợp tình hợp lý, các trang mạng, blog nhanh chóng đăng tải, người đọc hưởng ứng cùng đến điểm hẹn để biểu tình. Đó là một sự kết nối.
Khi một blogger bị chính quyền quấy nhiễu thì những blogger khác hỗ trợ đưa tin, thậm chí kêu gọi mọi người đến ‘giải cứu’ khiến chính quyền phải chùn bước. Đó là một sự kết nối. Nhìn cảnh ‘giải cứu Tiến Nam’ trong lần biểu tình ngày 3.7.2011 mà rơi nước mắt hạnh phúc. Nhìn thấy mọi người kéo nhau đến nơi ‘câu lưu’ Nguyễn Tường Thụy và Nguyễn Xuân Diện trong ngày 8.3.2012 mà thấy tinh thần đoàn kết của người Hà Nội.
Anhbasam đảm nhận việc điểm tin (tạo thành trung tâm tin tức), nguyenxuandien chuyên đưa tin tức ‘chống TQ xâm lược’, còn lehienduc thì ‘chống tham nhũng’…Không một sự phân công nào, nhưng họ đã phối hợp một cách nhịp nhàng như một bản hòa tấu tuyệt vời. Đó là sự chuyên môn hóa bổ sung cho nhau, cũng là một sự kết nối. Tuy nhiên, tình hình có khả năng thay đổi, chính quyền đã tìm cách phá đi thế trận này, người đấu tranh phải thích nghi tình thế mới. Và anhbasam phải luôn đổi mới để làm chủ tình hình.
Chị Bùi Thị Minh Hằng bị bắt đi ‘cải tạo’ 2 năm vô lý, các blogger, nhà văn, nhà trí thức lên tiếng đăng tải trên blog, các trang mạng quốc tế đăng theo, tin tức lan tỏa kết hợp sự đấu tranh bất khuất của chị Hằng. Sau hơn 5 tháng, chính quyền buộc phải trả tự do cho chị. Đó là sự kết nối.
Một giải pháp/hướng đi nào được phát ra từ một cá nhân, mọi người kịp thời yểm trợ để hiệu quả đạt được tối đa. Sự yểm trợ gồm đăng tải tin tức và lên tiếng ủng hộ… Đó còn hơn cả sự kết nối.

10) Hình thành những phong trào

Sự kết nối gắn với những sự kiện lớn tạo thành những phong trào. Ví dụ: TQ gây hấn ở biển đông, các blog kêu gọi biểu tình, nhiều cuộc biểu tình tạo thành phong trào ‘chống TQ xâm lược’. Dân oan khắp nơi bị thu hồi đất đền bù không thỏa đáng, nói gọn là bị cướp đất, họ tụ tập khiếu kiện, các blogger hỗ trợ ghi hình và đăng tải tạo thành phong trào ‘dân oan khiếu kiện’, họ không đi đơn lẻ nữa mà rủ nhau đi tập thể.
Các linh mục cần mạnh dạn thông báo cho giáo dân biết để tham gia các cuộc biểu tình. Biểu tình là một phần quan trọng trong những phong trào cần có.
Phong trào dâng cao sẽ quyết định sự thay đổi. Biết đâu mai mốt sẽ có phong trào ‘nói không với hàng hóa TQ’, ‘vượt qua sợ hãi’, ‘tự do ngôn luận’, ‘vì nước Việt tự do’ hay ‘biểu tình chống tham nhũng’….Các phong trào có hình thành được hay không còn ‘tùy cơ ứng biến’ và tùy những trí thức hàng đầu có dám đứng lên phát động hay không?

11) Liên kết công khai, hình thành những cơn bão, đối thoại với Đảng CSVN

Đây là bước sau khi hình thành được những phong trào đủ mạnh với sự quan tâm trợ giúp của quốc tế sát sao hơn.
Sự liên kết sẽ từng bước mở rộng, bắt đầu hình thành từ trí thức trong nước đến những thành phần đấu tranh khác. Ban đầu là sự liên kết ‘Trí thức soi đường-Blogger-Dân oan-Sinh viên-người đấu tranh tự do’. Sau đó mở rộng theo hướng hòa hợp hòa giải dân tộc trên cơ sở tôn trọng tiếng nói thiện chí của nhau.
Sự liên kết sẽ tạo ra sức mạnh đoàn kết bảo vệ những cá nhân đang đấu tranh cho tương lai đất nước.
Khi sự liên kết đã có là lúc có thể yêu sách chính quyền.
Sự liên kết công khai sẽ phá tan nỗi sợ hãi trong lòng bất kỳ ai, sẽ tạo thành một lực lượng đông đảo những người hưởng ứng phong trào, lực lượng này sẽ khai sinh ra những cơn bão mang lại mùa xuân cho đất nước.
Khi nội lực đoàn kết, ý chí dâng cao, phong trào đạt đỉnh sẽ là lúc hấp dẫn ngoại lực cộng sinh hoàn mỹ nhất.
Khi nội lực lớn lên, ngoại lực tương trợ sẽ tạo đối trọng với Đảng CSVN. Buộc Đảng CSVN phải chấp nhận đối thọai.

12) Hiện thực hóa tự do ngôn luận, triển khai dân vận, hình thành đảng chính trị mới

Khi đối thoại thành công, chí ít nó cũng thành công ở phương diện tự do ngôn luận. Tức là Đảng CSVN buộc phải cho tự do ngôn luận, các hội đoàn được thành lập công khai, một hai tờ báo tin tức thời sự-chính trị của tư nhân được hình thành sẽ là diễn đàn chính thức quy tụ sức mạnh toàn dân.
Công bố tổ chức những buổi hội thảo/thuyết giảng về giá trị của tự do dân chủ đích thực, chỉ ra cái bất khả thi của CNCS và đưa ra những đường hướng xây dựng đất nước. Những buổi hội thảo từ nhỏ đến lớn, từ đối tượng sinh viên đến công nhân và bất kỳ những ai quan tâm chính trị đều có thể đến nghe.
Những đảng chính trị mới chính thức hình thành ở trong nước. Công cuộc triển khai dân vận tốt sẽ tạo điều kiện phát triển các đảng đối lập. Tránh sự phát triển tự phát quá mức gây rối chính trường, số lượng đảng đối lập càng ít càng tốt, chú trọng chất lượng hơn số lượng, chú trọng sự tập trung hơn là tranh đua phân tán.

13) Yếu tố có thể

Tăng cường đấu tranh có thể thúc đẩy hình thành một ẩn số trỗi dậy (dù có hình thành được hay không thì đấu tranh vẫn luôn là yếu tố quyết định để giải thoát dân tộc Việt), ẩn số ấy chính là một lãnh đạo trong đảng quy tụ được sức mạnh trong bộ máy, nắm được quân đội và công an, tích lũy những yếu tố cần thiết để có thể khắc chế bọn việt gian thân Tàu cộng, dõng dạc tuyên bố đổi mới và chính thức giai đoạn liên minh đánh đuổi giặc Tàu. Nếu điều này xảy ra, chúng ta nên đón nhận nó, nó là bước đầu của một thời kỳ dân chủ hoàn toàn, và luôn nhớ rằng chúng ta cần thể chế dân chủ và chủ quyền lãnh thổ chứ không phải cần một lãnh đạo trong sạch.

14) Hợp tác quân sự_chính trị quốc tế (tạo thế cân bằng quân sự với TQ)

Thiên ứng vạn biến, bước này Đảng CSVN có thể chủ động thực hiện trước những bước trên đây, có thể thực hiện song song với việc mở rộng nhân quyền và cam kết cải cách. Cho dù Đảng CSVN chần chừ thì sự đấu tranh lớn dần đến khi hình thành được đảng chính trị đối lập chính thức thì sự hợp tác quân sự_chính trị với quốc tế cũng sẽ được thực hiện toàn diện. Đảng CSVN càng chủ động hợp tác thì càng có lợi cho dân tộc và cho tương lai lâu dài của Đảng.
Với sức ép quốc tế, TQ muốn không bị cô lập và khủng hoảng toàn diện thì TQ buộc phải ngồi vào đàm phán đa phương có LHQ giám sát hoặc chủ trì. Một sự thỏa thuận sẽ đạt được, nếu không, có lẽ LHQ sẽ phải phân xử hơn thua bằng luật pháp quốc tế. Nước nào trưng được bằng cớ thuyết phục về chủ quyền tất sẽ giành chiến thắng.
Chiến tranh chỉ là điều bất đắc dĩ, khi đó TQ sẽ phải gánh hậu quả nặng nề trước bom đạn của Mỹ và liên minh.

15) Cải cách toàn diện (thay đổi thể chế)

Tiến tới xây dựng nền dân chủ đa đảng: bầu cử tự do (bầu cử tổng thống và quốc hội).  Kỳ bầu cử tổng thống đầu tiên nên có vai trò giám sát của quốc tế. Cải cách toàn diện có thể thực hiện trước hoặc sau khi giành được chủ quyền, nó tùy thuộc ý thức các bên, thực hiện càng sớm thì Đảng CSVN càng có giá trị trên các trang sử và trong lòng dân chúng.
KẾT LUẬN
Ngày nay, chúng ta khẳng định được con đường CNCS không khả thi bằng sự phân tích lý thuyết lẫn thực tiễn chứng minh. Tại nước Đức, nơi sinh ra Karl Marx, bức tường Berlin đã sụp đổ. Tại Nga, nơi sinh ra Lenin, CNCS đã không còn. CNCS sụp đổ không phải bằng sự phá hoại của ‘thế lực thù địch’ nào mà chính vì nó hình thành từ một chủ thuyết không khả thi, loài người đã phải trả giá đắt cho sự nóng vội, và chúng ta phải bỏ nó để đi một con đường đúng.
Việt Nam đang đứng trước vấn nạn độc tài cộng sản và giặc Tàu xâm chiếm HS-TS. Dân chủ là khát khao của loài người tiến bộ. Lịch sử đã chỉ ra nền dân chủ sẽ thúc đẩy phát triển, hạn chế đói nghèo và lạc hậu. Trong thể chế dân chủ, nhân quyền được tôn trọng. Đấu tranh đòi nhân quyền là con đường đi đến dân chủ. Sự tồn tại chế độ độc tài ở VN gắn kết với chế độ độc tài cộng sản ở TQ. Đấu tranh chống giặc Tàu sẽ cắt đứt được liên kết giữa hai đảng độc tài ở hai đất nước Trung_Việt. VN là một nước nhỏ, muốn chống lại bọn giặc Phương Bắc khổng lồ, VN phải dựa vào quốc tế. Nước nào có thể giúp chúng ta? Đó chính là ASEAN, Liên minh Châu Âu, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Úc, Hàn Quốc…nhìn vào những quốc gia tiến bộ này, ta thấy hầu hết họ có thể chế dân chủ đa nguyên đa đảng.
Hoàng Sa-Trường Sa là chủ quyền thiêng liêng, quyết định sự hùng mạnh và thịnh vượng của đất nước Việt Nam trong tương lai. Hiện tại, HS-TS là vùng biển đảo mà hàng triệu con tim người Việt đang hướng về. Giải cứu cho HS-TS cũng là giải cứu cho tương lai của dân tộc Việt Nam. Sự đấu tranh thúc đẩy Đảng hành động bảo vệ vùng biển đảo thiêng liêng này cũng là cơ hội chắc chắn cho một nền dân chủ tiên tiến của Việt Nam đang đến gần. Đây là sự hóa giải thần kỳ, ghi dấu lịch sử mà những người trí thức yêu nước đang viết nên những trang sử đầu tiên cho một thời kỳ mới của dân tộc, thời kỳ mà truyền thống yêu nước tiếp tục được gìn giữ còn sự giả dối phải ra đi.
Giải pháp được khẳng định từ sự nhận thức của những người trí thức đấu tranh, kéo theo phong trào đấu tranh đang trào dâng ý chí và gia tăng số lượng. Đảng CSVN không thể tiếp tục ‘đá thùng rác về phía cuối con đường’, cũng không thể ‘đá quả bóng trách nhiệm cho người kế nhiệm’. Họ phải hành động gấp rút theo ý chí nhân dân.
Sơ đồ cơ sở đấu tranh:
“Ý thức dân tộc chuyển biến à Phong trào đấu tranh, biểu tình dâng cao à Cao trào, xung đột leo thang tại biển đông à Quốc tế can thiệp vào tranh chấp à Sự thật được làm sáng tỏa tại nghị trường quốc tế à Chân lý được thực thi à Sự giả dối ra đi, giặc ngoại xâm bị cô lập à Chủ quyền đích thực được trao trả cho người sở hữu à Việt Nam bảo vệ được chủ quyền HS-TS và thiết lập nền dân chủ thực sự”.
Những yếu tố khách quan đã có. Sự thành bại tùy phụ thuộc vào hành động của chúng ta.
Việt Nam, tháng 8 năm 2012
Nguyễn Thiện Nhân
Nguồn: Giải pháp Dân chủ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét