Tựa
đoạn này do tôi đặt, được trích từ chương 3 (Cải cách pháp luật) của
phần IV (Các sách lược tập trung). Nội dung của nó đề cập đến những vấn
đề rất thiết thực đối với người dân và cũng rất sống còn đối với đất
nước hiện nay.
Do vậy tôi rất mong Danlambao giúp phổ biến nội dung này.
Xin cảm ơn và kính chào.
Trần Văn Huỳnh
*
Vì
sao việc cải cách tư pháp (CCTP) và cải cách hành chính (CCHC) được chú
trọng bằng rất nhiều nghị quyết và chỉ thị trong hàng chục năm qua
nhưng lại không đạt được những tiến bộ đáng kể, mà có chỗ còn đi thụt
lùi? Do thiếu quyết tâm chính trị thực lòng hay thiếu động lực cho cải
cách thực chất?
Không
có động lực của con người thì sẽ không có sự thay đổi xã hội. Các cuộc
cách mạng bạo lực có thể tạo ra động lực cưỡng bức nhưng không bền vững.
Còn cải cách thì luôn cần phải có động lực tự nhiên - những cuộc cải
cách thành công đều phải dựa trên những giải pháp hướng được những động
lực này đến những mục tiêu lành mạnh. Tạo ra động lực lành mạnh là đòi
hỏi thiết yếu của cải cách tốt đẹp. Không chú trọng đến việc này thì mọi
cuộc cải cách sẽ rất vất vả và hầu hết là thất bại. Do vậy muốn CCTP và
CCHC thành công thì việc đầu tiên phải phân tích hiện trạng của các
động lực tự nhiên của con người Việt Nam đang hướng đến các đối tượng và
mục tiêu nào trong các hoạt động tư pháp và hành pháp quốc gia.
Sẽ
không quá khó, chỉ cần thẳng thắn và dũng cảm thừa nhận, để thấy rằng
động lực của người dân hiện nay hầu hết không được tạo ra bởi niềm tin
vào công lý để hướng đến một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Môi
trường pháp lý và chính trị hiện nay đang làm cho các động lực này hướng
tập trung đến các kết cục trái ngược hẳn với các chuẩn mực của một xã
hội như vậy: tham nhũng, cường quyền và lạc hậu. Điều này đang diễn ra
ngày càng trầm trọng, bất chấp các mong muốn khác đi theo chủ trương của
nhà nước và lý tưởng của đảng Cộng sản Việt Nam đang cầm quyền. Nguyên
nhân cốt lõi của vấn đề là:
(i)
Tính cách luôn mưu cầu lợi ích là một động lực phổ quát và tự nhiên của
con người. Dù không phải tất cả mọi người đều như thế nhưng xu thế
chung áp đảo sẽ luôn là như vậy - như một thực tế khách quan và không
phải là điều xấu. Thiếu loại động lực này thì xã hội loài người đã không
thể hình thành và phát triển.
(ii)
Những động lực này không cần biết đến các giá trị tốt đẹp trên danh
nghĩa được quy định trong các văn bản luật, chỉ thị, nghị quyết hay lý
tưởng mà nó chỉ chịu tác động và vận hành theo các giá trị đang tồn tại
trong thực tế (theo đúng thực chất của hiện trạng) của các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội. Đây chính là sự vận động theo các quy luật tự nhiên
khách quan: Kết quả được tạo ra dựa trên vấn đề thực chất và giá trị
thực tế mà thôi.
(iii)
Cuộc sống ở Việt Nam đang tạo ra một thứ niềm tin của người dân vào
việc đưa hối lộ như là cách tốt nhất, thực tế nhất để mưu cầu lợi ích
cho mình - từ những việc nhỏ nhặt như chứng giấy tờ đến những chuyện to
tát như các loại giấy phép béo bở, từ những mục đích chính đáng như kiếm
tiền sinh sống hoặc tự khẳng định mình đến những mong muốn làm giàu bất
chính hoặc vươn lên bằng cách chà đạp người khác. Hầu hết đều phải dựa
vào tham nhũng, tin nó và thậm chí còn bao che cho nó. Niềm tin đi ngược
lại nó không chỉ bị xem là ngớ ngẩn, không thức thời mà còn đầy rủi ro.
Tin vào công lý ngày càng trở nên phi thực tế và tốn kém mà lại không
hiệu quả.
Thứ
niềm tin như vậy đang tồn tại áp đảo trong thực tế làm cho động lực tự
nhiên của người dân hướng đến phục vụ nhu cầu hoặc thỏa mãn yêu cầu của
những kẻ xấu nắm quyền tại các bộ máy tư pháp và hành pháp ở mọi cấp, cả
bộ máy của đảng cầm quyền. Môi trường pháp lý đã không thể ngăn chặn
được những cái xấu mà đạo đức xã hội cũng không còn đủ sức để lên án
chúng. Thậm chí có nhiều lúc, nhiều nơi đã hình thành nên các chuẩn mực
đạo đức làm cho người tốt dám đấu tranh với cái xấu trở nên "lập dị" và
trở thành "kẻ phá bĩnh". Không thể không xót xa khi phải chứng kiến các
hiện tượng như vậy đang ngày càng phổ biến.
Nếu
không có một cuộc cải cách xã hội, bao gồm cả CCTP và CCHC để thay đổi
hiện trạng này, hướng các động lực tự nhiên của người dân đến các mục
tiêu lành mạnh thì tình trạng suy thoái xã hội hiện nay sẽ mau chóng
biến thành suy đồi chỉ trong vòng một vài năm nữa. Đến lúc đó mọi nỗ lực
chỉnh đốn đều sẽ bất khả thi, và một sự sụp đổ xã hội dẫn đến suy thoái
chính trị là không thể tránh khỏi. Điều này sẽ diễn ra trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế toàn diện từ 2010 đến 2011 như đã phân tích ở chương
IV.1 nếu không có một cuộc cải cách toàn diện và hiệu quả ngay từ bây
giờ. Hậu quả sẽ là những sự khốn khổ đến cùng cực của người dân. Nhưng
chính quyền cũng sẽ không thể tránh khỏi những hậu quả tồi tệ. Đây là
những nguy cơ mà Con đường Việt Nam, như đã nhiều lần từ đầu quyển sách,
muốn cảnh báo cho cả người dân lẫn chính quyền, đồng thời đề ra những
sách lược khắc phục. Chương này bàn về sách lược cải cách pháp luật, mà
trọng tâm là CCTP và CCHC. Các vấn đề về hiến pháp cũng sẽ được đề cập ở
khía cạnh cốt lõi.
NGUYÊN LÝ VÀ HIỆN TRẠNG
Nguyên
lý vận hành của một hệ thống pháp luật trong một xã hội dân chủ dựa
trên 3 yếu tố cốt lõi: Nhân quyền, Pháp quyền và Pháp chế như đã trình
bày ở phần II. Chương này sẽ xem xét các yếu tố này trong thực tế của
Việt Nam để nhìn thấy những vấn đề và giải pháp chiến lược.
Nhân Quyền tại Việt Nam
Tuyên
ngôn độc lập 1945 đã thừa nhận rằng mọi người sinh ra đều có sẵn các
quyền con người căn bản, đều bình đẳng và tự do. Năm 1977, Việt Nam gia
nhập Liên Hiệp Quốc cũng có nghĩa là sự công nhận của nhà nước Việt Nam
đối với các quyền bất di bất dịch này của con người được qui định và
trịnh trọng tuyên bố tại Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền của LHQ vào
năm 1948. Đến 1982 thì Việt Nam đã chính thức gia nhập hai Công ước Quốc
tế về các Quyền Dân sự và Chính trị; và về các Quyền Kinh tế, Xã hội và
Văn hóa. Tại đây, nhà nước Việt Nam đã long trọng cam kết tôn trọng,
bảo vệ các quyền này cho công dân Việt Nam, và đồng thời cũng thúc đẩy
các quyền này trên toàn thế giới. Trên tinh thần đó, Hiến pháp hiện hành
(1992) của Việt Nam cũng đã hiến định tất cả các quyền thiêng liêng này
của con người Việt Nam. Với những văn bản pháp lý như vậy thì mọi công
dân Việt Nam từ lúc sinh ra đời đều được hưởng bình đẳng tất cả các
quyền con người như bất kỳ công dân nào khác trên thế giới mà không phân
biệt quốc gia, màu da, chủng tộc, xuất thân, địa vị, quan điểm chính
trị, trình độ phát triển, lịch sử hình thành, v.v..., và cũng không phải
chờ sự cho phép của bất kỳ luật hoặc văn bản nào dưới hiến pháp.
Tuy
nhiên, các giá trị tốt đẹp trên danh nghĩa này còn rất xa so với thực
tế trong việc thực thi quyền con người trên đất nước ta. Đại đa số người
dân lẫn quan chức hiện nay đều nghĩ rằng chỉ có những quyền nào có luật
qui định thì công dân Việt Nam mới được sử dụng. Quan điểm vi hiến như
vậy lại tồn tại phổ biến ngay tại Quốc hội trong việc lập pháp. Sự xâm
phạm tự do và các quyền cơ bản của người dân lại xảy ra phổ biến tại các
cơ quan hành pháp. Còn các cơ quan tư pháp thì lại trừng phạt không
thương tiếc những công dân nào dám tự do sử dụng các quyền làm người căn
bản của mình đã được hiến định. Cần hiểu rằng các hành động như vậy
không chỉ vi hiến mà còn vi phạm luật pháp quốc tế và đi ngược lại với
các chuẩn mực văn minh của thế giới.
Dân
ta cần hiểu rằng theo luật pháp quốc tế mà Việt Nam cam kết tôn trọng
thì các quyền con người là không thể phân chia, phụ thuộc lẫn nhau và
liên quan với nhau. Năm 1993, Đại Hội đồng LHQ đã ra Tuyên bố Viên và
Chương trình hành động tái khẳng định lại các tính chất này của các
quyền con người bao gồm từ quyền được bú, được ngủ lúc mới sinh ra; được
ăn, được học khi lớn lên; rồi quyền được có việc làm để sinh sống;
quyền hôn nhân và nuôi dạy con cái; quyền đảm bảo sự riêng tư như chỗ ở,
bí mật thư tín, điện thoại; quyền tự do ngôn luận, sáng tác, sáng chế,
lập hội, biểu tình; quyền bình đẳng trước pháp luật, v.v... Nếu không hề
cần có những luật để cho phép được bú được ăn được ngủ được học được
làm thì cũng không cần phải có luật để cho phép được nói được bày tỏ
quan điểm được sáng tác phê bình được biểu tình, v.v... Đó chính là tính
nguyên vẹn không thể phân chia của các quyền con người mà nếu bị xâm
phạm thì người sống sẽ không trở thành con người đầy đủ. Sự xâm phạm này
nếu rất nghiêm trọng sẽ biến con người trở thành không khác gì con vật
như trong các chế độ nô lệ. Chỉ khi nào người dân có thể tự do sử dụng
đầy đủ các quyền con người thì mới thực sự làm người.
Những
sự xâm phạm như vậy cũng là nguyên nhân của sự chậm tiến của Việt Nam
trong một thời gian dài và của sự tăng trưởng bất ổn như hiện nay vì đã
vi phạm hoặc không tôn trọng đầy đủ các quy luật tự nhiên khách quan như
đã phân tích ở phần II
Pháp quyền tại Việt Nam
Như
đã trình bày ở phần II, bản chất hay tính chất bất biến của pháp quyền
là sự bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật. Đây cũng là nguyên tắc
qui định bởi Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền: "Nếu không muốn con
người buộc phải sử dụng sự nổi dậy như một biện pháp cuối cùng để chống
cường quyền và áp bức thì việc bảo vệ các Quyền con người bằng nhà nước
pháp quyền là thiết yếu". Do vậy, bản chất của một nhà nước pháp quyền
là sự uỷ trị hợp pháp để đại diện cho mỗi công dân, không phân biệt bất
kỳ yếu tố nào để bảo vệ mọi quyền con người của họ bằng pháp luật. Lưu ý
rằng, sự ủy trị chỉ hợp pháp khi nó đại diện cho mọi công dân, từng
người một mà không phân biệt thành phần, giai cấp cho dù người đó không
bỏ phiếu cho những người được bầu chọn thực hiện sự ủy trị đó, cho dù
quan điểm chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, ... của người đó có khác
biệt với những người được bầu chọn đến thế nào đi nữa. Một nhà nước
không đảm bảo được những tính chất này thì không thể là một nhà nước
pháp quyền.
Nhà
nước pháp quyền lần đầu tiên được Việt Nam hiến định vào năm 2001 khi
sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992 tại điều 2: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân". Còn điều 50 thì ghi rõ: "Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân được quy
định trong Hiến pháp và luật". Như vậy, theo đúng bản chất của nhà nước
pháp quyền ở điều 2 và ý nghĩa rõ ràng của điều 50 này thì công dân
Việt Nam không chỉ có đầy đủ các quyền con người đã được Hiến pháp hiện
hành qui định theo đúng nguyên tắc của Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân Quyền
và hai Công ước Quốc tế kèm theo mà còn có thể được hưởng thêm những
quyền khác nếu có luật qui định. Giá trị trên danh nghĩa rõ ràng là như
vậy.
Tuy
nhiên, thực tế của việc thực thi các điều khoản này của Hiến pháp thì
lại khác xa. Thuộc tính phụ "xã hội chủ nghĩa" trong "Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa" được tùy tiện vận dụng và áp đặt để diễn giải
sai lệch bản chất bất biến của thuộc tính chính "pháp quyền". Điều này
không những tạo ra rất nhiều các phạm trù mơ hồ được gắn với cụm từ "xã
hội chủ nghĩa" mà còn dẫn đến sự tước đoạt các quyền con người bất khả
xâm phạm của công dân bằng cách cho rằng chữ "luật" trong điều 50 của
Hiến pháp có nghĩa là khi nào có luật qui định về những quyền nào (đã
được ghi ở Hiến pháp) thì công dân mới được thực hiện những quyền đó.
Cách hiểu này trao cho Quốc hội cái quyền ban phát các quyền con người
cho người dân chứ không phải là nhận sự ủy nhiệm của nhân dân để bảo vệ
cho họ thực hiện đầy đủ các quyền vốn có của họ mà Tạo hóa ban cho, theo
đúng thuộc tính "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" của Nhà nước
pháp quyền được ghi tại điều 2 của Hiến pháp.
Khi
nào mà Quốc hội của nước ta chưa làm được bổn phận bảo vệ quyền con
người như vậy cho công dân ta thì nó chưa có tính hợp pháp vì đã vi
hiến, cho dù nó có được hình thành bằng các hình thức phổ thông đầu
phiếu đi nữa. Đây là vấn đề thực chất mà bất kỳ một quốc hội nào trong
một nhà nước pháp quyền cũng phải đảm bảo, cho dù đó là pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, pháp quyền cộng hòa đại nghị, pháp quyền quân chủ lập
hiến, v.v... đi nữa. Đó là chưa kể người dân có quyền đòi hỏi thuộc tính
bổ sung "xã hội chủ nghĩa" phải làm hay hơn, tốt hơn, ưu việt hơn cho
tính chất "pháp quyền xã hội chủ nghĩa" như lý tưởng cao đẹp mà đảng
Cộng sản Việt Nam luôn tuyên truyền và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam luôn khẳng định, chứ không phải là làm cho thực tế bảo vệ
quyền con người tại Việt Nam ngày càng xấu đi như hiện nay. Thực tế này
thuộc về trách nhiệm lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam mà Con đường
Việt Nam đã đưa ra những đề nghị cần thay đổi trong Phần III về cách
thức lãnh đạo của đảng cầm quyền hiện nay nếu không muốn một sự sụp đổ
toàn diện, kéo theo những hậu quả nặng nề cho dân chúng.
Pháp chế tại Việt Nam
Do
trách nhiệm tối thượng của một nhà nước pháp quyền là phải bảo đảm cho
công dân thực hiện đầy đủ các quyền con người của từng người nên nó phải
ngăn cản sự xâm phạm các quyền này từ bất kỳ ai, bất kỳ tổ chức nào.
Cũng do tính chất pháp quyền của nó, nên nó phải thực hiện việc ngăn cản
này bằng luật pháp. Đây chính là nguyên tắc pháp chế - tức là chế tài
bằng pháp luật - của một nhà nước pháp quyền. Đây cũng là nguyên tắc
được qui định tại Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân Quyền: "Khi thực hiện các
quyền và tự do của mình mỗi người chỉ phải chịu những hạn chế nào được
luật qui định nhằm một mục đích duy nhất là để đảm bảo sự thừa nhận và
bảo vệ đúng đắn các quyền và tự do của người khác và đáp ứng các yêu cầu
chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã
hội dân chủ".
Mọi
phạm vi chế tài (bao gồm hạn chế và xử phạt) phải do luật qui định.
Không có luật hạn chế điều gì thì làm điều đó là không phạm luật và
không phải xin phép nơi nào hết. Hoàn toàn không cần phải có luật cho
phép làm điều đó. Chỉ có quan chức mới chỉ được làm những gì mà luật cho
phép để hạn chế sự lạm dụng quyền hành của họ mà thôi. Không ai hay tổ
chức nào được quyền nhân danh vì bất kỳ lợi ích chung nào để áp đặt các
hạn chế đối với các quyền con người của công dân mà không được thông qua
bằng luật bởi một quy trình lập pháp hợp hiến. Lý do và mục đích của
những sự hạn chế như vậy cũng phải được ghi rõ.
Điều
12 Hiến pháp 1992 ghi "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". Điều này rõ ràng là tuân
theo nguyên tắc pháp chế đúng đắn của một nhà nước pháp quyền như trên,
phù hợp với chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, thực tế thì khác
hẳn. Không hiểu dựa trên cơ sở nào mà rất nhiều vị đại biểu Quốc hội -
những người được gọi là những nhà lập pháp đại diện của dân - lại hồn
nhiên phát biểu trước công chúng đại ý là phải cố gắng nhanh chóng xây
dựng luật để người dân có thể thực hiện các quyền của mình. Còn các cơ
quan hành pháp thì ban hành đầy rẫy các nghị định, quyết định hạn chế,
cấm đoán các quyền con người của công dân một cách vi hiến. Còn các cơ
quan tư pháp thì chưa bao giờ ra bất kỳ phán quyết nào liên quan đến sự
vi hiến, đơn giản vì chúng không có được quyền hạn đó trên danh nghĩa và
cũng không có đủ quyền lực tư pháp độc lập trên thực tế.
Thuộc
tính xã hội chủ nghĩa đúng ra phải thể hiện được sự ưu việt hơn cho
nguyên tắc pháp chế của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì
thực tế lại trở thành cái để lợi dụng nhằm tước đoạt rất nhiều quyền con
người của công dân bằng cách đặt sự bảo vệ chế độ lên trên hết - vi
phạm nguyên tắc "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" của Hiến
pháp (điều 2). Thực tế này lại tiếp tục bị lợi dụng để bảo vệ đặc quyền
cho các nhóm lợi ích nhỏ, tạo ra một thực tế càng tệ hại hơn nữa.
Trách nhiệm của công dân
Cách
biệt giữa danh nghĩa và thực tế của môi trường pháp lý Việt Nam đang
rất nghiêm trọng và ngày càng xấu đi nên gây ra bất ổn nặng nề. Trách
nhiệm này đương nhiên là thuộc về chính quyền, nhưng nếu người dân không
ý thức được các quyền con người và vai trò làm chủ đất nước của mình
thì cách biệt này không bao giờ được thu hẹp theo hướng tốt đẹp. Dân ta
cần hiểu cốt lõi bản chất của các khái niệm Nhân quyền, Pháp quyền, Pháp
chế. Thực ra chúng rất đơn giản: Nhân quyền là các Quyền con người của
mỗi người chúng ta vốn có từ lúc sinh ra mà không ai có quyền ban phát
cả và chúng ta cần tự tin sử dụng ngay các quyền này mà không phải đợi
ai cho phép. Pháp quyền là trách nhiệm trên hết của nhà nước phải bảo vệ
cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền bất khả xâm phạm này của mình,
và Nhà nước Việt Nam hiện nay là một nhà nước pháp quyền được khẳng định
tại Hiến pháp. Pháp chế nghĩa là chúng ta chỉ bị hạn chế làm những gì
có luật qui định rõ, không có luật hạn chế tức là không có hạn chế, chứ
không phải là chưa được phép. Mối liên hệ của bản chất và nguyên tắc của
3 khái niệm này tạo nên một nguyên lý cốt lõi của dân chủ: công dân có
quyền làm bất cứ điều gì mà luật không hạn chế và không cần phải xin
phép để làm điều đó.
Ở
các nước dân chủ và thịnh vượng, thay vì làm ra nhiều luật để hạn chế
thì nhà nước ở đó xây dựng rất nhiều luật khuyến khích và tạo động lực
cho công dân của mình làm nhiều việc tốt để hướng xã hội phát triển theo
những lý tưởng tốt đẹp. Chúng ta hoàn toàn đủ quyền và đủ lý do chính
đáng để đòi hỏi có được một nhà nước pháp quyền với các nguyên tắc pháp
chế như trên. Đó cũng là những tiêu chuẩn mà công việc CCTP và CCHC phải
đạt đến. Không có những áp lực từ dưới lên thì sẽ khó có thể có được
những thay đổi từ trên xuống. Đó là trách nhiệm của công dân đối với
việc cải cách.
Trách nhiệm của chính quyền
Tuy
nhiên, trách nhiệm trên hết vẫn thuộc về chính quyền. Nếu nhà nước và
đảng Cộng sản Việt Nam không nhận rõ được hiện trạng như trên và nhanh
chóng thực hiện các giải pháp cải cách thành công thì sự thất bại của
chúng sẽ dẫn đến các cuộc cách mạng. Liên Xô sụp đổ sau khi đã tiến hành
cải cách muộn màng và thất bại.
Với
tinh thần như vậy, Con đường Việt Nam đã nghiên cứu để đề nghị với Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các sách lược CCTP và CCHC được
trình bày cụ thể dưới đây.
(Đang viết vào tháng 4/2009)
- Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng - Công trình chưa hoàn tất của anh Trần Huỳnh Duy Thức
***
Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng
Nên hiểu tính độc lập của một nhà nước hoặc dân tộc như thế nào? Nhận thức cho rằng nền độc lập có nghĩa là nhà nước của nó cầm quyền bởi một nhóm người cùng sắc tộc với đại đa số dân chúng còn tương đối phổ biến. Sự chấp nhận sai lầm rộng rãi như vậy giúp các chế độ chuyên chế lợi dụng để duy trì sự thống trị. Do vậy một sự hiểu biết đúng về một nền độc lập là rất thiết yếu để tránh cho một dân tộc khỏi bị lệ thuộc. Nó cũng sẽ đòi hỏi chúng ta suy nghĩ đúng về các khái niệm sức mạnh của cá nhân và tính cá nhân. Đề tài này sẽ dẫn đến nhiều nghiên cứu về dân chủ và thịnh vượng cùng với các qui luật của chúng.
THỰC DÂN HAY CHUYÊN CHẾ
Có rất nhiều chế độ chuyên chế đã cầm quyền một cách độc đoán đất nước mình nhiều thập kỷ nay. Hầu hết đều từ những người đã giữ vai trò quan trọng trong việc giải phóng dân tộc khỏi sự cai trị thực dân. Thành tựu trên danh nghĩa của họ là đã mang lại nền độc lập cho dân tộc mình. Nhưng nhìn vào cuộc sống thực tế của những người đang sống ở những nước này. Thật khó mà không nói rằng họ lệ thuộc nặng nề dù màu da và chủng tộc của họ giống với những kẻ cầm quyền chuyên chế.
Thực ra những người này chỉ đơn giản là thay đổi sự thống trị của thực dân bằng của họ. Thường thấy ở những nơi này hàng đống sự xâm phạm quyền con người, tự do và lợi ích riêng tư trên danh nghĩa của an ninh và lợi ích quốc gia. Những công trạng ''giải phóng dân tộc'' bị khai thác để bảo tồn sự chính danh của các chế độ áp bức này. Ở vài nơi nỗi thống khổ của dân chúng còn tệ hơn những gì họ đã phải trải qua dưới thời thực dân. Bình mới rượu cũ mà thôi.
ĐỘC LẬP CÁ NHÂN VÀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Sẽ không có sự độc lập nếu không có tự do. Và sẽ không có độc lập dân tộc nếu không có độc lập cá nhân. Điều này là chân lý. Vào giữa thế kỷ 19, Fukuzawa Yukichi - người được đánh giá là xuất chúng trong số những người sáng lập nên nước Nhật hiện đại - đã có một danh ngôn: ''Độc lập dân tộc nhờ độc lập cá nhân''. Ông chứng minh rằng nhờ có độc lập cá nhân mà một người không phải lệ thuộc vào sức mạnh của người khác. Nên chính nhờ sức mạnh cá nhân đó mới giúp một dân tộc cạnh tranh được với những dân tộc khác. Và chính tư tưởng đó đã biến nước Nhật thành một cường quốc trong vòng 30 năm từ sự lạc hậu nghèo nàn.
CÓ TỰ DO MỚI ĐỘC LẬP
Một cá nhân chỉ có thể độc lập nếu có đầy đủ tự do. Và chỉ khi nào quyền con người của một người được tôn trọng và bảo vệ đầy đủ bằng pháp quyền thì người đó mới có tự do hoàn toàn. Do vậy bản chất của nhà nước pháp quyền là một sự ủy trị hợp pháp để bảo vệ các quyền này và tự do cho từng cá nhân, từng người một. Trách nhiệm này phải được gìn giữ thiêng liêng như mục tiêu tối thượng của nhà nước đó. Không tuân theo quy tắc này sẽ gây ra sự xâm phạm tự do cá nhân nhân danh an ninh quốc gia, ổn định xã hội và trật tự cộng đồng như các chính quyền độc tài thường dùng để biện hộ một cách mơ hồ vì sự phát triển.
Những sự mơ hồ này trong thực tế dễ dàng trở thành những cái cớ để xâm hại an toàn của con người, tước đoạt nhân quyền và xúc phạm nhân phẩm một cách không nao núng để giành được đặc quyền cho những nhóm lợi ích hẹp hòi. Cách này sẽ chắc chắn làm cho người dân lệ thuộc vào những người cai trị bằng cách áp nỗi sợ hãi lên người bị trị. Không có tự do sẽ dẫn đến lệ thuộc bất chấp màu da và chủng tộc của những người cầm quyền. Sự phụ thuộc của cá nhân sẽ gây nên một quốc gia lệ thuộc mà không thể tránh được, ngay cả quốc gia đó không thuộc quyền tài phán của quốc gia khác.
SỰ UỶ TRỊ HỢP PHÁP
Canada và Úc theo chế độ quân chủ lập hiến, tôn Nữ hoàng Anh làm người đứng đầu nhà nước của họ. Nhưng ai có thể nói rằng họ là những dân tộc lệ thuộc? Khi nào người dân họ còn thích chế độ này thì nó còn tồn tại. Ngược lại, họ có thể bỏ phiếu để thay đổi thành chế độ cộng hòa, chẳng hạn, mà không có vấn đề gì. Họ hoàn toàn tự do lựa chọn chế độ chính trị nên dân tộc họ thực sự độc lập.
Nếu Barack Obama thắng cử tổng thống Mỹ, liệu người da trắng có tự xem họ là một chủng tộc lệ thuộc? Và người da đen sẽ tìm thấy sự độc lập của họ nhờ chiến thắng đó? Ai trả lời có sẽ thật là ngớ ngẩn. Sự uỷ trị chỉ hợp pháp khi nó được bầu chọn bằng một cuộc bầu cử tự do mà người dân, chính là những người ủy nhiệm, không bị sợ hãi và thiếu thốn để thực hiện quyền bỏ phiếu của mình. Đối với luật pháp cũng vậy. Jean Jacques Rousseau (+) đã viết trong tuyệt tác ''Khế ước xã hội'' của ông rằng: ''Bất cứ luật nào mà người dân không phê chuẩn trực tiếp thì vô hiệu và vô dụng - trên thực tế nó không đúng là luật''.
Tính hợp pháp của một sự ủy trị không liên quan đến chủng tộc, màu da, giới tính, v.v... hoặc công trạng đã qua hay tuyên bố ''vì dân'' của một đảng cầm quyền bằng tiếm quyền, v.v... Làm cho người dân hoặc khiếp sợ hoặc lệ thuộc kinh tế vào những người có quyền lực là cách mà một chế độ cường quyền nắm quyền để ép người dân phục tùng ý chí của nó. Do đó, nó không bao giờ là một sự ủy trị hợp pháp ngay cả nó chấp nhận quyền bầu cử của người dân trên danh nghĩa.
NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ VÀ THỊNH VƯỢNG
Đó là lý do mà Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền (UDOHR) tuyên bố và tin rằng con người chỉ thực sự tự do khi không phải sợ hãi và không bị thiếu thốn. Nhằm mục đích này, bản Tuyên ngôn đã được cụ thể hóa thành Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCE) nhằm bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản này trên toàn thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các nước thuộc thế giới thứ nhất tôn trọng trước tiên và bảo vệ trên hết các quyền đó trong hiến pháp của họ một cách đầy đủ, và làm cho chúng có hiệu lực trong thực tế. Chính cách thức này đã đưa các quốc gia này trở thành những đất nước dân chủ và thịnh vượng nhất thế giới.
Các quyền này là thiêng liêng và do Tạo hóa ban cho, không phải do bất kỳ ai khác là con người hoặc bất cứ cái gì thuộc về con người. Do vậy ủng hộ các quyền này tức là tuân theo các qui luật tất yếu khách quan, chính là các luật của Tạo hóa. Con người có thể phát hiện và hiểu được các luật này nhưng không thể sáng tạo ra chúng theo ý muốn của mình. Nếu luật của con người mà không thuận theo các luật tương ứng của Tạo hóa thì sẽ không có tác dụng, và cuối cùng có thể sụp đổ.
TÍNH TOÀN VẸN CỦA CÁC QUYỀN CON NGƯỜI
Một máy bay sẽ không thể cất cánh nếu nó được thiết kế bởi những qui tắc không nghiêm ngặt tuân thủ luật vạn vật hấp dẫn, định luật Bernoulli và v.v... Ngay sau khi giành được chủ quyền từ Vương quốc Anh, người Ấn độ đã ủng hộ quyền chính trị cho nhân dân bằng một chế độ đa đảng. Nhưng quyền kinh tế của họ lại bị hạn chế một cách khắc nghiệt nên họ chỉ có được một sự tự do khuyết tật, vì vậy không tạo ra được một nền dân chủ thực chất. Do đó, họ chìm đắm trong cơ hàn cho đến khi họ hủy bỏ cơ quan cấp phép khổng lồ vào năm 1991, khởi đầu cho sự dân chủ trong hoạt động kinh tế. Hàng chục triệu người Ấn đã thoát khỏi sự bần cùng hóa từ đó, kéo theo các thành tựu khác về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, công nghệ, quốc phòng, v.v... Điều này giải thích vì sao Châu Phi vẫn còn đầy rẫy các dân tộc khốn khổ bất chấp sự tồn tại tràn lan lâu nay của rất nhiều đảng chính trị.
Trung Quốc và Việt Nam tạo ra một phiên bản khác về sự vi phạm tính toàn vẹn của các quyền con người. Hai nước này đã thừa nhận quyền kinh tế cho người dân nhưng vẫn tước đoạt không khoan nhượng quyền chính trị của họ, gây nên một kiểu tự do què quặt khác. Mặc dù mô hình này có thể tạo nên sự tiến bộ kinh tế và các thành tích ấn tượng về xóa đói giảm nghèo, nhưng nó cũng đồng thời nuôi dưỡng bất bình và suy thoái xã hội rồi nhốt chúng lại. Khi sự trầm trọng này trở nên mục ruỗng thì nó sẽ dẫn tới việc bộ máy chính trị tự dân chủ hóa hoặc sẽ kết thúc trong sụp đổ toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị và một chế độ bị lật nhào. Đây là tiến trình tất yếu vì nó phá vỡ sự toàn vẹn của các quyền con người vốn thuộc về luật của Tạo hóa. Dưới tác động của toàn cầu hóa và xã hội Internet, tiến trình này sẽ diễn biến rất nhanh, nhanh hơn đã từng chứng kiến trong thời gian chiến tranh lạnh dẫn đến sự tan rã của hệ thống Đông Âu và Liên Xô.
CÁC QUI LUẬT PHÁT TRIỂN
Sự phân tích bản chất của các trường hợp trên cho thấy: xã hội loài người sẽ phồn vinh khi con người có quyền tự do mưu cầu thịnh vượng cho riêng mình, và nhờ vậy cũng sẽ cho những người mà anh ta cần nhờ đến để đạt được mục đích của mình. Đây chính là qui luật căn bản của kinh tế thị trường do Tạo hóa làm ra thông qua tính ứng xử phổ quát của con người. Và một nền kinh tế thị trường chỉ vận hành tốt và ổn định trong một xã hội có đủ tự do. Xã hội đó chính là cơ chế tự động để đạt được trạng thái cân bằng của tất cả các phương diện kinh tế một cách hiệu quả. Adam Smith gọi cơ chế này là ''Bàn tay vô hình'' - cũng là một luật của Tạo hóa mà ông đã phát hiện và hiểu rõ để giúp phát triển việc nghiên cứu kinh tế.
Việc nghiên cứu chia kinh tế thành hai nhánh: kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học thực chứng nghiên cứu các qui luật tất yếu của các yếu tố kinh tế và tác động tương hỗ giữa chúng, tức là các thực tế khách quan của kinh tế. Còn kinh tế học chuẩn tắc nghiên cứu các kêt quả của hành động và quyết định kinh tế của con người theo quan hệ nhân quả từ các qui luật tất yếu trên. Chấp nhận kinh tế thị trường chỉ mới là sự áp dụng các qui luật này, nhưng chưa đủ. Nó còn đòi hỏi không thể thiếu một cơ chế để đảm bảo các quyết định kinh tế của chính phủ là vì đại chúng, vì đa số. Không có cơ chế này thì, do mục đích mưu cầu thịnh vượng, con người sẽ hướng động lực của mình nhằm thỏa mãn những người ra quyết định đang nắm quyền thay vì dân thường. Mối nguy đạo đức này có thể bị chỉ trích gay gắt nhưng nó không phải là chuyện bất thường, và bất chấp những đả kích nó vẫn tồn tại tràn lan như dịch bệnh và xói mòn bất kỳ xã hội nào không có một nền dân chủ đủ thực chất. Một hệ thống như vậy được gọi là chủ nghĩa tư bản thân hữu mà kết quả tốt nhất của nó tạo ra chỉ là một đất nước thu nhập trung bình và dậm chân ở cái bẫy đó.
BẢN CHẤT VÀ HÌNH THÁI CỦA DÂN CHỦ
Bản chất của dân chủ đơn giản chỉ là sự tuân theo các quyền con người và tuân thủ tính toàn vẹn của các quyền đó. Đó cũng chính là sự tuân thủ các qui luật tất yếu vì tính chất của quyền con người là do Tạo hóa tạo ra. Sự tôn trọng như vậy được thực hiện càng đầy đủ thì nền dân chủ đạt được càng thực chất. Bản chất này của dân chủ là không thay đổi theo bất kỳ yếu tố nào thuộc về con người như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, sự giàu có, xuất thân, trình độ phát triển hoặc những trạng thái khác. Những yếu tố này chỉ ảnh hưởng đến hình thái của một xã hội dân chủ vốn chỉ là kết quả sinh ra từ sự vận động của các yếu tố đó dựa trên các luật của Tạo hóa, bao gồm cả quyền con người. Hình thái có thể thay đổi nhưng bản chất thì không. Hình thái phải là kết quả từ dưới lên và không nên là sự áp đặt từ trên xuống. Sự áp đặt như vậy đã chứa đựng bản chất chống dân chủ rồi.
Quan điểm về hình thái xã hội của con người chỉ có thể thành hiện thực một khi nó được thiết kế theo luật của Tạo hóa và nó phải thuyết phục được người dân tán thành một cách tự nguyện. Phác thảo một hình thái chủ quan, rồi ép uổng thô bạo người bị trị buộc họ miễn cưỡng chấp nhận nó như một lẽ phải chung duy nhất thì sẽ sinh ra một xã hội bất ổn triền miên. Lý do là khoảng cách giữa những chuẩn mực xã hội trên danh nghĩa và những cái tồn tại trên thực tế không ngừng gia tăng, gây ra sự sụp đổ niềm tin vì thất hứa. Đó là lúc cái hình thái phác thảo đó sẽ lụn bại mặc dù nó chưa bao giờ tồn tại trên thực tế giống như được phác thảo. Đây là những gì đã từng thấy từ Quốc xã ở Đức và Liên xô ở Nga.
ĐỘNG LỰC HAY SỢ HÃI
Khi một chính phủ phải thuyết phục người dân thì nó cũng phải tạo động lực cho họ. Người dân, đến lượt họ, sẽ tích tụ những xung lực phi thường để đẩy mạnh những gì chính phủ mong muốn hướng đến một vận mệnh tốt hơn cho dân tộc. Dù bất kỳ biểu hiện nào, một hình thái xã hội có thể thực sự tồn tại được trong cuộc sống sẽ luôn là hệ quả từ những hành động của dân thường tạo ra trên các luật của Tạo hóa. Hình thái đó có thể khớp với cái mà những người cầm quyền mong muốn chỉ khi nào họ làm cho ý chí của mình phù hợp với nguyện vọng của thường dân, và làm cho những luật mình mong muốn tuân thủ luật của Tạo hóa. Hiểu thấu lòng dân và hiểu rõ các qui luật tất yếu khách quan luôn là yêu cầu bức thiết của một xã hội dân chủ.
Thao túng quyền lực nhà nước để bắt dân thường phục tùng chủ tâm của một nhóm nhỏ sẽ tạo ra nỗi sợ hãi và làm cạn kiệt nguồn vốn con người như động lực, sáng tạo, niềm tin - là những giá trị thiết yếu nhất cho sự phát triển bền vững của một xã hội. Người dân phần nào có thể từ bỏ tự do của mình để đổi lấy việc sinh sống đến khi nào chính phủ có thể đảm bảo một sự phát triển kinh tế ổn định và phân phối thành quả của nó tương đối công bằng. Nhưng nhiệm vụ này là bất khả thi đối với các xã hội kém dân chủ. Khi nhiệm vụ này thất bại là lúc phải trả phí cho Tạo hóa vì đã vi phạm luật Tạo hóa. Phí đó là một chế độ bị lật đổ nhục nhã, và nhiều lúc là một cuộc cách mạng bạo lực đẫm máu. Một xã hội dân chủ không như vậy, ở đó người dân có thể thay đổi chính phủ một cách hòa bình.
TỪ SỢ HÃI ĐẾN LỆ THUỘC
Theo xu hướng tự nhiên, một chính phủ chống dân chủ luôn luôn phân phát nỗi sợ hãi để che ủ sự phàn nàn của những người dân cảm thấy phát ốm đối với sự quản lý của nó, và đàn áp những người bất đồng chính kiến nào phê phán sai lỗi của nó. Tuy nhiên nó cũng tự che ủ và bịt mắt chính mình trước những phản ánh của xã hội. Một chính phủ như vậy không thể xây dựng được một xã hội có thành tựu bền vững, mà là một xã hội cuối cùng sẽ suy tàn. Lý do là những người lệ thuộc thì không thể có năng lực để lãnh đạo nhân dân họ đi đến một nền độc lập dân tộc, mà chỉ đến một quốc gia phụ thuộc. Những kẻ độc tài và các chính phủ chống dân chủ thực sự là những người lệ thuộc mặc dù họ thường thể hiện uy quyền.
Một người độc lập thì không bao giờ lệ thuộc một cách thiếu suy nghĩ vào sự phê bình từ người khác, trong khi một người phụ thuộc thì sợ sự phê phán đó đến ám ảnh, tự kỷ rằng nó sẽ gây ảnh hưởng xấu đến mình. Anh ta không bao giờ đủ tự tin để hiểu rằng người ta nghĩ thế nào về mình chỉ hoàn toàn là hệ quả của chính cách hành xử của anh ta, chứ không phải của những người gay gắt chỉ trích mình. Đây đúng là đầu óc của những kẻ lệ thuộc mà khi nó thuộc về những người đang nắm quyền lực thì sẽ luôn dẫn đến sự đàn áp những người bất đồng chính kiến, sự đè nặng lên người dân bằng nỗi sơ hãi để che đậy sự yếu đuối của mình. Những kẻ cường hào che giấu tính hèn nhát của mình bằng sự tàn bạo. Bạo chúa Saddam Hussein đã lộ rõ sự đê hèn khi bị bắt lúc trốn chạy.
HÀNH TRÌNH VÀO BẢN CHẤT CỦA DÂN CHỦ VÀ THỊNH VƯỢNG
Chế độ của Saddam đã bị lật đổ mấy năm nhưng nền độc lập cho quốc gia Iraq vẫn chưa có. Đấy không phải vì sự chiếm đóng của Mỹ. Điều đó chỉ có được khi người Iraq có ý thức tự tin để xây dựng sự độc lập cá nhân cho mình để làm cho dân tộc họ độc lập. Đây là cái BẮT BUỘC cho tất cả dân tộc trên thế giới để thực sự được tự do và độc lập nhằm có được dân chủ và thịnh vượng. Dưới 1/7 dân số thế giới được sống trong những đất nước như vậy trong khi hơn một nửa vẫn đang vật lộn với nghèo đói. Phong trào giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ II đã lớn mạnh và hoàn thành hơn nửa thế kỷ rồi nhưng vẫn chưa mang đến tự do và độc lập được cho nhiều nước để trở nên dân chủ và thịnh vượng. Mà hầu hết đã kéo theo các chế độ toàn trị; chính phủ mị dân; sự tước đoạt hoặc thu hẹp các quyền và tự do của con người; những người dân sợ hãi và lệ thuộc; sự nghèo túng và thậm chí là chết đói.
Lục tìm lịch sử thế giới về dân chủ và thịnh vượng trải dài từ thời La Mã cổ đại đến đến nay, và đào sâu vào bản chất của các phạm trù này để nắm được những bản chất cốt lõi của chúng nhằm hiểu rõ các qui luật tự nhiên liên quan. Và áp dụng các qui luật này nhằm tìm ra những con đường dẫn đến tự do, độc lập, dân chủ và thịnh vượng cho các quốc gia một cách bền vững và nhanh nhất chính là tham vọng của quyển sách này - Hành trình vào bản chất của Dân chủ và Thịnh vượng.
Quyển sách sẽ tìm hiểu căn nguyên của các phạm trù trên trong mối liên hệ với bản chất của một nhà nước pháp quyền và các hình thái khác nhau của nó, cũng như vai trò của một xã hội dân sự bên trong nó để đảm bảo người dân sống theo luật nhằm làm nó phát huy tác dụng. Và làm sao để khuyến khích tự do cá nhân trong lúc cân bằng nó với các giá trị phổ quát chung thay vì đánh bại chủ nghĩa cá nhân.
Quyển sách tin rằng những con đường như trên sẽ giúp duy trì hòa bình và ngăn ngừa chiến tranh cho thế giới.
Tác giả : Trần Huỳnh Duy Thức
Người dịch : Trần Văn Huỳnh
(+)
Một triết gia, nhà văn, nhà soạn kịch người Giơ-ne-vơ thuộc trường phái
lãng mạn hồi thế kỷ 18. Triết lý chính trị của ông đã ảnh hưởng đến
cuộc cách mạng Pháp.
Anh Trần Huỳnh Duy Thức |
***
Trần Huỳnh Duy Thức : Diễn Biến Hòa Bình hay Cách Mạng Cạm Bẫy
Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng (tiếp theo)
Kính gửi: Dân Làm Báo
Tôi là Trần Văn Huỳnh, cha của Trần Huỳnh Duy Thức.
Tôi xin được gửi đến quý báo một phần khác được trích từ quyển sách Hành Trình vào Bản chất của Dân chủ và Thịnh vượng của Thức đang viết dang dỡ. Nói thật là tôi đã nhiều lần không cầm được nước mắt khi dịch quyển sách này. Rõ ràng là Thức biết trước được những rủi ro lớn từ việc mình làm nhưng vẫn dấn thân vì nghĩ đến nhiều người.
Do vậy tôi mong quý báo, đài giúp phổ biến trích đoạn này để giúp tôi phần nào làm được gì đó cho tâm nguyện của con mình.
Xin chân thành cảm ơn.
Nhân dịp Xuân Nhâm Thìn sắp đến, tôi cùng gia đình xin chúc quý báo, đài AN KHANG, THỊNH VƯỢNG và HẠNH PHÚC.
Tôi là Trần Văn Huỳnh, cha của Trần Huỳnh Duy Thức.
Tôi xin được gửi đến quý báo một phần khác được trích từ quyển sách Hành Trình vào Bản chất của Dân chủ và Thịnh vượng của Thức đang viết dang dỡ. Nói thật là tôi đã nhiều lần không cầm được nước mắt khi dịch quyển sách này. Rõ ràng là Thức biết trước được những rủi ro lớn từ việc mình làm nhưng vẫn dấn thân vì nghĩ đến nhiều người.
Do vậy tôi mong quý báo, đài giúp phổ biến trích đoạn này để giúp tôi phần nào làm được gì đó cho tâm nguyện của con mình.
Xin chân thành cảm ơn.
Nhân dịp Xuân Nhâm Thìn sắp đến, tôi cùng gia đình xin chúc quý báo, đài AN KHANG, THỊNH VƯỢNG và HẠNH PHÚC.
Trần Văn Huỳnh
***
Bản dịch tiếng Việt:
Bản dịch tiếng Việt:
Diễn Biến Hòa Bình hay Cách mạng cạm bẫy[i]
Hành trình vào bản chất của Dân Chủ và Thịnh Vượng (tiếp theo)
Liệu một hình thái xã hội nào đó có gắn chặt với một thuộc tính bất biến của nó, chẳng hạn như “bản chất của chủ nghĩa tư bản là xấu xa và người bóc lột người”, hoặc “bản chất của chủ nghĩa xã hội / chủ nghĩa cộng sản là tốt đẹp và luôn vì nhân dân”?
THUỘC TÍNH, BẢN CHẤT VÀ QUY LUẬT
Chỉ có những yếu tố nào được định tính bởi Tạo hóa mới có tính bất biến - chính là bản chất của chúng. Con người không thể kiểm soát hoặc thay đổi các bản chất này, chẳng hạn như các nguyên tố hóa học, trọng lực và quyền con người. Tất cả thuộc tính của những gì con người có thể kiểm soát được thì luôn có thể thay đổi, tùy thuộc vào thời đại, sức mạnh con người và quan trọng nhất là vào luật lệ liên quan của Tạo hóa. Ví dụ, con người có thể sản xuất nhiều loại thép khác nhau: rỉ hoặc không rỉ; những chiếc máy bay khác nhau: cánh quạt hoặc phản lực; và những xã hội trái ngược nhau: cường quyền -> tham nhũng -> nghèo khổ -> lạc hậu hay dân chủ -> công bằng -> thịnh vượng -> văn minh. Con người sáng tỏ và tuân thủ càng nhiều quy luật tự nhiên và kiến thức của các quy luật này thì thép, máy bay và xã hội được làm ra càng tốt, và càng có nhiều người chấp nhận các sản phẩm của mình một cách thuyết phục. Nói một cách chính xác, Sức mạnh của nhân loại tùy thuộc và tỷ lệ thuận với sự hiểu biết của con người về các quy luật của Tạo hóa. Đây là sức mạnh chính đáng và bền vững.
Sự phát hiện của Newton về quy luật Vạn vật hấp dẫn đã không chỉ khai tử chân lý áp đặt sai lầm của Giáo hội La Mã: “mặt trời xoay quanh trái đất” và kéo theo tòa án dị giáo phục tùng của nó, mà còn khởi tạo nên một sự khai sáng vĩ đại về thế giới vật lý cho nhân loại, rồi dẫn đến cuộc Cách mạng Khoa học Kỹ thuật. Và sự thịnh vượng của thế giới đã phồn vinh vô số kể từ sau sự ra đời của “Sự thịnh vượng của các quốc gia” - một tuyệt tác của Adam Smith đã giúp cho con người hiểu rõ các quy luật tự nhiên về kinh tế. Ông gọi chúng là “hệ thống tự do tự nhiên” mà sau đó được áp dụng rộng rãi bởi nhiều nước tư bản chủ nghĩa một cách rất thành công dưới thuật ngữ ngày nay: “các nguyên lý kinh tế thị trường tự do”. Do vậy, một số người tôn Adam Smith là người sáng lập của chủ nghĩa tư bản. Nhưng đây là một ý kiến sai. Ông đã không khởi xướng một học thuyết cho cho một chủ nghĩa trong quyển “Sự thịnh vượng của các quốc gia” của mình, và thuật ngữ chủ nghĩa tư bản chỉ xuất hiện gần một thế kỷ sau tác phẩm của ông. Thay vào đó, ông đã tìm ra những động lực kinh tế nằm ở đâu; chỉ ra cách các động lực này vận hành và làm sao để điều khiển chúng; chính phủ nên làm sao và không nên can thiệp như thế nào để đảm bảo chúng vận hành đúng đắn và tự nhiên (tức là theo đúng bản chất của chúng). Tất cả những điều này bàn đến các quy luật về bản chất của kinh tế, hoặc những nguyên lý của các bản chất kinh tế.
THUỘC TÍNH BIẾN ĐỔI VÀ LÝ TƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA
Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản không hề được hình thành bởi một bản tuyên bố của một học thuyết được định dạng hoặc đóng khuôn sẵn, đặt ra các quy tắc áp đặt cứng nhắc đối với những người theo nó. Mà nó được thành hình tự nhiên, tức là những ai ủng hộ nó đã tôn trọng các bản chất của kinh tế và những sự tiến hóa diễn ra theo các quy luật của các bản chất này theo chiều hướng của các hoạt động phổ biến. Làm như vậy từng bước, nó đã dần hình thành nên nhiều hình thái xã hội (không chỉ một cái duy nhất) có tên chung là tư bản chủ nghĩa (gợi liên quan đến người sở hữu vốn) và có chung các luật lệ cốt yếu nhằm ủng hộ sở hữu tư nhân để khuyến khích động lực cá nhân cho sản xuất hàng hóa hay dịch vụ vì lợi nhuận, duy trì thị trường tự do cạnh tranh để bàn tay vô hình điều tiết các hoạt động kinh tế, và điều tiết những gì bàn tay vô hình không phát huy tác dụng. Dù đã lan rộng khắp thế giới, xây nên nhiều quốc gia dân chủ và thịnh vượng với sự đa dạng theo thời đại, văn hóa, chính trị, địa lý, tuy vậy những người theo nó đã tạo ra nhiều phiên bản bị lỗi như: những công xưởng bóc lột khắc nghiệt ở Châu Âu và chế độ nô lệ đáng xấu hổ ở Mỹ vào nửa đầu thế kỷ 19, hoặc rất nhiều chính phủ tư bản thân hữu tham nhũng như hiện nay.
Do vậy, rõ ràng là không có thuộc tính bất biến được gắn liền với một hình thái xã hội nhất định và được quyết định bởi học thuyết của nó hoặc chỉ đơn giản bằng cái tên của nó. Thuộc tính của nó sẽ không bao giờ là một tính chất hay đặc trưng được định trước hoặc bẩm sinh, mà là một thuộc tính biến đổi theo mức độ tuân thủ của người dân đối với các luật lệ của Tạo hóa và các hoạt động của họ, đặc biệt là của những người nắm quyền lực. Lịch sử đã cho thấy nhiều ý thức hệ vốn được ra đời bởi thiện chí và lòng tốt của những người khởi xướng, nhưng đã kết thúc bằng những sự tồn tại ngày càng tệ hại, gây tai họa tràn lan cho cả triệu dân. Đó là do lỗi bẩm sinh lúc thiết kế ra chúng không phù hợp với các nguyên lý tự nhiên hoặc do sự chủ quan áp đặt của những người thực hiện chúng vi phạm tính khách quan của các nguyên lý này. Đó chính là trường hợp của chủ nghĩa Mác và sự thực hiện nó của Lê Nin. Do vậy, không thể nói rằng bản chất của chủ nghĩa cộng sản hoặc chủ nghĩa xã hội là tốt hay xấu. Các thuộc tính của những biểu hiện khác nhau của nó có lúc xấu và tốt nhưng người ta có thể nói rằng lý tưởng, và chỉ là lý tưởng của nó mãi tốt đẹp và vì nhân dân. Tuy nhiên, lý tưởng không phải lúc nào cũng khớp với thực tiễn, chỉ những lý tưởng nào tìm ra con đường đúng thì mới khớp được.
MÔ HÌNH DÂN CHỦ XÃ HỘI
Những hình thái xã hội chủ nghĩa tốt nhất mà con người từng được chứng kiến chính là các nền dân chủ xã hội đã được phát triển thành công ở các nước Bắc Âu. Mô hình này được sáng lập bởi những người ngưỡng mộ lý tưởng vì giai cấp công nhân của Mác và những khái niệm phân phối công bằng cho đại chúng của ông, nhưng xét lại và phê bình một cách khoa học phương thức sản xuất và cách thức giải quyết mâu thuẫn giai cấp của ông. Họ thừa nhận sự phân hóa giai cấp kinh tế giữa giới tư sản và vô sản, nhưng cho rằng vấn đề này sẽ được loại trừ nhờ vào những cải cách pháp luật và các chương trình tái phân phối. Họ tin rằng chuyên chính vô sản sẽ làm trầm trọng hơn các quan hệ xã hội, rằng những cải cách dân chủ dần dần sẽ tăng cường quyền và lợi ích cho giai cấp công nhân. Họ tranh luận với Lê Nin về “đấu tranh giai cấp” của Mác, ở đó họ bác bỏ sự sai trái của phương pháp của Lê Nin sử dụng bạo lực để đánh đổ các tầng lớp trên với hy vọng vực dậy giai cấp vô sản. Họ thấy trước rằng cách đó sẽ dẫn đến những sự hủy diệt đẫm máu và sự tàn phá xã hội để đổi lấy một tình trạng đấu đá bị kềm nén. Họ lập luận rằng đấu tranh giai cấp chỉ có thể tạo ra động lực cho phát triển như Mác mong muốn chỉ ở nơi nào các tầng lớp dưới có được những cơ hội tử tế trong cuộc sống để không ngừng tự cải thiện chính mình cho cuộc sống tốt hơn hoặc để vươn lên tầng lớp cao hơn nhờ vào một quá trình dân chủ. Đây chính là những động lực chính đáng và lâu dài, không phải là những động lực từ hận thù nhất thời. Họ từ chối kiểu xã hội chủ nghĩa bằng cách mạng bạo lực và ủng hộ kiểu cải cách mà từ đó phát triển nên một khái niệm mới: Chủ nghĩa xã hội dân chủ xã hội. Chủ nghĩa này bảo vệ các quy luật kinh tế thị trường để xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội, bảo hộ việc tái phân phối thành quả tăng trưởng, đảm bảo cơ hội công bằng và luật chơi sòng phẳng, cho phép doanh nghiệp tư nhân và hỗ trợ quyền sở hữu, v.v...
Mô hình này có nguồn gốc vào những năm đầu của thế kỷ 20 từ phái Men-sê-vich mà sau đó đã bị Lê Nin phản đối và đặt ngoài vòng pháp luật sau cách mạng tháng 10 năm 1917. Chính quyền Xô Viết gán cho nó là “chủ nghĩa xét lại” và “phản động”. Từ này từ đó trở thành thuật ngữ tội phạm phổ biến nhất được dùng để trừng phạt bất kỳ ai làm, hoặc chỉ nói, khác với những tín điều của phái Bôn-sê-vích của Lê Nin, bóp nghẹt tất cả mọi phản động theo nghĩa đúng đắn bình thường của từ này [ii]. Ở những đất nước tán thành giáo lý của Lê Nin, từ phản động làm cho người dân khiếp sợ và ăn sâu vào lòng họ, tận diệt tất cả mọi chỉ trích đối với chính quyền cùng với những ý tưởng sáng tạo mới không thể thiếu để phát triển đất nước. Người dân ở những nước văn minh gần như không bao giờ hiểu được vì sao phản động lại có thể là một vấn đề, chứ đừng nói là phạm tội.
Dân chủ xã hội đã sinh sôi ở Bắc Âu từ sau kết thúc Thế chiến II, các đảng theo xu hướng này đã nắm quyền thông qua các cuộc bầu cử dân chủ. Dù không lóe sáng như ở Liên Xô nhưng mô hình này phát triển yên bình, ổn định và bền vững thành những xã hội tốt nhất và ngày càng tốt hơn trên cả thế giới. Đó là Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Hà Lan - cũng là những quốc gia dân chủ, thịnh vượng và văn minh nhất. Các hình thái xã hội thành hình trên thực tế của những nước này có nhiều điểm giống nhau nhưng không phải là đồng nhất, và không hoàn toàn giống với cái mà Eduard Bernstein [1] và các lý thuyết gia về tư tưởng dân chủ xã hội mong muốn. Tuy nhiên, những hình thái này có chung nguyên lý cốt lõi: bảo vệ trước tiên và tối thượng quyền con người, ủng hộ có quan sát kinh tế thị trường, kiên quyết duy trì một nền dân chủ thực chất để đảm bảo rằng các quyết định chính trị là thực sự vì đại chúng, chống lại những cuộc cách mạng bạo lực hoặc sự áp đặt từ trên xuống. Những nguyên tắc này xây dựng nên một nền tảng để tôn trọng các quy luật của các bản chất của con người - đối tượng chính của xã hội. Cho nên nó đã tạo ra những thành tựu đáng ngưỡng mộ và bền vững - chính là kết quả của sự tiến hóa yên bình của các hoạt động của nhân dân dựa trên nền tảng này (tức là dưới sự vận động của các quy luật nói trên), tiến dần đến những điều cao đẹp mà lý tưởng của tư tưởng này mong muốn. Mô hình này do vậy còn có một tên chính thức khác: chủ nghĩa xã hội tiến hóa, tương phản với chủ nghĩa xã hội cách mạng vốn đã từng lóe sáng ở Liên Xô rồi kết thúc trong tàn lụi. Nguyên nhân sâu xa của thất bại này vì Liên Xô đã chống lại các quy luật tự nhiên của Tạo hóa, tự đại thay thế các quy luật này bằng những luật lệ chủ quan của mình.
DIỄN BIẾN HÒA BÌNH . . .
Trung quốc và Việt Nam đang tái diễn lại sai lầm này vì họ không thể tiêu hóa nổi kết quả đương nhiên của sự tiến hóa do vận động của nền kinh tế thị trường vốn bắt buộc đòi hỏi một thể chế chính trị ngày càng dân chủ để có được một môi trường xã hội hỗ trợ cho một nền tảng như đề cập ở trên. Một chính thể như vậy sẽ cân bằng mối quan tâm của xã hội giữa những nhóm lợi ích khác nhau vốn luôn tồn tại cho dù luật pháp có thừa nhận hay không. Việc chạy ảnh hưởng của các nhóm này sẽ được diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật để ngăn ngừa việc đưa và nhận hối lộ làm băng hoại các quan hệ xã hội. Chính thể này cũng sẽ không tước đoạt tự do của báo chí mà ngược lại, giao phó đầy đủ trách nhiệm cho nó phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống một cách đa chiều, ngăn ngừa và đem ra ánh sáng những phi vụ lén lút. Nó cũng sẽ trao quyền cho công dân buộc những người đang nắm quyền phải giải trình.
Mặc dù hai nước này đã chấp nhận kinh tế thị trường và nhận hưởng công trạng của nó, nhưng họ dường như không thấy được quy luật này diễn biến không thể đảo ngược như thế nào và nó sẽ đẩy tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị đến đâu. Nên họ kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này, tội phạm hóa nó bằng thuật ngữ “diễn biến hòa bình”. Lịch sử đang lặp lại. Thuật ngữ này bây giờ đóng vai trò như từ “phản động” trong thời đại của Liên Xô, đàn áp tất cả mọi sáng kiến nhằm tiến hóa đất nước đến sự giàu đẹp một cách hòa bình và trừng phạt ngay cả những người đầy thiện chí để đổi lấy nhiều tràn lan các quan chức tham nhũng và tha hóa, sự suy thoái đạo đức xã hội, những người dân khiếp sợ và mất tự tin. Người dân văn minh thật khó mà hiểu được vì sao các hành động hòa bình lại không được khuyến khích, chứ đừng nói là có thể bị buộc tội. Lịch sử đang lặp lại không chỉ giai đoạn tương tự này.
Nhìn trở lại thời kỳ chiến tranh lạnh. Vào đầu thập kỷ 1970, khi thế giới thứ nhất, hoặc thế giới của các nước dân chủ và thịnh vượng, đang cố gắng thắt chặt quan hệ hơn với Trung Quốc nhằm kéo nước này khỏi nền kinh tế kế hoạch tập trung, thì Liên Xô đã xuất hiện các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhưng khéo léo che đậy về kinh tế và xã hội. Kinh tế thị trường đã chiếm ưu thế và gặt hái thành quả ở thế giới thứ nhất, nên nó được thúc đẩy cho những nước đang phát triển. Chưa đầy 20 năm sau, Trung Quốc đã phấn khởi hưởng thụ thành tựu của nó - đưa hàng trăm triệu người thoát khỏi nghèo túng. Việt Nam theo sau và nhờ vậy đã tránh được một sự sụp đổ dường như không dừng được. Trong khi đó, Liên Xô không chịu thay đổi, cự tuyệt kinh tế thị trường vì bị cho là một mưu đồ ngấm ngầm của các đối thủ và thế lực thù địch nhằm lật đổ nó bằng diễn biến hòa bình, tấn công từ bên trong. Thế giới thứ nhất càng thúc đẩy thì Liên Xô càng không chịu thay đổi. Trong cùng thời gian đó, nó bị kéo vào một cuộc đua vũ trang bởi chương trình Chiến tranh các vì sao của Mỹ. Nhờ có kinh tế thị trường nên ngân sách quốc phòng đầu tư cho chương trình này đã kích thích nền kinh tế Mỹ phát triển. Trong lúc đó, vì không có kinh tế thị trường nên nguồn lực của Liên Xô bị cạn kiệt nghiêm trọng và ngày càng nặng bởi sự gia tăng liên tục của phí tổn quốc phòng. Khi nó nhận ra vấn đề và căn nguyên thì đã quá muộn. Goóc-ba-chốp đã cố gắng cải tổ kinh tế trong tuyệt vọng. Việc này đã dẫn đến một cuộc đảo chính lật đổ ông ta và không lâu sau đó là sự tan rã toàn diện của người khổng lồ Liên Xô và kẻ bắt nạt kinh hoàng của nó - Cơ quan an ninh KGB.
...HAY LÀ CUỘC CÁCH MẠNG CẠM BẪY
Những biểu hiện khác nhau nhưng cùng quy luật của bản chất. Thế giới thứ nhất hiện nay thúc đẩy nhân quyền và dân chủ thay vì kinh tế thị trường như trước đây. Toàn cầu hóa bây giờ thay thế cho chạy đua vũ trang. Toàn cầu hóa đòi hỏi buộc phải có một nền tảng tự do và dân chủ để, tương tự như kinh tế thị trường, tự động điều chỉnh tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị trong một môi trường được toàn cầu hóa. Không có một nền tảng như vậy, một đất nước sẽ không thể tự điều tiết bằng con người tất cả mọi vấn đề trên để làm cho chúng vận hành tốt, nên cuối cùng sẽ làm khô cạn mọi nguồn vốn quốc gia, cả vốn tiền và vốn người. Đây là phí phải trả rất nghiêm khắc cho sự vi phạm các luật lệ của Tạo hóa - một sự tương tự với chạy đua vũ trang mà không có kinh tế thị trường nói trên - đó là điều không thể tránh khỏi. Đơn giản vì đó là kết quả của sự tiến hóa (hay diễn biến) theo quy luật.
Kết cục cũng sẽ là một sự sụp đổ hay tan rã chế độ nếu chế độ đó không sớm thừa nhận sai lầm, tiếp tục cự tuyệt tôn trọng và bảo vệ quyền con người một cách chân thành để có được một nền dân chủ thực chất. Điều này có vẻ như là kết quả của một “cuộc cách mạng cạm bẫy” hơn là “diễn biến hòa bình”. Nếu cái bẫy đó là có thật thì có lẽ nó đã được gài bởi chính tự thân Liên Xô hoặc bất kỳ nước nào áp dụng kinh tế thị trường đồng thời với từ chối quyền con người, tức vi phạm quy luật của bản chất khách quan. Có rất nhiều nước như vậy, trải từ Á sang Phi, Mỹ La Tinh và cả châu Âu, do đảng cộng sản cầm quyền hoặc không, bao gồm nhiều hình thái nhà nước khác nhau có hoặc không có học thuyết chủ nghĩa; xã hội chủ nghĩa hoặc không, quân chủ hay cộng hòa. Trong số này nổi bật là: Trung Quốc, Li Bi, Việt Nam, Venezuela, Ả Rập Xê Út, Iran và cả Nga.
Tạo hóa sẽ thu nghiêm khắc phí vi phạm luật lệ của Tạo hóa mà không cần biết đến địa lý, ý thức hệ hoặc bất kỳ hình thái nào do con người tạo ra. Cái luật này được áp dụng bình đẳng cho mọi nơi, mọi người mà không có ngoại lệ, và không có sức mạnh nào của con người có thể chống lại chúng. Con người chỉ có thể phát hiện chúng, làm sáng tỏ chúng, áp dụng chúng đầy đủ để tạo ra sức mạnh cho mình, và PHẢI thuận theo sự tiến hóa (tức diễn biến) của chúng. Thảm họa có thể giáng xuống không chỉ những người có trách nhiệm phải trả cho nó mà còn cho cả những người vô tội. Hậu quả của giáo điều.
LỰC VÀ ĐỘNG LỰC TỰ NHIÊN
Dân châu Âu đã thoát được thảm họa giáo điều của tòa án dị giáo nhờ sự khai sáng của Newton. Hàng tỷ người trên thế giới thoát khỏi thảm họa đói khổ nhờ Bàn tay vô hình của Adam Smith. Đây là những phát hiện vĩ đại nhất của nhân loại. Sự vĩ đại là ở chỗ tìm ra được các lực tự nhiên trong thế giới vật lý và động lực tự nhiên trong thế giới kinh tế. Chính các bản chất này - lực và động lực đã giúp con người tạo nên sức mạnh phi thường, làm nhân loại tiến nhảy vọt từ đó.
Hẳn phải có những lực và động lực và các quy luật của chúng trong thế giới của các vấn đề toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị mà con người nên hiểu rõ để tránh được thảm họa phi dân chủ từ sự giáo điều tương tự, và để các nước đang phát triển tăng trưởng nhanh chóng tham gia thế giới dân chủ, thịnh vượng, và đương nhiên là văn minh nhờ đó.
Tìm kiếm các bản chất và quy luật đó là nỗ lực của quyển sách này và sẽ được làm sáng tỏ ở những phần kế tiếp.
Nguyên bản tiếng Anh có một số lỗi nhưng giữ đúng nguyên bản.
Nguyên bản tiếng Anh có một số lỗi nhưng giữ đúng nguyên bản.
Tác giả : Trần Huỳnh Duy Thức
Người dịch : Trần Văn Huỳnh
Nguyên bản tiếng Anh:
Original copy in English:
HEWING QUEST FOR DEMOCRACY AND PROSPERITY
How
should the independence of a state or nation be understood? The
perception which attributes the independence means its state is ruled by
a group of people who have the same race with the vast majority's is
rather widespread. This wrong embracing helps autocracies capitalized on
it to maintain their hegemonies. A correct discernment of the
independence, therefore, is very crucial to prevent a nation from
dependency. It will too require us to think in right ways about the
notion of personal strength and individuality. This theme will lead to
many studies of democracy and wealth, and their principles.
COLONY OR AUTOCRACY
There
are scads of autocracies who have arbitrarily ruled their countries for
some decades. Most of them are the ones who played their important
roles of the national liberations from colonies. Their nominal
achievement were bringing the independence to their nations. But looking
into the defacto life of those who live in these countries, it is too
hard not to say what a dependent are they though their colors and races
are the same with the absolute rulers'.
Those
despots, in fact, simply changed the colonies' sways by theirs. There
commonly finds a multitude of violations of human rights, freedom and
personnel interests in the name of national security and sakes. The
merits of ''national liberation'' are exploited to preserve the
legitimacy of these repressive regimes. In some places the popular
griefs and sufferings are even worse than what they had undergone in the
colony time. Bottle changed so did not liquor.
PERSONAL INDEPENDENCE AND NATIONAL INDEPENDENCE
There
will be no independence if there is no freedom. And there will be no
national independence if there is no personal independence. This is the
absolute truth. In the mid of 19th century, Fukuzawa Yukichi who has
been credited as the eminent one among the founders of modern Japan made
a famous maxim: ''National independence through personal
independence''.
He
justified that through personal independence, an individual does not
have to depend on the strength of another. So it is that personal
strength helps build a nation to rival all others. And it was this
thought that turned Japan into a great power country within 30 years
from a poor backwardness.
FREEDOM BEFORE INDEPENDENCE
An
individual is not able to be independent if she or he doesn't have full
freedom. And only when a person's human rights are fully respected and
protected by the rule of law can she or he gain her or his freedom
utterly. Therefore a rule-of-law state intrinsically means a legitimate
mandate to protect these rights and freedom for every individual,
one by one. This responsibility must be enshrined as the ultimate goal
of that state. Failing to abide this rule will cause encroachment of
individual freedom in the name of national security, social stability,
public order that, in vague ways, are usually used by many despotisms to
argue for development.
The
ambiguity, in fact, easily becomes the pretext to impinge on human
security, derogate human rights and offend human dignity relentlessly to
gain the prerogative for a narrow interest group. This will definitely
end up making the dependence of people on the rulers by imposing fear
over the subjects. No freedom leads to dependence no matter what color
and race is of the rulers, personal dependence unavoidably causes
dependency even if its nation is not under the other country's
jurisdiction.
LEGITIMATE MANDATE
Canada
and Australia follow the constitutional monarchy system that crowns the
Queen of the U.K as their head of state. But who can say that they are
dependent nations? As long as their peoples like this system it just
exists. On the contrary, they can vote to change the system, for
instant, to the republic one without problem. They are completely free
to choose their political system so their nations are truly independent.
If
Barack Obama wins the presidential election in the US whether will the
white see themselves as a dependent race? And will the black find their
independence from that victory? One who answers yes will look very
cock-eyed. A mandate is legitimate only when it is voted by a free
election in which the peoples, namely, mandators are fear-free and
want-free to cast their ballots. And so is the law. Jean Jacques
Rousseau (+) has written in his magnum opus Social contract: ''Every law
the people have not ratified in person is null and void - is, in fact,
not a law''.
Legitimacy
of a mandate knows neither race, color, sex, etc... nor birth,
accomplishment, ''for people'' manifesto of a party ruling by
impingement, etc... Making the people either dreaded or economically
contingent on the persons in power is the way that a brute tyranny wield
to bend people to its strong will. It thereat is never a legitimate
mandate even though it accepts the peoples' franchise nominally.
HUMAN RIGHTS, DEMOCRACY AND PROSPERITY
That's
why The Universal Declaration Of Human Rights (UDOHR) proclaims and
holds that a man just has freedom when he gets not only freedom from
fear but also freedom from want. To this end, it has been concretized
into the International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR)
and the International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights
(ICESCR) to protect and promote these fundamental rights worldwide. As
it was not happened on, most of the first world countries firstly
respect and ultimately protect those rights in their constitutions fully
and enforce them in reality. This was the way that has led these
nations to the most democratic and prosperous countries on over the
world.
Those
rights are sacred and endowed by The Creator, not by anyone else who
is a human being or anything belongs to human. Therefore upholding these
rights means observance of the objective and natural principles, so
called The Creator's laws that human can discover to understand but can
not create as he desires. If a human law does not conform with the
correspondent Creator's laws, it won't work well and could collapse
eventually.
INTEGRITY OF HUMAN RIGHTS
An
airplane will not be able to take off if it is designed by the rules
that do not thoroughly obey the Universal law of gravitation,
Bernoulli's law and so on. Right after retrieving their sovereignty from
the U.K, Indian upheld the political right for peoples by a multi party
system. But their economic right was severely restricted so they got a
hamstrung freedom that would not make a gist democracy. That's why they
had immersed in the numbing poverty until they repealed the mammoth
permit raj in 1991, initiating the democracy in economic activities.
Tens of millions of Indian have been lifted out of impoverishment since
then, bringing about a series of other achievements of economy,
politics, society, culture, technology, defense, etc ... This tells why
Africa is still rife with wretched nations despite of their long
existence of repletion of political parties.
China
and Vietnam make another version of infringement on the integrity of
human rights. The two countries have recognized the economic right for
their peoples but still unrelentingly dis posses their political rights,
occasioning another cripple freedom. This model, though, can deliver
economic progress and impressive result in combating poverty it
simultaneously nurtures social grievances, and decadences and pen them
up. When this deterioration comes to fester it will either lead the
political body to democratize itself or end up collapse of all economy,
society and politics and an upended regime. This is the inevitable
evolution because it breaks the integrity of human rights that belong to
The Creator's law. Under the clout of globalization and Internet
society, this evolution progresses very fast, sooner than ever seen in
the cold war time that marshaled to the disintegration of East European
and USSR system.
PRINCIPLES FOR GROWTH
The
rationale of above cases shows that human society will thrive when a
man entitles to liberally pursue wealth for his own and, thank to his
pursuance, for others who he needs to have recourse for his purpose.
This is a basic principle of market economy that is made up by The
Creator through the universal behavior of human being. And that a market
economy works well and steadily only in a sufficient freedom society
which is the automatic mechanism to reach the equilibrium of all
economical aspects efficiently. Adam Smith called this mechanism as the
''Invisible hand'' which is also a Creator's law that he had found and
unraveled to help develop economic study.
The
study divides economic by two branches: positive economics and
normative one. The first one studies the natural principles of economic
factors and the mutual effects among them, i.e the economic objective
realities while the second one studies the results of human's economic
actions and decisions as causalities upon the above natural principles.
Accepting market economy means an applying these principles only, yet it
is not enough. It indispensably requires an additional mechanism to
assure the governmental economic decisions are for the mass, the
majority. Without this, man will head his drive, for his purpose of
pursuing wealth, to content the decision makers, who are in governance
instead of the layman. This moral hazard can be vehemently criticized
but it is not abnormal and will, despite of vitriols hurling to it,
pandemically exist and undermine any society that has not a substantial
enough democracy. Such a system like this is termed as the crony
capitalism that can go about as far as a middle income country and stand
at that trap.
SUBSTANCE AND FORM OF DEMOCRACY
The
substance of democracy is simply the observance of human rights and
their integrity. It is that the compliance with the natural principles
because human rights are attributed by The Creator. The more completely
is observance enforced the more substantial is democracy gained. This
substance of democracy does not vary because of any factor that belongs
to human such as race, color, sex, language, religion, political or
other opinion, national or social origin, property, birth, stage of
development or other status. These things just exert an influence on the
form of a democratic society that is inherently the causal result from
the motion of them based on The Creator's laws including human rights.
The form can vary but the substance. It must be a bottom-up result and
should not be a top-down imposition that contains the anti-democratic
essence already.
Human's
view of social form is just able to set into existence only when it is
designed upon The Creator's laws and it must persuade the peoples to
subscribe to it voluntarily. Designing a subjective form then roughly
forcing the subjects to grudgingly accept it as an only conventional
wisdom will produce a constantly instable society because the gap
between its nominal norms and the ones in reality increasingly grows,
causing broken promise tumble of faith. Now that this designed form
would crumble although it never exists defacto as designed. This is as
what have seen like. the Third Reich in Germany and USSR in Russia.
MOTIVE OR FEAR
When
a government must convince its peoples it must also motivate them. The
peoples shall, by their turn, build up tremendous impulses to push what
their government wants towards the better form of life. By all
appearances, a social form that might literally exist in life is always a
causality of the commons' actions on the creator's laws. The form may
match what the governing persons want only if they match their will with
the commons' will and make their desirous laws compliant with the
creator's laws. Empathy of people desire and unraveling the objective
natural principles are always the sine qua non in a democratic society.
Wielding
state power to inflict the commons bending to a small group's
willfulness would produce fear and drain resource of human capital such
as motive, creativity, faith which are the most essential values for
sustainable development of a society. People may kind of give up their
freedom in return for their living business as long as their government
can assure a stable economy growth and distribute it relatively fairly.
But this mission is impossible with a low democratic society. When it
fails is the time that The Creator takes His toll for breaching His
laws. The toll is a humiliatingly overthrown regime and, at times, a
violently bloody revolution. Not so is with a democratic society where
people can change their government peacefully.
FROM FEAR TO DEPENDENCY
An
anti-democratic government always, as its own disposition, delivers
fear to muffle the complaints of peoples who criticize its flaws. It,
however, also muffles and deludes itself, blinding its eyes before the
society's reflections. Such a government can not build an unshakably
viable society but an eventually moribund one. This is because dependent
persons are not capable to lead their peoples to a national
independence, but to a dependency. Dictators and anti-democratic
governments are truly the dependent ones though they usually show up
their powerfulness.
An
independent man is never thoughtlessly contingent on other's critiques
while a dependent is obsessively scared with them, wishfully thinking
that they would cast an ugly shadow on him. He is never self-confident
enough to understand that how people thinks of him is just the
consequence of his own behaviors, not of other who fulminates against
him. This is literally an adjunct's mind set that, when it appertains to
ones who in the saddle, always conducts to repressions against their
dissidents, saddling their peoples with fear to gloss over their
feebleness. The bullies hide their cowardice by cruelties. The
tyrannical Saddam Hussein exposed his dastardliness being caught when
fleeing.
HEWING QUEST FOR DEMOCRACY AND PROSPERITY
Saddam's
regime has been toppled for years yet an independence of Iraq hasn't
come. This is not because of the US occupation. It just happens when the
Iraqi are consciously self confident to build their own personal
dependence so as to make their nation an independent. This is the MUST
for all nations around the world to be truly free and independent in
order to have democracy and prosperity. There are less than 1/7
worldwide population living in such countries like this while more than a
half still struggling with poverty and want. The movement of national
liberation after World War II had thrived and achieved more than half a
century ago yet it has not brought freedom and independence to many
countries in order to be democratic and prosperous. But mostly brought
about totalitarianisms; demagogies; deprivations or curtailments of
human rights and freedom, frightened and dependent peoples; poverties
and even famines.
Questing
the world's history of democracy and prosperity stretching from the
ancient Roman time to now, and hewing these categories to distill their
essential substances so as to unravel their relevant natural principles.
And applying these principles to find the fastest and sustainable paths
to freedom, dependence, democracy and prosperity for nations is the
ambition of this book - Hewing Quest for Democracy and Prosperity.
The
book is about to understand the rationale and genesis of above
categories, in the relations with the substance of a rule-of-law state
and its various forms, as well as the role of a civil society inside it
to assure the peoples playing by the rules to make it works. And how to
encourage individual freedom while countervail it with the collective
and universal values instead of to defeat the individualism.
The book believes that such above paths will help maintain peace and prevent war for the world.
-----------------
(+)
Eminent Genevan philosopher, writer and composer of 18th-century
Romanticism. His political philosophy influenced the French Revolution
(1789).
PEACEFUL EVOLUTION OR PITFALL REVOLUTION[iii]
HEWING QUEST FOR DEMOCRACY AND PROSPERITY (continue)
HEWING QUEST FOR DEMOCRACY AND PROSPERITY (continue)
Whether does a certain form of society stick on a constant attribute, such as ''the nature of capitalism is bad and exploiting of man by man''' or ''the nature of socialism / communism is good and always for people''?
ATTRIBUTE, NATURE AND PRINCIPLE
Only elements that are attributed by The Creator hold constant attributes which are literally their substances or natures. These are uncontrolled or unchanged by the human, such as chemical elements, forces of gravity and human rights. All the attributes of what can be controlled by the human are always changeable, depending on time, human's strength and most importantly on The Creator's law related. For example, man can make up various kinds of steel: stain and stainless; different airplanes: propeller-driven or jet; and contrary societies: tyrannous -> corrupt -> destitute -> backward or democratic -> equal -> prosperous -> civilized. The more natural principles and their knowledge that man can unravel and obey, the better steel or airplane or society he's able to make, and the more people would buy his product convincingly. Statistically speaking, The strength of human kind depends and proportionally grows with the human race's discernment of The Creator's laws. It's the legitimate and sustainable strength.
The Newton's discovery of Universal law of gravitation had not only proclaimed the demise of Roman Catholic church's erroneously imposed truth of ''the sun rotates around the earth'' and thus its amenable inquisition, but initiated the great enlightenment for human kind of the physical world and thus the Technical Revolution. And the wealth of the world has astronomically thrived since the birth of ''The Wealth of nations'', an Adam Smith's masterpiece that helps people discern the natural principles of economic. He termed them as ''system of natural liberty'' that has been widely applied by many capitalist countries very successfully, under the today term ''free market-economy rules''. It's why some credited Adam Smith as the founder of capitalism. But this is a wrong idea. He did not initiate a doctrine for an ism in his ''The Wealth of nations'', and the term capitalism just appeared closely a century after his work. He instead found where the economical motives are; show how they drive and how to drive them; how governments should do and not interfere to assure the motives drive faithfully and naturally (i.e by their due natures). These are all about the principles of nature in economic, or the rules of economical natures.
FLOATING ATTRIBUTE AND DOCTRINE'S IDEAL
In fact, capitalism had not been formed by a declaration of a formatted or molded doctrine stipulating rigid rules of subjection for the followers. But it has been taken shape naturally, i.e its adherents have upheld the natures of economic and the evolutions, which followed by those natures' principles and fallen toward the bandwagon's inclination. Doing so step by step, it has gradually formed up many forms of society (not only a unique one) that share the same elementary laws which uphold private ownership to encourage individual motives in creation of goods or services for profit, keep the markets freely competitive in order to have the Invisible hand to self regulate economic activities, and regulate what Invisible hand doesn't work. Though it spread throughout much of the world, building democracy and prosperity in many nations with variety of time, culture, politics, geography, its followers has made a lot flowed versions such as harsh sweatshop in Europe and shameful slavery in America by early half of 19th century, or scads of corrupt crony-capitalist governments by now.
So it came to be clear that there is no constant attribute that affixed to a certain form of society and decided by its doctrine or simply by its name. Its attribute is scarcely a pre-set or congenital feature or hallmark, but a floating result depending on the degree of its peoples' compliance with The Creator's laws and the activities of theirs especially of those who hold power. History has made known to man many ideologies that had inherently been born with goodwill and kindness of their initiators, but ended up deteriorative existences, causing rampant perils for millions of people. It's on account of either their innately flawed design not being compatible with the natural rules or their adherents' subjectivity impinging on the objective of these rules. This was the case of Marx's doctrine and its deployment by Lenin. Hence it's impossible to say the nature of communism or socialism is good or bad. The attributes of its different appearances are sometimes bad and good but one can say its ideal, and ideal alone, is ever good and for people. Still, ideal does not always match practice, only one finding out the right path can do.
SOCIAL DEMOCRATIC MODEL
The best socialist forms that man has ever seen are the social democracies which have been developed very successfully in North European countries. This model was founded by persons who admired Marx's ideal for working class and his concepts of equal distribution for the mass, but scientifically revised and commented his ways of production and of dealing with class conflict. They admitted economic class disparities between the bourgeoisie and the proletariat but they claimed that this problem would be eliminated through legal reforms and economic redistribution programs. They believed that dictatorship of the proletariat would exacerbate the social relations, claiming that gradualist democratic reforms will improve the rights and benefits for working class. They argued with Lenin over ''class struggle'' of Marx, in which they rejected as false of Lenin's method wielding violence to capsize the upper classes in hope of to rise up the proletariat. They foresaw that this way would marshal to bloody exterminations and social devastations in return for a restrained scrum. They argued that class struggle just builds motives for development as Marx's will in only where the lower classes may have decent shots at life to improve themselves increasingly to the better lives or higher classes through a democratic process. These are the just motives in the long run, not the temporary rancorous ones. They rejected forcible revolutionary socialist and supported reformist one which developed a new concept of Social Democratic Socialism that upheld market economy principles to build the social market economy, protected redistribution of growth achievements, guaranteed equal chances and fair goes, permitted private enterprises and supported property rights, etc...
This model had been originated since early 1900s in Mensheviks faction that was denounced and outlawed in Russia by Lenin after the Nov 1917 revolution. Soviet authority imputed it as ''revisionism'' and ''reaction''. This word henceforth became the most popular criminal term being exerted to penalized anyone who acted or only talked, differently than the Lenin's Bolsheviks faction's creeds, stifling all reacting in the its normally fair meaning. In the countries subscribing Lenin's tenets the word of reaction makes the peoples dreaded and stir their soul, uprooting all critiques against the authorities together with new creative ideas indispensable for the country development. Peoples in the civilized countries almost never understand why reaction can be a problem, much less a crime.
Social Democracy has proliferated in North Europe since end of World War II, this-leaning parties have taken ruling power through democratic elections. Though it did not have a flare like did in USSR, it has peacefully, stably and sustainably developed into the best and ameliorative societies on over the world. These are Sweden, Norway, Finland, Denmark, Netherlands that are also the most democratic, prosperous and civilized nations. The practically taken-shape forms of society of these states have much likeness but are not homogeneous, and do not starkly resemble the one expected by Eduard Bernstein [2](*) and other theorists of social democratic ideology. The forms, however, all share the common elementary rules: firstly and ultimately protecting human rights, watchfully upholding market economy, resolutely maintaining a substantial democracy to make sure that the political decisions are really for the mass, defying forcible revolutions or top-down impositions. These rules build up a fundamental for observance of the principles of natures of human being - the major objective of society. That's why it has developed many admirable and sustainable achievements which are the results of peacefully evolving from peoples' activities by this fundamental (i.e under the move of above principles), gradually reaching the sublimity expected by the ideology's ideal. This model has therefore another official name: Evolutionary Socialism in contrast with Revolutionary Socialism that had flared in the USSR and ended up withering status quo. The rationale of its failure is its defiance against natural laws of The Creator by its conceit superseding those laws with its subjective ones.
PEACEFUL EVOLUTION ...
China and Vietnam are reenacting this mistake because they can not digest the consequential results of the evolution from the move of market economy that would compulsorily require an increasingly more democratic polity in order to have a social environment supporting for above mentioned fundamental. Such a polity would also balance the social interest between different groups of interest which always exist whether legally recognized or not. The lobbying of these groups would be put under the light of day to prevent bribe and graft perverting social relations. The polity would also not deprive the press of freedom but vice versa, entrust it with full responsibility to reflect multifacets of life multilaterally and prevent and bring to light underhand businesses. It would also empower citizens to hold all person in power accountable.
Although the two countries have accepted market economy and enjoyed its merits, they are apparently not conceivable how this principle irreversibly evolve and where it moves the whole economical, social, political matters to. So they are vehemently defying this inevitable evolution, criminalizing it with the term ''peaceful evolution''. History is repeating. This term now plays the role as of ''reaction'' in the USSR time, suppressing all initiatives for peacefully evolving the country to a well-being and penalizing even the well-wishers in return for rife scads of corrupt and degenerate statesmen, decadence of society, peoples of dread and self-doubt. Civilized peoples are so too difficult to apprehend why the peaceful actions are not encouraged, much less chargeable. History is repeating not only this similar period.
Looking back to the Cold war time. In early years of 1970 decade, when the first world, or the world of democratic and prosperous countries, was trying to get closer tie with China in order to pull it out of the central-planning economy, the USSR got into serious but cleverly-covered crisises of economic & society. Market economy had dominated and paid dividends in the first world, then it was being goaded for the developing countries. Less than 20 years later China has cheerfully enjoyed its achievements, lifting hundreds of millions of people out of poverty and want. Vietnam followed it later and, thank to that, avoided a seemingly unstoppable collapse. Meanwhile, USSR had stood pat, repudiating market economy that was alleged to be an intrigue of its rivals and hostility to topple it by evolving peacefully attacking from inside. The more impetuses that the first world goaded, the more intractably did the USSR stood pat. During that time, it was being forced into a proliferation by the USA's SDI. Thank to market economy, defense budget invested to SDI stimulated US economic growth. While USSR's resources, without market economy, were depleted seriously and increasingly by the proliferating defense outgoings. When it recognized the problem and genesis was too late. Gorbachev had been hopelessly trying to reform the economy. It led to a political upheaval, overthrowing him and then soon later a total disintegration of the mammoth USSR and its creepy bully - KGB.
... OR PITFALL REVOLUTION
Different appearances but same principle of natures. The first world now is endeavoring to goad human rights and democracy instead of market economy as before. Globalization now substitutes for proliferation. It indispensably needs a freedom and democratic fundamental to, similarly with market-economy, automatically adjust all economical, social, political matters in a globalized environment. Without such a fundamental, a country will not be able to manually regulate all above matters to make them work well, eventually draining all national capital sources, financial and human. This is the scathing toll to pay for the infringement on The Creator's laws - an analog of the lack of market economy in the proliferation - that is unavoidable. It's simply because that is the evolving result by the laws.
The ultimate result will also be a collapse or disintegration of a regime if it does not soon admit its mistake, keeping repudiation of genuinely respecting and upholding human rights in order to have a substantial democracy. This seems a result of ''pitfall revolution'' rather than ''peaceful evolution''. If the pitfall had been or were truly present, perhaps it could have been or could be trapped by the USSR itself or any country that applies market economy and simultaneously rejects human rights, i.e breaches the principle of objective nature. There are a lot of such countries like this, stretching from Asia to Africa, Latin America and even Europe; communist - ruling or not, including various forms of state with or without doctrine; socialist or not, monarchical or republic. Among them are some prominence: China, Libya, Vietnam, Venezuela, Saudi Arabia, Iran and even Russia.
The above scathing toll of the Creator for breaching His laws knows neither geography, ideology nor any from taken-shape by human. They are applied equally for everywhere, everyone without exception and no human strength can go against them. Man just can discover them, unravel them, thoroughly apply them to create his strength and MUST conform with the evolution by them. Defiance of such an evolution means driving on the wrong side of history. Perdition. Catastrophe may descend on not only the persons who are liable for it but also the innocent. Aftermaths of dogma.
NATURAL FORCE AND MOTIVE
European people had escaped from the dogma catastrophe of inquisition because of Newton's enlightenment. Billions of peoples around the world have escaped from the catastrophe of want and famine thank to Adam Smith's Invisible hand. These are the greatest discoveries of human kind. The greatness is that the findings of natural forces in the physical world and natural motives in the economic world. It were those natures - forces and motives that have helped peoples build up tremendous strength, leaping human kind since then.
There should be such forces and motives and principles of their natures in the world of the whole economical, social and political matters that peoples should discern to avoid the non-democratic catastrophe of similar dogma, and to fastest grow the developing countries into the world of democracy, prosperity and of course, civilization since then.
Finding those natures and principles is the endeavor of this book and would be unraveled in the later episodes of it.
[1] (1850-1932). Một chính trị gia người Đức, người sáng lập nên chủ nghĩa xã hội tiến hóa và chủ nghĩa xét lại.
[2] (*) (1850-1932), Germany politician, founder of Evolutionary Socialism and Revisionism.
[i] Tựa của trích đoạn này do người dịch đặt, được trích từ quyển sách Hành trình vào Bản chất của Dân chủ và Thịnh vượng của Trần Huỳnh Duy Thức.
[ii] Tức là phản ứng bình thường của con người (người dịch chú thích)
[iii] This is an extract from the book Hewing Quest for Democracy and Prosperity of Tran Huynh Duy Thuc. This tile is named by translator.
[2] (*) (1850-1932), Germany politician, founder of Evolutionary Socialism and Revisionism.
[i] Tựa của trích đoạn này do người dịch đặt, được trích từ quyển sách Hành trình vào Bản chất của Dân chủ và Thịnh vượng của Trần Huỳnh Duy Thức.
[ii] Tức là phản ứng bình thường của con người (người dịch chú thích)
[iii] This is an extract from the book Hewing Quest for Democracy and Prosperity of Tran Huynh Duy Thuc. This tile is named by translator.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét