SỐNG VỚI NGƯỜI VIỆT (5)
Tác giả: Philippe Papin và Laurent Passicousset
Người dịch: Hoàng Hà. Hiệu đính: Diệu Linh
“BÀN TAY NHỚP NHÁP CỦA QUAN CHỨC”
Sớm hay muộn, mọi cuộc nói chuyện chân tình với người Việt bao giờ cũng đề cập đến chủ đề hối lộ hàng ngày. Việc cấp giấy tờ, xin giấy phép, đăng ký cho con đi học, đăng ký biển số xe máy : tất thảy đều phải qua khâu này. Hối lộ lặt vặt phổ biến đến nỗi được đặt tên là “nền văn minh phong bì”. Phong bì cho phép làm tất cả : mở rộng vườn nhà ra tận mặt phố, xây ban công chòi ra ngoài, đổi hướng hệ thống ống dẫn, mua với giá rẻ bèo khu đất của hợp tác xã vừa giải thể, lên chức lên quyền, đi học trái tuyến…vv…Phong bì loại nhỏ phải dùng thường xuyên thì người ta dùng tiền túi của mình để chi trả, nhưng khi phải đi cấp cứu hay mua một chân công chức, tóm lại là khi phải bỏ một khoản tiền lớn có thể tương đương với 20 năm làm việc (một nông dân chúng tôi quen đã phải trả khoản tiền như thế ở bệnh viện công), thì phải chấp nhận hy sinh, bắt cả nhà đóng góp và vay nặng lãi tứ phương. Muốn trả nợ thì làm việc thôi không đủ. Người đi vay và gia đình anh ta không có cách nào khác là hành xử y như thế, làm dăm ba điều khiếm nhã trong khả năng của mình để kiếm tiền. Kể cả những người lương thiện nhất cũng không tránh khỏi bị hút vào vòng xoáy của tham ô. Tham nhũng nuôi tham nhũng, tất nhiên, nhưng cái chính là nó mở rộng ra đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua trò chơi chia một khoản tiền lớn thành nhiều món nợ nhỏ. Nguy hiểm hơn cả những khoản hối lộ kếch sù mà tầng lớp trên trao đổi với nhau, (những khoản này ta không thấy được, mà chỉ có thể đoán và chặc lưỡi mà rằng ngày xưa quan lại cũng nhận đồ lễ đấy thôi), tham nhũng làm băng hoại đời sống xã hội hàng ngày, đến mức đôi khi ảnh hưởng cả đến những quan hệ thông thường, có những quan hệ lẽ ra chỉ là bạn bè mà dần dà lại thành ra vụ lợi.
Những khâu trung gian tốn kém mà không tránh được
Ở Việt Nam, ta buộc phải thỏa hiệp với nền hành chính “siêu cường”. Phải phục tùng mọi thủ tục hành chính quan liêu, mọi loại giấy tờ, và cả chuỗi đủ loại con dấu mà làm việc dù nhỏ đến mấy cũng vẫn phải cần. Những phiền nhiễu này thực ra cũng chẳng sao ( chuyện hành chính rườm rà hoàn toàn không phải riêng Việt Nam mới có), nếu ta chỉ thỉnh thoảng phải gặp chúng thôi, khi có việc cần, và nếu thủ tục là miễn phí. Tuy nhiên, vì không có xã hội dân sự và những cơ quan trung gian, nên các thiết chế Nhà nước chỗ nào cũng có mặt để quản lý toàn bộ mọi lĩnh vực xã hội. Ở thành phố thì điều này quá rõ. Ở nông thôn cũng chẳng kém. Mỗi xã có đến cả trăm người đại diện cho chính quyền, dân sự và chính trị, việc gì họ cũng tham gia, kể cả chuyện hội hè lễ lạt. Không ai phủ định việc họ có thể làm được việc, nhưng thực tế là thế này: dù ta có làm gì đi chăng nữa thì cũng không thể thoát khỏi mấy người này, vì mọi việc đều phụ thuộc vào họ, và thiện chí của họ.
Số công chức viên chức ít nhất là 10 triệu. Con số này không đáng kể so với tổng dân số, nhưng gấp đôi số lượng cần thiết để quản lý các cơ quan Nhà nước, nhất là ở cấp cơ sở, nơi tập trung nhiều công chức, trong khi dịch vụ công lại kém phát triển. Trái với những gì nhiều người lầm tưởng, sự “lạm phát” việc làm trong lĩnh vực công này không phải do lịch sử để lại. Thời phong kiến, chưa đến 4 000 người cai trị Việt Nam, trong số đó chỉ có 1 000 người là quan lại triều đình; thời thực dân, số lượng công chức cả nước còn ít hơn so với một tỉnh lớn của Việt Nam bây giờ. Giáo dục chỉ là một lý do nhỏ, vì chỉ có 800 000 giáo viên bậc tiểu học và trung học, nghĩa là ít hơn 1/10 tổng số công chức và viên chức. Sở dĩ số lượng này quá đông là vì cơ quan Nhà nước được nhân bản từ cao xuống thấp trong hệ thống hành chính, từ thủ đô xuống tỉnh, từ tỉnh xuống huyện, từ huyện xuống các xã, thôn, mà chẳng để làm gì ngoài việc khẳng định sự có mặt của chính quyền trung ương. Quan liêu chính là kết quả của việc chế độ xã hội chủ nghĩa gắng sức để tham gia trực tiếp vào công việc của cấp làng xã, nơi trước đây người dân vẫn tự xoay xở được.
Việc có quá nhiều công chức với đồng lương bèo bọt chính là nguyên nhân của nạn tham nhũng. Phải qua họ vì họ làm ở đấy, phải đền bù cho họ vì họ nghèo – chính thức là từ 100 đến 200 EUR/tháng đối với công chức tầm trung. Trong lĩnh vực kinh doanh, bắt buộc phải cấu kết với hành chính mới có thể hoàn thành đủ thủ tục, như ở những lĩnh vực khác, nhưng nhất là để có cơ may lượm được vài mẩu bánh thừa từ các hợp đồng Nhà nước, mà trong đại bộ phận các trường hợp thì chỉ có doanh nghiệp quốc doanh kiếm được mà thôi. Những thủ tục đấu thầu mới, chặt chẽ hơn, vẫn có thể dễ dàng được giải quyết trên tinh thần địa phương, chung chung và rộng lượng hơn, cốt sao cho hợp thời là được.
Lấy ví dụ một công chức ủy ban nhân dân có một doanh nghiệp nhỏ, hay có cổ phần trong công ty của ông anh họ. Anh này hẳn sẽ tạo điều kiện cho hồ sơ dự thầu của doanh nghiệp nào cam kết sẽ không quên anh. Có người nói với chúng tôi : “Mở thầu chẳng qua cũng chỉ là mở phong bì mà thôi.” Và, ngay cả nếu không có phong bì, thì cũng có những mạng lưới bạn bè mang màu sắc chính trị. Ở đây, lợi ích của việc phát triển địa phương cũng có thể được tính đến. Trong mọi trường hợp, phải biết cách xoay xở, đàm phán ngay từ ngọn, tranh thủ sự ủng hộ của đảng ủy, kiếm một chỗ trong đơn đặt hàng Nhà nước dựa vào những ơn huệ nho nhỏ và những ơn huệ ấy sẽ dẫn đến các ngoại lệ. Những vi phạm “lành mạnh” đó sẽ đem lại bổng lộc hậu hĩnh. Trong những điều kiện như thế, không có gì là chắc chắn, có chăng là việc nếu lỡ không canh ty với người chính quyền thì chắc chắn hỏng việc.
Làm sao khác được? Trên thực tế, không có hay chưa có những trường hợp thành công hoàn toàn tự thân, mà không phải ít nhiều dây dưa với guồng máy Nhà nước. Thực tế đó đúng ở cấp địa phương, với các doanh nghiệp nhỏ của tư nhân ở thị xã, và cũng đúng cả với các thành phố lớn. Nó đặc biệt rõ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vốn cần giấy phép, các dự án du lịch có liên quan đến công chính và cần đất nằm ở vị trí đẹp. Xây dựng một khu khách sạn, khai thác và đảm bảo yên tĩnh cho nó, hay đơn giản là hợp đồng xây dựng đường ống cấp nước, tất cả đều nằm trong tay bộ, trong tay công an và chính quyền địa phương : họ sẽ không từ chối điều gì, nếu ta không từ chối họ điều gì. Thế nên chớ ngạc nhiên khi thấy Việt Nam xếp thứ 120/180 về chỉ số tham nhũng theo tiêu chí của Transparency International.
Ông bạn Luân của chúng tôi ở Đà Nẵng có thể nói cả ngày không hết về đề tài này. Ông kể chúng tôi nghe chuyện Tình, con rể út của ông. Nhờ các mối quan hệ của bố vợ, anh này lập một tuyến vận tải xe buýt đến Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, sau khi kiếm đủ tiền rồi thì anh lại muốn đầu tư vào những con đường mới đi về phía Tây, hướng Cam-pu-chia và Lào. Ý tưởng của anh là đúng vì những tuyến giao thông chạy ngang đất nước hiện còn ít được khai thác và chắc chắn sẽ là tương lai của Việt Nam. Để được cấp phép, và nếu có thể thì được độc quyền, Tình đã phải chạy vạy nhiều hơn. Vậy là anh chơi trò lobby dài hơi, từ hành lang đến văn phòng, từ tâm sự đến đòi hỏi, cuối cùng anh leo đến tận cấp cao nhất của các ủy ban nhân dân và cả một bộ nọ. Làm sao khác được? Hợp đồng đã được thông qua, giấy phép đã được cấp.
6 tháng sau, Tình rơi vào vòng xoáy địa ngục. Ông bố vợ không nhẹ nhàng với anh chút nào: “Nó thích độc lập, thích chơi trò ma lanh, rút bớt phong bì, thậm chí còn cắt không đưa cho cả mấy người. Tôi ấy à, trước đổi mới, tôi để cả nửa phần lãi của mình cho cán bộ ủy ban nhân dân, không nhiều hơn cũng không ít hơn, chưa bao giờ tôi cắt bớt phần của họ cả. Đấy là cái giá phải trả để người ta để yên cho tôi làm ăn. Giá bây giờ rẻ hơn chút rồi, nhưng họ vẫn ở đó, và họ vẫn có tay trái mà. Tình đã mua được những chỗ dựa rất cao ở tỉnh và ở thủ đô, nó làm thế là đúng; khổ nỗi, nó không hiểu phong bì là để thay cho thuế, ít ra một phần là thế, nên phải nộp thường xuyên. Nó thích tiết kiệm, thì đấy, hậu quả đấy.” Thực vậy, Tình Bủn xỉn đã mất hết. Bị dính một vụ xì căng đan được dàn dựng liên quan đến chuyện lạm dụng của công, anh bị báo chí vu khống, kết tội tham nhũng và bị ra tòa. Anh đã phải ngồi tù suốt năm 2004, một phần năm 2005, và đến năm 2010 vẫn chưa được phục hồi. Tên tuổi anh bị ảnh hưởng nặng bởi vụ này, không ai muốn làm việc cùng nữa. Giống như mẹ vợ anh, bà Ngọc, đã nói, tuy với giọng đỡ gay gắt hơn chồng mình: “Nó gặp hạn thôi!”.
Đúng là những người ít tằn tiện hơn thì cũng may mắn hơn thật. Muốn hiểu mọi việc ở đây diễn ra thế nào thì không có cách nào khác là nghe tâm sự của những người hàng ngày vẫn làm việc trên thực địa, họ hiểu biết hơn nhiều những tay ba hoa ngồi sa lông. Đó là trường hợp của người đàn ông mà chúng tôi tạm gọi là Tuân này. Chúng tôi ăn tối cùng anh tại nhà một cô bạn. Cô ấy cho rằng vị cai thầu này – nhân viên của một công ty tư nhân là chi nhánh của một doanh nghiệp quốc doanh lớn trong lĩnh vực xây dựng – sẽ khiến chúng tôi quan tâm. Cô ấy còn báo trước là chúng tôi sẽ không thất vọng đâu. Quả thế thật !
Ngồi xếp bằng dưới chiếu, quần soóc, áo may ô vén lên tận ngực, bụng phệ hết cả ra, Tuân ra dáng một tay anh chị ở Nam Định. Đầu tiên anh biểu lộ sự ngạc nhiên một cách rất ồn ào trước những câu hỏi ngây thơ của chúng tôi: (“Thế mà mất bao nhiêu năm dặt dẹo ở Việt Nam !”). Anh không tin ở tai mình, đang ăn lạc mà suýt nữa thì nghẹn. Chính trị á ? Là cái quái gì đâu, chỉ là một trở ngại kỹ thuật phải vượt qua, giống hệt như nối cáp điện 3 pha thôi. Và anh kể chúng tôi nghe các doanh nghiệp Việt Nam làm thế nào, vẫn bằng cái giọng hiển nhiên như thế, và với một bề dày kinh nghiệm khó làm ai có thể nghi ngờ.
Tuân thuyết phục các đồng chí của mình như thế nào ?
“Khi muốn lập một dự án, anh nói, việc đầu tiên phải làm là đến gặp bí thư đảng ủy địa phương. May quá, chính ông ấy gọi chúng tôi lên ! Thế là chúng tôi đến nhà ông ấy, làm một hai chén, rồi trình bày tại sao công ty chúng tôi lại là công ty tốt nhất để xây đường, xây cầu hay xây trạm xá. Thường thì ông ấy lắc đầu quầy quậy, nói lòng vòng, làm bộ khó khăn, rồi bảo trên thị trường có phải mỗi chúng tôi đâu. Đến lúc đó thì có hai cách, tùy theo tính cách của vị bí thư. Cách thứ nhất là cách xưa rồi, áp dụng đối với loại nửa nạc nửa mỡ, rất hiệu quả đối với vùng sâu vùng xa, là xì tiền luôn, kèm lời đảm bảo là sẽ còn đưa thêm, tháng trước tôi cũng vừa làm thế với một ông bí thư huyện ủy miền núi. Bao nhiêu à? Dự án ấy cụ thể là 40 tỷ đồng (tương đương với 1,6 triệu EUR), tôi chồng luôn 6%, hứa là sẽ thêm 2% trong khi tiến hành dự án, tổng cộng là 3,2 tỷ đồng (tương đương 128.000 EUR). Nhiều quá hả? Không đâu, trước khủng hoảng phải là 18-20% giá trị dự án cơ, 15% cho địa phương, phần còn lại cho cấp trên; bây giờ là khoảng 10-12%. Làm thế thì mất bớt lãi rồi, nhưng đó là giải pháp duy nhất. Cách thứ hai áp dụng với những người hay tự ái, có đạo đức, hay sợ, ở thành phố và dưới xuôi, đó là phương pháp “lại quả”. Ví dụ, ông bí thư tỉnh nọ đã nháy ông bạn tôi làm ở một nhà máy gỗ mang đến tặng 3 khối gỗ lim to tướng, ông ta thản nhiên mang vào vườn coi như để trang trí; 15 ngày sau ông ta đem bán lại cho một tay cớm làm ra bộ tình cờ ghé qua nhà, giống như đã thỏa thuận với bạn tôi. Trò mèo thôi, nhưng lịch sự.”
Tuân làm chúng tôi buồn cười. Anh nói như một tên lưu manh nhưng thực ra anh không phải thế : anh chỉ làm như tất cả mọi người trong nghề. Anh khẳng định lại cho chúng tôi con đường mà mọi nguồn vốn đầu tư phải đi qua ở một tỉnh của Việt Nam : một khi bí thư đã bật đèn xanh cho dự án, mọi thứ đều trở nên đơn giản. Công chức địa phương đều nghe lời ông. Chủ tịch ủy ban nhân dân, tương đương với thị trưởng, chỉ là nhân vật số hai trong đảng ủy, và tất cả lãnh đạo sở cũng đều nằm trong bộ máy. Trật tự ngôi thứ bí mật này trong đảng quan trọng hơn so với thứ bậc chính thức của Nhà nước. Như Tuân nói, chỉ cần bí thư trình bày ngắn gọn sự quan tâm của mình đến một dự án trong cuộc họp đảng uỷ là mọi người đều hiểu… bản chất sự quan tâm này là gì. Thế là cả guồng máy hành chính địa phương bắt đầu chạy theo. Càng hiệu quả hơn khi dự án ấy không những được ưu tiên lại còn được trực tiếp xử lý bởi các kiểu ban thường trực (đảng ủy, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân…) là những nơi nắm quyền lực thực sự. “Ở tỉnh hay thành phố cỡ trung bình thì có khoảng chục người có quyền quyết định; cấp huyện chỉ có 3. Bí thư có nhiệm vụ phải đốc thúc họ. Chúng tôi trả tiền để ông ta làm thế. Nên giấy phép có rất nhanh, đấu thầu hay không cũng thế.” Kéo lại áo may ô, Tuân chìa cho chúng tôi xem tấm thẻ ép plastic rồi kết luận : “Mọi việc là thế đấy ! Phải được gì tôi mới vào đảng chứ !”.
Khi một vụ việc vỡ lở, ai cũng biết đó là hậu quả của việc thanh toán lẫn nhau, đấu đá nội bộ, chia chác không sòng phẳng. Tháng 2 năm 2010, khi được tin một phó giám đốc Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam bị kết án vì tội nhận hối lộ 40 ngàn EUR, dân Việt cười ngất : ở cấp ấy thì đương nhiên ông ta phải nhận gấp 100 lần số đó. Ai cũng hiểu đó chỉ là chuyện đấu đá nội bộ, và là một lời cảnh cáo : việc tố cáo một tội nhỏ, đưa đến một án phạt nhỏ, sẽ làm kẻ bị kết án biết điều hơn. Ông chủ tịch tỉnh Hà Giang bị dính vào một vụ bán đặc quyền cho một doanh nghiệp tháng 11/2009; chủ tịch tỉnh Bình Thuận bị cảnh cáo tháng 1/2010 vì tội cấp đất trái luật và xây nhà riêng bằng tiền của doanh nghiệp được ông tạo điều kiện. Những tay trùm sò ở Hà Nội không bao giờ bị làm sao cả.
Tiền của doanh nghiệp bị mất vào phong bì thì lấy lại được ở chỗ khác. Người ta cắt xén, tiết kiệm mọi thứ. Lương công nhân được giữ ở mức thấp nhất, đặc biệt là ở các doanh nghiệp tư nhân không bị khống chế mức lương tối thiểu (chỉ áp dụng cho lĩnh vực quốc doanh và các doanh nghiệp nước ngoài) ; nhân công tuyển theo thời vụ, ở các làng xã lân cận, lương thấp và không có bảo hiểm gì hết ; việc đầu tư không được quan tâm, đặc biệt là đầu tư cho thiết bị làm việc, thế cho nên mới có thảm cảnh kéo dài từ năm này qua năm khác những phụ nữ rải nhựa đường chỉ bằng bình tưới. Bị mất tiền từ đầu, nhà thầu không thể giữ báo giá như cũ, nên phải điều chỉnh trong quá trình tiến hành dự án bằng cách chi thêm phong bì : nhiều khu chung cư cao tầng ở Hà Nội không có chỗ đỗ xe dưới tầng hầm như trong thiết kế. Cuối cùng, phải nói rõ là chất lượng các công trình không phải là không có vấn đề. Trong lĩnh vực xây dựng, tỉ lệ xi măng trộn với cát không được tuân thủ, bê tông không phải lúc nào cũng đủ cốt thép và hậu quả đôi khi thật khủng khiếp. Một chiếc cầu ở Hải Phòng bị sập, và tháng 12/2009, năm người chết và 4 người bị thương nặng trong một vụ sập nhà 5 tầng ở Bình Dương. Tất cả những việc đó không phải là hậu quả của việc thi công ẩu, mà chính là hậu quả không tránh khỏi của nạn tham nhũng vì tham nhũng hút mất lãi của nhà thầu, nên buộc họ phải tìm mọi cách hòng kiếm lại ở nơi khác.
Sự khánh kiệt của Nhà nước là hậu quả thứ hai vì, suy cho cùng, các cá nhân đã đứng ra thu thuế thay Nhà nước. Chỉ trừ việc không hề có phân chia lại : cái gì đã vào túi cá nhân thì ở lại, hoặc chạy sang túi cá nhân khác, và tiền tham nhũng chạy từ túi này sang túi khác thành một mạch điện song song làm chảy máu Nhà nước. Trong hàng ngàn thí dụ, có thể kể ra việc thông quan hàng hóa ở cảng rốt cuộc chỉ còn lại một tẹo cho Nhà nước, kể cả lúc đi cũng như lúc đến ; thuế doanh thu, các loại thuế và phí khác đều có thể thương lượng với nhân viên thuế vụ ; thuế thu nhập đất đai biến mất trong những vụ miễn trừ đáng ngờ và trong các hợp đồng cho thuê đúp (tiền cho thuê nhà là 100, thì chỉ khai 30, rồi nộp cho nhân viên thuế vụ 10). Ngược lại, tiền vào két Nhà nước thì khó nhưng ra thì dễ. Ví dụ, người ta mua xe ô tô miễn thuế (rồi đem bán lại trên thị trường tự do) ; hoặc là, như đang là mốt hiện nay, người ta tăng số hộ cần giải tỏa để triển khai công trình công ích lên để bỏ túi số tiền đền bù : 180 ngàn EUR đã bị biển thủ tháng 9/2009 tại một khu dân cư ở Hà Nội, cùng lúc đó người ta phát hiện ra số hộ được đền bù nhiều gấp 7 lần số hộ có thực tại một xã miền Trung.
Tất nhiên ta không thể biết hết, nhưng số vụ xì-căng-đan nhỏ lẻ bị phát giác ở địa phương cũng cho ta một ý tưởng về hiện tượng này. Ở tỉnh Đồng Nai, 6 công chức bị điều tra vì tội nhận hối lộ dẫn đến việc thất thu 1,2 triệu EUR thuế doanh nghiệp và vụ việc lại nổi lên vì lương tâm quan tòa cuối cùng cũng bị mua chuộc. Ở thành phố Hồ Chí Minh, bệnh viện Bưu điện bé tí lại phụ thuộc một cách rất lạ lùng vào một công ty viễn thông quốc doanh, trốn trả 40 ngàn EUR tiền thuế, một nửa khoản này đã biến mất và nửa còn lại đem cho tư nhân vay lấy lãi.
Tại Cần Thơ, đồng bằng sông Cửu Long, bà Trần Ngọc Sương, giám đốc nông trường Sông Hậu, nổi tiếng cả nước, tháng 8/2009 bị kết án 8 năm tù vì tội tổ chức biển thủ công quỹ 230 ngàn EUR, với sự đồng phạm của cấp phó và kế toán trưởng. Sau khi lén lút bán một số mảnh đất của nông trường, tức là của Nhà nước, bà đã dùng một phần tiền để mua đất dưới tên mình, mua sắm tài sản, du lịch nước ngoài, v.v… Trong quá trình điều tra, người ta không chỉ biết được rằng bà đã “thừa kế” vị trí của mình từ người cha, người sáng lập nông trường, mà còn biết được rằng việc duy trì quỹ đen, mà bà đang mưu toan rũ bỏ, đã có từ những năm 1980.
Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ người đàn bà này không phải người tầm thường. Được vinh danh “anh hùng lao động” và “người phụ nữ ấn tượng châu Á”, bà là nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng của nhà văn Chu Lai (tiểu thuyết thời hậu chiến không được lòng dân miền Nam cho lắm). Mùa hè 2009 vụ việc là như vậy. Nhưng bà Sương quen biết rộng, và hình như các mối quen biết của bà không thích người ta xét xử, thông qua bà, cả các anh hùng giải phóng lẫn những vụ dàn xếp nhỏ ở địa phương. Công nhân và sinh viên nông trường gửi đi các bản kiến nghị rất đúng lúc, nhiều nhân vật cao cấp đứng ra bảo vệ bà, một số đại biểu quốc hội cũng vào cuộc và báo chí tràn ngập các bài viết ít nhiều được định hướng từ xa. Dần dà qua những thông tin được hé lộ, ta nhận thấy một trò chơi phức tạp giữa đảng, có vẻ như là kẻ chủ mưu kết tội bà, và thành phố Cần Thơ, có vẻ như có dự định lấy lại đất của nông trường để xây khu công nghiệp và đường cao tốc đi Cam-pu-chia. Đó là một trận đấu chính trị và tài chính đang diễn ra, làm cho một vụ tham ô nhỏ, quá đỗi bình thường, lại trở thành một xì căng đan công cộng.
Tất cả những trò gian xảo này làm Nhà nước nghèo đi, khi lần lượt từng nguồn thu thuế và đất đai vốn không thể thiếu cho việc duy trì các dịch vụ công cứ mất dần. Nên dịch vụ công đành phải tư hữu hóa vì thiếu tiền, bắt đầu bằng giáo dục và y tế. Theo nguồn chính thức, người ta ước tính trong lĩnh vực xây dựng chẳng hạn, Nhà nước chỉ thu được ít hơn 1/10 số thuế lẽ ra phải có. Nhà nước không còn khả năng kiểm soát : với diện tích và dân số tương đương với Đức, nguồn thu ngân sách của Việt Nam ít hơn 15 lần.
Nhà công vụ và bất động sản
Có thể nói mà không sợ nhầm rằng sự giàu có của công chức, hay của bất cứ ai cũng vậy, thể hiện qua nơi ở và số đất đai anh ta sở hữu. Trong một đất nước không có sản phẩm ngân hàng cũng như tài chính nào đáng để đầu tư, nơi thị trường chứng khoán chỉ như trò sổ xố dễ chết vì lạm phát, tài sản bẩn nếu không tuồn ra nước ngoài thì ắt sẽ phải đầu tư vào bất động sản. Phần lớn cán bộ bậc trung đầu tư luôn vào nơi mình đang ở. Họ trả bằng tiền mặt, như những người khác, dù giá một căn nhà loại trung bình cũng tương đương với lương của cả một cặp vợ chồng công chức trong 15 năm nếu sống ở ngoại ô xa tít của Hà Nội, 60 năm nếu sống ở trung tâm thành phố. Chỉ vài năm là gia đình có thể mua nhà, trong khi lương của cả hai vợ chồng không đủ để tiết kiệm : 200 EUR, cộng thêm làm thêm là 400 EUR, số này đã chi hết cho tiền ăn (250 EUR), phí các loại (80 EUR), tiền học cho con cái (50 EUR), y tế, giải trí, v.v… Những công chức ở vị trí cao hơn, do vậy giàu hơn, thì mua nhiều căn hộ hay nhà cửa mà họ cẩn thận để anh em họ hàng đứng tên. Trong cả hai trường hợp, giá trị gia tăng đều ổn vì bong bóng đầu cơ bất động sản vẫn không ngừng phồng to từ giữa thập kỷ 1990 đến nay. Một bí mật mà toàn dân đều biết ở Việt Nam là việc giá bất động sản tăng lên ở các thành phố lớn chính là bởi đó là nơi đồng tiền tham nhũng được tái chế. Thùng nấu bất động sản xử lý tiền bản địa và nhất là xử lý tiền từ các tỉnh lân cận kín đáo chuyển về.
Ai cũng biết rằng những ngôi nhà đẹp nhất đều thuộc sở hữu của công chức, ví dụ như những tòa biệt thự ven hồ Tây, Hà Nội vẫn dành cho Tây thuê. Chúng tôi quen một công chức có đến 4 ngôi nhà cực lớn cho người nước ngoài thuê theo hợp đồng đúp. Một trong số những ngôi nhà đó chỉ khai giá 550 USD/tháng, nộp thuế 140 USD nhờ đã lót tay 100 USD, còn lại đút túi 1 760 USD trên tổng số tiền cho thuê thực tế là 2 000 USD. Đem nhân với bốn thì cũng được một khoản khá. Ông này cũng hiểu thế nên cứ an nhàn mà hưởng thụ cuộc đời tại một căn hộ ông mua lại ngay giữa quận 6 Paris. Mỗi cuối tháng, một người nhà của ông, ăn mặc rất bình thường, đi dép xăng đan kín đáo, đi một vòng thu tiền nhà rồi gửi sang cho ông theo những mạng lưới chuyển tiền siêu đẳng của người Việt : tiền được chia làm nhiều phong bì nhỏ được nhiều hành khách mang sang theo tuyến bay Hà Nội-Paris, sang đến nơi thì được gộp lại rồi chuyển đến đúng địa chỉ.
Với những khoản lớn hơn, thì có những ngân hàng song song bí mật được đặt trong những ngôi nhà trông hết sức bình thường cuối ngõ (ví dụ gần đường sắt Hà Nội), nơi người ta có thể mang đến những túi nhựa kín đáo đựng từng xấp đô la, ngay cùng lúc đó bên Paris, tiền mặt được chuyển cho người nhận tại một căn hộ quận 13, chỉ cần xác minh qua số điện thoại đóng vai trò như mật mã ngân hàng : không cần giấy tờ, thời hạn, không thuế chuyển giao ngoại tệ. Rất tiện cho cả hai bên, mạng lưới này hoạt động được ở tất cả các nước, đặc biệt là các nước Đông Âu.
Việc chiếm nhà công vụ làm của riêng cũng rất phổ biến. Ở đây xin phép mở ngoặc để nói rõ rằng trong phần lớn trường hợp, điều này là hợp pháp : một quyết định của chính phủ cách đây 10 năm cho phép mua lại những căn nhà nhỏ được Nhà nước cấp trong thời xã hội chủ nghĩa chỉ với giá tượng trưng vài trăm EUR. Sự chuyển nhượng này cũng không phải là không có lý vì công chức thông thường sống khổ và nhà do Nhà nước cấp cho họ cũng chẳng mấy tiện nghi đẹp đẽ gì cho cam ; nên việc Nhà nước cho họ căn nhà ấy, trị giá trung bình khoảng 60 ngàn EUR, cũng coi như là đền bù cho mức lương rẻ mạt mà họ vẫn phải chịu. Đến đây xin đóng ngoặc đơn, vì đối với tầng lớp trên trong giới công chức thì khoản tiền và diện tích họ được hưởng lớn hơn rất nhiều.
Đó là những ngôi nhà tuyệt đẹp từ thời Pháp trị giá đến cả một gia tài. Trò ảo thuật tỏ ra cực kỳ hiệu quả và nếu so về tài chính, thì cũng tương đương với việc các công chức cao cấp Pháp chiếm được cả một khách sạn hay một dinh thự cộng hòa. Cho nên, một ngôi biệt thự từ những năm 1930 ngay giữa trung tâm Hà Nội được bảo quản bởi người vợ góa của một cựu bộ trưởng, rồi được bán lại cho một tay buôn bất động sản vốn là con của một cán bộ cấp cao, tay này đem phá luôn biệt thự đi để xây một toà tháp văn phòng; chúng tôi không biết toà tháp này giá bao nhiêu, nhưng ngôi biệt thự đã mang lại cho gia đình ông bộ trưởng quá cố nhiều triệu EUR. Dễ hiểu sự bất bình của rất nhiều người Việt Nam bình thường – một thùng cộng hưởng phi thường có thể cho ta biết, nếu ta quan tâm điều tra, về cuộc sống của cả một khu phố. Nhưng để làm gì nhỉ ? Khi sự bất công quá lớn, hoặc quá dễ thấy, họ bức xúc, tụ tập lại, rồi nhanh chóng bị công an giải tán, một cách nhẹ nhàng thôi, giống như ở Hà Nội năm 2006 khi ông chủ tịch mãn nhiệm của ủy ban nhân dân và cấp phó của mình lập hồ sơ định mua lại với giá bèo hai căn nhà cổ công vụ của mình. Một căn, giá trên thị trường là một triệu EUR, lẽ ra đã có thể mua lại với giá 40 000, căn kia có giá thị trường là 350 000, lẽ ra có thể mua lại với giá 10 000. Vụ xì-căng-đan được báo chí đăng tải, nên âm mưu này đã không thành. Còn bao nhiêu trường hợp, kín đáo hơn, không được biết đến ?
Các yếu tố làm tình hình thêm trầm trọng : phân quyền và mua quan bán chức
Công chức là những người được lợi nhất từ việc mở cửa đã biến đổi đất nước kể từ năm 1990, ở vị trí càng cao thì lợi càng lớn. Nếu là vụ trưởng một bộ thì rất ổn ; chủ tịch ủy ban nhân dân thì không có gì phải phàn nàn ; nhưng nhân viên địa phương hay cán bộ huyện thì còn phải nhăn nhó nhiều. Việc làm giàu cá nhân phụ thuộc vào mức độ gần xa với ngân sách công, vốn được nuôi dưỡng từ bên ngoài bằng tiền đi vay hoặc viện trợ quốc tế, và được duy trì ở đỉnh cao Nhà nước nhờ hiệu quả của tập trung dân chủ, làm cho những công chức bậc thấp cảm thấy mình bị lừa. Từ khi đất nước mở cửa, họ mới chỉ được tiếp cận với miệng ống ngân sách chứ chưa tới được cái đường ống khổng lồ cấp cho nó. Ở địa phương, họ không thể trông chờ vào sự hào phóng của những người dân mà họ quản lý vì bản thân những người này đâu giàu có gì cho cam. Vì thế, sự bất mãn gia tăng và ý tưởng đòi tự trị địa phương trở nên mãnh liệt. Một số tỉnh ra những quyết định mà họ không được phép ra, không đóng xu nào cho ngân sách Nhà nước, tự ký hợp đồng với nhà đầu tư nước ngoài, tự định ra luật lệ riêng, và lập nên một hệ thống thuế địa phương mà Nhà nước không kiểm soát nổi.
Ý thức được nguy cơ chính trị từ sự bất mãn này, đặc biệt là đối với các tỉnh phía Nam, các vị lãnh đạo ở Hà Nội từ vài năm nay cố gắng đáp ứng những đòi hỏi của những người bà con nghèo khó của mình từ các tỉnh, thành, huyện lị. Họ làm được vì Nhà nước kiểm soát nền kinh tế ngày càng nhiều hơn. Được nối với bên ngoài, “đường ống khổng lồ” có tốc độ chảy đủ lớn để họ có thể mở thêm van cho vốn chạy tới cả hàng ngàn đường nhánh của hệ thống ống ngân sách địa phương. Sau đó, vấn đề chỉ còn là điều chỉnh, định lượng, chia chác.
Đằng sau những bài diễn văn về hiệu quả quản lý và dân chủ cơ sở chính là chính sách phân quyền hành chính cho địa phương mà Đảng áp dụng từ 2006. Đưa quyền quyết định kinh tế, quản trị tài chính xuống dưới địa phương, nới lỏng kiểm tra ngân sách địa phương và kiểm tra việc sử dụng tài sản công : đó là các mục tiêu và trong một chừng mực nào đó, là những thông lệ mới. Tranh luận về phân quyền và “dân chủ đại diện” không phải là một tranh luận kỹ thuật mà là một sự nhượng bộ, theo nghĩa kinh tế của từ này, mà đỉnh hình tháp dành cho phần đáy để làm cho nó hài lòng và giữ cho nó ổn định.
Như đã lường trước, quan chức địa phương ngay lập tức sử dụng những phương tiện này để kín đáo tiến hành tư hữu hóa tài sản Nhà nước, hiện tượng này diễn ra ở khắp nơi. Vì những vụ lạm dụng có nhiều, mà báo chí lại đưa tin, nên Nhà nước còn đang đắn đo giữa việc nên mở hay đóng van lại tí chút. Chính sách bình ổn này cũng có phần khôn ngoan khi Nhà nước tiến hành thử nghiệm từng chút một, theo từng địa điểm và hoàn cảnh, theo cả tình hình công luận nữa, vì không gì cho thấy sự phân quyền này về lâu dài là có lợi cả. Không thể yên tâm khi soi kỹ vào từng địa phương và thấy ở đó cả tệ quan liêu, gian lận thuế, trộm cắp, lối sống ăn mồi của doanh nghiệp quốc doanh, đất nông nghiệp mất dần, sự xuất hiện của những “sứ quân”, những bè phái lộng quyền, đấy là còn chưa kể đến “thái độ hống hách” của một số công chức, theo lời lẽ của báo chí chính thống, khi các vụ xì-căng-đan đi xa đến nỗi đương sự phải chịu hình phạt, có khi còn bị khởi tố. Việc quyền lực trung ương giảm đi một chút khiến cấp cơ sở hài lòng mà vẫn giữ được sự bảo trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, đứng từ góc độ người dân, phương thuốc này có thể còn tệ hơn cả tệ : thay đổi tiêu cự không có nghĩa là thay đổi chế độ, mà còn làm nó mạnh hơn.
Hơn nữa, tham nhũng đã mở rộng ra đến cả việc tuyển chọn công chức : phải chi một khoản lớn mới có được một chân trong bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, một số vị trí là hoàn toàn do mua bán. Điều này không phải bí mật Nhà nước : ở Việt Nam ai cũng nói tới hiện tượng này và các báo miền Nam, bao giờ cũng táo bạo hơn, còn đăng những bức biếm hoạ xuất sắc về đề tài này. Một bức trong số đó cho thấy một chánh văn phòng gạt bỏ những hồ sơ xin việc ghi chữ “năng lực và bằng cấp” mà chỉ lấy hồ sơ chứa đầy đô la ; một bức khác vẽ một chiếc ghế ở tít trên cao một cầu thang làm bằng các phong bì chồng lên nhau.
Thông lệ này phổ biến nhanh chóng và từ đầu năm 2009 đến giờ, người ta nói về đề tài này khá thoải mái. Báo chí, lấy cớ ca ngợi các hình phạt do nhà chức trách ban ra, tha hồ kể chi tiết các trường hợp mua quan bán chức. Dần dà, độc giả hiểu ra rằng tính chất mua bán đã hằn sâu trong cả bộ máy Nhà nước, từ trên xuống dưới. Các nhà chức trách không thể không hành động. Hồi mùa thu 2010, một đại biểu quốc hội đã đặt câu hỏi về vấn đề này (nếu không được cho phép thì ông đã không thể liều mạng như vậy). Ngay trước hôm ông phát biểu, nguyên phó trưởng ban Tổ chức Đảng đầy quyền uy đã lên án tính chất mua bán đang gạt bỏ các nhân tài. Hai ngày sau, Bộ trưởng bộ Công Thương công khai chỉ trích căn bệnh mua quan bán chức đang “di căn”. Chính quyền chính thức công nhận hiện tượng này. Dưới sức ép dư luận, người ta bắt đầu nghe thấy nói về việc công khai tài sản mà các Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải làm trước khi nhậm chức, nhưng trên thực tế họ không bao giờ làm.
Việc mua quan bán chức này không hẳn là mới. Nó tồn tại từ giữa thập niên 1990. Người ta biết chuyện ông bộ trưởng nọ vừa mới được bổ nhiệm đã phải đợi 6 tháng để có đủ tiền trả cho cái ghế của mình trước khi được ngồi vào đó. Gần đây hơn, năm 2007, một nữ chủ doanh nghiệp một thành phố lớn phía Bắc đã đề xuất chi 80 ngàn EUR để được một chân đại biểu quốc hội : ít quá, nếu so với những đề xuất khác, nên bà này đã bị loại từ vòng sơ tuyển do Mặt trận tổ quốc tổ chức, mà lọt qua vòng này thì coi như được bầu. Trái lại, năm 2009, cũng khoản tiền ấy đã đủ để mua chức phó giám đốc một doanh nghiệp lớn của Nhà nước mà chúng tôi tránh không nói tên. Năm 2010, nghe nói ngay cả Ban chấp hành trung ương Đảng cũng không thoát khỏi hiện tượng này…
Khu vực đại học đặc biệt bại hoại từ năm 2009 khi Nhà nước triển khai đề án đào tạo hơn 2 vạn công chức trở thành tiến sĩ. Năm 2010, giá một luận án kinh tế là 12 000 EUR : 4.000 cho sinh viên viết thuê cho tiến sĩ tương lai (nếu cần thì dịch từ một khóa luận Liên xô từ đời nảo đời nào), 8.000 cho ông thầy hướng dẫn luận án rởm, thế là viên công chức nhà ta có được tấm bằng danh giá (dù sẽ chóng mất giá thôi) hanh thông quan lộ. Chúng ta hãy xem số tiền đó khủng khiếp đến mức nào : 8.000 EUR là ba năm dạy học của một giáo sư Việt Nam đổi lấy một con dấu. Để so sánh, có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp nhận một vali 100 000 EUR miễn thuế…
Từ năm 2005, tệ mua quan bán chức lan nhanh đến cả những vị trí bình thường. Một nữ hiệu trưởng, một trưởng phòng bưu điện, một nhân viên địa chính, một công an hay một lái xe đều phải trả những khoản tiền lớn mới được nhận vào làm. Một vị trí trung bình ở bộ Ngoại giao, ít bổng lộc, được thương lượng với giá 15 000 EUR, nếu là vị trí có thể được cử sang các sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thì còn cao hơn nhiều. Một chân công nhân doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội có giá từ 600 đến 800 EUR. Một chân giáo viên tỉnh lỵ giá trung bình 3 000 EUR.
Chúng ta cùng lấy một thí dụ cụ thể : cô gái tên Phương chấp nhận nói chuyện với chúng tôi vì chúng tôi quen gia đình cô. Năm nay (2010), Phương 23 tuổi, tốt nghiệp marketing và tài chính tháng 6/2009. Cô mong tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước, ổn định hơn, có nhiều phúc lợi xã hội, được tổ chức cho đi nghỉ mát, giờ làm thoải mái hơn, và, cô nói với một sự ngây thơ đáng ngưỡng mộ : “có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn trong tương lai vì ngân hàng quốc doanh kiểm soát tất cả”. Không do dự, tháng 1/2010, cô mua một chân nhân viên thường trong một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội, với khoản tiền còm là 16 000 EUR, cô trả bằng tờ xanh đô la Mỹ. Cô kể chúng tôi nghe điều này với giọng vô cùng tự nhiên, như thể đương nhiên là phải thế.
Khi cô kể chuyện gia đình cô bàn bạc quyết định chuyện mua chỗ làm như thế nào (vì bố mẹ cô mới là người trả tiền chứ cô chẳng có xu nào), chúng tôi hiểu là vấn đề không phải là việc mua chỗ làm ấy, mà là việc đầu tư vào đấy có tốt không, có hiệu quả không, chỗ ấy có đảm bảo không. Nếu bỏ ra 16 000 EUR, thì bao lâu mới thu lại được ? Liệu vài năm sau con bé có bị đuổi vì một lý do trời ơi nào đấy để dành chỗ cho một đứa khác cũng chấp nhận trả tiền không ?
Còn về đường đi của đồng tiền, chúng tôi không biết chính xác số tiền trong phong bì được chia chác như thế nào, dù đương nhiên là nó sẽ được chia nhỏ cho tất cả mọi mắt xích trong “đường dây tuyển dụng”, một đường dây dài và lên rất cao. Trái lại, chúng tôi biết đích xác một phó giám đốc chi nhánh quận của một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội kiếm được 40 ngàn EUR hối lộ mỗi năm, chủ yếu là từ các món quà nhỏ anh ta nhận được để dựng hồ sơ vay vốn ưu đãi. Dù Phương không phải là phó giám đốc, nhưng nhẩm nhanh thì cũng thấy số đầu tư ban đầu của cô sẽ chóng hoàn vốn thôi, cùng lắm cũng chỉ 2 năm. Cô chỉ có mỗi việc là làm sao đừng để bị sa thải trong hai năm ấy, nếu không thì mất hết. Nên thể nào cô cũng ngoan với các sếp, rất ngoan. Chu trình tham nhũng tạo ra kỷ luật…
Dù sao, trong khu vực công (khu vực tư có vẻ ít bị ảnh hưởng hơn), thường là một người mang nợ mới được đi làm. Để hoàn vốn, làm sao mà không rơi vào vòng xoáy tham nhũng cho được ? Một khi đã mua được chỗ làm rồi thì phải làm sao kiếm lại đủ số tiền ấy, trả cho bố mẹ, và trong nhiều trường hợp (không phải của Phương) thì còn phải trả nợ những người mình đã vay. Khách quan mà nói, làm sao tránh khỏi cám dỗ kiếm tiền bù lại số mình đã bỏ ra bằng cách tuyển cấp phó theo đúng cách ngày xưa mình đã được tuyển ? Bán dịch vụ của mình với giá cao ? Phổ biến thông lệ hối lộ để kiếm lại tiền một cách nhanh nhất ? Theo hệ thống, nạn hối lộ lây truyền ra khắp nơi, đến tất cả mọi người : vòng tròn đã khép kín.
Đầu tiên là tìm cách lấy lại tiền ; sau đó thành nếp rồi thì chuyển sang giai đoạn kiếm lời. Về chủ đề này, chúng tôi cảm thấy có một sự mỉa mai chua chát và đau khổ, rất đau khổ, trong những lời lẽ chán chường của một người bạn bác sĩ : “Suy cho cùng thì đây là một hệ thống tốt để tự gây tê sự liêm khiết của bản thân : giai đoạn lo kiếm đủ tiền bù lại số đã bỏ ra làm ta tỉnh táo mà làm quen dần với giai đoạn sau khi ta sẽ thu lời.” Việc hoàn vốn trở thành bước đệm để đến với nạn hối lộ trên diện rộng hơn. Tuy nhiên, không phải ai mua chỗ làm cũng nằm trong hoàn cảnh này. Một tỉ lệ lớn con em cán bộ và công chức cao cấp ở tỉnh lấy tiền của bố mẹ mà mua chỗ làm ở thành phố ; họ chẳng phải lo kiếm tiền trả lại gì cả, chỉ việc ngoan ngoãn mà phát đạt, mà ăn ở tiện nghi tại căn hộ gia đình đã đầu tư cho.
Lạm dụng quyền lực địa phương, bán chức bán quyền và tham ô lặt vặt hàng ngày : thách thức là to lớn và muôn hình muôn trạng. Việt Nam, một trong những nước thụ hưởng nhiều nhất viện trợ phát triển và hợp tác quốc tế, nằm trong một vùng cực kỳ cạnh tranh, ngay bên cạnh người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc, hiểu rằng mình cần vượt qua bằng được thách thức này nếu không muốn làm xấu hình ảnh đất nước. Hơn cả những lời tuyên bố đức hạnh chả mấy người thấy lọt tai, lối thoát chính là ở chỗ phải xây dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả và phát triển các giao dịch ngân hàng thay cho giao dịch bằng tiền mặt. Những thử nghiệm đầu tiên đã đem lại kết quả tích cực, thu được nhiều thuế hơn và kết thúc xì-căng-đan biển thủ tiền lương đã kéo dài suốt bao lâu. Một chương trình áp dụng rộng rãi thuế thu nhập đang được triển khai, có thể thấy phía sau các xe taxi ở thành phố Hồ Chí Minh đều có dán tờ tuyên truyền động viên các gia đình khai thuế. Trong lĩnh vực thương mại cũng vậy, việc chuẩn hóa và tự động hóa các thủ tục đã giúp mang lại cho nền kinh tế chính thống một phần những hoạt động trước đây không được khai báo.
Người ta cảm thấy gì và suy nghĩ ra sao?
Báo chí đóng vai trò chủ yếu trong việc tố giác hối lộ. Tất nhiên, ở Việt Nam cũng như ở nơi khác, đại đa số các trường hợp là các nhân vật hạng hai bị đưa ra cho thiên hạ đàm tiếu, sỉ nhục, chứ mấy khi là các vị lãnh đạo chóp bu, và việc kết tội nhận hối lộ là một thứ vũ khí thuận tiện để hạ gục một kẻ thù chính trị hay loại bỏ một đối thủ cạnh tranh. Dù sao vẫn phải công nhận rằng những nhà báo dám tố giác tệ nạn này là rất dũng cảm.
Hè 2009, họ cho đăng một loạt biếm họa khiến người ta phải bàng hoàng. Một trong số đó vẽ cảnh một vị sếp hỉ hả đứng ngắm lực lượng chống tham nhũng mới của mình : trên một cái két sắt đầy tiền bẩn, hai con vẹt không ngừng hô khẩu hiệu chính thức chẳng có tính cam kết nào “Chống tham nhũng ! Chống tham nhũng ! Chống tham nhũng !”. Biện pháp này thật quyết liệt, nhân viên của ông ta tung hô ; dù sao thì với họ, chống tham nhũng như thế là đủ và việc làm ăn cứ thế tiến triển. Một số biếm họa khác vẽ cảnh những phong bì dày cộp đang nhảy múa, những chiếc áo bác sĩ túi sâu hoắm, những cây xăng ăn gian, những tòa biệt thự được mua với giá bèo, viên chức Nhà nước làm việc cho tư nhân, tay công chức điền kinh đẩy tài sản công đến điểm đến tư nhân, v.v… Báo chí và blogs sử dụng nhiều cách diễn đạt dân dã nhưng rất chuẩn như “xà xẻo công quỹ”, “ăn chặn”, hay hình ảnh hơn là “bàn tay nhớp nháp của quan chức”. Gõ từ “xà xẻo” trên Internet, bạn sẽ thấy hàng trăm tài liệu tham khảo, bài báo, thư độc giả, forums, blogs và bình luận bất bình việc xà xẻo tiền đền bù giải tỏa, gạo cứu trợ khẩn cấp sau lũ, tiền chính phủ cấp cho dân nghèo nhân dịp Tết Nguyên đán.
Có thể thấy người dân khó chịu với nạn tham nhũng có mặt mọi lúc mọi nơi. Giới thanh niên, mơ tưởng sự hiện đại mà lại đối mặt với thất nghiệp, bức xúc. Lứa trung niên tìm cách xoay sở, giống như trường hợp người bạn chúng tôi đã nhắc đến ở trên, vì quá chán cảnh suốt ngày phải đưa phong bì nên đã quyết định rút con gái ra khỏi trường công (chương 3). Còn những người lớn tuổi hơn, những người từng chiến đấu hy sinh, nếu nói họ thất vọng thì e là chưa đủ : họ cảm thấy bị sỉ nhục, lòng tự hào dân tộc bị tổn thương sâu sắc đến nỗi họ cảm thấy nhớ tiếc thời xã hội chủ nghĩa liêm khiết, thời nghèo đói nhưng đạo đức. Một trong các tác giả cuốn sách này nhớ về một cựu chiến sĩ, một trí thức vỡ mộng, chán ngán chế độ nhưng yêu nước đến tận cùng : mắt ông nhòa lệ khi đọc số tháng 2/2009 của tạp chí Time phản ánh chuyện quan chức Việt Nam xà xẻo tiền xóa đói giảm nghèo cho khu vực nông thôn. Tính ô nhục của sự việc, sự phản bội lý tưởng, nỗi xấu hổ khi bị người Mỹ quở trách : tất cả những cái đó là một đòn nặng đối với ông.
Nhân đây, cũng phải nói rằng chủ nghĩa dân tộc có phần thái quá của người Việt, nỗi rung động mỗi khi nghe ai đó nhắc đến tên nước họ, cũng là cội nguồn của một phẩm cách lớn. Hàng trăm, hàng ngàn lần, nhất là sau vụ PMU 18 – biển thủ với số lượng lớn tiền đi vay Nhật Bản -, chúng tôi được nghe nói rằng tham nhũng và biển thủ công quỹ làm xấu hình ảnh Việt Nam ở nước ngoài, làm cho chính phủ nước này bị liệt vào hạng “chuối” (vẻ ngoài là theo chính thể cộng hòa nhưng thực chất là chính phủ độc tài, tham nhũng – chú thích của người dịch). Vậy mà, chắc chắn đất nước này và nhân dân đất nước này xứng đáng được hơn thế rất nhiều.
Nhưng chớ có ngây thơ : với số lượng lớn công chức như thế, phần lớn các gia đình đều có ít nhiều tham gia vào hệ thống. Cái mà người này đem nộp cho công an hay cô giáo, người kia đã lấy từ một trong số những người dân mà mình cai trị ; bán giấy phép lái xe thì có tiền trả viện phí cho mẹ. Một viên chức quèn có thể tăng thêm hai, ba lần thu nhập, nhưng lại phải chia nó ra hai, ba lần ngay lập tức, vì anh ta cũng phải bôi trơn hệ thống. Tiền kiếm được do khai sai thuế kinh doanh hằng năm lại đi ngay vào túi người đến thu tiền điện. Tham nhũng tốn kém hay mang lại lợi ích là còn tùy trường hợp. Một hệ thống kế toán phức tạp, cả bên có cũng như bên nợ, làm cho việc tính toán mức sống thật của người dân là không thể, trừ phi phải điều tra từng trường hợp một.
Trước sự cần thiết phải kiếm vài ba xu để trang trải cho những khoản chi thường xuyên, làm việc cho Nhà nước suy cho cùng cũng không đến nỗi tệ lắm, dù có phải bỏ tiền ra mua chỗ. Làm ở đó coi như có bảo đảm về thu nhập, hay tối thiểu là đảm bảo có các phương tiện để kiếm thu nhập. Trong điều kiện đó, người ta sẽ bớt ngạc nhiên hơn khi thấy vài năm trở lại đây, có vẻ như làm việc cho Nhà nước lại trở nên hấp dẫn với nhiều người. Thời mới mở cửa, giới trẻ chỉ mê làm cho tư nhân, lương càng cao càng tốt, trong một doanh nghiệp nước ngoài, chứ Nhà nước hồi đó chỉ như vầng trăng đã cũ. Ngày nay thì khác : người ta chen nhau vào làm cho Nhà nước, nên mới có chuyện mua quan bán chức.
Đương nhiên, sự an toàn từ việc làm cho Nhà nước và sự teo tóp của khu vực tư nhân là những lý do chính. Tuy nhiên, còn phải tính đến những nguồn lợi tức “ngoài lương” trong khu vực công. Không phải khoản nào cũng phi pháp vì Nhà nước tặng cho nhân viên của mình một dạng độc quyền trong việc tham gia các dự án quốc tế với mức thù lao hậu hĩnh. Dù sao, có hợp pháp hay không thì cơ hội kiếm tiền trong lĩnh vực công cũng nhiều hơn so với làm ở doanh nghiệp tư nhân, trừ khi là được lãnh đạo doanh nghiệp. Vào biên chế chính thức và có thẻ Đảng là một, có đầu óc kinh doanh và có mạng lưới chắc chắn là hai, tất cả lại được cài trên một vị trí béo bở như một tấm đệm đỡ, đó chính là điều kiện lý tưởng để đối mặt với tương lai. Sự tù mù này không phải là tình cờ. Đó chính là trò chơi có tính toán của Đảng, hay của chính quyền nói chung. Nay họ chỉ còn việc để những người đã quá mệt mỏi đi tìm việc đến với mình, những người này cũng chỉ cần kiếm đủ sống thôi : trong khi thắt chặt lĩnh vực tư nhân, họ thu hút, sáp nhập và biến lĩnh vực tư thành đồng phạm.
Về tham nhũng, cũng như về những thứ khác, ta thấy ở Việt Nam có nhiều ý kiến trái ngược, bất ngờ, phản loạn và gây khó chịu. Chúng ta có thể đồng ý hoặc không. Nhưng chúng ta thấy rõ ràng là nghịch nhĩ. Có một điều mà nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần cũng không đủ : Việt Nam có thể là đủ thứ, nhưng quyết không phải là một tảng đá liền khối. Quả vậy, một số những người nói chuyện cùng chúng tôi có cách lập luận về tham nhũng thoạt tiên gây tò mò, nhưng sau đó khiến chúng tôi suy nghĩ. Họ không đồng ý coi tham nhũng là do lương công chức quá mạt hạng. Họ nói rằng phần lớn người Việt cũng chẳng kiếm hơn được bao nhiêu, nông dân thì còn tệ hơn trong khi công việc lại nặng nhọc. Hơn nữa, những kẻ đã tham nhũng thì trước hay sau khi giàu lên cũng vẫn cứ tham nhũng như thế, có khi lại còn hơn vì họ có nhu cầu mới ; nếu tham nhũng chỉ để nâng đỡ tầng lớp công chức nghèo khó, thì lý lẽ vì lương công chức quá mạt hạng mới sinh tham nhũng còn có thể đứng được, nhưng thực ra không phải vậy. Phân tích của họ vượt qua giới hạn những cá nhân để nghiên cứu cả cấu trúc hệ thống : họ nhấn mạnh rằng tham nhũng làm mềm đi một hệ thống về bản chất là không thể vận hành được. Các quy tắc của nó hiện nay không thể áp dụng được, trừ khi trở lại với sự ỳ trệ bảo thủ của những năm 1970-1980, mà hệ thống ấy đúng là được thiết kế ra để mà ỳ trệ bảo thủ, mãi đến bây giờ vẫn vậy, chỉ có điều không ai muốn quay lại thời kỳ đó nữa.
Nạn quan liêu nặng nề, chậm chạp, đầy giấy tờ phiền phức, không thể giải quyết những phức tạp mới nảy sinh và đòi hỏi sự nhanh nhậy của thời cuộc. Dưới 1/3 số công chức huyện có trình độ đại học, ở cấp làng xã là dưới 4%. Nên không có cái gì làm bộ máy chạy nhanh hơn, hiện đại hóa nó, cải tiến nó, nên nó cứ tiếp tục kêu ro ro như cũ, sa lầy trong những cách thức quản lý của thời xa xưa. Mỗi mình Đảng quyết định, làm cho Nhà nước ở dưới chỉ còn là một đám những nhân viên không phân biệt nổi bị tê liệt vì không ai trong số họ có được tiếng nói cuối cùng. Quản lý lạc hậu và hành động tê liệt : tham nhũng chính là để bôi trơn cho những bánh xe cũ kỹ ấy. Hay, như một phép ẩn dụ lạ lùng mà một người Việt đã sử dụng, “tham nhũng chia ba số bánh răng làm chạy cỗ máy Việt Nam”. Cách nhìn kiểu cơ khí này, theo nghĩa đen, không sai. Đứng ở góc độ người đi hối lộ, một tờ tiền khéo léo nhét vào đúng chỗ làm đỡ tốn mấy ngày vô ích, thủ tục rườm rà, chẳng được việc gì mà cứ áp đặt người ta phải theo. Hối lộ làm cuộc sống khó khăn, nhưng nếu không có nó thì không sống nổi. Một ngày nào đó, nó sẽ lại vấp phải một trong số các bánh răng nhỏ vẫn cưỡng lại áp lực, mà điển hình nhất trong số đó từ lâu nay vẫn là : “Không hộ chiếu thì khỏi visa, không visa thì khỏi hộ chiếu”.
Trò chơi phong bao, mất là được
Tuy nhiên sẽ là ngây thơ nếu nghĩ rằng trò chơi này là bình đẳng với tất cả mọi người. Không phải ai cũng có khả năng xoa dầu vào tay, hay nói theo kiểu thế kỷ XVII, là “tra mỡ cho búa” (lót tiền cho người gác cổng). Tháng 11/2009, Hiệu Minh đã viết trên blog của mình một bài chua xót nhẹ nhàng nhan đề “Phép số học phong bì”, mở đầu như sau : “Ai đưa cũng thắng, ai nhận cũng thắng. Chắc chắn phải có người thua : họ là ai?”.
Để biết được điều này, tay blogger học sâu hiểu rộng này giải thích cho chúng ta rằng trước hết phải hiểu được nguyên lí của tham nhũng. Nó gần giống như “trò chơi phong bao” của các quý tộc, quan lại ngày xưa : hai người chơi mỗi người bỏ vào phong bao một khoản tiền nhất định. Nếu khoản tiền bằng nhau thì coi như ván ấy hòa ; nếu không thì người bỏ số tiền ít hơn sẽ thắng và được luôn cả phần của người kia. Nghe có vẻ lạ đời. Người ta có thể tự nhủ thôi thì cứ bỏ số tiền ít nhất vào là sẽ thắng, và rằng trò này thật vô nghĩa vì đối phương cũng có thể làm y như vậy. Nếu để ngược lại thì nghe có vẻ hợp lý hơn: tiền to hơn sẽ thắng. Tuy nhiên, trò chơi cổ xưa này có cái logic của nó, một thứ logic cũng cổ xưa, làm cái được thua bị đảo ngược : kẻ thắng nhục nhã khi nhận tiền, người thua tự hào vì đã không thèm đếm tiền. Kẻ nhét được phong bao vào túi có chiến thắng của kẻ bòn từng xu, trong khi người hào phóng nhường chiến thắng lại làm cho kẻ đó hiểu rằng anh ta cũng chẳng thèm. Kẻ được đồng tiền, người được danh dự, và trò chơi phong bao mà người ta cứ tưởng là trò cờ bạc này lại là một trò chơi danh giá vì những bậc trí nhân quân tử đều không muốn bị coi là đồ keo bẩn. Một cách tinh tế, thách thức biến thất bại thành chiến thắng và chiến thắng thành điều nhục nhã. Tính chất “chơi” chuyển sang hướng khác: giành lấy danh dự bằng cách bỏ vào phong bao khoản tiền vừa đủ để chỉ vượt qua đối thủ một chút xíu.
Trong trò “mất là được” này, blogger của chúng ta viết tiếp, kẻ tham nhũng luôn mất. Vì suy cho cùng, khi đến kì kiểm tra, sinh viên có thể mua được kiến thức và danh dự của thầy với giá rẻ ; nông dân giàu có thể mua được phẩm giá của bác sĩ ở thành phố lớn ; và mỗi người đều có thể sắm với giá bèo đạo đức của Nhà nước bằng cách mua chuộc một quan chức hay mua một chỗ làm. Có sự thích thú của người chơi, nhưng là người chơi theo lối cổ, trong ý tưởng tinh tế là hạ thấp uy thế của kẻ đang thống trị. Cho nên, vượt lên những mục đích trước mắt, trên cả việc được điểm tốt trong kỳ kiểm tra, được chăm sóc tốt hay được hưởng các đặc ân, hành động nhường phong bao thể hiện sự thâm thúy của một sự phục thù xã hội, gần như là chính trị, từ phía kẻ được thật sự đối với kẻ chiến thắng giả.
Phân tích của Hiệu Minh không nhằm mục đích biện minh cho tham nhũng. Nó chỉ cố gắng, theo phép loại suy, nắm được những động lực tâm lý để giải thích cho những cách hành xử chúng tôi đã nhiều lần quan sát được ở Việt Nam. Trò chơi, cũng như tham nhũng, không đòi hỏi phải có khoản tiền cược lớn. Chỉ cần 100 ngàn đồng (4 EUR) nhét vào túi áo công an. Phần lớn người Việt Nam dị ứng với điều này (chúng tôi đã nói ở trên); những người khác không khó chịu với những chiến thắng nho nhỏ qua đó họ cho thấy họ không để cho người khác muốn làm gì thì làm. Tay công an tưởng trúng quả, nhưng anh thanh niên đi xe máy mới là kẻ cười khẩy khi thấy mình bỏ có mấy xu mà cũng được cái sướng là làm sa đọa lực lượng kiểm tra, nghĩa là làm cho họ yếu đi. Vả lại, anh ta ngay sau đó sẽ đi kể cho các bạn mình nghe và trong câu chuyện của anh ta sẽ có nửa phần cười cợt, một phần tư bức xúc và một phần tư khinh bỉ. Cảm giác cũng y như vậy với nhà văn bỏ tiền ra mua lòng khoan dung của kẻ kiểm duyệt, người cha chạy cho con thoát nghĩa vụ quân sự, bà bán hàng rong hối lộ công an, nhà báo hay nghe lời bỗng dưng phá lệnh, vị đại biểu quốc hội tự nhiên thành kẻ phản nghịch, hay những người miền Nam không thấy khó chịu khi được phục thù đối với miền Bắc bằng cách sỉ nhục họ với những vali đầy tiền.
Còn những người mất thật sự, vì kiểu gì cũng phải có người mất, thì, trái khoái thay, đó chính là những người không tham gia vào cuộc chơi : những người nghèo, những người không xu dính túi, những người tay trắng không có đủ tiền nhét vào phong bì. Tiền cược ban đầu, dù ít đến đâu, cũng quá sức họ. Họ dành thú vui phạm luật cho những kẻ có điều kiện, những kẻ nổi được, những kẻ khôn khéo, ma lanh, ở thành phố hay thị xã. Tờ tiền 100.000 đồng, với họ, đã là tương đương với 4 ngày quần quật dưới bùn nơi đồng ruộng hay trong đống xi măng nơi công trường : nếu đặt cược gấp 8 lần, họ sẽ mất hết. Cho nên ta không thấy họ, họ ở xa cuộc chơi và không ai nhắc đến họ cả. Không gì cho thấy họ sẽ còn chịu đựng lâu được việc mãi không được hưởng sự bình đẳng bề ngoài này, sự bình đẳng an ủi người ta và giúp người ta chịu đựng bất công. Trong khi kẻ có của, dù ít, chơi trò “mất là được”, những kẻ khố rách chỉ biết lăn lưng ra mà làm.
SỐNG VỚI NGƯỜI VIỆT (4)
Tác giả: Philippe Papin và Laurent Passicousset
Người dịch: Hoàng Hà. Hiệu đính: Diệu Linh
CÔNG, TƯ: NHỮNG MÁNH KHÓE LỪA ĐẢO CŨ RÍCH
Sau cơn bão Ketsana, chúng tôi đi tàu hỏa đến Đà Nẵng, thành phố khôn ngoan không để lộ ngay hết nét duyên thầm của mình. Nếu đến bằng đường quốc lộ, dù điểm vào thành phố là ở đâu thì cũng thấy đầy rẫy các loại xe tải và xe chở công ten nơ. Ầm ĩ và bụi bặm. Đâu đâu cũng thấy vận chuyển hàng hóa. Thành phố sống theo nhịp của cảng. Thành Tourane ngày xưa, trở thành căn cứ quân sự Mỹ trong chiến tranh, một thời gian dài sống nhờ vào cảng biển. Mới năm 2010 đây thôi, nhờ một địa điểm đặc biệt nằm lọt trong một vịnh vòng cung ba phần tư khép kín, thành phố thu hút rất nhiều tàu du lịch hạng sang, bổ sung thêm cho lượng khách du lịch đông đảo vẫn đổ xô đến bảo tàng Chàm, thánh địa Mỹ Sơn, Ngũ Hành Sơn và khu thương cảng cổ Hội An. Bãi biển Mỹ Khê tuyệt đẹp, nơi trong chiến tranh lính thủy đánh bộ Mỹ vẫn về nghỉ phép, cũng không hề tỏ ra thờ ơ với khách vãng lai. Tiếc thay, chúng tôi đến Đà Nẵng đâu phải để du lịch, càng không phải để đi tắm biển.Thăng trầm một gia đình doanh nhân
Chúng tôi đến thăm vợ chồng ông bà Luân-Ngọc, hầu chuyện họ có rất nhiều điều thú vị. Ông bà sống trong một căn nhà nhỏ nơi trung tâm thành phố, giống như ở Hà Nội hay Hải Phòng, những căn nhà như vậy được xây sau năm 1954 trong vườn của những tòa biệt thự mặt phố của thực dân ngày xưa. Cho nên cứ phải đi một vòng mới tìm lại được căn nhà lớn nay đã xuống cấp, nơi 23 người là con cháu của những người chủ xưa hiện nay đang sinh sống. Nhà chủ xưa không phải người Pháp. (Người ta thường hay quên rằng những người Việt giàu có cũng sở hữu các biệt thự kiểu thực dân như thế này). Với 3 tầng gác, ban công chấn song và mái bằng nơi quần áo phơi cạnh bàn thờ tổ tiên, căn nhà của ông bà Luân-Ngọc gần như không có gì đặc biệt, có chăng là ở chỗ ông bà không tận dụng khoảng không gian giữa phố và phòng khách để mở cửa hàng.
Họ có đủ tiền để không cần phải bán đồ ngũ kim, quần áo hay bàn ghế Trung Quốc, nhưng vẫn luôn mở rộng cửa suốt cả ngày, làm việc của mình mà không ngại thiên hạ dòm ngó. Để thế cho thoáng, cho đỡ buồn và cho giống ở quê. Vả lại, trong các khu chung cư hiện đại người ta vẫn sống như thế. Cửa vào các căn hộ được đánh dấu bởi đủ kiểu giày dép các loại nhưng hàng xóm vẫn có thể vào được.
Ngôi nhà của ông bà Luân-Ngọc đang lâm nguy. Từ vài năm nay, số lượng các dự án bất động sản tăng nhanh, làm thay đổi bộ mặt thành phố. Nhà cao tầng thương mại mọc lên trong trung tâm thành phố, chung cư ở ngoại vi, biến Đà Nẵng thành một công trường khổng lồ không lúc nào ngơi nghỉ, mật độ nhà ở không tăng nhưng nhà cổ bị phá đi không thương tiếc. Tuy thế, ông bà bạn chúng tôi không tỏ ra lo lắng mấy.
Ông Luân nhận xét tuy khoảng hơn 20 dự án lớn đã triển khai, phần lớn các khu nhà vẫn còn nằm trong giai đoạn áp phích quảng cáo và những pa nô tuyên truyền về một khu đô thị mới sắp ra đời “giàu, đẹp, văn minh, hiện đại”. Từ thiết kế đến thực tế còn xa. Vả lại, phản đối để mà làm gì? Như ông Luân, con người của vận động và nghị lực phi thường, vẫn nói: “Hướng của lịch sử là như thế. Không thể cứ mãi là một cảng công nghiệp trong suốt hàng thế kỷ được!”.
Người thấp, đậm, khoảng ngoài 60, cực kỳ thân mật, ông Luân không chịu ngồi yên. Từ lúc chúng tôi tới đến giờ khoảng 10 phút, ông đã gọi đến 3 cuộc điện thoại, mời trà, tưới cây và đi 200 mét qua phòng khách, nhà bếp, ra phố, vào phòng ngủ. Năng lượng của người đàn ông này thật không tưởng. Vợ ông giữ kẽ bao nhiêu thì ông lại nói nhiều và hăng bấy nhiêu về tất cả những gì đang vận động và thay đổi. Không gì làm ông chán bằng sự lặp đi lặp lại, thói quen hay truyền thống. Đời sống nghề nghiệp của ông là minh chứng cho khả năng thích nghi vốn làm nên sức mạnh của nhiều người Việt Nam. Sự trải nghiệm của ông ở thời điểm bản lề giữa hai chế độ chính trị cho chúng tôi hiểu thêm về giới kinh doanh và về sự ảnh hưởng của những thói quen năm xưa đến cách làm ngày nay.
Ông Luân cưới vợ năm 1965, khi những người lính Mỹ đầu tiên tới Việt Nam. Lúc đó ông bà là chủ một doanh nghiệp nhỏ chuyên vận tải đường bộ. Họ có 3 xe tải, lấy được từ kho quân đội Pháp, và một nhà kho phía bắc thành phố, không xa ga xe lửa và cảng biển là mấy. Nhờ nguồn cầu lớn từ quân đội chính quyền miền Nam Việt Nam được Mỹ thành lập và tài trợ, doanh nghiệp của ông bà phát triển nhanh chóng. Tham dự tất cả các đợt đấu thầu, hết hợp đồng này đến đặt hàng khác, doanh nghiệp trở thành số một của thành phố, rồi của cả vùng, đến mức mở rộng ra cả Sài Gòn, vốn là đất riêng của giới mafia địa phương và Hoa kiều.
Khi đã có trong tay 4 chiếc xe tải cũ, năm 1967, ông Luân tậu thêm 8 tiếng Ford mới coóng vài năm liền sau này sẽ ngược xuôi trên khắp các tuyến đường phía Nam. Ông thú nhận thời đó ông bà giàu lên trông thấy. Vợ ông ngồi đó và không có vẻ gì là muốn cải chính lời chồng. Tiền vào như nước, tỷ lệ thuận với việc Mỹ ngày càng can dự sâu hơn vào chiến trường miền Nam, và với mức gia tăng nguy hiểm cho các chuyến xe. Chính trị không phải là vấn đề. Như tất cả mọi người, một mặt ông Luân trao phong bì cho các công chức miền Nam, mặt khác ông lại trả thuế cách mạng cho những người thân cộng sản (thậm chí có lần, năm 1972, ông còn vận chuyển nhiều thùng súng máy kalachnikov giấu dưới các bao xi măng).
Khi quân đội miền Bắc chiếm được Đà Nẵng tháng 3 năm 1975, mọi thứ đột nhiên sụp đổ hết. Vì có quan hệ với những người chiến thắng nên ông thoát khỏi tình trạng tồi tệ nhất là phải vào trại cải tạo. Nhưng những quan hệ ấy không đủ để giúp ông giữ việc kinh doanh: từ hôm trước đến hôm sau, doanh nghiệp của ông bị quốc hữu hóa, tài sản bị tịch biên. Ông bà Luân-Ngọc hoàn toàn trắng tay, sống khép mình lại và không dám thử hối lộ các cán bộ chính quyền mới nhằm giữ lại chút gì, có chăng chỉ là ngôi nhà ngày nay ông bà vẫn đang ở. 15 năm sau đó, ông bà sống cũng không cực khổ lắm, vì có mấy cây vàng như tất cả các gia đình Việt Nam thời đó vẫn dùng để bảo quản tài sản ngay trước thời điểm tháng 4/1975. Tuy sống không cực, nhưng ông bà phải rất dè chừng, không để ai thấy mình sống không khổ bằng họ: “Cái xa xỉ nhất lúc đó là ăn thịt gà nhờ người ta mua hộ, mà cắt gà phải cắt bằng kéo chứ nếu chặt bằng dao thì sợ hàng xóm nghe thấy mất, nhỡ họ lại đi tố cáo thì chết”. Đến đây thì chuyện chẳng có gì lạ, vì ai chẳng thế. Phần tiếp theo mới cho chúng ta thấy mọi chuyện ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa diễn ra như thế nào.
Đầu tiên là doanh nghiệp của ông bà Luân-Ngọc không biến mất. Nó chính thức được nhập vào sở Giao thông vận tải tỉnh, dưới cái tên bí hiểm “công ty 28”, đặt dưới sự quản lý của cán bộ ủy ban nhân dân thành phố, và họ nhanh chóng hiểu rằng cần phải làm gì để khai thác nó cho hiệu quả nhất. Mấy chiếc Ford được vội vã gắn thêm xi téc vào khung xe để chở xăng từ các kho miền Bắc đến các kho miền Nam. Việc chọn mặt hàng này là đúng sách vì xăng là mặt hàng duy nhất được mua bán tự do, chỉ đơn giản là vì miền Nam quá cần và việc trao đổi trái ngược hẳn với những gì diễn ra ở chợ đen khổng lồ và nhục nhã vẫn chuyển hàng hóa tiêu dùng từ phía Nam ra phía Bắc. Việc làm ăn này của doanh nghiệp vừa kín đáo, hợp pháp lại có lãi, đến nỗi cuối cùng các cán bộ thành phố coi đó là tài sản của mình. Họ lập ra sổ kế toán kép và chia lãi với nhau, sự vi phạm nhỏ này đối với chủ nghĩa xã hội không làm ai thấy phải lăn tăn gì, chẳng qua nó chỉ như một sự đền bù thích đáng cho những thiếu thốn họ đã phải trải qua suốt những năm chiến tranh. Đó chính là sự xuất hiện, ngay năm 1975, của một thực tế sau này sẽ còn kéo dài: tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước ngay trong lòng của nó.
Vài tháng sau, cán bộ đến nhà nhờ ông Luân giúp. Tổ chức các chuyến xe, quản lý các kho nhiên liệu, tìm lái xe giỏi và thợ máy đáng tin cậy: đâu phải tự nhiên mà làm được. Thế là ông lại đi làm. Thời gian đầu là làm tư vấn ở nhà, sau đó ông được mời đến giúp việc cho sở Giao thông, một vị trí thuận lợi để các sếp trên có thể nhờ đến những lời khuyên của ông. Ông không phải công chức, cũng chẳng phải đảng viên, nhưng đã tìm được chỗ đứng trong xã hội mới và nhờ thế mà có cách xóa đi quá khứ doanh nhân tư bản của mình. Về mặt chính thức thì lương ông chỉ ba cọc ba đồng, nhưng thực tế ông kiếm được nhờ việc thỉnh thoảng tham gia chở lậu xà bông, dầu gội đầu, quần áo, ti vi, máy điều hòa Mỹ giấu trong xi téc chở xăng. Ông cựu chủ doanh nghiệp sống lay lắt trong cái doanh nghiệp nửa nhà nước nửa mafia đang đi những bước chập chững đầu tiên này.
Thập kỷ đầu tiên sau mở cửa, từ 1986 đến 1995, ông bà Luân-Ngọc tận hưởng tối đa sự tiếp tay của các quan chức thành phố, trong đó một số đã trở thành bạn bè. Chính họ đứng ra bảo trợ cho ông vào đảng năm 1994, bất chấp những hoạt động ông đã làm trong chiến tranh và lý lịch có vấn đề của ông (cha ông làm cho bưu điện thời thực dân). Vậy là ông có thẻ đảng, thứ không phải là thực sự thiết yếu nhưng, như ông vẫn nói đùa là “cái mà không có nó thì”.
Về phần mình, bà Ngọc cũng tham gia cuộc chơi. Bà gia nhập hội phụ nữ và hoạt động “nhiệt tình như gái đôi mươi”, theo lời bà. Được bảo vệ trên phương diện chính trị, năm 1996, ông bà thành lập một doanh nghiệp vận tải mới và ngay lập tức liên doanh với “công ty 28” vì chẳng thể khác được, làm ăn với một doanh nghiệp về mặt chính thức vẫn là doanh nghiệp nhà nước thì dễ có lãi hơn nhiều. Phải ghi nhận điều này: doanh nghiệp năm 1996 khác hẳn với doanh nghiệp đã từng hoạt động trong chiến tranh. Không phải là quay lại với cách kinh doanh tự do kiểu cũ mà là một hình thức kinh tế mới, một cách kinh doanh chưa từng có và sự thực là đặc biệt hợp với bối cảnh bấy giờ. Nghe có vẻ trái khoáy. Vào thời điểm mà chủ nghĩa xã hội như vầng trăng đã cũ, các doanh nghiệp nhà nước sa thải hàng loạt, đầu tư nước ngoài ồ ạt đổ vào và biên giới được mở ra, những người bạn của chúng tôi lại chọn cách núp bóng Nhà nước. Cách đấy hóa ra lại hay: doanh nghiệp của họ không ngừng ăn nên làm ra trong cả chục năm.
1975: Hà Nội gặp thị trường
Đến lúc này, câu chuyện của ông bà Luân-Ngọc đã rất bổ ích vì nó cho thấy cú sốc của sự thống nhất năm 1976, sau suốt 30 năm chiến tranh, thực tế đã phức tạp hơn vẻ ngoài của nó rất nhiều. Về mặt chính trị, chiến thắng áp đảo của chế độ Hà Nội và những người thân cộng sản đã trói buộc miền Nam, nơi dân chúng bị buộc phải lưu vong, giới tinh hoa địa phương bị đi cải tạo, cộng sản trở thành ông chủ và, trong khi bầu không khí nói chung chuyển sang màu đỏ Mạc-Tư-Khoa, kinh tế bị đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước từ nay sẽ lo tuốt mọi việc. Cái khó thấy hơn, ngoài những câu chuyện đời cá nhân, chính là sức mạnh của cú sốc ngược lại.
Ở Sài gòn, thành phố phản bội và đồi bại, mà người ta đã vẽ ra cho họ bức tranh khủng khiếp nhất có thể, các anh du kích và bộ đội gốc nông dân mở to đôi mắt ngây ngô trước những quầy đầy hàng họ chưa từng thấy bao giờ. Lang thang trong các chợ ngoài trời, họ phát hiện ra có những con rô bốt làm việc nhà, búp bê nhựa, mỳ ăn liền, máy sưởi, máy lạnh và ti vi màu. 20 năm sau khi chiếm được Hà Nội, ngày 10/10/1954, sự kiện đã làm cha anh của họ bối rối đến mức khi vào dinh thự thực dân phải lịch sự bỏ dép cao su ở ngoài mới dám bước lên thảm trải sàn, sự sửng sốt lần này quả là kinh khủng. Sài Gòn đầy những người khốn khổ, nghiện ngập, đĩ điếm, nhưng cũng có những thứ giúp sống tốt hơn và làm dịu đi nỗi đau của cuộc chiến tranh tàn bạo nhất. Đó không chỉ là một chiến lợi phẩm: miền Nam có tất cả, miền Bắc chẳng có gì, họ nghĩ rằng đó là vì miền Bắc đã làm sai. Ý tưởng về sự thay đổi bắt đầu. Nền kinh tế tự do của miền Nam, được minh họa bởi sự giàu có mà người Mỹ bỏ lại, gieo vào đầu người ta ý tưởng rằng có thể có một cách làm khác. Sự li dị với chủ nghĩa xã hội, hay nói đúng hơn là vụ xung đột gia đình đầu tiên diễn ra tại đây, ngay thời điểm chiến thắng vẻ vang.
Trong khi chờ đợi, luồng khí được tạo ra giữa sự trống rỗng của miền Bắc và sự thừa mứa của miền Nam đã làm đảo lộn mọi thông lệ. Giao thương được phép và buôn lậu dần xói mòn cấu trúc đẹp đẽ của chủ nghĩa xã hội. Dân thường nhảy bước ngắn, cán bộ nhảy bước dài, một hệ thống trao đổi khổng lồ chuyển ra Bắc nào thuốc, tủ lạnh, đài, máy lạnh và xe đạp, và chở vô Nam nào xăng, đồng và ni ken. Dễ hiểu tại sao ở Đà Nẵng, bản lề của đất nước, cán bộ thành phố không mất mấy thời gian chần chừ để lấy lại doanh nghiệp của ông bà Luân-Ngọc. Để có thể có một cái nhìn chính xác về Việt Nam ngày nay, cần phải hiểu rằng năm 1975 đã làm đảo lộn cả hệ thống, về ngắn hạn là tạo ra những thị trường song song, về dài hạn là làm lung lay lòng tin chắc chắn vào chủ nghĩa tập thể.
Thế mà, khác với vẻ bên ngoài, tác động của cú đánh kép này còn tăng lên trong những năm sau. Về mặt ý thức hệ, việc cắt đứt quan hệ với Trung Quốc và bước vào vùng ảnh hưởng của Liên Xô cho phép Việt Nam thoát khỏi Mao và lâu lâu sau đó là Stalin. Về mặt thực tiễn, việc hội nhập kinh tế với các nước anh em được thể hiện qua sự mở cửa đón chào những kinh nghiệm khác (Hung-ga-ri hay Tiệp khắc), qua những trao đổi hàng hóa trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế Comecon, và một cách rất cụ thể là qua việc gửi hàng ngàn công nhân Việt Nam ra nước ngoài. Khi hết hợp đồng, những người này mang về nước những công ten nơ đầy bàn ghế tủ giường, linh kiện cơ khí, đồ gia dụng và dụng cụ bằng sắt tây, tất cả đều để bán lại, được hợp pháp hóa bởi một con dấu chả mấy khi vô tư. Tủ lạnh Saratov và xe máy Babetta, với một núi bàn là và thùng đá, bổ sung cho nguồn dự trữ Sài Gòn. Còn siêu hơn nữa: người ta đã tìm cách bán lại được sang các nước Đông Âu số son môi và đồng hồ mà người Mỹ đã bỏ lại. Anh Nguyễn Văn Bình, công nhân về hưu trước làm cho mỏ than ven vịnh Hạ Long kể chúng tôi nghe anh đã bán được sang tận vùng Silesie của Ba Lan cả một va li đầy đồng hồ và nước hoa made in USA mà trước đó anh đã rắp tâm mua bằng được ở Hà Nội. Tiền lời anh chuyển ngay thành 25 chiếc quạt Liên xô (gọi là quạt tai voi) và 100 chậu sắt tây to đùng sau đó mang về Việt Nam nấu chảy ra để sản xuất những xô chậu bé hơn cho dễ bán…
Vào thời ấy, chợ đen, hay nói đúng hơn là chợ xám, trở thành chuẩn mực. Cán bộ công chức tất nhiên là những người hưởng đầu tiên nhưng do mối quan hệ gia đình dây mơ rễ má nên tất cả mọi người đều chịu ảnh hưởng, kể cả nông dân. Phần kiếm thêm nhờ chợ đen là nguồn thu nhập chủ yếu, hơi giống như có mảnh đất riêng ở quê, bởi vì không phải ai cũng may mắn như ông bà Luân-Ngọc có của để dành để mà làm cho nó sinh lời. Chính nhờ buôn lậu mà dân chúng sống sót qua được giai đoạn 1975-1990 mà lẽ ra trên nhiều phương diện đã có thể là một thảm họa (thảm họa thật sự năm 1988, với nạn đói chết người ở nhiều nơi). Chúng ta thử nghĩ xem vào thời gian đó, khi mà tư thương bị chính thức cấm đoán, các quầy hàng Nhà nước vẫn được lén lút đem cho tư nhân thuê, mà người đem cho thuê lại chính là người nhà các quan chức quản lý chúng.
Đó chính là trường hợp của đại siêu thị xã hội chủ nghĩa trên phố Tràng Tiền, Hà Nội, nơi có không khí đúng như kiểu Bắc Triều Tiên (đèn đóm tù mù, thiếu hàng thường xuyên, mậu dịch viên đanh đá) nhưng về mặt tài chính đã ít chính thống hơn. Thời nay vẫn còn sót lại đôi chút hơi hướng thời đó khi nhân viên bưu điện hay hỏa xa lúc thối lại tiền thừa cho khách cứ phải lục mãi trong ví mình.
Chính trị thì không đi nhanh đến thế. Dù chính quyền để yên cho làm – mà đôi khi cũng lồng lên tí chút – chính quyền không chịu công nhận thời thế nay đã khác. Về mặt chính thức, không gì được phép cả. Tại sao? Ngoài sức ỳ quan liêu, lý do chính là tình hình quan hệ quốc tế thời bấy giờ. Việc Khmer đỏ tay sai của Bắc Kinh xâm lược Cam pu chia (1978) rồi cuộc chiến với Trung Quốc sau đó (bắt đầu tháng 2-3/1979 và còn dây dưa mãi đến 1989) làm cho về mặt chính trị là không thể bắt chước cải cách kinh tế mà đích thân Đặng Tiểu Bình khởi xướng vào chính thời điểm đó (đại hội XI Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 12/1978). Không lấy kẻ thù làm hình mẫu được. Hình mẫu Trung Quốc trước đây được ca ngợi hết lời nay không còn hợp thời nữa. Cho nên có thể nói căng thẳng với Trung Quốc làm chậm lại không phải bản thân sự thay đổi mà là việc hợp thức hóa sự thay đổi ấy. Việt Nam mở cửa, qua miền Nam và khối các nước Đông Âu, nhưng chiến lược của nước này trong phe xã hội chủ nghĩa là thân Xô ghét Trung đã không cho phép Việt Nam nói ra điều đó. Cải cách chỉ đến 10-15 năm sau đó, chính thức là năm 1986, trên thực tế là năm 1992. Sự chênh lệch này chính là nguyên nhân của tình hình 2010.
Trong suốt gần hai thập kỷ, tự do hóa được dung thứ nhưng không được công nhận, không có một khuôn khổ pháp luật và chính trị chung có thể cho phép nó vươn tới những cơ cấu hợp pháp của nền kinh tế, ví dụ như công nghiệp, ngân hàng, ngoại thương hay quản trị doanh nghiệp nhà nước, như ở Trung Quốc. Tác động kéo theo các lĩnh vực khác coi như bằng không. Buôn bán nhỏ giúp dân sống được qua ngày, nhưng không có tác dụng gì tích cực lên sự vận hành của các thể chế Nhà nước. Không nắm được tình hình đang thay đổi, các thể chế này vẫn tiếp tục vận hành theo lối cũ. Nếp hằn ấy sâu đến nỗi bây giờ vẫn còn. Ví dụ, mặc cho kinh tế biến chuyển nhanh chóng, khủng hoảng ngân hàng, đầu tư nước ngoài giảm sút và lạm phát tăng trở lại năm 2008, một vài bộ vẫn hoạt động theo kiểu kế hoạch hóa và thi đua xã hội chủ nghĩa, y như ngày xưa, dựng lên những bảng biểu thống kê để mà đưa ra những kết quả dự đoán phải đạt được, mà chẳng thèm đếm xỉa tới bối cảnh thực tế hay những kết quả thực tế đã đạt. Con số, kế hoạch, chỉ tiêu vẫn là những giá trị cơ bản. Từ đó đến phủ nhận thực tế không còn xa. Khi tháng 9/2008, Thủ tướng công bố lạm phát đã được kiềm chế ở mức 1,6%, như dự đoán, không một người Việt Nam nào không biết trên thực tế nó đã ở mức 25%, thậm chí 40% đối với lương thực thực phẩm.
Trong khi chờ đợi, giữa 1975 và 1992, vì không thể cải tổ thể chế, hoạt động tư nhân vẫn tiếp tục phát triển, nhưng không có sự thay đổi về bản chất cũng như về quy mô: bơi giữa dòng nước đục và kiếm chác trên chợ đen, như ngày xưa. Cái lẽ ra chỉ là tạm thời, là một đòn bẩy cho sự phát triển lại trở thành quy tắc. Vì thế nếu muốn tồn tại, chỉ còn cách là lại cậy nhờ đến quen thân. Làm sao khác được? Nếu không có gì được cho phép thì có nghĩa là làm gì cũng được. Ông bà Luân-Ngọc nói đã giàu lên được mà không thấy áy náy gì nhờ chi phong bì để kiếm hợp đồng, nhậu nhẹt với ủy ban nhân dân và trốn thuế. Từ việc kinh doanh xăng dầu, doanh nghiệp vận tải của ông bà, canh ty với quan chức địa phương, chuyển sang buôn đủ loại: vài năm sau khi chuyển hàng từ Sài Gòn ra Bắc, doanh nghiệp quay sang vận chuyển những thùng đồ mà hải quân Liên Xô đã “bỏ quên” tại các bến cảng Đà Nẵng và Cam Ranh (vải và gạo đổi lấy đồng hồ Boctok và vodka Smirnoff). Cũng giống như doanh nghiệp của ông bà, toàn bộ khối tư nhân chuyển sang lén lút, lách luật và hối lộ.
Khi cuối cùng đã đến thời điểm mở cửa chính thức, những thói quen xấu này đã trở nên vô cùng tệ hại. Các khái niệm như đối tác, hợp đồng, tôn trọng cam kết xa lạ đến nỗi việc hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài là vô cùng phức tạp. Nếu có thể lách là lách ngay. Nhân công không phải lúc nào cũng được khai đầy đủ; có hai sổ kế toán (một sổ thật và một sổ dởm); thuế hàng năm nộp trao tay và hóa đơn tiền điện có thể đàm phán. Trong giới làm ăn, theo như một vài tạp chí quốc tế đánh giá thì uy tín của Việt Nam ở vị trí thấp chưa từng có. Nhớ lại một số tạp chí Kinh tế viễn đông khi đánh giá môi trường kinh doanh đã xếp Việt Nam hạng bét châu Á trong hầu hết các lĩnh vực (số báo này có thể tìm thấy ở Việt Nam, nhưng bị kiểm duyệt dùng bút dạ đen gạch hết những chỗ nhạy cảm). Tóm lại, đến thời điểm thuận lợi, khối tư nhân vốn đã chìm đắm trong thói quen lén lút và phi pháp, trước đây là những cách làm duy nhất có thể làm được và có thể sinh lời, nay hoàn toàn không đủ tầm với thời cuộc. Không có doanh nghiệp địa phương nào có khả năng giúp doanh nghiệp nước ngoài triển khai các dự án kinh tế lớn. Chính quyền quá đỗi ngạc nhiên, họ vẫn tưởng mở cửa là để doanh nghiệp tư nhân phải bì bõm trong sự không chính thức và để tăng cường vai trò của Nhà nước và quan chức Nhà nước.
1986: muốn cứu chế độ, hãy cứu Nhà nước!
Việt Nam, đất nước vốn sống nhờ viện trợ Liên Xô, hoàn toàn bất ổn trước perestroika. Tự nhiên 1/5 thu nhập quốc gia bay mất tiêu, thị trường chắc chắn bên các nước anh em (70% giá trị xuất khẩu và 85% giá trị nhập khẩu), sự gia hạn nợ của những năm chiến tranh mà Liên Xô dành cho cũng mất luôn. Đất nước mất khả năng đảm bảo những chi trả hàng ngày, chưa nói đến những khoản chi bất thường do sự kiện 1979 gây ra (lưu 200 ngàn quân ở Cam pu chia, 400 ngàn quân ở biên giới Trung Hoa, Mỹ cấm vận, quốc tế ngừng viện trợ). Nhà nước cạn vốn, đành phải in thêm tiền và tiến hành một cuộc cải cách tiền tệ tai hại. Năm 1986, lạm phát đạt 480% (1000% năm 1988, năm có người chết đói), các sản phẩm cơ bản phải mua theo tem phiếu.
Chế độ đành phải mở cửa để tự cứu mình, chứ không phải vì đó là một sự lựa chọn có cân nhắc. Và họ làm điều này cẩn trọng, từ từ, với vô số biện pháp đề phòng, chỉ đơn giản là để tránh xảy ra trường hợp mọi việc diễn biến theo kiểu Nga. Do phá sản kinh tế mà ra, nhưng mở cửa vẫn được coi như một chiến lược chính trị. Lúc đầu là để thay thế tiền của Liên Xô bằng tiền của các doanh nghiệp nước ngoài, của Việt kiều và các nhà tài trợ quốc tế, sau đó là để tận dụng thời cơ mà nắm lấy khu vực kinh tế thực sự vốn lâu nay bị lấp trong sự lén lút khiến cho chính quyền không thể kiểm soát 15 năm nay. Cách tính này tốt, với điều kiện là nối thẳng nguồn vốn nước ngoài tới các cơ quan Nhà nước: mọi việc diễn ra đúng như thế, với trò cấp phép đầu tư và vai trò cực lớn của bộ Kế hoạch đầu tư lúc đó trở thành một dạng bộ tài chính đứng ra chia lộc. Hệ thống ấy vận hành suốt 20 năm. Đến năm 2010, tiền nước ngoài vẫn còn chiếm 1/3 tài sản quốc gia.
Sự chậm trễ này so với Trung Quốc cuối cùng cũng bắt Hà Nội phải trả giá đắt. Ở bên đó, ngay từ đầu những năm 1980, cải cách kinh tế đã buộc các doanh nghiệp nhà nước phải có trách nhiệm hơn, sử dụng hợp đồng lao động thay vì chế độ làm việc đến hết đời, và nhất là, tinh giảm biên chế triệt để. Do số lao động liên quan chiếm đến 20% tổng số lao động, chương trình cải cách đã vấp phải những sự kháng cự đông người, từ rất sớm, bạo lực và kéo dài. Sự phản đối của công nhân khối quốc doanh đã khơi mào cho sự kiện Thiên An Môn 1989, rồi đến các vụ đình công lớn ở tỉnh Tứ xuyên 8 năm sau. Vậy là Trung Quốc tinh giảm biên chế, nhưng vô cùng khó khăn.
Việt Nam cũng triển khai như thế, bằng cách xóa bỏ một nửa số doanh nghiệp nhà nước, nhưng sau Trung Quốc 10 năm, làm ngay một lúc nhưng dễ dàng hơn vì cả ngành công nghiệp Nhà nước chỉ chiếm 5% số tài sản quốc gia và 2% số công nhân. Sự khác biệt trong cách tiến hành và nhịp độ tiến hành cải cách thay đổi tất cả. Ở Trung Quốc, trong khi các doanh nghiệp quốc doanh sa thải khó khăn và mất thời gian giải quyết xung đột và trì trệ, khối doanh nghiệp tư nhân đã kịp tận dụng thời cơ để lột xác: trở nên nhẹ nhõm hơn, trang bị tốt hơn, hiện đại hơn, hướng về xuất khẩu để đối phó với việc sản xuất thừa mứa, và thắng khu vực Nhà nước nay đã hoàn toàn không thể cạnh tranh nổi. Ở Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân không có may mắn đó (hay là các doanh nghiệp Nhà nước không bị cái hạn đó). Khối tư nhân đã không biết cách tận dụng thời cơ doanh nghiệp quốc doanh chậm tinh giảm bộ máy, và cũng không lao ngay vào cuộc cạnh tranh vì bản thân họ cũng chẳng có gì để bán.
Sự tự do hóa kinh tế, nói chữ là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, vì thế đã gây ra những hậu quả hoàn toàn trái ngược. Ở Trung Quốc, từ 1978 đến 2000, phần đóng góp của Nhà nước trong GDP đã giảm từ 1/3 xuống còn 1/10, buộc chính phủ, với sự hỗ trợ của phái “tân tả”, phải can thiệp để đưa con số này lên 20% (mục tiêu đã đạt được năm 2007). Giới lãnh đạo Việt Nam không gặp phải vấn đề này. Phần của Nhà nước đã tăng, từ 1/3 lên đến ½ GDP, rồi ổn định ở mức 40%, gấp đôi so với Trung Quốc. Đứng trên phương diện này, việc mở cửa đã thành công. Khối quốc doanh, đặt cược sự sống còn của mình, trong vòng 10 năm đã trở thành động lực của nền kinh tế và là nhân tố chủ đạo.
Bối cảnh này lý giải tại sao, cũng trong năm 1996, ông bà Luân-Ngọc thấy nên có quan hệ đối tác với một doanh nghiệp Nhà nước liên quan đến ủy ban nhân dân thành phố. Họ làm như thế vì không thể phát triển mà không núp bóng Nhà nước và có sự trợ giúp của công chức Nhà nước. Bà Ngọc cho biết: “Trước khi mở cửa, ông Luân đã làm cho “công ty 28”, công ty trước năm 1975 còn thuộc về chúng tôi. Sau khi mở cửa thì có gì khác? Lúc đầu là không có gì, phải mất 10 năm chúng tôi mới lại lập thêm được một công ty mới. Sau đó kiếm tiền có khá hơn, nhưng điều kiện kinh doanh và khách hàng vẫn thế. Trừ một hợp đồng công ten nơ béo bở mà chúng tôi tự kiếm được với một công ty nước ngoài, thì vẫn là việc vận tải cho tỉnh và các thành phố lớn, thông qua các doanh nghiệp quốc doanh, tức là việc làm thuê cho Nhà nước, đi kèm với đó là móc nối, là hoa hồng. Nếu không có quan hệ với ủy ban nhân dân thì doanh nghiệp đã phải đóng cửa rồi. Mà quan hệ chính là cái “công ty 28” ấy. Chúng tôi làm hết, nhưng họ ký: thế là đáng một nửa số lãi của chúng tôi rồi.”
Công-Tư: tù mù
Hệ thống không thay đổi. Ở Việt Nam, sáng kiến cá nhân thì có nhưng muốn thành công thì phải vào trong khuôn khổ Nhà nước. Một nhúm các doanh nghiệp quốc doanh lớn, do nhóm đặc quyền đặc lợi trong đảng lãnh đạo, thực sự nắm độc quyền nhiều lĩnh vực kinh tế. Xây dựng và các công trình công cộng nằm trong tay khoảng 5-6 công ty, trong đó có 2 công ty bao trùm đấu thầu lần nào cũng thắng. Nói rằng chỉ có mỗi họ là đủ tầm và tiềm lực kinh tế để tiến hành dự án là đúng nhưng không đủ: họ lớn thế chính là bởi họ được đặc quyền đặc lợi. Nhà nước cấp lại cho họ, dưới dạng hợp đồng, một phần tiền mình nhận được qua viện trợ quốc tế hay vay lãi xuất thấp. Vòng tròn khép kín từ Nhà nước đến doanh nghiệp quốc doanh này làm họ mạnh lên ngay trước thời điểm tư nhân hóa hàng loạt. Trong khi chờ đợi, chẳng gặp nguy hiểm cũng như khó khăn gì, họ đóng góp 45% giá trị sản xuất công nghiệp (tư nhân: 32%), hơn 1/3 GDP, chiếm một nửa số đầu tư và tín dụng mà ¾ số tín dụng này nằm trong tay của 4 ngân hàng Nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân không có cách nào lọt vào được vòng quay này. Hoặc chỉ có một số trước đây vốn là doanh nghiệp Nhà nước bị tư nhân hóa, nay nhờ các mối quan hệ cánh hẩu mà thỉnh thoảng được chia cho suất thầu phụ hay được hưởng tí nước từ vòi tín dụng chảy ra.
Trong cái vẫn gọi là khối doanh nghiệp tư nhân, cần phân biệt rõ 3 loại kinh doanh: doanh nghiệp gia đình giỏi lắm là kiếm được hợp đồng thầu phụ; các công ty, lớn hay nhỏ, phần nhiều trong đó trước là công ty Nhà nước được tư nhân hóa 80/100 và sống nhờ hợp đồng Nhà nước; và cuối cùng là khoảng 100 tập đoàn lớn của Nhà nước chiếm độc quyền trong các lĩnh vực sinh lợi và tiến hành chính sách đa dạng hóa đủ loại, tùy theo cơ hội.
Doanh nghiệp đã tư nhân hóa và các tập đoàn khổng lồ của Nhà nước có gắn kết với tầng lớp lãnh đạo, hay nói cho đúng hơn là với gia đình của lãnh đạo. Quỹ đầu tư VietCapital thuộc về Nguyễn Thanh Phương, ái nữ của Thủ tướng, có bằng master ở Đại học tổng hợp Genève, và lấy chồng là doanh nhân Mỹ gốc Việt. Anh trai Nguyễn Thanh Nghị là một doanh nhân lớn nắm phần lớn cổ phần trong công ty bất động sản cao cấp Bitexco. Trong lĩnh vực bất động sản còn có con gái một phó Thủ tướng và phu nhân của một vị lãnh đạo cao cấp trong đảng. Tập đoàn khổng lồ về viễn thông FPT được đặt dưới sự lãnh đạo của cựu con rể đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chiến thắng ở Điện Biên Phủ; và công ty Galaxy (điện ảnh, nhà hàng Tây phương, truyền thông) được điều hành bởi con gái một cựu bộ trưởng Ngoại giao. Cũng trong lĩnh vực này, có thể kể ra cả vị con rể ông Đỗ Mười (cựu Tổng bí thư), con trai ông Phan Văn Khải (cựu Thủ tướng) và tướng Nguyễn Chí Vịnh (con trai ông Nguyễn Chí Thanh, người đã tham gia thành lập quân đội nhân dân).
Ở cấp thấp hơn, người ta biết rằng các vụ trưởng thuộc bộ Xây dựng vị nào cũng có doanh nghiệp riêng đủ mạnh để có được các hợp đồng Nhà nước. Một số trong các doanh nghiệp này còn đóng trụ sở ngay tại bộ (có hơn 200 công ty xây dựng đặt dưới sự chủ quản của bộ này đã được chuyển thành công ty cổ phần, ai chả đoán được là có lợi cho ai). Ưu tiên, nhượng bộ, thậm chí là cả độc quyền là những yếu tố đảm bảo thành công cho những doanh nghiệp này. Nhưng đó chỉ là phần dễ thấy của một hệ thống được thu nhỏ, nhưng vẫn y nguyên, ở các tầng thấp hơn của chính quyền, cụ thể là ở các ủy ban nhân dân, tỉnh uỷ và thành uỷ. Ở đây chúng tôi ít thông tin hơn nhiều, vì vốn của các doanh nghiệp cổ phần hóa được chia cho các cổ đông mà chúng tôi không nắm được hết. Tuy nhiên, điều này minh họa cho một thực tế là giới tinh hoa chính trị theo kiểu xưa đang dần trở thành tinh hoa kinh tế xã hội của nước Việt Nam ngày mai. Trong khi chờ có bằng chứng, chúng ta vẫn có thể tiến hành điều tra hiện trường và lắng nghe những lời tâm sự.
Nhiều, thậm chí có thể nói là đa số các doanh nghiệp vừa và lớn của tư nhân đều do cán bộ, công chức đương quyền bí mật nắm giữ thông qua vợ, hoặc người thân của họ, điều này xảy ra ở khắp mọi cấp chính quyền. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng cần như vậy. Rất nhiều công ty chính thức thuộc về các cựu quan chức (Đảng và Nhà nước) hay cựu nhân viên doanh nghiệp Nhà nước: theo một điều tra của Malesky và Taussig (đăng năm 2008 trên Journal of Law, Economics and Organization), số này chiếm 1/3 số doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cho nên phải thận trọng khi nói tới “khu vực tư nhân” ở Việt Nam.
Nói về “khu vực Nhà nước” cũng cần đề phòng y như vậy. Những doanh nghiệp chúng tôi vừa đề cập trên đây, thường là ăn nên làm ra và ít bị cạnh tranh, có cách ứng xử không khác gì doanh nghiệp tư nhân. Lương của lãnh đạo, cách làm việc, cách phân chia lợi nhuận không có gì giống với nhận định của chúng tôi về một doanh nghiệp Nhà nước cả. Các quan chức cao cấp thích lợi nhuận có thể làm ăn một cách thuận lợi nhất ngay trong lòng Nhà nước. Việc biến đổi các doanh nghiệp Nhà nước không phải là một điều xấu về mặt bản chất. Tuy thế điều đó không hẳn là điều kiện để có dịch vụ tốt hơn. Giống như trường hợp một ngân hàng Nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh, về mặt lý thuyết thì phải dành cho việc cải tạo nhà ở cho vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, nhưng trên thực tế thì không chăm lo gì việc này mà lại đi đầu tư chứng khoán, tín dụng và những thứ khác sinh lời nhanh hơn. Trong lĩnh vực bất động sản thì ta còn thấy rõ hơn: rất ít nỗ lực được bỏ ra cho những chỗ không mang lại lợi lộc gì, ví dụ như việc cấp nước, về mặt cơ cấu đương nhiên là lỗ bởi việc thu phí là do Nhà nước quyết định, hay việc xây vỉa hè.
Cho nên, hệ thống kinh tế hiện nay dựa trên một nghịch lý: khu vực tư nhân có dây dưa đến khu vực Nhà nước, trong khi khu vực Nhà nước lại hành xử như tư nhân. Tất cả những cái đó dẫn đến sự tù mù về tư cách. Đâu là tư? Đâu là công? Chia chác ở đâu? Như thế nào? Người ta cứ cố sức gắn cái mác pháp lý chung chung cho một thực tế vốn phức tạp hơn rất nhiều. Nguyên nhân là do cách đánh giá của phương Tây, nhất là của các tổ chức lớn, khi so sánh các quốc gia với nhau, chỉ chăm chăm soi vào mỗi tư cách pháp lý và dựa theo cách phân loại thống kê mà họ tự hào coi là có giá trị phổ quát của họ. Một yếu tố khác là do chiến lược của chính quyền muốn giữ sự tù mù để không ai biết được bản chất hoạt động của nó là gì.
Ở trong nước, qua báo chí, ta thấy nước Việt Nam chính thống tự khen đã tăng cường được kinh tế Nhà nước, nền kinh tế thuộc về nhân dân, nghĩa là đất nước vẫn là nước xã hội chủ nghĩa và rằng nền kinh tế Nhà nước không ngừng gia tăng đóng góp vào kinh tế quốc dân, điều này đúng; nhưng khi nói chuyện với các tổ chức quốc tế vốn chỉ thích nghe những lập luận mang tính tự do kinh tế, chính quyền lại nhắc đi nhắc lại rằng số doanh nghiệp Nhà nước đã giảm đi và cùng lúc đó, số doanh nghiệp tư nhân tăng lên, điều này cũng không sai. Trong cả hai trường hợp, chính quyền chơi với các con số và tính đa nghĩa của khái niệm Nhà nước (ở Việt Nam cũng như ở nơi khác). Sự lẫn lộn này phục vụ những lợi ích rất cụ thể. Nếu những vụ kinh doanh nhỏ của tư nhân chỉ tồn tại được nhờ vào các cấu trúc của Nhà nước và các công chức, nếu những tập đoàn lớn của Nhà nước được bí mật tư nhân hóa làm lợi cho chính những người đó, thì người ta có thể thắc mắc cuối cùng ai là người được hưởng lợi nhất từ sự tăng trưởng 20 năm nay, và đang tiếp tục được hưởng lợi.
Một giai đoạn mới sắp được vượt qua: Công không chỉ đang hành xử như Tư, mà là sắp trở thành Tư. Thực vậy, phần lớn các thành phố và ủy ban nhân dân tỉnh đang là sân khấu của một trò ảo thuật siêu đẳng được diễn trong ba hồi. Đầu tiên, các lĩnh vực của doanh nghiệp công được nhóm lại, cho phép phân chia rõ ra một bên là những hoạt động không bao giờ sinh lời, một bên là những hoạt động có thể sinh lời. Tiếp theo, nhóm các doanh nghiệp có khả năng sinh lời được tách ra thành các doanh nghiệp độc lập, vẫn trực thuộc Nhà nước nhưng có nhiều quyền tự chủ hơn nhờ tư cách “công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” (thành viên ấy chính là Nhà nước). Cuối cùng, nguồn vốn của các công ty trách nhiệm hữu hạn này được mở ra cho các đối tác bên ngoài dưới hình thức phân chia theo cổ phần. Tài sản công bị tư nhân hóa lúc nào không hay. Ai cũng có thể đoán được việc này có lợi nhất cho những tên bịp ở vị trí tốt để nắm giữ cổ phần. Tiến trình ấy đang diễn ra. Ở đâu cũng thế. Chỉ có nhịp độ là khác nhau giữa địa phương này với địa phương khác, vì nó phụ thuộc vào đặc điểm hệ thống chính trị địa phương (nội bộ lãnh đạo phải hiệp thương bàn bạc) và tình hình phát triển (tư nhân hóa chỉ có lợi khi có khách hàng tương lai có khả năng chi trả). Lối sống ăn mồi của doanh nghiệp công ở địa phương là bộ mặt hợp pháp và kín đáo của cả một sự vận động nhằm chiếm lấy tài sản công của tầng lớp cán bộ, công chức. Nó khó được nhận diện hơn là việc biển thủ công quỹ hay mua đất phi pháp, đuổi nông dân khỏi đất của họ hay chiếm nhà công vụ. Tuy nhiên, đó chính là dấu hiệu rõ nhất của hướng đi mà chính quyền, hay nói đúng hơn là người của chính quyền, lựa chọn: để cứu mình, hãy cùng tư nhân hóa Nhà nước…
BLOG, BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN, TRUNG QUỐC:
KHI CHẾ ĐỘ LO SỢ
Những phiên tòa bất công để sân khấu hóa bất côngNgay giữa thời điểm công an đang siết lại vòng kiểm soát, xảo trá thay, chính trị lại đang thoát ra khỏi những kẻ vốn nắm độc quyền về lĩnh vực này. Bản chất họ không muốn dân can dự vào chính trị làm gì; trong bối cảnh này, họ sợ sẽ có thêm người gia nhập đội ngũ bất đồng chính kiến. Kinh nghiệm của Trung Quốc đã thuyết phục họ: bản kiến nghị tung lên mạng năm 2008 bởi nhóm tác giả bản tuyên ngôn 08 (tương đương khối 8406 của Việt Nam) đã thu được một vạn chữ ký trong 2 tháng từ mọi tầng lớp trong xã hội, cả ở Trung Quốc cũng như ở nước ngoài. Ở Việt Nam, từ 2008, chính quyền lồng lên: một mặt tiếp tục loại bỏ các lãnh tụ tư tưởng của nhóm 8406, mặt khác nhắm bắn cả hệ thống mạng Internet. Đến năm 2010 tình trạng này vẫn còn, với việc cố tình đánh đồng giữa những nhà bất đồng chính kiến viết blog và những người viết blog có thể trở thành bất đồng chính kiến.
Nhớ lại hồi tháng 10/2009, có 9 nhà bất đồng chính kiến bị kết án từ 2 đến 6 năm tù. Tháng 1/2010, Trần Anh Kim, cựu sĩ quan, bị tòa án tỉnh Thái Bình kết án 5 năm rưỡi tù giam kèm thêm 3 năm quản thúc. Cùng tháng đó, tại Hải Phòng, Nguyễn Xuân Nghĩa và 5 người khác bị tòa phúc thẩm giữ nguyên mức án từ 2 đến 6 năm tù. Tất cả đều bị kết án với các tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “đe dọa an ninh Nhà nước xã hội chủ nghĩa”, hay “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” (mức án cao nhất có thể là tử hình, theo điều 79 Bộ luật hình sự).
Phạm Thanh Nghiên, 37 tuổi, nhà văn, được tặng thưởng giải Human Rights Watch, thành viên nhóm 8406, ngày 29/1/2010 bị tòa án Hải Phòng kết án 4 năm tù, cộng thêm 3 năm quản thúc, vì tội “tuyên truyền chống Nhà nước, câu kết với các phần tử phản động, và phát tán truyền đơn vu khống trên Internet”. Là một phần tử đối lập đã bị tố cáo lên chính quyền, cô bị quấy rối ngay từ tháng 9/2008 (từ đó đến giờ, sau khi đã bị một số tay chân của công an hành hạ, cô bị tống giam vì có ý định tổ chức tại Thanh Hóa một cuộc biểu tình ủng hộ gia đình những ngư dân Việt Nam đã bị hải quân Trung Quốc bắn hạ).
Một tuần sau khi Nghiêm bị kết án, ngày 5/2/2010, đến lượt Trần Khải Thanh Thủy ra trước vành móng ngựa. Nhà văn, 49 tuổi, cũng được giải của Human Rights Watch, thành viên danh dự của Pen Club, thỉnh thoảng viết blog, bà đã từng bị tù 9 tháng năm 2009 vì ủng hộ nông dân mất đất. Lần này bà bị xử 3 năm rưỡi tù, chồng bị 2 năm, và bị quản thúc. Trường hợp của cặp vợ chồng này rất có ý nghĩa. Thanh Thủy bị bắt ngày 8/10/2009, khi đang định đi Hải Phòng ủng hộ một số nhà hoạt động sau này cũng bị kết án nốt. Tối hôm đó, công an cho du côn đến nhà vợ chồng chị ở phố Khâm Thiên, Hà Nội và đánh đập họ không ghê tay; họ đi bệnh viện và bị công an chính quy bắt ngay ở đó. Ngay ngày hôm sau, một chiến dịch tuyên truyền trên báo chí được dựng lên chống lại họ. Báo chí theo lệnh trên kết tội họ đã đánh đập hai người qua đường ở chợ Khâm Thiên, khi hai người này trách người chồng dựng xe không đúng chỗ; sau một hồi cãi nhau, Thanh Thủy vì muốn giúp chồng đã ném hai viên gạch vào mặt một công dân lương thiện và dùng một tấm ván đánh người kia.
Báo chí đăng ảnh người bị thương ; không may các bloggers lại thạo tin học nên chỉ ra ngay được chỗ nào là ảnh ghép. Có sao đâu : cặp vợ chồng này bị khép tội phá hoại trật tự công cộng (chẳng liên quan gì tới quan điểm chính trị của họ, tất nhiên) và bị kết án vào tháng 2, tức là 4 tháng sau đó.
Ngày 20/1/2010, tại thành phố Hồ Chí Minh diễn ra phiên xử 4 người bị công khai khép tội có âm mưu và tiến hành các hoạt động phản động. Họ bị kết án từ 5 đến 16 năm tù giam. Trong số các bị can có luật sư Lê Công Định, được đào tạo ở Mỹ về, chuyên gia về các hồ sơ dính dáng đến nhân quyền (nhưng cũng là người đã đứng ra bảo vệ cho quyền lợi kinh tế của Việt Nam trước Hoa Kỳ), cựu phó chủ tịch đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, bị bắt từ tháng 6/2009, đến tháng 8 thì bị buộc phải đọc một bản công khai nhận tội thảm hại trước các máy quay truyền hình, sau đó thì bị kết tội « câu kết với những phần tử Việt kiều phản động và các thế lực thù địch sống lưu vong » : kết án 5 năm tù giam. Nguyễn Tiến Trung, sinh viên tin học đã từng học ở Rennes, Pháp, bị giam từ tháng 7/2009, lãnh án 7 năm tù. Lê Thăng Long, thuộc « nhóm nghiên cứu chấn hưng nước Việt», lãnh án 5 năm. Còn Trần Huỳnh Duy Thức, đảng viên Đảng dân chủ Việt Nam, không chịu nhận tội trước toà nên phải chịu bóc lịch 16 năm.
Phiên xử những người bất đồng chính kiến này diễn ra nhanh chóng và được báo chí đưa tin rất có mức độ nhưng cũng đủ để thể hiện đúng bản chất của nó : một đòn cảnh cáo. Ngay ngày đầu tiên của phiên toà, đài truyền hình trung ương đã phát một trích đoạn chọn rất chuẩn lời khai của 2 trong số các bị can mặt mày căng thẳng đọc bài học của mình, thì thầm nói họ đã vi phạm luật pháp Việt Nam (bài học được phần lớn các báo trích lại khi đặt tít nhỏ « Họ công nhận đã phạm pháp » ). Ngày hôm sau, đến phần cuối cùng của chương trình thời sự, đài truyền hình dành hẳn 6 phút cho đề tài này ; phát thanh viên nhấn mạnh đến tính chất “đặc biệt nghiêm trọng” của tội phạm có mục đích lật đổ chính quyền. Khán giả được nghe lời khai của Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung, công nhận hoạt động cho Đảng dân chủ và Liên đoàn thanh niên dân chủ Việt Nam; đài đem tách riêng phần Lê Công Định nói có nhận được sự ủng hộ từ nước ngoài, sau đó phóng sự đến phần phỏng vấn một nữ luật sư ở thành phố Hồ Chí Minh, sau khi một đồng nghiệp ở Hà Nội đã phát biểu, cô này mặt mày nghiêm túc khẳng định rằng “quá trình xét xử đã diễn ra đúng luật và bản án là khách quan”. Cuối cùng, như ai cũng biết, là phần phỏng vấn nhanh một loạt người để chứng tỏ với khán giả rằng nhân dân đồng tình với phán quyết của tòa án…
Giới quan sát viên ngoại quốc, vốn được xếp ngồi phòng kế bên phòng xử án, nơi diễn biến phiên tòa được truyền một phần qua màn ảnh nhỏ (tiếng tắt, hình đứt đoạn), được một phen cười gần chết trước trò nhại công lý này. Tất nhiên họ không nhầm. Tuy nhiên phải hiểu mục đích của phiên tòa bất công này chính là dàn dựng ra sự bất công: đây chính là một vở kịch được trình diễn; một sự chứng minh người thật việc thật để răn đe chớ có kẻ nào dại dột mà đi theo vết xe đổ của 4 bị can kia. Cuối cùng, phiên tòa theo kiểu Stalin này không chứng tỏ chính quyền đã rắn hơn, vì thực ra chính quyền luôn cư xử như vậy, mà cho thấy một sự bất mãn phổ biến trong xã hội, sự bất mãn ấy buộc chính quyền phải đe dọa nhân dân, đi xa hơn việc mọi khi vẫn làm là vô hiệu hóa những phần tử bất đồng chính kiến.
Khán giả cũng như độc giả chẳng ai tin các bị can có tội. Cứ hỏi thử xung quanh mà xem. Ngay ngày hôm sau trên blog của mình, Ba Sàm viết Lê Công Định đã không trình bày quan điểm của mình mà chỉ đọc bài đã được học, và để độc giả của blog thấy được vụ xử này đã gây căm phẫn trong dư luận quốc tế đến như thế nào, blogger này cấp luôn một loạt đường link đến các báo quốc tế. Trong lúc đó, một số người bạn Việt Nam tâm sự với chúng tôi rằng họ thấy tởm lợm trước trò diễn thảm hại này, vì “dù lên án việc gì đi chăng nữa, trò diễn này cũng kéo lùi lịch sử nước nhà đến 30 năm và càng làm xấu đi hình ảnh đất nước”. Tuy thế, hiện nay, việc bày tỏ ý kiến của nhân dân cũng không vượt qua mức độ tâm sự riêng; mà đấy là còn phải khuyến khích mãi: sự chán nản và e sợ làm mọi vận động như ngưng trệ.
“Trên Internet, các thế lực thù địch xúi giục bất ổn”
Không hiểu là tin thế thật hay giả vờ tin, chính quyền lại hâm nóng chuyện kẻ thù từ bên ngoài và âm mưu quốc tế. Chỉ thị số 34 Ban chấp hành TƯ Đảng, một văn kiện lạ lùng được ban hành từ tháng 12/2009, khẳng định: “các thế lực thù địch lợi dụng công nghệ mới, Internet và blog để in các tài liệu xấu, thông tin sai lạc, quan điểm sai trái, khuyến khích mọi người thu thập và trao đổi thông tin trên Internet, báo mạng để biến những vấn đề Việt Nam đang gặp phải thành những vấn đề thời sự, gây bất bình trong dân chúng và xúi giục bất ổn, làm loạn”. Trong một bài phát biểu, tháng 2/2010, Tổng bí thư Đảng trích dẫn nguyên văn một số đoạn trong chỉ thị này, chứng tỏ nó đã trở thành kinh thánh.Quân đội cũng cùng lập trường với Đảng, như vẫn luôn như vậy. Trên báo quân đội, tướng Hoàng Minh Thảo viết: “thế lực thù địch”, trung thành với âm mưu thâm độc “diễn biến hòa bình” (nghĩa là gây bất ổn ở Việt Nam mà không cần chiến tranh), đang lén lút cuốn hút các “trí thức trẻ Việt Nam”, thậm chí mua chuộc họ, để họ phản đối chế độ và đòi đa đảng. Trước mối hiểm họa này, theo ông, phải cấp bách tăng cường giáo dục chủ nghĩa mác xít-lê nin nít và “lòng yêu nước chân chính”.
Thế lực thù địch, âm mưu từ bên ngoài, xúi giục thanh niên: mục tiêu được nhắm tới sau tất cả những từ cũ kỹ từ thời chiến này chính là Internet. Với bản chất quốc tế, vô danh, đặc biệt là khi truy cập từ các tiệm café, mạng Internet làm cho giới canh gác cổ hủ càng thêm tin rằng mối họa núp dưới vỏ bọc của sự hiện đại đến từ nước ngoài. Cho nên phải kiểm soát mạng, cũng như tất cả những thứ khác. Kỹ thuật cho phép làm điều chính trị yêu cầu. Thế nên mới có chuyện khó truy cập, tăng cường thêm phần lọc bằng cách sử dụng từ khoá và chặn một số trang và mạng (ví dụ như Facebook, bị khóa tháng 9/2009: đại sứ Mỹ phản đối, hai chúng tôi cũng vậy). Cũng giống như người Trung Quốc và với sự giúp đỡ ra mặt của họ, Việt Nam tỏ ra có hỏa lực cỡ tuần dương hạm khi tiến hành tấn công mạng. Cuộc tấn công lớn nhất, tháng 4/2010, nhằm vào Google. Họ cũng tiến đánh có trọng điểm, như vụ đánh mạng X-café đầu năm 2010; tháng 2, trang này không truy cập được từ Việt Nam, và từ Pháp, một ghi chép cho hay: “Trang này thường xuyên bị tấn công từ 19/1”. Sau khi đã gõ mã bảo vệ và vào được trang, các quản trị viên cho biết các cuộc tấn công xuất phát từ các máy chủ đặt ở Việt Nam và Trung Quốc.
Bây giờ chẳng ai lạ gì việc các tiệm café Internet ngày nay bị theo dõi chặt chẽ và người phụ trách các diễn đàn phải chịu vô vàn phiền toái. Một số thành viên quen thuộc của mạng X-café bị công an truy hỏi mấy ngày liền vì tội “nói xấu Đảng”. Một trong số họ, Phạm Hùng Vĩ, đã phản ứng ngay lập tức bằng cách tung lên mạng một bài viết lên án chuyện công an không ngừng can thiệp để anh bị đuổi việc (cũng giống như blogger Osin): “Hôm qua, ông chủ bảo tôi là công an cách đây 2 ngày đã đến gặp ông, để hỏi vì sao ông lại thuê tôi, và dọa nếu còn giữ tôi thì sẽ phải đóng cửa doanh nghiệp! Mối nguy này liên quan đến bài viết “Khủng hoảng và các giải pháp có thể cho Việt Nam” của tôi được đăng lại trên BBC. Đây không phải lần đầu người ta tìm cách dọa tôi bằng đủ mọi cách, nhưng lần này tôi quyết định không để yên nữa. Lần đầu tiên, năm 2006, họ bắt tôi trên đường mà không có lệnh bằng văn bản. Năm 2007, khi tôi định ra ứng cử kỳ bầu cử địa phương, công an đã tìm mọi cách để ngăn cản. Sau đó, dưới sức ép của họ, gia đình tôi buộc tôi quay lại làm việc ở Phú Yên, nơi trước đây tôi làm tiếp thị cho một nhà máy bia. Ngay cả ở đó, mọi tiếp xúc của tôi với khách hàng cũng đều bị theo dõi. Vì không muốn ảnh hưởng đến công ty, tôi xin thôi việc, mà tôi làm thế là đúng vì giám đốc nhà máy cho tôi biết công an đã hứa trả một khoản tiền hậu hĩnh để ông tố tôi tội biển thủ công quỹ. Thế nên tôi lên Hà Nội tìm việc. Ngay cả đến giờ, hễ cứ tìm được việc nào là công an lại can thiệp để tôi bị đuổi!”.
Bối cảnh hiện tại và tình hình đàn áp các bloggers và forum là thế. Tổ chức Phóng viên không biên giới trước đây xếp Việt Nam vào vị trí thứ 168/173 trong số các nước khảo sát về tự do báo chí lại vừa cho nước này vào trong nhóm 12 nước là “kẻ thù của Internet”. Về phần mình, Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ, New York) xếp nước này vào vị trí thứ 6/10 nước khó khăn nhất cho các bloggers. Đối với chính quyền, coi như canh bạc này thua chắc. Người dân càng thấy rõ hơn mình bị tước đoạt quyền được tự do và thông tin như thế nào. Phe bất đồng chính kiến xoa tay. Họ đã thành công, dịp Tết Nguyên đán 2010, trong việc cho dán lên tường và đè lên các áp phích tuyên truyền của Đảng, tại nhiều thành phố, một loạt truyền đơn trả thù kêu gọi dân chúng nổi dậy chống lại “bọn phản quốc, hại dân và bọn xâm lược Trung Quốc”. Theo như chúng tôi được biết thì đây là lần đầu tiên có chuyện này.
Bóng đen Trung Quốc, bùng nổ chủ nghĩa dân tộc
Cùng thời gian đó dấy lên một cuộc đàn áp đối với các bloggers trước đây chưa hề phải lo lắng gì. Điếu Cày bị bắt tháng 4/2008 thì đến tháng 12 bị kết án 2 năm rưỡi tù giam theo kiểu rất mafia về tội trốn thuế từ 10 năm nay. Vào tháng 9, khoảng 15 bloggers khác ít nổi tiếng hơn cũng bị bắt. Tháng 7/2009, khoảng 40 người ra trước vành móng ngựa vì tội “lạm dụng tự do dân chủ”. Khi dư luận đã chuẩn bị xong (một kỹ thuật địa phương) là đến lượt những bloggers có nhiều người đọc nhất.“Người buôn gió” bị bắt ngày 27/8, hôm sau đến lượt “Trang the Ridiculous” (Phạm Đoan Trang), rồi “Mẹ Nấm” (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, 30 tuổi) ngày 2/9. Tất cả đều bị giam 1, 2 tuần, trong điều kiện nghe nói là cũng tử tế. Osin hình như chỉ bị báo mình cho thôi việc, vì dám nói quá tự do về bức tường Berlin, nhưng các thông tin liên quan đến người này còn nhiều mâu thuẫn. Trong khuôn khổ hạn hẹp của giới nhà báo và trí thức chỉ có thể biết được rằng đợt trấn áp này cực kỳ mạnh trong quý 1 năm 2010 đối với thế giới nhỏ bé của các bloggers Việt Nam và gia đình họ (lại một kỹ thuật địa phương nữa).
Người ta có thể tưởng rằng nguyên nhân của những vụ bắt bớ này là nỗi sợ đối với tranh luận chính trị, hay tự do ngôn luận với một đề tài nào đó, nhưng không hẳn như vậy. Một số người bất mãn khác, dù là bloggers, nhà báo hay trí thức tên tuổi, thỉnh thoảng vẫn có thể phát biểu về những chủ đề này một cách khá dễ dàng mà không bị đem ra xử chính thức. Nhiều blogs mạnh bạo vẫn tiếp tục hoạt động, các blogs của Osin, Trang the Ridiculous hay Người buôn gió lại mở cửa trở lại. Rút cục, người ta chỉ đánh động vài người, kiểm tra xem họ có nằm trong nhóm bất đồng chính kiến không, tống họ vào tù 10 ngày, và tất nhiên, nói đôi ba câu tử tế với gia đình họ. Chẳng qua chỉ là cảnh cáo. Cảnh cáo về cái gì? Và tại sao lại nhằm vào các bloggers này mà không phải những người khác? Trên thực tế, đó là vì họ đã dám chỉ trích Trung Quốc và chính sách hòa hoãn của Việt Nam với nước này.
Điểm chung của tất cả các bloggers đã bị xét xử này (những người khác “nản chí” không dám làm tiếp nữa) đúng là việc họ đã lên tiếng phản đối những tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc đối với biển Đông và về chuyện Hà Nội nhượng cho Trung Quốc các mỏ bô xít ở Tây Nguyên. Mấy vụ phiền hà của Trang the Ridiculous và Mẹ Nấm bắt đầu khi họ mặc áo phông in chữ “No China. The Spratleys and Paracels belong to Vietnam”, cùng lúc với cuộc biểu tình hơn một ngàn thanh niên trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, tháng 12/2007. Phiền nhiễu lại tăng lên khi hai cô này tham gia phong trào phản đối rộng rãi chống công ty Chinalco của Trung Quốc khai thác mỏ bô xít và nhân đó xuất khẩu lao động tới Việt Nam.
Việc khai thác lộ thiên quặng bô xít để sản xuất nhôm gây rất nhiều ô nhiễm vì tạo ra loại bùn độc hại, tốn nước và tốn điện trong khi Việt Nam đang rất cần những tài nguyên này, và việc khai thác lại diễn ra trong một khu vực chiến lược và nhạy cảm, nơi có nhiều dân tộc ít người sinh sống, mà những người này đã từng nổi dậy trước việc mọi trật tự bị đảo lộn, một phần là do trồng café tràn lan, một phần là do Tin lành nhiệt tình lôi kéo. Việt Nam, nhà sản xuất bô xít thứ 3 trên thế giới, không có nổi 15 tỷ euros để tạo ra một nền công nghiệp chiết xuất quặng hiện đại: nên Trung Quốc đứng ra lo, cho dù Trung Quốc đã đóng cửa các nhà máy bô xít ở chính nước mình. Và dự án được triển khai mặc dù vấp phải sự phản đối của những người dân thường, các bloggers, những người chống Trung Quốc đủ loại (số này đông), và thậm chí cả tướng Giáp, người chiến thắng đầy uy tín tại Điện Biên Phủ, với 2 bức thư ngỏ gửi tới chính quyền. Cũng trong thời điểm này, một báo cáo của các chuyên gia Liên xô đánh giá làm bô xít ở đây không thuận lợi từ thời còn Hội đồng tương trợ kinh tế được nhắc lại. Các blogs và trang mạng dày đặc tin về chủ đề này, có hẳn một trang hoàn toàn dành cho bô xít.
Người ta hoàn toàn có thể chỉ trích việc đẩy nông dân ra đường và việc công chức tham nhũng, chế nhạo nhẹ nhàng các lãnh đạo, kêu ca nền giáo dục tệ hại, nhưng Trung Quốc là đề tài cấm kỵ. Về bản chất là cấm kỵ và đề tài này còn đưa ra điểm chung cho 3 nguồn bất mãn chủ yếu: bloggers, bất đồng chính kiến và đường phố. Nói cách khác, nếu chính quyền điên lên đến mức bỏ tù các bloggers và cho bên ngoài thấy hình ảnh tồi tệ của mình, làm hỏng cả những nỗ lực đã bỏ ra bao năm trời, thì đó là vì chính quyền sợ sẽ có một mặt trận chung chống Trung Quốc hình thành.
Tình cảm này trước đây có lợi vì nó ve vuốt bản sắc dân tộc. Nhưng bây giờ chính quyền cho rằng Việt Nam không được phép có sự xa xỉ ấy nữa: nước này phụ thuộc không những về mặt cơ cấu thương mại với Trung Quốc (60% số hàng nhập khẩu của Việt Nam là từ Trung Quốc), mà còn cả về tài chính (thậm chí cả tiền tệ). Người ta biết, dù không có bằng chứng chính thức, rằng Việt Nam đã bí mật sang xin tiền Trung Quốc để khỏi phải bỉ mặt công khai đi vay Quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Nhưng tiền vay thì phải trả, nhất là vay bí mật. Cho nên với Trung Quốc đã có thỏa thuận, trao đổi, mặc cả. Ta thấy chính quyền Hà Nội làm mọi thứ để bịt miệng những kẻ phản đối chính sách bành trướng của Trung Quốc trên biển Trung Hoa (biển Đông theo tiếng Việt), thậm chí cả khi chính sách này làm hại đến mình (như chuyện liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa), và bịt miệng những người chỉ trích những điều kiện quá ưu đãi mà chính quyền dành cho các doanh nghiệp Trung Quốc.
Nếu phải phân biệt giữa bloggers và các nhà bất đồng chính kiến, thì cũng phải phân biệt giữa các blogs chỉ trích thông thường và các blogs động chạm đến quan hệ Việt-Trung. Loại thứ nhất bị quấy rối, thỉnh thoảng lại bị công an gọi lên (như các tác giả của blog boxite đã trở thành tiếng nói của giới trí thức Việt Nam) và, một cách ma mãnh hơn, là bị nhân bản bằng những blog cá nhân giả danh thực ra là do người của chính quyền nắm; loại thứ 2 bị thẳng tưng coi là mục tiêu trấn áp. Phân biệt rõ ràng. Tuy nhiên cần nói rõ: phản đối chính quyền yếu đuối trước Trung Quốc là một việc dũng cảm, nhưng điều đó không có nghĩa là cởi mở dân chủ. Chỉ cần đọc qua một số blogs là thấy chủ nhân của chúng đôi khi có những lập luận kiểu nước lớn, dân tộc cực đoan.
Ngại vết dầu loang
Đối với chính quyền, việc dân chỉ trích chính sách đối ngoại của họ là nguy hiểm, vì dân Việt vốn đã chẳng mấy ưa Trung Quốc. Vấn đề lãnh thổ cực kỳ nhạy cảm, còn hơn cả chuyện bô xít, vì nó biểu trưng cho việc Việt Nam lùi bước trên đường biển sau khi đã lùi bước trên đường bộ. Năm 1999, người Việt đã rất khó chịu khi mất 227 cây số vuông vào tay anh bạn láng giềng, đặc biệt là thác Bản Giốc và ải Nam Quan nổi tiếng, nơi trước đây hai bên sứ thần vẫn tiến hành trao đổi. Người Việt nổi giận, vào cuối năm 2007, khi được tin Hoàng Sa đã bị biến thành một đơn vị hành chính của Trung Quốc: thành phố Tam Sa (Sansha). Xung đột liên tục diễn ra đặc biệt là giữa dân chài hai nước, nhưng vẫn không ngăn được việc Hoàng Sa đã mất.Và thế là dân chúng suy nghĩ và tự đặt câu hỏi. Chưa bao giờ chỉ trích xã hội lại đi xa đến thế. Tình cờ nói chuyện với bà chủ một quán café bình thường ở Vinh, chúng tôi ngạc nhiên thấy tự nhiên bà này hăng tiết rồi cao giọng nói dù chế độ Sài Gòn ngày xưa có là bù nhìn của Mỹ đi chăng nữa, những người lính của chế độ ấy vẫn chiến đấu kiên cường năm 1974 để lấy lại những hòn đảo đã bị chính quyền cộng sản ngoài Bắc để cho Trung Quốc chiếm giữ: “Hơn 100 người đã bỏ mạng, trong đó có nhiều sĩ quan, nhưng đảo đã lấy lại được. Ngày nay, những người còn sống sót sau chiến công anh hùng đó thậm chí còn không được coi là thương binh. Thật là thảm hại!”. Ở Việt Nam này, rất ít khi thấy ai ca ngợi chính quyền miền Nam, đặc biệt là ở miền Trung và miền Bắc, nên lời nói của người đàn bà này càng thêm sức nặng. Cuối cùng, bà kết luận: “ Hai anh tôi đã hy sinh trong cuộc chiến chống lại chính quyền miền Nam, tôi khổ tâm lắm, thế mà tôi buộc phải công nhận với các anh là kẻ thù ngày xưa còn bảo vệ lãnh thổ quốc gia tốt hơn chúng tôi bây giờ.”
Trong không khí căng thẳng ấy, cái gì cũng nổi lên hết. Từ biển đảo đến bô xít, người ta tiến tới lật lại hồ sơ chủ nghĩa Mao, cải cách ruộng đất, sự phản bội của Trung Quốc trong kháng chiến chống Mỹ; rồi chẳng chóng thì chầy người ta sẽ nhắc tới các mỏ apatit ở miền Bắc vốn cũng trong cùng tình trạng với các mỏ bô xít ở miền Trung. Rồi người ta lại tự hỏi sức nặng kinh tế thực sự của Trung Quốc là gì, bao nhiêu công ty Việt Nam đã bị mua chuộc, tại sao Trung Quốc lại được hưởng đối xử ngoại giao khác với các nước khác. Nhiều tin đồn điên rồ đang lan tràn về việc Trung Quốc có kế hoạch xâm chiếm Việt Nam, như một minh chứng rõ ràng cho nỗi bức xúc của nhân dân.
Cần phải hiểu rõ diễn biến tình hình từ năm 2008. Cho tới thời điểm đó, chính sách ngoại giao, cũng như chính sách nói chung, chỉ là việc của chính quyền. Dân chúng tự hài lòng với việc lơ đãng nhìn TV một tí khi bản tin thời sự hầu như chỉ là một chuỗi các hình ảnh chán ngắt về các chuyến thăm viếng chính thức, các đoàn ngoại giao và các vị khách mời nước ngoài uy tín. Dân chúng không những không tham gia vào chính sách mà nói cho đúng ra là không quan tâm. Và trong các trường hợp gai góc thì thông tin bị giấu nhẹm: thời đó chẳng ai biết gì về việc xử lý bí mật việc phân chia đường biên giới trên bộ. Cũng như chẳng biết gì việc Việt Nam bảo hộ chính trị với Lào và cái cách mà Việt Nam đã mất đi sự bảo hộ ấy. Từ bấy tới giờ mọi thứ đã thay đổi, công luận tham gia ngày càng tích cực và mạnh mẽ hơn vào các cuộc bàn luận về chính sách đối ngoại. Nguồn cơn của sự thay đổi ấy chính là vấn đề Trung Quốc đã động phải một sợi dây vô cùng nhạy cảm của lòng tự hào dân tộc. Hơn cả vấn đề tự do ngôn luận, chính những sự sỉ nhục liên tiếp này mới là lý do khiến các công dân không còn có thể mãi e dè nữa.
Việc ý thức dân tộc đang được thức tỉnh mạnh mẽ chính là mối nguy to lớn nhất đối với đảng cộng sản từ nhiều năm nay. Đảng bị tấn công dữ dội trên mặt trận dân tộc chủ nghĩa, vốn là thế mạnh của mình. Nếu như làm mất uy tín phe đối lập gồm có lèo tèo vài người bất đồng chính kiến và các tổ chức đến từ nước ngoài là dễ dàng, thì đối phó với sự tức giận của dân chúng trước việc thể diện quốc gia bị xúc phạm là không đơn giản chút nào. Đảng bị thua ngay trên sân nhà là chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Trong suốt bao nhiêu thập kỷ, Đảng đã xây dựng Việt Nam thành một huyền thoại, ca ngợi truyền thống kháng chiến chống ngoại xâm và tinh thần thượng võ của dân tộc. Thế mà giờ đây ai cũng bảo đảng chịu uốn mình chỉ vì vài lý do kinh tế tài chính tầm thường…
Trong bối cảnh ấy, khi Đảng chuẩn bị đại hội XI cũng là lúc người ta bắt đầu lo lắng. Đất nước mở cửa chính là dịp để chơi một trò ảo thuật chính trị, lén lút chuyển cái chính danh do đã chiến thắng về mặt quân sự thành cái chính danh do đã mang lại tăng trưởng kinh tế cho đất nước. Bản thân Đảng cũng đưa yếu tố chính trị xuống hàng thứ hai mà đặt cược tất cả vào phát triển kinh tế. Nguy cơ quả thật là lớn. Hóa đơn sẽ nặng. Nếu kinh tế khó khăn, uy tín Việt Nam giảm sút, như từ khi bắt đầu khủng hoảng năm 2008, thì không gì có thể thay thế được những lý lẽ hay ho thời xưa đã từng gắn chặt Đảng với lịch sử dân tộc. Đứng trên quan điểm của mình, chính quyền có lý khi lo ngại sự kết nối giữa nỗi bức xúc của những người dân thường, các bloggers và cả phe bất đồng chính kiến. Và thế là, một kết quả không lường trước của việc Trung Quốc lăng nhục Việt Nam là dân chúng lại bắt đầu làm chính trị, trong khi Đảng 10 năm nay không còn làm nữa.
Trang sử phi chính trị hóa quần chúng đã được lật qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét