TRẬN ĐẦU TIÊU DIỆT XE TĂNG GIẶC
Khánh Toàn
(Lược bớt một đoạn)
Lệnh
lên đường truyền đi toàn đại đội 10. Lê Văn Thời bật người dậy, đeo
balô trên người và ôm khẩu B41 lao đi. Toàn đại đội có mặt đông đủ. Mọi
người khẩn trương lên xe. Chiếc ôtô rú ga chuyển bánh, vượt qua cầu sông
Bằng, đi vào thị xã Cao Bằng rồi chạy thẳng lên hướng Hoà An. Sương đêm
dăng màn trên đỉnh núi, thấm vào vai áo từng người ướt đẫm. Cái lạnh
của vùng cao không thể làm dịu bớt sự nóng lòng của mỗi chiến sĩ chờ
phút giáp mặt quân thù.
Cả đại đội triển khai theo các tuyến công sự
có sẵn. Tiểu đội B41 của Thời dàn đội hình trên đoạn hào đầu tiên. Đi về
phía sau là những lối mòn dẫn qua sườn đồi, có thể cơ động rất thuận
lợi. Nhận xong vị trí, Thời lắp đạn vào súng, tính cự ly bắn ở nhiều
tình huống khác nhau để khi xe tăng địch tới là có thể nổ súng được
ngay. Dọc tuyến chiến đấu, đại đội cũng đã làm xong công tác chuẩn bị và
sẵn sàng nổ súng khi có lệnh tiến công.
Từ hướng Hoà An có tiếng xe
tăng vọng tới mỗi lúc một gần. 2 chiếc xe tăng đi đầu đã vào trận địa.
Trên tháp pháo, chúng sơn hình cờ đỏ sao vàng để đánh lừa sự chú ý của
ta. 2 khẩu pháo trên nóc 2 chiếc xe tăng hướng về phía trước. Nhìn chúng
đi nghênh ngang trên đường nhựa, Thời căm giận sôi lên. Anh đã thò ngón
tay trỏ vào cò súng định diệt luôn. Nhưng rồi Thời kịp nhớ ra : phải
đợi toàn bộ đội hình của chúng lọt vào trận địa mới được nổ súng.
Khi
2 chiếc xe đến gần cuối đội hình của đại đội, vẫn chưa thấy toán sau đi
tới. Nếu không diệt ngay, chúng sẽ tiến sâu vào Cao Bằng. Đại đội
trưởng Hồng kịp thời lệnh cho 2 tay súng B41 bắn. Tiếng súng nổ. 1 chiếc
xe tăng đã bốc cháy ngay tại chỗ. Chiếc thứ 2 hốt hoảng xoay ngang định
vòng trở lại. Nhưng muộn rồi, Nguyễn Quang Anh, người bạn đồng hương
của Thời đã vọt khỏi công sự, nã quả B41 vào ngang thân nó. Chiếc xe
tăng địch bị trúng đạn khựng lại. Ngay lúc đó, 1 bác nông dân người Nùng
từ trong nhà chạy ra. Bác đến cạnh Thời, nói nhỏ :
- Bộ đội ơi ! Xe tăng hỏng mà thằng địch còn sống đó. Nó đang mở nắp xe ra kìa.
Thời
vội đeo khẩu AK và vác súng B41 lên vai chạy theo bác nông dân dẫn
đường. Khi đến nơi, anh thấy thằng giặc đã nhảy khỏi xe. Nó đang tìm
đường chạy trốn. Nhanh như cắt, Thời điểm xạ luôn 1 viên AK thật chính
xác. Tên giặc trúng đạn, rống lên rồi ngã vật bên xác chiếc xe tăng.
Thời nhảy lên nóc xe chiếu đèn pin vào kiểm tra. Tất cả chúng nó đã bị
tiêu diệt. Thời nhanh chóng trở về vị trí của mình.
Ngay sau đó, 1
đoàn xe tăng địch ầm ầm lao tới. Thời đếm rõ từng chiếc một. Chúng cứ
tưởng 2 chiếc đi đầu đã làm được nhiệm vụ mở đường nên cứ ngạo mạn tiến.
Chiếc đi đầu đã lọt đúng vào tầm bắn.
Một tiếng nổ dữ dội. Quả đạn
B41 từ công sự của Thời đã lao đi. Chiếc xe tăng đi đầu trúng đạn, bốc
khói đen xịt. Cả tốp xe tăng địch ùn lại xoay ngang, hạ nòng súng bắn
quét 2 bên đường. Nhưng không có tác dụng. Tầm đạn của chúng quá cao
trên tầm công sự bám sát mép đường của bộ đội ta.
- Đồng chí Thời, luồn về phía sau, diệt bằng được chiếc xe tăng cuối cùng.
Đại
đội trưởng Hồng ra lệnh. Thời xách khẩu B41 vòng vệ con đường mòn sau
bản để tiếp cận gần xe tăng địch. 5 phút sau anh đã bám sát chiếc xe sau
cùng. Địa hình ở đó hơi trống trải. Chỉ có vài cây cối lưa thưa. Địch
rất dễ phát hiện. Đứng ở trong sân nhà, lợi dụng bức tường bắn ra chăng ?
Không được, cự li quá xa, rất dex trật mục tiêu. Bắn không trúng chiếc
xe này thì quân địch dễ tháo chạy trở lại thị trấn Hoà An, thời cơ diệt
gọn cả đoàn xe địch sẽ không còn. Suy nghĩ giây lát, Thời quyết định một
cách đánh táo bạo hơn. Anh đã vọt ra khỏi bức tường và bám sau xe tăng
để bắn.
Mải bắn phía trước, bọn địch không biết rằng chúng đang hở 1
khoảng trống ở phía sau nên Thời đã tiếp cận xe tăng địch được thuận
lợi. Khi cách xe tăng khoảng 10m, Thời đưa súng lên vai ngắm mục tiêu
rất nhanh, bóp cò. Quả đạn từ phía Thời bắn đi đã lao chúng vào phần
cuối xe tăng địch. Một luồng lửa màu da cam loé lên, rồi một luồng khói
xám xịt toả ra trùm lấy thân hình bất động của nó. Biết chắc hiệu quả
của viên đạn bắn đi, Thời lui về phía sau bức tường quan sát. Không thấy
tên địch nào sống sót nhảy ra, anh mới yên tâm chạy về vị trí cũ để
tiếp tục diệt những chiếc xe còn lại. Trên đường về, Thời gặp Màu, 1
chiến sĩ giữ AK. Màu bảo Thời :
- Phía trước, xe tăng địch bị diệt gần hết rồi. Đại đội trưởng bảo anh đón sẵn ở đó, đề phòng còn có xe địch tới.
Nghe
Màu truyền lệnh của đại đội, Thời xách súng quay lại ngay. 2 người đi
được một đoạn, thấy tiếng súng bắn xối xả về phía trung đội 2.
- Tiếng súng ở đâu đó ?
- Có lẽ trên xe tăng địch.
- Không phải, tầm đạn rất gần mặt đất Màu à. Có thể bọn địch trong xe còn sống đã xách súng xuống nấp ở nơi nào đó bắn chăng.
- Cũng có thể thế lắm.
2
người im lặng quan sát một lúc thì phát hiện ra mấy tên địch đang giấu
mình trong bụi tre, bắn đại liên về phía trước. Thời lấy khẩu Ak của Màu
nhưng Màu đã ngăn lại và nói :
- Bụi tre vướng lắm, 3 thằng địch lại
nấp kín ở gốc cây, bắn AK khó trúng. Có thể nó sẽ lủi mất. ANh dùng B41
bắn để diệt luôn cả khẩu đại liên. Tụi này nguy hiểm lắm.
- Ờ, thế cũng hay đó !
Thời
quyết định bắn B41."Một quả B41 đổi 3 tên địch và 1 khẩu đại liên là
được rồi". Nghĩ vậy, Thời vội đi vòng ra phía sau lưng địch, đứng nép
vào gốc cây, đưa khẩu B41 lên vai, lấy đường ngắm. Một tiếng nổ lớn,
khẩu đại liên văng ra cùng với xác 3 tên giặc.
Vừa về đến chỗ Màu,
Thời thấy 1 chiếc xe tăng địch đang ẩn mình dưới một thửa ruộng trũng
ven đường, quay nòng pháo bắn vào trong bản. Thời bò lết theo bờ mương,
vận động theo hướng xe tăng để diệt. Đang bò, bỗng Thời nghe thấy 1
tiếng nổ lớn. 1 chiến sĩ khác trong đại đội đã kịp thời nổ súng, tiêu
diệt chiếc xe tăng cuối cùng của địch trong trận đánh.
Trận địa đã
thưa dần tiếng súng. Đoàn xe tăng của địch có 13 chiếc, đã bị đại đội
10, tiểu đoàn 9, đoàn B46 tiêu diệt toàn bộ, nằm phơi xác trên đoạn
đường thuộc xã Nam Tuấn, huyện Hoà An (Cao Bằng).
Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.
TIẾNG SÚNG NGƯỜI DAO
Xuân Ba
Buổi
sáng hôm ấy, như thường lệ, ông già Phùn Cắm Ngăn vác dao lên thăm
nương. Nhìn những vạt ngô mới nhú uống no sương đêm, đang vươn những búp
lá mập mạp, xanh mởn, ông vui lắm.
Mấy hôm trước, ông già Cắm Ngăn
lo quá, không khéo đợt ngô trỉa sau tết của hợp tác xã Tình Pha bị héo
vì sương muối mất. May quá, 2 hôm nay lại mưa phùn, ngô lên hết, đều tăm
tắp. Đến cuối nương, ông bỗng sững lại : ngô ở đây bị xéo nát bởi những
vết giày dép còn hằn trên nền đất ướt. Thôi đúng rồi, bọn xấu bên Trung
Quốc, bên kia con suối lại mò sang phá rồi, chắc là nó vừa qua đây, vết
giày còn mới. Sao lại nhiều vết giày thế này. Lúc rẽ qua vạt lau, lối
đi xuống suối, ông già giật thót người : bọn Trung Quốc tụ tập rất đông ở
phía con suối sau bản Tình Pha. Chúng đang loay hoay tìm chỗ đặt những
khẩu súng gì đó trông như cây chuối, nòng súng chĩa về phía bản ông. Nó
tập à ? Không phải, dải đất ven suối ấy là đất của ta. Ô, thế là nó
chiếm đất ta rồi, nó sắp đánh bản Tình Pha rồi. Từ tết đến giờ, dân quân
bản Tình Pha tập hăng lắm vì được biết thế nào bọn xấu Trung Quốc cũng
đánh sang.
Lẹ làng như một con mèo, ông chạy thật nhanh vef bản, tìm
đến nhà xã đội trưởng. Nó đi chợ Bình Liêu mất rồi ! Lúc này bản Tình
Pha vắng lắm, bà con và dân quân trong bản đi chợ Bình Liêu gần hết. Ông
già Cắm Ngăn như có lửa đốt trong bụng. Chỉ tẹo nữa thôi, bọn quỷ ấy sẽ
tràn xuống. Bọn nó ông không lạ. Hồi gần tết năm ngoái, nó lẻn sang
giết mất 3 người ở bản ông đang làm nương. Thỉnh thoảng nửa đêm nó còn
sang bản ông bắt lợn, gà và gài mìn ở sân nhà cán bộ nhưng đèu bị dân
quân tóm được.
Phải chặn ngay chúng lại. Chạy về Mỏ Toòng báo cho bộ
đội biên phòng và dân quân biết ? Không kịp nữa rồi ! Ông già Cắm Ngăn
liền chạy ngay về nhà đánh thức con trai là Phùn Tắc Sình. Phùn Tắc Sình
chạy sang nhà bên gọi thêm 2 đứa con ông chú cũng là dân quân. Ông già
Phùn Cắm Ngăn đứng giữa 3 người nói :
- Ta chỉ có 3 khẩu K44 và 1
súng kíp, người lại ít, nó thì đông lại có súng lớn. Nhưng mình không
sợ, phải chặn nó lại. Bộ đội và dân quân bên Mỏ Tòong nghe tiếng súng sẽ
đến ngay thôi.
4 người dưới sự chỉ huy của ông Phùn Cắm Ngăn bí mật
luồn theo con đường hẻm lần ra suối. Trước mặt họ, khoảng hơn 1 đại đội
giặc Trung Quốc đang tản ra, mò tìm mìn và chông của dân quân để gỡ. Bọn
còn lại, sau khi đặt pháo xong đang ăn cơm trong các lùm cây rậm rạp,
nhưng chúng ăn rất khẽ như chuột ăn trộm ngô. Mọi người nhận định :
chúng chưa bắn pháo, đợi bọn trinh sát gỡ hết mìn, nhổ hết chông, chúng
mới bắn dọn đường cho bọn đi sau ào lên. Theo lệnh ông Phùn cắm Ngăn, 4
người chiếm 4 vị trí có lợi, khống chế được cả khoảng trống trước mặt,
đợi bọn gỡ mìn nhổ chông mò tới gần mới bắn.
Bọn giặc rón rén nhích
dần, nhích dần từng tí một. Mặc cho tên chỉ huy thúc lên nhưng bọn lính
sợ giẫm phải mìn, đạp phải chông vẫn cứ loay hoay nhấp nhổm như kiến lửa
cắn dưới bụng, không dám bò nhanh. Chúng gỡ cũng tài : số mìn và chông
chúng nhổ được khá nhiều mà chưa có đứa nào vướng phải. Chỉ có 1 thằng
lớ ngớ bị chông xóc vào hông, kêu ớ lên một tiếng, liền bị thằng nằm bên
đấm cho một quả vào mồm, liền im thít. Thấy vậy, ông già Phùn Cắm Ngăn
liền nghĩ ra 1 cách. Ông nhẹ nhàng bò tới chỗ con trai và 2 đứa cháu,
nói nhỏ :
- Đừng bắn nó chết, cứ nhằm bắn vào tay vào chân nó. Bị
thương nó sẽ lăn lộn như con gấu trúng đạn, mìn gài bên sẽ nổ, chúng nó
sẽ chết nhiều.
30 bước chân, rồi 15 bước... Thấy chúng nó vào gần tới trước mặt, chắc ăn như bắn con nai, con hoẵng, ông già hô to :
- Bắn !
4
tiếng súng nổ vang, phá tan cảnh tĩnh mịch của núi rừng. 4 tên giặc
đang nhổ chông, mìn bị những viên đạn găm vào tay, vào chân, cuống cuồng
lăn sang một bên. Thế là những quả mìn gài bên cạnh chúng cũng nổ dậy
đất, mấy thằng đang bò phía sau cũng tan xác. Bọn còn lại bật dậy, hoảng
loạn đạp lên nhau tháo chạy. Bọn lính pháo đang ăn cơm trong các lùm
cây không hiểu ra sao, nhốn nháo cả lên.
Thấy không còn giữ đưọc bí
mật nữa, bọn giặc sau một lúc hoảng hồn bèn nổ súng. Đủ các loại súng
bắn tới tấp về phía bản. Trong lúc đạn giặc nổ rầm trời, 4 người thoăn
thoắt đổi vị trí, nhanh nhẹn áp sát địch, bình tĩnh nổ súng. Bọn địch
vừa không biết lực lượng ta có bao nhiêu mà chỉ thấy súng nổ khắp nơi,
vừa rất sợ đạp phải chông mìn nên không dám tiến. Chúng nằm một chỗ mà
bắn như vãi đạn. Một lúc sau, đạn pháo địch bắt đầu bắn vào bản. 1 đại
đội địch được pháo yểm trợ, liều lĩnh vọt qua bãi chông tiến về phía
bản. Thấy không đủ sức chặn chúng lại, ong già Phùn Cắm Ngăn dẫn con và 2
đứa cháu luồn qua khe, vừa để đánh vào phía sườn địch, vừa nhử chúng
vào bãi mìn và chông đã được ta bố trí từ trước.
Trên đường vận động,
lúc lao qua một vạt nương, không may Phùn Tẩu bị tụi giặc phát hiện
thấy. 1 tràng AK vang lên ghim vào người Phùn Tẩu. ANh ngã xuống. Phùn
Tắc Sình lao tới ôm lấy Phùn tẩu lăn xuống khe. Bọn giặc không tiến nữa,
chúng hò hét nhau vòng lại định bắt sống Phùn Tắc Sình. Phùn cắm Ngăn
nấp sau một tảng đá lớn, nhoài người lên bắn trả. Lúc đó, bộ đội và dân
quân Mỏ Toòng đã kịp thời chi viện. Tiếng súng của ta nổ giòn giã, bọn
giặc sống sót liền cuống cuồng tháo chạy, bỏ mặc những đứa chết và bị
thương nằm kêu la thảm thiết. Đợt tiến công của chúng bị đánh tan. Nhưng
bỗng có 1 toán giặc xô tới chỗ Phùn Tắc Sình, tuy không bắt được anh,
nhưng chúng đã cướp được xác Phùn Tẩu chạy mất.
Hơn 1 giờ sau, bọn
địch xốc lại lực lượng, tổ chức đợt tiến công khác lên chốt. Đợi cho bọn
giặc tới gần, 1 tiểu đội dân quân và bộ đội được ông già Cắm Ngăn dẫn
đường đã dũng mãnh đánh tạt sườn địch, lùa chúng vào bãi mìn bên suối.
Tiếng mìn nổ dậy đất, hàng chục tên giặc tan xác. Bọn còn lại giạt vào
bãi chông, lúng túng không ra được, la hét om sòm...
Vô cùng căm thù
bọn giặc tàn bạo đã giết hại Phùn tẩu, chớp thời cơ cánh quân địch tiến
vào bản đang bị quân ta ghìm đầu đánh cho tơi tả, Phùn Tắc SÌnh nhanh
nhẹn vòng lại phía sau lưng chúng. Đoán chắc lũ giặc thế nào cũng hành
hạ thi thể Phùn tẩu, thương bạn quá, Phùn tắc Sình cố tìm nơi bọn giặc
giấu xác Phùn Tẩu. Nhưng đi một đoạn dài, anh chỉ thấy xác giặc Trung
Quốc nằm ngổn ngang, đạn và súng của chúng ném lại vung vãi. ANh liền
đeo thêm 2 khẩu AK còn đầy đạn của giặc. Thấy một đám giặc khoảng 10 tên
đang xúm lại một chỗ, Phùn Tắc Sình rẽ qua những tán cây lúp xúp, nhích
lại gần. Anh nhằm vào giữa đám giặc lia 1loạt đạn. Chúng liền tản ra,
nhằm về phía anh bắn loạn xạ rồi tháo chạy, hút vào khu đồi cây rậm rạp.
Một lát sau, Phùn Tắc SÌnh thận trọng tiến lên phía trước, thấy 3 tên
chết gục bên cạnh đống khoai sống chúng vừa moi được của dân bản.
Trời
đã về chiều, trận địa im tiếng súng. 8 đợt tấn công lên bản Tình Pha
của địch đều bị đánh lui. Vì hoảng sợ nên chúng không dam ùn lên nữa.
Nhưng Phùn Tắc SÌnh sau khi đào xong công sự cùng bộ đội và dân quân vẫn
không chịu nghỉ. Ông Phùn cắm Ngăn cũng xin ở lại chiến đấu, không chịu
về bản. Nghĩ tới Phùn Tẩu, Phùn Tắc Sình lại xách súng, vượt qua một
thung lũng hẹp, đi tìm. Lúc này đã gần tối, sương chiều phủ trắng đồi
nương. Qua bãi mìn địch vướng phải lúc sáng, anh thấy xác 5 tên địch còn
nằm đó.
Lần qua khe cạn, tới gần con suối làm đường biên giới, Phùn
Tắc Sình dừng lại. Trên lưng dốc có tiếng lạo xạo. Anh bò lên, thấy
khoảng 20 tên địch đang bu quanh xác Phùn tẩu. Từ đây, chạy tắt đường
xuống chốt của bộ đội và dân quan không xa, rất có thể bọn này sẽ thọc
xuống sau lưng ta. Anh bí mật tiến dần lên dốc. Bọn giặc vẫn không hay
biết gì. Chúng moi được tờ giấy trong túi Phùn Tẩu (Phùn Tắc Sình chắc
là tờ giấy Phùn Tẩu thường chép bài hát mới, hay bỏ vào túi để lúc nào
cũng có thể học hát được) và đang tranh cãi... Một thằng cao lớn, dáng
chừng chỉ huy, đứng dậy xua tay và rút con dao găm sáng loáng ra...
Nhanh như chớp, Phùn Tắc SÌnh chuyển 4 vị trí và nổ 4 loạt đạn vào lũ
giặc. Liền đó, anh vớ 1 hòn đá quăng mạnh vào bên cạnh. Tưởng lựu đạn,
bọn còn lại hoảng hốt vứt cả súng, thu mình lăn lông lốc xuống suối. Đồi
khá dốc nên chúng lăn rất nhanh. Phùn Tắc SÌnh liền lao tới xốc Phùn
Tẩu lên vai, nhanh chóng ngược lên đỉnh dốc, ào qua mấy vạt nương. Trước
mắt anh đã là chốt của bộ đội và dân quân Tình Pha, Mỏ Toòng...
Hôm
sau, ngày 18-2, ông Phùn Cắm Ngăn vẫn ở lại trên chốt cùng với con trai.
Mọi người khuyên ông về di sơ tán cùng dân bản nhưng ông không nghe.
Ông tìm tới đồng chí chỉ huy, đề nghị :
- Bắn cái thằng giặc Trung
Quốc này dễ hơn bắn con nai con chồn. Mày cho tao khẩu súng khác bắn
đưọc nhiều đạn hơn khẩu súng kíp này, như thế nó sẽ chết nhiều nữa.
Liền
sau đó, ông già Phùn Cắm Ngăn vui sướng đón nhận khẩu AK còn bóng loáng
nước thép, khẩu này ta thu được của giặc hôm 17-2 ngay trên chốt bản
Tình Pha, xã Đồng Tâm, huyện Bình Liêu quê nhà.
Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.
CHIẾN CÔNG CỦA ĐỒNG CHÍ NUÔI QUÂN
Hà Phạm Phú, ghi theo lời kể của Phạm Hồng Trường, dân tộc Thái, chiến sĩ tiểu đoàn 3 Mường Khương.
(Lược bớt 1 đoạn).
Chiều
ngày 17-2, tổ nuôi quân của tôi phải rời vị trí lên một bản người Pa Dí
ở Sa Pả theo ban chỉ huy tiểu đoàn. Bếp của chúng tôi đặt ở một nhà dân
gần suối nước, cách hang đá của thủ trưởng tiểu đoàn ở một quãng xa xa,
khoảng 1km.
Tổ anh nuôi của chúng tôi lúc ấy còn tập trung chứ chưa
phân tán như bây giờ, gồm có anh nuôi trưởng tên là Quý, chiến sĩ tiếp
phẩm tên là Thêm và tôi.
Buổi sáng ngày 18, chúng tôi dậy rất sớm nấu
cơm, nắm thêm cho mỗi người một nắm để ăn trưa. Tôi đi đưa cơm về thì
trời đã gần trưa. Mặt trời sắp lên tới đỉnh đầu. Lúc ấy nghe tiếng súng
nổ ran cả 4 phía. Ngày hôm trước súng cũng nổ nhiều nhưng không nhiều
bằng hôm nay. Tôi nói với Quý :
- Phải nấu cơm sớm Quý ạ ! Sợ chiều đánh giặc không nấu được đâu.
- Phải đấy !
Quý
đồng ý. Tất cả 3 chúng tôi bắt tay vào chuẩn bị bữa cơm chiều. Tiếng
súng rộ lên rất gần. Tiếng AK, tiếng lựu đạn, tiếng ĐKZ rối vào nhau.
Bỗng có mấy dân quân ở một chốt gần đấy chạy qua, gọi với vào :
- Địch tràn lên đông lắm !
Chúng tôi không kịp hỏi gì thì họ đã biến mất sau những khóm cây. Quý bảo :
- Chạy lên trận địa của tiểu đoàn !
Quý
nói xong, cùng Thêm khoác súng chạy đi luôn. lúc ấy nồi nước dang sôi.
Tôi nghĩ cho gạo vào còn kịp chán. Nếu địch không lên được, anh em còn
có cơm để ăn. Cho gạo xong, vừa bước ra khỏi nhà, tôi đã thấy giặc lố
nhố trên đầu dốc. Đông lắm, không thể đếm được bao nhiêu. Nếu tôi chạy
theo đường cái lên hang, sẽ chạy qua mặt chúng. Thế nào chúng cũng bắn
chết. nghĩ vậy, tôi chạy tạt ra sau nhà, nơi có mấy công sự bắn của dân
quân đã làm từ trước, bên cạnh một hang đá nhỏ.
Vũ khí của tôi có 1
khẩu AK với 4 băng đạn và 3 quả lựu đạn lúc nào cũng đeo ở bên người.
Địa thế chỗ tôi ẩn nấp rất tốt. Tôi nhìn được chúng còn chúng không nhìn
được tôi. Tôi chọn một chỗ nằm vừa có vật che đỡ vừa quan sát được
địch. Chúng bám vào nhau mò lên. Có mấy thằng xông vào nhà bếp. Tôi bắn 1
loạt. Chúng rú lên, lùi lại, sau đó tràn lên đông hơn. Tôi bắn nữa,
nhìn rõ mấy thằng ngã gục không dậy được.
Thủ trưởng hỏi tôi bắn chết
bao nhiêu tên ? Tôi không đếm. Lúc đánh nhau tôi không nghĩ đến đếm xem
bao nhiêu thằng chết. Nhưng tôi tin rằng chúng chết không ít.
Để
tiết kiệm đạn, tôi cứ bắn từng loạt ngắn 2, 3 viên một. Nói thế, thủ
truwỏng đừng nghĩ rằng bọn Trung QUốc không bắn lại ác liệt. Nơi ẩn nấp
của tôi chỉ giữ được bí mật lcú đầu. Rồi chúng cũng phát hiện ra, dùng
cối nã vào. Tôi rút vào trong hang đá nhỏ. Ở đây tôi nhìn thấy 1 thằng
thổi kèn nhô lên trên một gò đất cao. Cứ mỗi lần nó rúc kèn bọn giặc lại
tràn lên. À ra thế ! Tại thằng này nên chúng nó lên đông. Tôi đưa đường
ngắm vào ngực nó, điểm xạ. Thằng giặc đổ sập xuống. Bọn giặc chững lại
một lúc. Tôi cũng chưa dám rút khỏi hang đá nhỏ. Tôi đã bắn hết 3 băng
đạn. Nòng súng nóng đỏ cả lên. Chờ cho nòng súng nguội thì biết đến bao
giờ ? Bọn giặc nó xông lên tiếp thì làm sao ? Tôi liều đem nòng súng
nhúng vào vũng nước rỉ ra từ khe đá còn đọng lại. Khi xong trận tôi kể
lại, các thủ truwỏng bảo như thế cũng được.
Quả nhiên sau khi củng
cố, bọn giặc lại hò hét xông lên. Chúng hô "Tả ! Tả !" và những gì nữa
tôi nghe không hiểu. Tôi nghĩ, đạn chỉ còn 1 băng, phải tìm cách trở về
với tiểu đoàn. Đành phải bỏ nồi cơm lại thôi. Bữa chiều nay anh em sẽ bị
đói. Nghĩ vậy tôi thấy tức bọn giặc quá chừng. Sao không có ai xuống
đây tiếp sức với tôi để lấy cơm đi ? Lúc ấy tôi nghĩ thế vì tôi chưa
biết địch tràn lên đông đến mức nào, đâu đâu cũng phải chặn địch cả.
Bắn
thêm mấy loạt đạn vào 1 tốp giặc gần nhất, tôi men theo bờ đá, lợi dụng
cây cối che khuất, bám vào từng rễ cây, gờ đá tìm đường về phía hang đá
lớn của tiểu đoàn.
Không thấy tiếng súng nổ từ phía sau nhà bếp của
ta, bọn giặc tràn vào phá phách. Tôi vòng trở lại, nấp sau một hẻm đá để
quan sát địch. Không nhìn thấy rõ, nhưng nghe tiếng động, tôi có thể
biết chúng cướp cái gì và phá cái gì. Từ trên cao nhìn xuống, tôi thấy
4, 5 thằng ngồi túm tụm trên bãi cỏ, mở thịt hộp ăn. Tôi tức đến lộn
ruột. Chúng cướp thịt hộp của ta chứ chúng làm gì có mà ăn. Tôi tháo 1
quả lựu đạn, rút chốt rồi lẳng vào giữa đám. Không biết chúng có chết cả
không. Bọn chúng sợ hãi bắn loạn cả lên, nhưng bắn vào rừng mênh mông
thì trúng tôi thế nào được.
Về tới chốt của tiểu đoàn thì trời chạng
vạng tối. Đánh xong trận đó rồi, tôi nghĩ thằng giặc nó giết được mình
khó hơn là mình diệt nó.
Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.
NGƯỜI CON ANH HÙNG CỦA ĐẤT BIỂN
Nguyễn Minh
Từ
chiều hôm trước đã có nhiều dấu hiệu báo trước sắp xảy ra một trận đánh
lớn. Đồng chí Vượng, cửa hàng trưởng cửa hàng Pò Hèn nói với Hoàng Thị
Hồng Chiêm :
- Giặc sắp đánh đấy. Cháu tính kĩ đi, cái gì cần thiết
thì để lại, cái gì chuyển được xuống Tràng Vinh thì cho bốc ngay chiều
nay.
- Vâng ạ !
Chiêm trả lời đồng chí Vượng và trong giây lát cô đã tính toán xong những việc cần kíp phải làm trước.
Chiêm
nhanh chóng sơ tán được một số mặt hàng tránh xa chỗ cũ, nơi mà cấo
trên cho biết là địch có thể đánh sang. Trời tối, Chiếm và các đồng chí
Vượng, Thắng, chủ tịch xã, Định y sĩ ở lại trong cửa hàng để ngày mai
chuyển tiếp hàng hoá. Đêm ấy, khi đi ngủ Chiêm không quên đặt khẩu súng
đã lắp sẵn đạn bên cạnh mình. Đó cũng là tác phong sẵn sàng chiến đáu đã
trở thành thói quen của Chiêm. Từ khi được cấp trên thông báo bọn phản
động trong giới cầm quyền Bắc Kinh đang ráo riết chuẩn bị xâm lược nước
ta, tinh thần sẵn sàng chiến đấu của dân quân tự vệ Móng Cái rất cao.
Cũng như chị em khác, đi đâu, Chiêm đều giắt bao đạn, lựu đạn, mang theo
súng.
Sáng sớm ngày 17-2, hàng loạt đạn pháo của giặc Trung Quốc từ
bên kia biên giới bắn dồn dập sang Pò Hèn, Thán Phún. Chúng bắn vào các
điểm cao, vào những nơi chúng nghi là có nhân dân và bộ đội. Những mảnh
đạn bay xoèn xoẹt, đập vào vách núi, cắm vào hàng cây ven đường. Nhiều
quả đạn pháo nổ ngay trước sân nhà ở. Nhìn xuống chân đồi, Chiêm đã thấy
lố nhố lũ giặc Trung Quốc được bọn phản động người Hoa dẫn đường. Trong
đêm, bọn này đã lén lút theo các khe hẻm mò vào đây, Chiêm quay vội vào
nhà.
Trong cuộc hội ý chớp nhoáng dưới 1 chiếc hầm chữ V, có nắp
dày, làm ở góc nàh, Hoàng Thị Hồng Chiêm, một tay cầm 2 quả lựu đạn, một
tay cầm khẩu CKC, nói :
- Bọn lính Trung Quốc tràn sang rồi. Giặc đang định bao vây cửa hàng. Bác Vượng và các anh vượt ra trước, em ở lại yểm hộ.
Thấy mọi người phân vân, Chiêm càng quả quyết hơn :
- Chúng ta có ít súng, nhiều người ở lại là không có lwọi đâu. Em đánh được mà !
Chiêm
là một chiến sĩ của trung đoàn 8 làm đường Ba Chẽ, chuyển về cửa hàng
Pò Hèn tháng 5-1975. Vì vậy đồng chí Vượng rất tin Chiêm. Anh đồng ý để
Chiêm ở lại yểm hộ cho 3 người ra trước.
Chiêm nói :
- Bây giờ thế này, em sẽ ném 1 quả lựu đạn vào đám đông quân giặc. Lợi dụng lúc chúng nằm xuống tránh đạn, 3 anh vọt ra ngoài.
Không chờ mọi người bàn bạc thêm, Chiêm đã mở lựu đạn, rút dây. Lựu đạn xì khói. Chiêm nói như ra lệnh :
- Các đồng chí ra theo hướng lựu đạn !
Chiêm
ném lựu đạn. một tiếng nổ rất đanh, rất vang. Nhiều tên lính sơn cước
bị mảnh lựu đạn cắm vào mặt, vào bụng. Địch hoảng sợ liền tản ra, nằm
sát xuống đất. 3 người vọt ra khỏi nhà, chạy ra phía sau.
Nghe tiếng chân người, địch biết là bị lừa, chúng lồm cồm bò dậy, bắn theo.
Địch hò nhau tiến về phía căn nhà. Chúng đông quá mà Chiêm chỉ còn 1 quả lựu đạn với khẩu súng có vẻn vẹn 10 viên đạn lắp sẵn.
Bọn
giặc đã đến gần lắm rồi. Chiêm vung mạnh tay ném quả lựu đạn còn lại
vào tốp giặc. Lựu đnạ nổ, bọn giặc lại nằm xuống. Chiêm xách súng chạy
qua hướng lựu đnạ vừa nổ, vọt lên đồi, nơi có trận địa chốt của đồn công
an nhân dân vũ trang số 209, cách cửa hàng của Chiêm khoảng 100m. Đạn
của giặc bắn theo chiu chíu.
Sắp tới trận địa của công an vũ trang, Chiêm thấy 2 người trên đồn chạy xuống, hét to :
- Chị Chiêm, địch tiến công mạnh. Chị đừng lên !
- Nó tiến công mạnh, tôi phải cùng các đồng chí chiến đấu !
Khi Chiêm lên đến nơi thì gặp bác Vượng, Thắng và Định cũng đang chiến đấu ở đó. gặp đại đội phó Hoạ, Chiêm nói vội :
- Anh Hoạt ơi, anh phân việc cho em đi !
- Cô Chiêm ! Cô lên thật đúng lúc, Lượng đang nhắc cô bên kia !
Đại đội phó Hoạ đang chỉ huy anh em chiến đấu, nhưng khi nghe tiếng Chiêm báo cáo, vẫn dành cho cô gái một câu nói vui như thế.
Chiêm
và Lượng đã quen nhau qua những buổi tập bóng chuyền, tập biểu diễn văn
nghệ. Hạ sĩ Bùi Anh Lượng có tiếng là cây đập tốt trong đội bóng chuyền
của đồn công an. Trong đêm liên hoan văn nghệ, Lượng và Chiêm cùng hát
bài "Trước ngày hội bắn".
Tình yêu đã đến với họ và anh em trên đồn công an vũ trang đã coi Chiêm như người nhà.
Đại
đội phó Hoạ giao nhiệm vụ cho Chiêm tiếp đạn tới các hướng chiến đâu và
băng bó cho anh em bị thương để đưa về tuyến sau. Quần sắn cao, tóc búi
gọn, Hoàng Thị Hồng chiêm xông xáo và vác đạn đến các hưóng chiến đấu.
Khi vác đạn tới công sự hướng nam, Chiêm đến bên cạnh Khổng Tiến Dũng
nói :
- Dũng bắn, để chị ném lựu đạn !
Dũng và Chiêm đã anh dũng chiến đấu chặn địch ở một hướng đẩy lùi 3 đợt tiến công của địch.
Chiêm
cơ động đến một đoạn hào phía trước, gặp 2 chiến sĩ bị thương nặng,
Chiêm dìu 2 người vào hầm kèo. Vừa quay ra, Chiêm gặp 1 toán giặc nhảy
xuống hào. Chúng định bắt sống Chiêm, Chiêm nép mình vào một góc hào,
bình tĩnh giương súng, bóp cò. 4 tên đi đầu bị trúng đạn, chết gục.
Những tên đi sau không dám hung hăng nhảy xuống hào nữa. Nhưng từ một
hướng khác, bọn giặc lại bất ngờ lao lên. Thấy ở đây chỉ có 1 tay súng
đánh trả, và lại alf tay súng con gái, bọn giặc liền lên tiếng gọi hàng.
Chiêm thét to :
- Hàng này !
Quả lựu đạn vút đi từ tay Chiêm. 2
tên giặc chết gục. Chiêm bị thương vào tay trái, máu nhuộm đỏ cánh áo.
Mừng từ phía trái đường hào chạy tới. Mặc dù bị thương, cả 2 người vẫn
nổ súng đánh chặn giặc.
Không thấy Chiêm tiếp đạn cho mình, Khổng
tiến dũng nóng ruột chạy đi tìm. Gặp Chiêm bị thuwong, Dũng xé áo mình
băng cho chị. Chiêm nói :
- Dũng đến băng cho anh Mừng trước. Anh ấy bị thương nặng hơn chị. Ta chiến đấu đến cùng, Dũng ạ !
Qua
nhiều đợt tiến công liên tục không chiếm được đỉnh Pò hèn, giặc liền nã
tới tấp đạn pháo 130 ly và cối 82 ly vào trận địa của ta. Nhiều đoạn
hào giao thông bị sụt lở, những mảnh đạn pháo cày tung đất đá. Quân giặc
xốc lại lực lượng, mở đợt tấn công mới. Những tên chỉ huy cầm súng
ngắn, phất cờ thúc lính liều lĩnh xông lên.
Cuộc chiến đáu tiếp theo
vô cùng gay go và ác liệt. Một số chiến sĩ bị thương. Địch đến gần, các
chiến sĩ dùng võ thuật và lưỡi lê đánh địch.
Đang chiến đấu, Chiêm nghe Hoàng Tiến Cờ gọi :
- Chị Chiêm, anh Hoạ hi sinh rồi !
Chiêm chạy đến hầm, nơi anh Hoạ được đồng đội mang vào. Chiêm nâng 2 cánh tay anh, đặt lên ngực rồi phủ tấm chăn lên người anh.
Nghe
tiếng giặc la hét, Chiêm lao ra khỏi hầm, ráng sức ném liền 2 quả lựu
đạn vào toán giặc. Chiêm bị thương lần thứ 2. Đạn găm trúng chân, Chiêm
lảo đảo ngã xuống thành hào. Một lần nữa, Khổng Tiến Dũng lại lao đến
băng cho Chiêm và đưa Chiêm vào hầm. Nghe Dũng báo cáo súng CKC của
chiêm đã hết đạn, đồng chí Chuyên, người được cử thay thế Hoạ chỉ huy
liền chạy vào hầm gặp Chiêm nhưng chiêm đã ra ngoài công sự để quan sát
tình hình địch. Chuyên trao khẩu súng ngắn của Hoạ cho Chiêm :
- Súng của Hoạ đây, chị chiến đấu để trả thù cho Hoạt !
Chiêm
cầm khẩu K54 trở lại vị trí chiến đấu. Lợi dụng thành hào, chiêm bình
tĩnh ngắm bắn từng tên giặc. Phía trái, Chuyên đang chiến đấu rất anh
dũng, vừa tiêu diệt địch ở hướng anh, vừa bắn hỗ trợ cho Chiêm.
Bọn
giặc vẫn liều lĩnh xông tới, chúng bắn trung liên quét mặt đồi. Chiêm
lại bị thương rất nặng ở cột sống. Chị ngã xuống và không bao giờ tỉnh
dậy nữa. Chiếc áo màu vàng nhạt, điểm hoa tím mà chị vẫn thích mặc đã
nhuốm đỏ.
Hoàng Thị Hồng Chiêm, cô gái đẹp nết đẹp người ấy đã anh
dũng hi sinh trên mảnh đất biên giới thiêng liêng của Tổ quốc khi bước
vào tuổi 25. Bà con huyện Hải Ninh gọi Hoàng Thị Hồng Chiêm là Người con gái anh hùng của đất biển, còn các chiến sĩ công an nhân dân vũ trang đồn biên phòng Pò Hèn thì gọi Hoàng Thị Hồng Chiêm là đồng đội anh hùng của chúng tôi.
Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.
MÌNH VÀ 50 QUẢ LỰU ĐẠN
Nguyễn Phúc Ấm, chuyện Giàng A Sình, dân tộc Mèo, chiến sĩ đại đội 3, tiểu đoàn 2, bộ đội huyện Sình Hồ, tỉnh Lai Châu.
Thằng
giặc Trung Quốc đánh vào trận địa mình sớm lắm. Con chim cà hoánh chưa
báo sáng, súng nó đã nổ lọp bọp dưới suối rồi. Song trận địa chốt của
mình ở tít trên cao, anh em bảo đo được những 1.262m nên bọn giặc còn
đang lò dò tận dưới chân dốc, đơn vị mình đã ra hào chiến đấu hết, súng
lên đạn sẵn sàng. Chỉ có mình chịu để 2 bàn tay không thôi !
Mình
cũng có súng chứ, 1 khẩu AK còn mới, báng đỏ như sắc hoa piót ven bản
Chởi Ngò, quê mình ấy. Nhưng thằng Lò Văn Hoà, người Thái, bên tiểu đội 4
nó mượn đi công tác từ chiều qua rồi. Nó để lại khẩu M79 mà mình có
biết bắn đâu. Với lại, tiểu đội 4 không cho lấy, nó bảo phải để cho tiểu
đội nó làm hoả lực mạnh.
- Tiểu đội trưởng à, mình không có súng, bảo mình làm gì ?
Mình hỏi tiểu đội trưởng Học người Kinh thế. Nó nghĩ một tí rồi vỗ vai mình :
- Không lo, ối việc. Sình vác đạn B40, B41 ra đây cho tiểu đội. Lát nữa ta bắn chết địch rồi lấy súng địch mà đánh.
Mình theo đường hào chạy đi. Lắp đạn và chuyển xong cơ số đạn cho tiểu đội, hết việc, chân tay mình lại buồn thiu.
- Tiểu đội trưởng à, còn việc gì nữa, phân công đi.
Mình
lại giục. Địch vẫn chưa tới, chỉ bắn pháo đoành đoành lên đỉnh chốt.
Tiểu đội trưởng ngó ngược ngó xuôi, chẳng tìm ra việc gì cho mình. Bỗng
nó cười giòn rồi ghé tai mình bảo :
- Này, tớ thấy trong kho còn khẩu súng bắn tỉa. Vào nói khéo với cậu quân khí, nó cho mượn Sình ạ.
Cậu quân khí tốt thật. Mới hỏi một câu nó đã choàng dây súng vào vai mình giục :
- Súng mới bóc tem, cậu là người bắn viên đạn đầu tiên đó. Trở lại trận địa ngay đi, tớ nghe súng nổ nhiều rồi.
Quả
như thế, mình về đến hướng tiểu đội 5 của mình chốt thì địch đã lố nhố
đầy lưng dốc. ANh em trong tiểu đội vẫn im lặng chờ địch, không ai bắn
cả. Chỉ có bọn giặc bắn, đạn bay qua miệng hào rào rào.
Thấy mình vác súng về, tiểu đội trưởng Học hớn hở nói :
- Súng AK, CKC là tầm gần, súng bắn tỉa này phải bắn từ xa, Sình bấn xem nào.
Mình
vác súng lên bờ công sự, rê đầu ruồi vào giữa mặt 1 tên giặc, nẩy cò.
Phát thứ nhất, 1 thằng đổ. Phát thứ 2, mình nhắm bắn vào thằng ngậm kèn
đồng, nó ngã vật. Mình sướng quá, lại nâng súng, siết cò. 3 viên đạn bay
đi, sao có mỗi thằng khiêng đạn ngã nhỉ. "Cái tay mừng quá, thành run
rồi". Mình nghĩ thế rồi ghì súng thật chặt, bóp cò cẩn thận hơn. Song 2
viên đạn này đều trượt cả. Mình nổ thêm 3 phát, chỉ bắn chết được 1
thằng nữa thôi. Địch ào tới gần, súng của anh em nổ mau và vang lắm, bọn
địch ngã chồng lên nhau, rú thét ầm ĩ như con thú bị trúng tên. Giờ mới
thấy chán khẩu súng bắn tỉa của mình. Nó không bắn liên hồi được. Địch
vào sát mà lạch rạch mãi mới nổ được 1 lần, chậm quá. Hết đợt chiến đấu
thứ nhất, mình trả cây súng cho tiểu đội trưởng :
- Tiểu đội trưởng à, mình không thích nó nữa đâu. Mình bò ra chỗ địch chết tìm khẩu súng khác đây.
Tiểu đội trưởng Học giữ tay mình :
- Đừng, chỗ địch chết còn xa hào, nguy hiểm lắm. Sình lên trên đại đội trưởng, may ra có khẩu nào dự trữ chăng.
Mình sang hầm đại đội trưởng Nhâm, nó bảo không còn súng nhưng bày cách cho mình đánh bằng lựu đạn, rồi dặn mình :
- Sình không trở về chỗ tiểu đội nữa, trụ lại phía hậu cứ đề phòng địch tập hậu. Một mình một hướng đấy, đánh được không ?
- Được chớ, nhưng phải nhiều lựu đạn, lúc nào có súng đại đội trưởng cho mình mượn nhé.
Mình
vào hầm ngủ lôi quần áo bỏ ra ngoài, xách chiếc balô không chạy tới kho
đạn. Cậu quân khí vẫn tốt lắm, nó cho mình đầy một balô. Đến vị trí
chiến đấu, mình xếp lựu đạn từng hàng trước mặt, đếm được 36 quả chứ ít
đâu, mà mình cứ muốn nữa, muốn tròn 50 song phải phần anh em chứ. Nghĩ
vậy, mình bò tới các ngách hào, bò ra những chỗ địch vừa tràn đến, chúng
nó thu hết xác và súng rồi, nhưng lựu đnạ còn lăn lóc khối ra. Mình bỏ
đầy túi quần, đầy mũ, đếm đủ 14 quả mới bò trở về.
Đại đội trưởng
Nhâm lo xa mà đúng thật. Mình vừa chuẩn bị xong trận địa thì thằng Trung
Quốc mò tới. Nó vẫn đánh ở 3 mé kia, xong cho quân đánh vòng cả phía
sau này để vây chốt mình. Giá có súng, mình cứ ngồi tại chỗ tỉa nó từ xa
đấy, nhưng chỉ có lựu đnạ thôi, hpải chạy đến gần nó mà đánh vậy. Nó
muốn giữ bí mật, tiến về phía mình im ắng lắm. Song mình nhìn thấy hết.
Mình toài khỏi hào, lăn tròn xuống dốc, nấp sau các bụi cây ở bờ đá, đến
gần nó, nó vẫn không hay. Mình tung liền 3 quả lwụu đạn vào bọn đông
nhất. Chờ nó dồn nhau lại, mình văng luôn 4 quả nữa. Không biết chết bao
nhiêu đứa đâu. Mình muốn đánh lâu mà hết lựu đạn, đành phải về hào,
tiếc quá !
Ngỡ nó còn chán mới đánh lên vì phải giải quyết chuyện
thằng chết, rồi phải thăm dò ta nữa, nên về tới hào, mình bỏ cả đấy,
chạy sang báo cáo đại đội trưởng. AI ngờ, quay về tới nơi, nó đã bò lổm
ngổm từng đám trên dốc rồi. Thế là mình mở chốt lựu đạn liên tục, cứ
thấy chỗ nào đông là mình chụp lựu đnạ xuống, 4, 5 thằng hốt hoảng nhảy
tọt vào đoạn hào phía dưới. Mình thót ngay đến, tống liền 2 quả lựu đạn,
chúng nằm nhăn răng cả ra. Đợt tiến công đầu tiên của địch ở hướng mình
kết thúc. Nó kéo xác nhau, chạy thục mạng xuống chân đồi.
Các đợt
tiến công khác của địch cũng đại loại thế thôi, mình chẳng nhớ hết đâu.
Mà có nhớ cũng khó nói hết cái lwòi lắm. Chỉ biết rằng từ lúc con chim
cà hoánh chưa báo sáng đến lúc con chim coóc co báo đêm về lcú 6 giờ
chiều, nó đã tiến cong lên chốt đại đội 3 mình 10 lần. Cả 10 lần nó đều
bị đại bại, bị đánh bật ra khỏi chốt, bỏ lại rất nhiều xác chết.
Đêm xuống, tiểu đội trưởng Học tới nắm tay mình giật giật mãi, khen :
-
Giàng A Sình đánh giỏi lắm. Ngày mai cả đại đội thi đua với Sình đấy.
Thử nhớ xem diệt bao nhiêu tên để định mức phấn đấu cho anh em nào.
- Mình nhận diệt được 50 đứa.
- Ớ, nhiều hơn chứ !
- 50 thằng là nhiều. Thành tích phải chia đều cho anh em, mình không nhận thêm đâu, tiểu đội trưởng à !
Trong
cuộc họp mặt "Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc" do Trung ương Đoàn TNCS
HCM tổ chức, tại hội trường Ba ĐÌnh, Hà Nội, các đại biểu rất xúc động
khi nghe Giàng A Sình báo cáo về chiến công đánh thắng giặc Trung Quốc
xâm lược. Khuôn mặt bầu bĩnh, cái miệng hay cười càng làm cho Giàng A
Sình rất trẻ so với tuổi 22 của anh.
Khi kể hết chuyện, giọng Giàng A SÌnh trở nên hồn nhiên. Anh tươi cười :
- Mình nói hết rồi ! Mình xuống đây ! Mình chào các đại biểu !
Cả hội trường Ba ĐÌnh rộn ràng vỗ tay hoan hô Giàng A Sình, chiến sĩ dũng cảm dân tộc Mèo, tỉnh Lai Châu.
Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét