Khi trái núi đẻ ra… “một đồng chí”
Nguyễn Ngọc Giao – Diendan.org
Sau này bất luận thế nào, có lẽ 15.10.2012 sẽ được ghi là ngày tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng — và tập thể 174 đồng chí ủy viên trung ương của ông — đi vào lịch sử bằng cổng sau. Hai tháng chuẩn bị thực hiện “nghị quyết 4″ (về phê và tự phê), 3 tháng họp 4 đợt, rồi 15 ngày liên tục “Hội nghị Trung ương 6″ (trong đó 5 ngày tập trung về NQ4), để rồi quyết nghị đầu voi đuôi chuột : “không kỉ luật” cả Bộ chính trị lẫn “một đồng chí ủy viên Bộ chính trị“. Ngôn ngữ chính trị Việt Nam từ nay được làm giàu với những cụm từ “một đồng chí“, mà mấy ngày sau, chủ tịch Trương Tấn Sang gọi là “đồng chí X“. Đồng chí không được/bị nêu tên ấy, mọi người đều biết, chính là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người trực tiếp thành lập và chỉ đạo 18 tập đoàn kinh tế (Vinashin, Vinalines…) đang nợ như chúa chổm, và đã phung phí không biết bao nhiêu tài nguyên của đất nước. Ông Sang đã từng nói nạn tham nhũng không chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh” mà là cả “một bầy sâu“. Lần này, ông nói tới “tập đoàn” sâu. Dùng chữ “tập đoàn” (tuy không nói rõ con số 18), chắc ông Sang không vô tình lỡ lời.Thay mặt Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng “xin lỗi toàn đảng, toàn dân” (nhiều người để ý ông nghẹn ngào khi nói mấy lời này). Mấy ngày sau, thủ tướng Dũng cũng nối điêu “nhận lỗi” trước Quốc hội.
Đây không phải lần đầu, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam xin lỗi toàn dân. Lần trước, vào những ngày này năm 1956, chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phải thay mặt Trung ương xin lỗi toàn dân về những sai lầm và tội ác trong cải cách ruộng đất. Chỉ khác một điều, năm ấy ông Lê Văn Lương đã bị đưa ra khỏi Bộ chính trị, ông Trường Chinh mất chức tổng bí thư. Bây giờ, có thể trách ĐCS vẫn chưa gột rửa hết những sai lầm của thời ấy, không từ đó rút ra một cách triệt để những bài học 1, nhưng ít nhất cuộc sửa sai cũng thực sự được tiến hành tuy không rốt ráo, và bước đầu, ĐCS đã phần nào thoát khỏi ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa Mao.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch nước Trương Tấn Sang
và “đồng chí X” (ảnh AFP)
Marx, đâu đó, đã nhận xét : lịch sử thường lặp lại, lần thứ nhất, là
một bi kịch, lần thứ hai, là một hài kịch. Xin lỗi mà quyết định “không
kỉ luật” của Trung ương ĐCS và lời kêu gọi cán bộ phải “tự trọng” của
ông Nguyễn Tấn Dũng, quả là hài hước hiếm thấy. Điều mà Marx không tiên
liệu là hài kịch có thể diễn ra trong bối cảnh một thảm kịch khôn cùng.và “đồng chí X” (ảnh AFP)
Trong bối cảnh tình hình kinh tế – chính trị – xã hội chung của đất nước, với những đe dọa quân sự, kinh tế, nhân sự của Trung Quốc, chỉ cần nhìn tình hình kinh tế cũng đủ thấy rõ mức độ nguy kịch :
* Hệ thống ngân hàng đang đối mặt với rủi ro hệ thống ngày càng cao. Có nguy cơ các ngân hàng sụp đổ hàng loạt, do nợ xấu chồng chất đến 200 ngàn tỷ đồng, trong đó 70 % là nợ của khu vực quốc doanh. Theo tác giả Tô Văn Trường : “Một số thông tin từ cơ quan tài chính, ngân hàng, từ IMF, ADB và báo chí ở Việt Nam cho chúng ta thấy với số liệu năm 2011 : tổng nợ của doanh nghiệp nhà nước tương đương 52,2 tỷ USD, bằng 43% GDP, riêng phần doanh nghiệp nhà nước nợ các ngân hàng là 24,5 tỷ US, trong đó 47% là nợ xấu.” (xem tại đây) 2. Khi chúng tôi viết những dòng này, được biết một phái đoàn của ADB (Ngân hàng Phát triển Châu Á) đang chuẩn bị tới Hà Nội để “báo động lần chót” về nguy cơ sụp đổ hệ thống ngân hàng.
* Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước gây thất thoát đầu tư ngày càng trầm trọng thêm. Hiệu quả đầu tư công giảm mạnh : hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR : đầu tư / tổng sản lượng) không ngừng tăng và ở mức 7 – 8 trong thời chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (từ 2007 đến nay), trong khi thời các chính phủ Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải (1991-2006), hệ số ở mức 3,5 – 4 ; năm 2010, riêng khu vực quốc doanh có hệ số ICOR vượt 10 trong khi khu vực ngoài nhà nước có hệ số chưa đến 5. 18 tập đoàn kinh tế và cả trăm công ti con đã làm thất thoát tài nguyên đất nước (tài nguyên thiên nhiên, công quỹ và tín dụng, cướp đất của nông dân), tích lũy của cải trong tay một đẳng cấp tư sản đỏ mà cuộc sống sa hoa, vô văn hóa và vô sỉ là một khiêu khích hỗn xược đối với nhân dân đang phải bươn chải với vật giá leo thang, sản xuất ngưng trệ 3.
* Luật đất đai đang tạo điều kiện cho các chính quyền địa phương lấy lại đất của nông dân (kể cả cưỡng bức bằng bạo lực). Chỉ từ năm 2006 (Nguyễn Tấn Dũng nắm quyền thủ tướng) đến năm 2010, hai trăm ngàn ha đất nông nghiệp đã bị thu hồi cho các dự án khu công nghiệp, biệt thự, sân golf. Các vụ Tiên Lãng, Văn Giang… tiếp diễn trong khi HN6 vẫn ngoan cố duy trì luận điểm “đất đai là của toàn dân”.
* Lạm chi : Từ năm 2007 đến nay năm nào chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng chi nhiều hơn rất nhiều so với số Quốc hội thông qua, năm 2007 là 31%, năm 2008 là 29%, năm 2009 là 46%. Năm 2010 chưa được kết toán nhưng theo tờ trình sơ bộ của Bộ Tài chính thì chi vượt 11%.
Trong tình hình ấy, lòng dân ra sao, ngay cả ông Nguyễn Phú Trọng cũng thừa biết. Theo những nguồn tin đáng tin cậy, trong cuộc họp Quân ủy Trung ương và gặp gỡ bốn chục tư lệnh sư đoàn, ông Trọng đã thông báo kết quả một cuộc thăm dò dư luận (không công bố) : tỉ lệ người dân vẫn tin tưởng ở “đảng và nhà nước” chỉ còn 30%. Sự thật còn đen tối hơn con số ấy vì nó là tổng của hai con số : 10% tin tưởng vào “lãnh đạo hiện nay”, 20% vào “lãnh đạo đã từ trần”. Chắc hẳn ông tổng bí thư đã vận dụng con số đáng sợ này để củng cố “tín điều” số một và duy nhất của bộ máy an ninh, quân sự : “còn đảng, còn chế độ, thì còn mình”.
“Bước đường cùng” dường như cũng là tâm trạng của 175 ủy viên trung ương tại Hội nghị 6, thúc đẩy họ “đoàn kết, thương yêu lẫn nhau”, “chữa bệnh, cứu người”. Nếu không, làm sao giải thích được những con số thoạt trông mâu thuẫn nhau một cách khó hiểu :
- trong những cuộc thăm dò mức tín nhiệm đối với ông Nguyễn Tấn Dũng : 4/14 ở Bộ chính trị, 40/175 ở Ban chấp hành Trung ương
- đến khi biểu quyết thông qua đề nghị “kỷ luật” (Bộ chính trị và cá nhân Nguyễn Tấn Dũng, đề nghị đã được Bộ chính trị “100% nhất trí”), thì 129 người (trên 175 ủy viên trung ương) bác bỏ.
*
Nhiều nhà bình luận đã để ý : Hội nghị Trung ương 6, các phát biểu và văn kiện đã công bố không hề đả động tới Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc đã bao trùm lên cuộc họp. Hội nghị giữa chừng, có tin đại sứ Bắc Kinh đến gặp một phó thủ tướng. Và trước ngày hội nghị khai mạc là cuộc gặp ở Nam Ninh của phó thủ tướng Tập Cận Bình, người sẽ thay thế Hồ Cẩm Đào trong vài ngày nữa, và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
16 chữ vàng và 4 tốt, nay thêm phương châm “cà vạt cùng màu” (ảnh Chính phủ)
Giới thân cận lãnh đạo ở Hà Nội không ngần ngại rỉ tai nhau, diễn
dịch những động thái khác thường (ít nhất về thời điểm) ấy : bạn vàng
phương bắc muốn giữ nguyên trạng quyền lực ở Hà Nội, và sẵn sàng cho vay
10 tỉ đô la nếu người anh em phương nam lún sâu vào cuộc khủng hoảng
ngân hàng đã được báo trước. Thực hư không biết ra sao, chỉ biết thủ
tướng Dũng đã hiên ngang tuyên bố ” (sẽ) không cần đến sự giúp đỡ của IMF
“. Hiên ngang không kém là những phiên tòa xử tù nặng, những cuộc bắt
bớ, bắt cóc những người mang tội duy nhất là lên án chính sách hung hãn
của Trung Quốc. Mọi dấu hiệu đều chứng tỏ : trong sự bất lực và bất cập,
trong tâm trạng bất an về sự tồn vong của chính mình, đẳng cấp cầm
quyền đã muốn quay lưng với đường lối đoàn kết dân tộc, con đường duy
nhất để tăng cường nội lực quốc gia, bảo vệ chủ quyền, khắc phục khủng
hoảng, và thay vào đó, họ tiếp tục lún sâu vào con đường lệ thuộc.Quá muộn rồi chăng ?
Những ai luôn luôn lạc quan cũng như những ai bi quan cố hữu đều có sẵn câu trả lời. Nhưng có lẽ còn quá sớm để có căn cứ chính xác.
Điều chắc chắn là xã hội Việt Nam không thể bị động ngồi chờ. Mấy năm qua, trong cuộc khủng hoảng của chế độ toàn trị, bất chấp mọi sự trấn áp, xã hội dân sự đã khẳng định sự tồn tại của mình, đã từng bước lên tiếng, đảm nhiệm chức năng xã hội công dân. Hơn lúc nào hết, sự trưởng thành của xã hội dân sự / công dân Việt Nam vừa là mục tiêu cấp bách của mọi người Việt Nam thiết tha với vận mệnh dân tộc, vừa là điều kiện để bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ lãnh thổ và biển đảo, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á, đưa đất nước vượt qua thử thách to lớn trước mắt.
Nguyễn Ngọc Giao
24.10.2012
1
Bằng chứng là theo chứng từ của ông Trần Bạch Đằng và của những cán bộ
lão thành thuộc Ban nông thôn miền Nam : năm 1964, ông Nguyễn Chí Thanh,
lúc đó là bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã đưa ra chủ trương “phát
động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện và triệt để”. Theo
lời ông Nguyền Thành (Mười) Thơ (bí thư Khu ủy Khu IX, rồi Chủ tịch Ban
nông thôn miền Nam), Cụ Hồ đã gửi điện vào Nam, nói đại ý : “Bác nghe
Chú T. (tức là Nguyễn Chí Thanh) có chủ trương phát động quần chúng cải
cách ruộng đất một cách toàn diện triệt để. Bác khuyên chú đừng làm, làm
là sai, dứt khoát sai thôi”. Sau đó, đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã
viết điện trả lời : “Chúng tôi có chủ trương phát động quần chúng cải
cách ruộng đất một cách toàn diện và triệt để. Bác cho là sai, không an
tâm. Chúng tôi thi hành ý kiến Bác. Xin Bác yên tâm” và ra lệnh rút các
đoàn đi thực nghiệm ở Bến Tre, Mỹ Tho và Bạc Liêu (xem Nguyễn Thành Thơ,
Cuối đời nhớ lại, hồi ký, 2003, tr. 153-154, dẫn theo Đặng Phong : Kinh
tế Miền Nam Việt Nam / Thời kỳ 1955-1975, nxb Khoa học xã hội, 2004,
tr. 476-477). Tháng 2.2008, người viết bài này có dịp nêu câu chuyện ấy
với nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông “Sáu Dân” khẳng định chưa bao giờ
Thành ủy Sài Gòn – Gia Định có bàn về dự án “cải cách ruộng đất” này.
Ông cho rằng có lẽ tướng Thanh nêu lên như một ý kiến cá nhân trong lúc
trao đổi với cán bộ phụ trách nông thôn. Cho dù như vậy, bản thân việc
tướng Thanh còn nuôi dưỡng ý tưởng điên cuồng ấy (gần 10 năm sau cuộc
cải cách ruộng đất “long trời lở đất” ở miền Bắc) tự nó cũng mang rất
nhiều ý nghĩa. Liên hệ với cuộc “cải tạo công thương nghiệp” ở miền Nam
năm 1978, hai mươi năm sau cuộc “đánh tư sản” ở miền Bắc với những tác
động tai hại (cũng vẫn do một người được phân công trực tiếp chỉ đạo là
ông Đỗ Mười), ông Võ Văn Kiệt trầm ngâm nhận xét : Một khuyết tật lớn
của Đảng là sau mỗi sai lầm, không phân tích đến nơi đến chốn, còn nể
nang cho qua, nên dễ lặp lại sai lầm.
2 Cụ thể hơn, đây là bảng số liệu do nhà nghiên cứu Vũ Quang Việt tập hợp từ các thông tin của IMF, ADB và báo chí Việt Nam :
3 xem Vũ Quang Việt : Khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008 : sai lầm về chính sách (Tạp chí Thời Đại Mới)
Thư của Đảng làm báo gửi blog NTT
Nguyentuongthuy
Kính gửi anh Nguyễn Tường Thụy
Anh em CLBKC vừa đọc xong bài “Đừng xác định tội Phương Uyên thay công an” của anh, chúng tôi cũng xin ý kiến với anh là chúng tôi rất thương yêu em Uyên như là con cháu ruột của mình .Trong hoàn cảnh như thế nầy, lý do chúng tôi đưa tin trước khi Công An lên án Uyên vì thiết nghĩ nếu chờ cho CA lên án xong rồi đăng lại thì dư luận sẽ không kịp phản ứng .
Chúng tôi mong mọi người hãy hướng về Uyên, hãy cứu một đứa bé có tinh thần yêu nước . Trường hợp việc làm yêu nước của Uyên lại gây phiền nhiểu cho đảng để họ phải tìm cách xử nặng Uyên thì chúng ta mỗi người một tay hãy nói cho thế giới biết sự sai trái nầy. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để cứu cháu Nguyễn Phương Uyên.
Huy Phong
Câu Lạc Bộ Kháng Chiến
Thư đáp
Trân trọng
Nguyễn Tường Thụy
Anh em CLBKC vừa đọc xong bài “Đừng xác định tội Phương Uyên thay công an” của anh, chúng tôi cũng xin ý kiến với anh là chúng tôi rất thương yêu em Uyên như là con cháu ruột của mình .Trong hoàn cảnh như thế nầy, lý do chúng tôi đưa tin trước khi Công An lên án Uyên vì thiết nghĩ nếu chờ cho CA lên án xong rồi đăng lại thì dư luận sẽ không kịp phản ứng .
Nếu chúng ta biết trước được những điều CA sẽ làm và đưa ra trước
công luận thì mọi người sẽ có nhiều cơ hội và thời gian để phản bác lại
bản án mà Công An sẽ tuyên án với Uyên .
Blog ĐLB có nhiều người viết và đăng bài nên nguồn tin khi đưa ra một
cách nhanh chóng chắc chắn sẽ thiếu xót và có thể gây bất lợi cho Uyên
như anh Nguyễn Tường Thụy phân tích .
Chúng tôi cũng thành thật xin lổi gia đình Uyên, anh Nguyễn Duy Linh
và chị Nguyễn Thị Nhung . Kính thưa anh chị, vì nóng lòng muốn cứu cháu
nên chúng tôi đã nhanh chóng thông tin dựa trên những gì chúng tôi có
được để dư luận tìm đường cứu cháu. Những bản tin trang Blog nầy đưa ra
nếu gây bất lợi cho cháu Uyên thì cũng chỉ là sự vô tình và thiếu sót
của chúng tôi.Chúng tôi mong mọi người hãy hướng về Uyên, hãy cứu một đứa bé có tinh thần yêu nước . Trường hợp việc làm yêu nước của Uyên lại gây phiền nhiểu cho đảng để họ phải tìm cách xử nặng Uyên thì chúng ta mỗi người một tay hãy nói cho thế giới biết sự sai trái nầy. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để cứu cháu Nguyễn Phương Uyên.
Huy Phong
Câu Lạc Bộ Kháng Chiến
Thư đáp
Kính gửi anh Huy Phong và anh em CLBKC
Đọc thư của các anh, tôi thực sự an lòng. Chỉ thực sự vì cháu Uyên thì các anh mới viết được những lời chí tình như thế.
Tôi đồng ý với anh là việc thông tin về cháu Uyên để dư luận biết
trước mà phản ứng là rất cần thiết. Tôi chỉ góp ý về cách đưa tin thôi.
Tôi cũng muốn trao đổi với bạn đọc nên hiểu bản chất của thông tin là
như thế nào. Điều này, tôi đã nói kỹ trong bài viết.
Vậy là trong việc của cháu Uyên, chúng ta đã đứng về cùng một phía để bảo vệ cho cháu, làm tất cả vì cháu.
Nguyễn Tường Thụy
Mẹ nữ sinh viên Phương Uyên khiếu nại công an bắt con sai pháp luật
25/10/12 – Chuacuuthe
VRNs (25.10.2012)
– Sài Gòn – Sáng nay, tại Sài Gòn, trước lúc trở về Bình Thuận, bà
Nguyễn Thị Nhung, mẹ của cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên, đã ký và gởi
đi Đơn khiếu nại đến Công an tỉnh Long An, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Long An và Thanh tra bộ công an. Bà Nhung khiếu nại việc cô Uyên, con
gái bà đã bị công an bắt theo hình thức bắt cóc và khủng bố, không tuân
theo tiến trình quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Bà viết: “Đối chiếu qui định pháp luật, tôi thấy các cơ quan Công an
đã vi phạm các điều luật về bắt người, tạm giam… Cụ thể: khoản 2, Điều
80, khoản 1 Điều 84, Điều 85, khoản 4 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngoài ra cơ quan Công an cũng vi phạm các qui định về chế độ tạm giam,
cụ thể khoản 1 Điều 26 và Điều 30 Qui chế Tạm giữ, tạm giam (Ban hành
kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 của Chính
phủ) khi từ chối cho gia đình gửi dòng chữ: “MẸ YÊU CON”.
Chính vì vậy, bằng văn bản này tôi yêu cầu Quí Cơ quan xem xét có trả lời về những vi phạm và giải quyết cho gia đình được thăm gặp, tiếp tế… nhất là trong điều kiện con gái tôi vừa lớn, tuổi đang học, cần sự động viên, chăm sóc của người thân trong hoàn cảnh khó khăn này của cuộc đời. Với niềm tin sắt đá – qua thời gian nuôi dạy con khôn lớn – gia đình tôi khẳng định chắc chắn con tôi NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN không thể là “tội phạm hình sự”, nếu có chăng chỉ là hành vi “thể hiện LÒNG YÊU NƯỚC” chưa đúng theo định hướng!”
Bà Nhung cũng yêu cầu các cơ quan chức năng phải cung cấp cho bà những văn bản hợp pháp dẫn đến việc bắt con gái của bà.
VRNs xin giới thiệu nguyên văn Đơn khiếu nại này.
Chính vì vậy, bằng văn bản này tôi yêu cầu Quí Cơ quan xem xét có trả lời về những vi phạm và giải quyết cho gia đình được thăm gặp, tiếp tế… nhất là trong điều kiện con gái tôi vừa lớn, tuổi đang học, cần sự động viên, chăm sóc của người thân trong hoàn cảnh khó khăn này của cuộc đời. Với niềm tin sắt đá – qua thời gian nuôi dạy con khôn lớn – gia đình tôi khẳng định chắc chắn con tôi NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN không thể là “tội phạm hình sự”, nếu có chăng chỉ là hành vi “thể hiện LÒNG YÊU NƯỚC” chưa đúng theo định hướng!”
Bà Nhung cũng yêu cầu các cơ quan chức năng phải cung cấp cho bà những văn bản hợp pháp dẫn đến việc bắt con gái của bà.
VRNs xin giới thiệu nguyên văn Đơn khiếu nại này.
Muốn Đảng ‘sống còn’ không thể chỉ bằng kiểm điểm và khóc lóc
Nhà báo Châu Thành (Danlambao)
- Lâu nay, tôi vốn có cảm tình với ông Nguyễn Phú Trọng. Nhìn nét mặt
ông lúc nào cũng thấy một chút hiền. Nhiều khi tôi nói với bạn bè ông là
một hiền nhân quân tử hơn là một chính khách tài ba. Thực sự tôi càng
động lòng khi thấy qua diễn văn bế mạc hội nghị 6, ông đã nghẹn ngào
muốn khóc. Ông khóc vì bất lực trước bọn đàn em nhơm nhớp thành bầy sâu
bọ có thể dẫn đến tan nát cơ đồ? Hay khóc vì thương dân đang khổ đau
nhiều bề dưới bọn đàn em hư hỏng?
Lịch sử từ thời Xô Viết đến nay, phê bình và tự phê bình không là
cứu cánh cho sự tiến lên của đảng. Các đảng Dân Chủ, Cộng Hoà của Mỹ hay
nhiều đảng cầm quyền của Đức, Anh, Pháp… không biết họ có hay kiểm điểm
suốt tháng này năm nọ hay không mà họ vẫn vững vàng và họ được nhân dân
ủng hộ? Tôi cũng từng quá cực nhọc khi phải suốt cả tuần có khi cả
tháng ngồi kiểm điểm, phê bình rồi hứa hẹn sửa chữa, nhưng thực chất sau
đó là mưu mô xảo quyệt để hạ người đã dám phê bình thẳng thắn rồi tập
hợp phe cánh để leo cao… Trong đảng và trong dân từng biết câu 7T và 7L :
“Thẳng -Thắn – Thật- Thà – Thì – Thua – Thiệt / Lách – Luồn – Léo – Lận
– Lại – Lên – Lương”
Khi đảng đã bỏ chế độ quan liêu bao cấp, không theo đường lối kinh
tế xã hội chủ nghĩa – cho phát triển kinh tế thị trường – thì làm sao
kiểm điểm rút kinh nghiệm, sửa chữa mà tiến lên được ?
Vấn đề lớn mà ai cũng thấy là phải sửa đổi đường lối chính sách,
sửa đổi thể chế. Không thể sửa đổi đường lối chính sách khi thể chế
không thay đổi, khi luật pháp không theo cơ chế phát triển của kinh tế.
Việc gán cái đuôi XHCN vào cơ chế thị trường thì chẳng khác gì ra lệnh
cho hổ trong nước không được ăn thịt sống. Muốn làm được vậy thì phải ra
lệnh bắt hết hổ nhốt vào chuồng, ngày ngày cho ăn cơm và thịt chín. Ý
đảng gắn cái đuôi bằng bông ngũ sắc XHCN vào đít các nhà buôn và mọi
người dân bảo họ không được kiếm lời quá đáng, diệt chết cái lòng tham
đi. Nhưng làm sao thực hiện được lý tưởng cao siêu này? Hay nên phát
động các nhà khoa học chế ra một loại thuốc diệt tham hoặc cắt bỏ dây
thần kinh tham lam của con người rồi buộc mọi người Việt Nam phải uống
thuốc diệt tham hay cắt bỏ dây thần kinh tham? Khi đã tự mình cho mình
quyền lớn nhất là độc đảng,là “lãnh đạo toàn diện và triệt để” là “toàn
quyền quyết định mọi vấn đề” thì như ai cũng biết là thành vua rồi mà
vua trong cơ chế thị trường thì phải giàu nhất nước, nhất thế giới chứ
làm sao hạn chế? Còn nếu vua không thế thì sẽ có người giết vua để làm
vua.
Như nhiều người đã nhất trí, nước mình đi sau lạc hậu, muốn tiến
phải phải chạy nhanh đón đầu, thế thì hà cớ gì không học các nước tiên
tiến xem họ tổ chức xã hội thế nào mà họ phát triển ghê vậy?Không đâu xa
như Thái Lan kia, trước 1975 họ mơ được như miền Nam ta mà nay thì ta
sụt hậu so với họ đến 75 năm như vậy!
Dùng cái kim chỉ nam lỗi thời lạc hậu để ‘phê tự phê’ rồi khóc lóc
thì đất nước sẽ mãi lụn bại. Các vị lãnh đạo cỡ uỷ viên trung ương tôi
thấy ai cũng giàu rồi, đủ nuôi vợ con rồi. Các vị muốn giàu nữa thì dân
khổ lắm. Các vị hãy vì đất nước có được hoà giải yêu thương và mạnh giàu
tiến bộ so với năm châu, dân mong quý vị hãy biểu quyết “Đi theo con
đường dân chủ!”, như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên uỷ viên BCT phụ
trách tư tưởng văn hoá của đảng trong bài thơ ‘Nhân dân’ đã kêu gọi toàn
đảng toàn dân :
Sự sợ hãi không cứu được chúng ta
Mà chính là sự can đảm
Đi tới dân chủ
Họ đang đưa đất nước vào ngõ cụt và đêm đen
Tác giả: Nguyễn Gia Kiểng – ĐCVBí thư Đảng CSVN đến Quảng Đông, thúc đẩy quan hệ thương mại. Wang Yang, Bí thư CPC Ủy ban tỉnh Quảng Đông gặp Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) Ban Chấp hành Trung ương tại Quảng Châu vào ngày 13 tháng 10 2011. (Nfdaily)
Từ gần ba năm qua nhiều người đã hy vọng rằng đất nước đang chuyển động để ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc đồng thời tăng cường quan hệ và tiến dần đến thế hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ và các nước dân chủ. Hy vọng này đang tan biến nhanh chóng từ vài tháng qua.
Nó phát sinh từ niềm tin là quan hệ Việt Trung không thể tiếp tục như trước. Từ năm 2007 Trung Quốc đã tích lũy những lộng hành trên Biển Đông. Bắn giết hay bắt và xử phạt ngư dân Việt Nam trước sự bất lực của chính quyền cộng sản Việt Nam; lập huyện Tam Sa bao gồm các đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã đánh chiếm của Việt Nam; đơn phương tuyên bố “quyền lợi cốt lõi” (nghĩa là quyền lợi phải bảo vệ bằng chiến tranh nếu cần) trên một vùng lưỡi bò chiếm gần hết Biển Đông; ngang ngược cát dây cáp của tầu nghiên cứu địa chấn Việt Nam ngay trong hải phận Việt Nam v.v. Những hành động đó đã gây phẫn nộ lớn không chỉ trong quần chúng Việt Nam mà ngay cả trong đa số đảng viên cộng sản, buộc những người cầm quyền phải phần nào chấp nhận để những phẫn nộ đó được bộc lộ qua những cuộc biểu tình ở tầm vóc giới hạn, thí dụ như trong dịp rước đuốc Thế Vận mùa hè 2008. Thêm vào những lộng hành của Trung Quốc là những điều mà dư luận cho là chính quyền CSVN đã phải nhượng bộ trước áp lực dù rất nguy hiểm cho Việt Nam như dự án khai thác bô-xit tại Tây Nguyên, hay thỏa hiệp cho Trung Quốc thuê dài hạn nhiều khu rừng có vị trí chiến lược. Những phản đối này được sự đồng tình của cả những cựu cán bộ cao cấp lão thành, đôi khi được cả sự khuyến khích của một số lãnh đạo cao cấp muốn gây khó khăn cho đối phương của mình trong cuộc tranh giành quyền lực. Tất cả đóng góp tạo ra một phong trào đòi đối đầu với Trung Quốc thay vì nhượng bộ.
Mùa hè 2010 phong trào này đã đạt tới cao điểm với hội nghị ASEAN tại Hà Nội trong đó ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton công khai phủ nhận những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, kể cả Hoàng Sa và Trường Sa. Lập trường của Hoa Kỳ rõ ràng là bênh vực Việt Nam, nó càng mạnh mẽ vì trước đó bà Clinton đã dõng dạc tuyên bố tại Bangkok là “Hoa Kỳ đã trở lại Đông Nam Á”.Thực ra người Mỹ không có nhu cầu “trở lại” Đông Nam Á. Họ chưa hề ra đi và còn đang hiện diện rất mạnh tại đây. “Trở lại Đông Nam Á” đối với Hoa Kỳ chỉ có nghĩa làtrở lại Việt Nam. Tiếp theo là những tiếp xúc dồn dập với Hoa Kỳ và các nước dân chủ, kể cả một cuộc viếng thăm của bộ trưởng quốc phòng Pháp Hervé Morin với kết quả là thỏa hiệp theo đó Pháp sẽ cung cấp thiết bị và giúp đào tạo các sĩ quan không quân và hải quân Việt Nam. Tàu sân bay George Washington đến thăm cảng Đà Nẵng. Tháng 6 vừa qua cả ngoại trưởng lẫn bộ trưởng quốc phòng Mỹ tới Việt Nam. Đó chỉ là một số trong nhiều sự kiện tạo ra niềm tin rằng Việt Nam đang thay đổi chính sách đối ngoại. Sự chuyển hướng đột ngột của Miến Điện – giữa một làn sóng dân chủ mới đang trào dâng trên khắp thế giới – lại càng làm cho niềm tin này thêm mạnh mẽ.
Một chọn lựa hiển nhiên, hợp tình, hợp lý
Về mặt lý luận chọn lựa sáp lại với Hoa Kỳ và ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc quá hiển nhiên. Việt Nam có rất nhiều điều – văn hóa cũng như khoa học, kỹ thuật và phương pháp – để học hỏi ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây, hơn hẳn so với Trung Quốc; ngoại thương với Hoa Kỳ đem lại cho nước ta một thặng dư lớn, 12,3 tỷ USD năm 2011, trong khi với Trung Quốc ta bị thâm thủng 13,8 tỷ. Hai con số này khi đem so sánh với kết số thâm thủng 9,5 tỷ USD của ngoại thương Việt Nam năm 2011 cho thấy quan hệ với Hoa Kỳ là một phúc lợi lớn trong khi hợp tác với Trung Quốc là một thiệt hại nặng. Mặt khác Hoa Kỳ là một cường quốc thương mại, hàng không và hàng hải, muốn tìm kiếm thị trường và đối tác chứ không có văn hóa lấn chiếm như Trung Quốc. Dù có hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ đến đâu đi nữa cũng không sợ bị mất đất mất biển, trong khi ngược lại Trung Quốc đã bày tỏ quá rõ ý đồ muốn làm chủ Biển Đông, mà Biển Đông lại quá quan trọng đối với Việt Nam, mất Biển Đông thì Việt Nam sẽ không còn là Việt Nam nữa. Hoa Kỳ cũng có thừa sức mạnh ngoại giao cũng như quân sự để bảo vệ Việt Nam; một quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ, vì thế, là điều kiện cần để có thể sống chung hòa bình với Trung Quốc. Hàn Quốc và Đài Loan đã giữ được quan hệ hòa bình và hợp tác với Trung Quốc nhờ sự che chở của Hoa Kỳ. Hàn Quốc giữ được eo biển Hoàng Hải, Đài Loan giữ được các đảo Kim Môn và Mã Tổ chỉ cách lục địa Trung Quốc vài cây số.
Sau cùng, nhưng cũng rất quan trọng, đối với các chuyên gia thì dù chế độ CSVN có muốn tiếp tục dựa vào Trung Quốc để tồn tại cũng không được nữa. Bối cảnh thế giới đã thay đổi, mô hình kinh tế Trung Quốc sắp phá sản – có thể nó đã phá sản nhưng chưa được thú nhận – và nội tình Trung Quốc cũng sắp bất ổn.
Chọn lựa này quá hợp tình hợp lý đến nỗi người ta không thể tưởng tượng là chính quyền CSVN có thể ngoan cố tiếp tục một thế lệ thuộc vừa nhục nhằn vừa tai hại.
Nguy cơ đã gần kề
Nhưng đó chính là mối nguy đã hiện rõ từ ba tháng nay. Nó đang tới gần và chắc chắn sẽ tới nếu không gặp một chống đối quyết liệt. Phải nhìn nhận rằng trong những năm vừa qua đã có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại mà nhiều người, trong đó có chính kẻ viết bài này, đã không đánh giá đúng mức độ nghiêm trọng. Có thể nói từ năm 2009 trở đi, khi quyền lực của Nguyễn Tấn Dũng trở thành mạnh đến nỗi lấn át cả đảng cộng sản, chính sách đàn áp những người dân chủ đã thô bạo hẳn lên. Nguyễn Xuân Nghĩa bị xử 6 năm tù vì treo biểu ngữ “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”; cô Phạm Thanh Nghiên bị tù 4 năm chỉ vì ngồi phản kháng Trung Quốc tại nhà; Trần Huỳnh Duy Thức 16 năm vì tham gia Đảng Dân Chủ và tố cáo Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng; Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm và cô bạn gái Đỗ Thị Minh Hạnh 7 năm vì rải truyền đơn nói lên tinh thần dân tộc vào dịp kỷ niệm một nghìn năm Thăng Long; Vi Đức Hồi 5 năm và Cù Huy Hà Vũ 7 năm chỉ vì những bài viết ôn hòa. Trước đó những trường hợp như vậy chỉ bị “làm việc” qua loa hoặc bị xử tối đa một hai năm tù trong trường hợp thô bạo nhất. Sự gia tăng đàn áp này tự nó đủ để chứng tỏ đảng cộng sản, hay ít nhất phe nắm quyền trong đảng, không có ý định tiến lại gần Hoa Hỳ và các nước dân chủ, bởi vì nếu như thế phải ngừng, hoặc ít nhất giảm mức độ đàn áp chứ không gia tăng một cách hung bạo.
Với những ai còn cố bám vào hy vọng một chuyển hướng về phương Tây vụ án Câu Lạc Bộ Các Nhà Báo Tự Do đã là một cải chính dứt khoát. Điếu Cày là trường hợp đầu tiên mà một tổng thống Mỹ nêu đích danh một tù nhân chính trị Việt Nam để yêu cầu trả tự do. Cũng cần lưu ý là Điếu Cày viết rất ít, anh chỉ bị bắt vì bị coi là người chủ chốt trong những cuộc biểu tình chống ngọn Đuốc Thế Vận qua Việt Nam bởi vì ngọn đuốc này cũng ghé Hoàng Sa và Trường Sa. Điếu Cày không có tội gì cả và đã ở tù bốn năm. Bản án 12 năm tù cho Điếu Cày, và 10 năm cho Tạ Phong Tần, là một thách thức rất ngạo mạn với Hoa Kỳ và tổng thống Obama. Phải thực sự cố tình muốn khiêu khích Mỹ chính quyền CSVN mới hành động như thế. Phản ứng nhanh chóng của bộ ngoại giao Mỹ và sứ quán Mỹ tại Việt Nam ngay sau bản án chứng tỏ tình cảm giữa hai chính quyền không còn gì.
Họ đã quyết định xong và tuyên bố.
Và rồi chọn lựa tiếp tục lệ thuộc Trung Quốc đã được chính thức công bố qua cuộc phỏng vấn thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh ngày 17-9 vừa qua trên báo Quân Đội Nhân Dân. Cần lưu ý rằng trong các chế độ cộng sản những cuộc phỏng vấn những người cầm quyền không bao giờ là sáng kiến của một tờ báo mà luôn luôn do chính quyền chủ động; những cuộc phỏng vấn chỉ là phương tiện để chính quyền công bố một chính sách nào đó. Cũng nên lưu ý là ông Vịnh tuy chỉ là thứ trưởng nhưng là một trong những nhân vật có ảnh hưởng hàng đầu vì nắm được Tổng Cục 2, vì được sự đỡ đầu của ông Lê Đức Anh và vì là một đồng minh cột trụ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cũng là con đỡ đầu của ông Lê Đức Anh. Những lời tuyên bố của ông Vịnh vì vậy phải được coi là lập trường của chính quyền CSVN, hay ít nhất của phe Nguyễn Tấn Dũng đang có quyền lực áp đảo trong chế độ.
Ông Vịnh đã phát biểu một cách rất rõ rệt. Ông nói (nguyên văn):
-”Việt Nam không còn bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực, giải quyết với Trung Quốc mọi bất đồng, (…)trên cơ sở quan hệ hữu nghị giữa hai nước láng giềng XHCN”.
-”Chúng ta luôn phải nhớ nằm lòng kim chỉ nam“Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” mà Đảng ta và Bác Hồ đã chỉ ra, bảo vệ vững chắc chế độ XHCN mới giữ được độc lập chủ quyền (…) nền tảng chính trị đã đưa đến quan hệ hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc là định hướng xã hội chủ nghĩa.Hai nước phải tin con đường Việt Nam và con đường Trung Quốc đang đi là một CNXH đích thực, một CNXH độc lập, vững vàng, không thể bị chuyển hóa bởi những yếu tố bên ngoài mặc dù chúng ta đang sống trong môi trường toàn cầu hóa, hội nhập mạnh mẽ”.
Không thể rõ ràng hơn. Nhưng ông Vịnh dựa trên những yếu tố nào để quả quyết -”Việt Nam không còn bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực”? Cần lưu ý là với hai tiếng “Việt Nam” ông Vịnh đã nhấn mạnh ông không phát biểu với tư cách cá nhân, hay thứ trưởng quốc phòng, mà phát biểu nhân danh chế độ. Như vậy việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa và “quyền lợi cốt lõi” trên vùng lưỡi bò không còn là một băn khoăn cho chính quyền CSVN? Thực ra Việt Nam phải rất băn khoăn, thậm chí vô cùng lo ngại, vì theo chính lời ông Vịnh khi Việt Nam đề nghị Việt Nam và Trung Quốc cam kết không sử dụng vũ lực thì phía Trung Quốc chỉ hứa sẽ “ghi nhận tích cực” chứ không chịu cam kết, nghĩa làvẫn đánh nếu cần. Thật là ăn nói ngược ngạo.
Sự ngược ngạo còn đạt tới cùng độ khi ông Vịnh nhắc lại một phương châm được gán cho “đảng ta” và “Bác Hồ”: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới hiện nay có gần hai trăm quốc gia độc lập họ có cần tới chủ nghĩa xã hội đâu, không những thế đa số còn ghê tởm chủ nghĩa cộng sản như một tội ác đối với loài người. Vả lại ngay cả nếu muốn bênh vực chủ nghĩa Mác-Lênin thì cũng phải biết rằng chủ nghĩa này tự coi là một chủ nghĩa quốc tế, nó phủ nhận vai trò của quốc gia, chưa nói quốc gia độc lập. Một người cộng sản Việt Nam có thể coi một người cộng sản Nga, hay cộng sản Congo, như anh em nhưng lại nhìn một người chống cộng Việt Nam như kẻ thù. Nguyễn Chí Vịnh hoặc không biết gì về thế giới và chủ nghĩa cộng sản hoặc đã nói ngôn ngữ của kẻ có bạo lực và bất chấp sự thực. Và phải hiểu thế nào lời tuyên bố: “con đường Việt Nam và con đường Trung Quốc đang đi là một CNXH đích thực, một CNXH độc lập, vững vàng, không thể bị chuyển hóa bởi những yếu tố bên ngoài mặc dù chúng ta đang sống trong môi trường toàn cầu hóa, hội nhập mạnh mẽ”? “Chủ nghĩa xã hội” chỉ là một cụm từ để chỉ chế độ độc tài toàn trị, một cụm từ đã gắn liền -qua các danh xưng “Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Đức” (Đức Quốc Xã) và “Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết” (Liên Bang Xô Viết)- với những tội ác kinh khủng của Hitler và Stalin mà cả nhân loại, kể cả hai dân tộc Đức và Nga đã cực lực lên án. Theo Nguyễn Chí Vịnh đảng CSVN không những tiếp tục theo chủ nghĩa xã hội mà còn khẳng định là theo một thứ chủ nghĩa xã hội đích thực và không chuyển hóa. Đây là một lời tuyên chiến với dân tộc Việt Nam và với cả loài người.
Nguyễn Chí Vịnh đã tiết lộ một sự kiện nghiêm trọng đáng đặt toàn dân Việt Nam trong tình trạng báo động: những người cầm quyền cộng sản đã chọn áp đặt đường lối tiếp tục thần phục Trung Quốc và chống lại dân chủ. Quả nhiên họ đã chọn xong: hội nghị trung ương 6 vừa qua không hề bàn tới chính sách đối ngoại. Nếu không có áp lực nào đủ nhanh và đủ mạnh để buộc họ phải thay đổi thì đó sẽ là số phận của đất nước trong nhiều năm sắp tới.
Ngõ cụt và đêm đen
Số phận đó sẽ như thế nào? Việt Nam sẽ cô lập trong nanh vuốt của Trung Quốc bởi vì không ai bảo vệ một chế độ độc tài hung bạo. Bài học lịch sử vẫn còn rất mới: năm 1988 khi Trung Quốc ngang nhiên đánh chiếm Trường Sa của Việt Nam họ đã không bị ai phản đối. Sau này nếu Trung Quốc chiếm nốt Trường Sa, khai thác dầu khí ngay trong lãnh hải Việt Nam và cấm tầu Việt Nam đi lại cũng sẽ thế thôi, cùng lắm là một vài phản đối nguyên tắc. Nên nhắc lại một lần nữa là nguy cơ vẫn còn nguyên vẹn. Trung Quốc hiện đang mâu thuẫn lớn với Hoa Kỳ, Nhật và nhiều nước khác trong vùng Thái Bình Dương và đang có nhu cầu hòa dịu với Việt Nam để đừng đẩy Việt Nam vào thế bắt buộc phải sáp lại với Hoa Kỳ. Tuy vậy, theo lời của chính Nguyễn Chí Vịnh, Trung Quốc đã không chịu cam kết sẽ không sử dụng vũ lực. Sau này chắc chắn họ sẽ sử dụng nếu cần. Cuộc đụng độ nếu xảy ra sẽ bằng không quân và hải quân, những binh chủng mà Việt Nam còn cần nhiều năm nữa để đào tạo ngay cả nếu có phương tiện tài chính. Nếu cô lập với thế giới thì vũ khí duy nhất của chế độ CSVN sẽ chỉ là van xin, nhưng van xin sẽ hoàn toàn vô ích vì Trung Quốc đã quyết tâm chiếm trọn Biển Đông. Khả năng mất quyền lợi trên Biển Đông gần như chắc chắn. Cũng phải nói thêm rằng ngay bây giờ Hoa Kỳ và Châu Âu đã thất vọng và ngày càng có khuynh hướng coi Việt Nam như một pariah state, nghĩa là một nhà nước mạt hạng không đáng quan tâm.
Trong ngắn hạn, khi chọn lựa tiếp tục làm chư hầu Trung Quốc đã rõ, sự thất vọng này -cùng với sự xét lại bắt buộc do cuộc khủng hoảng kinh tế – sẽ khiến các nguồn đầu tư từ các nước dân chủ cạn kiệt và các thị trường tại các nước này trở nên rất khó khăn cho Việt Nam. Dễ hiểu, Trung Quốc ngày càng bị mất cảm tình trên thế giới và bị nhìn như một mối đe dọa, làm chư hầu Trung Quốc thì không thể mong được thiện cảm của thế giới. Hiện tượng này trên thực tế đã bắt đầu rồi. Sự thất vọng còn đi đôi với phẫn nộ vì chính quyền cộng sản Việt Nam đàn áp dân chủ một cách hung bạo ngay giữa lúc một làn sóng dân chủ đang trào dâng mạnh mẽ và được sự cổ võ của cả thế giới. Cả đầu tư nước ngoài lẫn xuất khẩu đều đã sút giảm một cách báo động và còn đang tiếp tục sút giảm. Một cơ hội đã lỡ. Năm 2007, khi Việt Nam vừa gia nhập WTO (Tổ Chức Thương Mại Thế Giới) nhiều người tin là Việt Nam đã bắt đầu tiến trình hội nhập vào đà tiến chung của thế giới và khối lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã tăng vọt, lớn hơn tổng số đầu tư nước ngoài vào tất cả các nước trong vùng. Các quan chức Việt Nam đã thẳng tay vơ vét, khi không lãng phí và sai lầm vì thiếu khả năng. Ngày nay, ngoại trừ những dự án bắt buộc phải tiếp tục vì đã đi khá xa, không còn ai đầu tư vào Việt Nam nữa. Sản xuất và xuất khẩu cũng sút giảm nghiêm trọng. Nợ công của Việt Nam không phải là 70 tỷ USD như chính quyền nhìn nhận mà có thể gấp đôi. Các tập đoàn kinh tế nhà nước lỗ năng và nợ trên 50 tỷ USD. Ủy ban tài chính quốc hội ước lượng Việt Nam cần ngay 12 tỷ USD để đương đầu với những chi tiêu khẩn cấp, trước khi cần vay thêm nhiều nữa. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế sẽ không cho vay vì Việt Nam không đủ tiêu chuẩn. Hoa Kỳ và các nước dân chủ sẽ không cho vay vì chính quyền Việt Nam đàn áp nhân quyền. Trung Quốc sẽ cho vay nhỏ giọt nhưng với cái giá phải trả là cúi đầu thấp hơn nữa và nhượng bộ nhiều hơn nữa trên Biển Đông. Việt Nam đang ở trong một tình trạng kinh tế rất hiểm nghèo và có thể sụp đổ nếu mất đi sự hợp tác với các nước dân chủ bởi vì hai thị trường lớn nhất của Việt Nam là Châu Âu và Hoa Kỳ, kế tiếp là Nhật, trong khi Trung Quốc không phải là một thị trường mà còn là một thâm thủng lớn. Chọn lựa của ĐCSVN không phải chỉ đe dọa chủ quyền đất nước trong trung hạn mà trước mắt còn có nguy cơ làm sụp đổ sinh hoạt kinh tế và dìm đất nước trong cảnh nghèo đói. Một vòng xoắn oan nghiệt đang chờ đợi chúng ta: càng suy yếu và cô lập càng lệ thuộc Trung Quốc nhưng càng lệ thuộc Trung Quốc lại càng bị cô lập và suy yếu thêm.
Đó là tương lai mà ĐCSVN đang hứa hẹn cho đất nước. Ngõ cụt và đêm đen.
Trách nhiệm về ai?
Giữa thập niên 1980, ngay sau khi mới vừa huênh hoang khoe chiến công oanh liệt và trong lúc Trung Quốc còn đang lấn chiếm, ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã chọn quỳ xuống và cúi đầu để giữ nguyên ách toàn trị của họ trên dân tộc. Và họ đã không gặp một phản ứng đáng kể nào. Các thế hệ mai sau khi đánh giá cha anh họ sẽ rất băn khoăn giữa u mê và hèn nhát. Ngày hôm nay, ngay giữa một làn sóng dân chủ mới đang dâng tràn trên khắp thế giới, ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam quyết định quay lưng lại với dân chủ, đàn áp thô bạo những đòi hỏi nhân quyền chính đáng và tái khẳng định quan hệ lệ thuộc đối với chế độ cộng sản Trung Quốc. Ngày trước cũng như bây giờ chính sách đối ngoại hoàn toàn được quyết định bởi những người thiếu văn hóa và thiếu hiểu biết về thế giới, các nhà ngoại giao đều bị biên tế hóa. Trách nhiệm về ai? Phải nhận định một điều là dù những người lãnh đạo cộng sản chóp bu đang đấu đá nhau gay gắt nhưng không có bất cứ một ai trong họ tỏ ý phiền lòng vì những những vụ án chính trị thô bạo, không một ai bác bỏ những lời tuyên bố của Nguyễn Chí Vịnh, không một ai hé lộ một cảm tình nào đối với dân chủ hay một bực bội nào trước những lộng hành của Bắc Kinh. Họ xung đột với nhau về quyền lực và quyền lợi nhưng họ giống nhau trong lập trường đối với Trung Quốc. Họ đều có trách nhiệm, nhưng Nguyễn Tấn Dũng là người có nhiều quyền lực nhất trong bảy năm qua nên Nguyễn Tấn Dũng cũng là người chịu trách nhiệm nặng nhất. Nguyễn Tấn Dũng ra đi chưa chắc đất nước đã thoát hiểm, nhưng nếu Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục cầm quyền chắc chắn đất nước sẽ lâm nguy.
Khẩn trương
Chúng ta đã hiểu quá rõ những người cầm đầu đảng cộng sản. Không thể hy vọng gì nơi họ. Bao giờ họ cũng đặt chủ nghĩa xã hội lên trên quyền lợi của dân tộc, dù chủ nghĩa xã hội đã trở thành vô nghĩa và chỉ còn là cái cớ để duy trì ách độc tài toàn trị mà họ áp đặt lên dân tộc. Họ đang định kéo dân tộc vào một thảm kịch mới. Đất nước đang cần một phản ứng mạnh mẽ và quả quyết để thoát hiểm. Tình hình khẩn trương này đòi hỏi ở dân tộc Việt Nam, trước hết là trí thức Việt Nam, một sức bật mới của ý chí và lòng yêu nước. Phải làm gì là một câu hỏi cần được thảo luận. Điều chắc chắn là lúc này mọi người Việt Nam yêu nước và lương thiện, dù ở cương vị nào, dù là cựu tù nhân chính trị hay sĩ quan công an, phải chung sức với nhau, sau khi hòa giải với nhau nếu cần, trong một cố gắng cứu nước chung. Ngược lại mọi thái độ cầu an cố tình không nhìn thấy mối nguy lớn cho đất nước đều phải bị lên án thật dứt khoát.
© Nguyễn Gia Kiểng
(10/2012)
Còn tin đảng đến bao giờ?
Tác giả: Quốc Anh – ĐanchimvietNhững người dân nông thôn miền nam vốn mộc mạc, bình dị thường nghĩ sao nói vậy không trau chuốt văn vẻ, họ luôn dùng những ngôn từ mộc mạc, bình dân như bản tính thật thà, chất phát của họ! Mấy năm sau sự kiện ngày 30 tháng 04 năm 1975, với hàng loạt các đường lối ngu dân và bần cùng hóa xã hội, với những chủ trương di dân, đuổi dân thị thành ra các vùng nông thôn, vùng kinh tế mới, với những chính sách ngược đãi sĩ quan, binh lính chế độ cũ cùng gia đình vợ con của họ. Khi ấy dân chúng họ nói rằng: mấy ông nhà nước ngày nào cũng ra rả lên án bản chất của bọn tư bản bốc lột, còn mấy ổng hổng có bốc lột, mấy ổng chỉ bốc “lủm” không hà. Họ giải thích: ví như ăn chuối, ăn kẹo bọn tư bản nó lột vỏ rồi mới ăn, còn chế độ nhà nước ta họ không cần lột vỏ để vậy rồi lủm luôn cho nó nhanh gọn! Những con người bình dị ấy họ dự đoán trước bản chất nhà nước ấy đến mấy mươi năm sau mà không cần mày mò, bỏ công mấy mươi năm để nghiên cứu triết học Mac-Lênin.
Chế độ xã hội chủ nghĩa được sinh sản từ nước Nga xa xôi, đó là một thứ chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà mục tiêu chính của nó là cuộc đấu tranh giai cấp, đồng nghĩa với chia rẽ, gây hận thù chủ trương thủ tiêu, bắt bớ, tra tấn và giam cầm mà chính nước Nga nơi thai nghén, sinh nở ra nó nhưng đã xem nó như một quái thai đã đem vứt bỏ đi không thương tiếc! Thế nhưng tập đoàn lãnh đạo nhà nước ta lại cung thỉnh, đón rước đem nó về và bắt cả dân tộc Việt Nam phải tôn thờ xem nó như một thứ chủ nghĩa ưu việt thần thánh. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc, Việt Nam hay Triều Tiên lại tôn thờ không thể dứt bỏ nó bởi vì nó là một thứ chủ nghĩa “cộng hòa phong kiến” có ý nghĩa sâu xa nó là một thứ cộng hòa trá hình nhằm phục vụ cho một chủ nghĩa phong kiến tập quyền nhưng lại khôn khéo, thủ đoạn và tinh vi hơn các nhà nước Quân chủ chuyên chế xưa kia…Bởi khi xét đến bản chất của nó: độc đoán, độc tài, độc quyền, độc đảng nên nó chỉ phục vụ cho một giai cấp duy nhất đó là giai cấp ăn trên ngồi trước chứ không phải là một thể chế chính trị mang sắc màu của chủ nghĩa cộng hòa nhân dân chân chính như họ đã từng tuyên truyền, vận động để giành lấy thắng lợi trong các cuộc chiến tranh giành độc lập.
Như đã nói trên vì là một nhà nước cộng hòa phong kiến tập quyền cho nên tất cả quyền hành đều tập trung vào tay nhà vua là ông Tổng bí thư và các quan lại triều đình là những ủy viên Bộ chính trị và Ủy viên trung ương? Điều này được thể hiện rõ qua các triều đại Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Nông Đức Mạnh và gần đây là sự kiện truyền ngôi ở Triều Tiên. Chuyện quá khứ, vị lai hiển nhiên bày ra trước bàn dân thiên hạ nhưng họ vẫn cứ dối trá, mị dân rằng CNXH là ưu việt, là dân chủ gấp vạn lần CNTB. Mỗi cán bộ lãnh đạo đảng thường tự đề cao rằng họ thuộc hàng trí tuệ tuyệt đỉnh nên làm việc gì cũng đúng, mỗi lời họ phán ra dù sai bét nhè nhưng đối với lũ dân đen và cán bộ cấp dưới đều là khuôn vàng thước ngọc đều phải học hỏi và noi theo cho nên mỗi khi sai phạm chưa bao giờ thấy họ có văn hóa từ chức hoặc xin lỗi dân….Khi sai phạm ở nơi nầy họ được điều chuyển đi nơi khác, làm việc nơi nầy không xong được bố trí chuyển sang làm việc nơi khác có khi lại được đề cử, phân công ở những cương vị cao hơn.
Căn bệnh trầm kha, mãn tính của chế độ là lối triết lý dông dài, nói suông, hứa cuội, nói giỏi hơn làm và mỗi khi có sai phạm, có xảy ra sự cố trước tiên là họ không công nhận bởi do yếu kém trong quản lý hay cố tình làm trái quy định bởi tham nhũng, móc ngoặc, họ luôn đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau và đỗ lỗi cho đủ loại hoàn cảnh khách quan. Còn mỗi khi đề ra những chủ trương, chính sách họ tấu hài chọc lét thiên hạ cười nghiêng ngửa bởi những kiểu phát biểu đại loại như: Vietnam-Cuba là hai nước canh giữ hòa bình thế giới (Ô.Nguyễn Minh Triết-nguyên Chủ tịch nước), (Việt Nam không có nhu cầu đa đảng (Ô.Nguyễn Phú Trọng-Tổng bí thư), dân chủ của ta gấp vạn lần dân chủ tư bản (B.Nguyễn Thị Doan-phó Chủ tịch nước), không chống được tham nhũng tôi xin từ chức (Ô.Nguyễn Tấn Dũng-Thủ tướng chính phủ), Việt Nam có chỉ số IQ cao nên VN phải có đường cao tốc (Ô.Trần Tiến Cảnh-đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Nam), chưa cần có luật biểu tình vì dân trí thấp (Ô.Hoàng Hữu Phước-đại biểu Quốc hội Tp.HCM), có cắt điện hay không chỉ Ngọc hoàng mới trả lời được (Ô.Đào Văn Hưng-chủ tịch HĐQT-EVN), dân trí thấp và tập quán ở Vietnam chưa cao nên nhiều người dân đi gửi tiền không biết ngân hàng đó tốt hay xấu (Ô.Nguyễn văn Bình-Thống đốc ngân hàng nhà nước), đóng phí là yêu nước (Ô.Đinh La Thăng-bộ trưởng GTVT); người dân kém hiểu biết nên mới sợ vỡ đập (B.Ngô Thị Lư-tiến sĩ đoàn nghiên cứu viện vật lý địa cầu), dân nên chia xẻ và hy sinh cho thủy điện (Ô.Trần Văn Hải-Trưởng ban quản lý chủ đầu tư công trình sông Tranh 2), tự do cái con kẹt (Ô.Vũ Văn Hiển-Trung tá công an P.6, Q.3)….
Than ôi! Còn vô số những câu nói, những kiểu phát biểu tương tự không thể kể ra hết ở đây, những câu chữ được phát ngôn toàn ở những người có chức quyền, có học vị, học hàm cao là giáo sư, tiến sĩ, là những quan chức đứng đầu nhà nước, chính phủ hay một ngành trong bộ máy nhà nước. Chiến tranh đã đi qua gần bốn mươi năm, Việt nam hiện nay đang đứng ở đâu trên bản đồ thế giới?
Đất nước tụt hậu, dân tình khốn khổ! Những quả đấm thép thi nhau tan chảy thành nước, mấy trăm ngàn doanh nghiệp bị bức tử và còn hàng ngàn, hàng vạn doanh nghiệp khác đang ngắc ngoải bởi hệ thống ngân hàng bóp cổ, bẻ họng vì những khoản nợ lãi xuất…trong khi đó các trùm phỉ bầu Kiên, trùm Bê, Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Thanh Phượng thì xây lâu đài, dinh thự nguy nga lộng lẫy. Ôi! Toàn là những chuyện thấu đến trời xanh nhưng người đứng đầu chính phủ vẫn cứ dẽo mồm rằng tái cấu trúc kinh tế, tái cơ cấu các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng…Sao không nói luôn cái chuyện nên tái giao cấu theo kiểu: “Nguyễn Tường Tô, Sầm Đức Xương” hiện đang là mốt ăn chơi thời thượng của giới quan chức và giới đại gia chuyên tìm khoái lạc và hưởng thụ. Thế nhưng cả một tập đoàn chế độ lại quá dễ mũi lòng chịu khó lắng nghe những màn tấu hài rẻ tiền cứ nhại đi, nhại lại và nhàm chán dưới mắt người dân kiểu như: nhận khuyết điểm, nhận trách nhiệm, khắc phục hậu quả. Nhận trách nhiệm như thế nào, khắc phục hậu quả ra sao? Khi người dân đã nhận thấy rõ có quá nhiều trách nhiệm xảy ra và quá nhiều hậu quả từ trước đến nay đều đùn đẩy cho người dân và tất cả các doanh nghiệp làm ăn chân chính phải oằn lưng, gồng mình gánh chịu hậu quả thông qua đủ thứ loại phí, thuế vô lý bởi do lãng phí đầu tư công, đầu tư vào các công trình vô bổ, đầu tư những ngành nghề trái chức năng không hiệu quả, do nợ công, nợ xấu để lại…
Hội nghị lần nầy nó thực sự kín kẽ thuộc dạng thâm cung bí sử khiến cho dư luận phải đoán già, đón non. Tuy nhiên mọi luồng dư luận đều hướng đến, mong mỏi một kết quả tích cực giống như cuộc đời của các nhân vật trong tiểu thuyết, hay trong phim trường một kết cuộc có hậu, hoặc một câu chuyện cổ tích, thần thoại, nhằm nhắc nhở, giáo dục nhân cách truyền thống, đạo lý cho các thế hệ mai sau…Nhưng bao nhiêu niềm tin, lẫn sự kỳ vọng của xã hội trong mấy ngày vừa qua giống như một quả bóng xì hơi! Nhiều người nói rằng, trong đời sống xã hội nếu ta quá đặt kỳ vọng vào một niềm tin nào đó ngoài niềm tin của tôn giáo thì khi không đạt được nó càng trở nên hụt hẫng, thất vọng đôi khi lại chán nản mất phương hướng. Giống như trường hợp cha mẹ đặt hết công sức, niềm tin vào con cái mong muốn chúng nó ăn học nên người và không có gì thất vọng hơn khi nó nghe theo bạn bè xấu rủ rê bỏ học trở nên ngỗ nghịch, khó dạy bảo.
Trong cái thời buổi kinh tế khó khăn, mỗi người dân phải tự thắt lưng buộc bụng, trong lúc bộ máy nhà nước đang tìm đủ cách móc túi người dân để bôi trơn cho cái guồng máy cổ lỗ sỹ thông qua đủ loại thuế, phí. Xã hội vốn bất bình với cách quản lý, điều hành đất nước của một bộ máy làm việc kém hiệu quả thì những dạng thâm cung, bí sử theo kiểu hội nghị TW6 như vừa qua càng gây thêm sự lãng phí về thời gian, tốn kém chi phí ăn ở, đi lại lẫn công sức của gần hai trăm đại biểu, hàng trăm nhân viên lái xe và phục vụ…Nhân đọc bài viết: “175 con khỉ đỏ…hèn?” của tác giả Cu Đen đăng trên trang mạng Quan Làm Báo trước ngày diễn ra hội nghị, quả nhiên thật chí lý khi tác giả phân tích một trăm bảy mươi lăm Ủy viên trung ương và mười bốn vị Bộ chính trị chỉ là những con khỉ đít đỏ! Ngoài những tài vặt như: đùn đẩy trách nhiệm, nói suông, hứa cuội, diễn hài…các cán bộ lãnh đạo còn có thêm cái biệt tài là giỏi làm xiếc đó là những màn xiếc tung hứng, kẻ nhào lộn, người hứng đở… Đến một lúc nào đó gần hai trăm khỉ đít đỏ sẽ biến cả đất nước Việt Nam thành rạp xiếc và biến tám mươi bảy triệu dân cùng ba triệu đảng viên thành một đàn khỉ trong một gánh xiếc mà ông chủ đoàn xiếc không ai khác hơn là anh bạn láng giềng răng hở môi lạnh mà mọi người đều biết đó là Trung Quốc.
Sau toàn văn bế mạc hội nghị TW6 và kỳ họp quốc hội khóa 13, dự đoán sẽ có những cuộc đàn áp, bắt bớ thẳng tay nếu có tập trung biểu tình. Sẽ có những cuộc bố ráp, truy lùng gắt gao nhằm giáng đòn thù càng tàn độc và thủ đoạn hơn trước xuống các trang mạng cùng những bloger bất đồng chính kiến đã dám nói thẳng, nói thật; dám phê phán đả phá những cá nhân, tập thể đang từng ngày, từng giờ tàn hại đất nước, tàn phá nhân dân… Các chủ trang báo mạng, các trang blog cùng tất cả các bloger hãy cảnh giác và thận trọng với đòn thù bởi những âm mưu bỉ ổi và những thủ đoạn hèn hạ của những kẻ tài hèn, đức kém sẽ giáng xuống đầu các bạn. Chế độ ưu việt sẽ dẫn lối, đưa đường đẩy đất nước, dân tộc tới bờ vực của sự ngu dân và bần cùng hóa xã hội, cộng với mối họa xâm lăng, bị đồng hóa ngày càng đến gần. Tập thể lãnh đạo đất nước hiện nay giống như những con nghiện đang mãi phê và tự phê cái chủ nghĩa cộng sản ưu việt hảo huyền và họ vẫn hoài vọng mê ngủ với những chủ trương, chính sách vỗ tay tập thể theo kiểu: “con hát mẹ vỗ tay khen hay”, những đường hướng chiến lược kiểu tận diệt tài nguyên, tận thu thuế, phí móc cạn túi người dân dẫn đang tiếp diễn.
Nhiều năm mỏi cổ chờ đợi đảng cải tổ, đổi mới toàn diện. Mặc dù chưa thể ngẩng cao đầu với thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc nhưng ít ra cũng phải là một nhà nước công bằng, dân chủ; một xã hội trật tự, ổn định đem lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho dân nhưng trái ngược với sự kỳ vọng và mong đợi đó. Chế độ hiện nay chỉ là một chế độ tạp nham chỉ giỏi tài khoác lác, giỏi vơ vét, giỏi chịu khó theo dõi bắt bớ và giam cầm. Không thể trông chờ mãi vào sự ban phát lòng tin nữa! Tất cà hãy cùng đồng hành, cùng dấn thân vào con đường đầy chông gai, thử thách của những con người mở đường đi trước đó là: Linh mục Nguyễn Văn Lý, các luật sư Cù Huy Hà Vũ, Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, các nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải, Phan Văn Hải, Tạ Phong Tần…và còn nhiều, rất nhiều người đang bị bắt bớ, giam cầm vì những mục tiêu, lý tưởng cao đẹp. Hãy vì tương lai, vận mệnh đất nước, vì độc lập tự chủ vẹn toàn lãnh thổ; vì dân chủ, công bằng, bác ái và ấm no, hạnh phúc cho toàn dân tộc Việt nam. Tất cả hãy cùng xiết chặt tay nhau đi tìm ánh sáng chân lý, con đường lý tưởng và cùng đứng dưới ngọn cờ chính nghĩa.
(Sài gòn, ngày 24/10/2012)
© Quốc Anh
© Đàn Chim Việt
Quyền Tự do ngôn luận, Tự do báo chí
Tác giả: Nguyễn Văn Đài – ĐanchimvietĐiều 69 Hiến pháp Việt Nam 1992 qui định: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí…”
Điều 4 luật Báo chí cụ thể hóa quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận như sau :
“1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin ;
3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới ;
4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ;
5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.”
Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị:
“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.”
Theo các qui định của Hiến pháp, luật Báo chí và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Chúng ta đều nhận thức rằng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển đầy đủ của các quyền con người. Chúng cần thiết cho bất kỳ xã hội nào. Chúng cần thiết cho tất cả các xã hội tự do và dân chủ. Hai quyền này liên quan chặt chẽ với nhau, chúng cung cấp phương tiện cho việc trao đổi và phát triển ý kiến.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nguyên tắc minh bạch, cần thiết cho việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả thể chế chính trị, pháp luật, văn học(sáng tác thơ, ca,…), nghệ thuật,… Không có sự hạn chế nào. Nhà nước không được áp đặt hay ép buộc công dân chỉ được bày tỏ quan điểm, chính kiến theo một chiều. Công dân có quyền giữ quan điểm chính trị của mình mà không bị can thiệp. Họ có quyền tự do lựa chọn thay đổi quan điểm bất cứ khi nào và vì bất cứ lý do gì.Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không bị giàng buộc bởi đường biên giới quốc gia.
Công dân được sử dụng mọi phương tiện truyền thông như báo giấy, báo điện tử, radio, truyền hình, internet,… để thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mình. Một nền báo chí hay truyền thông tự do, không bị kiểm duyệt hay bị cản trở là cần thiết cho bất kỳ xã hội nào. Đó là trụ cột của một xã hội dân chủ.Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho mọi công dân có thể tiếp cận và sử dụng các phương tiện đó.
Công dân sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để yêu cầu, kiến nghị việc sửa đổi hay bãi bỏ bất kỳ điều nào trong Hiến pháp cũng như trong các bộ luật. Không có điều nào trong Hiến pháp là điều cấm mà công dân không có quyền kiến nghị sửa đổi hoặc hủy bỏ.
Công dân sử dụng quyền tư do ngôn luận, tự do báo chí để bày tỏ mong muốn thay đổi, cải cách hệ thống chính trị nhằm đáp ứng các quyền tự do dân chủ cũng như lợi ích của nhân dân. Công dân có quyền bày tỏ ước muốn xây dựng nền chính trị đa nguyên, đa đảng.
Do đó, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đã được qui định trong Hiến pháp, luật và Công ước quốc tế để bảo đảm rằng chính quyền phải tôn trọng và không được xâm phạm đến quyền của công dân.
Và trách nhiệm của chính quyền là:
Chính quyền cũng như cả hệ thống chính trị từ trung ương đến các địa có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Cũng như có trách nhiệm bảo vệ mọi công dân khi họ thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Trong bình luận chung số 34 về điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Hội đồng nhân quyền LHQ trong phiên họp 102 từ ngày 11 đến ngày 29 tháng 7 năm 2011. Mục số 7 và 8 nêu rõ:
“7. Nghĩa vụ tôn trọng tự do quan điểm và tự do biểu đạt là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Quốc gia thành viên như một chỉnh thể. Tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của chính phủ, dù ở cấp độ nào – quốc gia, khu vực hay địa phương – đều có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của Quốc gia thành viên.Các trách nhiệm đó cũng có thể phát sinh với một Quốc gia thành viên trong một số trường hợp nhất định liên quan đến các chủ thể có tư cách bán nhà nước. Nghĩa vụ này cũng yêu cầu các Quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng mọi người được bảo vệ khỏi bất kỳ hành vi nào của cá nhân hay pháp nhân thuộc khu vực tư có thể ảnh hưởng xấu đến việc thụ hưởng các quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt đến mức độ những quyền theo Công ước này dễ bị ảnh hưởng bởi việc áp dụng của các cá nhân hoặc pháp nhân thuộc khu vực tư.
8. Các Quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng các quyền trong Điều 19 của Công ước có hiệu lực trong hệ thống nội luật của quốc gia, và có tinh thần nhất quán với những chỉ dẫn của Ủy ban trong Bình luận chung số 31 về bản chất của các nghĩa vụ pháp lý chung đối với Nước thành viên Công ước….”
Những trở ngại khi công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Trong những năm vừa qua, đã có nhiều công dân khi sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để bày tỏ quan điểm chính trị đối lập, phê phán những sai lầm, yếu kém, tham nhũng của đảng Cộng sản. Một số nghệ sĩ như Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình chỉ sáng tác những ca khúc bày tỏ những trăn trở với vận mệnh đất nước. Nhưng tất cả họ đã bị truy tố và xét xử với mức án nặng nềtheo điều 88 bộ luật Hình sự. Ngoài gia hàng trăm người khác thường xuyên bị sách nhiễu.
Do vậy điều 88 bộ luật Hình sự là trở ngại cho công dân khi họ thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.Các hành vi chống nhà nước của điều 88 được hệ thống các cơ quan tư pháp của Việt Nam hiểu, giải thích và áp dụng như sau: Hành vi tuyên truyền nhằm làm giảm lòng tin với đảng CS, với chế độ XHCN, phá hoại sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong xã hội, xâm phạm sự vững mạnh của chính quyền nhân dân và chế độ XHCN. Hành vi xuyên tạc, đả kích các chủ trương, chính sách của đảng CS và nhà nước trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý cán bộ, công chức nhà nước,… Hành vi lợi dụng những tiêu cực, khoét vào những khó khăn trước mắt, thổi phồng những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, làm cho người khác không tin vào chế độ, và sự lãnh đạo của đảng CS, sự quản lý điều hành của bộ máy nhà nước.
Khi chúng ta đối chiếu nội hàm của điều 88 bộ luật Hình sự với điều 69 Hiến pháp, điều 4 luật Báo chí, điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Thì chúng ta thấy rằng chính quyền cũng như các cơ quan tư pháp của Việt Nam đã diễn giải điều 88 bộ luật Hình sự nhằm bóp chết quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Do vậy điều 88 bộ luật hình sự là VI HIẾN, nó chống lại điều 69 Hiến pháp, điều 4 luật Báo chí và Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sư và chính trị.
Lòng tin của nhân dân với đảng Cộng sản phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức của mỗi đảng viên và cả tập thể đảng Cộng sản. Còn lòng tin của nhân với chế độ XHCN phụ thuộc vào việc nó có mang lại quyền bình đẳng và quyền làm chủ đất nước của nhân dân hay không. Đảng Cộng sản không thể áp đặt tuyệt đối tư tưởng chính trị của mình lên toàn bộ xã hội. Còn các đường lối, chủ trương, chính sách của đảng Cộng sản, của chính phủ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội,…có thể đem lại lợi ích cho một bộ phận người dân này, nhưng với những người khác thì ngược lại. Những người được hưởng lợi thì họ ủng hộ, còn những người mất lợi ích thì họ có quyền phản đối. Những tiêu cực, sai lầm, khuyết điểm của chính quyền thì có nhưng người đánh giá không đáng kể, còn những người khác họ có quyền đánh giá là nghiêm trọng, tùy theo cách nhìn của mỗi người. Hoặc chế độ XHCN được nhiều người dân cho là phù hợp, và họ ủng hộ. Nhưng với rất nhiều người khác họ cho là không phù hợp và họ có quyền tự do phê phán, đả kích, thậm chí họ có quyền đòi hỏi thay đổi. Cùng một sự việc, một hiện tượng, nhưng mỗi người dân có những cách nhìn, quan điểm khác nhau.Nhóm này đồng ý, ủng hộ.Nhóm khác không đồng ý và phản đối.
Và nếu tất cả mọi công dân đều sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để ca ngợi và bày tỏ sự ủng hộ đối với chính phủ, đảng Cộng sản và chế độ XHCN. Chắc chắn chính quyền không bao giờ trừng phạt họ. Và quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không cần thiết được bảo vệ bởi Hiến pháp, luật và Công ước quốc tế. Nhưng ở Việt Nam cũng như trên thế giới, công dân thường sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để bày tỏ sự bất bình, sự phản đối, chỉ trích hay phê phán những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của chính phủ, chế độ XHCN.Trách nhiệm của chính quyền là bảo vệ và tôn trọng quyền tự do ngôn luận của cả nhóm công dân ủng hộ và nhóm công dân phản đối.
Làm thế nào để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân được tôn trọng và bảo vệ?
Nếu đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thực sự tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Quốc hội Việt Nam phải tiến hành hủy bỏ điều 88 bộ luật Hình sự,bởi đây là một điều luật vi hiến. Trong khi việc này chưa sảy ra thì chính phủ phải trả tự do cho tất cả những người đang bị giam giữ, bị cầm tù theo điều 88 bộ luật Hình sự,bãi bỏ quản chế với những người đã hết án tù. Chấm dứt sách nhiễu với những công dân đang thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Hà nội, ngày 22 tháng 10 năm 2012
(Bài viết đã đăng trên Blog http://vietnamhumanrightscommitte.wordpress.com/2012/10/23/quyen-tu-do-ngon-luan-tu-do-bao-chi/)
SV Nguyễn Phương Uyên trong mắt bạn bè
Khánh An, phóng viên RFA -2012-10-24
Việc cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên bị công an bắt đi điều tra mà
không thông báo kể từ ngày 14/10 đã khiến cho dư luận rất quan tâm và
bức xúc.
Nhờ các trang mạng điện tử mà nhiều bạn bè của Phương Uyên đã biết
được phần nào của sự việc và tỏ ra vô cùng bất ngờ. Nguyễn Phương Uyên
mà họ biết ngoài đời thường thực sự là một người như thế nào?
Trước đó, sinh viên này đã bị bắt đi một cách thiếu minh bạch vào ngày 14/10 khiến cho gia đình cô rất lo lắng, bạn bè xung quanh đều bất ngờ và sợ hãi.
Hầu hết bạn bè của Uyên nói rằng cô sinh viên của Trường Đại học Công nghệ thực phẩm TPHCM là một người bạn tốt, hiền ngoan và học giỏi nên không thể có chuyện cô vi phạm pháp luật.
Một người bạn phổ thông trung học của Uyên nhận xét:
Năm cấp 3, em và Uyên chơi thân với nhau. Trong lớp học, Uyên học rất chăm chỉ. Bạn ấy hiền lắm. Khi đi học, bạn bè có gì là bạn ấy hay giúp đỡ lắm. Nói chung, bạn ấy rất năng động trong những hoạt động của trường lớp và hòa đồng với bạn bè.
Cả bạn thời phổ thông lẫn bạn bè trong lớp học hiện nay của Phương Uyên đều nói rằng ấn tượng nhất của các bạn về cô bé sinh viên vừa tròn 20 tuổi là tính cách năng động của cô. Một người bạn cùng lớp hiện nay của Uyên cho biết:
Dạ, Uyên năng động. Bạn hay phát biểu, hay đặt lại những câu hỏi với giáo viên. Trong con mắt của tụi em, Uyên là một người bạn vui tính, dễ gần, nói chung là tốt ạ.
Cái tin Nguyễn Phương Uyên bị bắt nhanh chóng lan truyền trong nhóm bạn bè khiến ai cũng bất ngờ và lo lắng. Người bạn phổ thông của Uyên kể:
Hôm bữa em đi làm về, nghe một đứa bạn em nói “Biết tin gì chưa?”, em hỏi “Tin gì?”, nó mới nói là bạn Uyên lớp em bị bắt, bị mất tích. Lúc đầu nó nói là bị mất tích thôi, do làm đơn chống Trung Quốc gì đó. Em chỉ nghe nói vậy thôi chứ em không biết (Uyên) làm gì. Rồi nó mới nói là lên mạng coi đi, thông tin nhiều lắm. Lúc đó em mới lên mạng coi và em mới đọc được mấy tin đó. Em nghe nói là bạn Uyên có làm bốn câu thơ gì đó chống Trung Quốc nhưng em không biết bốn câu thơ đó là câu thơ nào.
Em nghĩ chắc bạn Uyên không làm mấy chuyện đó đâu vì theo như ba năm em học chung với bạn Uyên, em biết tính của bạn đó nên em nghĩ chắc là bạn sẽ không làm mấy chuyện đó. Khi em thông báo thì các bạn không tin. Các bạn bất ngờ hoàn toàn. Nói chung, bạn nào cũng không biết bạn Uyên đang ra sao và bạn nào cũng đang lo cho bạn đó.
Kể từ hôm Uyên bị bắt, bầu không khí trong lớp học của cô Ủy viên Ban chấp hành chi đoàn thanh niên Lớp 10CDTP1 tại Trường đại học công nghệ thực phẩm TPHCM trở nên nặng nề và “nhạy cảm” hơn. Những người bạn cùng lớp của Phương Uyên cho biết trong lớp bắt đầu xuất hiện những tiếng xì xầm to nhỏ, những câu hỏi, trả lời ngắt đoạn và những thông tin chắp nối mà ai đó có được về cô bạn Phương Uyên. Cho đến giờ, vẫn không ai nhận được bất cứ thông báo chính thức gì từ nhà trường, thầy cô hay ban cán sự lớp về chuyện vắng mặt của Uyên.
Một người bạn của Uyên nói:
Em cũng không rõ. Hỏi mấy người cán sự lớp thì tụi nó không nói, tụi nó nói là: “Cứ như vậy đi, đừng có bàn nhiều” thì em cũng chẳng biết nhiều.
Nhiều bạn bè của Phương Uyên sau khi hay tin đã bắt đầu vào các trang
mạng để tìm hiểu tin tức về bạn mình. Dư luận và các trang mạng xã hội
cho rằng Nguyễn Phương Uyên bị bắt vì làm thơ và có những hành động
chống Trung Quốc. Mặc dù khá hoang mang vì không biết nguyên nhân thực
sự của việc công an bắt giữ Uyên là gì, nhưng một số bạn bè cho rằng nếu
Phương Uyên thực sự có hành động chống Trung Quốc thì điều này không có
gì là sai trái.
Người bạn thời phổ thông của Uyên nói:
Nếu mà Uyên chống Trung Quốc thì em thấy là bạn đó đang bảo vệ cho người dân mình thôi. Tại vì em thấy Trung Quốc làm những chuyện ảnh hưởng đến sức khỏe của người Việt mình quá nhiều, sản xuất những hàng độc gây bệnh ung thư nhiều. Cho nên nếu như những việc bạn Uyên làm mà chỉ liên quan đến việc chống Trung Quốc thôi thì em nghĩ đó là cá tính của bạn. Em được biết là bạn đó cũng dặn ở nhà là không được xài hàng của Trung Quốc. Nếu như chỉ là việc bạn chống Trung Quốc thôi, không đụng chạm gì tới nước mình hết thì em nghĩ cái đó không có gì là sai hết.
Kể từ khi Nguyễn Phương Uyên bị bắt đi, một số bạn bè thân cận của Uyên tỏ ra khá sợ hãi mỗi khi có ai đó hỏi về việc của Uyên. Tuy nhiên, nỗi lo cho tình trạng sức khỏe và tương lai của bạn còn lớn hơn. Người bạn cùng lớp với Uyên tâm sự:
Em lo cho Uyên nhiều hơn là sợ ạ. Uyên không đi học được 11 ngày rồi chị. Em cũng mong Uyên về. Em không hiểu tại sao Uyên bị bắt. Em nghe mong manh là vấn đề đó rất nhạy cảm nên em cũng không biết nói sao. Em không muốn nói Uyên đúng hay Uyên sai nhưng em chỉ mong Uyên về để Uyên tiếp tục học và sống một cuộc sống bình thường như những ngày trước thôi.
“Lan, czyli Orchidea” (“Lan, nghĩa là Hoa Lan”) vừa được nhà xuất bản Znak (Ba Lan) phát hành và giới thiệu mới đây có nhiều liên quan tới Việt Nam.
Trên hết bởi tác giả là con đầu lòng của cặp vợ chồng công giáo Việt Nam – Ba Lan, sinh trưởng trong bối cảnh biến đổi ly kì của lịch sử hai nước. Marzena Wilkanowicz-Devoud là kết quả của mối tình “không tưởng” vô cùng lãng mạn của người trí thức Ba Lan với cô gái Việt Nam dòng dõi trong khi chiến tranh, chính trị và khoảng cách địa lý là những rào cản thách thức tưởng không thể vượt qua.
Mẹ cô, Maria Teresa Trần Thị Lài (mang họ Wilkanowicz sau khi kết hôn với cha cô) là con gái của quan Trần Văn Lý, người từng giữ chức cai quản tại Đà Lạt thời Pháp thuộc. 28 tuổi, bà gặp chồng tương lai trong một cuộc họp mặt thanh niên công giáo thế giới Pax Romana tại San Salvador (Nam Mỹ) và sau đó, trong lần thứ 3 gặp mặt sau 7 năm xa cách, bà quyết định lấy ông Stefan Wilkanowicz khi đó là kí giả của tuần báo công giáo Tygodnik Powszechny.
Bà Lài theo chồng sang Ba Lan năm 1963 dù biết sẽ không thể quay về Việt Nam hay trở lại Pháp, và dù biết phải chấp nhận cuộc sống cực khổ của vợ kí giả nghèo, của nhà trí thức bị chính quyền cộng sản Ba Lan khi đó dằn mặt và cảnh giác.
Câu chuyện của cặp uyên ương đặc biệt này đã từng được bà Lài ghi lại trong cuốn sách tự truyện xuất bản hồi năm 2004 với tựa “Z Wietnamu do Polski – Opowieść córki mandaryna” (“Từ Việt Nam tới Ba Lan – câu chuyện của con gái quan huyện”)
Mối tình của ông bà Wilkanowicz “ly kì và có khi còn hay hơn cả phim Hollywood vì là chuyện có thật” – con gái họ viết vậy trong cuối sách đầu tay của mình.
Như cô kể thì oái oăm của lịch sử và mối tình lãng mạn của cha mẹ đã hình thành nhân vật Marzena vừa nhẹ nhàng tình cảm, vừa quyết liệt và hiện đại mà không bỏ quên tri thức kinh điển, nghĩa vụ xã hội và tinh thần trách nhiệm, siêng năng cần cù của người Á Châu.
Marzena dẫn ta tới gặp các nhân vật lịch sử cận đại của Ba Lan mà chị gặp, kết thân và học hỏi, trong đó có Thủ tướng đầu tiên của Ba Lan dân chủ Tadeusz Mazowiecki, các nghệ sĩ, nhà văn, các tên tuổi của ngành tạo mốt Anh, Pháp mà chị từng làm việc cùng trong 13 năm làm tổng biên tập đầu tiên của nguyệt san “Elle” Ba Lan.
Cuốn “Lan…” là thế giới thu nhỏ đầy lý thú, được viết với ngôn ngữ bình dị chân thực của người rất ý thức về cội nguồn đích thực của mình. “Lan…” muốn chia sẻ nhưng cũng muốn kéo người đọc tham dự cuộc sống không hời hợt với bất cứ khía cạnh nào của nó.
Với tính cách cởi mở nhưng biết giữ khoảng cách khách quan của người điềm tĩnh quan sát như nhân vật Marzena thì từ nếp chỉ đường may của chiếc váy phụ nữ tới thế giới chính trị của các quốc gia lớn nhỏ không phải là điều khó bao quát.
Lan Marzena Wilkanowicz – Devoud lấy chồng người Pháp, cũng là một tổng biên tập tạp chí Gala, cũng dành cho phụ nữ chuyên đề tạo mốt, trang điểm và thế giới các nhân vật nổi tiếng của ngành giải trí. Họ có 2 con và hiện sống ở Paris.
Các cuộc họp mặt công chúng giới thiệu sách tự chuyện của Lan Marzena được tổ chức chủ yếu vào cuối tháng 10 trong đó thứ Năm ngày 25 tháng 10 lúc 18 giờ tác giả gặp gỡ và nói chuyện với công chúng tại trụ sở Hội Tiếng Nói Tự Do (văn phòng Bến Việt) tại ul. Marszałkowska7, Warszawa.
Nguồn: Benviet.rog. Đàn Chim Việt biên tập.
Hình ảnh Petro Land Tower mới chụp ngày 31/03/2012
Cậu nhân viên trẻ cười cười: Không phải vậy, bác ơi!
Tôi: ?
Cậu nhân viên tiếp tục: Chủ, người ta mua trước rồi. Bây giờ họ cần tiền bán lại, nên gởi tụi cháu.
Tôi: vậy thì tôi chọn căn khác.
Cậu nhân viên: Căn nào cũng có chủ hết rồi bác ạ! Bác muốn căn nào thì cũng phải trả chênh lệch nhiều ít, tùy theo căn, theo hướng.
Tôi chào, nói sẽ về xem lại. Đi ra và đưa câu chuyện đó cho người bạn là dân môi giới chuyên nghiệp, mới vỡ lẽ: Thật ra, các căn hộ đó đều được “xí phần” cho các quan chức của Petro. Họ chỉ “xí phần” mà không phải bỏ ra một xu nào cho chỗ “phần xí” đó. Khi có khách nào muốn mua thì cứ theo giá chính thức làm việc với công ty, phần chênh lệch chuyển cho họ và họ bỏ túi. Hợp đồng, mọi khoản giấy tờ, trả góp v.v… người mua lúc đó là chủ chính thức.
Họ đã ăn trên đầu người dân thế đấy! Cần nhớ khoản đầu tư là tiền nhà nước!
Tập đoàn PVN trải dài từ Bắc vô Nam, nên quy mô, khối lượng BĐS của tập đoàn PVN không hề là nhỏ. Chỉ một tòa nhà tại PMH, họ “ăn” cỡ đó thì tại Hà Nội, Hải Phòng, Vũng Tàu v.v… họ “ăn” cỡ nào???!!! Những ai chấp nhận trả khoản chênh lệch như thế? Nói không ngoa, chỉ có thể quan chức các ngành khác cùng gia đình, dòng tộc, phe nhóm của họ.
Mặt khác, các doanh nghiệp tư nhân như: HAGL, Thảo Loan, Quốc Cường v.v… họ cũng “chung chi” với phía công quyền để có những mảnh đất đẹp, giá rẻ, thủ tục đầu tư, giấy phép xây dựng nhanh chóng v.v…. Khi thị trường nóng sốt, sau doanh thu, phí thuế các loại, phần lãi họ bỏ túi và chia lời cho các cổ đông. Vậy, khi thị trường xẹp xuống, họ phải tự chịu trách nhiệm trước tập đoàn, cổ đông của họ. Sao lại giải cứu bằng tiền của dân?
Quan chức Việt Nam đã từng tuyên bố về các khoản nợ của Vinashin: “Vinashin vay thì Vinashin tự trả”. Theo đó, các doanh nghiệp BĐS lời thì bỏ túi, lỗ thì tự lo. Từ những khoản lãi dễ dàng móc túi lẫn nhau và móc túi người dân họ sẵn sàng dùng để mua máy bay, xe siêu sang, ăn xài xả láng, thì bây giờ họ phải có đủ liêm sỉ đối diện với khoản lỗ, sao lại đi “ăn mày” nhân dân bằng cái gọi là “giải cứu”?
Các ngân hàng đang dính chùm trong nợ nần với các doanh nghiệp BĐS cũng phải tự gánh lấy trách nhiệm. Nhắc lại 5 ngân hàng VN tài trợ cho PMH vay hơn 1.200 tỉ đồng, trong đó có Gia Định Bank vừa qua do cô Nguyễn Thanh Phượng thâu tóm để trở thành Bản Việt Bank.
Thêm nữa, Việt Nam đã quá nhiều loại cò mồi: “cò chạy án”, “cò chạy dự án”, “cò chạy bằng cấp” v.v… nay giới cầm quyền lại tính đẻ ra thêm loại cò mới: “CÒ CHẠY BÁN DỰ ÁN”!. Không thể tin được trong việc “giải cứu” này, không có bàn tay đen về lợi ích cá nhân, phe nhóm thọc vào để chi phối. Chính việc này sẽ lại làm náo loạn thị trường BĐS vốn chẳng mấy khi minh bạch, ví dụ, chủ đầu tư nào chịu “chung chi”, có mối quen biết thân thiết sẽ bán được dự án nhanh và giá tốt.
Việc “giải cứu” sẽ biến các chủ BĐS như những đứa con hư đốn, ích kỷ, vô đạo đức, cứ được tha thứ hết lần này đến lần khác, làm cho chúng ngày càng thủ đoạn, quỷ quyệt, lờn mặt hơn, để trở nên dày dạn kinh nghiệm cho những đối phó sau này. Đó góp phần làm suy đồi đạo đức kinh doanh, điều hiện nay quá thiếu.
Nhà nước KHÔNG ĐƯỢC DUNG DƯỠNG các doanh nghiệp BĐS như dự định.
Vậy, “chính sách” “giải cứu” thị trường BĐS nếu thực hiện, chỉ làm mỗi nhiệm vụ tháo chạy, gỡ vốn cho bộ ba “tam giác quỷ” đó mà thôi, không hề giúp gì cho dân.
Ông Nguyễn Trần Nam cho biết nhà nước định sẽ mua một số BĐS để làm nhà công vụ cho lãnh đạo thiếu chỗ ở chỉ là lấp liếm, trêu ngươi người dân, bởi trước nay không có một số liệu thống kê nào cho thấy, lãnh đạo từ trung ương đến địa phương hiện thiếu chỗ ở (!) Khôi hài! Hãy ghé qua nhà công vụ tại số 255 Trần Hưng Đạo Q.1 Tp.HCM mà xem (4). Ở đó bây giờ chỉ có lác đác vài hộ ở, số còn lại cho thuê, toàn bộ tầng trệt cho công ty CK Kim-Eng (Singapore) thuê kiếm tiền. Thật bi hài và lố bịch cho cái gọi là “nhà công vụ”!.
* * *Nếu Nhà nước thật sự nghĩ tới nền kinh tế đang nguy ngập và dân tình đang khốn đốn lầm than về mọi mặt thì hãy có những cách can thiệp vào thị trường BĐS sao cho đúng nghĩa phục vụ quảng đại quần chúng như sau:
- Thuế VAT áp dụng cho việc mua nhà, đất hiện nay 10% là quá cao. Nên giảm mức thuế này xuống còn 2%. Kèm theo đó, có thể giãn thuế trong 3 năm cho người có nhu cầu ở thật sự. Thuế VAT, về bản chất, khi sản phẩm hoàn thành và được bán tới tay người tiêu dùng, thì mới phát sinh. Tuy nhiên, mấy năm qua, cơ quan thuế thu theo từng đợt thanh toán là cách hiểu sai về bản chất của thuế VAT, góp phần làm cho thanh toán của người dân tăng thêm nhiều.
- Hủy bỏ thuế thu nhập cá nhân về nhà đất đang áp dụng là 2% trên giá bán (hay 25% giữa giá bán và giá mua cùng chi phí) mà dân cũng đang kêu trời, khi bán lỗ mà vẫn bị đánh thuế này.
- Hãy để các doanh nghiệp BĐS đi theo quy luật thị trường. Hàng không bán được, vẫn giữ giá (gốc) quá cao (như PMH, HAGL…) thì họ phải chấp nhận “chết” hoặc ngược lại. Họ đã từng ôm lời hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng thì bây giờ họ cần học lại và quen dần với khái niệm “phân phối lại” (redistribution) là như thế nào để có trách nhiệm hơn với xã hội.
- Đưa ra chính sách hỗ trợ cho người lao động, ví dụ: hỗ trợ cho những cặp vợ chồng mới cưới (căn cứ theo giấy kết hôn) như các quốc gia khác(*), những ai mua nhà lần đầu. Tuy nhiên, muốn làm được điều này, rất khó vì liên quan đến quản lý hộ tịch, dân số bằng công nghệ điện toán hóa, VN vẫn còn quá thô sơ trong vấn đề này.
- Chính sách thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt đối với BĐS (giá trị lớn) trong những năm qua bất khả thi vì nhà nước không muốn làm đến nơi đến chốn. Lý do gì thì ai cũng hiểu (tham nhũng khó khăn hơn khi mọi người đều sử dụng tài khoản qua ngân hàng). Thật ra, việc này, nếu muốn, lẽ ra phải làm theo 2 cách:
+ Cuốn chiếu: thực hiện từ ngay những đứa trẻ vừa mới sinh ra. Lúc trẻ sinh ra, mọi thông tin nhân thân, khuyết tật, nhóm máu, giới tính v.v… đều phải được vi tính hóa liên hoàn trên toàn cõi VN. Làm điều này cũng góp phần quản lý thu nhập, truy tìm tội phạm tham nhũng, hình sự dễ dàng. Nói ra thì phì cười, vì lúc đó, các quan chức tham nhũng còn chỗ nào ẩn nấp, khi cách quản lý này kết hợp với hiện ước dẫn độ tội phạm với thế giới được ký kết.
+ Cắt khúc: song song cách trên, nhà nước sẽ phân loại để vi tính hóa theo lứa tuổi, ví dụ làm trước trong 2 năm đầu dành cho lứa tuổi từ 18 đến 30, sau đó đến lứa tuổi 31 đến 45 v.v…
Cách làm này phải kiên trì, nhất quán trong suốt khoảng 10 năm mới có thể cho kết quả, ngoài ra nó giúp loại bỏ cách quản lý dân theo hộ khẩu (không giống ai) tỏ ra vi phạm nhân quyền và tư duy xin – cho còn đầy rẫy.
* * *Bộ ba “trục tam giác quỷ” đã bị vạch mặt nhiều năm qua, nhưng chúng vẫn liên kết nhau chặt chẽ để thủ lợi, bất chấp sự bần cùng hóa người dân đang ngày càng dâng cao.
Phải đưa thị trường BĐS nói riêng và các thị trường khác nói chung đi về đúng quỹ đạo của nền kinh tế thị trường dựa trên yếu tố cung – cầu làm chủ yếu.
Hà hơi, tiếp sức cho các ngân hàng, doanh nghiệp BĐS trong tình hình kinh tế bi đát hiện nay chỉ làm phân hóa xã hội thêm sâu sắc. Giá BĐS cao cứ cao, người dân nghèo không có chỗ ở cứ tiếp tục lay lắt sống trong hoàn cảnh chực chờ bùng nổ một sự vùng lên trong lửa khói.
Nguyễn Ngọc Già
_______________
http://ocd.vn/index.php/vi/news/doanhnghiep/767-tai-cu-truc-nhin-thng-s-tht–vt-len-chinh-minh (1)
http://www.baomoi.com/Home/TaiChinh/www6.vnmedia.vn/Can-200-nghin-ty-dong-giai-cuu-thi-truong-BDS/8183224.epi (2)
http://raovat.nhadat.vn/ban-can-ho-petroland-tower-phu-9163.html (3)
http://landtoday.net/vn/tintuc/16954/quan-ly-long-leo-nha-cong-vu-nha-so-huu-nha-nuoc.aspx (4)
(*) Có thể làm giả, vì cả VN cái gì cũng giả được cả. Rất buồn!
Gần đây, một vài vị khán giả của đài truyền hình STBN có liên lạc với người viết để hỏi thăm thêm về một bài thơ của cụ Phan Bội Châu tặng cho ông Ngô Đình Diệm vào năm 1933 mà họ đã nghe được trong một buổi nói chuyện giữa người viết và ký giả Tường Thắng, người phụ trách Chương Trình Lịch Sử Cận Đại trên đài truyền hình STBN, hồi mấy tháng về trước.
Người viết xin mượn bài viết này để trả lời cho câu hỏi đó.
Trong số những nhà cách mạng chống lại thực dân Pháp trong lịch sử Việt Nam thời đầu thế kỷ thứ 20, có hai người cùng họ Phan được toàn dân xem như là hai nhà cách mạng vĩ đại nhất, đó là cụ Phan Sào Nam tức là Phan Bội Châu và cụ Phan Tây Hồ tức là Phan Chu Trinh. Cụ Phan Chu Trinh từ trần tại Sài Gòn vào năm 1926 và Cụ Phan Bội Châu từ trần vào năm 1940, sau hơn 15 năm bị quản thúc tại Bến Ngự, Huế.
Cụ Phan Bội Châu sinh năm 1867, lớn hơn ông Ngô Đình Diệm 33 tuổi. Không rõ cụ có liên hệ gì với ông Ngô Đình Khả, thân phụ của ông Diệm hay không, tuy nhiên ông Ngô Đình Diệm thì còn quá trẻ cho nên cụ Phan Bội Châu không quen biết gì với ông vì cụ đã rời Huế lên đường đi làm cách mạng từ năm 1905, lúc đó ông Ngô Đình Diệm chỉ mới lên 4 tuổi.(Xem hình dưới đây). Sau khi bị bắt tại Thượng Hải vào năm 1925, người Pháp đưa cụ Phan Bội Châu về Hà Nội để đưa ra tòa. Cụ bị tòa án Pháp lên án tử hình vì tội chống lại chính quyền thuộc địa của người Pháp, tuy nhiên vì dư luận quần chúng trên toàn quốc cực lực phản đối bản án này cho nên Toàn Quyền Varenne đã phải giảm án tử hình xuống chung thân khôå sai và sau cùng thì lại giảm thành “quản thúc tại gia” và cụ bị đưa về an trí tại Huế vào năm 1926.
Gia đình ông Ngô Đình Khả (từ trái): Ngô Thị Giao (nhạc mẫu của ông Trần Trung Dung,) bà Ngô Đình Khả bồng Ngô Thị Hiệp (thân mẫu Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,) Thượng Thư Ngô Đình Khả, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Khôi. (các ông Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và Ngô Đình Cẩn chưa ra đời.)
Hình chụp vào khoảng năm 1905.
Nguồn: Vĩnh Phúc.
Hoàng Đế Bảo Đại và Thượng Thư Ngô Đình Diệm
Trong khoảng thời gian từ khi cụ Phan Bội Châu về sốâng tại Huế, ông Ngô Đình Diệm đang lần lượt giữ các chức vụ như Tri phủ Hải Lăng tại tỉnh Quảng Trị, Tri Phủ Hòa Đa tỉnh Phan Thiết, Huấn Đạo Đà Lạt, Tuần Vũ Phan Thiết v.v., do đó cho đến năm 1933, sau khi Hoàng Đế Bảo Đại từ Pháp trở về cầm quyền, nhà vua mới mời ông Diệm về giữ chức Thượng Thư Bộ Lại tại triều đình và đến lúc đó ông mới về sống ngay tại kinh đô Huế.
Trong cuốn hồi ký “Con Rồng Việt Nam,” Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng ông từ Pháp trở về nước để cầm quyền thì được Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài tiết lộ cho biết rằng Hoàng Đế Việt Nam không có quyền hành gì cả:
Bảo Đại: Nhưng còn quyền hạn của Trẫm, công việc của Trẫm? Các quan Thượng làm việc ra sao?
Nguyễn Hữu Bài: Kính tâu Hoàng Thượng, trước kia thì mỗi bộ tâu trình lên Hoàng Đế và đệ lên dự án để xin quyết định. Nhưng sau đức Tiên Đế Khải Định băng hà năm 1926 thì đã có một thỏa ước với nước Pháp, theo đó Nội Các sẽ họp dưới sự chủ tọa của viên Khâm Sứ, mình phải báo cáo và xin quyết định. Tòa Khâm Sứ ra chỉ thị, nhất là về ngân sách. Chính phủ Pháp thu thuế và trao lại cho Nam Triều đủ để trả lương cho nhân viên để có thể tồn tại. .. Thực tế, thỏa ước này đã trao hết quyền hạn cho viên khâm sứ, từ chính trị đến tư pháp. Ở Bắc Kỳ, hiện nay viên Thống Sứ ở Hà Nội đang nắm quyền Phó Vương rồi.
Bảo Đại: Vậy thì Trẫm còn quyền gì?
Nguyễn Hữu Bài: Hoàng Thượng còn giữ được quyền về . .. nghi lễ, quyền ân xá tội nhân, quyền phong sắc cho các thần linh, quyền cấp phát tưởng lục, phẩm hàm cho người sống hay người chết v.v.”
Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng sau đó ông đã vận động và tranh đấu để nắm lại quyền hành và ngày 10 tháng 12 năm 1932, ông đã công bố một đạo dụ loan báo ý định cầm quyền dưới hình thức quân chủ lập hiến. Ông cho biết rằng đạo dụ này được dân chúng, nhất là giới trẻ nhiệt liệt hoan nghênh và sang đến ngày 2 tháng 5 năm 1933 thì ông lại ban hành một đạo dụ mới đặt cơ cấu cho sự cải cách và ông trực tiếp nắm quyền lãnh đạo. Bảo Đại cho biết rằng ông đã mời một người trẻ tuổi là ông Ngô Đình Diệm về giữ chức Thượng Thư Bộ Lại:
“Tôi cho vời một viên quan tỉnh trẻ tuổi nhứt là ông Ngô Đình Diệm, lúc ấy làm Tuần Vũ Phan Thiết, để đảm trách Bộ Lại. Vốn dòng quan lại, anh ruột ông ta làm tổng đốc tỉnh Faifo. Diệm năm ấy mới 31 tuổi, nổi tiếng là thông minh, liêm khiết. Đây là một người quốc gia bảo thủ. Ngoài chức vụ thượng thư, Ngô đình Diệm còn là Tổng Thư ký cho Hội Đồng Hỗn Hợp về Canh Tân đã được ban bố năm trước, bao gồm các thượng thư Việt Nam và hàng công chức cao cấp Pháp. Ngô Đình Diệm được Nguyễn Hữu Bài trước khi về hưu tiến cử.”
Tuy nhiên chỉ mấy tháng sau ngày nhậm chức Thượng Thư Bộ Lại, ông Ngô Đình Diệm đã xin từ chức vì ông thấy rõ dã tâm của người Pháp là họ không bao giờ muốn trao trả quyền hành lại cho triều đình Việt Nam. Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng sau 4 tháng, vào đầu tháng 9 năm 1933, Ngô Đình Diệm liền xin gặp ông và nói:
“Tâu Hoàng Thượng, hạ thần đến để xin Hoàng Thượng cho từ chức và cũng xin Hoàng Thượng cho giải nhiệm luôn tất cả những chức vụ mà Hoàng Thượng đã trao phó từ trước.
Bảo Đại: Quan Thượng, viên thư ký Nguyễn Đệ đã tâu trình Trẫm tất cả nỗi khó khăn của ông, nhưng Trẫm nghĩ rằng ông nên tiếp tục ở lại.
Ngô Đình Diệm: Tâu Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng tha tội cho kẻ hạ thần nhưng quả hạ thần không thể nào ở lại được. Ở lại chức vụ này, quả nhiên là một trò hề đau khổ cho kẻ hạ thần mà hạ thần không thể nào kham nổi. Người Pháp đã nắm lấy hết quyền hành, họ đã cai trị trực tiếp, luôn luôn nhân danh hòa ước bảo hộ nhưng họ không lúc nào không vi phạm từng ngày, từng giờ.
Bảo Đại: Quan Thượng, Trẫm hiểu tinh thầm trách nhiệm của Quan Thượng. Sự liêm khiết ấy đã tôn vinh ông lên rất nhiều, nhưng cần phải chờ thời. Đất nước ta chưa sẵn sàng. Sau nữa, những năm sắp tới đây còn dành cho chúng ta nhiều biến chuyển. .. Chiến tranh khó có thể tránh được ở Âu Châu, và như thế, sẽ có nhiều hậu quả đối với Á Châu mà Nhật Bản có thể là vai trò chủ chốt. Vì những lý do đó, Trẫm nhắc lời cho Quan Thượng sự yêu cầu của Trẫm lần nữa.
Ngô Đình Diệm: Kính tâu Hoàng Thượng, thật quả là điều mà hạ thần không thể kham nổi. Kẻ hạ thần không được quyền ở lại. Kính xin Hoàng Thượng cho phép kẻ hạ thần được rút lui”.
Ông ta khăng khăng một mực xin từ chức.
Bảo Đại: Được, Trẫm chấp thuận cho Quan Thượng từ chức. Quan Thượng đã muốn vậy thì Trẫm cũng chẳng thể nào làm gì được hơn. Mong rằng sự ra đi của Quan Thượng sẽ mở mắt cho người Pháp để cho họ có một tầm nhãn quan rộng lớn hơn. Dù sao nữa, mong Quan Thượng hãy sẵn sàng, có thể ngày nào đó Trẫm lại cần đến quan Thượng và Trẫm sẽ cho vời.
Ngô Đình Diệm: Kính tâu Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng hãy tin tưởng lòng trung thành tuyệt đối của kẻ hạ thần.”
Cụ Phan Bội Châu và Ông Ngô Đình Diệm
Cụ Sào Nam Phan Bội Châu
Việc ông Ngô Đình Diệm treo ấn từ quan vào tháng 9 năm 1933 đã gây tiếng vang trên khắp nước, không những tại Trung Kỳ mà ngay cả tại Bắc Kỳ và Nam Kỳ dân chúng ai ai cũng đều có lòng cảm phục. Và một trong những người đó là nhà cách mạng Phan Bội Châu đang bị người Pháp quản thúc tại Huế, lúc bấy giờ được dân chúng ở Huế gọi một cách đầy cảm tình là “Ông Già Bến Ngự.”
Khoảng ba tháng sau ngày ông Ngô Đình Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại, vào ngày 27 tháng 12 năm 1933, nhật báo Tiếng Dân ở Huế do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ nhiệm có đăng tãi “Mười Bài Vô Đề” do cụ Phan Bội Châu cảm tác, trong đó có bài thứ 5 đặc biệt để tặng cho ông Ngô Đình Diệm:
Mười Bài Vô Đề
Cụ Sào Nam năm nay thường đau luôn, không được mạnh như mọi năm. Nhưng xu xác kém nhiều mà tinh thần vẫn khảng khái. Cụ mới làm 10 bài Vô Đề, bản báo lục đăng như dưới đây. T. D.
V
Ai biết trời Nam hãy có người,
Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng,
…(kiểm duyệt bỏ).. .
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói,
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui.
Ví chăng kịp lúc làm vai vế,
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.
Sào Nam Phan Bội Châu
(Tiếng Dân 27-12-1933)
Khi cho đăng bài thơ này vào năm 1933, kiểm duyệt của người Pháp đã cắt bỏ câu thơ thứ tư cho nên trong bài chỉ còn có 7 câu mà thôi.
Bài thơ này tuy được lồng vào trong 10 bài vô đề nhưng hồi đó thì ở Huế ai cũng biết rằng cụ Phan Bội Chân đã làm bài thơ này để tặng cho ông Ngô Đình Diệm. Khoảng hai năm sau, chính cụ Phan Bội Châu đã xác nhận trong một bài phỏng vấn trên báo Ánh Sáng là Cụ đã sáng tác bài thơ này. Hơn nửa thế kỷ sau, trong bộ “Phan Bội Châu Toàn Tập” gồm 10 cuốn do ông Chương Thâu, giáo sư Sửû Học của Hà Nội sưu tầm và biên soạn và nhà Xuất Bản Thuận Hóa ở Huế xuất bản vào năm 1990, trong phần chú thích, G.S. Chương Thâu có ghi rằng: “Bài này tác giả tặng NĐD.” Như vậy thì chính nhà sử học Chương Thâu của Cộng sản cũng phải thừa nhận là bài này “tác giả tặng NĐD,” tuy nhiên vì phải theo đúng quy luật và chỉ thị của chính quyền Cộng sản hiện nay, ông Chương Thâu và nhà xuất bản Thuâïn Hóa, cả ông giáo sư sử học cũng như là những người chủ trương nhà xuất bản này đều là đảng viên Cộng sản, do đó họ không được phép để nguyên tên tuổi của ông Ngô Đình Diệm mà chỉ để tên tắt là N.Đ.D. mà thôi.
Cụ Phan Bội Châu Không Hề Quen Biết Ông Diệm
Có nhiều người không có cảm tình với ông Ngô Đình Diệm thường đưa ra lập luận nói rằng sở dĩ Cụ Phan Bội Châu đã làm bài thơ nói trên để tặng cho ông Diệm là vì ông Diệm có một mối giao tình với Cụ. Lập luận này đã dựa vào những lời đồn đại nói rằng sau khi từ chức ông Ngô Đình Diệm vẫn thường lui tới thăm viếng Cụ Phan Bội Châu vì thế mà ông cựu thượng thư này đã chiếm được cảm tình của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Mớùi đây, trong một bài viết về Cụ Phan Bội Châu, nhà văn Huỳnh Hữu Ủy cũng cho biết như vậy: “Trong những người lui tới nhà cụ Phan, có một nhân vật đặc biệt là ông Ngô Đình Diệm, vừa từ chức Thượng Thư Bộ Lại, một nhân vật có tiếng thông minh và liêm khiết trong chính trường thời bấy giờ. Chính Cụ Phan Bội Châu cũng rất kính nể ông Diệm, cảm phục khí tiết của ông quan trẻ tuổi, nên có làm một bài thơ để tặng cho ông khi vị thượng thư đầu triều này từ bỏ quyền cao chức trọng để phản đối chính quyền Pháp và Nam triều tay sai.”
Sự đồn đại như vậy nghe ra thì cũng rất là hữu lý vì nhà của ông Ngô Đình Diệm rất gần nhà của Cụ Phan Bội Châu, khoảng cách chưa đầy một cây số (nửa mile) mà thôi. Nếu ai ở Huế thì cũng đều biết rằng căn nhà gia đình của ông Ngô Đình Diệm do Thượng Thư Ngô Đình Khả tạo dựng từ thế kỷ thứ 19 tọa lạc tại Phú Cam và Cụ Phan Bội Châu thì đã sống cuộc đời an trí cho đến khi tạ thế tại Bến Ngự. Mảnh vườn và gian nhà của cụ là do sự đóng góp của đồng bào toàn quốc qua lời kêu gọi của cụ Huỳnh Thúc Kháng, chủ nhiệm báo Tiếng Dân tại Huế và Luật sư Phan Văn Trường: “Tháng Giêng năm Đinh Mão (1927,) tôi nhờ có cụ Phan văn Trường quyên giúp được 2,500 đồng (một số tiền rất lớn hồi đó) mới mua được miếng đất làm cái lều ở Bến Ngự.” Khoảng cách về đường bộ từ Phú Cam về Bến Ngự, nếu đi dọc theo bờ sông Bến Ngự thì chỉ mất khoảng chừng mươi mười lăm phút, còn nếu đi dọc theo đường rầy xe lửa thì chỉ chừng chưa đến mười phút mà thôi.
Ông Ngô Đình Diệm có đến thăm Cụ Phan Bội Châu trong thời gian Cụ còn sinh tiền hay không, điều đó ít ai được biết vì ông Diệm không hề nói đến hoặc những người thân cận của ông cũng không có đề cập đến chuyện này dù rằng sự quen biết cũng như là việc tới lui thăm viếng hay đàm đạo với nhà đại ái quốc Phan Bội Châu có thể được xem như là một vinh dự lớn lao đối với tất cả mọi người Việt Nam hồi thế kỷ thứ 20.
Về phần Cụ Phan Bội Châu, Cụ có quen biết với cựu Thượng Thư Ngô Đình Diệm hay không thì chuyện đó dĩ nhiên là Cụ phải biết rất rõ.
Gần 2 năm sau ngày ông Ngô Đình Diệm từ chức, tại Huế có tin đồn nói rằng ông Diệm có thể sẽ trở lại phục vụ trong triều đình của Vua Bảo Đại và trong dịp này, Cụ Phan Bội Châu đã dành cho ông Lê Thanh Cảnh, phóng viên báo Ánh Sáng ở Huế một cuộc phỏng vấn dài hơn một tiếng đồng hồ. Bài phỏng vấn đó có đoạn như sau:
Ý Kiến Cụ Phan Bội Châu với Ông Ngô Đình Diệm
“Bây giờ tôi xin hỏi Cụ về tình hình trong nước ta hiện nay và ý kiến của Cụ về sự phục chức của ông Ngô Đình Diệm.
“Tôi mà thầy còn hỏi đến tình trạng trong nước? Cụ mỉm cười và nói với tôi như thế sau khi kéo một hơi thuốc lào dài. Cụ lại tiếp:
“Tôi có đi được nhiều đâu mà biết rõ, vả ông Ngô Đình Diệm xưa nay tôi cũng không được biết mặt hay hôäi đàm một lần nào cả, nhưng lúc trước khi tôi nghe ông ấy thôi chức thượng thư, bỏ bốn năm trăm bạc lương một tháng, không tiếc gì đến lợi danh nữa thì tôi cũng có lòng khen. Hồi ấy tôi có làm một bài thơ nói về sự từ chức của ông Thượng họ Ngô:
“Ai ngỡ trần gian hãy có người,
Thoạt nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng giá rẻ vàng muôn lượng,
Ngôi quý xem dường dép nửa đôi.
Phơi tỏ với trời son một tấm,
Lom loem thây chúng bạc đôi ngươi.
.. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. “
Còn hai câu sau thì thôi, cũng đừng biên làm chi nữa. Đọc bài thơ ấy thì rõ ý tôi đối với sự từø chức của ông Ngô Đình Diệm thế nào, mà tôi tưởng lúc tù chức ông không thất ý, thì đối với sự phục chức ngày nay ông cũng không lấy làm đắc ý.”
“Vâng, Cụ dạy thế rất phải, nhưng ngộ như ông Ngô Đình Diệm tự nhiên trở lại ghế thượng thư thì Cụ bảo thế nào?
“Chẳng có lẽ, nhưng nếu thật như thế thì cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vất đi.”
Thiết Mai Tôn Thất Cảnh
(Báo Ánh Sáng số 11 ngày 11 tháng 4 năm 1935)
Qua bài phỏng vấn trên, Cụ Phan Bội Châu xác nhận là chính cụ đã làm bài thơ này để tặng cho ông Ngô Đình Diệm và Cụ chưa từng gặp mặt cũng như hội đàm lần nào với ông Ngô Đình Diệm. Như vậy thì bài thơ này cụ sáng tác vì lòng ngưỡng mộ đối với việc ông Ngô Đình Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại để chống lại chính sách của người Pháp chứ không phải vì tình quen biết nào cả.
Về hai câu cuối cùng trong bài thơ này, theo nhà văn Huỳnh Hữu Ủy thì cũng có người đã chất vấn Cụ về việc đã hạ mình đối với ông Ngô Đình Diệm:
“Gần đây, ông Vương Đình Quang, nguyên là thư ký của Cụ Phan Bội Châu, trong một bài viết trên tạp chí Tiếng Sông Hương khoảng năm 1988 ở Huế, cũng có nhắc lại. Vương Đình Quang lúc bấy giờ đã thưa với Cụ Phan là tại sao Cụ lại hạ mình như vậy đối với Ngô Đình Diệm là một người lớp sau, trong khi Cụ là bậc trên, ở hàng cha, hàng anh. Nhưng Cụ Phan nói thẳng rằng Cụ là người hoạt động cách mạng, chứ nếu Cụ ở trong giới quan trường thì Cụ cũng không chắc được như ông Diệm.”
Trong bài phỏng vấn trên báo Ánh sáng năm 1935, có lẽ vì có tin đồn rằng ông Ngô Đình Diệm sẽ trở lại làm quan cho triều đình Huế cho nên Cụ Phan đã thất vọng đã trót làm hai câu đó, do đó mà Cụ nói với ông Tôn Thất Cảnh “thôi, đừng biên làm chi nữa” và nếu mà ông Diệm trở lại làm quan thì “cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vứt đi.”
Như vậy thì bài thơ này được đăng lầnthứ nhất trên báo Tiếng Dân chỉ có 7 câu và lần thứ nhì trên báo Ánh Sáng thì lại chỉ còn có 6 câu. Phải đợi cho đến năm 1957, tạp chí Văn Đàn của ông Phạm Đình Tân tại Sài Gòn mới đăng lại bài thơ này với đầy đủ nguyên văn 8 câu thơ như sau:
Ai biết trời Nam hãy có người,
Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng,
Ngôi quý xem dường dép nửa đôi.
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói,
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui.
Ví chăng kịp lúc làm vai vế,
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.
Ngô Đình Diệm Thay Thế Cụ Phan Bội Châu Làm Lãnh Tụ Phong Trào Cường Để
Như vậy thì cho đến năm 1935, năm năm trước ngày tạ thế, Cụ Phan Bội Châu chưa hề gặp gỡ và cũng chưa hề chuyện trò lần nào với ông Ngô Đình Diệm, cái cảm tình của Cụ dành cho ông Diệm trong bài thơ này cũng không bị “vứt đi” vì ông Diệm không hề trở lại làm quan cho triều đình Bảo Đại. Không những cảm tình với ông Ngô Đình Diệm không hề bị mất đi mà có lẽ càng tăng thêm là đằng khác vì sau khi Cụ từ trần thì ông Ngô Đình Diệm lại trở thành người lãnh đạo Phong trào Cường Để do chính Cụ Phan Bội Châu đưa sang Trung Hoa và Nhật Bản vào năm 1906. Trong phiên tòa của Hội Đồng Đề Hình Pháp xử tội Cụ tại Hà Nội ngày 23 tháng 11 năm 1925, Cụ Phan đã khẳng định Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là lãnh tụ của Cụ:
“Ông Cường Để là người chủ mà tôi chỉ là người giúp việc. .. Họ đổ cho tôi là người chủ sự, chẳng qua là họ nghe tôi ra ngoài viết báo làm sách, ai ai cũng biết, vã nếu những người ấy có quả thật là người trong đảng của tôi đi nữa thì đầu đảng của tôi là ông Cường Để, chủ sự tất tự ông Cường Để chớ sao lại tự tôi?”
Cụ Phan Bội Châu tạ thế vào cuối năm 1940 và chỉ mấy năm sau đó thì ông Ngô Đình Diệm được tôn lên làm lãnh tụ Phong trào Cường Để. Chính nhân vật đứng hàng thứ nhì trong phong trào này là Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cho biết như sau:
“Khoảng cuối năm 1944, tôi được người Nhật đưa vào Sài Gòn. ..Ở đây, tôi gặp ông Ngô Đình Diệm. Lập trường của họ Ngô cũng là phò tá Kỳ Ngoại Hầu Cường Để trên đường phục hưng đất nước.. . Ngày hôm sau có cuộc gặp gỡ của chúng tôi với Ngô Đình Diệm đang trú ẩn tại một bệnh viện cũng bị trưng dụng nhường cho quân đội Nhật mà ngày nay là Bệnh viện Hôàng Bàng. Sau cuộc gặp gỡ, họ Ngô được tôn làm vị lãnh tụ chung, môã y sĩ (tôi) là phó lãnh tụ. (Ba người còn lại là Bác sĩ Lê Toàn, Vũ Đình Dy và Kỹ sư Vũ Văn An.) Về công việc thì Tổng Tư Lệnh Nhật ngỏ ý muốn giữ hai lãnh tụ ở Sài Gòn để tiện đàm luận và hoạt động về chính trị, còn người thứ ba (ông Vũ Văn An) vốn là đồng chí trong đoàn thể của họ Ngô sẽ sang Tokyo đại diện Ngô Lãnh tụ bên cạnh Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, còn hai anh em (Bác sĩ Lê Toàn và Vũ Đình Di) đại diện cho Việt Nam Ái Quốc Đoàn.”
*
* *
Tóm lại, Cụ Phan Bội Châu không hề quen biêát gì với ông Ngô Đình Diệm khi cụ sáng tác bài thơ Vô Đề thứ 5 đăng trên báo Tiếng Dân vào năm 1933 đêå tặng cho ông Diệm. Cụ xác nhận là Cụ làm bài thơ này vì “tôi cũng có lòng khen” tức là khen ngợi ông Ngô Đình Diệm đã “không tiếc gì đến danh lợi nữa”. Vì vậy cho nên Cụ đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ ông quan trẻ chỉ đáng hàng con cháu mình mà tình nguyện xin làm người đánh xe ngựa cho ông ta. Đến hai năm sau, khi nghe tin đồn ông Ngô Đình Diệm sẽ trở lại làm quan tức là phục vụ cho quyền lợi của thực dân Pháp, Cụ đã giận dữ và không muốn nhắc lại hai câu thơ cuối cùng trong bài thơ đó và lại còn nói thêm rằng nếu quả thật ông Ngô Đình Diệm muốn trơ ûlại làm quan thì “cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vứt đi.”
Có lẽ Cụ Phan Bội Châu đã không “vứt đi” cái mỹ cảm mà Cụ đã dành cho ông Ngô Đình Diệm qua bài thơ của Cụ viết vào năm 1933 vì ông Diệm không hề trở lại làm quan như người ta đồn đại, có lẽ “cái lòng khen” của Cụ cũng có thể tăng thêm nếu Cụ biết rằng sau khi Cụ tạ thế thì chính ông Ngô Đình Diệm là người tiếp tục vai trò của Cụ trong việc ủng hộ Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, người mà Cụ đã tôn thờ là Đảng Trưởng của Cụ từ năm 1906.
Cho đến khi chính phủ Laniel của Pháp ký kết với chính phủ Bửu Lộc trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam vào tháng 4 năm 1954, dù rằng đã có được mời nhiều lần nhưng ông Ngô Đình Diệm không hề nhận lời hợp tác với người Pháp. Phải đợi cho đến tháng 6 năm 1954, vì có lời mời khẩn khoản của Quốc Trưởng Bảo Đại yêu cầu về nước để cứu vãn tình hình vô vọng ở miền Nam Việt Nam, ông Ngô Đình Diệm đã nhận lời thành lập chính phủ vào tháng 7 năm 1954 và sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Ngô Đình Diệm đã thành lập chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa vào ngày 26 tháng 10 năm 1955.
Trong 9 năm cầm quyền, tuy Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng có phạm một số sai lầm về đường lối và chính sách, nhưng nói chung thì người Miền Nam đa số đều kính trọng sự liêm khiết, đức độ và lòng yêu nước của ông, ngay cả đến ông Hồ Chí Minh cũng phải thừa nhận rằng “ông Ngô Đình Diệm cũng là người yêu nước, theo cách của ông ấy.”
Cho đến ngày bị bắn và đâm chết trên chiếc thiết vận xa M-113 trong cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, có lẽ ông Ngô Đình Diệm cũng đã chưa làm điều gì sai trái cho đến độ Cụ Phan Bội Châu phải “vứt đi” cái lòng khen của Cụ trong bài thơ đăng trên báo Tiếng Dân tại Huế vào cuối năm 1933.
California Mùa Xuân 2007
Bảo Đại: “Con Rồng Việt Nam,” Nguyễn Phước Tộc xuất bản, California 1990 , trang 53-54.
Bảo Đại: sđd, trang 91-94.
“Phan Bội Châu Toàn Tập” Tập 5, Chương Thâu sưu tầm và biên soạn, nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 1990, trang 254-255.
Huỳnh Hữu Ủy: “Chung Quanh Khu Di Tích Vườn Mộ Sào Nam Phan Bội Châu ở Huế,” nguyệt san Thế Kỷ 21, California, số tháng 8 năm 2006.
Phan Bội Châu: “Những Năm Mão Trong Đời Tôi,” báo Tiếng Dân ngày 16 tháng 2 năm 1939.
Thiết Mai Tôn Thất Cảnh: “Hơn Một Tiếng Đồng Hờ cùng Cụ Phan Bội Châu,” báo Ánh Sáng, số 11 ngày 11-4-1933, Huế. Trích lại trong Phan Bội Châu Toàn Tập, Tập 4, trang 311-319.
Người viết đăng lại nguyên văn bài thơ này để độc giả thấy rằng có vài chữ khác nhau giữa bài đăng trên Báo Tiếng Dân năm 1933 và bài đăng trên báo Ánh sáng do chính Cụ Phan đọc lại.
Huỳnh Hữu Ủy: bài đã dẫn.
“Phan Bội Châu Toàn Tập,” Tập 4, trang 14-15. Đoạn này trích lại trong Vụ Án Phan Bội Châu của Bùi Đình do nhà xuất bản Tiếng Việt in tại Hà Nội năm 1950.
Nguyễn Xuân Chữ: “ Hồi Ký,” nhà xuất bản Văn Hóa, Houston, Texas, 1996, trang 243-244.
Trần Đông Phong
http://www.vietnamexodus.info/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=1558
Photo courtesy of danlambao
Sinh viên Nguyễn Phương Uyên
Năng động và vui tính
Sau 10 ngày kể từ khi mất tích, gia đình sinh viên Nguyễn Phương Uyên đã chính thức nhận được thông báo của công an tỉnh Long An về việc bắt giữ người để điều tra về hành vi “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo điều 88.Trước đó, sinh viên này đã bị bắt đi một cách thiếu minh bạch vào ngày 14/10 khiến cho gia đình cô rất lo lắng, bạn bè xung quanh đều bất ngờ và sợ hãi.
Hầu hết bạn bè của Uyên nói rằng cô sinh viên của Trường Đại học Công nghệ thực phẩm TPHCM là một người bạn tốt, hiền ngoan và học giỏi nên không thể có chuyện cô vi phạm pháp luật.
Một người bạn phổ thông trung học của Uyên nhận xét:
Năm cấp 3, em và Uyên chơi thân với nhau. Trong lớp học, Uyên học rất chăm chỉ. Bạn ấy hiền lắm. Khi đi học, bạn bè có gì là bạn ấy hay giúp đỡ lắm. Nói chung, bạn ấy rất năng động trong những hoạt động của trường lớp và hòa đồng với bạn bè.
Cả bạn thời phổ thông lẫn bạn bè trong lớp học hiện nay của Phương Uyên đều nói rằng ấn tượng nhất của các bạn về cô bé sinh viên vừa tròn 20 tuổi là tính cách năng động của cô. Một người bạn cùng lớp hiện nay của Uyên cho biết:
Dạ, Uyên năng động. Bạn hay phát biểu, hay đặt lại những câu hỏi với giáo viên. Trong con mắt của tụi em, Uyên là một người bạn vui tính, dễ gần, nói chung là tốt ạ.
Cái tin Nguyễn Phương Uyên bị bắt nhanh chóng lan truyền trong nhóm bạn bè khiến ai cũng bất ngờ và lo lắng. Người bạn phổ thông của Uyên kể:
Hôm bữa em đi làm về, nghe một đứa bạn em nói “Biết tin gì chưa?”, em hỏi “Tin gì?”, nó mới nói là bạn Uyên lớp em bị bắt, bị mất tích. Lúc đầu nó nói là bị mất tích thôi, do làm đơn chống Trung Quốc gì đó. Em chỉ nghe nói vậy thôi chứ em không biết (Uyên) làm gì. Rồi nó mới nói là lên mạng coi đi, thông tin nhiều lắm. Lúc đó em mới lên mạng coi và em mới đọc được mấy tin đó. Em nghe nói là bạn Uyên có làm bốn câu thơ gì đó chống Trung Quốc nhưng em không biết bốn câu thơ đó là câu thơ nào.
Uyên học rất chăm chỉ. Bạn ấy hiền lắm. Khi đi học, bạn bè có gì là bạn ấy hay giúp đỡ lắm. Nói chung, bạn ấy rất năng động trong những hoạt động của trường lớp và hòa đồng với bạn bè.Em suy nghĩ chắc là có vấn đề gì trong đó chứ bây giờ em đọc thì em được biết là không phải chống Trung Quốc mà chống lại chính quyền nước CHXHCN Việt Nam luôn.
Một người bạn PTTH
Em nghĩ chắc bạn Uyên không làm mấy chuyện đó đâu vì theo như ba năm em học chung với bạn Uyên, em biết tính của bạn đó nên em nghĩ chắc là bạn sẽ không làm mấy chuyện đó. Khi em thông báo thì các bạn không tin. Các bạn bất ngờ hoàn toàn. Nói chung, bạn nào cũng không biết bạn Uyên đang ra sao và bạn nào cũng đang lo cho bạn đó.
Kể từ hôm Uyên bị bắt, bầu không khí trong lớp học của cô Ủy viên Ban chấp hành chi đoàn thanh niên Lớp 10CDTP1 tại Trường đại học công nghệ thực phẩm TPHCM trở nên nặng nề và “nhạy cảm” hơn. Những người bạn cùng lớp của Phương Uyên cho biết trong lớp bắt đầu xuất hiện những tiếng xì xầm to nhỏ, những câu hỏi, trả lời ngắt đoạn và những thông tin chắp nối mà ai đó có được về cô bạn Phương Uyên. Cho đến giờ, vẫn không ai nhận được bất cứ thông báo chính thức gì từ nhà trường, thầy cô hay ban cán sự lớp về chuyện vắng mặt của Uyên.
Một người bạn của Uyên nói:
Em cũng không rõ. Hỏi mấy người cán sự lớp thì tụi nó không nói, tụi nó nói là: “Cứ như vậy đi, đừng có bàn nhiều” thì em cũng chẳng biết nhiều.
“Lo cho Uyên nhiều hơn là sợ”
Sinh viên Nguyễn Phương Uyên
Người bạn thời phổ thông của Uyên nói:
Nếu mà Uyên chống Trung Quốc thì em thấy là bạn đó đang bảo vệ cho người dân mình thôi. Tại vì em thấy Trung Quốc làm những chuyện ảnh hưởng đến sức khỏe của người Việt mình quá nhiều, sản xuất những hàng độc gây bệnh ung thư nhiều. Cho nên nếu như những việc bạn Uyên làm mà chỉ liên quan đến việc chống Trung Quốc thôi thì em nghĩ đó là cá tính của bạn. Em được biết là bạn đó cũng dặn ở nhà là không được xài hàng của Trung Quốc. Nếu như chỉ là việc bạn chống Trung Quốc thôi, không đụng chạm gì tới nước mình hết thì em nghĩ cái đó không có gì là sai hết.
Kể từ khi Nguyễn Phương Uyên bị bắt đi, một số bạn bè thân cận của Uyên tỏ ra khá sợ hãi mỗi khi có ai đó hỏi về việc của Uyên. Tuy nhiên, nỗi lo cho tình trạng sức khỏe và tương lai của bạn còn lớn hơn. Người bạn cùng lớp với Uyên tâm sự:
Em lo cho Uyên nhiều hơn là sợ ạ. Uyên không đi học được 11 ngày rồi chị. Em cũng mong Uyên về. Em không hiểu tại sao Uyên bị bắt. Em nghe mong manh là vấn đề đó rất nhạy cảm nên em cũng không biết nói sao. Em không muốn nói Uyên đúng hay Uyên sai nhưng em chỉ mong Uyên về để Uyên tiếp tục học và sống một cuộc sống bình thường như những ngày trước thôi.
Em không muốn nói Uyên đúng hay Uyên sai nhưng em chỉ mong Uyên về để Uyên tiếp tục học và sống một cuộc sống bình thường như những ngày trước thôi.Được biết vào ngày 20/10 vừa qua, những người bạn cùng lớp của Nguyễn Phương Uyên tại Trường đại học công nghiệp thực phẩm TPHCM đã cùng viết một đơn cầu cứu khẩn cấp gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang để xin can thiệp giúp cho Nguyễn Phương Uyên sớm trở về với gia đình, trường lớp và thầy cô. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có hồi đáp gì từ văn phòng chủ tịch nước, ngoài việc gia đình cô chính thức nhận được giấy thông báo tạm giam Nguyễn Phương Uyên để điều tra từ công an tỉnh Long An.
Người bạn cùng lớp
- Từ tia lửa có bùng lên ngọn lửa?
- Thông tin mới về vụ SV Nguyễn Phương Uyên mất tích
- Bày tỏ chính kiến và vi phạm pháp luật
- Nữ sinh viên bị công an TPHCM bắt, biệt tích
- Gia đình tù nhân Dương Âu kêu cứu
- Bày tỏ lòng yêu nước là chống phá nhà nước?
- Còn biết bao người tù chính trị bất khuất đang trong cảnh đọa đày
- Tình trạng nhân quyền tại Việt Nam
- Vì sao Viện Nghiên cứu Phát triển IDS phải đóng cửa?
- Trung tâm độc quyền chân lý
- Làm sai nhưng khi nào sửa?
- Nhà nước và Trí thức
Yousafzai và Phương Uyên: “Bút và Thép”
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - “…Hình như “ghét và thù Trung Quốc” đó là tội hình sự bởi “luật bất thành văn” của Pháp Chế CSXHCN/VN hiện nay …”
Gõ cụm từ “Malala Yousafzai” tìm
kiếm trên Google chúng ta có tới 38.200.000 kết quả. Kết quả đó cho thấy
tên cô bé nữ sinh người Pakistan này đã làm thổn thức biết bao trái tim
nhân bản trên toàn thế giới đang hồi hộp cùng cầu nguyện cho cô bé vượt
qua bàn tay “tử thần” trong một bệnh viện tốt nhất tại Anh Quốc. Ngày
11/10 vừa qua chính phủ Pakistan đã treo thưởng 10 triệu rupee (1 triệu
đôla) cho những ai cung cấp thông tin để bắt được những kẻ tấn công đã
bắn vào đầu nữ sinh Malala Yousafzai ny. (Tinmoi Online)
Cũng giống như vậy, có lẽ công luận và nhân dân Việt Nam sẽ an ủi
và tự tin hơn với “nhà nước quốc gia mình” khi chạm mặt với một thông
báo tương tự “sẽ tưởng thưởng hậu hĩnh cho ai chỉ ra thủ phạm và nơi
giam giữ” Nguyễn Phương Uyên nữ sinh viên Trường Đại Học Công Nghiệp
Thực Phẩm Thành Phố Hồ Chí Minh – bị “bắt cóc” mất tích gần 10 ngày qua
mà gia đình, nhà trường và bạn bè không biết tin tức.
Tuy nhiên, không phải vậy! dù Malala Yousafzai và Phương Uyên rất giống nhau về “nhân thân và bi kịch”.
Vụ ám sát “Malala Yousafzai” đã biến cô bé trở thành biểu tượng
toàn cầu. Cả đất nước Pakistan phẫn nộ. Ngày 12 tháng 10 năm 2012, người
dân cả nước Pakistan đã cầu nguyện cho Malala. Làn sóng cầu nguyện cũng
lan sang Afghanistan và các nước Hồi giáo khác, rồi dẫn đến toàn thế
giới. Chính phủ Hoa Kỳ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon. UNICEF,
Quỹ Phụ nữ toàn cầu… đều lên án hành vi tàn bạo của Taliban. Trên các
mạng xã hội như Twitter Facebook và các trang mạng khác, Malala được cư
dân mạng cả thế giới tôn vinh là một anh hùng. Nhiều người khẳng định cô
xứng đáng với giải Nobel hòa bình năm 2012 hơn rất nhiều so với Liên
minh châu Âu (EU).
Vì sao vậy? Cô bé Malala Yousafzai được người ta biết đến với hoạt
động nữ quyền của mình ở thung lũng Swat, nơi Taliban cấm tuyệt đối nữ
giới tới trường học. Yousafzai bắt đầu nổi tiếng, khi vượt qua nổi sợ
hãi, vượt qua sự đe dọa giết Yousafzai và cha cô, Ziauddin bởi khủng
bố Taliban để tham gia các cuộc phỏng vấn trên các ấn bản in và truyền
hình đòi hỏi sự bình đẳng giáo dục và quyền đến trường cho các trẻ em
nữ. Yousafzai giữ vị trí chủ tịch hội đồng trẻ em huyện Swat. Cô bé đã
được đề cử giải thưởng hòa bình trẻ em quốc tế bởi Desmond Tutu, và đã
giành được giải hòa bình trẻ quốc gia của Pakistan. Ngày 9 tháng 10 năm
2012, hai sát thủ Taliban đã chặn xe buýt chở Malala gần một trạm kiểm
soát quân sự và xả súng bắn cô bé. Malala bị bắn vào đầu và cổ. Sứ quán
Anh Quốc can thiệp tức thời, khẩn cấp đưa cô bé sang Anh hy vọng cứu
mạng sống.
Còn Việt Nam thì: Nguyễn Phương Uyên, nữ sinh viên Trường Đại Học
Công Nghiệp Thực Phẩm Thành Phố Hồ Chí Minh, bị bắt cóc nơi mình tạm
trú, trọ học, mất tích 10 ngày qua, gia đình và bạn bè liên hệ các cơ
quan CA và chính quyền nơi cần tìm nhưng vô vọng. Công an phường, nơi
bắt Nguyễn Phương Uyên, trưa chủ nhật, 14.10.2012, đã phủ nhận việc bắt
nữ sinh viên trường Công nghiệp thực phẩm này (VRNs) và mới đây thì lại
nói đã chuyển về công an Long An.
Và nội dung đơn thư của các bạn cùng lớp gửi cầu cứu CT/Nước:
“… Kính gởi: Bác Chủ tịch Nước CHXHCNVN: Trương Tấn Sang
Chúng cháu là những sinh viên Trường Đại Học Công Nghiệp Thực Phẩm
Chúng cháu mạn phép viết thư này cho Bác là để cầu cứu đến Bác
về trường hợp bạn của chúng cháu là Nguyễn Phương Uyên. Đang tạm trú tại
Thành Phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: 140 A Lê Trọng Tấn, Quận Tân Phú.
TPHCM. Nguyên quán: Hàm Thuận Bắc – Bình Thuận – Việt Nam. Ủy viên ban
chấp hành chi đoàn thanh niên Lớp 10CDTP1…
Vào lúc 11 giờ ngày 14/10/2012 bạn của chúng cháu là Nguyễn
Phương Uyên đã bị các chú công an Phường Tây Thạnh, Công An Quận Tân Phú
khoảng 10 người ập vào phòng trọ dẫn đi và nói là để xác minh một số
vấn đề về Truyền Đơn chống Trung Quốc Xâm Lược do bạn ấy dán. Nhưng đến
nay vẫn không thấy bạn ấy về. Cha mẹ và bà nội của bạn Uyên đã đến cơ
quan công an Phường Tây Thạnh và công an Quận Tân Phú để xin cho bạn
được thả nhưng mấy chú công an nói là không có bắt giữ bạn ấy…”
Sinh viên, không chỉ với “sách vở” mà còn định hình cho nhân cách phẩm giá của Tổ Quốc-Dân Tộc Việt Nam…
Nhưng bất ngờ ngày 22/10 một số trang mạng
lưu truyền thông tin Phương Uyên là một thành viên của một câu lạc bộ
có tên là Tuổi trẻ Yêu nước có hoạt động chống chế độ.
Theo đó, bốn ngày trước khi Phương Uyên bị bắt, nhóm Tuổi trẻ Yêu nước đã ‘gài truyền đơn bên hông thành cầu An Sương’.
Phương Uyên được nói đã nhận phân công là
‘chụp ảnh những diễn biến hôm đó’. (Tuy nhiên, BBC chưa thể kiểm chứng
độc lập thông tin về nhóm Tuổi trẻ Yêu nước).
Trong khi đó bà Nguyễn Thị Nhung, mẹ của
Phương Uyên, xác nhận với BBC rằng bà đã được công an thông báo lý do
bắt giữ cô là vì tội ‘Tuyên truyền chống Nhà nước’.
Theo thông báo do Thượng tá Nguyễn Thanh
Sơn, thủ trưởng Cơ quan An ninh điều tra của Công an tỉnh Long An, ký
thì Phương Uyên đang bị giữ tại Trại tạm giam của Công an tỉnh. (BBC)
Truyền đơn được cho là của nhóm Phương Uyên
Một người bạn cùng bị bắt với Uyên sau khi
được tha thuật lại, ở văn phòng công an phường Tây Thạnh, CA hỏi, thì
Phương Uyên trả lời là: “cháu ghét Trung Quốc”! (Đơn giản – hồn nhiên, bẩm sinh tinh thần Việt).
Nhìn, đọc nội dung của truyền đơn, chịu
khó động não một chút thì một em học sinh cấp 1 cũng có thể nghiệm suy
để hiểu được mà gật đầu cho là phải, là chí lý, phải chống lại thôi, bởi
danh dự và tương lai của một cá nhân đã quan trọng rồi huống chi là danh dự – tương lai cả dân tộc, đất nước.
Vì vậy rất khó cho bất cứ ai phản biện lại
khi công luận nhân dân khẳng định chỉ có một chế độ “vong bản và tham
nhũng” mới bắt bớ sách nhiễu nhân dân mình chống lại những điều này, và
hình như “Ghét và thù Trung Quốc” đồng nghĩa với “phản động” là tội hình sự bởi “luật bất thành văn” của Pháp chế CSXHCN/VN hiện nay.
Nếu nói CA bắt truy tố Phương Uyên và những người bạn vì truyền đơn này thì đích thị “nhà nước này là nhà nước tay sai của Trung Quốc và sống được bằng tham nhũng”
bởi nếu không phải thì Trung Quốc đã và đang cướp biển đảo, bắt bớ hành
hạ ngư dân Việt Nam và trong nước thì hàng loạt tội phạm tham nhũng
“bự” đang bị bắt giữ điều tra thì Phương Uyên lên tiếng kêu gọi mọi
người cùng chống lại cho quốc gia xã hội đất nước mình “tốt hơn” thì có
gì là sai trái, nếu không muốn nói đó là trách nhiệm của mọi công dân?
Và nếu vin vào đó mà gán cho cái tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN/VN”
thì chẳng lẽ nhà nước này đương nhiên công nhận là nhà nước của “giặc
tàu” và chuyên “tham nhũng” à?? bởi nội dung truyền đơn đâu có mang hàm ý
chống CH/XHCN/VN??
Tóm lại cùng thời điểm – nữ sinh Malala
Yousafzai ở Pakistan và nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên tại Việt Nam là
nạn nhân của “bi kịch” thù hằn “định kiến, độc tài, bệnh hoạn”. Việc
công an Sài Gòn bắt Nguyễn Phương Uyên mà không qua một qui trình tối
thiểu nào hết. Đây là một sự vi phạm trắng trợn pháp luật của Quốc Gia
nên trường hợp này gọi là “bắt cóc” là không có gì sai, nó cũng rất gần
gũi với hành vi man rợ vô luật pháp của Taliban.
Tuy nhiên, như Malala Yousafzai bị Taliban
đe dọa – Nguyễn Phương Uyên chứng kiến các bạn sinh viên cùng trang lứa
“bất đồng chính kiến” bị áp đặt kết án tù oan sai trước pháp đình,
nhưng cả hai vẫn không run sợ, vươn vai ra khỏi mái trường, lớp học để
khơi gợi cho đời “đâu là công bằng chân lý- danh dự và tương lai của tổ
quốc”.
Như những hạt cỏ nhỏ nhoi gieo xuống,
chiếc mầm thực vật vô thức vươn ra còn biết tìm và hướng đến vùng ánh
sáng, chỉ có loài “vi khuẩn” chuyên ngồi đó chờ đợi chất thãi trong môi
trường yếm khí tối tăm mới sợ ánh sáng. Dưới tia mặt trời “quang minh
chính trực”, chúng – loài vi khuẩn bẩn thỉu độc hại chuyên ăn bám thân
thể xã hội – giãy giụa chết ngay.
Truyền thông tiếng Anh chú ý vụ Phương Uyên
Cập nhật: 14:29 GMT – thứ năm, 25 tháng 10, 2012 – BBC
Báo chí tiếng Anh bắt đầu đưa tin về sinh viên Nguyễn Phương Uyên, bị bắt vì ‘tuyên truyền chống Nhà nước’.
Bản tin tiếng Anh của hãng tin Pháp AFP nói cáo buộc tuyên truyền chống nhà nước, với mức án tối đa 20 năm tù, “thường xuyên dành cho những người bất đồng chính kiến ở một đất nước nơi Đảng Cộng sản cầm quyền cấm đoán mọi tranh luận chính trị”.
AFP dẫn lại bài báo của tờ Pháp Luật TP. HCM xác nhận nữ sinh 20
tuổi, học lớp 10CDTP1 Trường ĐH Công nghệ thực phẩm TP.HCM, bị công an
bắt ngày 14/10.
Theo tờ báo Việt Nam, “một cán bộ Công an phường Tây Thạnh xác nhận nữ sinh này bị Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an bắt để điều tra vì có hành vi liên quan trong chuyên án an ninh”.
“Sau khi bắt, Cơ quan An ninh điều tra của Bộ đã giao cho Công an tỉnh Long An tiến hành điều tra.”
Về lý do bắt, cán bộ này “chỉ nói ngắn gọn là có hành vi rải truyền đơn”.
Theo AFP, Việt Nam “thường bắt giữ và tống giam những người biểu tình chống Trung Quốc, các nhà hoạt động chống tham nhũng, và một số blogger, luật sư, nhà hoạt động đang thụ án tù dài hạn vì tham gia biểu tình hòa bình”.
Trong khi đó, BBC News tiếng Anh hôm nay cũng đưa tin về vụ việc.
Bản tin dẫn lại lá thư thư cầu cứu của các bạn học lên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Hôm 18/10, trả lời phỏng vấn của BBC tiếng Việt, mẹ sinh viên Nguyễn Phương Uyên là bà Nguyễn Thị Nhung nói gia đình ‘rất hoang mang’ nhưng không cho rằng con gái mình có tội.
“Nếu thực chất mà cháu ghét Trung Quốc, thì điều đó theo tôi nghĩ không có vi phạm pháp luật đến mức nghiêm trọng. Là vì một công dân yêu nước là chuyện bình thường.”
“Với những hành vi ngang tàng bạo ngược của Trung Quốc, xâm chiếm lãnh hải, làm những chuyện mà phải nói là không ai mà không biết, thì sinh viên và học sinh mà suy nghĩ như thế, theo tôi không có gì là nghiêm trọng.”
Bản tin tiếng Anh của hãng tin Pháp AFP nói cáo buộc tuyên truyền chống nhà nước, với mức án tối đa 20 năm tù, “thường xuyên dành cho những người bất đồng chính kiến ở một đất nước nơi Đảng Cộng sản cầm quyền cấm đoán mọi tranh luận chính trị”.
Theo tờ báo Việt Nam, “một cán bộ Công an phường Tây Thạnh xác nhận nữ sinh này bị Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an bắt để điều tra vì có hành vi liên quan trong chuyên án an ninh”.
“Sau khi bắt, Cơ quan An ninh điều tra của Bộ đã giao cho Công an tỉnh Long An tiến hành điều tra.”
Về lý do bắt, cán bộ này “chỉ nói ngắn gọn là có hành vi rải truyền đơn”.
Theo AFP, Việt Nam “thường bắt giữ và tống giam những người biểu tình chống Trung Quốc, các nhà hoạt động chống tham nhũng, và một số blogger, luật sư, nhà hoạt động đang thụ án tù dài hạn vì tham gia biểu tình hòa bình”.
Trong khi đó, BBC News tiếng Anh hôm nay cũng đưa tin về vụ việc.
Bản tin dẫn lại lá thư thư cầu cứu của các bạn học lên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Hôm 18/10, trả lời phỏng vấn của BBC tiếng Việt, mẹ sinh viên Nguyễn Phương Uyên là bà Nguyễn Thị Nhung nói gia đình ‘rất hoang mang’ nhưng không cho rằng con gái mình có tội.
“Nếu thực chất mà cháu ghét Trung Quốc, thì điều đó theo tôi nghĩ không có vi phạm pháp luật đến mức nghiêm trọng. Là vì một công dân yêu nước là chuyện bình thường.”
“Với những hành vi ngang tàng bạo ngược của Trung Quốc, xâm chiếm lãnh hải, làm những chuyện mà phải nói là không ai mà không biết, thì sinh viên và học sinh mà suy nghĩ như thế, theo tôi không có gì là nghiêm trọng.”
Con lai tự truyện
09:02:am 24/10/12 | Tác giả: Đàn Chim Việt
Lan Marzena Wilkanowicz-Devoud ra cuốn tự chuyện về gia đình bên
ngoại gốc Việt thuộc triều đình Huế, về tuổi thơ của bé gái mắt xếch tại
cố đô Krakow của Ba Lan, về gia đình trí thức, về bước đường trở thành
tổng biên tập tờ “Elle” danh giá.“Lan, czyli Orchidea” (“Lan, nghĩa là Hoa Lan”) vừa được nhà xuất bản Znak (Ba Lan) phát hành và giới thiệu mới đây có nhiều liên quan tới Việt Nam.
Trên hết bởi tác giả là con đầu lòng của cặp vợ chồng công giáo Việt Nam – Ba Lan, sinh trưởng trong bối cảnh biến đổi ly kì của lịch sử hai nước. Marzena Wilkanowicz-Devoud là kết quả của mối tình “không tưởng” vô cùng lãng mạn của người trí thức Ba Lan với cô gái Việt Nam dòng dõi trong khi chiến tranh, chính trị và khoảng cách địa lý là những rào cản thách thức tưởng không thể vượt qua.
Mẹ cô, Maria Teresa Trần Thị Lài (mang họ Wilkanowicz sau khi kết hôn với cha cô) là con gái của quan Trần Văn Lý, người từng giữ chức cai quản tại Đà Lạt thời Pháp thuộc. 28 tuổi, bà gặp chồng tương lai trong một cuộc họp mặt thanh niên công giáo thế giới Pax Romana tại San Salvador (Nam Mỹ) và sau đó, trong lần thứ 3 gặp mặt sau 7 năm xa cách, bà quyết định lấy ông Stefan Wilkanowicz khi đó là kí giả của tuần báo công giáo Tygodnik Powszechny.
Bà Lài theo chồng sang Ba Lan năm 1963 dù biết sẽ không thể quay về Việt Nam hay trở lại Pháp, và dù biết phải chấp nhận cuộc sống cực khổ của vợ kí giả nghèo, của nhà trí thức bị chính quyền cộng sản Ba Lan khi đó dằn mặt và cảnh giác.
Câu chuyện của cặp uyên ương đặc biệt này đã từng được bà Lài ghi lại trong cuốn sách tự truyện xuất bản hồi năm 2004 với tựa “Z Wietnamu do Polski – Opowieść córki mandaryna” (“Từ Việt Nam tới Ba Lan – câu chuyện của con gái quan huyện”)
Mối tình của ông bà Wilkanowicz “ly kì và có khi còn hay hơn cả phim Hollywood vì là chuyện có thật” – con gái họ viết vậy trong cuối sách đầu tay của mình.
Như cô kể thì oái oăm của lịch sử và mối tình lãng mạn của cha mẹ đã hình thành nhân vật Marzena vừa nhẹ nhàng tình cảm, vừa quyết liệt và hiện đại mà không bỏ quên tri thức kinh điển, nghĩa vụ xã hội và tinh thần trách nhiệm, siêng năng cần cù của người Á Châu.
Marzena dẫn ta tới gặp các nhân vật lịch sử cận đại của Ba Lan mà chị gặp, kết thân và học hỏi, trong đó có Thủ tướng đầu tiên của Ba Lan dân chủ Tadeusz Mazowiecki, các nghệ sĩ, nhà văn, các tên tuổi của ngành tạo mốt Anh, Pháp mà chị từng làm việc cùng trong 13 năm làm tổng biên tập đầu tiên của nguyệt san “Elle” Ba Lan.
Cuốn “Lan…” là thế giới thu nhỏ đầy lý thú, được viết với ngôn ngữ bình dị chân thực của người rất ý thức về cội nguồn đích thực của mình. “Lan…” muốn chia sẻ nhưng cũng muốn kéo người đọc tham dự cuộc sống không hời hợt với bất cứ khía cạnh nào của nó.
Với tính cách cởi mở nhưng biết giữ khoảng cách khách quan của người điềm tĩnh quan sát như nhân vật Marzena thì từ nếp chỉ đường may của chiếc váy phụ nữ tới thế giới chính trị của các quốc gia lớn nhỏ không phải là điều khó bao quát.
Lan Marzena Wilkanowicz – Devoud lấy chồng người Pháp, cũng là một tổng biên tập tạp chí Gala, cũng dành cho phụ nữ chuyên đề tạo mốt, trang điểm và thế giới các nhân vật nổi tiếng của ngành giải trí. Họ có 2 con và hiện sống ở Paris.
Các cuộc họp mặt công chúng giới thiệu sách tự chuyện của Lan Marzena được tổ chức chủ yếu vào cuối tháng 10 trong đó thứ Năm ngày 25 tháng 10 lúc 18 giờ tác giả gặp gỡ và nói chuyện với công chúng tại trụ sở Hội Tiếng Nói Tự Do (văn phòng Bến Việt) tại ul. Marszałkowska7, Warszawa.
Nguồn: Benviet.rog. Đàn Chim Việt biên tập.
Nguyễn Ngọc Già – Cứu bất động sản hay cứu ai? (kết)
Nguyễn Ngọc Già – Cứu bất động sản hay cứu ai? (phần 1)
Nguyễn Ngọc Già
Tiến sĩ David Dapice, ĐH Harvard đã đưa ra khái niệm (1):
“về khả năng hình thành và tồn tại cái
trục “tam giác quỷ” giữa quan chức – doanh nghiệp – ngân hàng mà ở đó,
chính sách quốc gia bị bắt cóc làm con tin. Một chính sách chỉ được
thành hình và thực hiện khi phục vụ lợi ích của ba “ông lớn” ấy”.
Quả đúng vậy, khi liên hệ đến việc Bộ Xây
Dựng đang tư vấn cho Chính phủ cái gọi là “chính sách” để “giải cứu” thị
trường bất động sản. Nói trắng ra: họ đang muốn cứu họ, họ đang giải
cứu lẫn nhau vì có thể họ chết chùm, do đó không có gì e dè để kết luận:
“Chính sách mua nhà ế giúp cho các doanh nghiệp BĐS” trở thành CON TIN trong tay các quan chức ra vẻ vì lo “việc chung” (!).
Thông tin dưới đây sẽ làm cho tiểu thương
nghèo, công chức, công nhân sống bằng đồng lương eo hẹp và nông dân mất
đất, quân nhân cấp thấp v.v… sẽ nổi cơn thịnh nộ, một khi điều này biến
thành hiện thực: “CẦN 200.000 TỈ ĐỒNG ĐỂ GIẢI CỨU THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN”
(2). Những 200.000 TỈ ĐỒNG, nghĩa là tương đương gần 10 TỈ ĐÔ LA MỸ!
Choáng váng đến xây xẩm mày mặt, khi chúng ta nhớ lại Vinashin đã đổ
sông đổ biển hơn 4,4 tỉ đô la với án sơ thẩm cho Phạm Thanh Bình là 20
năm tù. Nay người ta định đem cả 10 tỉ đô la Mỹ của dân chúng để cứu cho
QUAN CHỨC – NGÂN HÀNG – DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN cùng các đầu dây mối
nhợ họ tộc, bè phái đan xen chằng chịt lùng nhùng! Đó là tội ác đối với
nhân dân!
Hầu như các căn hộ cao cấp, nhà phố, biệt
thự lớn nhỏ mà hôm tôi đi thực tế cho thấy, trong đó chiếm phần lớn với
giá trị bình quân không dưới 2 tỉ đồng/căn. Ai có tiền để mua những đơn
vị nhà này? Các chủ đầu tư xây lên cho ai? Ai có thể lướt sóng để kiếm
những khoảng lợi nhuận từ vài trăm triệu đến vài tỉ chỉ trong một, hai
tháng, khi thị trường BĐS lên cơn co giật cao độ trước việc kiếm tiền
quá dễ trong những năm 2007 – 2009?
Hiện nay, dù thị trường BĐS đang tê liệt gần
như hoàn toàn, một số các quan chức, doanh nghiệp BĐS vẫn bình chân như
vại. Tại sao?
Tôi đã đến tòa nhà cao 33 tầng tại đường Tân
Trào thuộc đô thị Phú Mỹ Hưng do Tập đoàn dầu khí (PVN) đầu tư hơn cả
ngàn tỉ đồng (xem ảnh) với tên gọi “PETRO LAND TOWER”. Dự án khu phức
hợp cao 33 tầng này khởi công từ tháng 9/2008, được xây trên diện tích
đất 2.975m2, khánh thành vào tháng 12/2011. Thời điểm này Đinh La Thăng
còn đang công tác tại Tập đoàn Dầu khí với cương vị Chủ tịch HĐQT, do đó
không thể nói Đinh La Thăng không liên quan đến dự án này.
Nơi đây từ tầng 24 đến 30 là những căn hộ
cao cấp đang được rao bán CÔNG KHAI không cần dấu giếm, bạn có thể gặp
bất cứ công ty môi giới nào để hỏi mua căn hộ này, ví dụ tại đây(3).
Hình ảnh Petro Land Tower mới chụp ngày 31/03/2012
Thoạt nghe thì “bình thường thôi”, nhưng tìm
hiểu kỹ lại “nghe sao không bình thường” vì, nếu bạn muốn sở hữu nó,
bạn phải trả chênh lệch từ 600 – 700 triệu/căn. Ví dụ căn hộ 90m2 có giá
23 triệu/m2, vị chi là 2.070.000.000 đồng, tuy nhiên trên hợp đồng chỉ
thể hiện giá dao động 16 – 17 triệu/m2 (tùy tầng và hướng). Phần chênh
lệch, bạn phải trả ngay (bằng tiền mặt hay chuyển khoản cũng được) cho
chủ nhân căn hộ đó.
Tôi hỏi: Sao kỳ vậy, giá ghi rõ ràng thì tôi mua theo giá công bố.
Nghĩa là, tôi trả trước 30% nhận nhà (thô), hoàn thiện vào ở, khoảng 70%
tôi trả dần cho công ty 5 năm theo chính sách ưu đãi không lãi suất.
Sao giờ trả cho người là chủ căn đó, mà tôi đâu biết người đó là ai?Cậu nhân viên trẻ cười cười: Không phải vậy, bác ơi!
Tôi: ?
Cậu nhân viên tiếp tục: Chủ, người ta mua trước rồi. Bây giờ họ cần tiền bán lại, nên gởi tụi cháu.
Tôi: vậy thì tôi chọn căn khác.
Cậu nhân viên: Căn nào cũng có chủ hết rồi bác ạ! Bác muốn căn nào thì cũng phải trả chênh lệch nhiều ít, tùy theo căn, theo hướng.
Tôi chào, nói sẽ về xem lại. Đi ra và đưa câu chuyện đó cho người bạn là dân môi giới chuyên nghiệp, mới vỡ lẽ: Thật ra, các căn hộ đó đều được “xí phần” cho các quan chức của Petro. Họ chỉ “xí phần” mà không phải bỏ ra một xu nào cho chỗ “phần xí” đó. Khi có khách nào muốn mua thì cứ theo giá chính thức làm việc với công ty, phần chênh lệch chuyển cho họ và họ bỏ túi. Hợp đồng, mọi khoản giấy tờ, trả góp v.v… người mua lúc đó là chủ chính thức.
Họ đã ăn trên đầu người dân thế đấy! Cần nhớ khoản đầu tư là tiền nhà nước!
Tập đoàn PVN trải dài từ Bắc vô Nam, nên quy mô, khối lượng BĐS của tập đoàn PVN không hề là nhỏ. Chỉ một tòa nhà tại PMH, họ “ăn” cỡ đó thì tại Hà Nội, Hải Phòng, Vũng Tàu v.v… họ “ăn” cỡ nào???!!! Những ai chấp nhận trả khoản chênh lệch như thế? Nói không ngoa, chỉ có thể quan chức các ngành khác cùng gia đình, dòng tộc, phe nhóm của họ.
Mặt khác, các doanh nghiệp tư nhân như: HAGL, Thảo Loan, Quốc Cường v.v… họ cũng “chung chi” với phía công quyền để có những mảnh đất đẹp, giá rẻ, thủ tục đầu tư, giấy phép xây dựng nhanh chóng v.v…. Khi thị trường nóng sốt, sau doanh thu, phí thuế các loại, phần lãi họ bỏ túi và chia lời cho các cổ đông. Vậy, khi thị trường xẹp xuống, họ phải tự chịu trách nhiệm trước tập đoàn, cổ đông của họ. Sao lại giải cứu bằng tiền của dân?
Quan chức Việt Nam đã từng tuyên bố về các khoản nợ của Vinashin: “Vinashin vay thì Vinashin tự trả”. Theo đó, các doanh nghiệp BĐS lời thì bỏ túi, lỗ thì tự lo. Từ những khoản lãi dễ dàng móc túi lẫn nhau và móc túi người dân họ sẵn sàng dùng để mua máy bay, xe siêu sang, ăn xài xả láng, thì bây giờ họ phải có đủ liêm sỉ đối diện với khoản lỗ, sao lại đi “ăn mày” nhân dân bằng cái gọi là “giải cứu”?
Các ngân hàng đang dính chùm trong nợ nần với các doanh nghiệp BĐS cũng phải tự gánh lấy trách nhiệm. Nhắc lại 5 ngân hàng VN tài trợ cho PMH vay hơn 1.200 tỉ đồng, trong đó có Gia Định Bank vừa qua do cô Nguyễn Thanh Phượng thâu tóm để trở thành Bản Việt Bank.
Thêm nữa, Việt Nam đã quá nhiều loại cò mồi: “cò chạy án”, “cò chạy dự án”, “cò chạy bằng cấp” v.v… nay giới cầm quyền lại tính đẻ ra thêm loại cò mới: “CÒ CHẠY BÁN DỰ ÁN”!. Không thể tin được trong việc “giải cứu” này, không có bàn tay đen về lợi ích cá nhân, phe nhóm thọc vào để chi phối. Chính việc này sẽ lại làm náo loạn thị trường BĐS vốn chẳng mấy khi minh bạch, ví dụ, chủ đầu tư nào chịu “chung chi”, có mối quen biết thân thiết sẽ bán được dự án nhanh và giá tốt.
Việc “giải cứu” sẽ biến các chủ BĐS như những đứa con hư đốn, ích kỷ, vô đạo đức, cứ được tha thứ hết lần này đến lần khác, làm cho chúng ngày càng thủ đoạn, quỷ quyệt, lờn mặt hơn, để trở nên dày dạn kinh nghiệm cho những đối phó sau này. Đó góp phần làm suy đồi đạo đức kinh doanh, điều hiện nay quá thiếu.
Nhà nước KHÔNG ĐƯỢC DUNG DƯỠNG các doanh nghiệp BĐS như dự định.
Vậy, “chính sách” “giải cứu” thị trường BĐS nếu thực hiện, chỉ làm mỗi nhiệm vụ tháo chạy, gỡ vốn cho bộ ba “tam giác quỷ” đó mà thôi, không hề giúp gì cho dân.
Ông Nguyễn Trần Nam cho biết nhà nước định sẽ mua một số BĐS để làm nhà công vụ cho lãnh đạo thiếu chỗ ở chỉ là lấp liếm, trêu ngươi người dân, bởi trước nay không có một số liệu thống kê nào cho thấy, lãnh đạo từ trung ương đến địa phương hiện thiếu chỗ ở (!) Khôi hài! Hãy ghé qua nhà công vụ tại số 255 Trần Hưng Đạo Q.1 Tp.HCM mà xem (4). Ở đó bây giờ chỉ có lác đác vài hộ ở, số còn lại cho thuê, toàn bộ tầng trệt cho công ty CK Kim-Eng (Singapore) thuê kiếm tiền. Thật bi hài và lố bịch cho cái gọi là “nhà công vụ”!.
* * *Nếu Nhà nước thật sự nghĩ tới nền kinh tế đang nguy ngập và dân tình đang khốn đốn lầm than về mọi mặt thì hãy có những cách can thiệp vào thị trường BĐS sao cho đúng nghĩa phục vụ quảng đại quần chúng như sau:
- Thuế VAT áp dụng cho việc mua nhà, đất hiện nay 10% là quá cao. Nên giảm mức thuế này xuống còn 2%. Kèm theo đó, có thể giãn thuế trong 3 năm cho người có nhu cầu ở thật sự. Thuế VAT, về bản chất, khi sản phẩm hoàn thành và được bán tới tay người tiêu dùng, thì mới phát sinh. Tuy nhiên, mấy năm qua, cơ quan thuế thu theo từng đợt thanh toán là cách hiểu sai về bản chất của thuế VAT, góp phần làm cho thanh toán của người dân tăng thêm nhiều.
- Hủy bỏ thuế thu nhập cá nhân về nhà đất đang áp dụng là 2% trên giá bán (hay 25% giữa giá bán và giá mua cùng chi phí) mà dân cũng đang kêu trời, khi bán lỗ mà vẫn bị đánh thuế này.
- Hãy để các doanh nghiệp BĐS đi theo quy luật thị trường. Hàng không bán được, vẫn giữ giá (gốc) quá cao (như PMH, HAGL…) thì họ phải chấp nhận “chết” hoặc ngược lại. Họ đã từng ôm lời hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng thì bây giờ họ cần học lại và quen dần với khái niệm “phân phối lại” (redistribution) là như thế nào để có trách nhiệm hơn với xã hội.
- Đưa ra chính sách hỗ trợ cho người lao động, ví dụ: hỗ trợ cho những cặp vợ chồng mới cưới (căn cứ theo giấy kết hôn) như các quốc gia khác(*), những ai mua nhà lần đầu. Tuy nhiên, muốn làm được điều này, rất khó vì liên quan đến quản lý hộ tịch, dân số bằng công nghệ điện toán hóa, VN vẫn còn quá thô sơ trong vấn đề này.
- Chính sách thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt đối với BĐS (giá trị lớn) trong những năm qua bất khả thi vì nhà nước không muốn làm đến nơi đến chốn. Lý do gì thì ai cũng hiểu (tham nhũng khó khăn hơn khi mọi người đều sử dụng tài khoản qua ngân hàng). Thật ra, việc này, nếu muốn, lẽ ra phải làm theo 2 cách:
+ Cuốn chiếu: thực hiện từ ngay những đứa trẻ vừa mới sinh ra. Lúc trẻ sinh ra, mọi thông tin nhân thân, khuyết tật, nhóm máu, giới tính v.v… đều phải được vi tính hóa liên hoàn trên toàn cõi VN. Làm điều này cũng góp phần quản lý thu nhập, truy tìm tội phạm tham nhũng, hình sự dễ dàng. Nói ra thì phì cười, vì lúc đó, các quan chức tham nhũng còn chỗ nào ẩn nấp, khi cách quản lý này kết hợp với hiện ước dẫn độ tội phạm với thế giới được ký kết.
+ Cắt khúc: song song cách trên, nhà nước sẽ phân loại để vi tính hóa theo lứa tuổi, ví dụ làm trước trong 2 năm đầu dành cho lứa tuổi từ 18 đến 30, sau đó đến lứa tuổi 31 đến 45 v.v…
Cách làm này phải kiên trì, nhất quán trong suốt khoảng 10 năm mới có thể cho kết quả, ngoài ra nó giúp loại bỏ cách quản lý dân theo hộ khẩu (không giống ai) tỏ ra vi phạm nhân quyền và tư duy xin – cho còn đầy rẫy.
* * *Bộ ba “trục tam giác quỷ” đã bị vạch mặt nhiều năm qua, nhưng chúng vẫn liên kết nhau chặt chẽ để thủ lợi, bất chấp sự bần cùng hóa người dân đang ngày càng dâng cao.
Phải đưa thị trường BĐS nói riêng và các thị trường khác nói chung đi về đúng quỹ đạo của nền kinh tế thị trường dựa trên yếu tố cung – cầu làm chủ yếu.
Hà hơi, tiếp sức cho các ngân hàng, doanh nghiệp BĐS trong tình hình kinh tế bi đát hiện nay chỉ làm phân hóa xã hội thêm sâu sắc. Giá BĐS cao cứ cao, người dân nghèo không có chỗ ở cứ tiếp tục lay lắt sống trong hoàn cảnh chực chờ bùng nổ một sự vùng lên trong lửa khói.
Nguyễn Ngọc Già
_______________
http://ocd.vn/index.php/vi/news/doanhnghiep/767-tai-cu-truc-nhin-thng-s-tht–vt-len-chinh-minh (1)
http://www.baomoi.com/Home/TaiChinh/www6.vnmedia.vn/Can-200-nghin-ty-dong-giai-cuu-thi-truong-BDS/8183224.epi (2)
http://raovat.nhadat.vn/ban-can-ho-petroland-tower-phu-9163.html (3)
http://landtoday.net/vn/tintuc/16954/quan-ly-long-leo-nha-cong-vu-nha-so-huu-nha-nuoc.aspx (4)
(*) Có thể làm giả, vì cả VN cái gì cũng giả được cả. Rất buồn!
Thư gởi bà cựu ĐBQH Đặng Thị Hoàng Yến
Nguyễn Trọng Liêm (bạn đọc Danlambao) - Tôi
năm nay tuổi đời còn 1 năm nữa là 90, đã sống qua nhiều thời kỳ, từ
trào Tây Pháp thuộc, Phong trào Thanh niên Tiền phong, tới ông Diệm, ông
Thiệu, rồi tới Cộng sản cai trị hơn 37 năm, trải qua bao nhiêu thăng
trầm của thế sự, tôi chưa thấy chế độ nào tàn bạo, tham ô vô nhân bằng
chế độ Cộng sản hiện nay. Nói thật hồi Pháp thuộc người dân chưa bị đày
đọa áp bức như chế độ ngày nay, thủ tục hành chánh các thời trước chưa
hành khổ dân như chế độ Cộng sản bây giờ, nội xin cái sổ đỏ gọi là quyền
sử dụng đất đai phải mất từ 1 đến 3 năm trời, nếu có tiền đút lót thì
nhanh hơn, bà con coi có đất nước nào hành khổ bằng cái bọn Cộng sản
trời đánh thánh đâm nầy chưa? Câu chuyện Cánh Đồng Nọc Nạn xảy ra ở tỉnh
Bạc liêu hồi thời Pháp thuộc, cuộc cướp đất đó chưa bằng 1/10 những
chuyện cướp đất xảy ra như ở Văn Giang, Tiên Lãng và nhiều nơi trên toàn
cõi đất nước Việt Nam…
*
Kính gởi Bà Đặng Thị Hoàng Yến,
Thưa Bà, tôi là dân Long an, người từng cầm lá phiếu bầu cho Bà
trong kỳ bầu cử quốc hội vừa qua. Tôi cũng xin phép gọi Bà bằng cháu cho
thân thiện vì tuổi của tôi năm nay đã gần 90.
Cháu biết vì sao bác và toàn thể con cháu trong gia đình bác ai
cũng bỏ phiếu cho cháu. Vì cháu là người vừa đẹp người đẹp nết, gương
mặt cháu có cái đẹp vô cùng phúc hậu, học hành có bằng cấp hẳn hoi đàng
hoàng chứ không phải như đa phần các cấp lãnh đạo như thằng 3 Dũng,
thằng Lê Hồng Anh, Trương Vĩnh Trọng, thằng Trương Hòa Bình (nó cùng quê
với bác). Nói chung cái thành phần chính phủ toàn thứ khoa bảng trời ơi
đất hởi và các cấp từ trung ương cho đến tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy,
chủ tịch thành phố, tỉnh, huyện, quận, xã… thằng nào cũng có bằng cấp cử
nhân thạc sĩ, tiến sĩ… nhưng đều là những thứ loại bằng cấp dõm bằng
cấp ma bằng cấp quỉ, bằng cấp mua, bằng cấp do các trường tại chức hoặc
chuyên tu học cho có lệ rồi hợp thức hóa… Còn về thành tích của cháu ít
ai sánh được, kể cả những tên chóp bu như thằng ba Dũng hay tên thằng
đầu hói Nguyễn Sinh Hùng chưa làm được cái gì lợi nước lợi dân như cháu;
và cả cái lũ gần 500 nghị gật của quốc hội bù nhìn, chỉ biết ăn hại
ngoại trừ những người có tâm huyết hiếm hoi như Nguyễn Minh Thuyết, Lê
Văn Cuông, Dương Trung Quốc…
Cháu đã đóng góp rất nhiều cho đất nước cho xã hội, nội khu công
nghiệp Tân Tạo cháu đã đem lại công ăn việc làm cho biết bao nhiêu dân
lao động các tỉnh như Long An, Tiền Giang, Tây Ninh và các tỉnh miền
Tây. Cháu xây dựng và đào tạo trường Đại học Tân Tạo một đại học chính
quy ngang tầm cỡ quốc tế, chứ không phải như mấy cái thứ đại học dõm của
chế độ chính quyền ma quỉ nầy, rồi cháu đã xây biết bao ngôi nhà tình
nghĩa, giúp bệnh nhân nghèo, cấp học bổng cho biết bao sanh viên… Thành
tích của cháu không thể nào kể cho hết. Bác kính phục cháu hết sức.
Khi hay tin cái quốc hội bù nhìn bỏ phiếu bất tín nhiệm cháu vì một
lý do không đâu, bác vô cùng sửng sốt, sửng sốt tột độ. Nếu bác mà có
được quyền phát biểu tại quốc hội, bác sẽ mắng thẳng vào cái đám nghị sĩ
bù nhìn: “tụi bây là phường vô loại, hình thù tụi bây là con người
nhưng lòng dạ tụi bây là loài thú.” Tụi bây chỉ cúi đầu nhận đồng tiền
nhơ nhớp của thằng trời đánh 3 Dũng để làm một việc hèn hạ truất phế Bà
Yến với lý do khai man lý lịch, thật khôi hài và trẻ con, tại sao một lũ
từ thủ tướng, bộ trưởng, giám đốc nầy kia, một lũ ủy viên bộ chính trị,
một lũ ủy viên trung ương 175 tên, một lũ thành ủy, tỉnh ủy chủ tịch từ
cấp thành, tỉnh, huyện, quận, xã, các ban ngành… họ khai man lý lịch,
mua bằng cấp giả, cả khối mà tụi bây không hài tội, đàng nầy một người
hết sức liêm chính học hành bằng cấp hẳn hoi có công với đất nước xã hội
không biết bao nhiêu mà kể, tụi bây lại ngu si vâng lời nghe theo cái
chơi trò bẩn thỉu của thằng 3 Dũng, việc làm hèn hạ còn hơn bọn lưu manh
côn đồ chợ trời đứng bến. Có lẽ đất nước nầy đến hồi suy tàn mạt vận
rồi nên bọn sâu bọ đầu thai làm người làm quan cỡi đầu cởi cổ nhân dân,
hành khổ nhân dân.
Nhân tiện đây tôi cũng xin nói thêm bản chất của Cộng sản.
Tôi năm nay tuổi đời còn 1 năm nữa là 90, đã sống qua nhiều thời
kỳ, từ trào Tây Pháp thuộc, Phong trào Thanh niên Tiền phong, tới ông
Diệm, ông Thiệu, rồi tới Cộng sản cai trị hơn 37 năm, trải qua bao nhiêu
thăng trầm của thế sự, tôi chưa thấy chế độ nào tàn bạo, tham ô vô nhân
bằng chế độ Cộng sản hiện nay. Nói thật hồi Pháp thuộc người dân chưa
bị đày đọa áp bức như chế độ ngày nay, thủ tục hành chánh các thời trước
chưa hành khổ dân như chế độ Cộng sản bây giờ, nội xin cái sổ đỏ gọi là
quyền sử dụng đất đai phải mất từ 1 đến 3 năm trời, nếu có tiền đút lót
thì nhanh hơn, bà con coi có đất nước nào hành khổ bằng cái bọn Cộng
sản trời đánh thánh đâm nầy chưa? Câu chuyện Cánh Đồng Nọc Nạn xảy ra ở
tỉnh Bạc liêu hồi thời Pháp thuộc, cuộc cướp đất đó chưa bằng 1/10 những
chuyện cướp đất xảy ra như ở Văn Giang, Tiên Lãng và nhiều nơi trên
toàn cõi đất nước Việt Nam.
Công an thì đánh dân chết, xảy ra hàng ngày nhiều nơi trên toàn cõi
đất nước, cảnh sát giao thông thì thôi tha hồ ăn hối lộ một cách trắng
trợn, Nhà báo Hoàng Khương đã phanh phui những tệ nạn ấy, nhà nước không
tôn vinh mà còn tìm cách trả thù gài bẫy Hoàng Khương rồi bắt nhốt kêu
án tù 4 năm, trong khi thằng trung tá công an đánh chết dân án tù cũng 4
năm. Có nhà cầm quyền nào khốn nạn lưu manh côn đồ như ở Việt nam chưa?
Ngày nay nạn tham nhũng tràn lan, một thằng chủ tịch xã, huyện,
tỉnh, thành, hay một thằng thành ủy, tỉnh ủy, huyện, quận ủy, cán bộ từ
trên tới dưới đều giàu xụ. Nhà các ông giám đốc, phó giám đốc công an và
các ngành ban khác trên toàn cõi Việt Nam, toàn là dinh thự, vila trong
khi đó dân tình khốn khổ sống với cảnh cơ cực chưa từng thấy. Làng mù ở
Vĩnh Châu, Bạc Liêu có hơn 1000 người mù lòa đời sống cuộc đời vô cùng
cơ cực mà không thấy thằng Nguyễn Tấn Dũng hay những thằng tỉnh, huyện
xã nào đoái hoài quan tâm đến. Khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn
thành thị xa hàng ngàn cây số. Nông thôn Việt Nam là nơi nuôi chứa họ
hồi họ còn ở chốn bưng biền, giấu đút che chở họ chắt chiu từng hạt cơm,
hạt gạo, từng rê thuốc lá, nuôi họ không biết bao nhiêu, khi họ ra
thành thị rồi họ có ma nào trở về quê đền ơn đáp nghĩa, có chăng lâu lâu
họ gởi chút quà về trao tặng mang tính chất hình thức phô trương. Quả
thật bọn Việt cộng là thứ ăn no quẹt mỏ, cái thứ vô ơn.
Cái tội ác tày trời của Việt cộng là khi họ vào thành thị rồi, họ
hô hào rúng ép dân đi kinh tế tăng gia sản xuất, để rồi họ chiếm nhà của
dân, đúng là phường côn đồ lưu manh ăn cướp ban ngày, cái chính nghĩa
của họ lộ ra là cái đảng ăn cướp chứ không phải ngôn từ cao đẹp gì cả.
Phải thành tâm mà nói rằng nếu Mỹ không bắt tay với Trung cộng bỏ
rơi miền Nam thì ngàn đời bọn Việt cộng không bao giờ chiếm được miền
Nam. Tôi có người anh bà con chú bác đó là Luật sư Nguyễn Hữu Thọ chủ
tịch MTGP MN, chính ảnh nói, hồi tháng 3 năm 1975 trung ương đảng ở Hà
Nội đánh giá phải cuối năm 1976 mới giải phóng miền Nam, thì đủ biết tài
cán của Cộng sản như thế nào. Chẳng qua họ vớ lấy cơ hội rồi huênh
hoang đánh cho Mỹ cút ngụy nhào. Bây giờ họ mà đánh được thằng Trung
quốc tôi mới tôn vinh họ là ông cố nội. Họ ngày đêm quỳ lụy sợ sệt quan
thầy Trung quốc còn hơn sợ ông cố nội của họ.
Tội của Cộng Sản Việt Nam không bút mực nào chép cho hết, tội bán
đất liền, biển đảo cho Trung quốc không biết bao nhiêu, ngày xưa còn nhỏ
học môn địa lý Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, nay ải Nam quan
bọn Cộng sản bán cho Trung quốc rồi. Năm 1958 Phạm văn Đồng ký công hàm
cho Trung quốc đảo Hoàng sa còn gì nữa.
Phải nói bọn Cộng sản Việt Nam có tội với Tổ Tiên Hồn Thiêng Sông
Núi không có bút mực nào ghi cho hết, Hồ Chí Minh là tên thủ đoạn, lừa
đảo, xảo quyệt, ngu si chưa từng có. Ai đời giặc Pháp xâm chiếm nước ta
ai cũng căm thù, Hồ Chí Minh lại đi cầu thằng Tàu mà thằng nầy có mối
thù truyền kiếp với dân tộc ta để giúp đánh thằng Tây. Ví như nhà kia bị
thằng ăn trộm đến, người nhà đi cầu thằng ăn cướp đến đuổi thằng ăn
trộm. Hậu quả ngày nay thằng Tàu hoành hành giày xéo nước ta, xâm chiếm
biển đảo nước ta mà bọn cầm quyền câm như hến, run rẩy trước quan thầy
Trung quốc, họ chỉ có tài ăn hiếp dân lành vô tội thôi. Thiệt là “cái
thứ khôn nhà dại chợ”, họ chỉ cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của quan thầy
Trung quốc, thật hèn hạ nhục nhã chưa từng thấy.
Hồ Chí Minh đâu có tài cán gì, ông ta mang cái chủ thuyết vô thần
ma quỉ vào Việt Nam, hắn copy theo kiểu Trung quốc 100%. Đó hệ thống
hành chánh rập y Trung quốc, từ tổ chức trung ương cho đế tận làng xã ấp
rập khuôn anh ba Tàu, rồi nào là tờ báo Nhân Dân, Tòa án Nhân dân, viện
Kiểm sát Nhân dân, hộ khẩu, chứng minh nhân dân… Hồ Chí Minh thấy Trung
quốc mở cuộc đấu tố địa chủ, hắn cũng bắt chước mở cuộc đấu tố địa chủ ở
miền Bắc kết quả giết một cách dã man hơn 200,000 ngàn dân vô tội, cái
tội ác tày trời chưa từng có trong lịch sử VN từ cổ chí kim, Cộng sản
rất ư tàn ác, không kể gì ân nghĩa, bà Nguyễn Thị Năm là người từng nuôi
chứa những cán bộ cao cấp như Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh…, từng đem
biết bao nhiêu vàng bạc tiền của để nuôi bọn chúng nhưng bọn chúng vẫn
không tha vẫn đem bà ấy ra xử bắn, bà ấy lại có con là sĩ quan trong
hàng ngũ của chúng. Thật là bọn tàn ác vô ơn.
Có thể nói từ ngày có đảng Cộng sản ra đời đến nay sát hại hàng
triệu người dân vô tội. Tôi đã thấy bản chất độc ác của chúng từ lúc tôi
còn ở cái tuổi 15, 17, vì tôi sinh ra vùng nông thôn nơi Việt Minh nổi
dậy rất sớm, mới đầu vì lòng yêu nước, lòng hận thù kẻ ngoại xâm của bọn
Phú Lang sa, tôi đang học College Mỹ Tho bỏ học để gia nhập phong trào
Thanh niên Tiền phong. Nhưng sau thời gian khi thấy được cái dã tâm lọc
lừa xảo quyệt, gian manh của Việt Minh tiền thân của bọn Cộng sản bây
giờ, tôi nhứt quyết ly khai.
Sau những năm tháng trong khu tôi biết rất tường tận những nhân vật
trong Trung Ương Cục Miền Nam. Từ Nguyễn Chí Thanh hay còn gọi là Sáu
Vi, hoặc Trường Sơn, Trần Lương hay còn có tên Trần Nam Trung, tên nầy
gốc ở Hà tỉnh là thủ lãnh du kích Ba Tơ Quảng Ngãi, dốt đặc cán mai,
Trần Văn Trà hay còn bí danh là Trần Quốc Vinh, bút hiệu Cữu Long. Lê
Trọng tấn hay là Ba Long, Nguyễn Thị Định, sau nầy có Luật sư Nguyễn Hữu
Thọ vì sự áp bức của chính quyền Diệm nên ly khai vào khu làm chủ tịch
MTGP MN. Văn phòng TW Cục Miền Nam hay còn gọi là Cục R đóng ở khu rừng
thuộc tỉnh tây Ninh. Họ được bảo vệ rất nghiêm ngặt, được phục vụ không
khác gì ông hoàng bà chúa, từ rượu Tây, thuốc con Mèo, ăn uống như vua
chúa, sơn hào hải vị không thiếu món nào, trong khi đó bộ đội thì mỗi
bữa ăn chỉ có một con mắm sặc với mớ rau rừng thật bất nhẫn. Tôi hết sức
bất mãn không thể sống chung với bọn tham ô, tàn bạo được.
Đảng luôn kêu gọi đảng viên phải sống có đạo đức cách mạng, nhưng
bọn đầu não lại dâm dật hơn ai hết. Tôi kể trường hợp tên cáo già Lê
Duẩn. Thời kỳ 9 năm chống Pháp Lê Duẩn được điều vào Nam lãnh đạo cuộc
kháng chiến ở miền Nam. Lúc bấy giờ ở Cần thơ có cô Thúy Nga là con của
một địa chủ giàu có nổi tiếng ở Cần Thơ, cô Nga là Chủ tịch Ban chấp
hành Phụ nữ Cứu quốc, có người yêu là một thanh niên khôi ngô tuấn tú
cũng trong hàng ngũ kháng chiến Việt Minh. Lê Duẩn cùng bầy tôi cố rúng
ép để cô Thúy Nga kết hôn với Lê Duẩn, họ đày người yêu của cô Thúy Nga
đi nơi nào biệt tăm biệt dạng luôn. Cuộc hôn nhân bị cưởng ép được tiến
hành. Sau nầy Bà Thúy Nga được Lê Duẩn dẫn tập kết ra ngoài Bắc thì vài
hôm sau có một mụ đầu chích khăn mỏ quạ, răng đen đến trước cửa nhà Bà
Thúy Nga chưởi “Đồ con đĩ chó. Tại sao mầy dám cướp giựt chồng bà” Bà
Thúy Nga vỡ lẽ toan tự tử, nhưng Lê Duẩn kịp thời cho sang Liên xô. Còn
Trần Văn Trà cũng đã có vợ, nhưng cố tình rúng ép cô Lê Thị Thoa là con
gái của Luật sư Lê Đình Chi là Giám Đốc Sở Tư Pháp Nam Bộ bị máy bay bắn
chết ở Đồng Tháp Mười. Cô Thoa đã có người yêu rồi là một chàng trai
cũng thuộc kháng chiến giải phóng quân, nhưng rồi họ đày chàng trai nầy
biệt tăm để chiếm đoạt cô Lê Thị Thoa, hiện nay Bà Thoa vẫn còn sống ở
Sài gòn, sau 1975 Bà về làm viện phó Viện Pasteur Sài gòn, còn Trần Văn
Trà thì bị thanh trừng thất sủng chết trong âm thầm lặng lẽ không ai
biết. Kế đến Lê Đức Thọ trước khi vào Nam đã có vợ ngoài Bắc, nhưng khi y
đi ngang qua nhà của cô Nguyễn Thị Chiếu là con gái út của một địa chủ ở
Rạch Bào sông Ông Đốc, thấy cô nầy xinh đẹp quá hắn liền dùng quyền lực
cưới cho bằng được cô gái út nầy mặc dù tuổi của y đáng cha chú của cô
Chiếu. Có thể nói những lãnh tụ Đảng Cộng Sản toàn là thứ dâm dật toàn
là thứ đầu trâu mặt ngựa.
Các bậc Ông Bà Tổ tiên xưa thường nhắc câu: “Hành nhất bất nghĩa, sát nhân bất cô, nhi đắc thiên hạ, giai bất vi giã”
(Mạnh Tử, Công Tôn Sữu) Có nghĩa: Làm điều bất nghĩa, vô cớ sát hại một
người để được (của cải) cả thiên hạ, các bậc chí nhân quân tử người ta
cũng chẳng làm. Nhưng đối với Cộng sản không từ bỏ thủ đoạn hèn mạt nào,
họ chủ trương “thà giết lầm còn hơn tha lầm” cho nên trong suốt thời kỳ
chiến tranh họ giết oan không biết bao nhiêu triệu người.
Có người ca ngợi công lao của Cộng sản ca ngợi tên đồ tể Hồ Chí
Minh. Thật lòng mà nói đó là lời xu nịnh, hoặc bào chữa cho việc làm của
cái đảng CSVN. Nếu xét công tội của Cộng Sản Việt Nam, công chỉ có 1 mà
tội thì nghìn trùng chất cao hơn núi. Tội của họ là bán đất đai, biển
đảo cho bọn Trung quốc. Nếu không có đảng Cộng Sản Việt Nam thì Đất Nước
đâu có lâm vào cái lầm than khốn khổ như ngày nay. Năm 1948 sau khi kết
thúc thế chiến thứ hai, sau khi Liên Hiệp Quốc được thành lập, các đế
quốc chiếm thuộc địa như Anh Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… đều trả
thuộc địa lại cho dân bản xứ, những quốc gia lân cận ta đâu có đảng Cộng
Sản ngày nay họ vẫn độc lập tư do tiến bộ hơn Việt nam rất nhiều.
Đãng Cộng Sản Việt Nam đã thí hàng triệu dân quân trong suốt 70 năm
để đổi lấy thành quả ngày nay một đất nước tồi tệ, nghèo đói lạc hậu,
độc tài cai trị để độc tài tham nhũng chưa thừng thấy, một giai cấp cai
trị tàn bạo, họ tham nhũng, ai mà phanh phui thì họ bắt tù đày, tra tấn
dã man, công an quân đội là công cụ tay sai đắc lực để họ cai trị, muốn
bắt ai, muốn đánh chết ai coi như vô sự, công an là công cụ bảo vệ chế
độ, họ cho tham nhũng từ trên tới dưới cũng là để bảo vệ chế độ, một đất
nước không có nhân quyền, coi mạng sống người dân như cỏ rác. Họ lập ra
một cái quốc hội bù nhìn, tòa án để xử theo sự chỉ đạo của đảng.
Họ thường huênh hoang xã hội chủ nghĩa ưu việt, ưu việt chổ nào?
Ngày xưa trong miền Nam đâu có tệ nạn “văn hóa phong bì” bây giờ chỗ nào
cũng phong bì, các ông tỉnh ủy ở miền Nam ra Hà nội để xin duyệt một
công trình hay dự án nào đều phải có phong bì mà phong bì phải hàng chục
ngàn đô la cho các bộ trưởng, thứ trưởng, giám đốc, ban ngành từ trên
xuống dưới. Tôi có đứa cháu nội ra Hà Nội để xin duyệt một dự án nhỏ,
đầu tiên vô cô thư ký phải phong bì 5 triệu VND, chuyển sang thằng trợ
lý 30 triệu và tới thằng chóp bu 100 triệu. Tôi cũng có đứa cháu nội làm
trợ lý cho một công ty, xin dự án lập nhà máy lọc dầu ở Trà Nóc – Cần
Thơ, anh giám đốc nầy ra Hà nội không biết bao nhiêu lần, mỗi lần phải
để phong bì từ trên tới dưới, trên thì từ 10 ngàn đến 20 ngàn USD dưới
ít hơn một chút, thế mà 5 năm nay vẫn chưa duyệt xong. Cơ quan chính
quyền từ thành phố đến tỉnh, quận, huyện, phường xã cũng đều phải có văn
hóa phong bì. Vô bệnh viện thì cũng bao thơ bác sĩ mới chịu chữa trị,
trường học cũng vậy, ngày Nhà Giáo là dịp để phụ huynh đút lót thầy cô
giáo. Còn dân nghèo thì sao? Đó cái ưu việt của xã hội chủ nghĩa là như
vậy.
Ngày nay thành hình một tầng lớp gọi là Tư Bản Đỏ, đó là các hàng
bộ trưởng, thứ trưởng, giám đốc, tỉnh ủy, thành ủy, các cấp, đục khoét
nhân dân, con cái của họ được gởi sang các nước Mỹ, Anh, Pháp, Canada,
Úc… họ mua nhà từ trăm ngàn đến triệu USD cho con cái họ ở, như mua một
món đồ cho trẻ con.
Chế độ Cộng sản không trọng dụng người tài, họ trọng dụng người
theo họ hàng, bè phái, cảm tính cá nhân dù người đó dốt nát thế nào cũng
mặc. Ai đời thằng bộ trưởng Đinh La Thăng mới bổ nhiệm thằng Nguyễn
Nhật là phó chủ tịch tỉnh vào chức vụ giám đốc Vinaline, mà thằng nầy
nghiệp vụ không có gì hết và sử dụng bằng cấp giả. Đúng là Đất Nước nầy
đến hồi suy tàn mạt vận rồi nên cái bọn dốt nát đầu trâu mặt ngựa ra làm
thủ tướng, bộ trưởng…, bởi vậy Vinashin, Vinaline không thua lỗ tàn mạt
sao được.
Ngày nay nạn mua bằng cấp tràn lan, chính quyền từ trung ương đến
địa phương thằng nào cũng có bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ mà toàn là
bằng dõm, bằng ma, bởi vậy đất nước không lụn bại sao được vì nắm vận
mệnh quốc gia toàn là thứ ngu dốt.
Nguyễn Tấn Dũng cũng vậy, khi lên làm thủ tướng, hắn không trọng
dụng người tài có thực học mà lôi kéo bè cánh bà con dòng họ vào những
chức vụ quan trọng. Ai mà có dính hơi hám của 3 Dũng thôi cũng được béo
phì ra. Ở Vĩnh Long có một tên gọi là em nuôi của 3 Dũng, thằng nầy độc
quyền đấu thầu các công trình như làm đường, bệnh viện… chỉ vài tháng là
đường sá lổ hang, ổ gà ổ như vũng trâu nằm, nhà của y là một giang sơn
riêng như một cung đình để đón tiếp những đám chóp bu như 3 Dũng, Trương
Vĩnh Trọng, Nguyễn Sinh Hùng, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Thiện Nhân hay
tổng Mạnh khi di hành các tỉnh địa phương.
Khi hay tin đại hội trung ương 6 mở phiên họp 15 ngày, để kiểm điểm
hài tội tên Nguyễn Tấn Dũng, lòng dân ai cũng nô nức, nhưng kết quả 14
tên đầu não bộ chính trị và 175 thằng ủy viên trung ương đều là những
tên vô loại đã ngậm đô la vàng bạc của thằng khốn nạn 3 Dũng rồi, nên
chẳng đi đến đâu. Qua cơ hội nầy ta thấy rõ thằng Trung quốc can thiệp
trắng trợn vào nội bộ Việt Nam, nó muốn cho ai làm thủ tướng hay bộ
trưởng là cái đảng cầm quyền Việt Nam phải cúi đầu răm rắp tuân theo,
Nguyễn tấn Dũng biết thế nào hắn cũng bị loại lần nầy nên vội vã chạy
sang chầu Tập cận Bình để xin che chở, thật hèn mạt. Trong thâm tâm
thằng Trung quốc muốn phá nát VN, ý đồ bọn chúng phải để thằng 3 Dũng
ngồi đó để tiếp tục phá nát đất nước ta ấy vậy mà Nguyễn phú Trọng và
một lũ 13 tên UV BCT và 175 thằng ủy viên TW đui mù không thấy hoặc thấy
vẫn làm ngơ vì miếng cơm manh áo.
Ai đời một thằng thủ tướng hèn mạt làm tiêu tan 28 tỉ quỷ dự trữ
quốc gia, các công ty như Vinashin, Vinaline, Tập đoàn Dầu khi… tất cả
cái gì dưới tay 3 Dũng điều hành cũng đều thua lỗ, đã vậy còn tham ô tài
sản quốc gia đưa con cái vào những chức vụ quan trọng, tay chân bè cánh
lũng đoạn quốc gia, tội của 3 Dũng lẽ ra đem phân thây muôn mảnh, vậy
mà y vẫn ngồi yên như bàn thạch thì người dân làm sao tin tưởng chế độ
nầy nữa. Thằng Nguyễn Tấn Dũng là loại mặt chai mày đá, lẽ ra cả nước
phỉ nhổ vào mặt hắn thì hắn nên nhân cơ hội nầy xin rút lui để gọi là hạ
cánh an toàn, nhưng không, hắn còn trơ cái mặt lỳ ra không biết hổ thẹn
là gì. Âu đây cũng là cơ trời sắp đặt ngày tàn của hắn không chết êm
đềm đâu, hắn phải chết như tên Gaddafi, người ta lôi thây hắn khắp nẻo
đường, như vậy mới đáng cái tội của hắn.
Thật là một bất hạnh cho dân tộc Việt Nam. Thiệt sự mà nói khi TW6
khai mạc tôi đã biết cũng chẳng vào đâu vì bản chất Cộng sản tôi không
còn lạ gì. Tôi cũng thắc mắc tại sao những cán bộ cao cấp về hưu, những
người đã dâng hết cuộc đời cống hiến cho cuộc chiến nầy, chẳng lẽ họ
cũng tai ngơ mặt điếc, hay là họ an phận thủ thường, sợ đồng lương hưu
sẽ bị cắt bởi uy quyền của cái đám cầm quyền. Nói thật trước đây tôi còn
khá mến TBT Nguyễn Phú Trọng, nhưng qua kết thúc ĐH TW 6 tôi rất khinh
ông ấy, con người ông ấy thật đúng là lừng khừng không dám cả quyết,
không còn nhân cách gì nữa thành ra cá mè một lứa, bởi vậy xứng cái tên
tổng lú không oan chút nào.
Thiệt lòng mà nói khi Nguyễn tấn Dũng lên làm thủ tướng tôi có ý
mừng thầm vì người miền nam, mặt mày có vẻ sáng sủa, tôi hết sức kỳ
vọng, nhưng quá nhiệm kỳ thủ tướng hắn làm hại đất nước quá nhiều đã vậy
còn gây biết bao nhiêu tội ác. Từ trước tới giờ chưa có một ông thủ
tướng nào hèn mạt như thằng 3 Dũng.
*
Sau 30-4-1975, tôi cho đây là một đại họa cho đất nước. Vì sao tôi
nói như vậy, vì bọn Việt cộng đa phần là thứ vô học, toàn thứ ngu dốt
không được giáo dục đạo đức, họ ra lãnh đạo đất nước thì làm sao đất
nước nầy giàu mạnh được. Rõ ràng như thế, sau khi kết thúc chiến tranh,
thành thị còn nguyên vẹn không bị đổ nát, tài sản chế độ trước để lại
không biết bao nhiêu, nhưng do cái ngu dốt từ trong bưng biền, do lòng
tham lam vô độ, nên đất nước trải qua 37 năm ngày càng tàn mạt, lụn bại.
Họ như con chó đói lâu ngày khi được ăn, ăn bất kể, ăn quên thôi. Vì
thế nạn tham nhũng tràn lan. Dân tình điêu đứng, đói khổ, mất đất mất
nhà đi lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm đẻ bán từng tấm vé số, lượm ve
chai… để sống lây lất qua ngày.
Tội ác của bọn chúng sẽ có ngày phải trả, phàm gieo nhân lành sẽ
gặt quả lành, gieo nhân ác sẽ gặt quả ác. Luật Nhân Quả không dung thứ
bất cứ một ai.
Cháu Hoàng Yến mến,
Bác có mấy lời tâm huyết với cháu. Cháu đừng buồn sau cái vụ bãi
nhiệm chức danh nghị sĩ quốc hội. Âu đây cũng là Thiên ý, vì cháu quá
tốt nên không thể ở chung với một lũ tham ô, hèn hạ, không biết sỉ nhục
là gì. Bác tin rằng Trời Phật sẽ gia hộ cho cháu. Họ hại cháu, cháu
không hề hấn gì, vì đạo đức là cái áo giáp vững vàng nhất che thân cho
cháu, còn những thứ côn đồ lưu manh hãm hại cháu rồi đây cháu sẽ thấy họ
sẽ trả giá một cách đau thương, họ sẽ chịu chung số phận y như anh em
tổng thống Diệm, Nhu bị bắn chết nằm sóng soải trong xe thiết giáp, như
Gaddaffi bị lôi từ trong ống cống ra kéo lê trên đường phố. Lịch sử cổ
kim đã cho thấy điều đó mà bọn cầm quyền sắt máu chưa hồi tỉnh.
Chúc cháu vạn sự an lành.
Về Một Bài Thơ Của Cụ Phan Bội Châu Tặng Ông Ngô Đình Diệm
Vietnamexodus
Trần Đông PhongGần đây, một vài vị khán giả của đài truyền hình STBN có liên lạc với người viết để hỏi thăm thêm về một bài thơ của cụ Phan Bội Châu tặng cho ông Ngô Đình Diệm vào năm 1933 mà họ đã nghe được trong một buổi nói chuyện giữa người viết và ký giả Tường Thắng, người phụ trách Chương Trình Lịch Sử Cận Đại trên đài truyền hình STBN, hồi mấy tháng về trước.
Người viết xin mượn bài viết này để trả lời cho câu hỏi đó.
Trong số những nhà cách mạng chống lại thực dân Pháp trong lịch sử Việt Nam thời đầu thế kỷ thứ 20, có hai người cùng họ Phan được toàn dân xem như là hai nhà cách mạng vĩ đại nhất, đó là cụ Phan Sào Nam tức là Phan Bội Châu và cụ Phan Tây Hồ tức là Phan Chu Trinh. Cụ Phan Chu Trinh từ trần tại Sài Gòn vào năm 1926 và Cụ Phan Bội Châu từ trần vào năm 1940, sau hơn 15 năm bị quản thúc tại Bến Ngự, Huế.
Cụ Phan Bội Châu sinh năm 1867, lớn hơn ông Ngô Đình Diệm 33 tuổi. Không rõ cụ có liên hệ gì với ông Ngô Đình Khả, thân phụ của ông Diệm hay không, tuy nhiên ông Ngô Đình Diệm thì còn quá trẻ cho nên cụ Phan Bội Châu không quen biết gì với ông vì cụ đã rời Huế lên đường đi làm cách mạng từ năm 1905, lúc đó ông Ngô Đình Diệm chỉ mới lên 4 tuổi.(Xem hình dưới đây). Sau khi bị bắt tại Thượng Hải vào năm 1925, người Pháp đưa cụ Phan Bội Châu về Hà Nội để đưa ra tòa. Cụ bị tòa án Pháp lên án tử hình vì tội chống lại chính quyền thuộc địa của người Pháp, tuy nhiên vì dư luận quần chúng trên toàn quốc cực lực phản đối bản án này cho nên Toàn Quyền Varenne đã phải giảm án tử hình xuống chung thân khôå sai và sau cùng thì lại giảm thành “quản thúc tại gia” và cụ bị đưa về an trí tại Huế vào năm 1926.
Gia đình ông Ngô Đình Khả (từ trái): Ngô Thị Giao (nhạc mẫu của ông Trần Trung Dung,) bà Ngô Đình Khả bồng Ngô Thị Hiệp (thân mẫu Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,) Thượng Thư Ngô Đình Khả, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Khôi. (các ông Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện và Ngô Đình Cẩn chưa ra đời.)
Hình chụp vào khoảng năm 1905.
Nguồn: Vĩnh Phúc.
Hoàng Đế Bảo Đại và Thượng Thư Ngô Đình Diệm
Trong khoảng thời gian từ khi cụ Phan Bội Châu về sốâng tại Huế, ông Ngô Đình Diệm đang lần lượt giữ các chức vụ như Tri phủ Hải Lăng tại tỉnh Quảng Trị, Tri Phủ Hòa Đa tỉnh Phan Thiết, Huấn Đạo Đà Lạt, Tuần Vũ Phan Thiết v.v., do đó cho đến năm 1933, sau khi Hoàng Đế Bảo Đại từ Pháp trở về cầm quyền, nhà vua mới mời ông Diệm về giữ chức Thượng Thư Bộ Lại tại triều đình và đến lúc đó ông mới về sống ngay tại kinh đô Huế.
Trong cuốn hồi ký “Con Rồng Việt Nam,” Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng ông từ Pháp trở về nước để cầm quyền thì được Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài tiết lộ cho biết rằng Hoàng Đế Việt Nam không có quyền hành gì cả:
Bảo Đại: Nhưng còn quyền hạn của Trẫm, công việc của Trẫm? Các quan Thượng làm việc ra sao?
Nguyễn Hữu Bài: Kính tâu Hoàng Thượng, trước kia thì mỗi bộ tâu trình lên Hoàng Đế và đệ lên dự án để xin quyết định. Nhưng sau đức Tiên Đế Khải Định băng hà năm 1926 thì đã có một thỏa ước với nước Pháp, theo đó Nội Các sẽ họp dưới sự chủ tọa của viên Khâm Sứ, mình phải báo cáo và xin quyết định. Tòa Khâm Sứ ra chỉ thị, nhất là về ngân sách. Chính phủ Pháp thu thuế và trao lại cho Nam Triều đủ để trả lương cho nhân viên để có thể tồn tại. .. Thực tế, thỏa ước này đã trao hết quyền hạn cho viên khâm sứ, từ chính trị đến tư pháp. Ở Bắc Kỳ, hiện nay viên Thống Sứ ở Hà Nội đang nắm quyền Phó Vương rồi.
Bảo Đại: Vậy thì Trẫm còn quyền gì?
Nguyễn Hữu Bài: Hoàng Thượng còn giữ được quyền về . .. nghi lễ, quyền ân xá tội nhân, quyền phong sắc cho các thần linh, quyền cấp phát tưởng lục, phẩm hàm cho người sống hay người chết v.v.”
Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng sau đó ông đã vận động và tranh đấu để nắm lại quyền hành và ngày 10 tháng 12 năm 1932, ông đã công bố một đạo dụ loan báo ý định cầm quyền dưới hình thức quân chủ lập hiến. Ông cho biết rằng đạo dụ này được dân chúng, nhất là giới trẻ nhiệt liệt hoan nghênh và sang đến ngày 2 tháng 5 năm 1933 thì ông lại ban hành một đạo dụ mới đặt cơ cấu cho sự cải cách và ông trực tiếp nắm quyền lãnh đạo. Bảo Đại cho biết rằng ông đã mời một người trẻ tuổi là ông Ngô Đình Diệm về giữ chức Thượng Thư Bộ Lại:
“Tôi cho vời một viên quan tỉnh trẻ tuổi nhứt là ông Ngô Đình Diệm, lúc ấy làm Tuần Vũ Phan Thiết, để đảm trách Bộ Lại. Vốn dòng quan lại, anh ruột ông ta làm tổng đốc tỉnh Faifo. Diệm năm ấy mới 31 tuổi, nổi tiếng là thông minh, liêm khiết. Đây là một người quốc gia bảo thủ. Ngoài chức vụ thượng thư, Ngô đình Diệm còn là Tổng Thư ký cho Hội Đồng Hỗn Hợp về Canh Tân đã được ban bố năm trước, bao gồm các thượng thư Việt Nam và hàng công chức cao cấp Pháp. Ngô Đình Diệm được Nguyễn Hữu Bài trước khi về hưu tiến cử.”
Tuy nhiên chỉ mấy tháng sau ngày nhậm chức Thượng Thư Bộ Lại, ông Ngô Đình Diệm đã xin từ chức vì ông thấy rõ dã tâm của người Pháp là họ không bao giờ muốn trao trả quyền hành lại cho triều đình Việt Nam. Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng sau 4 tháng, vào đầu tháng 9 năm 1933, Ngô Đình Diệm liền xin gặp ông và nói:
“Tâu Hoàng Thượng, hạ thần đến để xin Hoàng Thượng cho từ chức và cũng xin Hoàng Thượng cho giải nhiệm luôn tất cả những chức vụ mà Hoàng Thượng đã trao phó từ trước.
Bảo Đại: Quan Thượng, viên thư ký Nguyễn Đệ đã tâu trình Trẫm tất cả nỗi khó khăn của ông, nhưng Trẫm nghĩ rằng ông nên tiếp tục ở lại.
Ngô Đình Diệm: Tâu Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng tha tội cho kẻ hạ thần nhưng quả hạ thần không thể nào ở lại được. Ở lại chức vụ này, quả nhiên là một trò hề đau khổ cho kẻ hạ thần mà hạ thần không thể nào kham nổi. Người Pháp đã nắm lấy hết quyền hành, họ đã cai trị trực tiếp, luôn luôn nhân danh hòa ước bảo hộ nhưng họ không lúc nào không vi phạm từng ngày, từng giờ.
Bảo Đại: Quan Thượng, Trẫm hiểu tinh thầm trách nhiệm của Quan Thượng. Sự liêm khiết ấy đã tôn vinh ông lên rất nhiều, nhưng cần phải chờ thời. Đất nước ta chưa sẵn sàng. Sau nữa, những năm sắp tới đây còn dành cho chúng ta nhiều biến chuyển. .. Chiến tranh khó có thể tránh được ở Âu Châu, và như thế, sẽ có nhiều hậu quả đối với Á Châu mà Nhật Bản có thể là vai trò chủ chốt. Vì những lý do đó, Trẫm nhắc lời cho Quan Thượng sự yêu cầu của Trẫm lần nữa.
Ngô Đình Diệm: Kính tâu Hoàng Thượng, thật quả là điều mà hạ thần không thể kham nổi. Kẻ hạ thần không được quyền ở lại. Kính xin Hoàng Thượng cho phép kẻ hạ thần được rút lui”.
Ông ta khăng khăng một mực xin từ chức.
Bảo Đại: Được, Trẫm chấp thuận cho Quan Thượng từ chức. Quan Thượng đã muốn vậy thì Trẫm cũng chẳng thể nào làm gì được hơn. Mong rằng sự ra đi của Quan Thượng sẽ mở mắt cho người Pháp để cho họ có một tầm nhãn quan rộng lớn hơn. Dù sao nữa, mong Quan Thượng hãy sẵn sàng, có thể ngày nào đó Trẫm lại cần đến quan Thượng và Trẫm sẽ cho vời.
Ngô Đình Diệm: Kính tâu Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng hãy tin tưởng lòng trung thành tuyệt đối của kẻ hạ thần.”
Cụ Phan Bội Châu và Ông Ngô Đình Diệm
Cụ Sào Nam Phan Bội Châu
Việc ông Ngô Đình Diệm treo ấn từ quan vào tháng 9 năm 1933 đã gây tiếng vang trên khắp nước, không những tại Trung Kỳ mà ngay cả tại Bắc Kỳ và Nam Kỳ dân chúng ai ai cũng đều có lòng cảm phục. Và một trong những người đó là nhà cách mạng Phan Bội Châu đang bị người Pháp quản thúc tại Huế, lúc bấy giờ được dân chúng ở Huế gọi một cách đầy cảm tình là “Ông Già Bến Ngự.”
Khoảng ba tháng sau ngày ông Ngô Đình Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại, vào ngày 27 tháng 12 năm 1933, nhật báo Tiếng Dân ở Huế do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ nhiệm có đăng tãi “Mười Bài Vô Đề” do cụ Phan Bội Châu cảm tác, trong đó có bài thứ 5 đặc biệt để tặng cho ông Ngô Đình Diệm:
Mười Bài Vô Đề
Cụ Sào Nam năm nay thường đau luôn, không được mạnh như mọi năm. Nhưng xu xác kém nhiều mà tinh thần vẫn khảng khái. Cụ mới làm 10 bài Vô Đề, bản báo lục đăng như dưới đây. T. D.
V
Ai biết trời Nam hãy có người,
Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng,
…(kiểm duyệt bỏ).. .
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói,
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui.
Ví chăng kịp lúc làm vai vế,
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.
Sào Nam Phan Bội Châu
(Tiếng Dân 27-12-1933)
Khi cho đăng bài thơ này vào năm 1933, kiểm duyệt của người Pháp đã cắt bỏ câu thơ thứ tư cho nên trong bài chỉ còn có 7 câu mà thôi.
Bài thơ này tuy được lồng vào trong 10 bài vô đề nhưng hồi đó thì ở Huế ai cũng biết rằng cụ Phan Bội Chân đã làm bài thơ này để tặng cho ông Ngô Đình Diệm. Khoảng hai năm sau, chính cụ Phan Bội Châu đã xác nhận trong một bài phỏng vấn trên báo Ánh Sáng là Cụ đã sáng tác bài thơ này. Hơn nửa thế kỷ sau, trong bộ “Phan Bội Châu Toàn Tập” gồm 10 cuốn do ông Chương Thâu, giáo sư Sửû Học của Hà Nội sưu tầm và biên soạn và nhà Xuất Bản Thuận Hóa ở Huế xuất bản vào năm 1990, trong phần chú thích, G.S. Chương Thâu có ghi rằng: “Bài này tác giả tặng NĐD.” Như vậy thì chính nhà sử học Chương Thâu của Cộng sản cũng phải thừa nhận là bài này “tác giả tặng NĐD,” tuy nhiên vì phải theo đúng quy luật và chỉ thị của chính quyền Cộng sản hiện nay, ông Chương Thâu và nhà xuất bản Thuâïn Hóa, cả ông giáo sư sử học cũng như là những người chủ trương nhà xuất bản này đều là đảng viên Cộng sản, do đó họ không được phép để nguyên tên tuổi của ông Ngô Đình Diệm mà chỉ để tên tắt là N.Đ.D. mà thôi.
Cụ Phan Bội Châu Không Hề Quen Biết Ông Diệm
Có nhiều người không có cảm tình với ông Ngô Đình Diệm thường đưa ra lập luận nói rằng sở dĩ Cụ Phan Bội Châu đã làm bài thơ nói trên để tặng cho ông Diệm là vì ông Diệm có một mối giao tình với Cụ. Lập luận này đã dựa vào những lời đồn đại nói rằng sau khi từ chức ông Ngô Đình Diệm vẫn thường lui tới thăm viếng Cụ Phan Bội Châu vì thế mà ông cựu thượng thư này đã chiếm được cảm tình của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Mớùi đây, trong một bài viết về Cụ Phan Bội Châu, nhà văn Huỳnh Hữu Ủy cũng cho biết như vậy: “Trong những người lui tới nhà cụ Phan, có một nhân vật đặc biệt là ông Ngô Đình Diệm, vừa từ chức Thượng Thư Bộ Lại, một nhân vật có tiếng thông minh và liêm khiết trong chính trường thời bấy giờ. Chính Cụ Phan Bội Châu cũng rất kính nể ông Diệm, cảm phục khí tiết của ông quan trẻ tuổi, nên có làm một bài thơ để tặng cho ông khi vị thượng thư đầu triều này từ bỏ quyền cao chức trọng để phản đối chính quyền Pháp và Nam triều tay sai.”
Sự đồn đại như vậy nghe ra thì cũng rất là hữu lý vì nhà của ông Ngô Đình Diệm rất gần nhà của Cụ Phan Bội Châu, khoảng cách chưa đầy một cây số (nửa mile) mà thôi. Nếu ai ở Huế thì cũng đều biết rằng căn nhà gia đình của ông Ngô Đình Diệm do Thượng Thư Ngô Đình Khả tạo dựng từ thế kỷ thứ 19 tọa lạc tại Phú Cam và Cụ Phan Bội Châu thì đã sống cuộc đời an trí cho đến khi tạ thế tại Bến Ngự. Mảnh vườn và gian nhà của cụ là do sự đóng góp của đồng bào toàn quốc qua lời kêu gọi của cụ Huỳnh Thúc Kháng, chủ nhiệm báo Tiếng Dân tại Huế và Luật sư Phan Văn Trường: “Tháng Giêng năm Đinh Mão (1927,) tôi nhờ có cụ Phan văn Trường quyên giúp được 2,500 đồng (một số tiền rất lớn hồi đó) mới mua được miếng đất làm cái lều ở Bến Ngự.” Khoảng cách về đường bộ từ Phú Cam về Bến Ngự, nếu đi dọc theo bờ sông Bến Ngự thì chỉ mất khoảng chừng mươi mười lăm phút, còn nếu đi dọc theo đường rầy xe lửa thì chỉ chừng chưa đến mười phút mà thôi.
Ông Ngô Đình Diệm có đến thăm Cụ Phan Bội Châu trong thời gian Cụ còn sinh tiền hay không, điều đó ít ai được biết vì ông Diệm không hề nói đến hoặc những người thân cận của ông cũng không có đề cập đến chuyện này dù rằng sự quen biết cũng như là việc tới lui thăm viếng hay đàm đạo với nhà đại ái quốc Phan Bội Châu có thể được xem như là một vinh dự lớn lao đối với tất cả mọi người Việt Nam hồi thế kỷ thứ 20.
Về phần Cụ Phan Bội Châu, Cụ có quen biết với cựu Thượng Thư Ngô Đình Diệm hay không thì chuyện đó dĩ nhiên là Cụ phải biết rất rõ.
Gần 2 năm sau ngày ông Ngô Đình Diệm từ chức, tại Huế có tin đồn nói rằng ông Diệm có thể sẽ trở lại phục vụ trong triều đình của Vua Bảo Đại và trong dịp này, Cụ Phan Bội Châu đã dành cho ông Lê Thanh Cảnh, phóng viên báo Ánh Sáng ở Huế một cuộc phỏng vấn dài hơn một tiếng đồng hồ. Bài phỏng vấn đó có đoạn như sau:
Ý Kiến Cụ Phan Bội Châu với Ông Ngô Đình Diệm
“Bây giờ tôi xin hỏi Cụ về tình hình trong nước ta hiện nay và ý kiến của Cụ về sự phục chức của ông Ngô Đình Diệm.
“Tôi mà thầy còn hỏi đến tình trạng trong nước? Cụ mỉm cười và nói với tôi như thế sau khi kéo một hơi thuốc lào dài. Cụ lại tiếp:
“Tôi có đi được nhiều đâu mà biết rõ, vả ông Ngô Đình Diệm xưa nay tôi cũng không được biết mặt hay hôäi đàm một lần nào cả, nhưng lúc trước khi tôi nghe ông ấy thôi chức thượng thư, bỏ bốn năm trăm bạc lương một tháng, không tiếc gì đến lợi danh nữa thì tôi cũng có lòng khen. Hồi ấy tôi có làm một bài thơ nói về sự từ chức của ông Thượng họ Ngô:
“Ai ngỡ trần gian hãy có người,
Thoạt nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng giá rẻ vàng muôn lượng,
Ngôi quý xem dường dép nửa đôi.
Phơi tỏ với trời son một tấm,
Lom loem thây chúng bạc đôi ngươi.
.. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. “
Còn hai câu sau thì thôi, cũng đừng biên làm chi nữa. Đọc bài thơ ấy thì rõ ý tôi đối với sự từø chức của ông Ngô Đình Diệm thế nào, mà tôi tưởng lúc tù chức ông không thất ý, thì đối với sự phục chức ngày nay ông cũng không lấy làm đắc ý.”
“Vâng, Cụ dạy thế rất phải, nhưng ngộ như ông Ngô Đình Diệm tự nhiên trở lại ghế thượng thư thì Cụ bảo thế nào?
“Chẳng có lẽ, nhưng nếu thật như thế thì cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vất đi.”
Thiết Mai Tôn Thất Cảnh
(Báo Ánh Sáng số 11 ngày 11 tháng 4 năm 1935)
Qua bài phỏng vấn trên, Cụ Phan Bội Châu xác nhận là chính cụ đã làm bài thơ này để tặng cho ông Ngô Đình Diệm và Cụ chưa từng gặp mặt cũng như hội đàm lần nào với ông Ngô Đình Diệm. Như vậy thì bài thơ này cụ sáng tác vì lòng ngưỡng mộ đối với việc ông Ngô Đình Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại để chống lại chính sách của người Pháp chứ không phải vì tình quen biết nào cả.
Về hai câu cuối cùng trong bài thơ này, theo nhà văn Huỳnh Hữu Ủy thì cũng có người đã chất vấn Cụ về việc đã hạ mình đối với ông Ngô Đình Diệm:
“Gần đây, ông Vương Đình Quang, nguyên là thư ký của Cụ Phan Bội Châu, trong một bài viết trên tạp chí Tiếng Sông Hương khoảng năm 1988 ở Huế, cũng có nhắc lại. Vương Đình Quang lúc bấy giờ đã thưa với Cụ Phan là tại sao Cụ lại hạ mình như vậy đối với Ngô Đình Diệm là một người lớp sau, trong khi Cụ là bậc trên, ở hàng cha, hàng anh. Nhưng Cụ Phan nói thẳng rằng Cụ là người hoạt động cách mạng, chứ nếu Cụ ở trong giới quan trường thì Cụ cũng không chắc được như ông Diệm.”
Trong bài phỏng vấn trên báo Ánh sáng năm 1935, có lẽ vì có tin đồn rằng ông Ngô Đình Diệm sẽ trở lại làm quan cho triều đình Huế cho nên Cụ Phan đã thất vọng đã trót làm hai câu đó, do đó mà Cụ nói với ông Tôn Thất Cảnh “thôi, đừng biên làm chi nữa” và nếu mà ông Diệm trở lại làm quan thì “cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vứt đi.”
Như vậy thì bài thơ này được đăng lầnthứ nhất trên báo Tiếng Dân chỉ có 7 câu và lần thứ nhì trên báo Ánh Sáng thì lại chỉ còn có 6 câu. Phải đợi cho đến năm 1957, tạp chí Văn Đàn của ông Phạm Đình Tân tại Sài Gòn mới đăng lại bài thơ này với đầy đủ nguyên văn 8 câu thơ như sau:
Ai biết trời Nam hãy có người,
Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng,
Ngôi quý xem dường dép nửa đôi.
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói,
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui.
Ví chăng kịp lúc làm vai vế,
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.
Ngô Đình Diệm Thay Thế Cụ Phan Bội Châu Làm Lãnh Tụ Phong Trào Cường Để
Như vậy thì cho đến năm 1935, năm năm trước ngày tạ thế, Cụ Phan Bội Châu chưa hề gặp gỡ và cũng chưa hề chuyện trò lần nào với ông Ngô Đình Diệm, cái cảm tình của Cụ dành cho ông Diệm trong bài thơ này cũng không bị “vứt đi” vì ông Diệm không hề trở lại làm quan cho triều đình Bảo Đại. Không những cảm tình với ông Ngô Đình Diệm không hề bị mất đi mà có lẽ càng tăng thêm là đằng khác vì sau khi Cụ từ trần thì ông Ngô Đình Diệm lại trở thành người lãnh đạo Phong trào Cường Để do chính Cụ Phan Bội Châu đưa sang Trung Hoa và Nhật Bản vào năm 1906. Trong phiên tòa của Hội Đồng Đề Hình Pháp xử tội Cụ tại Hà Nội ngày 23 tháng 11 năm 1925, Cụ Phan đã khẳng định Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là lãnh tụ của Cụ:
“Ông Cường Để là người chủ mà tôi chỉ là người giúp việc. .. Họ đổ cho tôi là người chủ sự, chẳng qua là họ nghe tôi ra ngoài viết báo làm sách, ai ai cũng biết, vã nếu những người ấy có quả thật là người trong đảng của tôi đi nữa thì đầu đảng của tôi là ông Cường Để, chủ sự tất tự ông Cường Để chớ sao lại tự tôi?”
Cụ Phan Bội Châu tạ thế vào cuối năm 1940 và chỉ mấy năm sau đó thì ông Ngô Đình Diệm được tôn lên làm lãnh tụ Phong trào Cường Để. Chính nhân vật đứng hàng thứ nhì trong phong trào này là Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cho biết như sau:
“Khoảng cuối năm 1944, tôi được người Nhật đưa vào Sài Gòn. ..Ở đây, tôi gặp ông Ngô Đình Diệm. Lập trường của họ Ngô cũng là phò tá Kỳ Ngoại Hầu Cường Để trên đường phục hưng đất nước.. . Ngày hôm sau có cuộc gặp gỡ của chúng tôi với Ngô Đình Diệm đang trú ẩn tại một bệnh viện cũng bị trưng dụng nhường cho quân đội Nhật mà ngày nay là Bệnh viện Hôàng Bàng. Sau cuộc gặp gỡ, họ Ngô được tôn làm vị lãnh tụ chung, môã y sĩ (tôi) là phó lãnh tụ. (Ba người còn lại là Bác sĩ Lê Toàn, Vũ Đình Dy và Kỹ sư Vũ Văn An.) Về công việc thì Tổng Tư Lệnh Nhật ngỏ ý muốn giữ hai lãnh tụ ở Sài Gòn để tiện đàm luận và hoạt động về chính trị, còn người thứ ba (ông Vũ Văn An) vốn là đồng chí trong đoàn thể của họ Ngô sẽ sang Tokyo đại diện Ngô Lãnh tụ bên cạnh Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, còn hai anh em (Bác sĩ Lê Toàn và Vũ Đình Di) đại diện cho Việt Nam Ái Quốc Đoàn.”
*
* *
Tóm lại, Cụ Phan Bội Châu không hề quen biêát gì với ông Ngô Đình Diệm khi cụ sáng tác bài thơ Vô Đề thứ 5 đăng trên báo Tiếng Dân vào năm 1933 đêå tặng cho ông Diệm. Cụ xác nhận là Cụ làm bài thơ này vì “tôi cũng có lòng khen” tức là khen ngợi ông Ngô Đình Diệm đã “không tiếc gì đến danh lợi nữa”. Vì vậy cho nên Cụ đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ ông quan trẻ chỉ đáng hàng con cháu mình mà tình nguyện xin làm người đánh xe ngựa cho ông ta. Đến hai năm sau, khi nghe tin đồn ông Ngô Đình Diệm sẽ trở lại làm quan tức là phục vụ cho quyền lợi của thực dân Pháp, Cụ đã giận dữ và không muốn nhắc lại hai câu thơ cuối cùng trong bài thơ đó và lại còn nói thêm rằng nếu quả thật ông Ngô Đình Diệm muốn trơ ûlại làm quan thì “cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vứt đi.”
Có lẽ Cụ Phan Bội Châu đã không “vứt đi” cái mỹ cảm mà Cụ đã dành cho ông Ngô Đình Diệm qua bài thơ của Cụ viết vào năm 1933 vì ông Diệm không hề trở lại làm quan như người ta đồn đại, có lẽ “cái lòng khen” của Cụ cũng có thể tăng thêm nếu Cụ biết rằng sau khi Cụ tạ thế thì chính ông Ngô Đình Diệm là người tiếp tục vai trò của Cụ trong việc ủng hộ Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, người mà Cụ đã tôn thờ là Đảng Trưởng của Cụ từ năm 1906.
Cho đến khi chính phủ Laniel của Pháp ký kết với chính phủ Bửu Lộc trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam vào tháng 4 năm 1954, dù rằng đã có được mời nhiều lần nhưng ông Ngô Đình Diệm không hề nhận lời hợp tác với người Pháp. Phải đợi cho đến tháng 6 năm 1954, vì có lời mời khẩn khoản của Quốc Trưởng Bảo Đại yêu cầu về nước để cứu vãn tình hình vô vọng ở miền Nam Việt Nam, ông Ngô Đình Diệm đã nhận lời thành lập chính phủ vào tháng 7 năm 1954 và sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Ngô Đình Diệm đã thành lập chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa vào ngày 26 tháng 10 năm 1955.
Trong 9 năm cầm quyền, tuy Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng có phạm một số sai lầm về đường lối và chính sách, nhưng nói chung thì người Miền Nam đa số đều kính trọng sự liêm khiết, đức độ và lòng yêu nước của ông, ngay cả đến ông Hồ Chí Minh cũng phải thừa nhận rằng “ông Ngô Đình Diệm cũng là người yêu nước, theo cách của ông ấy.”
Cho đến ngày bị bắn và đâm chết trên chiếc thiết vận xa M-113 trong cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, có lẽ ông Ngô Đình Diệm cũng đã chưa làm điều gì sai trái cho đến độ Cụ Phan Bội Châu phải “vứt đi” cái lòng khen của Cụ trong bài thơ đăng trên báo Tiếng Dân tại Huế vào cuối năm 1933.
California Mùa Xuân 2007
Bảo Đại: “Con Rồng Việt Nam,” Nguyễn Phước Tộc xuất bản, California 1990 , trang 53-54.
Bảo Đại: sđd, trang 91-94.
“Phan Bội Châu Toàn Tập” Tập 5, Chương Thâu sưu tầm và biên soạn, nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 1990, trang 254-255.
Huỳnh Hữu Ủy: “Chung Quanh Khu Di Tích Vườn Mộ Sào Nam Phan Bội Châu ở Huế,” nguyệt san Thế Kỷ 21, California, số tháng 8 năm 2006.
Phan Bội Châu: “Những Năm Mão Trong Đời Tôi,” báo Tiếng Dân ngày 16 tháng 2 năm 1939.
Thiết Mai Tôn Thất Cảnh: “Hơn Một Tiếng Đồng Hờ cùng Cụ Phan Bội Châu,” báo Ánh Sáng, số 11 ngày 11-4-1933, Huế. Trích lại trong Phan Bội Châu Toàn Tập, Tập 4, trang 311-319.
Người viết đăng lại nguyên văn bài thơ này để độc giả thấy rằng có vài chữ khác nhau giữa bài đăng trên Báo Tiếng Dân năm 1933 và bài đăng trên báo Ánh sáng do chính Cụ Phan đọc lại.
Huỳnh Hữu Ủy: bài đã dẫn.
“Phan Bội Châu Toàn Tập,” Tập 4, trang 14-15. Đoạn này trích lại trong Vụ Án Phan Bội Châu của Bùi Đình do nhà xuất bản Tiếng Việt in tại Hà Nội năm 1950.
Nguyễn Xuân Chữ: “ Hồi Ký,” nhà xuất bản Văn Hóa, Houston, Texas, 1996, trang 243-244.
Trần Đông Phong
http://www.vietnamexodus.info/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=1558
Trung Quốc: Biểu tình phản đối các dự án công nghiệp gây ô nhiễm lan rộng
Dự án xây dựng một nhà máy lọc dầu lớn trong khu vực thành phố Trữ
Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc đã bị dân chúng phản đối gay gắt, khi
chính quyền địa phương muốn tham khảo lấy ý kiến người dân. Trong tuần
hơn 200 người đã biểu tình tại thành phố để phản đối dự án gây ô nhiễm
môi trường.
Đầu tuần này, hôm 22/10, người dân đã biểu tình tại địa điểm của dự
án lọc đầu có trị giá đầu tư 6,9 tỉ euro của tập đoàn dầu lửa Trung Quốc
Sinopec. Theo báo chí Trung Quốc, người dân đã phong tỏa giao thông khu
vực công trường xây dựng nhà máy lọc dầu trước khí họ bị giải tán.
Trước sự phản đối của người dân, chính quyền địa phương nơi xây dựng nhà
máy lọc dầu đã phải hứa sẽ lắng nghe ý kiến người dân, nhưng đồng thời
cũng cảnh báo là các hành vi gây rối trật tự công cộng sẽ bị trừng phạt.
Còn tại một địa phương khác ở cực nam Trung Quốc, người dân thị trấn Oanh Ca Hải trên đảo Hải Nam trong suốt bốn ngày qua đã đối mặt với công an để biểu tình chống lại việc xây dựng một nhà máy nhiệt điện chạy than. Một người dân địa phương cho AFP biết : « Trong ngày đa số dân làng ở nhà nhưng khi đêm xuống, họ ra khỏi nhà, dùng gạch đá tấn công lực lượng an ninh ».
Báo chí chính thức Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên truyền rằng những dự án công nghiệp lớn mang tính sống còn cho nền kinh tế của đất nước đồng thời cũng kêu gọi cần phải có thay đổi trong qua trình thẩm định cấp phép cho các dự án xây dựng công nghiệp.
Ba thập kỷ phát triển công nghiệp hóa ồ ạt của Trung Quốc đã làm hủy hoại nghiêm trọng môi trường. Người dân Trung Quốc giờ đây đã ý thức được cái giá phải trả của sự phát triển này cho môi trường sống của họ. Vài năm trở lại đây, phong trào dân chúng phản kháng chống lại việc xây dựng nhà máy gây ô nhiễm đã lan rộng khắp nơi ở Trung Quốc.
Hồi đầu tháng Bảy vừa qua, chính quyền đã phải cho ngừng một dự án xây dựng nhà máy luyện thép tại thành phố Thập Phương trong tỉnh Tứ Xuyên, sau nhiều ngày đối đầu xô xát giữa công an và người dân phản đối dự án để bảo vệ môi trường sống của họ.
Còn tại một địa phương khác ở cực nam Trung Quốc, người dân thị trấn Oanh Ca Hải trên đảo Hải Nam trong suốt bốn ngày qua đã đối mặt với công an để biểu tình chống lại việc xây dựng một nhà máy nhiệt điện chạy than. Một người dân địa phương cho AFP biết : « Trong ngày đa số dân làng ở nhà nhưng khi đêm xuống, họ ra khỏi nhà, dùng gạch đá tấn công lực lượng an ninh ».
Báo chí chính thức Trung Quốc vẫn tiếp tục tuyên truyền rằng những dự án công nghiệp lớn mang tính sống còn cho nền kinh tế của đất nước đồng thời cũng kêu gọi cần phải có thay đổi trong qua trình thẩm định cấp phép cho các dự án xây dựng công nghiệp.
Ba thập kỷ phát triển công nghiệp hóa ồ ạt của Trung Quốc đã làm hủy hoại nghiêm trọng môi trường. Người dân Trung Quốc giờ đây đã ý thức được cái giá phải trả của sự phát triển này cho môi trường sống của họ. Vài năm trở lại đây, phong trào dân chúng phản kháng chống lại việc xây dựng nhà máy gây ô nhiễm đã lan rộng khắp nơi ở Trung Quốc.
Hồi đầu tháng Bảy vừa qua, chính quyền đã phải cho ngừng một dự án xây dựng nhà máy luyện thép tại thành phố Thập Phương trong tỉnh Tứ Xuyên, sau nhiều ngày đối đầu xô xát giữa công an và người dân phản đối dự án để bảo vệ môi trường sống của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét