Đi với Mỹ hay Trung Quốc: Vì sao Việt Nam không thể trung lập trong lúc này?
(BTV: cũng có nhiều điểm không nhất trí với tác giả, tuy nhiên vẫn post lên để bà con có cái nhìn đa chiều)
Nguyễn Khoa Thái Anh
-
Từ khi miền Nam thất thủ, đã có nhiều nghi vấn – nhất là của một số nhân vật có máu mặt trong nước – về sự trung kiên của Hoa Kỳ như một đồng minh chiến lược, bảo vệ quyền tự quyết và nền dân chủ phôi thai của các dân tộc yêu chuộng tự do đang bị các lực lượng vũ trang và ngoại bang đe dọa thôn tính (1). Người ta nhắc nhở chuyện Mỹ bỏ rơi miền Nam như bằng chứng của sự phản bội. Họ lên án Mỹ đã bán đứng miền Nam sau khi Nixon bắt tay với Mao Trạch Đông (1972), mở ra một kỷ nguyên mới giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa lục địa. Người ta cũng lặp lại một cách thiếu sót phương châm của Kissinger: “Hoa Kỳ không có bạn hoặc kẻ thù lâu dài, mà chỉ biết đến quyền lợi của mình”. (2)
Người ta cũng có thể dẫn nhiều sự kiện khác trong lịch sử để chứng minh tính phản phúc và sự thiếu trung trinh của Hoa Kỳ (và Liên Hiệp Quốc): 1) Mỹ bỏ rơi Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cho phe Cộng sản Mao Trạch Đông (1949); bỏ rơi Batista cho Cộng sản Fidel Castro (1959) và thêm một lần nữa bỏ rơi tàn quân kháng chiến Cuba ở Vịnh Con Heo sau khi cuộc đổ bộ của họ bị bại lộ (Cuba, 1961), chưa nói khi thế giới tự do làm ngơ trước hai cuộc cách mạng hụt hẫng của Hungary (1956) và Czechoslovakia (1968) sau khi Nga Xô xâm chiếm Đông Âu.
Nhưng tất cả những quy trách trên – tuy
không xa rời với dữ kiện lịch sử – đều vô nghĩa lý. Và xét trên cương
diện địa chính trị, vị thế của Hoa Kỳ và sử quan thế giới trong bối cảnh
của từng thời đại (Chiến Tranh Lạnh, hậu Việt Nam, Cộng sản Nga Xô tan
rã, Đông Âu biến loạn (Sarajevo), Trung Quốc trỗi dậy, Al-Qaeda, Iraq,
hậu Iraq, Muà Xuân Ả rập, v.v.), những cáo buộc đó không có chỗ đứng. Thử
nhìn lại hai cuộc Thế chiến (1914-1918; 1941-1945), cuộc chiến ở Hàn
Quốc (1950-1953), Việt Nam (1963-1973) và nếu con số tử vong của Hoa Kỳ
(630,632 người chưa kể thương binh, tổn thất vật chất hay tài chánh)
trong các cuộc chiến đó:
Thế chiến I = 117.465
Thế chiến II = 418.500
Hàn Quốc = 36.516
Việt Nam = 58.282
không nói lên sự cam kết của Hoa Kỳ cho
an ninh thế giới thì chí ít cũng cho thấy sự hy sinh về nhân mạng của
binh lính vì những lý tưởng bảo vệ tự do, quyền tự quyết, v.v. mà chính
phủ Mỹ đã nêu lên và nhân danh (vì vậy, chúng ta cũng đừng quên Sarajevo
(Bosnia) hay Mogadishu (Somalia), hay nhắc đến Iraq hay Afghanistan).
Hoa Kỳ dù giữ một vị trí siêu cường, cũng
không thể tạo dựng sức mạnh hay chủ quyền cho bất cứ một quốc gia nào,
mà trái lại khi một nước nhược tiểu càng ỷ lại vào Hoa Kỳ để mưu cầu độc
lập, tìm tinh thần tự quyết cho mình thì lại càng yếu kém. Nhất là khi
quốc gia đó không biết thu phục lòng dân, gầy dựng riêng cho đất nước và
dân tộc mình một thực lực. Hoa Kỳ không phải là một đấng Thượng Đế anh
minh, lúc nào cũng đúng, cũng phải, họ không phải là một thế lực vô
biên, toàn năng, hay tuyệt hảo, có thể giải đáp mọi nan đề của thế giới
một cách công minh và tuyệt đối, không phải bất cứ những quyết định tham
chiến hay không tham chiến của họ đều hữu lý hay thiết thực. Cũng nên
nhớ, Hoa Kỳ cũng không là một chế độ độc tài, cai trị lâu năm dưới sự
lãnh đạo chuyên chính của một nhóm thiểu số độc đảng, để chính quyền Hoa
Kỳ có thể giải quyết sự khác biệt nội bộ bằng cách chia chác quyền lợi,
đi đến việc đồng tâm nhất trí thi hành những chuyện mờ ám, hay muốn làm
gì thì làm.
Hệ thống quyền lực của Hoa Kỳ không nằm
trong tay một tổng thống, một đảng chính trị, trái lại hệ thống tam
quyền phân lập đòi hỏi sự chế tài, kiểm soát và đối trọng lẫn nhau giữa
các cơ quan hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Quyền hành và trách nhiệm
được hiến pháp Hoa Kỳ phân chia rõ rệt giữa các định chế pháp trị. Quyền
hành đi đôi với trọng trách. Ngoài ông Franklin D. Roosevelt cai trị
được 12 năm, các tổng thống khác chỉ có thể đắc cử hai nhiệm kỳ, tối đa
là tám năm. Ngay cả vị tổng thống đầu tiên, George Washington được toàn
dân tín nhiệm nhưng ông chỉ chấp nhận nhậm chức hai nhiệm kỳ.
Ở Mỹ, mỗi nhiệm kỳ tổng thống lại có có
một chủ trương mới, một chủ thuyết đối ngoại mới cho hợp với lòng dân đã
bầu mình lên, hoặc giả đề cao đặc điểm hay ưu thế của vị tổng thống đó
(Taft Dollar Diplomacy, The Truman Doctrine, Nixon China Doctrine
(Rapprochement: Xích lại gần nhau), Reaganomics, Obama Care, v.v.) do đó
không phải lúc nào chính sách đối nội hay đối ngoại đều trước sau như
một. Hoa Kỳ do là một nước tư bản, một nhược điểm của chế độ này là
quyền lực của nhóm tài phiệt có thể thao túng chính trường Hoa Kỳ nếu
không bị cơ quan công quyền chế tài, báo chí hay truyền thông phanh
phui, ngăn chận.
Trong những năm nguy kịch của nền Đệ nhị
Cộng hoà (’73), Nixon sau khi thành công với chuyện rút quân đội Mỹ ra
khỏi Việt Nam và ép buộc tổng thống Thiệu ký Hiệp định Paris, và để trấn
an ông Thiệu, Nixon đã viết một lá thư riêng hứa sẽ can thiệp, không
hiểu Nixon có thành thực với những điều mình viết trong lá thư hay
không, nhưng một biến cố trọng đại trong đời tổng thống của Nixon là vụ
Watergate, ông đã bị Watergate lôi xuống, buộc phải từ chức. (3)
Và đây chính là lỗi lầm của ông Thiệu khi
lên truyền hình quốc gia cầm lá thư của Nixon cam kết sẽ trả đũa nếu
miền Bắc vi phạm hiệp định Paris, mếu máo khóc. Đến năm ’75 thì tình
thế, cục diện chiến tranh miền Nam đã muộn. Thật ra, miền Nam phải nhận
được tín hiệu từ năm 1968, sau vụ Tết Mậu Thân, khi báo chí và truyền
thông Mỹ đã gán cho cuộc chiến Việt Nam là vô vọng, bất luận Mặt trận
Giải phóng Miền Nam hầu như đã hoàn toàn bị tiêu diệt sau cuộc tổng công
kết đó.
Ông Thiệu quên rằng trong thể chế lưỡng
đảng năm đó phe Bồ câu của đảng Dân chủ đã thắng thế lên ngôi, muốn cắt
đứt mọi viện trợ quân sự cho miền Nam. Một điều nhục nhã cho miền Nam đã
được thể hiện qua lời tuyên bố của ông Thiệu trên truyền hình Việt Nam:
Nếu Hoa Kỳ viện trợ cho miền Nam 700 triệu (Mỹ kim) thì mình (miền Nam)
đánh theo 700 triệu, nếu viện trợ cho 300 triệu thì mình đánh theo 300
triệu! Ông Thiệu lại trơ trẽn cầm vận mệnh của miền Nam ra tháu cáy Mỹ,
ra lệnh triệt thoái toàn bộ miền Trung, tạo thế hỗn quan hỗn quân, bỏ
ngõ Vùng I Chiến Thuật cho quân đội miền Bắc tiến vào. Nếu tôi không lầm
thì trong cuốn Đại thắng mùa Xuân của đại tướng Văn Tiến Dũng
của Bắc Việt có thổ lộ là phe Bắc Việt tiến vào miền Trung như đi vào
chỗ không người, không có một sự đề kháng nào.
Ở đây xin không mạn bàn thêm về những cái
may của miền Bắc và cái rủi (xui xẻo) của miền Nam trong quá khứ, xin
nhường cho lịch sử những phán xét quang minh hơn. Ở đây tôi chỉ nêu lên
cái nan đề của lãnh đạo của hai thời Quốc-Cộng, hy vọng Cộng sản Việt
Nam ngày nay có đủ sáng suốt có thể sớm tìm ra giải pháp cho đất nước:
Giữ Đảng hay giữ nước? Đáp số cho sự bế tắc của Trung ương Đảng Cộng sản
không phải là chọn Mỹ thay cho Trung Quốc.
Đáp số cho ngõ cụt Việt Nam: Chọn hướng
đi nào để lãnh đạo Việt Nam phát huy được sức mạnh dân tộc? Nếu không có
hậu thuẫn của toàn dân, không sử dụng được sức mạnh dân tộc, thì sớm
muộn cơ nay sinh tồn của Việt Nam sẽ không còn, và liệu khi đó có một
(bạo) cường quốc nào có thể giúp giữ vững được vai trò cai trị của lãnh
tụ Việt Nam không? Hoa Kỳ đã không giúp được cho ông Thiệu yếu kém. Liệu
Trung Quốc có giúp được cho lãnh đạo Việt Nam ngày nay?
Là một người sống ở Mỹ lâu năm, dạy lịch
sử và những giá trị dân chủ của thể chế Hoa Kỳ, tôi có thể khẳng định
một điều: Hoa Kỳ lập quốc trên những lý tưởng dân chủ, bình đẳng, tự do
và tôn trọng quyền làm người, do đó tôi tin rằng sự ủng hộ của Hoa Kỳ
đối với các chính quyền có tính dân chủ tự lập, biết đảm trách và gánh
nhận vai trò cai trị anh minh, tốt lành của một quốc gia là một điều
thiết thực (good governance, một điều mà Mỹ hay đề cao với các quốc gia
như Việt Nam). Do đó khi được lòng dân, có hậu thuẫn của các đối tác
trong vùng, thì chuyện có được đồng minh bảo vệ sẽ là chuyện tự khắc.
Hoa Kỳ hay ‘đồng minh’ tốt nào rất sợ phải ủng hộ đến cùng một đối tác
chiến lược yếu hèn, tham nhũng, bóc lột dân như ông tổng thống Marcos ở
Philippines, hoặc những đối tác chiến lược, nhưng lại thích đi hàng hai
như Việt Nam hiện nay.
Nhân đây tôi xin nhắc lại một phát biểu gần đây của ông Nguyễn Bá Hùng, Tổng Lãnh sự Hà Nội tại San Francisco, nói rằng Hoa Kỳ [ông Newt Ginrich] không nhìn nhận Việt Nam như một đối tác chiến lược.
Nếu điều ông Hùng nói là có thật (tức là ông Newt Ginrich có nhận định
như thế) thì có lẽ đấy chỉ là một nửa sự thật. Nghĩa là bất kể sự khác
biệt và nguyên lý đối nghịch giữa Cộng sản và Tư bản, Hoa Kỳ vẫn có thể
đi với Việt Nam, NẾU Việt Nam có những sửa đổi, cải thiện về đường lối
cai trị, biết tôn trọng nhân quyền của các con dân lương tâm của mình và
thôi đàn áp, bắt bớ họ. Và – nhất là – xin nhắc lại một lần nữa: NẾU
Việt Nam thôi đu dây về phía Trung Quốc.
Xin đơn cử một vài thí dụ điển hình: Vịnh
Cam Ranh đã được Mỹ xây cất, trang bị như một cảng với ưu thế quân sự
quan trọng vào tầm vóc nhất nhì thế giới trong cuộc chiến Quốc-Cộng (từ
1965-1972). Đến thập niên 90, Mỹ đã bắt đầu thương lượng với Việt Nam về
hải cảng này, thương lượng không thành, trong khi đó nhà cầm quyền Việt
Nam đã sang nhượng đầu rừng, khai thác bô-xít trên Tăy Nguyên, chuyển
nhượng lãnh hải Việt Nam cho Trung Quốc, để cho những lực lượng trá hình
của Trung Quốc ở những vị trí trọng yếu trong lãnh thổ Việt Nam. Một
điều trớ trêu đến độ sỉ nhục cho Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm của Bộ
trưởng Quốc phòng Leon Panetta (ngày 3 tháng Sáu, 2012) ở cảng Cam Ranh,
trên tàu Hải quân Hoa Kỳ Richard E. Byrd, là trong khi giữa những cờ xí
tung bay chào đón một chính khách vào hàng cao cấp nhất của chính phủ
Hoa Kỳ, thì cách đó chỉ vài trăm mét các anh khách trú Trung Hoa ngồi
chễm chệ trên các “bè nuôi cá”!
Chẳng thế mà một tuần sau đó, trên mạng tuần báo Time, phóng viên Kirk Spitzer
cùng với lập luận củng cố của giáo sư Donal E. Weatherbee (University
of South Carolina) đã cho biết Mỹ đã bỏ qua chuyện tranh chấp trên Biển
Đông, chỉ đòi hỏi Tàu chuyện thông thương tự do trên Thái Bình Dương, để
mặc cho Trung Quốc – Việt Nam và các nước liên đới giải quyết với vấn
đề chủ quyền với nhau không can dự vào.
Đây là một cách bày tỏ thái độ không
chính thức của Mỹ, đánh tiếng cho nhà nước Việt Nam biết sự bất mãn của
Hoa Kỳ về chuyện hệ lụy Trung Quốc của Việt Nam. Sau đó lại thêm một kết
quả tiêu cực khi kết cục của hội nghị ASEAN kỳ thứ 11 ở Phnom Penh vào
trung tuần tháng Bảy vừa rồi đã không mang lại một đồng thuận khả quan
nào về Biển Đông, cho thấy việc không đoàn kết của các nước Đông Nam Á
và thiếu chủ lực của Việt Nam.
Cho nên, cùng với sự nhận định của các
quan sát viên hiểu biết trên thế giới về ASEAN – và nhất là Việt Nam –
tôi có thể đi đến kết luận rằng Việt Nam trong tình thế yếu kém hiện
tại, không thể nào là thế lực lãnh đạo của các nước ASEAN, do đó không
thể nào đi theo chính sách trung lập một cách quang minh và chính đại.
Tự dưng không phải Thái Lan, Lào và
Camuchia lại bị Trung Quốc mua chuộc mà chính lý do Việt Nam lâu nay nằm
trong quỹ đạo cương tỏa của Trung Quốc đã khiến cho các nước Lào,
Campuchia đặt lại nghi vấn chuyện đi đêm của họ với Trung Quốc hay Hoa
Kỳ. Cho đến khi được các nước trong vùng tin tưởng hay kính trọng vào sự
tự chủ và sức mạnh nội tại và thực tiễn của Việt Nam đối với con dân
của mình thì chuyện trung lập của Việt Nam là một ván bài tự sát. Niềm
hy vọng nhà nước Việt Nam sẽ chọn được một đồng minh tốt về kinh tế, một
đối tác chiến lược lâu dài sẽ trở thành hiện thực khi những yêu cầu
trên được giải quyết.
Đương nhiên mấy ngàn năm lịch sử với Bắc
triều đã là một bài học đắt giá, do đó sức mạnh của lòng dân vẫn là một
đối trọng tiên quyết so với bất cứ một ma lực nào, sau đó mới đến sự hợp
tác của một cường quốc anh minh, mong muốn nó sẽ mang lại một ích lợi
tương tác của đôi bên – không riêng gì với Hoa Kỳ mà với bất kỳ một thế
lực Âu châu nào.
Nguyễn Khoa Thái Anh
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
__________________________
(1) “It must be the policy of the United
States to support free peoples who are resisting attempted subjugation
by armed minorities or by outside pressures.” – lời của Tổng thống
Truman trong bài diễn văn trước Quốc hội Hoa Kỳ (12 tháng Ba, 1947) xin
viện trợ 400 triệu Mỹ kim để trợ giúp Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ chống lại sự
đe doạ Cộng sản. Sau này được gọi là Truman Doctrine, đặc trưng cho
những nỗ lực của Hoa Kỳ chống lại làn sóng đỏ trong Chiến Tranh Lạnh.
(2) “America has no permanent friends or enemies, only interests.”
(3) Ngày 17 tháng Sáu, 1972, năm người bị
bắt quả tang đột nhập vào tòa nhà Watergate ở Washington D.C. (định ăn
trộm tài liệu của Đảng Dân Chủ) là người được quỹ tài chánh yểm trợ tái
cử tổng thống Nixon trả tiền. Sau này ông Nixon bị truy ra – qua hàng
loạt tang chứng những băng ghi âm những cuộc nói chuyện của ông Nixon
với bộ hạ – dẫn đến chuyện từ chức của tổng thống Nixon vào ngày 9,
tháng 8, năm 1974.
Từ Hitler đến Đặng Tiểu Bình, tác hại của chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Trần Trung Đạo (Danlambao)
-
Sự sụp đổ của hệ thống Cộng Sản trong phạm vi thế giới từ cuối thập niên 1980 đã tạo điều kiện cho các dân tộc vùng Đông Âu tìm về bản sắc văn hóa và cội nguồn lịch sử của mình. Sự phục hưng và phát triển vượt bực của Slovakia, Estonia, Czech, Slovenia, Latvia và Lithuania hiện nay cho thấy yếu tố văn hóa không những là động lực chính của phong trào độc lập mà còn là nguồn thúc đẩy cho phát triển kinh tế dù đó là những nước chật hẹp về đất đai và rất ít về dân số. Sức sống dân tộc và đôi cánh tự do dân chủ đã giúp cho các quốc gia này ngày càng thịnh vượng.
Nhưng không phải lãnh đạo nào cũng đức độ
như Vaclav Havel của Czech hay tài ba như bà Vaira Vīķe của Latvia, từ
Hitler với đảng Quốc Xã Đức đến Đặng Tiểu Bình với đảng CS Trung Quốc,
nhân loại đã chịu đựng nhiều tai họa chỉ vì giới lãnh đạo độc tài tại
các quốc gia này đã sử dụng chủ nghĩa dân tộc như một phương tiện phục
vụ cho mục tiêu bành trướng bá quyền.
Khi Đặng Tiểu Bình chết, 17 tháng Hai,
1997, nhiều lãnh đạo quốc gia, chính khách ca ngợi y như là một thiên
tài kinh tế, nhà chính trị lỗi lạc, can đảm và cũng là người giúp ngăn
Trung Quốc khỏi rơi vào hố thẳm. Tuy nhiên, các thành tựu kinh tế của
Trung Quốc được đổi bằng sự chịu đựng, hy sinh, mồ hôi, xương máu của
nhiều dân tộc khác và ngay tại Trung Quốc hàng trăm triệu dân thiểu số
vẫn phải tiếp tục sống trong độc tài, nghèo đói, bất công và bạc đãi.
Nhiều học giả so sánh giữa Hitler và Statin, Hitler và Mao nhưng rất ít
người so sánh giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình bởi vì họ chỉ nhìn những
điểm sáng của Đặng Tiểu Bình mà bỏ qua phía tối của y.
Các điểm giống nhau giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình
Hitler và Đặng Tiểu Bình có nhiều chủ
trương rất giống nhau: (1) Cả hai đều dùng yếu tố chủng tộc để khích
động lòng yêu nước cực đoan; (2) cả hai đều triệt để khai thác hận thù
trong quá khứ giữa các quốc gia (3) cả hai đều tận dụng các kỹ thuật
tuyên truyền tinh vi để tẩy não, đầu độc, vận dụng và điều khiển nhận
thức người dân; (4) cả hai đều chủ trương bành trướng, mở rộng biên giới
để chiếm đoạt tài nguyên nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế và bá
quyền nước lớn.
1. Yếu tố chủng tộc ưu việt:
Giống như quan điểm của Hitler đề cao chủng tộc Aryan, Đặng Tiểu Bình
và các lãnh đạo kế thừa y đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán.
Edward Friedman, một chuyên viên về Trung Quốc tại đại học Wisconsin
phát biểu “Khi Đặng Tiểu Bình nắm quyền 1977, chủ nghĩa dân tộc và
tinh thần chống Nhật đã trở thành chất keo giữ chặt xã hội lại với nhau”.
Ngoài 1.2 tỉ người gốc Hán đang sống tại lục địa còn có 22 triệu người
gốc Hán tại Đài Loan, 6 triệu người gốc Hán tại Hong Kong, 10 triệu
người gốc Hán tại Nam Dương, gần 4 triệu người gốc Hán tại Singapore và
hầu như khắp nơi trên thế giới nước nào cũng có người gốc Hán. Đặng Tiểu
Bình khi đề cao chủng tộc Hán, y cũng không chỉ nhắm tới nhân dân Trung
Hoa lục địa mà ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Theo họ Đặng “bất cần người Hoa mặc áo quần màu gì hay có quan điểm chính trị gì” mà chỉ cần “yêu Trung Quốc”.
2. Khai thác hận thù trong quá khứ giữa các quốc gia:
Giống như chủ trương của Hitler khai thác nội dung trừng phạt Đức nặng
nề trong hiệp ước Versailles, Đặng Tiểu Bình từ 1977 đã đề cao chủ nghĩa
dân tộc cực đoan bằng cách khích động lòng thù hận với các nước Tây
phương qua các hiệp ước bất bình đẳng dưới thời nhà Thanh. Đặng Tiểu
Bình nhiều lần nhắc đến “100 năm sỉ nhục”, thời gian Trung Quốc bị các
đế quốc khinh thường. Y nói: “Tôi là người Trung Hoa, và tôi quen thuộc với lịch sử chịu đựng dưới sự xâm lược của ngoại bang”.
Phần dẫn nhập của hiến pháp Trung Quốc 1982 nhấn mạnh đến những vết
nhục trong thời gian bị nước ngoài chia năm, xẻ bảy và công lao thống
nhất đất nước của đảng CS. Quá khứ “100 năm sỉ nhục” đã để lại dấu ấn
sâu đậm trong nhận thức của người dân và đã được đảng CS khai thác tận
tình. Bất cứ hành động nào trong quan hệ ngoại giao quốc tế, bất lợi cho
đảng CS Trung Quốc, câu chuyện “100 năm sỉ nhục” lại được nhắc đến.
Ngay cả việc chính phủ các nước tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma, bán võ khí cho
Đài Loan, chỉ trích chính sách ngăn chận Internet của Trung Quốc, cũng
được bộ máy tuyên truyền CS giải thích cho nhân dân Trung Quốc đó những
hành động khơi dậy “100 năm sỉ nhục” và xúc phạm đến danh dự của Trung
Quốc.
3. Tận dụng các kỹ thuật tuyên truyền để đầu độc nhân dân: Giống như Hitler chủ trương “Một dân tộc, một quốc gia, một lãnh tụ”,
bộ máy tuyên truyền của đảng CS Trung Quốc lập đi lập lại rằng chỉ có
đảng CS mới là cứu tinh Trung Quốc, phục hồi Trung Quốc như một cường
quốc vốn từng vang danh năm ngàn năm. Một trong những lý luận quan trọng
trong Lý Thuyết Đặng Tiểu Bình là việc thay đổi khái niệm từ “trung thành với giai cấp” sang “trung thành với quốc gia” nhưng “trung thành với quốc gia” trước hết phải “trung thành với đảng Cộng Sản”.
Thực chất của chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong quan điểm họ Đặng là một
hình thức khác của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản trong thời đại toàn
cầu.
Tại Trung Quốc không có báo chí đúng
nghĩa để chuyển tải tin tức giữa hai nguồn một cách khách quan nhưng chỉ
là phương tiện tuyền truyền độc quyền của đảng. Không giống như giai
đoạn đầu của chính sách đổi mới chỉ có vài tờ báo đảng, năm 2005, Trung
Quốc có trên hai ngàn tờ báo, chín ngàn tạp chí nhưng tất cả tập trung
vào mỗi một mục tiêu là củng cố vai trò lãnh đạo của đảng CS. Trang đầu
của các báo gần như giống nhau với khuôn mặt tươi cười của các lãnh đạo
đảng và nhà nước CS, với những thành tựu kinh tế chính trị. Không có tờ
báo nào có bộ phận tin quốc tế độc lập và tất cả đều trích từ bản tin
thế giới tổng hợp hàng ngày của Tân Hoa Xã. Bản tin quan trọng quốc nội
và quốc tế lúc 7 giờ tối của hệ thống truyền hình cũng đọc lại tin của
Tân Hoa Xã. Để tiết giảm chi phí, sau này nhà nước đã tư hữu hóa các đài
truyền hình, tuy nhiên, các tin tức quan trọng ảnh hưởng đến chính sách
đối nội và đối ngoại vẫn bị kiểm duyệt và chi phối bởi một cơ quan
thông tin trực thuộc trung ương đảng CS.
4. Bành trướng, mở rộng biên giới để chiếm đoạt tài nguyên nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế và bá quyền nước lớn:
Giống như Hitler chiếm các nguồn tài nguyên năng lượng để nuôi dưỡng bộ
máy chiến tranh, Đặng Tiểu Bình mở rộng biên giới, độc chiếm tài nguyên
để nuôi dưỡng sự phát triển kinh tế. Song song với phát triển kinh tế,
Trung Quốc, nơi cư ngụ của một phần năm nhân loại, cũng chuyển mình từ
một một nền kinh tế tự túc xã hội chủ nghĩa để dần dần trở thành một xã
hội tiêu thụ. Nhu cầu năng lượng, vì thế, trở nên bức thiết.
Tại Phi châu, Trung Quốc khai thác mọi
bất đồng giữa các nước phương Tây và các quốc gia nghèo nhưng giàu tài
nguyên. Trung Quốc ngày nay đã thay thế vai trò của các đế quốc Anh,
Pháp, Bồ Đào Nha đã từng đóng tại Châu Phi thế kỷ 19. Để hút cạn nguồn
dầu hỏa châu Phi, Trung Quốc không những nuôi dưỡng các tầng lớp lãnh
đạo độc tài mà còn tiếp tay cho chúng để đàn áp các thành phần đối lập,
tàn sát các tầng lớp nhân dân da đen thiếu học, không một tấc sắt trong
tay bằng những phương tiện vô cùng ác độc. Giống như chế độ thực dân đế
quốc trước đây, Trung Quốc bao che giới lãnh đạo, cung cấp cho chúng
tiền bạc, súng đạn, che chở an ninh cá nhân và bảo vệ chế độ bằng quyền
phủ quyết trong các cơ quan quốc tế như Liên Hiệp Quốc.
Đối với các nước Á Châu, trong giai đoạn
từ 1979 và sau chiến tranh biên giới với Việt Nam, Trung Quốc tập trung
mọi nỗ lực để theo đuổi Bốn Hiện Đại Hóa. Cuối thập niên 1980, Đặng Tiểu
Bình thực hiện chính sách hòa hoãn và quan hệ ngoại giao tốt đối với
các nước láng giềng Á Châu qua việc tái lập quan hệ ngoại giao với hàng
loạt quốc gia như Ấn Độ (1988), Mongolia (1989), Indenosia (1990),
Singapore (1990), Brunei (1991). Trung Quốc cũng tái lập quan hệ với
Cộng Sản Việt Nam năm 1991. Như vậy vào thời điểm 1991, Trung Quốc đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với cả mười quốc gia thuộc khối ASEAN.
Về mặt ngoài, Đặng Tiểu Bình chủ trương
mở rộng quan hệ láng giềng tốt chỉ vì y không muốn các quốc gia nhỏ cảm
thấy bị đe dọa và kết thành một khối chung quanh Mỹ như họ đã làm trước
đây trong thời kỳ Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, nhưng đối với
từng quốc gia, Đặng Tiểu Bình áp dụng một chính sách riêng biệt tùy
thuộc vào điều kiện chính trị, thế mạnh thế yếu của quốc gia đó. Phía
sau của chính sách hòa hoãn, ổn định để phát triển, giới lãnh đạo CS
Trung Quốc luôn xem các nước nhỏ trong vùng thuộc vòng đai kiểm soát của
họ. Trung Quốc cũng dùng các nước Á Châu nhỏ như là hàng rào an ninh
bao bọc lục địa Trung Hoa và sẵn sàng dùng võ lực để bảo vệ vòng đai an
ninh này như trường hợp đối với Việt Nam từ 1974 đến nay.
Đặng Tiểu Bình và quá trình xiển dương chủ nghĩa dân tộc cực đoan tại Trung Quốc
Giai đoạn đổi mới 1978: Sau
khi nắm toàn bộ quyền hành sau Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng
Lần vào tháng 12, 1978, Đặng Tiểu Bình vận dụng chủ nghĩa dân tộc để đẫy
mạnh Bốn Hiện Đại Hóa (Công Nghiệp, Nông Nghiệp, Quốc Phòng,
và Khoa Học Kỹ Thuật). Từ sau hội nghị Lư Sơn và rõ nhất là sau Hội Nghị
Trung Ương Đảng tại Bắc Kinh 1961, quan điểm của Đặng Tiểu Bình gần
giống với Lưu Thiếu Kỳ, dùng mọi cách để nâng cao sản xuất bất chấp các
nguyên tắc kinh tế xã hội chủ nghĩa tập trung. Câu nói “Mèo đen hay mèo trắng không quan trọng miễn là nó bắt được chuột”
của Đặng Tiểu Bình thật ra chỉ lập lại một câu châm ngôn trong văn hóa
Trung Quốc nhưng phản ảnh không những về đường lối, chính sách hiện đại
hóa mà cả quan điểm của y về học thuyết Mác. Theo Bác sĩ Lý Chí Thỏa,
bác sĩ riêng của Mao Trạch Đông, giai đoạn kinh hoàng 1959 đến 1962,
Đặng Tiểu Bình chủ trương “không quan tâm mèo đen hay mèo trắng, công khai ủng hộ cho bất cứ chính sách gì miễn là gia tăng sản xuất nông nghiệp”. Đặng Tiểu Bình nổi tiếng qua câu nói lịch sử này nhưng cũng nhiều lần khổ sở vì nó. Cây gậy “mèo đen mèo trắng” được
phe Giang Thanh và Khang Sinh dùng để đánh họ Đặng trong Cách Mạng Văn
Hóa khi Mao còn sống, đã được cánh tả khuynh dùng để đánh y lần nữa sau
khi Mao qua đời.
Sau cái chết của Mao, Đặng Tiểu Bình lần
nữa đối đầu với một thử thách có tính quyết định không chỉ sự nghiệp
chính trị mà cả mạng sống. Y đã liên minh với Hoa Quốc Phong và các lãnh
đạo thuộc thế hệ già trong nội bộ đảng để chống lại “Bè lũ bốn người”
gồm Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn.
Họ Đặng đã thắng. Sau khi dẹp tan “Bè lũ bốn người”, cô lập Hoa Quốc
Phong, nhận sự ủng hộ trung thành của thành phần lãnh đạo mới lên như Hồ
Diệu Bang, Triệu Tử Dương, lôi kéo được nhóm lãnh đạo thời Vạn Lý
Trường Chinh như Diệp Kiếm Anh, Bành Chân, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng,
Đặng Tiểu Bình không còn đối thủ nào đủ tầm vóc, thâm niên đảng tịch và
tài năng hơn y. Trong cương vị Chủ tịch Quân Ủy Trung Ương, họ Đặng
trong thực tế là lãnh tụ tối cao của đảng Cộng Sản và nước Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa.
Chiến dịch Mùa xuân Bắc Kinh và Bức tường dân chủ: Đặng Tiểu Bình phát động chiến dịch Mùa xuân Bắc Kinh trong đó cho phép hình thành một diễn đàn chưa bao giờ có trong xã hội Cộng Sản: Bức tường dân chủ.
Bức tường dân chủ là bức tường gạch ở phố Tây Đơn, quận Tây Thành, Bắc
Kinh. Đây là nơi để người dân nêu lên các ý kiến có tính phản biện các
chính sách của nhà nước. Nhiều bài thơ ca ngợi tự do dân chủ cũng được
dán lên đây. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan được họ Đặng khơi dậy trong giai
đoạn này nhằm lôi kéo quần chúng về phía mình, thu hút sự tham gia của
các tầng lớp nhân dân gia tăng sản xuất, tấn công vào tầng lớp tả khuynh
bảo thủ đang cản trở các thay đổi kinh tế chính trị của y.
Bức tường dân chủ của Đặng là con dao hai
lưỡi. Những người góp ý kiến trong Bức tường dân chủ không chỉ tấn công
vào tàn dư của phe nhóm Giang Thanh hay tham vọng tôn thờ cá nhân của
Hoa Quốc Phong mà dần dần tiến đến việc phê bình các chính sách của họ
Đặng. Nhà vận động dân chủ Wei Jingsheng vào ngày 5 tháng 12 năm 1978 đã
dán lên bức tường lời kêu gọi “Hiện đại hóa thứ năm” tức Dân Chủ Hóa.
Ý thức sự đe dọa của ngọn lửa dân chủ bắt
đầu nhen nhúm trong dân chúng, Đặng Tiểu Bình chỉ thị di chuyển Bức
Tường Dân Chủ vào bên trong một công viên nhỏ, và cuối cùng hủy bỏ. Dù
sao, các ý kiến được dán lên Bức Tường Dân Chủ đã cho thấy sự hiện diện
của hai trường phái tư tưởng đối lập tại Trung Quốc: dân chủ và độc tài,
Mác và không Mác. Đây là nguồn gốc sâu xa dẫn tới phong trào Thiên An
Môn mười năm sau đó.
Mùa xuân Bắc Kinh đã tàn nhưng hạt mầm
dân chủ gieo trồng vào ý thức người dân Trung Hoa, nhất là giới trẻ đã
dần dần lớn lên. Các cuộc biểu tình của sinh viên đã xuất hiện từ 1985,
1986 tại các thành phố lớn như Thượng Hải, Bắc Kinh với các khẩu hiệu “Dân chủ muôn năm”, “Luật pháp chứ không phải độc tài lãnh đạo”.
Lễ tưởng niệm dành cho Hồ Diệu Bang, lãnh tụ CS có đầu óc đổi mới qua
đời ngày 15 tháng Tư, 1989 đã biến thành cuộc tuần hành đòi dân chủ lớn
nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại. Sáng 22 tháng Tư, hàng trăm ngàn
người thuộc nhiều giới, trong đó có các đảng viên Cộng Sản trẻ, các
nhóm Cộng Sản có khuynh hướng cải cách tập trung để thương tiếc cựu tổng
bí thư và phản đối chính sách trung ương tập quyền của đảng, đòi hỏi
các cải cách chính trị, kinh tế.
Dù gây một tiếng vang lớn, phong trào
Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc đã không đạt được mục đích như đã
đề ra trong tuyên bố bảy điểm và để lại cho các phong trào dân chủ trẻ
thế giới nói chung và tại các quốc gia Cộng Sản nói riêng. Chế độ CS lần
nữa sống sót sau trận bão dân chủ thổi qua Liên Xô và các nước Đông Âu
đầu thập niên 1990.
Những cây cột chống đỡ chế độ Cộng Sản tại Trung Quốc hiện nay
Tiếp tục củng cố tính chính danh của đảng CS: Đặng
Tiểu Bình và các lãnh đạo CS tại Trung Quốc biết rõ hơn ai hết, cây cột
duy nhất có thể giữ chế độ CS khỏi sụp đổ trước mắt là xây dựng tính
chính danh lãnh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter Hays Gries, một chuyên
gia về Trung Quốc, viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa theo thủ tục
để bầu ra các chính phủ theo các nguyên tắc dân chủ, và đối phó với sự
sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ
thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để cai trị đất nước.”
Đặng Tiểu Bình bảo vệ yếu tố chính danh: “Hình
ảnh một Trung Quốc hiện đại không phải được tạo ra bởi nhà Thanh hay
bởi các lãnh chúa quân phiệt, và cũng chẳng phải do Tưởng Giới Thạch hay
con trai của ông ta. Chính là do Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã thay
đổi hình ảnh của Trung Quốc”. Khác với lý thuyết kinh điển CS trong
đó giải thích các yếu tố giai cấp là nguyên nhân của hình thành đảng CS
và đấu tranh giai cấp, các quan điểm CS ngày nay giải thích sự có ra
đời của đảng CS Trung Quốc, trước hết phát xuất từ lòng yêu nước. Giáo
sư Liu Kang, Duke University, nhận xét rằng hiện nay tại Trung Quốc, chủ
nghĩa dân tộc trở thành một yếu tố chính danh mạnh mẽ.
Giới lãnh đạo CS Trung Quốc tận dụng mọi
cơ hội để tiêm nhiễm chủ nghĩa dân tộc cực đoan vào nhận thức người dân.
Trong các sách vở, tài liệu, kể cả trong đại lễ kỷ niệm 60 năm thành
lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa hay trong lễ khai mạc Thế Vận Hội, tinh
thần Đại Hán được biểu dương đến mức cao nhất. Việc tổ chức vô cùng rầm
rộ Thế Vận Hội 2008 về mục đích cũng chỉ là một cách bắt chước dụng ý
của Hitler trong việc tổ chức Thế Vận Hội 1936 với cả hệ thống truyền
hình và truyền thanh đạt tới 41 quốc gia. Cả hai đều là cơ hội để chế độ
độc tài củng cố quyền lực và hợp thức hóa vai trò cai trị của họ.
Để tập hợp toàn dân sau lưng đảng và hoán
chuyển đối tượng đấu tranh của tuổi trẻ sang mục tiêu khác hơn là cơ
chế độc tài đảng trị, bộ máy tuyên truyền của đảng CS luôn nhấn mạnh đến
các “thế lực thù địch” đe dọa sự sống còn của Trung Quốc. Bộ máy tuyên
truyền cũng làm tất cả những gì cần thiết để “thế lực thù địch” luôn
hiện diện không chỉ trong suy nghĩ, nhận thức mà cả trong đời sống của
người dân.
“Thế lực thù địch” là ai?
Trước hết là Mỹ: Đối
với Mỹ, mặc dù giữa hai quốc gia có một mối quan hệ kinh tế phụ thuộc
vào nhau một cách phức tạp và sâu xa, Trung Quốc, về đối nội, luôn vẽ
một hình ảnh Mỹ đầy đe dọa trong nhận thức của nhân dân Trung Hoa. Mỹ là
thị trường lớn nhất cho hàng hóa Trung Quốc, tuy nhiên trong thống kê
do BBC thực hiện vào 2009, 58% dân Trung Quốc có cái nhìn tiêu cực về
Mỹ. Trong Sách Trắng Quốc Phòng Trung Quốc 2002 (China Defense White
Paper 2002), Trung Quốc cho rằng việc tăng cường đồng minh giữa Mỹ với
các nước đồng minh Á Châu là “yếu tố của bất ổn” trong khu vực này.
Ngày 8 tháng Năm, 1999, một máy bay Mỹ
ném bom lầm vào tòa đại sứ Trung Quốc tại Belgrade làm thiệt mạng 3 nhân
viên tòa đại sứ và bị thương một số người khác. Biểu tình bùng nổ khắp
Trung Quốc để tố cáo Mỹ “xâm phạm thô bạo chủ quyền Trung Quốc”. Trên internet, các hacker tấn công trang web của tòa đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh và dán ngay trong trang đầu hàng chữ “Đả đảo bọn người dã man”.
Tức khắc sau tai nạn, chính phủ Mỹ làm tất cả những gì họ nghĩ ra để
chứng tỏ sự hối tiếc kể cả việc hạ cờ thấp nửa cột tại tòa đại sứ Mỹ ở
Belgrade. Trung Quốc cũng từ chối cho phép Đại Sứ Mỹ Sasser tham dự lễ
tiễn đưa cũng như không cho phép một phái đoàn cao cấp của chính phủ Mỹ
đến tận Bắc Kinh để xin lỗi.
Giới lãnh đạo Trung Quốc cố tình trì hoãn
việc công bố lá thư xin lỗi của Tổng Thống Clinton để nhân dân Trung
Quốc có dịp trút căm thù lên “thế lực thù địch” đế quốc Mỹ. Các
trường đại học cung cấp xe bus để chở sinh viên đến bao vây tòa đại sứ
Mỹ. Tất cả mười ngàn tờ báo tại lục địa Trung Hoa đăng những bài bình
luận có tính khiêu khích lòng tự ái dân tộc và kết luận tai nạn làm chết
ba người Hoa tại Belgrade là “hành động cố ý”. Ba người chết trong tai nạn thâm chí còn được là ba “thánh tử đạo”.
Các báo đảng được tự do kết tội Mỹ. Vài tờ báo so sánh hành động máy
bay Mỹ ném bom lầm tàn ác không thua gì tội ác chiến tranh do Đức Quốc
Xã gây ra. Trang đầu của Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức
của nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, phân tích các điểm giống nhau
giữa việc Mỹ ném bom với cuộc tấn công của các đế quốc sau Loạn Quyền
Phỉ (Boxer Rebellion). Nhưng quá khích nhất là tờ Tuổi Trẻ Bắc Kinh với
những bài bình luận với nội dung khích động bầu máu nóng của thanh niên.
Ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng sau đó đã trao giải thưởng đặc biệt cho
tờ báo này. Các phản ứng mang tích kích động hận thù Mỹ cũng được thể
hiện qua nhiều biến cố khác như trường hợp máy bay thám thính U.S. EP-3
có thể bay lạc vào không phận Trung Quốc vào tháng Tư 2001 chẳng hạn.
Thái độ quá khích của giới lãnh đạo CS
Trung Quốc phát xuất từ một lý do khác: nỗi sợ bị bao vây. Từ thập niên
1990 đến nay, Trung Quốc luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng “khối
quân sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có
mặt của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Hiện
nay, các quốc gia Đông Á vẫn là đồng minh với Mỹ về mọi mặt, từ kinh tế
chính trị và cả quân sự. Do đó, mối lo lớn nhất của Trung Quốc là bị bao
vây và thật sự nước Cộng Sản này đang bị bao vây. Để đối phó lại các
liên minh quân sự khối, Trung Quốc cố gắng phát triển mối quan hệ đa
phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như Kazakhstan,
Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải (SCO),
tuy nhiên tổ chức này chưa phải là đối lực của các khối thân Mỹ. Tuy
mặt ngoài thân thiện, các cơ quan truyền thông của đảng CS Trung Quốc
cho rằng Mỹ và các nước Tây Phương âm mưu làm cản trở đà tiến của Trung
Quốc. Một số lãnh đạo Trung Quốc còn tố cáo rằng Mỹ đang lừa Trung Quốc
vào cuộc Chiến Tranh Lạnh như Mỹ đã từng áp dụng với Liên Xô để cuối
cùng dẫn đến cả hệ thống Liên Xô tan rã.
“Thế lực thù địch” thứ hai là Nhật: Không
thể và cũng không ai phủ nhận chính sách hà khắc của các chế độ quân
phiệt Nhật với Trung Quốc và Triều Tiên. Những biến cố như vụ Tàn Sát
Nam Kinh (Nanking Massacre) hay còn gọi Hiếp Dâm Nam Kinh (Rape of
Nanking) sau khi thành phố này rời tay Nhật trong chiến tranh Hoa Nhật
lần thứ hai (1937 – 1945) đã được thế giới biết qua nhiều sách vở, phim
ảnh. Từ 1950 đến 2010, lãnh đạo các chính phủ Nhật đã 52 lần xin lỗi về
các tội ác do quân đội Nhật gây ra.
Thái độ chống đối hay ngay cả thù ghét,
căm hận Nhật trong tình cảm của nhân dân các nước bị xâm lăng trước đây
là một phản ứng tình cảm tự nhiên. Theo thống kê 2010, 24 phần trăm
người dân Nam Hàn nghĩ rằng Nhật chưa bao giờ xin lỗi và 58 phần trăm
tin rằng Nhật không xin lỗi một cách thành thật. Tuy nhiên, chánh phủ
Nam Hàn không trộn lẫn các tình cảm chống Nhật vào các chính sách kinh
tế, chính trị và bang giao quốc tế. Tại Trung Quốc thái độ chống Nhật là
một loại vũ khí tuyên truyền của đảng CS.
Giới lãnh đạo CS Trung Quốc kiểm soát
tuyệt đối không chỉ đời sống vật chất mà cả đời sống tình cảm, tinh thần
thương ghét của người dân. Quá nhiều phim ảnh, sách báo tập trung vào
một cuộc chiến đã chấm dứt 60 năm trước. Một đứa bé Trung Quốc khi mới
bắt đầu tập đọc sách đã được dạy căm thù Nhật Bản. Việc đi thăm viếng và
học hỏi tư liệu từ các viện bảo tàng tội ác Nhật là một phần trong
chương trình học của học sinh trung học. Phóng viên tạp chí Time đã
phỏng vấn một nữ sinh 15 tuổi sau khi em vừa viếng thăm Viện Bảo Tàng
Chiến Tranh Chống Nhật và em đã trả lời “Xem xong, em thù Nhật hơn bao
giờ hết”.
Năm 2005, khi Nhật Bản vận động để trở
thành hội viên thường trực của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc, lãnh đạo
CS Trung Quốc lại lần nữa xúi giục hàng vạn sinh viên Trung Quốc xuống
đường phản đối. Các thành phố lớn, sinh viên tấn công các tòa lãnh sự,
các cơ sở thương mại, siêu thị, nhà hàng Nhật kể các công ty hàng hóa
Nhật do người Hoa làm chủ. Giới lãnh đạo CS biết, tội ác của Nhật càng
nặng bao nhiêu thì vai trò cứu rỗi dân tộc của đảng CS Trung Quốc càng
to lớn bấy nhiêu. Hầu hết các nhà phân tích chính trị thế giới đều đồng ý
việc tuyên truyền công lao của đảng CS trong cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc chỉ nhằm biện hộ cho vai trò lãnh đạo lâu dài của đảng.
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đe dọa sự sống còn của đảng CS
Chủ nghĩa Đại Hán là con dao hai lưỡi:
Giáo sư Susan L. Shirk, nguyên Phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao đặc trách
Trung Quốc nhận xét, trong lúc ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng mạnh
trên trường quốc tế, quốc gia này lại rất mong manh trong nội bộ. Sau
biến cố Thiên An Môn, để mua chuộc giới trung lưu có quyền lợi mâu thuẫn
với đảng, giới lãnh đạo đảng CS đã gia tăng tiền lương, nâng cao mức
sống của giới này, cung cấp công ăn việc làm trong hệ thống nhà nước,
thu hút họ gia nhập đảng CS. Mức lợi tức bình quân đầu người tại Thượng
Hải vào khoảng 9000 đô la, cách quá xa so với các khu vực ngoại ô nghèo
nàn. Sự khác biệt giàu và nghèo, thành phố và thôn quê đang báo hiệu một
tai họa. Ngoài ra, như lịch sử đã chứng minh sự phát triển của giai cấp
trung lưu là nguồn thúc đẩy của cách mạnh dân chủ vì đó là giai cấp có
học thức, có phương tiện và có nhiều nhu cầu vật chất cũng như tinh thần
cần được thỏa mãn. Tại Trung Quốc, giới lãnh đạo đảng CS đến nay đang
thành công trong việc cầm chân giới trung lưu nhưng không thể nào giữ
được lâu dài.
Đối với các dân tộc thiểu số, chỉ riêng
ba tháng đầu năm 2009, Trung Quốc đã có 50 ngàn vụ xung đột có tính bạo
động lớn nhỏ giữa dân thiểu số và lãnh đạo CS tại địa phương. Các cuộc
nổi dậy chống chính sách Hán hóa tại 5 khu vực tự trị Tân Cương
(Xinjiang), Ninh Hạ (Ningxia), Nội Mông Cổ, Tây Tạng và Yining (thủ phủ
khu tự trị dân tộc Kazakh Ili) cũng như với 50 nhóm thiểu số khác khắp
Trung Quốc ngày càng gia tăng. Lợi thế của các dân tộc thiểu số tuy ít
về dân số nhưng sở hữu những vùng đất rộng mênh mông rất dễ gây khó khăn
cho chính quyền trung ương.
Cũng trong tác phẩm Trung Quốc, siêu cường dễ vở (China Fragil Superpower), Giáo
sưSusan L. Shirk nhận xét giới lãnh đạo CS Trung Quốc luôn sống trong
tình trạng bất an khi nghĩ về ngày vĩnh biệt không thể tránh khỏi của
chế độ CS tại lục địa Trung Hoa. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan phát triển
đến một giai đoạn không còn kiểm soát được đang trở thành mối đe dọa cho
sự tồn tại của đảng CS và bộ máy độc tài.
Chủ nghĩa Đại Hán làm gia
tăng bất hòa, thù địch với các nước láng giềng và sẽ đẩy các nước nhỏ
không có chọn lựa nào khác hơn là liên minh quân sự: Từ
thập niên 1990 đến nay, Trung Quốc luôn chống đối mọi sự liên minh theo
dạng “khối quân sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng
như sự có mặt của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung
Á. Phần lớn các quốc gia vùng Đông Á vẫn là đồng minh với Mỹ về mọi
mặt, từ kinh tế chính trị và cả quân sự. Mối lo lớn nhất của Trung Quốc
là bị bao vây và thật sự nước Cộng Sản này đang bị bao vây. Để đối phó
lại các liên minh quân sự khối, Trung Quốc cố gắng phát triển mối quan
hệ đa phương với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO), tuy nhiên tổ chức này chưa phải là đối lực của các
khối thân Mỹ. Tuy mặt ngoài thân thiện, các cơ quan truyền thông của
đảng CS Trung Quốc được chỉ thị phải liên tục tố cáo Mỹ và các nước Tây
Phương âm mưu làm cản trở đà tiến của Trung Quốc. Một số lãnh đạo Trung
Quốc còn nghĩ rằng Mỹ đang dẫn dắt Trung Quốc vào cuộc Chiến Tranh Lạnh
như Mỹ đã làm với Liên Xô để cuối cùng dẫn đến cả hệ thống Liên Xô tan
rã.
Chiếc mặt nạ chủ nghĩa dân tộc sớm muộn sẽ rớt xuống:
Trung Quốc mặt ngoài rất hung hăng, cứng rắn, ăn hiếp láng giềng qua
các đụng độ quân sự nhỏ nhưng rất sợ chiến tranh quốc tế hay khu vực bởi
vì như nhà ngoại giao kỳ cựu Ngô Kiến Dân cảnh cáo “Rất nhiều người
cho rằng cứ tiến hành chiến tranh để giành chiến thắng là ổn. Thực ra
không phải vậy, mà ngược lại, sẽ chỉ làm tình hình xung quanh Trung Quốc
rơi vào hỗn loạn.” Nhà ngoại giao Ngô Kiến Dân cũng so sánh giữa
chủ nghĩa dân túy của Hiter và chủ nghĩa dân tộc cực đoạn tại Trung Quốc
hiện nay “Hitler có yêu nước Đức không? Dĩ nhiên có, nhưng hắn theo
chủ nghĩa dân túy. Thanh niên ngày nay cần có tầm nhìn rộng mở, phải có
trái tim bao dung thiên hạ. Thứ chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi là không thể được. Một quốc gia chỉ
biết cái lợi riêng mình thì sẽ mất hết bạn bè, sẽ bị cô lập. Thời nay,
cô lập là tai họa….Trong thời đại toàn cầu hóa, tin học hóa khiến lợi
ích các nước gắn kết chặt chẽ với nhau như hiện nay, đã đến lúc chúng ta
không thể đóng cửa lại để tuyên truyền thứ chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi.”
Giới lãnh đạo CS Trung Quốc không phải
không ý thức hiểm họa đó, tuy nhiên, để kéo dài sự sống, giới lãnh đạo
CS Trung Quốc không có chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục giương cao ngọn
cờ chủ nghĩa dân tộc và xoay xở bằng mọi cách để phát triển kinh tế. Cả
hai điều kiện đầu bất khả thi. Không một nền kinh tế nào có thể duy trì
được mức phát triển cao một cách liên tục và không sự thật nào được che
giấu mãi mãi. Sự phẫn nộ của dân chúng trước các suy thoái kinh tế xã
hội sẽ trút lên đầu đảng CS. Sắc dân Hán tuy đông nhưng sẽ không cứu
được đảng CS. Lịch sử đã chứng minh, không phải ngày nay sắc dân Hán mới
chiếm đa số mà đã là đa số trong nhiều ngàn năm trước nhưng vẫn bị các
sắc dân nhỏ uy hiếp, tấn công và ngay cả cai trị. Sự suy yếu bên trong
và áp lực bên ngoài là những mối đe dọa thường trực và trực tiếp cho
quyền cai trị của đảng CS.
Bài học Tiệp Khắc trước chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán ngày nay
Chủ trương bành trướng về phía Đông Âu
của Hitler để làm bàn đạp chinh phục Âu châu cũng không khác gì nhiều so
với chủ trương bành trướng Đông Nam Á làm bàn đạp chinh phục Á châu của
giới lãnh đạo CS Trung Quốc hiện nay.
Sau khi sáp nhập Áo không có một phản ứng
mạnh nào từ phía các cường quốc Âu Châu, Hitler đòi vùng Sudelenland
trù phú với đa số dân nói tiếng Đức từ Tiệp Khắc. Anh Pháp nhượng bộ.
Hiệp ước Munich được ký kết bất chấp sự chống đối của chính phủ Tiệp.
Không lâu sau đó, Hitler chiếm luôn Tiệp Khắc. Tháng Chín 1939, Đức tấn
công Ba Lan. Anh và Pháp cam kết ủng hộ Ba Lan và tuyên chuyến với Đức.
Thế chiến thứ hai thật sự bùng nổ. Hậu quả, khoảng 60 triệu người trên
thế giới đã chết trong sáu năm kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại.
Trường hợp Tiệp Khắc là bài học lớn cho
dân tộc Việt Nam và sẽ được phân tích trong bài viết đầy đủ hơn sau này.
Tuy nhiên một cách vắn tắt, lý do chính làm Tiệp Khắc bị xóa tên trên
bản đồ thế giới ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chưa hẳn vì
Anh và Pháp đã bán đứng cho Hitler tại hội nghị Munich như nhiều sử gia
đồng ý. Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh đạo
chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain chỉ là
nguyên nhân khách quan, nằm ngoài vòng kiểm soát chủ động của chính phủ
và nhân dân Tiệp. Tiệp Khắc rơi vào tay Hitler nhanh chóng chỉ vì Tiệp
Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm
tôi mọi ngoại bang và không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Hitler nhắm vào Tiệp Khắc vì y biết Tiệp Khắc là một quốc gia nhưng
không có nội lực của một dân tộc thống nhất. Như người xưa nhắn nhủ muốn
thắng kẻ thù trước hết phải chiến thắng chính mình. Trong phạm vi dân
tộc cũng thế, trước khi thắng được ngoại xâm một dân tộc phải biết vượt
qua mọi bất đồng, biết hy sinh, biết đoàn kết thành một mối, và nếu cần
phải biết chết cho các thế hệ tương lai của dân tộc được sống còn.
Tham khảo:
- Susan L. Shirk, China Fragil Superpower, Oxford University Press, 2007.
- Center for Strategic and International Studies and the Peter G. Peterson Institute for International Economics, China: The Balance Sheet, Public Affairs 2007
- Wenfang Tang and Gaochao He, Separate but Loyal: Ethnicity and Nationalism in China, East-West Center 2010, Hawaii University 2010.
- Roderick MacFarquhar, Michael Schoenhals, Mao’s Last Revolution, Cambridge, MA, Belknap Press of Harvard University
- The Democracy Wall Movement and the Variations of Socialist Democracy, Department of Contemporary History. The 7th Biennial Nordic Conference on Chinese Studies, Helsinki 7-9 June 2005
- Jayshree Bajoria, Nationalism in China, Council on Foreign Relations, April 23, 2008
- Wei Jingsheng: China’s Spirit of Democracy
- Tiananmen Square, 1989.The Declassified History
- Robert Kagan, The End of History, The New Republic, April 23, 2008
- Joshua Kurlantzick, Nonstop party, The surprising persistence of Chinese communism, Boston Globe, November 22, 2009.
- Maria Hsia Chang, Thoughts of Deng Xiaoping, The Regents of the University of California 1996
- Peter Hitchens, How China has created a new slave empire in Africa, Mail, 28th September 2008
- Trần Trung Đạo, Từ Olympic đến Darfur, đế quốc đỏ trên lục địa đen, Talawas, 19th August 2008
- Matthew Forney, Why China Loves to Hate Japan, Time, Dec 10 2005
- Austin Ramzy, Bao Tong on Deng Xiaoping, ON THE WEB, 30 December 2008
- Ngô Kiến Dân Vũ lực không giải quyết được tranh chấp ở Biển Đông Tiền Phong, 15/07/2012
- Robert L. Worden, Andrea Matles Savada and Ronald E. Dolan, China: A Country Study. Washington: GPO for the Library of Congress, 1987
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét