Ðọc tạp chí ‘Quan Hệ Quốc Tế Hiện Ðại,’ Trung Quốc, số 6/2011
LTS - Bài viết dưới đây do độc giả Việt Tâm chọn, hiệu đính, ghi chú, và gởi đến Người Việt. Trong phần lời dẫn, Việt Tâm giới thiệu: “Mới đây, tập san Các vấn đề quốc tế ở Hà Nội, số ra tháng 10, 2011 cho dịch và đăng lại một bài nghiên cứu khá cặn kẽ của Trung Cộng đăng trên tạp chí Quan hệ quốc tế hiện đại của Trung Quốc, số ra tháng 6, 2011, viết về cộng đồng người Việt trên đất Mỹ và ảnh hưởng của họ đối với chính sách của Mỹ về tranh chấp Biển Ðông. Mặc dầu ngôn ngữ bài viết có thể phản cảm đối với chúng ta (tỷ như cho người Việt ở Mỹ là “chống lại tổ quốc,” thậm chí lại còn mô tả là “phản quốc” - nhưng có lẽ chỉ với dụng ý là người Việt hải ngoại chống lại chế độ ở quê nhà, hoặc gọi Việt Nam là “mẫu quốc” của chúng ta, lẽ ra chỉ nên gọi là “quê hương đất tổ” mà thôi) nhưng nói chung, bài viết có thể xem được là khá khách quan dựa trên những con số và những dữ kiện có thật, thuộc loại “nói có sách, mách có chứng.” Dù ta đồng ý hay không với những nhận định và kết luận của bài viết, đây cũng là một bài viết có cơ sở và lạ thay, đánh giá khá tích cực vai trò của người Mỹ gốc Việt trong cuộc vận động về Biển Ðông bên cạnh chính quyền Mỹ.”
Tòa
Soạn giới thiệu bài viết cùng những đoạn in nghiêng do Việt Tâm thực
hiện, nhằm “nhấn mạnh để lưu ý độc giả.” Tựa bài do Người Việt đặt
***
Sau
khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, ảnh hưởng từ [các] nhóm lợi ích trong
các quyết sách ngoại giao của Mỹ ngày càng gia tăng, dẫn đến sự vận động
chính trị của các nhóm dân tộc ít người cũng tích cực hơn. Một trong
những hậu quả là nhóm dân tộc ít người vận động chính trị không chỉ gây
ảnh hưởng đối với lợi ích quốc gia trong thực tế hoặc trong tư tưởng của
mẫu quốc (quê hương), mà còn gây ảnh hưởng đến lợi ích của nước thứ ba, đến quan hệ giữa Mỹ, mẫu quốc (quê hương họ) với nước thứ ba. Nói
cách khác, nhóm vận động chính trị của dân tộc ít người không những
đang ngày càng vượt khỏi mối quan hệ song phương giữa Mỹ và mẫu quốc mà còn gây ảnh hưởng quốc tế với phạm vi rộng lớn hơn. Sự vận động chính trị [của] người Mỹ gốc Việt là một điển hình.
Người Mỹ gốc Việt trong một lần biểu tình chống Trung Quốc trước Lãnh Sự Quán Trung Quốc ở Los Angeles. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt) |
Những
người này chủ yếu là “dân tị nạn,” “thuyền nhân” và “dân di cư” sau năm
1975. Nhóm người này mặc dù vẫn có tư tưởng chống Việt Nam, nhưng không
kiên quyết và triệt để như người Mỹ gốc Cuba. Họ không phản đối bình
thường hoá quan hệ Việt-Mỹ, không có ý đồ kìm hãm sự phát triển kinh tế
của Việt Nam. Tuy tâm lý phức tạp này đã hạn chế hiệu quả tâm lý vận
động chính trị của họ, nhưng họ lại có hành động nhất trí tích cực trong
vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Ðông), làm cho ảnh hưởng của họ nâng
cao rõ rệt: Người gốc Việt ở Mỹ có ý đồ tác động lên chính sách Nam Hải
của Mỹ và Việt Nam. Từ cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, họ đã từng
tác động ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ và Việt Nam về vấn đề Nam Hải. Những năm gần đây, việc làm của họ đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyết sách can dự toàn diện vào Nam Hải của Mỹ. Ðồng thời, họ đã trở thành tấm gương trong số dân di cư gốc Ðông Nam Á khác tại Mỹ lên tiếng về quyền lợi Nam Hải.
1. Ðặc trưng dân số ảnh hưởng đến nhóm vận động chính trị người Việt
Giống
như các nhóm dân tộc ít người vận động chính trị khác, trước hết là đặc
điểm thành phần cơ cấu của nhóm vận động chính trị gốc Việt ở Mỹ mang
tính quyết định. Lịch sử của họ trên đất Mỹ không dài: Mặc dù trước năm
1975, một số dân di cư người Việt đã đến Mỹ, nhưng số lượng rất ít, chủ
yếu là sinh viên và một số phụ nữ Việt lấy chồng Mỹ cùng một số quân
nhân Nam Việt Nam được Mỹ đào tạo. Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc
năm 1975, rất nhiều người Việt đã di cư ồ ạt sang Mỹ. Trong hơn 30 năm
qua, số lượng người Việt ở Mỹ tăng nhanh, trở thành dân tộc có quy mô
lớn về dân số trong số người Mỹ gốc Châu Á và có ảnh hưởng quan trọng
đến xã hội Mỹ. Theo số liệu năm 2006 của Cục Thống Kê Dân Số Mỹ, nước Mỹ
có khoảng 1.5 triệu người Việt. Số lượng người Việt ở Mỹ chỉ đứng sau
người gốc Hoa, gốc Ấn Ðộ và Philippines, đứng thứ tư trong số các dân
tộc Châu Á ở Mỹ. Về tổng thể, quá trình di cư của người Việt tại Mỹ có
thể chia ra thành ba đợt. Ðặc điểm của nhóm người Việt ở Mỹ có liên quan
đến vấn đề này.
Làn
sóng dân di cư người Việt đầu tiên gọi là “dân tị nạn,” họ rời khỏi
Việt Nam chủ yếu xuất phát từ tâm lý “sợ hãi” bị hãm hại và trấn áp về
chính trị sau khi đất nước thống nhất. Nhóm người này đều đến Mỹ sau
tháng 4, 1975 khi Sài Gòn được giải phóng và Việt Nam thống nhất đất
nước. Họ đều có địa vị kinh tế xã hội khá cao. Chỉ trong vòng 8 tháng
(từ tháng 4 - tháng 12, 1975), số dân tị nạn người Việt sang Mỹ lên tới
hơn 129,000, rải khắp 5 bang của Mỹ. Trong nhóm người này, nhiều người
là quan chức cấp cao của chính phủ và quân đội miền Nam Việt Nam. Nhiều
người trong số họ có quan hệ hợp tác gắn bó với người Mỹ như thư ký,
phiên dịch, chuyên gia tình báo, nhân viên truyền thông... Theo một cuộc
điều tra, 47.8% có trình độ tốt nghiệp cấp 3; 22.9% học qua đại học;
7.2% là bác sĩ, 24% làm công tác chuyên môn kỹ thuật và quản lý, chỉ có
4.9% là nông dân và ngư dân. Nếu xét ở thời kỳ ấy, hơn 60% dân Việt Nam
là nông dân thì có thể thấy số dân di cư đợt này chủ yếu là tầng lớp
tinh hoa.
Làn
sóng di cư thứ hai được gọi là “thuyền nhân,” trong đó phần lớn là
“Kiều dân” (Hoa kiều). Họ di cư cũng vì nguyên nhân chính trị. Sau khi
Việt Nam bắt đầu thực hiện bá quyền khu vực từ năm 1978, nhiều người bị
đối xử bất công đã tìm cách rời khỏi Việt Nam. Họ đi bằng thuyền hoặc đi
bộ nên được gọi là “thuyền nhân.” Họ đi qua Campuchia rồi sang Thái
Lan, sau đó đến các trại tỵ nạn ở Malaysia, Indonesia, Hong Kong, Thái
Lan hoặc Philippines. Cuối cùng, họ được Mỹ, Canada, Australia và một số
ít nước Tây Âu coi là “dân tị nạn” và có tư cách hợp pháp. Trong khoảng
thời gian từ năm 1976-1988, “thuyền nhân” Việt Nam sang Mỹ lên tới gần
500,000 người. Ðiều cần phải chỉ rõ là nhiều “thuyền nhân” thực tế là
Hoa kiều nhập quốc tịch Việt Nam. Trong thời kỳ này, do quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc xấu đi, đặc biệt là sau chiến tranh biên giới
Trung-Việt năm 1979, chính phủ Việt Nam bắt đầu xua đuổi hàng loạt Hoa
kiều quốc tịch Việt Nam. Chính sách này [được] liên tục thực hiện trong
vài năm, hàng trăm nghìn người Hoa đã bị đuổi khỏi Việt Nam. Mặc dù
nhiều người Hoa quay về Trung Quốc, nhưng có một bộ phận khá đông phiêu
bạt khắp thế giới, trong đó nước Mỹ là nơi họ đến đông nhất. Trong thời
kỳ này, 300 nghìn người Hoa đã đến Mỹ. Theo số liệu của Cục Thống Kê Dân
Số Mỹ, tính đến năm 2000, số người này là 390,000 người.
Làn
sóng dân di cư thứ ba là họ hàng thân thuộc của những người di cư trong
hai đợt trên hoặc con lai của quân nhân Mỹ tại Việt Nam. Họ đến Mỹ từ
cuối những năm 80 đến thập niên 90 của thế kỷ XX. Sau khi nhóm ngưòi
Việt trong hai đợt đến Mỹ và có được tư cách hợp pháp, họ đã đặt vấn đề
làm thế nào để đưa thân nhân của họ sang Mỹ thành chương trình nghị sự
của chính phủ Mỹ. Ðể tránh những hiểm nguy to lớn trên đường mà những
người di cư trong hai đợt trên gặp phải, Mỹ và các nước khác đã xây dựng
chương trình cho phép họ rời Việt Nam đến trực tiếp Mỹ và các nước
khác. Ở Mỹ, đây là “Chương trình ra đi có trật tự” [tức ODP, tắt cho
Orderly Departure Program - Ghi chú của NBT]. Tính đến năm 1998, chương
trình này đã tiếp nhận 362,000 dân di cư Việt Nam. Cũng vào thời gian
đó, Mỹ đã thực hiện hai chương trình được coi là khoản bồi thường cho
“đồng minh Nam Việt Nam” thời chiến tranh, đó là “chương trình nhân đạo”
[“Humanitarian Program” hay còn gọi là H.O, tắt cho “Humanitarian
Operation Program”- NBT ghi chú] và “Chương trình người Châu Á ở Mỹ”
[“Amerasian Program”- NBT ghi chú] còn được gọi là “Luật người Mỹ hồi
hương” [“Amerasian Homecoming Act”- NBT ghi chú]. Quốc Hội Mỹ đã thông
qua luật này vào năm 1988 và năm 1989 bắt đầu thực thi, trọng điểm được
quan tâm của luật này là giúp con cái binh lính Mỹ và thân nhân của họ ở
Việt Nam trở về Mỹ. Tính đến năm 2000, chương trình này đã tiếp đón
84,000 người. So với số người di cư trong hai đợt đầu, thành phần lần
này phức tạp hơn. Họ thường có hiểu biết nhiều về xã hội và có kinh
nghiệm đấu tranh, thường xuyên tổ chức ra các nhóm cánh hữu và tụ tập
người Việt Nam di cư sang Mỹ và sống rải rác khắp thế giới tham gia vào
“sự nghiệp chống cộng.”
Do
cao trào ba đợt di cư kể trên, người gốc Việt ở Mỹ có một số đặc điểm
về cơ cấu, đồng thời thực tiễn vận động chính trị của họ đã có ảnh hưởng
quan trọng. Trước hết, động cơ của dân di cư chủ yếu xuất phát từ tính
toán chính trị, do đó họ có lập trường chính trị khá bảo thủ, đa số ủng
hộ Ðảng Cộng Hoà Mỹ có lập trường chống cộng. Chẳng hạn, theo điều tra
lần đầu tiên vào năm 2000, 600 người Việt được hỏi ở Quận Cam coi nhiệm
vụ “chống cộng” là công việc “quan trọng hàng đầu” hoặc “vô cùng quan
trọng.”
Thứ
hai, giống như các dân tộc ít người khác ở Mỹ, người Việt cư trú khá
tập trung, đã nâng cao được tầm quan trọng của họ về chính trị. Mặc dù
ngay từ đầu, chính phủ Mỹ đã thực hiện chính sách phân tán người Việt,
nhưng chính sách này nhanh chóng bị phá sản do họ chủ động ở tập trung
với nhau. Ngay từ năm 1982, người Việt ngày càng tập trung nhiều ở Quận
Cam bang California, đặc biệt là khu vực Garden Grove - được mệnh danh
là “tiểu Sài Gòn.” Ðây được coi là “thủ đô của người Việt lưu vong.”
Hiện nay, người Việt chủ yếu sống tập trung ở một số nơi như khu vực
Galena, Texas, New York...
Cuối
cùng, địa vị kinh tế xã hội của người Việt không cao. Ðiều này không có
lợi cho việc tăng cường hoạt vận động chính trị. Mặc dù địa vị kinh tế
xã hội của nhóm người di cư đợt đầu khá cao nhưng địa vị kinh tế xã hội
của hai nhóm người di cư đợt sau lại kém xa. Những người Việt Nam mới
đến Mỹ do những nguyên nhân như cơ sở kinh tế kém, trình độ ngôn ngữ hạn
chế nên phần lớn phải chọn công việc thu nhập không cao. Sau năm 1990,
địa vị kinh tế của người gốc Việt nâng lên nhanh chóng. Chẳng hạn như
bang Massachusetts, đến năm 2007, bình quân thu nhập của một gia đình
gốc Việt là 57,000 USD/năm, bình quân thu nhập đầu người là 23,000
USD/năm, nhưng vẫn thấp hơn bình quân thu nhập của một gia đình người
gốc Châu Á ở Mỹ là 69,000 USD/năm và 30,000 USD/năm một đầu người.
2. Thực tiễn vận động chính trị của người Việt ở Mỹ
Ðặc
điểm lập trường chính trị của người Việt khá bảo thủ và dân cư sống tập
trung với nhau nên họ có ảnh hưởng chính trị nhất định. Tuy nhiên, địa
vị kinh tế của họ lại không được cao đã hạn chế họ phát huy ảnh hưởng
chính trị ở mức độ nhất định. Ðúng như một học giả đã nói: “Từ sự tương
phản rõ ràng trong quan hệ Mỹ-Cuba và quan hệ Mỹ-Việt, có thể phát hiện
sự khác biệt giữa người Mỹ gốc Cuba với người Mỹ gốc Việt. Ðó là sự tồn
tại của “quy tắc đồng tiền”; “ai có tiền và cho tiền thì kẻ đó có thể
nắm giữ các quy tắc.” Do đó, Mỹ có thể tiếp tục cứng rắn với Cuba, nhưng
lại cởi mở với Việt Nam. Vì vậy có thể thấy, việc vận động chính trị
của người gốc Việt thể hiện trạng thái tâm lý “hai mặt,” giữa vận động
tích cực và phản quốc một cách điển hình.
Do
lịch sử di cư sang Mỹ như vậy nên việc vận động chính trị của người gốc
Việt chủ yếu bắt đầu từ sau năm 1975. Ðương nhiên, trong hoảng thời
gian từ năm 1955-1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là chính
quyền Ngô Ðình Diệm đã xây dựng một lực lượng vận động chính trị lớn,[1]
tạo cơ sở để vận động chính trị về sau. Tuy nhiên, vào thời kỳ ấy, vận
động chính trị phần nhiều là để thúc đẩy mạnh mẽ sự nhiệt tình chống
cộng vốn có của người Mỹ. Vì vậy, vận động chính trị của người Việt chỉ
có thể chính thức được mở rộng khi có đông đảo người Việt Nam di cư sang
Mỹ sau năm 1975. Các cuộc vận động chính trị của người Việt tại Mỹ có
thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau khi hai nước bình thường hóa
quan hệ (năm 1995).
Trước
năm 1995, do ký ức Chiến Tranh Lạnh còn nặng nề và quan hệ Việt-Mỹ đối
địch, vận động chính trị cua người Việt ở Mỹ mang đặc điểm chống lại Tổ
quốc một cách mạnh mẽ. Ða số dân di cư Việt Nam trong thời kỳ này mang
tâm lý “chống cộng” quyết liệt, do đo dễ dàng tạo ra sự đồng thuận chính
trị mang tính bảo thủ. Tổ chức người gốc Việt ở Mỹ có nhiều nhóm vận
động chính trị, nổi tiếng nhất là “Ðại hội toàn quốc người Mỹ gốc Việt”
[2] [đích thực là “Nghị hội Toàn quốc Người Việt tại Hoa kỳ,” tắt là
“Nghị hội.”- Ghi chú của NBT], “Hiệp hội giáo dục và phát triển
Campuchia-Lào-Việt Nam ở Mỹ” [Trong tiếng Anh là “National Association
for the Education and Advancement of Khmer, Lao and Vietnamese
Americans,” tắt là NAFEA- Ghi chú của NBT], “Thuyền nhân SOS” [tức “Boat
People S.O.S., Inc.”- Ghi chú của NBT], “Hiệp hội gia đình tội phạm
chính trị” [đích thực là “Hội Gia đình Tù nhân Chính trị VN,” trong
tiếng Anh là “Families of Vietnamese Political Prisoners Association,”
viết tắt là FVPPA- Ghi chú của NBT], “Ủy ban Hành động Chính trị của
người Mỹ gốc Việt” [tức “Vietnamese Political Action Committee,” tắt là
VPAC - Ghi chú của NBT]... Trong giai đoạn này, thành công của nhóm vận
động chính trị thể hiện trên ba phương diện: Trước hết, họ ủng hộ xây dựng Ðài Châu Á Tự Do.
Bắt đầu từ năm 1985, người Việt đã ra sức thúc đẩy xây dựng Ðài Châu Á
Tự Do, các biện pháp vận động chính trị chủ yếu là viết thư thỉnh nguyện
và gặp mặt các đại biểu Quốc Hội. Trong quá trình biểu quyết một quyết
nghị có liên quan đến bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt năm 1994, người gốc Việt là dân tộc ít người duy nhất trong số các dân tộc ở Châu Á ở Mỹ ủng hộ quyết định này. Thứ hai, họ giành thắng lợi trong việc kiện Bộ Ngoại Giao Mỹ.Tháng 3, 1994, 250 người Việt đã gửi đơn kiện Bộ Ngoại Giao Mỹ,
ép bộ này đánh giá lại chính sách đối với dân di cư là thuyền nhân Việt
Nam bị lưu giữ kéo dài ở Hong Kong, không cho đẩy trở lại hoặc buộc họ
viết lại đơn xin nhập cư. Cuối cùng, thông qua vận động chính trị đối
với các nghị sĩ Quốc Hội, đặc biệt là bà Leslie Byrne, nghị sĩ bang
Virginia, người gốc Việt đã thành công trong việc thông qua nghị quyết ở Quốc Hội. Từ đó, ngày 11 tháng 5, 1994 trở thành “Ngày Nhân Quyền Việt Nam.”
Vận
động hành lang chống lại Tổ quốc của họ trong giai đoạn này còn thể
hiện ở chỗ có sự tranh luận quyết liệt, thậm chí sát hại nhau về việc Mỹ
và Việt Nam có nên bình thường hóa quan hệ ngoại giao hay không? Những
người Mỹ gốc Việt đề xướng bình thường hóa quan hệ ngoại giao hoặc
thương mại Mỹ-Việt thường ở vào tình thế khó khăn. Chẳng hạn, tháng 8,
1989, nhà hoạt động phản chiến nổi tiếng Ðoàn Văn Toại đã bị bắn chết
[3] do viết bài kêu gọi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và
Mỹ; ngày 28 tháng 5, 1984, vợ chồng Nguyễn Văn Lũy và Phạm Thị Lưu [ở
San Francisco, CA - Ghi chú của NBT] là những người đề xuất mở rộng quan
hệ thương mại với Việt Nam đã bị bắn, ông Lũy chỉ bị thương còn bà Lưu
thì chết. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nhân lúc nền kinh tế Việt
Nam bên bờ vực sụp đổ, nhiều người Việt ở Mỹ vẫn cho rằng không nên cứu
chính quyền Ðảng Cộng Sản ở Hà Nội, trừ phi họ từ bỏ chủ nghĩa cộng
sản.
Khi
kết thúc Chiến Tranh Lạnh và người Việt ngày càng hội nhập vào xã hội
Mỹ, việc vận động chính trị của người gốc Việt tại Mỹ cũng dần dần
chuyển hướng. Ðến năm 1995 đã bước sang giai đoạn thứ hai khi Việt Nam
và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Họ một mặt không phản đối quan
hệ Việt-Mỹ, đặc biệt là bình thường hóa quan hệ thương mại, mặt khác
vẫn đánh giá tiêu cực đối với thể chế chính trị, nhân quyền, dân chủ và
tự do tôn giáo trong nước Việt Nam. Tâm lý phức tạp này dẫn đến họ ủng
hộ sự phát triển quan hệ Việt-Mỹ, ủng hộ sự phát triển trong nước của
Việt Nam, nhưng mặt khác lại đòi chính phủ Mỹ có biện pháp cứng rắn buộc
Việt Nam phải cải thiện tình hình chính trị, nhân quyền, tự do tôn
giáo...
Mặc
dù tự nhận là “dân tị nạn,” nhưng những người Mỹ gốc Việt vẫn có tình
cảm dân tộc mãnh liệt đối với quê hương. Nhiều người Việt mong muốn có
thể quay trở lại Việt Nam sau khi nước này thực hiện dân chủ. Ví dụ,
theo một điều tra dư luận người gốc Việt ở Quận Cam, 62% người được hỏi
mong muốn quay lại Việt Nam sau khi nước này có tự do dân chủ. Xuất phát
từ tình cảm đối với quê hương, mặc dù vẫn thường nhấn mạnh tình hình
nội bộ chính trị ở Việt Nam, người gốc Việt dần dần không còn phản đối
bình thường hóa quan hệ ngoại giao, cũng như sự phát triển quan hệ
thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, do các nguyên nhân như khả năng
kinh tế và ý thức tham gia chính trị, người gốc Việt vẫn chưa ảnh hưởng
nhiều đến việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Họ tin rằng xây
dựng quan hệ ngoại giao có thể làm cho quan hệ kinh tế thương mại giữa
hai nước được tăng cường, nhưng nhất định phải buộc nhà cầm quyền Việt
Nam trả giá chính trị tương ứng, đó là phải cải thiện vấn đề nhân quyền,
tôn giáo, dân chủ ở Việt Nam. Chẳng hạn, Chủ tịch Hiệp hội Tội phạm
Chính trị Việt Nam [tên đích xác là “Hội Cựu Tù nhân Chính trị VN.”- Ghi
chú của NBT] ở bang Connecticut cho rằng nền kinh tế kế hoạch hóa nhất
định phải cần đến giải pháp đồng bộ về dân chủ ở Việt Nam. Một ví dụ
khác đó là người Việt đầu tiên là hạ nghị sĩ [= Dân biểu - Ghi chú của
NBT] Mỹ Joseph Cao đã thể hiện tâm lý phức tạp khi đến thăm Việt Nam năm
2010. Ông tỏ ra vui mừng trước sự phát triển của Việt Nam, cho rằng mặc
dù Việt Nam và Mỹ có nhiều bất đồng, “nhưng không có nghĩa là hai nước
không thể hợp tác. Nhiều mong muốn của tôi không trùng hợp với chính phủ
Việt Nam, nhưng tôi vẫn hy vọng hai nước có thể tiếp tục hợp tác.”
Xuất
phát từ sự quan tâm đối với quê hương, người Mỹ gốc Việt ủng hộ mạnh mẽ
sự phát triển kinh tế trong nước. Hiện tượng này thể hiện rõ rệt nhất ở
việc lượng kiều hối của Việt kiều tại Mỹ đều tập trung về Việt Nam và
trở thành kênh quan hệ để Việt Nam giao lưu với Mỹ. Năm 1990, lượng kiều
hối gửi về chỉ có 23 triệu USD, đến năm 1995 khi bình thường hóa quan
hệ Việt-Mỹ đã tăng lên 285 triệu USD, gấp 12.4 lần. Tiếp đó, lượng kiều
hối tiếp tục tăng nhanh chóng lên 5.5 tỷ USD vào năm 2007.[ 4] Ðể thúc
đẩy lợi ích thương mại của Việt Nam tại Mỹ, đã có người kiến nghị Việt
Nam nên tận dụng cơ chế vận động hành lang ở Mỹ, đặc biệt là thông qua
lực lượng người Việt ở nước này. Thượng Nghị Sĩ Jim Webb là người chịu
ảnh hưởng sâu sắc từ các cuộc vận động chính trị của người Việt, cho
rằng: “Mặc dù Việt Nam và Mỹ có bất đồng trong các vấn đề như nhân
quyền, tôn giáo, tự do, nhưng Mỹ có hơn 2 triệu người gốc Việt.
Họ có thể làm cầu nối rất tốt giữa hai nước.”
Dù
vậy, người Việt tại Mỹ vẫn giữ thái độ tiêu cực đối với chế độ chính
trị, nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ thường yêu cầu chính phủ
Mỹ khi trao cho Việt Nam lợi ích về kinh tế phải kèm theo điều kiện
chính trị. Chẳng hạn, trước khi biểu quyết thông qua “Quy chế quan hệ
thương mại bình thường vĩnh viễn” (PNTR, tắt cho Permanent Normal Trade
Relations.- Ghi chú của NBT] cho Việt Nam vào tháng 7, 2006, trên tờ USA
Today, hơn 50 tổ chức của người Việt ở Mỹ bao gồm “Ðồng minh dân chủ
Việt Nam” [đích thực là “Liên minh Dân chủ VN.” Ghi chú của NBT], “Ủy
ban Tự do Tôn giáo Việt Nam,” “Hội đồng Nhân quyền Việt Nam” [có lẽ ý
muốn nói “Mạng Lưới Nhân Quyền VN ”- Ghi chú của NBT] đã công khai đăng
bức thư gửi Tổng Thống Bush và Quốc Hội Mỹ, yêu cầu phía Mỹ quan tâm đến
vấn đề nhân quyền, đưa ra những điều kiện tiên quyết cho PNTR, trong đó
có thả tù nhân phạm tội về tôn giáo và chính trị, chấm dứt giam lỏng
[chế độ quản chế - Ghi chú của NBT], cho phép và thừa nhận các hội độc
lập, thực sự tự do báo chí... Phần cuối của bức thư này kêu gọi: “Nếu
chưa làm được những điều trên, đề nghị từ chối cấp PNTR cho chính quyền
độc tài cộng sản Việt Nam.” Ðầu Xuân năm 2007, do chính phủ Việt Nam bắt
giữ một số nhân sĩ tôn giáo, do sự hối thúc của nhiều nhóm người Việt,
Nhà Trắng và Bộ Ngoại Giao Mỹ đã công khai phê phán chính phủ Việt Nam. Tổng
Thống [George W.] Bush và Phó Tổng Thống [Dick] Cheney đã tổ chức cuộc
gặp 45 phút với các tổ chức nhân quyền của người Việt ở Mỹ vào tháng 5,
2007. [5] Hạ Viện Mỹ đã thông qua nghị quyết lên án Việt Nam với tỷ lệ
404/404 phiếu thuận. Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] Earl Blumenauer thuộc Ðảng
Dân Chủ, trưởng ban liên lạc Quốc Hội Mỹ-Việt, cũng tuyên bố từ chức để
phản đối việc làm của chính phủ Việt Nam. Trước khi Ngoại Trưởng Hillary
đến thăm Việt Nam vào tháng 7, 2010, các Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] như
Loretta Sanchez, Barbara Boxer, Mel Martinez... [đích thật hai vị sau
này là Thượng nghị sĩ - Ghi chú của NBT] đều yêu cầu Hillary nhắc nhở
vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo với chính phủ Việt Nam - trên thực tế
Hillary đã làm như vậy.
Người
Việt ở Mỹ có tâm lý phức tạp đối với quê hương của họ. Ðiều này đã dẫn
đến tranh cãi trong nhiều vấn đề liên quan đến Việt Nam. Chẳng hạn,
tháng 12, 1998, một tiểu thương người Việt ở Little Saigon, bang
California [tên Trần Trường - Ghi chú của NBT] đã treo tấm ảnh Hồ Chí
Minh cỡ lớn và cờ đỏ sao vàng Việt Nam tại cửa hàng của mình, dẫn đến
hoạt động biểu tình quy mô lớn trong một thời gian dài. Cuộc biểu tình
này kéo dài 4 tháng, lúc đông nhất có hơn 15,000 người tham gia, diễn ra
53 ngày tại riêng cửa hàng của ông này, những người biểu tình yêu cầu
ông chủ cửa hàng hạ ảnh Hồ Chí Minh và quốc kỳ [VNCS - Ghi chú của NBT]
xuống. Nhưng ông ta nói đây là quyền tự do của ông và không chịu thực
hiện. Ngoài ra, Tạp chí “Thời Ðại” [tức tờ TIME - Ghi chú của NBT] đã
đăng bài viết về Hồ Chí Minh, coi cụ Hồ là chiến sĩ đấu tranh cho tự do,
từng bị cầm tù. “Ðảng Dân Chủ Việt Nam” ở Mỹ đã viết thư gửi tạp chí
này để phản đối và đòi sửa lại bài viết trên.
Mặc
dù hiện nay còn khó đưa ra kết luận, nhưng cuộc bầu cử tổng thống Mỹ
năm 2008 [6] dường như đã hé lộ tín hiệu thay đổi trong sự vận động
chính trị của người Việt, bởi vì cơ cấu phiếu bầu của họ đã có dấu ấn
thay đổi. Mặc dù nhìn chung sự ủng hộ của người Việt đối với Ðảng Cộng
Hòa vẫn chưa thay đổi, nhưng đi sâu nghiên cứu sẽ phát hiện mạch ngầm
phía sau: Một mặt, người Việt là nhóm dân tộc gốc Châu Á duy nhất ủng hộ
John McCain, sự ủng hộ của họ đối với ông này cao gấp đôi so với Barack
Obama. Mặt khác, số phiếu ủng hộ của người Việt trẻ sinh ra ở Mỹ đối
với Obama lại lên tới 69%, số phiếu bầu của những người Việt tuổi từ
18-29 cũng lên tới 60%. Mặc dù hai nhóm người Việt này chỉ là thiểu số
(chiếm 15% và 25%), nhưng họ lại là nhóm người chủ yếu trong tương lai.
Ngoài ra, tính chất đảng phái của người Việt cũng thay đổi: Người Việt
trên 45 tuổi muốn tham gia tranh cử nhiều hơn, chủ yếu đăng ký là người
của Ðảng Cộng Hòa. Ngược lại, nhiều người Việt dưới 45 tuổi lại muốn đi
theo Ðảng Dân Chủ hoặc ứng cử viên độc lập, tỷ lệ tham gia tranh cử bằng
một nửa so với nhóm trên 45 tuổi.
3. Việc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ với vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Ðông)
Nhìn
chung, do hạn chế bởi địa vị kinh tế và vai trò chính trị, ảnh hưởng
của sự vận động chính trị của người Việt ở Mỹ không lớn, đặc biệt là so
với người Mỹ gốc Do Thái hoặc gốc Cuba. Tuy nhiên, nếu xem xét từ góc độ
vấn đề Trung Quốc, quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Việt, quan hệ Trung Quốc với
các nước Ðông Nam Á, thì sự vận động chính trị của người gốc Việt khá
quan trọng. Bởi vì, tuy họ còn thiếu tích cực và thiếu khả năng mở rộng
vận động chính trị trong các vấn đề liên quan đến Việt Nam, nhưng họ
lại là nhóm người vận động tích cực nhất trong các nhóm người gốc Châu Á
ở Mỹ về vấn đề Nam Hải và tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa Trung Quốc
với Việt Nam. Ảnh hưởng của họ càng nổi bật hơn khi Mỹ can dự toàn diện
vào tranh chấp Nam Hải năm 2010.
Người
Việt ở Mỹ quan tâm đến vấn đề Nam Hải từ lâu. Ngày 19 tháng 4, 1958
[Sai, lẽ ra phải là ngày 14 tháng 9, 1958 - Ghi chú của NBT], Thủ Tướng
Việt Nam Phạm Văn Ðồng đã gửi công hàm cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân
Lai công nhận Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là của Trung Quốc.
Ngay vào thời điểm đó, những người Việt đang công tác tại Bộ Ngoại Giao
Mỹ đã nhanh chóng công bố cho người Việt ở Mỹ bản photo “Báo Nhân Dân”
[đích xác phải là “báo Nhân Dân.”- Ghi chú của NBT] của Việt Nam. Sự
việc này ngay lập tức đã gây ra sự phản đối quyết liệt của người gốc
Việt ở Mỹ, họ gọi hành động này của chính phủ Việt Nam là “bán nước.”
Sau này, vấn đế tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam đã trở
thành một vấn đề quan trọng của người Việt ở Mỹ.
Mặc
dù nội bộ người gốc Việt có nhiều bất đồng lớn về thái độ đối với Việt
Nam, nhưng [họ] đều nhất trí cao về việc “bảo vệ tài sản của tổ tiên để
lại,” không dâng cho Trung Quốc. Ðúng như có học giả đã chi rõ: Về mặt
bảo vệ “tài sản của tổ tiên,” thái độ của người Việt ở nước ngoài là
mạnh mẽ nhất. Ða số họ là kẻ lưu vong trong thập niên 70 của thế kỷ XX,
có tâm lý chống đối quyết liệt chính phủ Việt Nam. Họ không có cảm
tình gì với lịch sử Trung Quốc giúp Việt Nam chiến thắng hai cuộc chiến
tranh chống Pháp và Mỹ, giành được độc lập cho đất nước, giải phóng dân
tộc. Họ vốn quen tiếp nhận quan niệm giá trị của phương Tây, luôn cao
giọng nhất trong vấn đề Tây Sa và Nam Sa, không những đòi chủ quyền đối
với hai quần đảo này, họ còn đòi chủ quyền toàn bộ Nam Hải.
Trong
những năm 1991-1993 sau Chiến Tranh Lạnh, trong tình hình Mỹ đi đầu cấm
vận đối với Trung Quốc, một số người Việt đã nhìn thấy cơ hội té nước
theo mưa về vấn đề Nam Hải, cố sức xây dựng “Tổng hội người Việt Nam ở
nước ngoài” [đích xác là “Tổng Liên Hội Người Việt Tự Do,” đã họp ở
Canada và Washington, DC. Ghi chú của NBT]. Sau khi nỗ lực đó bị thất
bại, từ năm 1995-2000, họ đã bốn lần tổ chức hội nghị trù bị [có lẽ tác
giả muốn nói đến 4 lần Hội nghị Liên kết họp ở Virginia, Quận Cam,
Milpitas Bắc-Cali, và Washington, DC - Ghi chú của NBT], có ý đồ xây
dựng một mặt trận dân tộc bảo vệ “quần đảo Trường Sa.” Ðể phối hợp với
tâm lý dân tộc ngày càng lên cao ở trong nước xung quanh vấn đề Trường
Sa, họ đã lần lượt tổ chức hai lần “Ðại hội bảo vệ lãnh thổ” [đích xác
là “Hội nghị Diên Hồng Hải ngoại Bảo toàn Lãnh thổ ”- Ghi chú của NBT]
vào năm 2002 và 2005. Thậm chí, họ đã tổ chức biểu tình bên ngoài Lãnh
Sự Quán Trung Quốc ở Houston. Ðương nhiên, những tổ chức này cũng ủng hộ
hành động ở trong nước phản đối chính phủ Việt Nam “bán nước,” dâng
lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc, đặc biệt là ủng hộ những hoạt động
nhiều lần biểu tình trái phép ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổ
chức người Việt ở Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất đối với chính sách của Mỹ về
vấn đề Nam Hải là “Hiệp hội Người Việt ở hải ngoại” (?).Tổ chức này đã
vận động chính trị thông qua đề xuất chính sách một cách rộng rãi, cung
cấp tiền cho các nghị sĩ tranh cử, gặp mặt các nghị sĩ và đã thu được
hiệu quả khá rõ rệt... Ví dụ, tháng 11, 2003, trong lúc diễn ra chuyến
thăm Mỹ của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam Phạm Văn Trà, tổ chức này
đã gửi một kiến nghị cho Bộ Ngoại Giao Mỹ, [7] hoan nghênh sự phát triển
tích cực của quan hệ Việt-Mỹ. Tuy nhiên, họ cho rằng phải quan tâm toàn
diện: Về lý luận, tính chất của hai chính quyền vẫn khác biệt về bản
chất, Việt Nam vẫn là một quốc gia một đảng chuyên chế; hai nước vẫn còn
tồn tại bất đồng lớn trong các vấn đề như nhân quyền, tự do tôn giáo,
quyền chính trị của công dân... Bản kiến nghị ấy cũng cho rằng mục đích
chuyến thăm của Phạm Văn Trà phần nhiều không phải là phát triển quan hệ
song phương mà là phối hợp kiềm chế Trung Quốc. Thượng Nghị Sĩ Jim
Webb, Chủ tịch Tiểu ban Ðông Á và Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Ðối ngoại
của Thượng Viện Mỹ đã từng trải qua cuộc chiến tranh Việt Nam cho rằng
Việt Nam và Hoa Kỳ là bạn bè tự nhiên. Việt Nam có ý nghĩa chiến lược
đối với Mỹ, sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Chính
sách ngoại giao cân bằng nước lớn của Việt Nam hết sức quan trọng đối
với việc tăng cường quan hệ Việt-Mỹ, cũng hết sức quan trọng đối với
việc ổn định khu vực Ðông Nam Á và Nam Hải. Tháng 7, 2009, Jim Webb đã
chủ trì một cuộc điều trần về “Vấn đề chủ quyền và tranh chấp trên biển ở
Ðông Á.” Bài phát biểu của ông ta đã ảnh hưởng rõ rệt đến những người
Việt ở Mỹ. Khi đề cập đến vấn đề Trung Quốc bắt giữ các ngư dân Việt
Nam, ông nói: “Những tranh chấp này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các
quốc gia khác trong khu vực, chỉ Mỹ mới có đủ khả năng và biện pháp
chống lại sự mất cân bằng sức mạnh do Trung Quốc gây ra. Nếu Mỹ muốn duy
trì sự cân bằng địa chính trị trong khu vực, bảo đảm sự công bằng cho
tất cả các quốc gia, bảo vệ tiếng nói của những quốc gia muốn giải quyết
tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thì Mỹ phải có nghĩa vụ thực hiện
nhiệm vụ này.” Sau một tháng, trong thời gian thăm Việt Nam, Jim Webb
một lần nữa nhấn mạnh Mỹ phải giúp Việt Nam đối trọng với Trung Quốc.”
Năm
2009 là năm người Việt ở Mỹ vận động chính trị tích cực nhất xung quanh
vấn đề Nam Hải. Ðiều này ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của Mỹ
xung quanh vấn đề Nam Hải năm 2010. Tháng 4, 2009, các tổ chức như “Ðại
hội Toàn quốc người Việt” [tức Nghị hội - Ghi chú của NBT], “Tiếng nói
người Mỹ gốc Việt” [“Voice of Vietnamese Americans” trong tiếng Anh -
Ghi chú của NBT], đã gặp Jim Webb và bày tỏ quan điểm của họ đối với vấn
đề chủ quyền quần đảo Nam Sa [tức Trường Sa - Ghi chú của NBT], đồng
thời yêu cầu ông ta hãy lên tiếng thay cho Việt Nam. Tháng 7, 2009, khi
đại sứ Mỹ ở Việt Nam Michael Michalak về Mỹ công tác, những người thuộc
các tổ chức trên cũng đã đến gặp ông này. Khi đề cập đến vấn đề Nam Hải,
ông nói: “Mỹ không thể đứng về bên nào,” mà sẽ theo đuổi một “phương
pháp giải quyết mang tính khu vực.”
Tháng
12, 2009, “Ðại hội Toàn quốc người gốc Việt” [= Nghị hội] và một số tổ
chức của người Việt khác đã gặp 6 nghị sĩ Ðảng Dân Chủ trong Quốc Hội
(bao gồm Sam Brownback, Chris Smith, Ed Royce, Zoe Lofgren, Frank Wolf,
Mike Honda). [8] Mặc dù mục đích chính của cuộc gặp là thảo luận vấn đề
nhân quyền của Việt Nam, nhưng cũng thảo luận về vấn đề tranh chấp Nam
Hải. Tháng 6, 2010, “Ðại hội Toàn quốc người Việt” [= Nghị hội] một lần
nữa cử đại diện đến vận động chính trị ở Quốc Hội, gặp gỡ 6 nghị sĩ trên
và Ủy ban Ðối ngoại của Thượng Viện Mỹ. Sứ mệnh chủ yếu của cuộc gặp
này là để hoàn chỉnh “phương án giải quyết vấn đề Nam Hải.” Nội dung chủ
yếu bao gồm: (1) Thống nhất tên gọi quốc tế khu vực Nam Hải là “Biển
Ðông Nam Á”[9] để thuận lợi hơn khi thảo luận vấn đề này; (2) Tổ chức
một cuộc thảo luận giữa các học giả quốc tế và Việt Nam, thống nhất quan
điểm, lập trường và chính sách của Việt Nam trong vấn đề Biển Ðông; (3)
Tổ chức hội nghị quốc tế bao gồm các đại diện của các nước có lợi ích ở
Biển Ðông - trừ Trung Quốc, để cùng “ngăn chặn hành động bá quyền của
Trung Quốc” ở khu vực này; địa điểm tổ chức hội nghị có thể lựa chọn
Ðông Nam Á hoặc Nhật Bản. Sau khi lắng nghe phương án này, hai thượng
nghị sĩ là thành viên chủ yếu của Ủy ban Ðối ngoại Thượng viện Mỹ đã ủng
hộ nhiệt tình. Họ nói: “Các nước Ðông Nam Á đều yêu cầu Mỹ đứng về phía
họ... Tuy nhiên, điều này làm cho chúng ta không thể đứng về bên nào.
Có được một phương án toàn diện như các ngài nêu ra thì Mỹ mới có thể
sẵn sàng ủng hộ.”
Do
Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch Luân phiên ASEAN năm 2010 nên vận động
chính trị của người Việt ở Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải lại càng tích
cực. Trong đó, tổ chức nổi bật hơn cả là “Hội Người Việt ở Bắc
California.” Ngày 20 tháng 5/2010, trước khi Ngoại Trưởng Hillary
[Clinton] đến thăm Việt Nam tham dự Diễn đàn Khu vực Ðông Nam Á (ARF,
tắt cho ASEAN Regional Forum - Ghi chú của NBT), tổ chức này đã kiến
nghị Bộ Ngoại Giao và bà Hillary, mong muốn Mỹ giúp đỡ các ngư dân Việt
Nam bị Trung Quốc bắt, lên án Hải Quân Trung Quốc và quan tâm đến tình
hình Nam Hải. Sau khi Hillary lên tiếng can dự vào Nam Hải tháng 7,
2010, tổ chức này đã viết thư cho bà ta, trong thư có đoạn bày tỏ “cảm
ơn chân thành và sâu sắc nhất,” đồng thời mong muốn Bộ Ngoại Giao Mỹ
tiếp tục quan tâm đến vấn đề này.
Cuộc
vận động chính trị của người Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải
đã mang lại hiệu quả rộng lớn. Ðiều này không những thể hiện trong tuyên
bố của bà Hillary rằng Nam Hải liên quan đến “lợi ích quốc gia,” đồng
thời yêu cầu thông qua diễn đàn đa phương để giải quyết tranh chấp ở khu
vực này mà còn thể hiện trong việc họ đã động viên các nhóm dân tộc
khác ở Mỹ tác động lên Quốc Hội Mỹ và các bên tranh chấp Nam Hải. Ví dụ,
Thượng Nghị Sĩ Jim Webb vốn luôn ủng hộ các yêu cầu của người Việt ở
Mỹ, một lần nữa lại đến thăm Việt Nam vào trung tuần tháng 4, 2011.
Trong thời gian chuyến thăm, ông ta không những nói về tranh chấp Nam
Hải mà còn mở rộng nội dung sang vấn đề xây dựng đập thủy điện lớn trên
sông Mê Công. Một ví dụ khác là tính đến nay, nhiều người Mỹ gốc
Indonesia, Malaysia, Philippines... đã ký tên đòi đổi tên gọi Nam
Hải thành “Biển Ðông Nam Á” theo đề xuất của “Ðại hội Toàn quốc của
người Việt ở hải ngoại” [= Nghị hội?- Ghi chú của NBT]. Do đó, có thể
nhận thấy rất rõ ràng mặc dù Mỹ có chánh sách mang tính hệ thống, nhưng
việc vận động chính trị của người Việt xung quanh vấn đề Nam Hải có liên
quan chặt chẽ đến căng thẳng trong quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Việt, Trung
Quốc-ASEAN về vấn đề Nam Hải.
Ðương
nhiên, cũng cần thấy rằng, trong số người Mỹ gốc Việt cũng có một bộ
phận nhỏ có vai trò tích cực trong việc hạn chế những nỗ lực vận động
hành lang của tổ chức như “Ðại hội Toàn quốc người [Mỹ] gốc Việt” [=
Nghị hội - Ghi chú của NBT], đó là “Người Mỹ gốc Việt-Trung.” Như đã
phân tích ở trên, nhiều người Việt ở Mỹ có gốc gác là người Hoa. Do đó,
họ phải xác lập sự đồng thuận phức tạp hơn so với những nhóm người chỉ
có một tổ quốc. Người Việt gốc Hoa đều có tình cảm với Việt Nam và Trung
Quốc, do đó, họ không muốn thấy quan hệ hai nước xấu đi, hoặc các nhân
tố khác làm mối quan hệ này xấu đi. Do đó, sự lựa chọn của họ thường là
làm cầu nối giữa người Việt với người Việt gốc Hoa, tìm cách lấy khuôn
khổ rộng lớn hơn là người Mỹ gốc châu Á để hòa giải và điều chỉnh hành
động chính trị giữa người gốc Việt và người Việt gốc Hoa. Trong đó, tổ
chức nổi tiếng là “Ủy ban Hành động Chính trị của người Mỹ gốc Hoa
Việt-Lào-Campuchia” (IAPAC, tức Indochinese American Political Action
Committee - Ghi chú của NBT). Tổ chức này do người Việt gốc Hoa, người
Lào gốc Hoa và người Campuchia gốc Hoa ở Mỹ thành lập năm 2000. Họ động
viên người Việt, người Lào, người Campuchia gốc Hoa tham gia vào nền
chính trị Mỹ ở tầm rộng lớn hơn. Do lý lịch đa quốc gia của các thành
viên, IAPAC có mục tiêu chủ yếu là đoàn kết người Hoa từng sống ở những
quốc gia khác nhau, không vì lợi ích nhỏ hẹp của từng nhóm người. Từ khi
thành lập năm 2000 đến nay, tổ chức này đã quyên góp thành công để ủng
hộ rất nhiều ứng cử viên chính trị như: Các Hạ Nghị Sĩ [= Dân biểu] Judy
Chu (Ðảng Dân chủ, bang California), Adam Schiff (Ðảng Dân Chủ, bang
California) và một số dân biểu bang California như Mike Eng, Trần [Thái]
Văn, Nguyễn Phó (LS. Nguyễn Văn Phổ?)... Do nỗ lực của những tổ chức
trên của nhóm người Việt gốc Hoa, ảnh hưởng của người gốc Việt ở Mỹ
trong vấn đề tranh chấp Nam Hải cũng bị hạn chế nhất định.
4. Kết luận
Sự
vận động mang đặc điểm chính trị trong nội bộ nước Mỹ đang ngày càng
được các tổ chức của những nhóm dân tộc ít người vận dụng thành thạo.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là ảnh hưởng của các cuộc vận động này thường
không chỉ hạn hẹp đối với quê hương của họ. Như đã phân tích trong bài
viết này, do đặc điểm của quá trình di dân, địa vị kinh tế và quá trình
tham gia chính trị, người gốc Việt ở Mỹ có đặc điểm vận động chính trị
chống lại tổ quốc trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm
1995, nhưng diễn biến tình hình sau đó phức tạp hơn. Một mặt, họ không
phản đối, thậm chí là ủng hộ sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai
nước, mặt khác lại có ý đồ gắn kèm theo một số điều kiện chính trị. Do
tâm lý phức tạp trên, ảnh hưởng của các cuộc vận động chính trị của
người gốc Việt đến chính sách của Mỹ đối với Việt Nam bị hạn chế nhiều.
Tuy
vậy, không thể vì thực tế trên mà coi thường các cuộc vận động chính
trị của họ. Bởi vì, ảnh hưởng của họ rất quan trọng đối với tranh chấp
Nam Hải. Ngoài người Việt gốc Hoa, đa số người gốc Việt đều nhất
trí phản đối Việt Nam “nhượng bộ” Trung Quốc. Ngoài ra, họ còn có ý đồ
vận động chính phủ Mỹ phát huy vai trò tích cực hơn trong tranh chấp Nam
Hải, có ý đồ đưa ra “phương án giải quyết toàn diện” vấn đề này. Ảnh
hưởng sâu rộng hơn, đáng quan tâm hơn là những nỗ lực của họ có thể động
viên dân di cư gốc Ðông Nam Á đang sinh sống tại Mỹ hành động về quyền
lợi của quê hương họ ở Nam Hải, dẫn đến quốc tế hóa tranh chấp Nam Hải,
đồng thời tranh chấp Nam Hải trở thành công việc của nội bộ nước Mỹ.
Chú thích
[1]
Tác giả bài báo đang muốn nói đến tổ chức “Americans Friends of
Vietnam” (AFV) là một tổ chức vận động hành lang dưới thời Ðệ Nhất Cộng
Hòa, được tài trợ một phần bởi chính quyền Ngô Ðình Diệm.
[2]
Một đặc điểm của bài nghiên cứu này là không đưa được ra tên chính thức
của các tổ chức người Mỹ gốc Việt. Lý do gần như chắc chắn là tại vì
các tác giả của bài viết đã phải dịch từ các nguồn tin bằng tiếng Anh
nên họ đã không biết tên thật của các tổ chức của người Việt hải ngoại.
Vì vậy nên chúng tôi đã cố gắng cung cấp các tên chính thức này cho
người đọc có thể nhận diện được dễ dàng các tổ chức được nhắc đến trong
bài báo.
[3] Thông tin này không chính xác. Ông Ðoàn Văn Toại chỉ bị bắn trọng thương, sau đó đã phục hồi.
[4]
Theo một nguồn tin chính thức thì tiền kiều hối gởi về trong nước đã
lên đến gần 10 tỷ đô la (9.6 tỷ) trong năm 2011. Tuy nhiên, phải biết là
chỉ khoảng hơn nửa số tiền này là do người Việt ở Mỹ gởi về, chỗ còn
lại có những nguồn như từ Âu Châu, Úc Châu và nhất là từ Ðông Âu và Liên
Bang Nga.
[5]
Trong cuộc gặp gỡ này, Tổng Thống Bush và Phó Tổng Thống Dick Cheney đã
gặp các ông Lê Minh Nguyên (Mạng Lưới Nhân Quyền VN), ông Ðỗ Hoàng Ðiềm
(Ðảng Việt Tân), ông Ðỗ Thành Công (Ðảng Dân Chủ Nhân Dân) và BS Nguyễn
Văn Ngãi (Ðảng Dân Chủ VN). GS Ðoàn Viết Hoạt (IIV, tức International
Institute for Vietnam) có được mời nhưng không tham dự.
[6]
Ðây là một bằng chứng bài viết do nhiều người phác thảo xong được gom
lại. Vì thế nên nếu đoạn cuối bài nói đến những sinh hoạt cập nhật hơn
thì đoạn này còn đang nói về cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc năm 2008.
[7]
Tưởng cũng nên nhắc là trước khi bà cho ông Phạm Văn Trà đến gặp, nữ
Dân Biểu Nancy Pelosi, lúc bấy giờ là chủ tịch Hạ Viện Mỹ, đã có cuộc
gặp gỡ trước để trao đổi với một phái đoàn của người Mỹ gốc Việt gồm
Pháp sư Thích Giác Ðức thuộc Văn phòng II, Giáo hội Phật giáo Việt nam
Thống nhất, ông Nguyễn Ngọc Bích đại diện cho Nghị hội và ông Ðỗ Hoàng
Ðiềm, chủ tịch đảng Việt Tân.
[8]
Trong số những nhân vật này chỉ có một người là thượng nghị sĩ, ông Sam
Brownback thuộc Ðảng Cộng Hòa, còn năm vị kia đều là dân biểu, hai
người thuộc Ðảng Dân Chủ (Zoe Lofgren và Mike Honda) còn ba người thuộc
Ðảng Cộng Hòa (Chris Smith, Ed Royce và Frank Wolf).
[9]
Cuộc vận động đổi tên Biển Ðông hay Nam Hải thành một tên quốc tế là
“Biển Ðông Nam Á” (Southeast Asia Sea) chính thật là một sáng kiến của
Nguyễn Thái Học Foundation đã được đưa lên Petition on Line trên Mạng
Lưới Toàn Cầu. Tính đến nay, sáng kiến này đã thu hút được 54 nghìn chữ
ký đến từ trên 100 quốc gia trên thế giới, gồm rất nhiều người ký tên
gốc Ðông Nam Á. Nghị hội vì đồng ý với cuộc vận động này nên cũng đã
mang lên vận động trên Quốc Hội Hoa Kỳ và lấy được sự đồng tình của
không ít dân biểu nghị sĩ Mỹ trong vấn đề này.
-TQ: Mỹ Vào Trấn Biển Đông Vì Người Việt Tỵ Nạn Áp Lực
TQ: Mỹ Vào Trấn Biển Đông Vì Người Việt Tỵ Nạn Áp Lực; Vận Động Chính Trị Của Người Việt Ơ Mỹ Và Ảnh Hưởng Đối Với Tranh Chấp Biển Đông (Tạp chí "Quan hệ quốc tế hiện đại", Trung Quốc, số 6/2011)
(Vì lý do kỹ thuật, các chữ nghiêng trên VB không giữ được. Nhan đề bài do VB đặt thêm)
LỜI DẪN.- Mới đây, tập-san Các vấn đề quốc tế ở Hà-nội, số ra tháng 10/2011, có cho dịch và đăng lại một bài nghiên cứu khá cặn kẽ của Trung-Cộng đăng trên tạp-chí Quan hệ quốc tế hiện đại của
Trung-quốc, số ra tháng 6/2011, viết về cộng-đồng người Việt trên đất
Mỹ và ảnh-hưởng của họ đối với chính-sách của Mỹ về tranh chấp Biển
Đông.
Mặc dầu ngôn ngữ bài viết có thể phản-cảm đối với chúng ta
(tỷ như cho người Việt ở Mỹ là "chống lại tổ quốc," thậm chí lại còn
mô-tả là "phản quốc" - nhưng có lẽ chỉ với dụng-ý là người Việt
hải-ngoại chống lại chế-độ ở quê nhà, hoặc gọi Việt Nam là "mẫu quốc"
của chúng ta, lẽ ra chỉ nên gọi là "quê hương đất tổ" mà thôi) nhưng nói
chung, bài viết có thể xem được là khá khách-quan dựa trên những con số
và những dữ-kiện có thật, thuộc loại "nói có sách, mách có chứng." Dù
ta đồng-ý hay không với những nhận-định và kết-luận của bài viết, đây
cũng là một bài viết có cơ-sở và lạ thay, đánh giá khá tích-cực vai trò
của người Mỹ gốc Việt trong cuộc vận-động về Biển Đông bên cạnh
chính-quyền Mỹ. Những đoạn in chữ nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh để
lưu ý độc-giả. (Người Biên Tập)
---
Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, ảnh hưởng từ [các] nhóm lợi ích
trong các quyết sách ngoại giao của Mỹ ngày càng gia tăng, dẫn đến sự
vận động chính trị của các nhóm dân tộc ít người cũng tích cực hơn. Một
trong những hậu quả là nhóm dân tộc ít người vận động chính trị không
chỉ gây ảnh hưởng đối với lợi ích quốc gia trong thực tế hoặc trong tư
tưởng của mẫu quốc (quê hương), mà còn gây ảnh hưởng đến lợi ích của nước thứ ba, đến quan hệ giữa Mỹ, mẫu quốc (quê hương họ) với nước thứ ba.
Nói cách khác, nhóm vận động chính trị của dân tộc ít người không những
đang ngày càng vượt khỏi mối quan hệ song phương giữa Mỹ và mẫu quốc mà còn gây ảnh hưởng quốc tế với phạm vi rộng lớn hơn. Sự vận động chính trị [của] người Mỹ gốc Việt là một điển hình.
Những người này chủ yếu là "dân tị nạn", "thuyền nhân" và "dân di cư"
sau năm 1975. Nhóm người này mặc dù vẫn có tư tưởng chống Việt Nam,
nhưng không kiên quyết và triệt để như người Mỹ gốc Cuba. Họ không phản
đối bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, không có ý đồ kìm hãm sự phát
triển kinh tế của Việt Nam. Tuy tâm lý phức tạp này đã hạn chế hiệu quả
tâm lý vận động chính trị của họ, nhưng họ lại có hành động nhất trí
tích cực trong vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Đông), làm cho ảnh hưởng
của họ nâng cao rõ rệt: Người gốc Việt ở Mỹ có ý đồ tác động lên chính
sách Nam Hải của Mỹ và Việt Nam. Từ cuối thập niên 50 thế kỷ trước, họ
đã từng tác động ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ và Việt Nam về vấn đề
Nam Hải. Những năm gần đây, việc làm của họ đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyết sách can dự toàn diện vào Nam Hải của Mỹ. Đồng thời, họ đã trở thành tấm gương trong số dân di cư gốc Đông Nam Á khác tại Mỹ lên tiếng về quyền lợi Nam Hải.
1. Đặc trưng dân số ảnh hưởng đến nhóm vận động chính trị người Việt
Giống như các nhóm dân tộc ít người vận động chính trị khác, trước hết
là đặc điểm thành phần cơ cấu của nhóm vận động chính trị gốc Việt ở Mỹ
mang tính quyết định. Lịch sử của họ trên đất Mỹ không dài: Mặc dù
trước năm 1975, một số dân di cư người Việt đã đến Mỹ, nhưng số lượng
rất ít, chủ yếu là sinh viên và một số phụ nữ Việt lấy chồng Mỹ cùng một
số quân nhân Nam Việt Nam được Mỹ đào tạo. Sau khi Chiến tranh Việt
Nam kết thúc năm 1975, rất nhiều người Việt đã di cư ồ ạt sang Mỹ.
Trong hơn 30 năm qua, số lượng người Việt ở Mỹ tăng nhanh, trở thành dân
tộc có quy mô lớn về dân số trong số người Mỹ gốc châu Á và có ảnh
hưởng quan trọng đến xã hội Mỹ. Theo số liệu năm 2006 của Cục Thống kê
dân số Mỹ, nước Mỹ có khoảng 1,5 triệu người Việt. Số lượng người Việt ở
Mỹ chỉ đứng sau người gốc Hoa, gốc Ấn Độ và Philippin, đứng thứ tư
trong số các dân tộc châu Á ở Mỹ. Về tổng thể, quá trình di cư của
người Việt tại Mỹ có thể chia ra thành ba đợt. Đặc điểm của nhóm người
Việt ở Mỹ có liên quan đến vấn đề này.
Làn sóng dân di cư người Việt đầu tiên gọi là "dân tị nạn", họ rời khỏi
Việt Nam chủ yếu xuất phát từ tâm lý "sợ hãi" bị hãm hại và trấn áp về
chính trị sau khi đất nước thống nhất. Nhóm người này đều đến Mỹ sau
tháng 4/1975 khi Sài Gòn được giải phóng và Việt Nam thống nhất đất
nước. Họ đều có địa vị kinh tế xã hội khá cao. Chỉ trong vòng 8 tháng
(từ tháng 4-12/1975), số dân tị nạn người Việt sang Mỹ lên tới hơn
129.000, rải khắp 5 bang của Mỹ. Trong nhóm người này, nhiều người là
quan chức cấp cao của chính phủ và quân đội miền Nam Việt Nam. Nhiều
người trong số họ có quan hệ hợp tác gắn bó với người Mỹ như thư ký,
phiên dịch, chuyên gia tình báo, nhân viên truyền thông... Theo một
cuộc điều tra, 47,8% có trình độ tốt nghiệp cấp 3, 22,9% học qua đại
học, 7,2% là bác sĩ, 24% làm công tác chuyên môn kỹ thuật và quản lý,
chỉ có 4,9% là nông dân và ngư dân. Nếu xét ở thời kỳ ấy, hơn 60% dân
Việt Nam là nông dân thì có thể thấy số dân di cư đợt này chủ yếu là
tầng lớp tinh hoa.
Làn sóng di cư thứ hai được gọi là "thuyền nhân", trong đó phần lớn là
"Kiều dân" (Hoa kiều). Họ di cư cũng vì nguyên nhân chính trị. Sau khi
Việt Nam bắt đầu thực hiện bá quyền khu vực từ năm 1978, nhiều người bị
đối xử bất công đã tìm cách rời khỏi Việt Nam. Họ đi bằng thuyền hoặc
đi bộ nên được gọi là "thuyền nhân". Họ đi qua Campuchia rồi sang Thái
Lan, sau đó đến các trại tỵ nạn ở Malaixia, Inđônêxia, Hồng Công, Thái
Lan hoặc Philippin. Cuối cùng, họ được Mỹ, Canađa, Ôxtrâylia và một số
ít nước Tây Âu coi là "dân tị nạn" và có tư cách hợp pháp. Trong khoảng
thời gian từ năm 1976-1988, "thuyền nhân" Việt Nam sang Mỹ lên tới gần
500.000 người. Điều cần phải chỉ rõ là nhiều "thuyền nhân" thực tế là
Hoa kiều nhập quốc tịch Việt Nam. Trong thời kỳ này, do quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc xấu đi, đặc biệt là sau chiến tranh biên giới
Trung - Việt năm 1979, chính phủ Việt Nam bắt đầu xua đuổi hàng loạt Hoa
kiều quốc tịch Việt Nam. Chính sách này [được] liên tục thực hiện
trong vài năm, hàng trăm nghìn người Hoa đã bị đuổi khỏi Việt Nam. Mặc
dù nhiều người Hoa quay về Trung Quốc, nhưng có một bộ phận khá đông
phiêu bạt khắp thế giới, trong đó nước Mỹ là nơi họ đến đông nhất.
Trong thời kỳ này, 300 nghìn người Hoa đã đến Mỹ. Theo số liệu của Cục
Thống kê dân số Mỹ, tính đến năm 2000, số người này là 390.000 người.
Làn sóng dân di cư thứ ba là họ hàng thân thuộc của những người di cư
trong hai đợt trên hoặc con lai của quân nhân Mỹ tại Việt Nam. Họ đến
Mỹ từ cuối những năm 80 đến thập niên 90 của thế kỷ XX. Sau khi nhóm
ngưòi Việt trong hai đợt đến Mỹ và có được tư cách hợp pháp, họ đã đặt
vấn đề làm thế nào để đưa thân nhân của họ sang Mỹ thành chương trình
nghị sự của Chính phủ Mỹ. Để tránh những hiểm nguy to lớn trên đường mà
những người di cư trong hai đợt trên gặp phải, Mỹ và các nước khác đã
xây dựng chương trình cho phép họ rời Việt Nam đến trực tiếp Mỹ và các
nước khác. Ở Mỹ, đây là "Chương trình ra đi có trật tự" [tức ODP,
tắt cho Orderly Departure Program.- Ghi chú của NBT]. Tính đến năm
1998, chương trình này đã tiếp nhận 362.000 dân di cư Việt Nam. Cũng
vào thời gian đó, Mỹ đã thực hiện hai chương trình được coi là khoản bồi
thường cho "đồng minh Nam Việt Nam" thời chiến tranh, đó là "chương
trình nhân đạo" ["Humanitarian Program" hay còn gọi là H.O,
tắt cho "Humanitarian Operation Program".- NBT ghi chú] và "Chương
trình người châu Á ở Mỹ" ["Amerasian Program".- NBT ghi chú] còn được
gọi là "Luật người Mỹ hồi hương" ["Amerasian Homecoming Act".-
NBT ghi chú]. Quốc hội Mỹ đã thông qua luật này vào năm 1988 và năm
1989 bắt đầu thực thi, trọng điểm được quan tâm của luật này là giúp con
cái binh lính Mỹ và thân nhân của họ ở Việt Nam trở về Mỹ. Tính đến
năm 2000, chương trình này đã tiếp đón 84.000 người. So với số người di
cư trong hai đợt đầu, thành phần lần này phức tạp hơn. Họ thường có
hiểu biết nhiều về xã hội và có kinh nghiệm đấu tranh, thường xuyên tổ
chức ra các nhóm cánh hữu và tụ tập người Việt Nam di cư sang Mỹ và sống
rải rác khắp thế giới tham gia vào "sự nghiệp chống cộng".
Do cao trào ba đợt di cư kể trên, người gốc Việt ở Mỹ có một số đặc
điểm về cơ cấu, đồng thời thực tiễn vận động chính trị của họ đã có ảnh
hưởng quan trọng. Trước hết, động cơ của dân di cư chủ yếu xuất phát từ
tính toán chính trị, do đó họ có lập trường chính trị khá bảo thủ, đa
số ủng hộ Đảng Cộng hoà Mỹ có lập trường chống cộng. Chẳng hạn, theo
điều tra lần đầu tiên vào năm 2000, 600 người Việt được hỏi ở Quận Cam
coi nhiệm vụ "chống cộng" là công việc "quan trọng hàng đầu" hoặc "vô
cùng quan trọng".
Thứ hai, giống như các dân tộc ít người khác ở Mỹ, người Việt cư trú
khá tập trung, đã nâng cao được tầm quan trọng của họ về chính trị. Mặc
dù ngay từ đầu, chính phủ Mỹ đã thực hiện chính sách phân tán người
Việt, nhưng chính sách này nhanh chóng bị phá sản do họ chủ động ở tập
trung với nhau. Ngay từ năm 1982, người Việt ngày càng tập trung nhiều ở
Quận Cam bang California, đặc biệt là khu vực Garden Grove--được mệnh
danh là "tiểu Sài Gòn". Đây được coi là "thủ đô của người Việt lưu
vong". Hiện nay, người Việt chủ yếu sống tập trung ở một số nơi như khu
vực Galena, Texas, Niu Yoóc...
Cuối cùng, địa vị kinh tế xã hội của người Việt không cao. Điều này
không có lợi cho việc tăng cường hoạt vận động chính trị. Mặc dù địa vị
kinh tế xã hội của nhóm người di cư đợt đầu khá cao nhưng địa vị kinh
tế xã hội của hai nhóm người di cư đợt sau lại kém xa. Những người Việt
Nam mới đến Mỹ do những nguyên nhân như cơ sở kinh tế kém, trình độ
ngôn ngữ hạn chế nên phần lớn phải chọn công việc thu nhập không cao.
Sau năm 1990, địa vị kinh tế của người gốc Việt nâng lên nhanh chóng.
Chẳng hạn như bang Massachusetts, đến năm 2007, bình quân thu nhập của
một gia đình gốc Việt là 57.000 USD/năm, bình quân thu nhập đầu người là
23.000 USD/năm, nhưng vẫn thấp hơn bình quân thu nhập của một gia đình
người gốc châu Á ở Mỹ là 69.000 USD/năm và 30.000 USD/năm một đầu người.
2. Thực tiễn vận động chính trị của người Việt ở Mỹ
Đặc điểm lập trường chính trị của người Việt khá bảo thủ và dân cư sống
tập trung với nhau nên họ có ảnh hưởng chính trị nhất định. Tuy nhiên,
địa vị kinh tế của họ lại không được cao đã hạn chế họ phát huy ảnh
hưởng chính trị ở mức độ nhất định. Đúng như một học giả đã nói: "Từ sự
tương phản rõ ràng trong quan hệ Mỹ - Cuba và quan hệ Mỹ - Việt, có thể
phát hiện sự khác biệt giữa người Mỹ gốc Cuba với người Mỹ gốc Việt.
Đó là sự tồn tại của "quy tắc đồng tiền"; "ai có tiền và cho tiền thì kẻ
đó có thể nắm giữ các quy tắc". Do đó, Mỹ có thể tiếp tục cứng rắn với
Cuba, nhưng lại cởi mở với Việt Nam. Vì vậy có thể thấy, việc vận động
chính trị của người gốc Việt thể hiện trạng thái tâm lý "hai mặt", giữa
vận động tích cực và phản quốc một cách điển hình.
Do lịch sử di cư sang Mỹ như vậy nên việc vận động chính trị của người
gốc Việt chủ yếu bắt đầu từ sau năm 1975. Đương nhiên, trong hoảng thời
gian từ năm 1955-1975, chính quyền Việt Nam Cộng hoà, đặc biệt là chính
quyền Ngô Đình Diệm đã xây dựng một lực lượng vận động chính trị lớn,[1] tạo
cơ sở để vận động chính trị về sau. Tuy nhiên, vào thời kỳ ấy, vận
động chính trị phần nhiều là để thúc đẩy mạnh mẽ sự nhiệt tình chống
cộng vốn có của người Mỹ. Vì vậy, vận động chính trị của người Việt chỉ
có thể chính thức được mở rộng khi có đông đảo người Việt Nam di cư
sang Mỹ sau năm 1975. Các cuộc vận động chính trị của người Việt tại Mỹ
có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau khi hai nước bình thường
hoá quan hệ (năm 1995).
Trước năm 1995, do ký ức Chiến tranh Lạnh còn nặng nề và quan hệ Việt -
Mỹ đối địch, vận động chính trị cua người Việt ở Mỹ mang đặc điểm chống
lại Tổ quốc một cách mạnh mẽ. Đa số dân di cư Việt Nam trong thời kỳ
này mang tâm lý "chống cộng" quyết liệt, do đo dễ dàng tạo ra sự đồng
thuận chính trị mang tính bảo thủ. Tổ chức người gốc Việt ở Mỹ có nhiều
nhóm vận động chính trị, nổi tiếng nhất là "Đại hội toàn quốc người Mỹ
gốc Việt"[2] [đích-thực là "Nghị-hội Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ," tắt là"Nghị-hội".-
Ghi chú của NBT], "Hiệp hội giáo dục và phát triển Campuchia - Lào -
Việt Nam ở Mỹ" [Trong tiếng Anh là "National Association for the
Education and Advancement of Khmer, Lao and Vietnamese Americans," tắt
là NAFEA.- Ghi chú của NBT], "Thuyền nhân SOS" [tức "Boat People S.O.S.,
Inc".- Ghi chú của NBT], "Hiệp hội gia đình tội phạm chính trị"
[đích-thực là "Hội Gia-đình Tù-nhân Chính-trị VN," trong tiếng Anh là
"Families of Vietnamese Political Prisoners Association," viết tắt là FVPPA.- Ghi chú của NBT], "Uỷ ban hành động chính trị của người Mỹ gốc Việt" [tức "Vietnamese Political Action Committee," tắt làVPAC.- Ghi chú của NBT]... Trong giai đoạn này, thành công của nhóm vận động chính trị thể hiện trên ba phương diện: Trước hết, họ ủng hộ xây dựng Đài Châu Á Tự do.
Bắt đầu từ năm 1985, người Việt đã ra sức thúc đẩy xây dựng Đài Châu Á
Tự do, các biện pháp vận động chính trị chủ yếu là viết thư thỉnh nguyện
và gặp mặt các đại biểu quốc hội. Trong quá trình biểu quyết một quyết
nghị có liên quan đến bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt năm 1994, người gốc Việt là dân tộc ít người duy nhất trong số các dân tộc ở Châu Á ở Mỹ ủng hộ quyết định này. Thứ hai, họ giành thắng lợi trong việc kiện Bộ Ngoại giao Mỹ. Tháng 3/1994, 250 người Việt đã gửi đơn kiện Bộ Ngoại giao Mỹ,
ép Bộ này đánh giá lại chính sách đối với dân di cư là thuyền nhân Việt
Nam bị lưu giữ kéo dài ở Hồng Công, không cho đẩy trở lại hoặc buộc họ
viết lại đơn xin nhập cư. Cuối cùng, thông qua vận động chính trị đối
với các nghị sĩ quốc hội, đặc biệt là bà Leslie Byrne, nghị sĩ bang
Virginia, người gốc Việt đã thành công trong việc thông qua nghị quyết ở quốc hội. Từ đó, ngày 11/5/1994 trở thành "ngày nhân quyền Việt Nam".
Vận động hành lang chống lại Tổ quốc của họ trong giai đoạn này còn thể
hiện ở chỗ có sự tranh luận quyết liệt, thậm chí sát hại nhau về việc
Mỹ và Việt Nam có nên bình thường hoá quan hệ ngoại giao hay không?
Những người Mỹ gốc Việt đề xướng bình thường hoá quan hệ ngoại giao hoặc
thương mại Mỹ - Việt thường ở vào tình thế khó khăn. Chẳng hạn, tháng
8/1989, nhà hoạt động phản chiến nổi tiếng Đoàn Văn Toại đã bị bắn chết[3] do
viết bài kêu gọi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ; ngày
28/5/1984, vợ chồng Nguyễn Văn Luỹ à Phạm Thị Lưu [ở San Francisco,
CA.- Ghi chú của NBT] là những người đề xuất mở rộng quan hệ thương mại
với Việt Nam đã bị bắn, ông Luỹ chỉ bị thương còn bà Lưu thì chết. Vào
cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nhân lúc nền kinh tế Việt Nam bên bờ
vực sụp đổ, nhiều người Việt ở Mỹ vẫn cho rằng không nên cứu chính quyền
Đảng Cộng sản ở Hà Nội, trừ phi họ từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Khi kết thúc Chiến tranh Lạnh và người Việt ngày càng hội nhập vào xã
hội Mỹ, việc vận động chính trị của người gốc Việt tại Mỹ cũng dần dần
chuyển hướng. Đến năm 1995 đã bước sang giai đoạn thứ hai khi Việt Nam
và Mỹ bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Họ một mặt không phản đối
quan hệ Việt - Mỹ, đặc biệt là bình thường hoá quan hệ thương mại, mặt
khác vẫn đánh giá tiêu cực đối với thể chế chính trị, nhân quyền, dân
chủ và tự do tôn giáo trong nước Việt Nam. Tâm lý phức tạp này dẫn đến
họ ủng hộ sự phát triển quan hệ Việt - Mỹ, ủng hộ sự phát triển trong
nước của Việt Nam, nhưng mặt khác lại đòi chính phủ Mỹ có biện pháp cứng
rắng buộc Việt Nam phải cải thiện tình hình chính trị, nhân quyền, tự
do tôn giáo...
Mặc dù tự nhận là "dân tị nạn", nhưng những người Mỹ gốc Việt vẫn có
tình cảm dân tộc mãnh liệt đối với quê hương. Nhiều người Việt mong
muốn có thể quay trở lại Việt Nam sau khi nước này thực hiện dân chủ.
Ví dụ, theo một điều tra dư luận người gốc Việt ở Quận Cam, 62% người
được hỏi mong muốn quay lại Việt Nam sau khi nước này có tự do dân chủ.
Xuất phát từ tình cảm đối với quê hương, mặc dù vẫn thường nhấn mạnh
tình hình nội bộ chính trị ở Việt Nam, người gốc Việt dần dần không còn
phản đối bình thường hoá quan hệ ngoại giao, cũng như sự phát triển quan
hệ thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, do các nguyên nhân như khả
năng kinh tế và ý thức tham gia chính trị, người gốc Việt vẫn chưa ảnh
hưởng nhiều đến việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Họ tin rằng
xây dựng quan hệ ngoại giao có thể làm cho quan hệ kinh tế thương mại
giữa hai nước được tăng cường, nhưng nhất định phải buộc nhà cầm quyền
Việt Nam trả giá chính trị tương ứng, đó là phải cải thiện vấn đề nhân
quyền, tôn giáo, dân chủ ở Việt Nam. Chẳng hạn, Chủ tịch Hiệp hội tội
phạm chính trị Việt Nam [tên đích-xác là "Hội Cựu-tù-nhân Chính-trị VN".-
Ghi chú của NBT] ở bang Connecticut cho rằng nền kinh tế kế hoạch hoá
nhất định phải cần đến giải pháp đồng bộ về dân chủ ở Việt Nam. Một ví
dụ khác đó là người Việt đầu tiên là Hạ nghị sĩ [= Dân-biểu.- Ghi chú
của NBT] Mỹ Joseph Cao đã thể hiện tâm lý phức tạp khi đến thăm Việt Nam
năm 2010. Ông tỏ ra vui mừng trước sự phát triển của Việt Nam, cho
rằng mặc dù Việt Nam và Mỹ có nhiều bất đồng, "nhưng không có nghĩa là
hai nước không thể hợp tác. Nhiều mong muốn của tôi không trùng hợp với
chính phủ Việt Nam, nhưng tôi vẫn hy vọng hai nước có thể tiếp tục hợp
tác".
Xuất phát từ sự quan tâm đối với quê hương, người Mỹ gốc Việt ủng hộ
mạnh mẽ sự phát triển kinh tế trong nước. Hiện tượng này thể hiện rõ
rệt nhất ở việc lượng kiều hối của Việt kiều tại Mỹ đều tập trung về
Việt Nam và trở thành kênh quan hệ để Việt Nam giao lưu với Mỹ. Năm
1990, lượng kiều hối gửi về chỉ có 23 triệu USD, đến năm 1995 khi bình
thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã tăng lên 285 triệu USD, gấp 12,4 lần.
Tiếp đó, lượng kiều hối tiếp tục tăng nhanh chóng lên 5,5 tỷ USD vào năm
2007.[4] Để
thúc đẩy lợi ích thương mại của Việt Nam tại Mỹ, đã có người kiến nghị
Việt Nam nên tận dụng cơ chế vận động hành lang ở Mỹ, đặc biệt là thông
qua lực lượng người Việt ở nước này. Thượng nghị sĩ Jim Webb là người
chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các cuộc vận động chính trị của người Việt,
cho rằng: "Mặc dù Việt Nam và Mỹ có bất đồng trong các vấn đề như nhân
quyền, tôn giáo, tự do, nhưng Mỹ có hơn 2 triệu người gốc Việt. Họ có
thể làm cầu nối rất tốt giữa hai nước".
Dù vậy, người Việt tại Mỹ vẫn giữ thái độ tiêu cực đối với chế độ chính
trị, nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ thường yêu cầu chính
phủ Mỹ khi trao cho Việt Nam lợi ích về kinh tế phải kèm theo điều kiện
chính trị. Chẳng hạn, trước khi biểu quyết thông qua "Quy chế quan hệ
thương mại bình thường vĩnh viễn" (PNTR, tắt cho Permanent Normal Trade Relations.- Ghi chú của NBT] cho Việt Nam vào tháng 7/2006, trên tờ USA Today, hơn 50 tổ chức của người Việt ở Mỹ bao gồm "Đồng minh dân chủ Việt Nam" [đích thực là "Liên-minh Dân-chủ VN".- Ghi chú của NBT], "Uỷ ban tự do tôn giáo Việt Nam", "Hội đồng nhân quyền Việt Nam" [có lẽ ý muốn nói "Mạng Lưới Nhân Quyền VN".-
Ghi chú của NBT] đã công khai đăng bức thư gửi Tổng thống Bush và Quốc
hội Mỹ, yêu cầu phía Mỹ quan tâm đến vấn đề nhân quyền, đưa ra những
điều kiện tiên quyết cho PNTR, trong đó có thả tù nhân phạm tội về tôn
giáo và chính trị, chấm dứt giam lỏng [chế-độ quản-chế.- Ghi chú của
NBT], cho phép và thừa nhận các hội độc lập, thực sự tự do báo chí...
Phần cuối của bức thư này kêu gọi: "Nếu chưa làm được những điều trên,
đề nghị từ chối cấp PNTR cho chính quyền độc tài cộng sản Việt Nam".
Đầu xuân năm 2007, do chính phủ Việt Nam bắt giữ một số nhân sĩ tôn
giáo, do sự hối thúc của nhiều nhóm người Việt, Nhà Trắng và Bộ Ngoại
giao Mỹ đã công khai phê phán Chính phủ Việt Nam. Tổng thống [George W.] Bush và Phó Tổng thống [Dick] Cheney đã tổ chức cuộc gặp 45 phút với các tổ chức nhân quyền của người Việt ở Mỹ vào tháng 5/2007.[5] Hạ viện Mỹ đã thông qua nghị quyết lên án Việt Nam với tỷ lệ 404/404 phiếu thuận. Hạ nghị sĩ[= Dân-biểu] Earl
Blumenauer thuộc Đảng Dân chủ, Trưởng ban liên lạc quốc hội Mỹ - Việt,
cũng tuyên bố từ chức để phản đối việc làm của chính phủ Việt Nam. Trước khi Ngoại trưởng Hillary đến thăm Việt Nam vào tháng 7/2010, các Hạ nghị sĩ [= Dân-biểu] như Loretta Sanchez, Barbara Boxer, Mel Martinez... [đích thật hai vị sau này là Thượng-nghị-sĩ.- Ghi chú của NBT] đều yêu cầu Hillary nhắc nhở vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo với chính phủ Việt Nam - trên thực tế Hillary đã làm như vậy.
Người Việt ở Mỹ có tâm lý phức tạp đối với quê hương của họ. Điều này
đã dẫn đến tranh cãi trong nhiều vấn đề liên quan đến Việt Nam. Chẳng
hạn, tháng 12/1998, một tiểu thương người Việt ở Little Saigon, Bang
California [tên Trần Trường.- Ghi chú của NBT] đã treo tấm ảnh Hồ Chí
Minh cỡ lớn và cờ đỏ sao vàng Việt Nam tại cửa hàng của mình, dẫn đến
hoạt động biểu tình quy mô lớn trong một thời gian dài. Cuộc biểu tình
này kéo dài 4 tháng, lúc đông nhất có hơn 15.000 người tham gia, diễn ra
53 ngày tại riêng cửa hàng của ông này, những người biểu tình yêu cầu
ông chủ cửa hàng hạ ảnh Hồ Chí Minh và quốc kỳ [VNCS.- Ghi chú của NBT]
xuống. Nhưng ông ta nói đây là quyền tự do của ông và không chịu thực
hiện. Ngoài ra, Tạp chí "Thời đại" [tức tờ TIME.- Ghi chú của NBT] đã
đăng bài viết về Hồ Chí Minh, coi cụ Hồ là chiến sĩ đấu tranh cho tự do,
từng bị cầm tù. "Đảng Dân chủ Việt Nam" ở Mỹ đã viết thư gửi tạp chí này để phản đối và đòi sửa lại bài viết trên.
Mặc dù hiện nay còn khó đưa ra kết luận, nhưng cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2008[6] dường
như đã hé lộ tín hiệu thay đổi trong sự vận động chính trị của người
Việt, bởi vì cơ cấu phiếu bầu của họ đã có dấu ấn thay đổi. Mặc dù nhìn
chung sự ủng hộ của người Việt đối với Đảng Cộng hoà vẫn chưa thay đổi,
nhưng đi sâu nghiên cứu sẽ phát hiện mạch ngầm phía sau: Một mặt, người
Việt là nhóm dân tộc gốc Châu Á duy nhất ủng hộ John McCain, sự ủng hộ
của họ đối với ông này cao gấp đôi so với Barack Obama. Mặt khác, số
phiếu ủng hộ của người Việt trẻ sinh ra ở Mỹ đối với Obama lại lên tới
69%, số phiếu bầu của những người Việt tuổi từ 18-29 cũng lên tới 60%.
Mặc dù hai nhóm người Việt này chỉ là thiểu số (chiếm 15% và 25%), nhưng
họ lại là nhóm người chủ yếu trong tương lai. Ngoài ra, tính chất đảng
phái của người Việt cũng thay đổi: Người Việt trên 45 tuổi muốn tham
gia tranh cử nhiều hơn, chủ yếu đăng ký là người của Đảng Cộng hoà.
Ngược lại, nhiều người Việt dưới 45 tuổi lại muốn đi theo Đảng Dân chủ
hoặc ứng cử viên độc lập, tỷ lệ tham gia tranh cử bằng một nửa so với
nhóm trên 45 tuổi.
3. Việc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ với vấn đề tranh chấp Nam Hải (Biển Đông)
Nhìn chung, do hạn chế bởi địa vị kinh tế và vai trò chính trị, ảnh
hưởng của sự vận động chính trị của người Việt ở Mỹ không lớn, đặc biệt
là so với người Mỹ gốc Do Thái hoặc gốc Cuba. Tuy nhiên, nếu xem xét từ
góc độ vấn đề Trung Quốc, quan hệ Trung - Mỹ, Trung - Việt, quan hệ
Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, thì sự vận động chính trị của người
gốc Việt khá quan trọng. Bởi vì, tuy họ còn thiếu tích cực và thiếu khả
năng mở rộng vận động chính trị trong các vấn đề liên quan đến Việt
Nam, nhưng họ lại là
nhóm người vận động tích cực nhất trong các nhóm người gốc châu Á ở Mỹ
về vấn đề Nam Hải và tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa Trung Quốc với
Việt Nam. Ảnh hưởng của họ càng nổi bật hơn khi Mỹ can dự toàn diện vào tranh chấp Nam Hải năm 2010.
Người Việt ở Mỹ quan tâm đến vấn đề Nam Hải từ lâu. Ngày 19/4/1958
[Sai, lẽ ra phải là ngày 14/9/1958.- Ghi chú của NBT], Thủ tướng Việt
Nam Phạm Văn Đồng đã gửi công hàm cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai
công nhận Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là của Trung Quốc.
Ngay vào thời điểm đó, những người Việt đang công tác tại Bộ Ngoại giao
Mỹ đã nhanh chóng công bố cho người Việt ở Mỹ bản photo "Báo Nhân dân"
[đích-xác phải là "báo Nhân Dân".-
Ghi chú của NBT] của Việt Nam. Sự việc này ngay lập tức đã gây ra sự
phản đối quyết liệt của người gốc Việt ở Mỹ, họ gọi hành động này của
chính phủ Việt Nam là "bán nước". Sau này, vấn đế tranh chấp lãnh thổ
giữa Trung Quốc và Việt Nam đã trở thành một vấn đề quan trọng của người
Việt ở Mỹ.
Mặc dù nội bộ người gốc Việt có nhiều bất đồng lớn về thái độ đối với
Việt Nam, nhưng [họ] đều nhất trí cao về việc "bảo vệ tài sản của tổ
tiên để lại", không dâng cho Trung Quốc. Đúng như có học giả đã chi rõ:
Về mặt bảo vệ "tài sản của tổ tiên", thái độ của người Việt ở nước
ngoài là mạnh mẽ nhất. Đa số họ là kẻ lưu vong trong thập niên 70 của thế kỷ XX, có tâm lý chống đối quyết liệt chính phủ Việt Nam. Họ không có cảm tình gì với lịch sử Trung Quốc giúp Việt Nam chiến thắng hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, giành được độc lập cho đất nước, giải phóng dân tộc. Họ vốn quen tiếp nhận quan niệm giá trị của phương Tây, luôn
cao giọng nhất trong vấn đề Tây Sa và Nam Sa, không những đòi chủ quyền
đối với hai quần đảo này, họ còn đòi chủ quyền toàn bộ Nam Hải.
Trong những năm 1991-1993 sau Chiến tranh Lạnh, trong tình hình Mỹ đi
đầu cấm vận đối với Trung Quốc, một số người Việt đã nhìn thấy cơ hội té
nước theo mưa về vấn đề Nam Hải, cố sức xây dựng "Tổng Hội người Việt
Nam ở nước ngoài" [đích-xác là "Tổng-Liên-Hội Người Việt Tự Do,"
đã họp ở Canada và Washington, DC.- Ghi chú của NBT]. Sau khi nỗ lực
đó bị thất bại, từ năm 1995-2000, họ đã bốn lần tổ chức hội nghị trù bị
[có lẽ tác-giả muốn nói đến 4 lần Hội-nghị Liên-kết họp
ở Virginia, Quận Cam, Milpitas Bắc-Cali, và Washington, DC.- Ghi chú
của NBT], có ý đồ xây dựng một mặt trận dân tộc bảo vệ "quần đảo Trường
Sa". Để phối hợp với tâm lý dân tộc ngày càng lên cao ở trong nước xung
quanh vấn đề Trường Sa, họ đã lần lượt tổ chức hai lần "Đại hội bảo vệ
lãnh thổ" [đích-xác là "Hội-nghị Diên Hồng hải-ngoại bảo-toàn lãnh-thổ".-
Ghi chú của NBT] vào năm 2002 và 2005. Thậm chí, họ đã tổ chức biểu
tình bên ngoài Lãnh sự quán Trung Quốc ở Houston. Đương nhiên, những tổ
chức này cũng ủng hộ hành động ở trong nước phản đối chính phủ Việt Nam
"bán nước", dâng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc, đặc biệt là ủng hộ
những hoạt động nhiều lần biểu tình trái phép ở Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh.
Tổ chức người Việt ở Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất đối với chính sách của Mỹ
về vấn đề Nam Hải là "Hiệp hội người Việt ở hải ngoại" (?). Tổ chức
này đã vận động chính trị thông qua đề xuất chính sách một cách rộng
rãi, cung cấp tiền cho các nghị sĩ tranh cử, gặp mặt các nghị sĩ và đã
thu được hiệu quả khá rõ rệt... Ví dụ, tháng 11/2003, trong lúc diễn ra
chuyến thăm Mỹ của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phạm Văn Trà, tổ
chức này đã gửi một kiến nghị cho Bộ Ngoại giao Mỹ,[7] hoan
nghênh sự phát triển tích cực của quan hệ Việt - Mỹ. Tuy nhiên, họ cho
rằng phải quan tâm toàn diện: Về lý luận, tính chất của hai chính quyền
vẫn khác biệt về bản chất, Việt Nam vẫn là một quốc gia một đảng chuyên
chế; hai nước vẫn còn tồn tại bất đồng lớn trong các vấn đề như nhân
quyền, tự do tôn giáo, quyền chính trị của công dân... Bản kiến nghị ấy
cũng cho rằng mục đích chuyến thăm của Phạm Văn Trà phần nhiều không
phải là phát triển quan hệ song phương mà là phối hợp kiềm chế Trung
Quốc. Thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á và Thái Bình
Dương thuộc Uỷ ban Đối ngoại của Thượng viện Mỹ đã từng trải qua cuộc
chiến tranh Việt Nam cho rằng Việt Nam và Hoa Kỳ là bạn bè tự nhiên.
Việt Nam có ý nghĩa chiến lược đối với Mỹ, sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam
là vô cùng quan trọng. Chính sách ngoại giao cân bằng nước lớn của Việt
Nam hết sức quan trọng đối với việc tăng cường quan hệ Việt - Mỹ, cũng
hết sức quan trọng đối với việc ổn định khu vực Đông Nam Á và Nam Hải.
Tháng 7/2009, Jim Webb đã chủ trì một cuộc điều trần về "Vấn đề chủ
quyền và tranh chấp trên biển ở Đông Á". Bài phát biểu của ông ta đã
ảnh hưởng rõ rệt đến những người Việt ở Mỹ. Khi đề cập đến vấn đề Trung
Quốc bắt giữ các ngư dân Việt Nam, ông nói: "Những tranh chấp này đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quốc gia khác trong khu vực, chỉ Mỹ mới
có đủ khả năng và biện pháp chống lại sự mất cân bằng sức mạnh do Trung
Quốc gây ra. Nếu Mỹ muốn duy trì sự cân bằng địa chính trị trong khu
vực, bảo đảm sự công bằng cho tất cả các quốc gia, bảo vệ tiếng nói của
những quốc gia muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thì
Mỹ phải có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ này". Sau một tháng, trong thời
gian thăm Việt Nam, Jim Webb một lần nữa nhấn mạnh Mỹ phải giúp Việt Nam
đối trọng với Trung Quốc".
Năm 2009 là năm người Việt ở Mỹ vận động chính trị tích cực nhất xung
quanh vấn đề Nam Hải. Điều này ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của
Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải năm 2010. Tháng 4/2009, các tổ chức như
"Đại hội toàn quốc người Việt" [tức Nghị-hội.- Ghi chú của NBT], "Tiếng nói người Mỹ gốc Việt" ["Voice of Vietnamese Americans" trong
tiếng Anh.- Ghi chú của NBT], đã gặp Jim Webb và bày tỏ quan điểm của
họ đối với vấn đề chủ quyền quần đảo Nam Sa [tức Trường Sa.- Ghi chú của
NBT], đồng thời yêu cầu ông ta hãy lên tiếng thay cho Việt Nam. Tháng
7/2009, khi Đại sứ Mỹ ở Việt Nam Michael Michalak về Mỹ công tác, những
người thuộc các tổ chức trên cũng đã đến gặp ông này. Khi đề cập đến
vấn đề Nam Hải, ông nói: "Mỹ không thể đứng về bên nào", mà sẽ theo đuổi
một "phương pháp giải quyết mang tính khu vực".
Tháng 12/2009, "Đại hội toàn quốc người gốc Việt" [= Nghị-hội]
và một số tổ chức của người Việt khác đã gặp 6 nghị sĩ Đảng Dân chủ
trong quốc hội (bao gồm Sam Brownback, Chris Smith, Ed Royce, Zoe
Lofgren, Frank Wolf, Mike Honda).[8]
Mặc dù mục đích chính của cuộc gặp là thảo luận vấn đề nhân quyền của
Việt Nam, nhưng cũng thảo luận về vấn đề tranh chấp Nam Hải. Tháng
6/2010, "Đại hội toàn quốc người Việt" [= Nghị-hội]
một lần nữa cử đại diện đến vận động chính trị ở quốc hội, gặp gỡ 6
nghị sĩ trên và Uỷ ban đối ngoại của Thượng viện Mỹ. Sứ mệnh chủ yếu
của cuộc gặp này là để hoàn chỉnh "phương án giải quyết vấn đề Nam
Hải". Nội dung chủ yếu bao gồm: (1) Thống nhất tên gọi quốc tế khu vực
Nam Hải là "Biển Đông Nam Á"[9] để
thuận lợi hơn khi thảo luận vấn đề này; (2) Tổ chức một cuộc thảo luận
giữa các học giả quốc tế và Việt Nam, thống nhất quan điểm, lập trường
và chính sách của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông; (3) Tổ chức hội nghị
quốc tế bao gồm các đại diện của các nước có lợi ích ở Biển Đông - trừ
Trung Quốc, để cùng "ngăn chặn hành động bá quyền của Trung Quốc" ở khu
vực này; địa điểm tổ chức hội nghị có thể lựa chọn Đông Nam Á hoặc Nhật
Bản. Sau khi lắng nghe phương án này, hai thượng nghị sĩ là thành viên
chủ yếu của Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Mỹ đã ủng hộ nhiệt tình. Họ
nói: "Các nước Đông Nam Á đều yêu cầu Mỹ đứng về phía họ... Tuy nhiên,
điều này làm cho chúng ta không thể đứng về bên nào. Có được một phương
án toàn diện như các ngài nêu ra thì Mỹ mới có thể sẵn sàng ủng hộ".
Do Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2010 nên vận
động chính trị của người Việt ở Mỹ xung quanh vấn đề Nam Hải lại càng
tích cực. Trong đó, tổ chức nổi bật hơn cả là "Hội Người Việt ở Bắc
California". Ngày 20/5/2010, trước khi Ngoại trưởng Hillary [Clinton]
đến thăm Việt Nam tham dự Diễn đàn khu vực Đông Nam Á (ARF, tắt cho
ASEAN Regional Forum.- Ghi chú của NBT), tổ chức này đã kiến nghị Bộ
Ngoại giao và bà Hillary, mong muốn Mỹ giúp đỡ các ngư dân Việt Nam bị
Trung Quốc bắt, lên án hải quân Trung Quốc và quan tâm đến tình hình Nam
Hải. Sau khi Hillary lên tiếng can dự vào Nam Hải tháng 7/2010, tổ
chức này đã viết thư cho bà ta, trong thư có đoạn bày tỏ "cảm ơn chân
thành và sâu sắc nhất", đồng thời mong muốn Bộ Ngoại giao Mỹ tiếp tục
quan tâm đến vấn đề này.
Cuộc vận động chính trị của người Việt ở Mỹ trong vấn đề tranh chấp Nam Hải đã mang lại hiệu quả rộng lớn.
Điều này không những thể hiện trong tuyên bố của bà Hillary rằng Nam
Hải liên quan đến "lợi ích quốc gia", đồng thời yêu cầu thông qua diễn
đàn đa phương để giải quyết tranh chấp ở khu vực này mà còn thể hiện
trong việc họ đã động viên các nhóm dân tộc khác ở Mỹ tác động lên Quốc
hội Mỹ và các bên tranh chấp Nam Hải. Ví dụ, Thượng nghị sĩ Jim Webb
vốn luôn ủng hộ các yêu cầu của người Việt ở Mỹ, một lần nữa lại đến
thăm Việt Nam vào trung tuần tháng 4/2011. Trong thời gian chuyến thăm,
ông ta không những nói về tranh chấp Nam Hải mà còn mở rộng nội dung
sang vấn đề xây dựng đập thuỷ điện lớn trên sông Mê Công. Một ví dụ
khác là tính đến nay, nhiều người Mỹ gốc Inđônêxia, Malaixia,
Philippin... đã ký tên đòi đổi tên gọi Nam Hải thành "Biển Đông Nam Á"
theo đề xuất của "Đại hội toàn quốc của người Việt ở hải ngoại" [= Nghị-hội?.-
Ghi chú của NBT]. Do đó, có thể nhận thấy rất rõ ràng mặc dù Mỹ có
chánh sách mang tính hệ thống, nhưng việc vận động chính trị của người
Việt xung quanh vấn đề Nam Hải có liên quan chặt chẽ đến căng thẳng
trogn quan hệ Trung - Mỹ, Trung - Việt, Trung Quốc - ASEAN về vấn đề Nam
Hải.
Đương nhiên, cũng cần thấy rằng, trong số người Mỹ gốc Việt cũng có một
bộ phận nhỏ có vai trò tích cực trong việc hạn chế những nỗ lực vận
động hành lang của tổ chức như "Đại hội toàn quốc người [Mỹ] gốc Việt"
[= Nghị-hội.-
Ghi chú của NBT], đó là "Người Mỹ gốc Việt - Trung". Như đã phân tích ở
trên, nhiều người Việt ở Mỹ có gốc gác là người Hoa. Do đó, họ phải
xác lập sự đồng thuận phức tạp hơn so với những nhóm người chỉ có một tổ
quốc. Người Việt gốc Hoa đều có tình cảm với Việt Nam và Trung Quốc,
do đó, họ không muốn thấy quan hệ hai nước xấu đi, hoặc các nhân tố khác
làm mối quan hệ này xấu đi. Do đó, sự lựa chọn của họ thường là làm
cầu nối giữa người Việt với người Việt gốc Hoa, tìm cách lấy khuôn khổ
rộng lớn hơn là người Mỹ gốc châu Á để hoà giải và điều chỉnh hành động
chính trị giữa người gốc Việt và người Việt gốc Hoa. Trong đó, tổ chức
nổi tiếng là "Uỷ ban hành động chính trị của người Mỹ gốc Hoa Việt - Lào
- Campuchia" (IAPAC,
tức Indochinese American Political Action Committee.- Ghi chú của
NBT). Tổ chức này do người Việt gốc Hoa, người Lào gốc Hoa và người
Campuchia gốc Hoa ở Mỹ thành lập năm 2000. Họ động viên người Việt,
người Lào , người Campuchia gốc Hoa tham gia vào nền chính trị Mỹ ở tầm
rộng lớn hơn. Do lý lịch đa quốc gia của các thành viên, IAPAC có mục
tiêu chủ yếu là đoàn kết người Hoa từng sống ở những quốc gia khác nhau,
không vì lợi ích nhỏ hẹp của từng nhóm người. Từ khi thành lập năm
2000 đến nay, tổ chức này đã quyên góp thành công để ủng hộ rất nhiều
ứng cử viên chính trị như: Các Hạ nghị sĩ [= Dân-biểu] Judy Chu (Đảng
Dân chủ, bang California), Adam Schiff (Đảng Dân chủ, bang California)
và một số dân biểu bang California như Mike Eng, Trần [Thái] Văn, Nguyễn
Phó (LS. Nguyễn Văn Phổ?)... Do nỗ lực của những tổ chức trên của nhóm
người Việt gốc Hoa, ảnh hưởng của người gốc Việt ở Mỹ trong vấn đề
tranh chấp Nam Hải cũng bị hạn chế nhất định.
4. Kết luận
Sự vận động mang đặc điểm chính trị trong nội bộ nước Mỹ đang ngày càng
được các tổ chức của những nhóm dân tộc ít người vận dụng thành thạo.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là ảnh hưởng của các cuộc vận động này thường
không chỉ hạn hẹp đối với quê hương của họ. Như đã phân tích trong bài
viết này, do đặc điểm của quá trình di dân, địa vị kinh tế và quá trình
tham gia chính trị, người gốc Việt ở Mỹ có đặc điểm vận động chính trị
chống lại tổ quốc trước khi hai nước bình thường hoá quan hệ vào năm
1995, nhưng diễn biến tình hình sau đó phức tạp hơn. Một mặt, họ không
phản đối, thậm chí là ủng hộ sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai
nước, mặt khác lại có ý đồ gắn kèm theo một số điều kiện chính trị. Do
tâm lý phức tạp trên, ảnh hưởng của các cuộc vận động chính trị của
người gốc Việt đến chính sách của Mỹ đối với Việt Nam bị hạn chế nhiều.
Tuy
vậy, không thể vì thực tế trên mà coi thường các cuộc vận động chính
trị của họ. Bởi vì, ảnh hưởng của họ rất quan trọng đối với tranh chấp
Nam Hải. Ngoài người Việt gốc Hoa, đa số người gốc Việt đều nhất trí phản đối Việt Nam "nhượng
bộ" Trung Quốc. Ngoài ra, họ còn có ý đồ vận động chính phủ Mỹ phát
huy vai trò tích cực hơn trong tranh chấp Nam Hải, có ý đồ đưa ra
"phương án giải quyết toàn diện" vấn đề này. Ảnh hưởng sâu rộng hơn,
đáng quan tâm hơn là những nỗ lực của họ có thể động viên dân di cư gốc
Đông Nam Á đang sinh sống tại Mỹ hành động về quyền lợi của quê hương họ
ở Nam Hải, dẫn đến quốc tế hoá tranh chấp Nam Hải, đồng thời tranh chấp
Nam Hải trở thành công việc của nội bộ nước Mỹ./.
Chú thích
[1]
Tác-giả bài báo đang muốn nói đến tổ-chức "Americans Friends of
Vietnam" (AFV) là một tổ-chức vận-động hành-lang dưới thời Đệ nhất
Cộng-hoà, được tài-trợ một phần bởi chính-quyền Ngô Đình Diệm.
[2]
Một đặc-điểm của bài nghiên cứu này là không đưa được ra tên chính-thức
của các tổ-chức người Mỹ gốc Việt. Lý-do gần như chắc chắn là tại vì
các tác-giả của bài viết đã phải dịch từ các nguồn tin bằng tiếng Anh
nên họ đã không biết tên thật của các tổ-chức của người Việt hải-ngoại.
Vì vậy nên chúng tôi đã cố gắng cung-cấp các tên chính-thức này cho
người đọc có thể nhận diện được dễ dàng các tổ-chức được nhắc đến trong
bài báo.
[3] Thông tin này không chính-xác. Ông Đoàn Văn Toại chỉ bị bắn trọng-thương, sau đó đã phục-hồi.
[4]
Theo một nguồn tin chính-thức thì tiền kiều-hối gởi về trong nước đã
lên đến gần 10 tỷ đô-la (9,6 tỷ) trong năm 2011. Tuy-nhiên, phải biết
là chỉ khoảng hơn nửa số tiền này là do người Việt ở Mỹ gởi về, chỗ còn
lại có những nguồn như từ Âu-châu, Úc-châu và nhất là từ Đông-Âu và
Liên-bang Nga.
[5]
Trong cuộc gặp gỡ này, Tổng-thống Bush và Phó-Tổng-thống Dick Cheney đã
gặp các ông Lê Minh Nguyên (Mạng Lưới Nhân Quyền VN), ông Đỗ Hoàng Điềm
(Đảng Việt Tân), ông Đỗ Thành Công (Đảng Dân Chủ Nhân Dân) và BS.
Nguyễn Văn Ngãi (Đảng Dân Chủ VN). G.S. Đoàn Viết Hoạt (IIV, tức
International Institute for Vietnam) có được mời nhưng không tham-dự.
[6]
Đây là một bằng-chứng bài viết do nhiều người phác-thảo xong được gom
lại. Vì thế nên nếu đoạn cuối bài nói đến những sinh-hoạt cập nhật hơn
thì đoạn này còn đang nói về cuộc chạy đua vào Toà Bạch Ốc năm 2008.
[7]
Tưởng cũng nên nhắc là trước khi bà cho ông Phạm Văn Trà đến gặp,
nữ-Dân-biểu Nancy Pelosi, lúc bấy giờ là Chủ-tịch Hạ-viện Mỹ, đã có cuộc
gặp gỡ trước để trao đổi với một phái-đoàn của người Mỹ gốc Việt gồm
Pháp-sư Thích Giác Đức thuộc Văn-phòng II, Giáo-hội Phật-giáo Việt-nam
Thống nhất, ông Nguyễn Ngọc Bích đại diện cho Nghị-hội và ông Đỗ Hoàng
Điềm, chủ-tịch đảng Việt Tân.
[8]
Trong số những nhân vật này chỉ có một người là Thượng-nghị-sĩ, ông Sam
Brownback thuộc Đảng Cộng-hoà, còn năm vị kia đều là Dân-biểu, hai
người thuộc Đảng Dân-chủ (Zoe Lofgren và Mike Honda) còn ba người thuộc
Đảng Cộng-hoà (Chris Smith, Ed Royce và Frank Wolf).
[9]
Cuộc vận-động đổi tên Biển Đông hay Nam-hải thành một tên quốc-tế là
"Biển Đông-Nam-Á" (Southeast Asia Sea) chính-thật là một sáng-kiến của
Nguyễn Thái Học Foundation đã được đưa lên Petition on Line trên Mạng
Lưới Toàn Cầu. Tính đến nay, sáng-kiến này đã thu hút được 54 nghìn chữ
ký đến từ trên 100 quốc gia trên thế-giới, gồm rất nhiều người ký tên
gốc Đông-Nam-Á. Nghị-hội vì đồng-ý với cuộc vận-động này nên cũng đã
mang lên vận-động trên Quốc-hội Hoa-kỳ và lấy được sự đồng-tình của
không ít dân-biểu nghị-sĩ Mỹ trong vấn-đề này.--Chỉ là chuyện giấc mơ
Lữ Giang
Khi
nói chuyện với một nhà đối kháng ở trong nước, ông ta nói tổ quốc là tổ
quốc chung, trong ngoài phải hợp tác để chống xâm lăng, và ông đề nghị
tôi viết bài vận động người Việt ở nước ngoài phát động một chiến dịch
rầm rộ chống Trung Quốc xâm lược, gây tiếng vang quốc tế để làm Trung
Quốc phải chùng lại. Tôi hỏi ông tại sao trong nước không làm, ông cho
biết trong nước khó làm vì hai lý do:
(1)
Nếu chính phủ nói hay làm mạnh, chưa biết Trung Quốc sẽ phản ứng như
thế nào. Nó là nước lớn, mình là nước nhỏ, nó giở trò gì mình cũng khốn
đốn cả. Cha ông ta ngày xưa thường phải “tiêu lòn” để tồn tại.
(2)
Còn chúng tôi làm thì chính phủ sợ chúng tôi “đi không đúng đường lối”,
nhất là sợ chúng tôi biến chiến dịch chống Trung Quốc thành chiến dịch
chống chế độ.
Rất là khó.
Tôi nói với ông ta rằng đề nghị này rất hợp lý nhưng rất khó làm được, vì ba lý do chính sau đây:
-
Lý do thứ nhất, đừng tưởng chế độ cộng hoà xã hội chủ nghĩa chỉ áp dụng
trong nước mà thôi. Người Việt tỵ nạn đã đem nó theo và áp dụng ở hải
ngoại, buộc mọi người mãi đi theo “lề phải”, ai đi khác “lề” là bị đội
nón cối hay “tùng xẻo” ngay.
-
Lý do thứ hai, cộng đồng người Việt hải ngoại không có lãnh đạo, nhưng
ai cũng là “lãnh tụ”. Những “lãnh tụ” này nhiều khi sẵn sàng hạ nhau
bằng mọi giá chỉ vì muốn kiếm hay bảo vệ những hư danh hay quyền lợi nhỏ
bé. Do đó, khó có thể “thống nhất” người Việt hải ngoại để góp phần vào
việc chống xâm lăng.
-
Lý do thứ ba quan trọng hơn: Đây là Nước Mỹ. Khi còn VNCH, mặc dầu có
chính phủ, có quân đội thiện chiến... người Mỹ cũng không để cho “người
Việt quốc gia” quyết định lấy số phận của mình. Mọi chuyện họ đều sắp
xếp hết. Bây giờ ở trên nước Mỹ, mặc dầu một số người vẫn coi đây là
VNCH nối dài, nhưng mọi chuyện đều do “Số Trời” định cả, người Việt
chống cộng có múa may quay cuồng gì rồi cũng bị “vô cơ” thôi.
Ông
ta hỏi có cách nào để cứu vãn tình thế không. Tôi nói cứ nghe tôi kể
qua tình trạng của cộng đồng người Việt hải ngoại rồi sẽ biết họ có thể
làm được gì hay không.
CHXHCN CỦA HÀ NỘI Ở MỸ
Giới
dân gian ở Bolsa, nơi thủ đô của VNCH nối dài, thường gọi các chương
trình nói chuyện về Việt Nam của các “bình luận gia ta” trên các đài
truyền hình là “Chương trình Chúng nó sắp sụp đổ rồi”. Mỗi khi
thấy chương trình đó, họ thường tắt máy. Được hỏi tại sao, họ cho biết
không cần nghe cũng biết họ sắp nói gì rồi. Các ông ấy cứ lượm một số
chuyện tiêu cực trên các báo Công An Nhân Dân, Lao Động, Tuổi Trẻ... ở
trong nước đem ra đọc hay kể lại rồi nguyền rủa Cộng Sản và đi đến kết
luận: “Chúng
nó gian ác, chúng nó ngu dốt, chúng nó sai lầm, chúng nó tham nhũng,
chúng nó bán nước, chúng nó thất bại, chúng nói sắp sụp đổ rồi!” Mấy
ông ấy cứ nói và viết như thế đã 37 năm rồi mà có thấy gì đâu? Nếu Cộng
Sản mà chỉ như thế, làm sao nó đã cai trị được 54 năm?
Thật
ra, tài liệu tố cộng mà các “bình luận gia ta” đưa ra còn thua xa những
tài liệu mà chính phủ Ngô Đình Diệm đã đưa ra để phát động chiến dịch
tố cộng trong các năm 1956 và 1957. Thủ đoạn của Cộng Sản còn thâm độc
gấp trăm lần những điều họ tố cáo. Họ thường nhắc lại câu nói của Tổng
Thống Thiệu:"Đừng nghe những gì Công sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm.” Nhưng họ cũng như Tổng Thống Thiệu, không biết Mỹ và đảng CSVN đang làm gì, cứ tiếp tục nói và hành động theo cảm tính!
Trong
năm qua, LM DCCT Nguyễn Văn Khải từ Roma qua Orange County nói về Cộng
Sản. Ông là người tổ chức biểu tình chống việc Toà Thánh bổ nhiệm Đức
Cha Nguyễn Văn Nhơn làm TGM Hà Nội, bị Bề Trên Tổng Quyền triệu hồi qua
Roma, ông phải vượt biên qua Lào rồi qua Thái Lan, từ đó được cấp giấy
tờ đi Roma. Những điều ông nói về Cộng Sản đàn áp tôn giáo quá thô
thiển. Nếu Cộng Sản mà vớ vẩn như thế làm sao họ “quốc doanh hoá” được
cả Phật Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao Đài và Tin Lành? Ông nói về “Linh
mục chui” nghe cũng rất vớ vẩn, nó không gióng những gì chúng tôi đã đọc
và nghe các thầy đang được huấn luyện làm “linh mục chui” bị bắt giam
đã kể lại khi chúng tôi ở trại Thanh Cẩm. Thế nhưng kiểu
phát sóng như vậy đã đi đúng vào tần số mà một số các ông các bà muốn
nghe, nên LM Khải cũng kiếm được vài chục ngàn bỏ túi trước khi trở lại
Roma.
Nếu
câu chuyện chỉ như thế thì chẳng sao cả. Ở cái nước Mỹ tự do này, ai
muốn viết gì thì viết, nói gì thì nói, nói chó đực đẻ ra chó cái cũng
được, miễn đừng xúc phạm danh dự và đời tư của người khác thì thôi.
Nhưng câu chuyện không dừng ở đó. Những người tự xưng là “chống cộng”
còn buộc mọi người phải nói như họ, làm như họ, “xác tín” như họ và
không được dòm ngó “chỗ đứng” của họ, ai nói khác hay làm khác đều bị
chụp mũ ngay là tay sai cộng sản hay đặc công cộng sản nằm vùng. Do đó,
hầu hết những người có uy tín, thiện chí và khả năng trong cộng đồng đều
có nón cối trên đầu.
Hôm
10.12.2011, tôi đọc và bình luận trên truyền hình bản tin do Toà Đại Sứ
Mỹ ở Hà Nội công bố hôm 9.12.2011 cho biết thương mại Việt-Mỹ đã tăng
1.200% sau 10 năm. Bản tin nói rằng trao đổi thương mại giữa hai nước từ
tháng 12/2001 đến nay, tăng từ 1,5 tỷ lên tới hơn 20 tỷ USD. Khi tôi
vừa ra khỏi đài, một người ăn mặc rất lịch sự đã chận tôi và nói rằng
tuy Toà Đại Sứ Mỹ nói như vậy nhưng mình đừng đọc nguyên như vậy, vì tin
đó không có lợi cho việc chống cộng. Mình phải nói rằng mặc dầu có
những thuận lợi, nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam có nhiều quyết định sai
lầm, nên kinh tế Việt Nam sắp bị sụp đổ.
Trước
đây, đại diện cơ quan FBI đã họp báo và cho biết một số người đã gởi
đơn tố cáo đến họ và báo cáo một tờ báo ở San José là đặc công cộng sản
nằm vùng, vì tờ báo đó đã gọi thành phố Saì Gòn là thành phố Hồ Chí
Minh! Xem lại thì tờ báo đó có trích một đoạn báo trong nước, trong đó
có nói đến tên “thành phố Hồ Chí Minh”. Sau đó, FBI tuyên bố hủy bỏ
thông báo yêu cầu tố cáo và xin đừng gởi đơn tố cáo nữa.
Rất
nhiều người đã gọi đến các cơ quan truyền thông và ra lệnh không được
dùng chữ “Trung Quốc” mà phải dùng chữ “Trung Cộng”, mặc dầu họ không
biết hai chữ đó khác nhau như thế nào.
Lá
cờ vàng ba sọc đỏ là một trở ngại lớn nhất trong việc liên kết trong
ngoài. Lá cờ đó là biểu tượng của chính phủ VNCH, một chính phủ không
còn nữa. Ra hải ngoại, để lấy phiếu của người Việt, một số tiểu bang và
thành phố nơi có nhiều người Việt cư trú đã ra tuyên cáo công nhận lá cờ
đó là “biểu tượng của cộng đồng người Mỹ gốc Việt”.
Thế
nhưng một số người đã coi là cờ này như một thứ “totem”, một biểu tượng
cho chính nghĩa quốc gia, bắt buộc mọi người Việt phải công nhận và tôn
thờ nó.
Trong thực tế, có rất nhiều người Việt chống cộng không hề sinh ra hay chiến đấu dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, nay nếu bắt họ phải công nhận lá cờ đó, rất nhiều người sẽ không muốn đứng chung hàng ngũ với chúng ta.
Nói tóm lại, Công An Chống Cộng ở hải ngoại cũng khống chế các cơ quan truyền thông không khác gì Công An Nhân Dân ở trong nước,
mặc dầu họ luôn đòi Việt Nam phải tôn trọng quyền tự do ngôn luận. Cả
hai loại Công An đều rất sợ SỰ THẬT, ai dám nói sự thật sẽ có “biện
pháp” ngay. Thỉnh thoảng mới có một vài người xé rào, nhưng chỉ xé rào
trên các diễn đàn Internet, còn gởi tới các cơ quan truyền thông, chẳng
cơ quan nào dám phổ biến, vì không muốn bị phiền hà.
Nay
lực lượng Công An Chống Cộng đang bị suy yếu. Trong những tháng qua,
nhóm Vietweely nổi lên giữa thủ đô Little Saigon mà họ cũng chẳng làm gì
được, làm sao họ có thể chống Cộng Sản?
ĐI VÀO CHUYỆN BIỂN ĐÔNG
Trong
những năm gần đây, ở hải ngoại đã có rất nhiều cuộc hội thảo về Biển
Đông và nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, nhưng ảnh hưởng
gần như không có gì. Tại sao?
Ngoài việc người Việt chống cộng không thể ngồi lại với nhau vì những tranh chấp, quan niệm của họ về chủ quyền Biển Đông cũng đã quá lỗi thời. Buổi
hội thảo nào họ cũng đem tài liệu lịch sử của VNCH công bố trước đây ra
đọc. Tài liệu cho biết Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê
Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lý, hành
chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều
đình bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi. Với những tài liệu lịch sử như thế, họ xác quyết Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.
Nhưng
trong cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông tại Washington DC ngày
20.10.2011, Giáo sư Chu Hao đại diện Trung Quốc đã đưa ra một đống tài
liệu chứng minh Trung Quốc đã làm chủ Biển Đông 2000 năm trước, tức
trước Việt Nam rất xa. Tuy nhiên, ông Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc
Ban An Ninh Chính Trị thuộc ban thư ký ASEAN đã bác bỏ cách dẫn chứng
của Trung Quốc. Ông nói: "Tôi không cho rằng Công ước của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) công nhận lịch sử là cơ sở để tuyên bố chủ quyền".
Nếu
người Việt hải ngoại cũng tiếp tục chứng minh chủ quyến trên Biển Đông
theo kiểu của Trung Quốc như từ trước đến nay, cũng sẽ bị kê tủ đứng vào
họng như thế.
Như
chúng tôi đã nói, cách chứng minh chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa
của VNCH, Trung Quốc và CHXHCNVN trước đây vẫn căn cứ vào luật “Corpus Juris Civilis” của La Mã được ban hành giữa năm 527 và 565 đã quy định rằng một hải đảo nổi lên ở biển là vật vô chủ, nó trở thành tài sản của người chiếm hữu đầu tiên.
Sự
quy định này đã đưa tới những tranh chấp liên tục, nên hội nghị tại
Berlin năm 1885 gồm 13 nước Âu Châu và Hoa Kỳ, đã đưa ra Định Uớc Tổng
Quát của Hội Nghị Berlin (General Act of the Berlin Conference on West Africa) ngày 26.2.1885 nói về tiêu chuẩn xác định chủ quyền, đòi hỏi việc chiếm hữu
(1) “Phải có sự thông báo về việc chiếm hữu cho các nước ký định ước trên”,
(2)“Phải
duy trì trên những vùng lãnh thổ mà nước ấy chiếm hữu sự tồn tại của
một quyền lực đủ để khiến cho các quyền mà nước ấy đã giành, được tôn
trọng…”
Sau đó, Tuyên bố của Viện Pháp Luật Quốc Tế tại Lausanne (Thụy Sĩ) năm 1888 đã nhấn mạnh "mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên một danh nghĩa sở hưũ độc quyền … thì phải là thật sự tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”.
Từ những sửa đổi trên, quốc tế công pháp mới đòi hỏi phải hội đủ 4 điều kiện sau đây mới được coi là có quyền sở hữu chấp hữu (possessionary title):
(1) Sự chấp hữu phải công khai và minh bạch;
(2) Sự chấp hữu phải hoà bình;
(3) Sự chấp hữu phải liên tục và không gián đoạn
(4) Sự chấp hữu phải với tư cách là sở hữu chủ.
Hà
Nội đã cho các chuyên viên theo dõi các cuộc hội thảo quốc tế về Biển
Đông và nghiên cứu rất kỹ về quốc tế công pháp nên trong bài trả lời
trước Quốc Hội hôm 25.11.2011, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tìm cách
chứng minh Việt Nam “đã làm chủ trên thực tế, liên tục và hòa bình” hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trái lại, các nhà đấu tranh ở hải ngoại
cứ ôm đống tài liệu cũ của VNCH ra đọc mỗi khi viết hay có hội thảo, và
coi đó là chân lý, không cần biết quốc tế công pháp đã thay đổi như thế
nào.
Dĩ
nhiên, trong cộng đồng người Việt cũng có rất nhiều người thông thạo
quốc tế công pháp về luật biển. Có người đã trao đổi tài liệu với tôi,
nhưng khi bảo họ công bố thì họ từ chối với lý do: Luật biển theo quốc
tế công pháp khác với quan điểm của những người chống cộng, nên nếu mình
công bố ra, họ sẽ hô lên mình là tay sai cộng sản!
Không
cần biết quốc tế công pháp về luật biển, không cần biết Trung Quốc, Hoa
Kỳ và đảng CSVN đang làm gì, làm sao tranh đấu được?
VẠN SỰ GIAI DO “TIỀN ĐỊNH”
Khi
còn chiến tranh lạnh, CIA đã cùng với Thái Lan yểm trợ các phong trào
kháng chiến của người Việt để quậy phá không cho Cộng Sản ngồi yên. Sau
khi chiến tranh lạnh chấm dứt, năm 1991 toà án San José đã truy tố các
nhân vật lãnh đạo Mặt Trận Hoàng Cơ Minh 39 tội danh, gồm cả tội trốn
thuế và buôn bán thuốc phiện. Ba nhân vật cao cấp của Mặt Trận là Hoàng
Cơ Định, Nguyễn Kim Hườn và Nguyễn Tấn Bình (em vợ của ông Hoàng Cơ Định) đã
bị bắt. Tuy nhiên, sau khi FBI khuyến cáo Mặt Trận từ bỏ đấu tranh bằng
vũ lực và quay về đấu tranh chính trị, Mặt Trận đồng ý nên vụ án trên
đã bị hủy bỏ.
Sau chiến tranh lạnh, người Mỹ xử dụng “diễn biến hòa bình”
để thay đổi chế độ cộng sản, còn người Việt đấu tranh vẫn tiếp tục theo
đuổi chiến tranh lạnh nên bị lạc lõng. Những kế hoạch sau đây của Mỹ
làm đều bị người Việt đấu tranh chống đối, nhưng Mỹ vẫn làm: Bỏ cấm vận
cho Việt Nam, thiết lập bang giao với Việt Nam, ký hiệp ước thương mại
với Việt Nam, đưa Việt Nam vào WTO, v.v. Người Việt cũng đành im lặng
thôi.
Tháng
6 năm 2007, Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết đến thăm Hoa Kỳ, Tổng Thống Bush
có mời đại diện các cộng đồng người Việt vào hỏi ý kiến đâu? Ông chỉ
mời nhóm ăn “fund” và ăn “grant” vào chỉ thị gì đó. Họ ra về êm re!
Nay
xẩy ra chuyện tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, Mỹ cũng không cần
biết người Việt đấu tranh muốn gì. Họ đang đưa ra những tuyên bố có vẽ
mạnh mẽ để trấn an các nước Đông Nam Á, nhưng ít ai tin. Biết đâu một
buổi chiều đẹp trời nào đó, Mỹ lại ngầm bán Biển Đông cho Trung Quốc như
đã bán Miến Nam Việt Nam trước đây để đổi một số quyền lợi nào đó thì
sao? Do đó, nước nào cũng lo “thủ”. Cách tốt nhất là “đu dây”!
Nói tóm lại, đúng như cha ông chúng ta đã nói: “Vạn sự giai do tiền định”. Nhưng “Tiền Định” ở đây không phải là Ông Trời, mà là Anh Hai Chống Cộng của người Việt hải ngoại.
VẪN TIẾP TỤC SUY NGHĨ
Chuyện
“tàn sát” nhau để tranh giành những địa vị hay quyền lợi nhỏ nhen không
phải chỉ xẩy ra trong các tổ chức cộng đồng lớn như Orange County,
Houston, San José, Washington State... mà còn xẩy ra trong các hội ái
hữu, hội đồng hương, hội từ thiện..., và cả trong các đoàn thể tôn giáo!
Cộng Đồng Công Giáo VN tại Orange County cũng có một thời đánh nhau để
tranh chức chủ tịch, kiện lên đến Giám Mục giáo phận.
Nhóm Giao Điểm Công Giáo tuy ra tuyên cáo lung tung, nhưng cũng chẳng làm được trò trống gì ngoài viết bài đả kích các Giám Mục Việt Nam, buộc họ phải làm công cụ cho Mỹ để “chống cộng” như Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang trước đây.
Còn
cá nhân tìm cách hạ nhau là “chuyện thường ngày ở huyện”. Thấy một
người có uy tính hơn mình xuất hiện nơi công cộng là nóng mặt lên rồi.
Người nào đó ra một tuyên ngôn tuyên cáo hay viết một quyển sách nổi hơn
mình là phải “tùng xẻo” ngay.
Vào
các nhà sách Việt ngữ, chúng ta thấy có rất nhiều hồi ký của các cựu tù
nhân chính trị, nhưng ít ai đọc, vì những chuyện họ viết, mọi người gần
như đã biết hết rồi. Nhưng khi có một cuốn hồi ký của nữ cựu tù nhân
chính trị ghi lại những chuyện mà cô là nạn nhân hay đã chứng kiến...
lại được nhiều người mua đọc. Máu ghen lại nổi lên: Không lẽ con
bé này lại nổi hơn ta sao? Đánh cho bỏ mẹ nó! Rất nhiều chuyện bịa đặt
được viết ra để hạ cô ta. Độc địa hơn cả, một người tự xưng cùng ở tù
với cô ta tại Thừa Thiên và Tiên Lãnh, đã viết một bài khá dài dưới đều
đề “Tôi Vượt Biển Cùng Với Tác Giả «Đóa Hồng Gai», tố
cáo cô này đã giựt vàng của ông và làm nhiều chuyện rất ác ôn. Trong
cuộc họp báo, cô ta cho biết cô không hề quen biết ông ta, không hề đi
vượt biên và không hề bị tù ở Thừa Thiên. Cô bị bắt vào tháng 9/1976 vì
làm cho cơ quan Phượng Hoàng. Khi bị giam cô đã bị đánh và trở thành tàn
phế. Cô đến Mỹ theo diện H10 vào tháng 11/1992. Những người quen biết
cô nói họ không thể tưởng tượng được về những chuyện bịa đặt này.
Trước
đây toà án Mỹ không quan tâm đến chuyện người Việt chụp nón cối lên
nhau, nhưng trong những năm gần đây toà đã PHẠT ĐẾN BẠC TRIỆU NHỮNG VỤ
CHỤP NÓN CỐI, như các vụ ở Orange County, Colorado, Minesota, Washington
State, Texas, và mới đây ở ngay Washington DC!(Chúng tôi sẽ tường thuật sau).
Trong bài “Người Việt ‘xấu xa’”, Dan Huynh có kể lại câu chuyện như sau:
“Có
hai ông đi bắt cua với nhau, họ đem theo hai thùng đựng cua để phân
loại cua Mỹ và cua Việt, khi bắt gần đầy thùng một người vội kêu người
bạn đậy nắp thùng và nói: “Anh chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ thôi khỏi cần đậy nắp thùng cua Việt Nam!” Người bạn kia ngạc nhiên và hỏi: “Tại sao lạ vậy?”. Anh kia giải thích: “Con
cua Mỹ nó khác hẳn cua Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau để cho
các con khác bò lên người để ra khỏi miệng thùng, còn cua
Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên cạnh níu chân kéo
xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy nắp!”
Huyền
thoại trong lịch sử Việt Nam cũng đã kể lại chuyện bà Âu Cơ sinh được
100 con, 50 con lên núi, 50 con xuống biển... Cho nên nghĩ đến việc “hợp
tác trong ngoài” để chống ngoại xâm vẫn chỉ là chuyện giấc mơ.
Ngày 10.1.2012
Lữ Giang
-
Tâm Trạng Thái Tử Đảng Việt Nam
Trần Đông Đức
Thu, 01/12/2012 –Lời
Giới Thiệu: Hồng Thuận là một nhà tranh đấu nhân quyền trẻ ở Mỹ Nhiều
người biết đến Hồng Thuận qua các hoạt động về nước. Chính cô là người
đứng giữa Hà Nội với những khẩu hiệu Hoàng Sa và Trường Sa rất có ấn
tượng. Cô cũng từng lên tận Tây Nguyên chụp hình về các mỏ Bauxite do
Trung Quốc khai thác tạo nên dư luận lớn trong và ngoài nước sau này.
Trong quá trình hoạt động sôi nổi, cô đã đi tận cùng các vùng sâu vùng
xa của Việt Nam đưa ra ngoài nhiều hình ảnh đặc biệt giúp cho dư luận
thấy rõ tận cùng hang cùng ngõ hẻm của non nước Việt Nam. Cô cũng lên
tận biên giới Việt Trung vào các bản mường để lập tổ chức chống nạn buôn
phụ nữ. Đối với tinh thần ý chí của người trẻ tuổi, cô làm nhiều việc
thật là đặc sắc.
Chuyện
đã xảy ra, trong một lần hoạt động say sưa nào đó, cô bị chụp tấm hình
đang đứng trình bày cho các chị em phụ nữ về nạn buôn người, đứng làm
sao mà gần di tượng bán thân của ông Ké trong một hội trường xã. Thế là,
ống kính lọt vào, hình ảnh xuất ra, danh tính và đảng tịch của Hồng
Thuận tiểu thư bấy lâu hoạt động qua các tổ chức NGO bị lộ và lan truyền
nhanh như chớp điện. Truyền thông Bolsa quyết không tha cho cổ vì nói
rằng hoạt động như thế là quá nhẹ dạ và đã bị lợi dụng hình ảnh, bị đứng
dưới khẩu hiệu tuyên truyền. Có người còn chỉ trích cổ bị mất lập
trường và nhiều thứ còn hơn thế nữa. Đường về Việt Nam hoạt động như thế
coi như là chấm dứt vì công an Việt Nam đã biết mặt. Nghĩ cũng oan,
nhập vai hoạt động đạt thế mà cũng bị bắt bẻ lập trường à?
Nhưng ở Hồng Thuận còn có nhiều góc cạnh khác. Cô qua Mỹ từ lúc 7 tuổi, trình độ tiếng Việt chỉ mới lớp hai tiểu học nhưng lăn vào chuyện đất nước Việt Nam được như thế là rất bản lĩnh. Nhiều em qua Mỹ bằng độ tuổi này là rớt giọng, tiếng Việt đem trả lại cho mẹ đẻ.
Nhưng ở Hồng Thuận còn có nhiều góc cạnh khác. Cô qua Mỹ từ lúc 7 tuổi, trình độ tiếng Việt chỉ mới lớp hai tiểu học nhưng lăn vào chuyện đất nước Việt Nam được như thế là rất bản lĩnh. Nhiều em qua Mỹ bằng độ tuổi này là rớt giọng, tiếng Việt đem trả lại cho mẹ đẻ.
Vượt
qua nhận thức khác biệt về cương lĩnh hoạt động và xu hướng đảng phái
thì không phải dễ dàng để đào tạo nên một tính cách xông pha nhập cuộc
như thế. Hoạt động như kiểu Hồng Thuận dưới thời nào cũng là rất quý.
Đúng không?
Hồng
Thuận còn có biệt danh là Trinity Infinity với sức lôi cuốn về mặt văn
hóa phổ thông trên mạn - thích ngao du bốn biển, thưởng ngoại sơn hà,
nhìn vào ai ai cũng thích. Nhiều tờ báo ở Bolsa, dù không thích đường
hướng và đảng tịch Việt Tân của cổ nhưng cứ đưa lên hình bìa các hình
ảnh cô đang vui chơi nhảy múa, và phong thái bồ đào mỹ tửu - không say
không về. Mấy tấm hình Hồng Thuận vui chơi cùng bạn bè là cho lên trang
bìa, rất đắt hàng.
Chuyện
xảy ra cách đây một tuần, ở trong một tiệm cà phê Starbucks, một nhóm
ký giả Bolsa thấy Hồng tiểu thư đang ngồi nhâm nhi ly cà phê buổi tối,
có người ký giả Viet Weekly hay Viet Star (facebook Hồng Thuận) mừng quá
bèn hô lên "bọn anh mà gặp được em là như gặp được vàng vậy!". Chắc là
nhóm ký giả này định phỏng vấn "Hồng Thuận vì sao chiếc tàu Vinaline
Queen nó chìm kiểu gì mà nhanh thế hả em?". Ở Việt Nam hiện nay, Việt
Tân, đảng phái của Hồng Thuận đang theo bị xếp vào tổ chức khủng bố.
Theo
đường truyền facebook thì hôm đó em Hồng Thuận bận quá nên không trả
lời ký giả mà chỉ ngồi im trạng thái. Tìm hiểu một lúc thì mới biết, em
ấy đang viết một bài chính luận đầu tiên mang tính trĩu nặng tâm tư về
hiện tượng thái tử đảng ở Việt Nam. "Trời đất! Giỏi quá ta ơi!. Cho anh
xin bài của em đi! anh đăng trên blog RFA xem người đẹp viết văn, tâm
trạng nó như thế nào?"
Quý
hoá! quý hóa! Bài văn này vừa có bối cảnh sáng tác, vừa có ấn tượng bắt
đầu. Hồng Thuận năm nay mới 22 tuổi, biết em ấy cách đây cũng gần 10
năm từ khi người đẹp bắt đầu đi vận động chính giới từ Washington DC tới
New York đòi hỏi nhân quyền cho Việt Nam. Công nhận, em Hồng Thuận gia
nhập phong trào này sớm quá so với tuổi đời.
Thế
rồi, cũng như nhiều người khác không theo đảng phái Việt Tân nhưng có
sự hiếu kỳ về phương diện thành viên. Hồng Thuận là một trường hợp, một
sự điển hình mang tính đại diện cao của phong trào đấu tranh dân chủ ở
hải ngoại. Trước đây phía nhà cầm quyền Việt Nam thường có cách ngồi
phán cứ như là đúng rồi rằng phong trào tranh đấu chỉ còn lại thế hệ mấy
ông già, không bao lâu sẽ chết. Gặp trúng em Hồng Thuận rồi chắc là
phải đợi sang thế kỷ thứ 22 rồi.
Định viết vài dòng về tác giả mà đâm ra sa đà, thôi thì giới thiệu bài viết của Hồng Thuận vậy.
Trần Đông Đức giới thiệu
Bồ Đào Mỹ Tửu nhé!
4C Cũng Biết Cảm
Các
bạn hãy tưởng tượng một câu chuyện thuở xa xưa nào đó - có 100 người
bạn nhưng chỉ có một cái bánh để chia nhau ăn. Một bạn cắt cho mình một
phần bánh thật to, còn 99 bạn khác đành phải chia nhau phần còn lại, nên
mỗi người chỉ được một miếng nhỏ, đủ để thưởng thức mùi hương chiếc
bánh.
Đó
là hình ảnh của xã hội Hoa Kỳ hiện nay. 1% người giàu có thu nhập tối
thiểu là 520,000 USD một năm, trong khi 99% số người còn lại, đại đa số
có thu nhập từ 17 ngàn đến 60 ngàn USD một năm. Nếu tính theo giá trị
ròng (bao gồm tài sản, chứng khoán v.v…) thì nhóm 1% có tài sản trung
bình là 14 triệu USD (cho mỗi hộ) trong khi nhóm 99% thì chỉ có 60 ngàn
USD. Cũng 1% số người giàu này đang làm chủ 34.6% tài sản tư trên toàn
quốc.
Không có mấy người Mỹ biết về điều này.
Trong
cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua, chính phủ Mỹ cũng như chính phủ các
nước tư bản phát triển đã bỏ ra hàng ngàn tỷ để hỗ trợ cho các ngân
hàng, các công ty địa ốc khỏi sụp đổ. Nhưng cũng chính trong thời gian
này, giá trị tài sản ròng của nhóm 1% vẫn cứ tăng lên.
Sự chênh lệch giàu nghèo càng ngày càng nới rộng và khoảng cách giữa hai nhóm người trong xã hội Mỹ ngày càng cách xa hơn.
Phong
trào Chiếm Đóng Phố Wall (OWS) đã bùng nổ trong hoàn cảnh xã hội như
thế với những công dân Mỹ đủ mọi thành phần, nhưng đặc biệt là những
người trẻ, tự nhận mình ở trong nhóm 99%.
Bắt
đầu vào giữa tháng 9 năm 2011, hơn một chục thanh niên đem lều ra cắm
trại và ngủ đêm tại công viên Zuccotti ở thành phố New York để biểu tình
phản đối các ngân hàng Mỹ làm ăn thiếu lương tâm. Chỉ vài tháng sau đó,
phong trào này đã tác động mạnh đến các thành phố khác từ đông sang tây
và lan tràn ra đến ít nhất 82 quốc gia.
Có
thể nói phong trào OWS đã tự sinh ra, tự phát triển, nhưng không trở
thành một tổ chức chính trị hay xã hội với một đường lối rõ ràng. Phong
trào không đưa ra một khẩu hiệu nào chống hệ thống kinh tế tư bản hay
một kiểu đấu tranh giai cấp mới, mà chỉ nêu lên những khát vọng mang
tính ôn hòa về sự công bằng xã hội và kinh tế. Họ cũng không kêu gọi lật
đổ chính phủ hay xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Họ quan tâm đến những bất
công và mãnh liệt mong muốn giải quyết hố ngăn cách giàu nghèo trước
mắt.
Chính
vì thế mà phong trào OWS được sự ủng hộ của nhiều tầng lớp xã hội như
giới điện ảnh, thể thao, chính trị… Ngay cả Tổng thống Barack Obama cũng
lên tiếng đứng về phía của nhóm 99%. Warren Buffet, một trong những nhà
đầu tư giàu nhất thế giới thì nói rằng: “Đừng nâng niu những người siêu
giàu nữa!"
Gần
đây, điều đáng ngạc nhiên là phong trào OWS còn được sự ủng hộ của
những con cháu của nhóm 1%. Một trang blog trên hệ thống tumblr mang tên
"Chúng tôi là nhóm 1%. Chúng tôi đứng cùng với nhóm 99%." (http://westandwiththe99percent.tumblr.com/) được một số những người trẻ thuộc thành phần 1% lập ra để lên tiếng cho những bất công xã hội mà họ nhìn thấy trước mắt.
Tại
đây chúng ta sẽ thấy hình của những con cháu các nhà tài phiệt thế giới
cầm những tấm bảng bày tỏ tình đoàn kết với những người kém may mắn hơn
mình.
"Tax
me more - Hãy đánh thuế tôi cao hơn" hoặc "I have more money than I
know what to do with - Tôi có quá nhiều tiền để biết phải tiêu thế nào"
là một số trong những khẩu hiệu mà giới trẻ 1% đưa ra để bày tỏ sự ủng
hộ của mình với phong trào OWS.
Dĩ
nhiên, đây không phải là bản chất đặc thù của tuổi trẻ Mỹ, hay của con
cái giới 1% tại Mỹ vì tuổi trẻ ở đâu cũng thế. Họ luôn luôn là những
người không chấp nhận bất công và sẵn sàng dấn thân vì lợi ích chung.
Vào
cuối thập niên 80 khi cách mạng Đông Âu bùng nổ, có không ít con cái
các quan chức cộng sản cũng đã xuống đường hòa mình vào những đoàn biểu
tình của quần chúng. Hay như tại Serbia trong những năm 90, con cháu
của nhiều tướng lãnh công an có mặt trong các cuộc xuống đường đã khiến
cho họ không thể ra lệnh bắn vào đoàn người biểu tình. Và gần đây tại
Bắc Phi vào đầu năm 2011, chính một số con cháu của những người cầm
quyền đã góp phần thuyết phục các đơn vị quân đội án binh bất động,
không nổ súng vào dân chúng.
Điều
này làm tôi nghĩ đến các “Con Cháu Các Cụ” (4C) ở Việt Nam. Khi nói tới
thành phần 4C tại Việt Nam thì có lẽ người ta sẽ nghĩ ngay đến những
quý tử ăn chơi quậy phá như con trai tướng công an Nguyễn Đức Nhanh, hay
bất tài vô dụng như con ông Nông Đức Mạnh, hoặc giàu sang tột bậc như
con gái ông Nguyễn Tấn Dũng, người mà tin đồn cho rằng đang nắm trong
tay hàng trăm triệu đô la. Cũng có những 4C cha truyền con nối đang giữ
những chức vụ quan trọng trong chính quyền. Nhưng đó chỉ là một thành
phần nhỏ.
Phần
lớn các 4C có cơ hội đi học nước ngoài, có dịp tiếp xúc với một thế
giới khác hẳn với cái thế giới mà họ biết ở quê nhà. Từ đó, chắc chắn họ
nhìn thấy được mức độ tụt hậu của nước mình càng ngày càng xa so với
các nước láng giềng mà trước đây đã từng xếp hàng sau Việt Nam về mức
phát triển như Thái Lan, Malaysia, Indonesia.
Dù
có nhiều khác biệt về tính cách và phong thái giữa các 4C ở Việt Nam và
con cái của những người giàu có trong xã hội Tây phương đã có tinh thần
trách nhiệm với xã hội một cách tự giác, nhưng lòng nhân ái vốn là
thước đo để tạo nên phẩm chất này. Trong một thời đại mà mọi thông tin
đều không thể giấu giếm, những người trẻ Việt Nam 4C này nghĩ gì về
những bản tin hàng chục các cô gái quê Việt Nam phải trần truồng cho một
vài người đàn ông ngoại quốc săm soi chọn lựa như chọn một món hàng?
Chắc chắn họ cũng sẽ căm hận khi biết cảnh các cô dâu Việt Nam phải làm
vợ cho cả gia đình nhà chồng, hoặc bị hành hạ, đánh đập thừa sống thiếu
chết trên đất Đài. Chắc họ cũng biết đau khi thấy cảnh ngư dân Việt bị
bắn chết trên ngư trường của chính mình mà thân nhân phải đóng tiền cho
“người lạ” để chuộc xác về…
Hơn
ai hết, những 4C này hẳn cũng đọc trên báo chí nhà nước đã bị bẻ cong
ngòi bút sản xuất và thừa biết đâu là những bài báo sai sự thật và đâu
là những “quỉ biện” như kiểu nói: tàu Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt
Nam là “yêu cho roi cho vọt!"
Ngày
nay, những trái tim Việt Nam trẻ này đều biết rất rõ là nếu họ không
làm gì hết thì lòng danh dự, sự tự trọng, tình yêu đất nước trong họ sẽ
chai đá và chết dần mòn để rồi chết hẳn khi họ lên ngồi trên chiếc ghế
quyền lực do cha mẹ họ để lại.
Liệu
những người bạn trẻ 4C Việt Nam có muốn góp một bàn tay cứu vãn sinh
mệnh dân tộc, hay quan trọng hơn, cứu chính phần nhân bản đáng quý còn
đang sống trong lòng họ không?
Hồng Thuận
Tài liệu nghiên cứu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét