Việt Nam: “Cải cách hay là chết”
Tác giả: Carl ThayerNgười dịch: Dương Lệ Chi
05-07-2012
Câu hỏi: Tại đại hội đảng gần đây, các đảng viên đã loan báo rằng Đảng Cộng sản Việt Nam nên “cải cách hay là chết”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm gì để cố gắng thực hiện khẩu hiệu mới này, họ đã làm được nhiều điều cho tự do hay dân chủ hóa hay chưa?
Đáp: “Cải cách hay là chết” là một khẩu hiệu lần đầu tiên được nghe trong thập niên 1970 khi hệ thống nhà nước theo kiểu Liên Xô của Việt Nam lên kế hoạch phân phối hàng hóa và dịch vụ cho những người nông dân và công nhân thành thị, nhưng đã bị thất bại nặng nề. “Cải cách” ở Việt Nam hiện có nghĩa là dân chủ tự do hoặc thậm chí có những bước thăm dò theo hướng dân chủ hóa. Có nghĩa là điều chỉnh theo hướng kinh tế XHCN và hệ thống chính trị một đảng để giữ chế độ hiện hành nắm quyền. Các đại biểu Đảng chủ yếu tập trung vào việc làm thế nào chấm dứt nạn tham nhũng tràn lan hiện đang phổ biến rộng rãi, đã được xác định như là mối đe dọa chính đến tính hợp pháp về chính trị của đảng. Và họ cũng tập trung vào khu vực nhà nước, khu vực có được đặc quyền nhờ vay những món nợ ưu đãi và giá đất tăng cao. Cải cách doanh nghiệp nhà nước bị đình trệ, và các tập đoàn lớn thuộc sở hữu nhà nước, chẳng hạn như Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Quốc gia, Vinashin, Tổng Công ty Hàng hải Quốc gia, Vinalines, đang trong cảnh nợ nần tồi tệ qua việc đa dạng các hoạt động, và đầy dẫy tham nhũng. “Cải cách hay là chết” trong bối cảnh hiện nay có nghĩa là, đưa chuyện nội bộ của Việt Nam vào trật tự, đặc biệt là nền kinh tế, để Việt Nam có thể cạnh tranh sinh lợi trên thị trường toàn cầu.
Câu hỏi: Trung tâm quyền lực chính ở Việt Nam là gì? Các đảng viên cấp tỉnh, quân đội hay chính phủ nắm giữ? Quyền lực ở đất nước này được phân bổ như thế nào? Nó ảnh hưởng đến chính trường như thế nào?
Đáp: Trung tâm quyền lực của Việt Nam được trao cho khối đại diện Trung ương Đảng và các thành phần này (tôi đặt tên cho họ) đã được thống nhất đại diện từ năm 1982. Có 4 trung tâm quyền lực: bộ máy đảng gồm Ban Bí thư và các ủy viên Trung ương Đảng; bộ máy chính phủ được chia giữa Chính phủ (Nội các) và Quốc hội, các lực lượng vũ trang và chính quyền tỉnh. Có sự căng thẳng giữa việc sử dụng quyền lực cấp trung ương (cấp quốc gia – Hà Nội) và cấp địa phương (năm thành phố độc lập và các tỉnh). Các lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở trung ương phải đối phó với “các vương quốc độc lập” ở cấp địa phương. Điều này có nghĩa là việc áp dụng luật quốc gia đôi khi bị tránh né.
Một trong những ví dụ rõ nhất về căng thẳng sôi sục liên quan đến cam kết của lãnh đạo chính phủ Việt Nam với Hoa Kỳ là tôn trọng tự do tôn giáo, gồm cả việc ngưng bắt buộc từ bỏ tôn giáo. Bất chấp luật pháp quốc gia và các nghị định, các quan chức địa phương vẫn có thể tìm cớ để đàn áp các phong trào tôn giáo độc lập, như phong trào Tin lành ở Tây Nguyên và phong trào Thiên Chúa giáo của dân tộc thiểu số Hmong ở các tỉnh Tây Bắc.
Câu hỏi: Chủ tịch nước và Thủ tướng, ai là người cải cách nhiều hơn? Và điều này ảnh hưởng đến đất nước như thế nào?
Đáp: Cả chủ tịch nước và Thủ tướng là lãnh đạo đảng ở miền nam và đặc biệt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Họ thúc đẩy cải cách kinh tế, cho phép doanh nghiệp tư nhân phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài. Sự khác biệt giữa họ là những cuộc xung đột cá nhân. Ông Nguyễn Tấn Dũng đã phá vỡ khuôn mẫu của sự lãnh đạo tập thể và nổi lên gần như là một nhà lãnh đạo nổi tiếng. Ông ấy nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông cả trong và ngoài nước. Ông Dũng đang trong nhiệm kỳ thứ hai trên cương vị thủ tướng. Ông Trương Tấn Sang tương đối mới với chức chủ tịch nước, mới được bổ nhiệm hồi năm 2011. Trước đó, ông là người đứng đầu Ban Bí thư Đảng. Ông Sang và một số đồng minh của ông đã dẫn đầu chống lại Thủ tướng Chính phủ trong nhiệm kỳ đầu [ông Dũng làm thủ tướng], khi chính sách kinh tế của ông ấy dẫn tới lạm phát rất cao. Triển vọng tăng trưởng của Việt Nam tiếp tục bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 1997-1998. Tôi không chắc chắn “cải cách” hoàn toàn nắm bắt các động lực chính trị hiện tại. Ông Sang và nhóm người của ông quan ngại rằng, nếu các chính sách kinh tế không thay đổi, sẽ có bất ổn xã hội. Nên Thủ tướng Chính phủ bị Bộ Chính trị kiềm chế. Việt Nam đã thông qua một gói kích thích kinh tế chính thức và vượt qua cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Động lực chính trị quan trọng là chủ tịch nước muốn có nhiều quyền hành hơn và được tham gia vào một số vấn đề lớn hơn. Ông ấy và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cùng chia sẻ mối quan tâm về việc “kiểm tra và cân bằng” thủ tướng.
Câu hỏi: Tôi đọc tin, biết rằng ban [chỉ đạo phòng chống] tham nhũng hiện do đảng lãnh đạo? Đây không phải là một dấu hiệu xấu?
Đáp: Lần đầu tiên khi Nguyễn Tấn Dũng được bầu làm thủ tướng, ông ấy thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng với chính ông ấy là người đứng đầu. Ông ấy đã nhấn tất cả các nút để tăng tốc độ điều tra của cảnh sát và các thủ tục tố tụng tư pháp chống lại những vụ bị cáo buộc tham nhũng lớn. Thời gian trôi qua, cao su chạm với mặt đường nên sinh ra ma sát, và động lực chống tham nhũng chậm lại, Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về các vụ bê bối tham nhũng khổng lồ trong 2 tập đoàn lớn của chính phủ mà ông ấy kiểm soát trực tiếp. Cuối năm ngoái, ông ấy bị buộc ra trước Quốc hội và nhận trách nhiệm về chuyện Vinashin không trả nợ đúng hạn các khoản vay nước ngoài. Năm nay, ông ấy bị áp lực phải nhận trách nhiệm về việc bổ nhiệm một quan chức đứng đầu Vinalines, đã bị bãi nhiệm trước đó.
Thủ tướng không có khả năng kiểm soát tham nhũng, dẫn đến kết quả là đảng đã loại bỏ ông ấy ra khỏi Ban Chỉ đạo [phòng chống tham nhũng] và để những người do đảng chỉ định kiểm soát. Một vấn đề trong việc trừng trị các vụ tham nhũng lớn là, nó liên quan đến các đồng minh chính trị của các nhà lãnh đạo hàng đầu.
Câu hỏi: Kể từ năm 2011, có một cuộc đàn áp những người sử dụng internet và các nhà hoạt động, chính phủ đang có kế hoạch đưa các luật mới để hạn chế việc sử dụng internet. Vấn đề này ở Việt Nam nghiêm trọng như thế nào?
Đáp: Từ quan điểm của các cơ quan an ninh và các nhà bảo thủ trong đảng, việc sử dụng Internet của các blogger và các mạng xã hội để nêu các vấn đề chính trị và chỉ trích chính phủ, là mối đe dọa lớn đối với khả năng kiểm soát thông tin và sự phổ biến thông tin. Internet cho phép sự xuất hiện mạng lưới liên minh ủng hộ dân chủ của đất nước, được biết đến như khối 8406, lấy tên từ ngày thành lập khối này là ngày 8 tháng 4 năm 2006. Các nhà hoạt động chính [của khối 8406] đã bị bắt và bị cầm tù. Các blogger đã trở nên tích cực trong một phong trào xã hội lớn, phản đối khai thác boxit ở Tây Nguyên, một dự án được sự quan tâm nhất của thủ tướng, liên quan đến đầu tư từ Trung Quốc. Gần đây, các blogger và các nhà hoạt động xã hội đã bắt đầu thúc giục chống Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông. Điều này khơi dậy chủ nghĩa dân tộc chống Trung Quốc. Chính phủ của đảng cảm thấy bị đe dọa vì điều này sẽ làm suy yếu chủ nghĩa dân tộc [mà đảng đã gầy dựng] như điều căn bản về tính hợp pháp cho sự cầm quyền độc đảng.
Mặc dù thực tế là Hoa Kỳ đã nhiều lần cảnh báo Việt Nam rằng, mối quan hệ song phương của họ không thể nâng lên cấp độ cao hơn trừ khi vấn đề nhân quyền được giải quyết, nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục đàn áp các blogger. Nói cách khác, các vấn đề được một số người bảo thủ trong đảng xem là quá nghiêm trọng để họ sẵn sàng hủy bỏ các mối quan hệ với Hoa Kỳ (và vì thế đối trọng với Trung Quốc) để đáp ứng các mối đe dọa nội bộ. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu năm 1989 và sự tan rã của Liên Xô hai năm sau đó vẫn là bài học sâu sắc mà chủ nghĩa xã hội độc đảng cảm thấy không an toàn để thay đổi.
Câu hỏi: Việt Nam đương đầu với sự suy giảm kinh tế và lạm phát tăng cao như thế nào? Ông có nghĩ rằng áp lực kinh tế có thể đẩy mọi người xuống đường tương tự như những gì thế giới Ả Rập đã chứng kiến?
Đáp: Việt Nam có các kết quả hỗn hợp. Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hợp lý, chỉ dưới 6%, và lạm phát đã giảm xuống từ tỉ lệ lạm phát cao là 23% trong năm 2008. Xuất khẩu Việt Nam sang thị trường châu Âu và Bắc Mỹ không còn phát triển ở tốc độ như trước đây. Lạm phát chủ yếu ảnh hưởng đến các khu vực thành thị và những người mới phất trong đảng cũng như các cán bộ nhà nước. Những lời than phiền gia tăng về ùn tắc giao thông liên tục, ô nhiễm, cúp điện và chi phí sinh hoạt. Nhưng không có bằng chứng thật sự nào cho thấy, những người này phụ thuộc vào chế độ sẽ xuống đường. Họ đã được hưởng lợi từ hệ thống. Theo quan điểm của họ, hệ thống này không là gì cả trừ chuyện áp bức. Hệ thống chính trị Việt Nam tạo ra quá trình chuyển đổi thế hệ có trật tự. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải nghỉ hưu ở tuổi 65 và chỉ có thể lãnh đạo nhiều nhất là hai nhiệm kỳ. Những người tuyên truyền cho chế độ ở Việt Nam bám vào tình trạng bất ổn ở nước ngoài như là một bài học cụ thể để cảnh báo công dân của họ – thay đổi quá nhiều sẽ dẫn đến hỗn loạn và bất ổn, và hủy hoại những điều kiện sống mà khó khăn lắm họ mới có được.
Câu hỏi: Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong những năm gần đây và đặc biệt đối với Mỹ, đã thay đổi nhiều như thế nào?
Đáp: Đứng trên quan điểm rộng lớn thì chính sách đối ngoại của Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn. Việt Nam đã từng có quan điểm nhị phân về thế giới: chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa đế quốc. Đó là một cuộc đấu tranh sống còn, theo khẩu hiệu “Ai sẽ chiến thắng”. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Việt Nam thông qua chính sách đa dạng hóa, đa phương chính sách đối ngoại của mình để trở thành một đối tác đáng tin cậy cho tất cả các nước. Nếu câu này nghe có vẻ nhàm chán, nhìn vào kết quả: năm 1991 Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa quan hệ sau một thập kỷ đối đầu trong cuộc chiến ở Cambodia; Nhật Bản khôi phục hỗ trợ phát triển nước ngoài [cho Việt Nam], và năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ và Việt Nam gia nhập ASEAN.
Việt Nam là nước ở châu Á đã được chọn làm ứng viên vào chức ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc và được Đại Hội đồng LHQ bầu với số phiếu áp đảo.
Về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: kể từ khi bình thường hóa quan hệ, hai nước đã ký Hiệp định Thương mại Song phương và hiện đang đàm phán để làm thành viên Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất của Việt Nam. Báo cáo Quốc phòng bốn năm một lần của Mỹ gần đây nhất đã xác định Việt Nam là một đối tác chiến lược tiềm năng. Năm 2010, khi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đến thăm Hà Nội, bà đã kêu gọi nâng mối quan hệ song phương lên cấp độ mới và đề nghị mối quan hệ đối tác chiến lược. Các cuộc đàm phán hiện đang bị sa lầy vì các vấn đề nhân quyền.
Quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt đã phát triển chậm từ năm 2003 khi [hai bên] đồng ý trao đổi các cuộc thăm viếng qua lại giữa Bộ trưởng Quốc phòng [hai nước] ba năm một lần. Bộ trưởng Panetta vừa đến thăm Việt Nam. Từ năm 2003, Hải quân Mỹ được phép cập cảng Việt Nam một lần trong năm. Năm 2010, Mỹ – Việt đã tiến hành các hoạt động hải quân hàng năm đầu tiên (không phải các cuộc tập trận liên quan đến kỹ năng chiến đấu). Năm ngoái, Việt Nam và Hoa Kỳ đã nâng cấp đối thoại chiến lược giữa Bộ Quốc phòng hai nước lên cấp thứ trưởng và đồng ý ký một Bản Ghi nhớ về hợp tác quốc phòng.
Trong chuyến thăm của Bộ trưởng [Quốc phòng Mỹ] Panetta, ông ấy đã được phép đến thăm Vịnh Cam Ranh, căn cứ của Mỹ trước đây. Nhiều năm qua, Việt Nam đã lặng lẽ tiến hành sửa chữa 5 tàu thuộc Bộ Tư lệnh Hải vận Hoa Kỳ (US MSC). Những con tàu này không phải tàu chiến, mà là tàu hậu cần với thủy thủ đoàn là thành phần dân sự. Ba lần sửa chữa gần đây nhất đã được thực hiện ở Vịnh Cam Ranh. Khi ông Panetta gặp người đồng nhiệm phía Việt Nam ở Hà Nội, Việt Nam thông báo rằng họ mở cửa ba khu vực để phục hồi việc tìm kiếm người Mỹ mất tích khi làm nhiệm vụ (MIA), đã bị hạn chế trước đây.
Một trong những điểm trở ngại trong hợp tác quốc phòng là luật pháp Hoa Kỳ ngăn cấm việc bán thiết bị quân sự và vũ khí sát thương cho Việt Nam và cũng hạn chế các quy định liên quan đến nhiều dịch vụ quân sự với Việt Nam. Việt Nam có thể mua một số thiết bị quân sự không sát thương và dịch vụ quân sự trong từng trường hợp cụ thể.
Đề nghị trích dẫn: Carlyle A. Thayer, “Việt Nam: ‘Cải cách hay là chết’“, Thayer Consultancy, ngày 5-7-2012.
Nguồn: Thayer Consultancy
Bản tiếng Việt © BS 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét