Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
Thứ
nhất, chiến lược phải đưa ra được các mục tiêu đáp ứng yêu cầu thiết
thân của tuyệt đại đa số dân chúng để họ có thể mơ thấy một cuộc sống
khác hẳn bây giờ trong khoảng một thập niên sắp tới.
Thứ
hai, trong thời đại hội nhập ngày càng sâu vào thị trường khu vực và
thế giới, chiến lược phải xuất phát từ sự đánh giá đúng đắn về vị trí
hiện tại của kinh tế Việt Nam và những thách thức cũng như những mặt
thuận lợi của ta.
Thứ
ba, chiến lược phải tạo được niềm tin trong dân là các chính sách, biện
pháp để đạt các mục tiêu phát triển phải có tính khả thi cao đồng thời
cho người dân thấy bộ máy hành chính và đội ngũ quan chức sẽ đủ năng lực
và trách nhiệm để thực hiện các chính sách, biện pháp đó.
Từ nhận định này, theo tôi, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 cần có những nội dung sau:
1. Nhận định về giai đoạn hiện nay của kinh tế Việt Nam
Sau
gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với
10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện
nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Tuy
nhiên trong thời gian qua cũng nảy sinh sự chênh lệch ngày càng lớn
trong việc phân phối thành quả của đổi mới.
Sự chênh lệch đó quá lớn, ngoài dự tưởng của lý luận về kinh tế phát triển và của kinh nghiệm các nước đi trước. Đối với người có thu nhập thấp, thành phần chiếm đa số trong dân, ngoài việc lo cái ăn, cái mặc, cái ở hàng ngày, gánh nặng chi phí về giáo dục và y tế kéo mức sống của họ xuống thấp hơn nữa.
Mặt
khác, việc làm của con em của những người có thu nhập thấp sau khi ra
trường cũng là mối lo, nhất là vẫn còn hiện tượng phải có quan hệ, phải
có những điều kiện tiêu cực khác mới xin được việc làm. Người có thu
nhập trung bình cũng trực diện với những lo lắng về gánh nặng giáo dục, y
tế, việc làm, tuy ở một mức độ nhẹ hơn.
Nhìn
Việt Nam trong bối cảnh của vùng Đông Á, ta thấy thành quả phát triển
của mình còn rất khiêm tốn. Từ khi có đổi mới đến nay, khoảng cách phát
triển giữa Việt Nam so với Thái Lan chẳng hạn có rút ngắn nhưng không
đáng kể (GDP đầu người theo giá trị thực của Thái Lan gấp gần năm lần
Việt Nam vào năm 1984, đến năm 2008 cũng còn tới bốn lần) và so với
Trung Quốc thì khoảng cách ngày càng mở rộng (GDP đầu người của Trung
Quốc chỉ hơn Việt Nam 30% vào năm 1984 nhưng vào năm 2008 Trung Quốc cao
gấp ba lần Việt Nam).
Rõ
ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội
mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị
trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì
các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không
bất lợi so với các nước lân cận.
Trong
10 năm tới thách thức lớn nhất của Việt Nam là gì? Theo tôi là Việt Nam
sẽ trực diện hai cái bẫy mà nếu không có nỗ lực vượt qua thì kinh tế
Việt Nam sẽ không phát triển bền vững, sẽ bước vào giai đoạn trì trệ dù
khả năng phát triển như hiện nay sẽ kéo dài một thời gian nữa.
Thứ nhất là
khả năng xảy ra cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do và cái bẫy này đang
to ra và mạnh hơn dưới áp lực của sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tại vùng
Đông Á lợi thế so sánh của các nước chuyển dịch nhanh, thúc đẩy bởi sự
trỗi dậy của Trung Quốc.
Nhiều
nước nỗ lực tăng hàm lượng kỹ năng, công nghệ, tri thức trong sản phẩm
để duy trì vị trí hiện tại, để thúc đẩy phân công hàng ngang với Trung
Quốc ở một thứ nguyên cao hơn. Trong khi đó lợi thế so sánh của Việt Nam
vẫn là nguyên liệu, nông lâm thủy sản và hàng công nghiệp dùng nhiều
lao động giản đơn. Hơn nữa, hàng công nghiệp xuất khẩu phải phụ thuộc
vào nhập khẩu linh kiện và các sản phẩm trung gian khác.
Đặc
biệt hiện nay cơ cấu mậu dịch giữa Việt Nam và Trung Quốc có tính chất
Bắc Nam, nghĩa là quan hệ giữa nước tiên tiến và nước chậm tiến, trong
đó Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu thiên nhiên kể cả sản phẩm sơ chế và
nhập khẩu hàng công nghiệp.
Dưới
trào lưu mậu dịch tự do tại Đông Á, đặc biệt dưới tác động của Hiệp
định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc, trong đó từ tháng 1-2015 Việt
Nam sẽ cắt giảm thuế đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, sản phẩm rẻ
từ Trung Quốc sẽ ào ạt vào thị trường Việt Nam. Ngoài ra, Khu mậu dịch
tự do ASEAN (AFTA) đã gây ra hiệu quả là nhiều công ty đa quốc gia đang
có khuynh hướng xem Việt Nam là thị trường tiêu thụ và tập trung sản
xuất hàng công nghiệp tại các nước ASEAN khác.
Trong
khuôn khổ AFTA, đối với hầu hết các mặt hàng công nghiệp, Việt Nam đã
cắt giảm thuế xuống còn dưới 5% và từ năm 2015 sẽ không còn thuế (0%) để
tham gia thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN. Nguy cơ của hiện tượng tự
do hóa mậu dịch này là cơ cấu lợi thế so sánh của Việt Nam có thể sẽ bị
cố định hóa, không thể chuyển dịch lên cao hơn. Tôi gọi đây là cái bẫy
của trào lưu mậu dịch tự do mà Việt Nam sẽ trực diện trong vài năm tới.
Nếu không có chiến lược, biện pháp mạnh mẽ để thoát khỏi cái bẫy này,
Việt Nam sẽ mãi mãi là nước sản xuất và xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm
thủy sản và hàng công nghiệp dùng lao động giản đơn.
Thứ hai là
cái bẫy thu nhập trung bình. Trong nước, vấn đề này gần đây được bàn
đến nhiều nhưng chưa thấy các nhà vạch chiến lược đặt thành một bức xúc
thật sự để có chính sách đối phó cụ thể. Trong Dự thảo Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011-2020 cũng không đề cập đến điểm này. Việt
Nam vừa đạt mức thu nhập trung bình thấp, và đến khoảng năm 2020 Việt
Nam cũng có lẽ sẽ đạt mức thu nhập trung bình cao. Vấn đề là sau đó Việt
Nam có thể tiếp tục phát triển bền vững để trở thành nước có thu nhập
cao trong một, hai thập kỷ sau đó không.
Trong
lịch sử kinh tế thế giới, rất ít nước đã vượt qua được cái bẫy này. Về
mặt lý luận cái bẫy này cũng đã được chứng minh. Từ kinh nghiệm các nước
và từ phân tích lý luận ta thấy khả năng Việt Nam sa vào bẫy thu nhập
trung bình rất cao. Con đường thoát khỏi cái bẫy này tùy thuộc nỗ lực
trong giáo dục đào tạo, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và trong
việc xây dựng một thể chế chất lượng cao liên quan đến hiệu suất của bộ
máy hành chính, quan hệ lành mạnh và có hiệu quả giữa Nhà nước và thị
trường, liên quan đến việc xây dựng một xã hội pháp trị.
2. Mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020
Mục
tiêu không nên dàn trải mà tập trung vào vài trọng điểm có tính cách
chiến lược. Các trọng điểm đó được thực hiện thành công sẽ lan tỏa ra
các mặt khác và do đó các mục tiêu khác cũng sẽ đạt được. Ngoài ra, trừ
một vài trường hợp đặc biệt, không nên đưa ra chỉ tiêu số lượng và xem
đó như tiêu chí phải đạt được (như tốc độ tăng GDP), mà nên trực tiếp
nhắm vào việc giải quyết các vấn đề cốt lõi đã nêu. Tốc độ tăng trưởng
sẽ là kết quả của các nỗ lực này.
Từ nhận định trên, theo tôi, chiến lược nên đưa ra ba mục tiêu sau:
a.
Toàn dụng lao động, đến năm 2020 trên căn bản không còn ai phải lo
không có việc làm, không còn phụ nữ muốn lấy chồng người nước ngoài vì
lý do kinh tế, không có ai muốn đi lao động nước ngoài một cách bất đắc
dĩ vì không có một chọn lựa nào khác.
b. Trong trung hạn (đến năm 2015), trên căn bản ngăn ngừa được cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do.
c. Trong trung và dài hạn phải chuẩn bị đủ các tiền đề để ngăn ngừa được cái bẫy thu nhập trung bình.
Chỉ
tiêu định lượng (tốc độ phát triển, GDP đầu người...) không cần đưa ra
nhưng các mục tiêu nói trên được thực hiện sẽ cho thấy kinh tế phát
triển ở tốc độ cao và bền vững. Các chỉ tiêu định lượng thuộc loại này
có thể đưa ra nhưng là để tham khảo chứ không phải là mục tiêu phải đạt
cho được.(TBKTSG) - Một chiến lược phát triển dài hạn được toàn dân quan tâm và có tính cách như một tuyên ngôn của đảng cầm quyền về đường hướng phát triển đất nước phải hội đủ một số điều kiện...
3. Chính sách, biện pháp để đạt các mục tiêu
Có
ba cụm chính sách liên quan mật thiết với nhau: Thứ nhất, trong ngắn và
trung hạn phải tạo ra một khí thế đầu tư mạnh mẽ và hiệu quả, kể cả thu
hút đầu tư từ nước ngoài, để vừa liên tục tạo ra công ăn việc làm, vừa
sớm xác lập vị trí của một nước sản xuất hàng công nghiệp. Với các chính
sách này, Việt Nam sẽ tránh được cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do,
tránh áp lực từ sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Thứ hai, chấn hưng giáo
dục, phát triển khoa học, công nghệ bằng các chính sách cụ thể, quyết
liệt, để bảo đảm cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, và đưa trình
độ khoa học và công nghệ của đất nước ngang tầm với nhiều nước trong
khu vực, chuẩn bị chuyển sang nền kinh tế tri thức.
Thứ
ba, hiệu suất hóa bộ máy hành chánh, đưa ra biện pháp cụ thể về chế độ
thi tuyển quan chức các cấp và cải cách tiền lương, và có cơ chế cụ thể
xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ. Cụm chính sách thứ hai và thứ ba
là những điều kiện cần để tránh cái bẫy của nước thu nhập trung bình.
Dưới đây nói thêm về ba cụm chính sách này.
a. Tạo ra khí thế đầu tư mạnh mẽ và hiệu quả
Cải
thiện triệt để môi trường đầu tư, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp
cận các nguồn lực như vốn, đất, thông tin, kèm theo các chính sách về
thuế, tín dụng để khuyến khích các dự án đầu tư có chất lượng cao; cần
xây dựng các khu công nghiệp có chất lượng, cải thiện thị trường lao
động để thu hút FDI. Cải thiện thị trường vốn và thị trường đất đai để
thúc đẩy đầu tư trong nước, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Đây cũng là các chính sách cụ thể để hoàn thiện cơ chế thị trường.
Cần
đưa ra các biện pháp quyết liệt để giảm chi phí hành chánh của doanh
nghiệp. Chí phí hành chánh chủ yếu là phí tổn cho các thủ tục hành
chánh, bao gồm cả chi phí cụ thể và thì giờ bỏ ra để có giấy phép mở
rộng hoạt động, để đóng thuế, để nhận hàng ở kho bãi…
Vấn
đề nầy không mới và Nhà nước cũng đã có một nỗ lực cải thiện. Nhưng
tình trạng không thay đổi bao nhiêu, nhất là so sánh với các nước thì
thấy đây vẫn còn là yếu tố lớn làm giảm tinh thần khởi nghiệp của doanh
nghiệp trong nước và làm xấu môi trường đầu tư đối với doanh nghiệp nước
ngoài. Ở lĩnh vực này nên đưa ra chỉ tiêu định lượng (cải thiện vị trí
của Việt Nam trong các đánh giá quốc tế về môi trường đầu tư, về sự minh
bạch của chính sách, về tham nhũng,...) và thực hiện cho bằng được
trong 3-4 năm trước mắt.
Nhiều
mặt hàng nông sản phải xuất khẩu ở dạng thô vì để chế biến phải có vốn
đầu tư dài hạn nhưng nông dân và doanh nghiệp nhỏ và vừa hầu như không
thể vay vốn này. Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp cũng
vậy. Họ không có vốn để tân trang thiết bị, mua công nghệ mới. Các
doanh nghiệp tư nhân có xu hướng phụ thuộc vào nguồn vốn không chính
thức (vốn tự tích lũy hoặc vay của họ hàng, bạn bè). Nguyên nhân có tình
trạng này là do các ngân hàng quốc doanh có khuynh hướng chỉ cho vay ưu
đãi đối với doanh nghiệp quốc doanh, nhất là các doanh nghiệp lớn. Một
nguyên nhân nữa là khả năng thẩm định dự án tại các ngân hàng không cao
nên họ ngại cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay.
Cần
có chính sách kiểm tra, phân tích tình hình cho vay vốn của các ngân
hàng quốc doanh và có đối sách cụ thể. Bồi dưỡng cán bộ có khả năng thẩm
định dự án đầu tư, khả năng thẩm định độ rủi ro của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa cũng quan trọng. Phần lớn các biện pháp, chính sách để hoàn
thiện thị trường vốn nầy cần thực hiện trong 2-3 năm trước mắt.
Đối
với hoạt động của doanh nghiệp, thị trường lao động hiện nay có vấn đề
không ăn khớp giữa cung và cầu: Ở các khu công nghiệp tại các thành phố
lớn bắt đầu có hiện tượng thiếu lao động, doanh nghiệp khó tuyển dụng số
lao động cần thiết, mặc dù ở nông thôn vẫn còn lao động dư thừa. Nguyên
nhân là do thiếu thông tin cung cầu lao động, thiếu các dịch vụ liên
quan đến lao động như trung tâm giới thiệu việc làm chẳng hạn. Một
nguyên nhân nữa là chất lượng lao động (trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn, khả năng tiếp thu tri thức về hoạt động của doanh
nghiệp,...) không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Biện
pháp để cung cấp lao động một cách ổn định phải bao gồm chính sách ngắn
hạn và chính sách trung dài hạn. Trong ngắn hạn, Chính phủ cần chỉ đạo
các địa phương (tỉnh, huyện) liên kết và phối hợp với các khu công
nghiệp để xây dựng một cơ sở dữ liệu về cung cầu người lao động và thực
hiện các hợp đồng môi giới và giới thiệu công việc. Chính quyền địa
phương phải tích cực lập các văn phòng môi giới lao động tại các khu
công nghiệp, theo dõi động thái về nhu cầu lao động và tổ chức cung cấp
lao động tại địa phương mình.
Trong
trung và dài hạn, cần có chính sách đẩy mạnh đào tạo trình độ cao đẳng
và chuyên môn trung, cao cấp như khả năng thao tác máy móc, sửa chữa máy
móc, tri thức về quản lý nhân sự, kế toán, tài chính, tiếp thị,… và
khuyến khích các cơ sở đào tạo liên kết với doanh nghiệp để thực hiện
các chương trình liên kết đào tạo và sử dụng lao động. Chính sách thuế
để thúc đẩy quá trình này cũng nên được áp dụng. Chẳng hạn, xây dựng chế
độ lấy chi phí đào tạo nhân viên của các doanh nghiệp để khấu trừ thuế
(các doanh nghiệp lựa chọn nhân viên của mình để cử đến các trường cao
đẳng, trường chuyên môn học tập trong một thời gian và phí tổn đó được
khấu trừ khi khai thuế).
Một
yếu tố khác làm yếu sức cạnh tranh của nền công nghiệp Việt Nam là chi
phí vận tải cao. Việc xây dựng đường bộ cao tốc và các cảng biển bị trì
trệ, và đầu tư cho các công trình công cộng này dễ bị phân tán ở các địa
phương. Trong nước thì chi phí nhân sự và thu mua nguyên liệu từ các
địa phương về đến các khu công nghiệp cũng cao vì hệ thống giao thông
chưa được hoàn chỉnh. Cần đầu tư thích đáng cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng giao thông trực tiếp phục vụ sản xuất. Vấn đề thiếu điện và tình
trạng bất ổn định trong cung cấp điện cũng giảm sức cạnh tranh của doanh
nghiệp. Cần hoãn lại những công trình tốn kém nhiều vốn mà chưa cần
thiết để ưu tiên ngân sách cho việc xây dựng hạ tầng giao thông và cung
cấp đủ và ổn định điện năng cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Cụ
thể về việc xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông, cần ưu tiên nâng cấp,
cải thiện đường sắt Thống nhất, mở rộng đường sắt phổ thông đến các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ở miền Bắc. Đường bộ cao tốc
cũng nên được xây dựng theo hướng này. Ngoài ra, quan tâm xây dựng hệ
thống đường bộ nối các vùng nông thôn đến các xương sống của đường bộ
cao tốc và đường sắt phổ thông. Hệ thống hạ tầng giao thông này cùng với
nỗ lực cải thiện giáo dục đào tạo như sẽ được đề cập sẽ có tác dụng
thúc đẩy phát triển nông thôn, một trong những điều kiện để đạt mục tiêu
toàn dụng lao động.
b. Cụ thể hóa các biện pháp làm cho giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu
Triệt
để thực hiện miễn phí bậc tiểu học và trung học cơ sở (chậm nhất là đến
năm 2015) và trung học phổ thông (đến năm 2020). Song song với việc
nâng cấp các đại học đang có, cần có ngay kế hoạch xây dựng một hoặc hai
đại học chất lượng cao, trong đó nội dung giảng dạy, cơ chế quản lý, và
trình độ giáo sư cũng như tiêu chuẩn đãi ngộ tương đương với các đại
học tiên tiến ở châu Á (có kế hoạch cụ thể sớm để chậm nhất là khoảng
năm 2015 các đại học này có thể bắt đầu hoạt động).
Về
các đại học và trường cao đẳng ngoài công lập, cần có biện pháp chấn
chỉnh giải quyết ngay những nơi không đủ chất lượng và có quy chế để
ngăn ngừa hiện tượng kinh doanh giáo dục hiện nay. Ngoài ra, cần ban
hành các sắc thuế khuyến khích doanh nghiệp và những cá nhân có tài sản
đóng góp vô vị lợi (chủ yếu là tặng không) cho sự nghiệp giáo dục. Những
vấn đề này cũng cần có kế hoạch thực hiện cụ thể trước năm 2015.
Như
báo chí đã phản ảnh, Việt Nam đang có sự sự lãng phí quá lớn trong xã
hội, nhất là trong nhiều hoạt động liên quan đến lễ hội, đến tổ chức
khen thưởng, nhận huân chương,… và nhiều hoạt động không mang lại lợi
ích thực chất cho đại đa số dân chúng. So với trình độ phát triển của
Việt Nam hiện nay và so với kinh nghiệm các nước thì tiêu chuẩn chi tiêu
cho xe con, cho việc đi lại của lãnh đạo các cấp ở Việt Nam rất cao,
còn nhiều dư địa để tiết kiệm, cắt giảm. Thêm vào đó, cần cắt giảm ngân
sách dành cho các chuyến đi tham quan, khảo sát ở nước ngoài của cán bộ,
quan chức ở trung ương và địa phương, mà ai cũng thấy là ít hoặc không
cần thiết.
Cần
có chương trình cụ thể giản lược các hoạt động ít cần thiết nói trên và
tiết kiệm ngân sách hơn nữa mới có nguồn lực cho giáo dục, đào tạo.
Trong nửa đầu của thập niên tới phải thực hiện cho bằng được chính sách
này mới có thể xem giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu. Ngoài ra nên
tăng cường các sắc thuế đặc biệt, đánh vào giai tầng sở hữu nhiều bất
động sản và tiêu thụ hàng ngoại cao cấp để có ngân sách nhiều hơn cho
giáo dục.
Cần
có chính sách cụ thể để đến khoảng năm 2015 giải quyết cho bằng được
vấn đề bằng giả, chấm dứt tệ nạn tiến sĩ giấy, lập lại kỷ cương về bằng
cấp. Cần có chương trình cụ thể cải thiện hẳn vấn đề giáo dục tại chức
(chỉ đề bạt quan chức theo trình độ đang có, chấm dứt tình trạng đề bạt
xong rồi cho đi học để tiêu chuẩn hóa cán bộ, chỉ dùng ngân sách cho
quan chức bồi dưỡng ngắn hạn, không cấp kinh phí đi học lấy bằng cấp cao
hơn).
Về
nghiên cứu khoa học, đây là lĩnh vực liên quan đến nhiều ngành chuyên
môn, cần lập ngay một ban tư vấn gồm các nhà nghiên cứu hàng đầu trong
và ngoài nước để giúp Nhà nước rà soát lại các cơ chế liên quan đến hoạt
động nghiên cứu khoa học, công nghệ và đưa ra chiến lược, chính sách
nâng cao trình độ nghiên cứu và đào tạo. Nhiều ý kiến cho thấy hiện nay
trình độ của ta còn thấp, mặt khác có sự lãng phí trong việc thực hiện
ngân sách cho nghiên cứu khoa học. Cần có kế hoạch để khoảng năm 2015
giải quyết được các mặt yếu kém và tạo ra bước phát triển mới.
c. Cải cách chế độ tiền lương và thực hiện việc thi tuyển quan chức
Đây
là vấn đề cốt lõi của mọi vấn đề. Các chính sách dù hay nhưng không thể
được thực hiện có hiệu quả nếu không có một đội ngũ quan chức, một tầng
lớp cán bộ hành chánh từ trung ương đến địa phương có năng lực và phẩm
chất đạo đức. Họ phải là những người được tuyển chọn nghiêm túc qua các
kỳ thi định kỳ và cuộc sống của họ và gia đình phải được bảo đảm bằng
tiền lương. Tiền lương cũng phải đủ sức hấp dẫn người có năng lực vào bộ
máy công quyền.
Nội
dung các kỳ thi tuyển cho quan chức cấp trung trở xuống cũng cần chú
trọng trình độ văn hóa và sự hiểu biết về luật pháp và cơ cấu hành
chánh. Quan chức cấp trung ương, cũng với nội dung ấy nhưng ở trình độ
cao cấp hơn và thêm các môn chuyên môn cần thiết. Trình độ văn hóa và sự
khó khăn phải vượt qua các cửa thi tuyển sẽ nâng cao khí khái và lòng
tự trọng của quan chức, tránh hoặc giảm được tệ nạn tham nhũng. Việc thi
tuyển quan chức còn có tác dụng tạo niềm tin và động lực học tập trong
giới trẻ vì ai cũng có cơ hội bình đẳng thi thố tài năng cho việc nước.
Chế độ tiền lương và việc thi tuyển quan chức cần được thực hiện trong
vòng 3-4 năm tới.
Chiến
lược, chính sách chỉ cần xoay quanh các vấn đề cốt lõi nói trên cùng
với quyết tâm thực hiện bằng các biện pháp cụ thể với lộ trình khả thi
sẽ khơi dậy không khí phấn chấn, tin tưởng trong dân. Các nhà đầu tư
trong và ngoài nước cũng sẽ yên tâm, tin tưởng ở tương lai kinh tế Việt
Nam và sẽ tích cực đầu tư vào các lĩnh vực tận dụng các nguồn lực, nhất
là nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng cao. Qua đó, cơ cấu kinh tế
Việt Nam sẽ ngày càng chuyển dịch lên cao, và sẽ đạt được mục tiêu toàn
dụng lao động, tránh được khả năng rơi vào bẫy tự do mậu dịch và bẫy của
nước thu nhập trung bình.-Nguồn:
Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020 -http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/ykien/41543/Mot-tiep-can-khac-ve-chien-luoc-phat-trien-2011-2020.html
-http://www.thesaigontimes.vn/home/diendan/ykien/41878/
---Việt Nam có thể mắc bẫy “năng suất kém” (LĐ 3-11-11) -- Nhiều bẫy quá! Bẫy năng xuất kém, bẫy thu nhập trung bình... nhưng chung quy cũng là tại cái bẫy lãnh đạo và bẫy thể chế!
- ‘Quá sớm để Việt Nam tự tin về kiểm soát lạm phát’ (eBank).-- Chỉ tiêu kiềm chế lạm phát: thực tế hay lý thuyết? (Tầm nhìn).- Nhà đầu tư thiếu tin tưởng vào gói kích cầu (Vietstock).
- Vì sao NHNN cần độc quyền sản xuất kinh doanh vàng miếng? (ĐV). -- Chưa hạ trần lãi suất, vỡ mộng tin đồn (VOV). - Những cổ phiếu làm điên đảo thị trường (VnMedia).
- “Bong bóng” phía Tây đã nổ? (ĐĐK). -- Đề nghị đổi chủ quản sân bay quốc tế “4 không”(TT). -- Đề nghị đổi chủ quản sân bay quốc tế Cam Ranh (Bee).
- Châu Âu tự sa vào bẫy “chủ nghĩa tự do mới” (Tầm nhìn/IPS). -- Khủng hoảng Euro: tình tiết như một vở kịch Hy Lạp (Đoàn Hưng Quốc).
- Kenneth Rogoff GS Kinh tế và Chính sách, ĐH Harvard: LIỆU CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI CÓ BỀN VỮNG? (BS Hồ Hải/Project Syndicate).
Vietnam's Problems, Promises (Asia Sentinel 2-12-11) -bản dịch -Việt Nam, Những khó khăn và hứa hẹn
Vé 1 chiều về thời bao cấp ddkt -- Tái cấu trúc ‘đừng là trò chơi chính trị’ — (BBC). - Guest post: how to restructure Vietnam’s economy -Financial Times - Làm cách nào để tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam – (x-café). – Tái cấu trúc nền kinh tế: Góc nhìn của chuyên gia (Tầm nhìn). - Đan Mạch hỗ trợ Việt Nam 28 tỷ đồng để giảm nghèo (HNM).
- Ngân hàng Thế giới khuyến cáo VN giảm lạm phát (PLTP). -Tham nhũng VN làm nản lòng đầu tư ngoại quốc - Hội thảo của Ngân Hàng Thế Giới: (Nguoi-Viet
Online) - Các nhà tài trợ quốc tế, các nhà đầu tư ngoại quốc đều kêu ca
về tình trạng tham nhũng trầm trọng tại Việt Nam. Ðây là vấn đề từng
được họ nêu ra trong các cuộc họp với nhà cầm quyền Hà Nội suốt nhiều
năm qua, nay vẫn phải nói.
–Quá sớm để tự tin về kiềm chế lạm phát (TQ). – Dọn đường? (DĐDN). - Khôi phục lòng tin thị trường (PLTP).
- Bài dịch: Việt Nam, Những khó khăn và hứa hẹn – (Asia Sentinel/ x-café).-- Phỏng vấn ông Nguyễn Trần Bạt: Quản trị DNNN- hệ quả của thể chế — (Phan Thế Hải).-- Lượng kiều hối từ nước ngoài gởi về Việt Nam tăng nhẹ trong năm 2011 — (RFI). -- Hạ lãi suất: Mấy phần trăm và thời điểm nào? (VEF).
---Phá sản nhiều nhưng DN vẫn muốn thắt chặt tiền tệ(Tamnhin.net)
- Năm 2011, lần đầu tiên, quản lý kinh tế vĩ mô "bị" xếp vào nhóm 3
lĩnh vực đáng lo nhất. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẵn sàng chịu đau
trong ngắn hạn để ủng hộ Nghị quyết 11, chống lạm phát và ổn định vĩ
mô.-
-Hàng Trung Quốc giả mạo xuất xứ Việt Nam tt- Người mua lo rủi, doanh nghiệp lo khó (PLXH).- - Rút giấy phép Hãng hàng không Đông Dương (TT). - Chưa có quyết định rút giấy phép của Indochina Airlines (TBKTSG).
- Mua hàng hạ giá: Vừa thích, vừa lo (VEF).- Nở rộ văn phòng ảo (PLTP).- - Hàng trăm container vô chủ ở các cảng (PLTP). -- Ồ ạt mở doanh nghiệp ở huyện nghèo (TN).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét