Điển
hình nhất trong số các tập đoàn kinh tế rơi vào tình trạng trên, ngoại
trừ Vinashin, là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) với nợ phải trả/nguồn
vốn chủ sở hữu là 4,22 lần tính đến cuối năm 2010, theo Kiểm toán Nhà
nước.
Tỷ
lệ nợ phải trả/ nguồn vốn chủ sở hữu ở các doanh nghiệp nhà nước được
cho là nguy hiểm khi vượt quá 3 lần, theo Nghị định số 09 của Chính phủ
ban hành 05/02/2009.
Báo
cáo của Kiểm toán Nhà nước khẳng định: “Tình hình tài chính của EVN khó
khăn, không đảm bảo độ an toàn”. Trong khi đó, một số tập đoàn kinh tế
khác đã thậm chí đã từng vượt xa ngưỡng được cho là an toàn này.
Theo
báo cáo tháng 12 vừa qua của Bộ Tài chính, có 30 tập đoàn, tổng công ty
có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó, có 7 tập
đoàn, tổng công ty có tỷ lệ này trên 10 lần, có 9 tổng công ty từ 5-10
lần, có 14 tổng công ty từ 3-5 lần.
Tính
đến cuối năm 2010, tổng nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty lên
tới 1.088.290 tỉ đồng (khoảng 52 tỉ đô la Mỹ), lớn hơn 1,67 lần so với
tổng vốn chủ sở hữu là 653.166 tỉ đồng, theo Bộ Tài chính.
Bộ
này cho biết, lỗ lũy kế của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
lên đến 26 ngàn tỉ đồng tính đến cuối năm ngoái. Báo cáo của Bộ Tài
chính không nêu đích danh các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu
đang ở mức báo động này.
Tuy
nhiên, báo cáo đề cập đến tên “đang thua lỗ” như EVN, Vinalines, Tập
đoàn Phát triển nhà và đô thị, Tổng công ty Xây dựng công trình giao
thông 1, Tổng công ty Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp, Tổng
công ty Xăng dầu quân đội, Tổng công ty Chè.
Phó trưởng ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp thuộc Văn phòng Chính phủ Phạm Viết Muôn nói với TBKTSG Online:
“Nhìn chung, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực được phân bổ”. Vẫn
theo Ban chỉ đạo, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu của EVN trong năm 2009 là 2,69
lần.
Tiến
sĩ Võ Trí Thành của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương nói:
“Hãy nhìn tỷ lệ của EVN là vẫn an toàn năm 2009, vậy mà đã trở nên
nghiêm trọng khi được kiểm toán chỉ một năm sau đó”. Ông Thành cho rằng
Chính phủ cần cập nhật sớm các tỷ lệ này ở các tập đoàn kinh tế.
Theo
Kiểm toán Nhà nước, tính đến cuối năm 2011, nợ phải trả của EVN lên đến
239.761 tỉ đồng (khoảng 11,5 tỉ đô la Mỹ), trong đó nợ ngắn hạn là
65.493 tỉ đồng (hơn 27%) và nợ dài hạn là 174.268 tỉ đồng (gần 73%).
Như vậy, theo cơ quan này, EVN hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn vay và vốn chiếm dụng.
Tính
đến cuối năm 2010, EVN còn nợ tiền mua điện của Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam (PVN) là 4.014 tỉ đồng và nợ tiền mua điện của Tập đoàn Than -
Khoáng sản Việt Nam (TKV) là 855 tỉ đồng.
Đến thời điểm kiểm toán (30/6/2011) EVN còn nợ tiền mua điện của PVN là 8.861 tỉ đồng và nợ của TKV là 1.211 tỉ đồng.
Theo
báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang
chiếm tới 60% tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, Thống đốc Nguyễn Văn Bình
trong một hội thảo do báo Nhân Dân tổ chức gần đây cho biết, con số này
chỉ là vỏn vẹn 16%.
Việc
minh bạch số liệu của các tập đoàn kinh tế, vốn được xác định là đầu
tàu kinh tế ở Việt Nam, luôn được đòi hỏi ở nhiều diễn đàn khác nhau,
nhất là Quốc hội.
Nhiều
ý kiến cho rằng, các tập đoàn này phải công khai số liệu như các doanh
nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán. Tuy nhiên, đòi hỏi này đến nay
chẳng mấy kết quả.
Hiện tại, khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ tạo ra 1,2 triệu việc làm, một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số dân 88 triệu ở Việt Nam.
- (TBKTSG)
- Căng thẳng nợ chính phủ ở Mỹ và nguy cơ vỡ nợ công tại nhiều nước
châu Âu làm cho kinh tế thế giới u ám chưa biết đến bao giờ. Nhưng mầm
mống gây tai họa lại chưa phải là ở mức trần, ở phần trăm GDP, hay các
đống nợ tới hạn... Sự quan ngại và vấn đề làm sao tránh vết xe nghiêng
cũng không thể chỉ dựa vào các bề nổi dễ thấy kia.
Phần
khó thấy là hậu quả của một chuỗi dài tích tụ và ẩn sâu trong bối cảnh
mỗi nước. Cụ thể là tình trạng mất cân đối, hay khả năng không thể cân
đối được nguồn thu để trả nợ hoặc nuôi nợ (debt service). Tình trạng mất
cân đối này đã bị hào quang phồn thịnh thời sung mãn che lấp. Đến một
lúc nó lộ diện nhanh và trở nên thúc bách trong điều kiện khó khăn, đặc
biệt là những khó khăn dồn dập từ sau cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở
Mỹ dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008.
Cho
dù có sự khác nhau về nguyên nhân giữa Mỹ và các nước lâm nạn ở châu
Âu, tất cả lại có chung đặc điểm về tính chất: Đó là sự vung tay quá
trán, do bất cẩn, hào phóng chơi sang hay thậm chí liều lĩnh để có tiền.
Loại trừ mặt trái của việc vay nợ (như mưu đồ chính trị), văn hóa chơi
sang (sự tiêu phí), để lấy tiếng hay thỏa mãn nhu cầu hiện tại một cách
đơn giản, dễ làm cho người ta quên việc họ xài tiền của tương lai. Khả
năng trả nợ do đó có thể bị đánh cược.
Khả
năng trả nợ liên quan đến kế hoạch trả nợ. Một kế hoạch trả nợ an toàn
và khả thi được dựa trên nguồn thu trong tương lai. Đối với hoạt động
kinh tế, đây chính là hiệu quả và quá trình thu hồi vốn đầu tư từ các
khoản vay. Quá trình này thường dài nên cần có sự tiên liệu cho một kế
hoạch trả nợ khả thi. Kế hoạch trả nợ theo nghĩa vụ ở đây đòi phải có
dòng tiền ổn định tương thích theo thời gian, trong khi bất trắc lại có
thể xảy ra bất cứ lúc nào. Giàu như Mỹ vẫn phải dè dặt (mức trần nợ
chính phủ), lắm tiền như Trung Quốc cũng phải giật mình (vấn đề nợ địa
phương), thì Việt Nam không thể không lo.
Lo
là vì các khoản vay có đáo hạn nhiều chục năm tưởng không bức bách lại
cột chặt ta (con nợ) vào chu kỳ trả nợ. Nợ công lại còn phức tạp ở chính
chỗ “công”. Tại sao? Do người đi vay, người sử dụng và người trả nợ
thường (hay luôn) là khác nhau. Về pháp lý, “người” ở đây có thể là quốc
gia, là tổ chức. Nhưng các tư cách này (pháp nhân công) càng xuống thấp
sẽ càng tiệm cận với con người thật. Đó là con người thật sử dụng nợ và
con người thật trả nợ. Nếu chẳng may những con người thật sử dụng nợ
“hưởng” sớm thì đằng trả nợ về sau (con cháu chúng ta) sẽ khổ. Do vậy,
năng lực, trách nhiệm và đạo đức của người sử dụng nợ sẽ rất cần mực
thước.
Việc
sử dụng nợ cũng rất cần được đặt thành tiêu chí. Theo đó, nợ công nhất
thiết phải được sử dụng để phục vụ công. Hiệu quả nợ công phải đo được,
mục tiêu của nợ công không đơn giản chỉ là dân sinh (như từng có ở Mỹ)
hay cho hoành tráng (trường hợp Hy Lạp), mà chủ yếu là để tạo ra “dòng
tiền”. Dòng tiền ở đây có thể là các khoản tiền cứng, có thể là các yếu
tố hạ tầng tạo điều kiện kích thích phát triển. Việc cân đối mức an toàn
giữa nợ nội tệ và nợ ngoại tệ (sovereign debt) là một yêu cầu khác
không thể xem nhẹ.
Việc
trông cậy vào dòng tiền buộc ta phải lập các phép tính về chuỗi trả
theo thời đoạn (dạng thức amortizing). Khả năng đảm bảo dòng tiền cho
tương lai này có thể kiểm nghiệm được trong hiện tại qua việc thẩm định
độc lập và so sánh về mục đích sử dụng vốn, chi phí đầu tư, chất lượng
công trình...
Tình
trạng phân bổ dàn trải, địa phương nào cũng có phần, để nuôi những “đứa
con” làm ăn kém, nhưng lại thiếu tập trung cho những đầu kéo (vùng động
lực) trong giai đoạn cần bứt lên, đã làm cho mục đích sử dụng vốn kém
hiệu quả. Nếu chi phí làm 1 ki lô mét đường cao gấp ba lần so với nước
khác, nhưng tuổi thọ lại thấp hơn ba lần, thì có thể thấy ngay sự bất ổn
của dòng tiền. Đó là chưa nói đến các hệ lụy tương tác (hay hậu quả) về
kinh tế xã hội như lạm phát, tham nhũng, bất công.
Dù
sao ta cũng không nên quên rằng song hành với thế giới biến động hiện
nay còn có một thế giới đang vận động. Không khó thấy các nước lâm nạn
trước bão tố họ đã kịp nhận ra sai lầm (hay dại dột) của mình, đã có sự
thức thời và linh hoạt trong xoay chuyển, chứ chẳng ngồi yên. Đó chính
là quá trình sửa sai khá căng thẳng và không kém đau đớn đang diễn ra ở
Âu Mỹ và nhiều nước khác.
Sửa
sai (correction) là bước cần thiết cho yêu cầu thích ứng. Nó có giá trị
ứng dụng rộng với nhiều tình huống, không phân biệt thực thể, bất kể đó
là một cá nhân hay quốc gia, trước một hành xử đơn lẻ hay chính sách
lớn. Các cơn địa chấn nợ lâu nay buộc ai cũng phải nghiêm túc soi lại
mình. Tại Việt Nam, cứ cho là cấu trúc nợ công (khoảng 58% GDP 2011)
chưa có gì phải lo, thì khả năng bền vững của dòng tiền (đặc biệt là
ngoại tệ) có thể đã đáng lo. Các thực trạng liên quan đến mục đích, chất
lượng và hiệu quả sử dụng nợ công trong quá khứ cho phép người viết đưa
ra ý kiến này.
Không
riêng nợ công, nợ tư cũng không nằm ngoài quá trình sửa sai nói trên.
Bản thân nợ không có gì xấu cả. Có thể ví nợ như một yếu tố ngoại lai bổ
sung cho cơ thể khi cần. Chỉ có sự lạm dụng, cẩu thả và thiếu hiểu biết
mới xấu. Cũng đừng quên nợ là con dao hai lưỡi. Nó hóa giải cái khó
hiện tại, làm tốt tương lai, nhưng mặt khác, nó cũng có thể gây nhiễu
hiện tại và đẩy gánh nặng cho tương lai.
Do
vậy, một cá nhân uy tín đi vay mua nhà không thể xem nhẹ kế hoạch trả
nợ; một doanh nghiệp có thể mạo hiểm trên vốn riêng, nhưng không thể
“liều” với các khoản vay như núi; một ngân hàng không được phép dễ dãi
từ nguồn tích góp công chúng trong quá trình “mượn đầu heo nấu cháo” của
mình để có thể đe dọa sự an nguy hệ thống.
Một
lần nữa, việc quản lý dòng tiền là yếu tố sống còn của tất cả. Dòng
tiền mà khô cạn thì doanh nghiệp sẽ lắc lư. Đáng buồn là điều này (sự
thiếu cẩn trọng và nhận biết) lại đã gây ra không ít bế tắc.
Các
doanh nghiệp có cơ cấu nợ cao hoặc làm ăn dựa quá nhiều vào vốn vay rất
dễ nhạy cảm trước các giai đoạn lãi suất cao. Khó khăn vừa qua của
nhiều doanh nghiệp, trong đó có không ít doanh nghiệp đã phải bán mình,
có nguồn gốc từ đây. Điều đáng nói là rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam có
cơ cấu nợ trên vốn chủ cao bất thường, không hiếm trường hợp cao hơn
chục lần.
Khoái
nợ là điều lạ ở ta. Trong quá khứ đã có một tổng công ty đòi trả hết
vốn chủ (vốn nhà nước) để vay nợ làm ăn. Cách làm ăn kiểu “tay không bắt
giặc” thường thấy ở thời bao cấp này cũng là trường hợp của dự án Giấy
Thanh Hóa mà TBKTSG đã có dịp phân tích trước đây (xin đọc bài Toan tính vĩ mô trước tầm ngắm vi mô, Huy Nam, TBKTSG,
24-6-2004). Tình trạng thiếu bài bản là đặc điểm của giai đoạn thoát ra
từ môi trường kinh doanh cũ. Nếu may mắn gặp lúc sóng yên thì sóng
chẳng kén thuyền, nhưng khi biển động thì thuyền sẽ dễ bị sóng nhận
chìm.
Sự
phồn thịnh nhanh chóng bị phủ xám bởi nguy cơ vỡ nợ đã là bài học. Ta
lại đang sống giữa thời buổi đầy bão tố. Sự an cư có thể bị đe dọa trong
“ngôi nhà chưa phải của mình”. Không nên đùa với nợ và dễ dãi với mình.
Nợ là câu chuyện có lời kết còn để ngỏ...
|
- Đẩy nhanh thủ tục đăng ký lại và rút vốn Vinashin (TTXVN). -- Vốn Đầu Tư Quốc Tế Vào VN Giảm Còn 74% So Với 2010 — (VB).
- Ngân hàng hợp nhất tung khuyến mại “khủng” (VOV).- Việt Nam, năm mới, những vấn đề cũ! — (NV). – Những sự kiện xã hội được quan tâm nhất năm 2011 (DT).
- Phỏng vấn Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh: Cải cách kinh tế năm 2012: Vượt cản ngại của nhóm lợi ích (TP).- Tầm nhìn & lợi ích (TP). - Cao, thấp thưởng Tết ngân hàng (TP).
- Vàng trong nước đắt hơn thế giới 3 triệu đồng/lượng (VnEconomy).- Giá vàng tăng cả triệu đồng mỗi lượng (NLĐ). – Giá vàng, USD tự do đồng loạt tăng mạnh sau kỳ nghỉ lễ (VnEconomy).
- Bộ Quốc Phòng đề nghị thông quan 4 chiếc phi cơ riêng (VNE).
-BÀI MỚI CỦA TRẦN HỮU DŨNG: Amartya Sen: Lương tâm của kinh tế (TBKTSG 1-1-12) ◄◄
-- Nguyễn Xuân Nghĩa: Trút gánh lo, co gánh nợ — (NV).
- Triển vọng kinh tế châu Á năm con rồng — (BBC).
Phân tích của ông Rajiv Biswas, kinh tế trưởng phụ trách khu vực của
công ty phân tích kinh tế và tài chính IHS Global Insight. - Châu Á không còn là nơi trú ẩn cho nhà đầu tư (SGTT/WSJ).
-- Châu Á ra sao trong năm 2012? (VNN). – Thế giới 2012: Đổi thay bất ngờ và nhanh chóng (TVN).- Tây Ban Nha cảnh báo thâm thủng có thể tăng — (VOA). – Đức, Pháp sẽ đàm phán về kỉ luật ngân sách châu Âu (DVT/Reuters).-GROS: The Decline and Fall of the Euro? Project Syndicate -Great empires rarely succumb to outside attacks. But they often crumble under the weight of internal dissent – a vulnerability that seems to apply to the eurozone as well.
-Giá sàn tăng vẫn không ngăn được lúa gạo giảm giá-
HAGL phát hành trái phiếu bổ sung ... |
Viettel vượt VNPT về tiền nộp ngân sách |
Bán điện nhà máy Đắc R’Tih cho EVN |
Honda khởi công nhà máy xe máy mới |
-TLQ:-Bắc Hàn kêu gọi người dân làm lá chắn sống
- Bắc Hàn bắn chết ba người vượt biên — (BBC). Lính biên phòng Bắc Hàn đã bắn chết tại chỗ ba người dân nước này đang vượt biên sang Trung Quốc. - Chán Hàn Quốc, Triều Tiên quay sang “hỏi tội” Nhật Bản (VTC).
- Năm mới, Kim mới, vẫn chính sách cũ
- Bắc Hàn bắn chết ba người vượt biên — (BBC). Lính biên phòng Bắc Hàn đã bắn chết tại chỗ ba người dân nước này đang vượt biên sang Trung Quốc. - Chán Hàn Quốc, Triều Tiên quay sang “hỏi tội” Nhật Bản (VTC).
- Năm mới, Kim mới, vẫn chính sách cũ
Nguồn: John Hemmings - The Diplomat
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét