'Đảng cần cải cách căn bản'
Tài liệu Wikileaks mới
tung ra cho thấy có quan chức cao cấp ở Việt Nam tỏ ra "thất vọng"
trước sự trì trệ của Đảng Cộng sản trong tiến trình cải tổ ở Việt
Nam.
Ông Võ Viết Thanh, cựu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh được trích lời nói với quan chức ngoại giao Hoa
Kỳ hồi năm 2005 rằng Đảng Cộng sản cần 'cải cách căn bản' để chống tham
nhũng, chấm dứt nạn 'Con ông cháu cha' và thúc đẩy phát triển kinh tế.Trong điện tín được tổng hợp từ Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở thành phố Hồ Chí Minh hôm 20/4/2005, ông Thanh cũng được dẫn lời thừa nhận rằng Đảng Cộng sản cần mở rộng quyền bỏ phiếu của người dân để họ có thể bầu những vị trí cao cấp nhất của Đảng và Chính phủ.
Ông Thanh, người cũng từng là Thứ trưởng Công an, nói Đảng Cộng sản "cần học cách tiếp nhận nhiều chỉ trích hơn nhiều so với hiện nay".
Bản thân ông thuộc lứa cách mạng từ thời trước 1975 và được phong anh hùng các lực lượng vũ trang của tỉnh Bến Tre từ thời chống Mỹ.
Vào thời điểm được trích lời năm 2005 ông cho hay đang nghiên cứu một đề nghị để định nghĩa lại về mặt pháp lý thế nào là bất đồng chính kiến và các "phần tử phản động" nhằm cho người dân có thêm không gian để có những chỉ trích có tính xây dựng đối với chính quyền.
Tuy nhiên, BBC không thể kiểm chứng được những điều này cũng như diễn tiến nếu có của việc 'nghiên cứu' đó, vốn chỉ được nêu ra trong điện tín Wikileaks lấy được từ phía ngoại giao Hoa Kỳ.
'Thân Trung Quốc'
Trong điện tín được tổng hợp từ Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở thành phố Hồ Chí Minh hôm 20/4/2005, ông Thanh cũng được dẫn lời thừa nhận rằng Đảng Cộng sản cần mở rộng quyền bỏ phiếu của người dân để họ có thể bầu những vị trí cao cấp nhất của Đảng và Chính phủ.
Lãnh sự quán Hoa Kỳ nói ông Thanh thể hiện những ý kiến của ông trong cuộc gặp với Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ hôm 18/4/2005.
Các quan chức lãnh sự nhận định ông Thanh là 'đệ tử' của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và là người thiên về cải cách kinh tế và xã hội trong Đảng Cộng sản.
Ông Thanh nói đa số các quan chức cao cấp của Đảng Cộng sản đều thấy có những điểm chung về lợi ích với Hoa Kỳ về dài hạn và muốn có đối thoại chiến lược hơn do lo ngại về sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.
Tuy nhiên, ông nói rằng những nhân vật "thân Trung Quốc" và khối lý luận tư tưởng trong Đảng (Party ideologues) chống lại xu thế này.
Trong cuộc gặp hôm 18/4/2005, khi ông Thanh vừa có chuyến thăm Tây Nguyên trở về, ông nói chính phủ Việt Nam cũng đang phải giải quyết tình trạng các quan chức cấp tỉnh ngăn cản việc thực hiện hướng đi mới của Hà Nội trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế, tôn giáo và xã hội.
Có vẻ như nhận xét của cơ quan ngoại giao Mỹ về quan điểm của ông Võ Viết Thanh phù hợp với các phân tích về điều một số nhà quan sát gọi là "phái cải cách theo con đường Võ Văn Kiệt".
Sau 1975, khi làm lãnh đạo Đảng tại TPHCM, ông Võ Văn Kiệt là nhân vật có tư duy cởi mở trong mối quan hệ với những trí thức thuộc chế độ cũ cũng như cố gắng kết nối trở lại trong quan hệ với nước cựu thù Hoa Kỳ.
Cùng thuộc phái Nam Bộ Kháng chiến với ông Kiệt, điều dễ hiểu là ông Thanh chịu ảnh hưởng của nhân vật từng được cho là "kiến trúc sư" của cuộc cải cách mang tên Đổi Mới tại miền Nam và sau là của cả nước.
Ông Võ Viết Thanh, cựu ủy viên Trung ương Đảng và là một nhân vật chủ chốt trong Thành Ủy đầy quyền lực tại Sài Gòn từ 1986 đến 1991, giai đoạn thành phố này đi đầu tàu trong cải cách ở Việt Nam.
Nay đã nghỉ hưu nhưng hồi 2006, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thay mặt Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng nhì.
Hàng trăm tài liệu về Việt Nam đã được trang Wikileaks đưa ra trong ngày 25/8/2011 ghi nhận các quan sát của giới ngoại giao Mỹ tại Hà Nội và TPHCM về chính trường Việt Nam.
Nhiều chủ đề trong số này thực ra đã được dư luận trong và ngoài nước của người Việt biết đến và bàn thảo không công khai từ lâu nhưng đây là lần đầu tiên các bình luận được hệ thống hóa đầy đủ theo cách của ngành ngoại giao Hoa Kỳ.
Nhiều đánh giá có thể chỉ còn giá trị lịch sử hơn là thời sự nhưng các tài liệu này cũng cho thấy Hoa Kỳ theo dõi rất sát các xu hướng trong và ngoài hệ thống chính trị Việt Nam, và đánh giá rõ tính cách, quan điểm của các nhân vật liên quan vào từng giai đoạn.
BBC sẽ tiếp tục đưa tới quý vị những tin tức từ các tài liệu này trong những ngày tới đây.
Ngoại giao Mỹ nói về di sản Võ Văn Kiệt
Điện tín từ Tổng Lãnh sự Quán
Hoa Kỳ tại Tp HCM, được Wikileaks công bố, nhận định giới trí thức tại
Sài Gòn tin rằng những ý tưởng và sự cởi mở của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
nhất định sẽ tạo nguồn cảm hứng cho họ nhằm đi tiếp con đường cải cách
và dân chủ cho Việt Nam mà ông đã chọn.
Tuy nhiên bức điện đề ngày 05/06/2009 cho hay
giới trí thức nói về thực trạng tiếp tục có khoảng trống trong phe cải
cách bởi không có nhân vật nào vào lúc này có cả uy tín cải cách lẫn
công trạng cách mạng mà ông Kiệt có được.Họ nói hầu hết các ý tưởng của ông Kiệt bị giới lãnh đạo Đảng tảng lờ, kể cả khi giới lãnh đạo muốn vay mượn di sản của ông.
Ngoại giao Mỹ nhận xét giới trí thức không chấp nhận nỗ lực của đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn dùng ký ức về ông Kiệt để đánh bóng hình ảnh của mình như một nhà lãnh đạo có đầu óc cải cách.
Điện tín cho hay giới quan sát chính trị tại Tp HCM nói với ngoại giao Mỹ rằng họ xem việc Văn phòng Thủ tướng ra chỉ thị cho các báo phải đăng trên trang nhất một bài báo của ông Dũng viết, ca ngợi ông Kiệt như người tiên phong trong nỗ lực hòa giải dân tộc…. hai ngày trước dịp giỗ đầu của ông Kiệt chính là động thái này.
Vào thời điểm đó, ông Dũng cũng được xem có động thái muốn lấy lòng giới trí thức theo phe cải cách lớn tiếng phản đối chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên của Chính phủ Việt Nam.
Tuy nhiên một nguồn khả tín nói với các nhà ngoại giao Mỹ ở Tp HCM rằng kể như những gì trong một năm qua (2008-2009) cho thấy ông Dũng và chính phủ Việt Nam thiếu tôn trọng ý tưởng và mong muốn của ông Kiệt ra sao, và thủ thuật của Thủ tướng Dũng cho thấy bị “phản tác dụng”, khiến ông thất bại trong nỗ lực kiếm điểm cho mình.
Trong giai đoạn tiền Đại hội Đảng X, ông Kiệt đã viết một bức thư gửi giới lãnh đạo Đảng thúc giục Đảng tự thay đổi theo hướng dân chủ.
"Giới trí thức không chấp nhận nỗ lực của đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn dùng ký ức về ông Kiệt để đánh bóng hình ảnh của mình"
Điện tín từ Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ
Trước khi từ trần, ông Kiệt cũng bày tỏ quan ngại về kế hoạch mở rộng Hà Nội quá hấp tấp nhưng giới lãnh đạo Đảng không nghe và Quốc hội sau đó thông qua kế hoạch này.
Ý nguyện của ông Kiệt trong di chúc như không muốn lấy tên ông để đặt tên đường phố cũng như không muốn có lăng mộ riêng cho mình đã bị giới chức cấp tỉnh phía nam tảng lờ và thực hiện theo ý của họ.
“Sự ra đi quá sớm” của ông Kiệt để lại một khoảng trống cần có người thay và phe cải cách hiện nay thiếu một nhà lãnh đạo thực thụ, theo Nguyễn Trung, một cây bút có khuynh hướng cải cách nhận định.
Tuy nhiên giới ngoại giao Mỹ nhận định trong điện tín này rằng trong lúc chưa có ai có thể thay ông Kiệt trong vị trí cầm lái, nhiều trí thức vẫn tin rằng cỗ xe cải cách rốt cùng sẽ đi theo hướng mà cố thủ tướng đã chọn.
'Diễn biến hòa bình'
Trong điện tín đầu, ông Kiệt được đề cập nói việc cho rằng Hoa Kỳ tìm cách dùng cải cách kinh tế để phá hoại Đảng – còn được gọi là “diễn biến hòa bình” không còn mấy thuận tai nữa.
Tuy nhiên, ông Kiệt đồng ý rằng có những người trong Đảng, “các đồng chí cao tuổi hơn và các quan chức chính phủ” vẫn không muốn cải cách kinh tế vì “sẽ tạo ra bất ổn xã hội”.
Tức là giới lãnh đạo Đảng đánh đồng bất ổn xã hội với khả năng Đảng bị mất dần vị thế kiểm soát xã hội.
Không giống như lúc còn tại vị, ông Kiệt vào lúc đối thoại với giới ngoại giao Mỹ ở Tp HCM (tháng 10 năm 2003, trước thời điểm điện tín được gửi) tin rằng phe bàn lùi chỉ là thiểu số và sẽ không cản trở được tiến trình cải cách.
Ông Kiệt cũng tin tưởng mạnh mẽ rằng phe có tư tưởng “diễn biến hòa bình” trong Đảng và Chính phủ sẽ không thể cản trở được việc Việt Nam và Hoa Kỳ tăng cường quan hệ song phương.
Ông dẫn chiếu tới các điểm mốc như Thỏa thuận Mậu dịch Song phương Hoa Kỳ-Việt Nam (BTA) như một “điều kiện tiên quyết cần có” để Hà Nội và Washington giải quyết các vấn đề khác trong quan hệ hai nước.
"Không thể đánh bại được tham nhũng nếu không có đổi mới chính trị ở Việt Nam"
Võ Văn Kiệt, Cố Thủ tướng
Tuy nhiên điện tín này nhận xét rằng chỉ có duy nhất chủ để tự do tôn giáo là ông Kiệt nói không giống người có đầu óc cải cách lắm và ông tỏ ra tương tự như những đại diện thường thấy khác trong Đảng.
Ông Kiệt được trích dẫn nói với Đại sứ Hoa Kỳ Michalak trong điện tín gửi ngày 09/04/2008 rằng Hoa Kỳ và Việt Nam những mục tiêu về nhân quyền, tự do tôn giáo và dân chủ như nhau tuy lộ trình thực hiện khác nhau.
Liên quan tới tham nhũng, ông Kiệt được trích dẫn trong bức điện ngoại giao Mỹ gửi ngày 15/02/2007 nói tham nhũng là sự đe dọa lớn nhất và duy nhất cho Đảng Cộng Sản Việt Nam và đất nước.
Ông nói rằng không thể đánh bại được tham nhũng nếu không có “Đổi mới Chính trị” ở Việt Nam.
Tuy nhiên ông Kiệt không bàn về thể chế độc đảng mà chỉ thúc giục đi tới dân chủ nội bộ nhiều hơn và tạo ra hệ thống kiểm tra chéo trong Đảng và trong Chính phủ.
Điện tín này đề cập tới việc ông Kiệt nỗ lực thúc đẩy cải cách kinh tế toàn diện, trong đó có đề xuất tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho giới doanh nghiệp.
Nỗ lực này của ông đã bị phe bảo thủ áp đảo vì phe này cương quyết duy trì lập trường rằng Đảng và Nhà nước phải “ngồi chiếu trên” trong mâm cỗ kinh tế.
Mỹ lo ngại BBC Tiếng Việt 'bị chặn' ở VN
Cập nhật: 14:02 GMT - thứ sáu, 26 tháng 8, 2011
Điện tín từ Sứ quán
Mỹ tại Hà Nội công bố trên Wikileaks cho thấy giới ngoại giao
lo ngại về việc dường như đang có nỗ lực chặn BBC tiếng Việt
ở trong nước hồi 2010.
Đây là một trong loạt điện tín mới được website rò rỉ thông tin này công bố.Trong một bức điện viết hôm 23/02/2010 ký tên đại sứ lúc đó là ông Michael Michalak, có tham vấn Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở TP Hồ Chí Minh, phía Mỹ cho hay đang có "chứng cứ ngày càng nhiều, tuy chưa thể khẳng định chắc chắn, rằng việc truy cập website của BBC bằng tiếng Việt đang ngày càng khó khăn ở Việt Nam".
Bức điện dẫn lời một viên chức chính trị của Đại sứ quán Anh ở Hà Nội nói bắt đầu từ khoảng Tết Canh Dần 2010 đã có thông tin website BBCVietnamese.com bị các nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP) ở Việt Nam chặn truy cập.
Viên chức này nói Sứ quán Anh đang thu thập bằng chứng để tìm cách tiếp cận chính phủ Việt Nam về vấn đề này.
Theo Đại sứ quán Anh, việc chặn website của BBC diễn ra tương tự như quá trình chặn Facebook bắt đầu từ mùa thu năm 2009, tuy không nhất loạt như thế.
Đại sứ quán Mỹ cũng tổ chức một cuộc điều tra nhỏ và thấy rằng ISP lớn nhất Việt Nam là FPT cho phép một số người có thể truy cập được.
Một số người khác sử dụng dịch vụ cũng của FPT thì không thể vào được mạng của BBC.
'Sức mạnh Internet'
Bức điện của ông Michalak thuật lại rằng khi một nhân viên sứ quán gọi điện lên FPT để xin trợ giúp thì bản thân kỹ thuật viên công ty này thoạt đầu cũng không thể truy cập BBC.Sau đó người kỹ thuật viên tải lại trang và nói nay anh ta đã vào được trên máy tính của mình, không có vấn đề gì cả.
Thế nhưng nhân viên sứ quán làm thao tác tương tự thì không thành công.
Điện tín của ông Michalak dẫn nguồn Alexa, một dịch vụ thống kê lưu lượng truy cập, cho hay vào thời điểm đó trang web của BBC đứng thứ 48 trong số các trang được truy cập nhiều nhất ở Việt Nam, trong khi Facebook đứng thứ tám.
"Việc chặn website BBC đặc biệt đáng lo ngại vì đây là một website nhiều người đọc và là trang mạng thông tin bằng tiếng Việt duy nhất không chịu sự kiểm soát của chính phủ Việt Nam."
Đại sứ Michael Michalak
"Việc chặn website BBC đặc biệt đáng lo ngại vì đây là một website nhiều người đọc và là trang mạng thông tin bằng tiếng Việt duy nhất không chịu sự kiểm soát của chính phủ Việt Nam trong khi RFA và VOA đã không thể truy cập nếu không qua proxy."
Điện tín của ông đại sứ cũng nhận xét website BBC tiếng Việt là nguồn thông tin quan trọng về các vấn đề nhân quyền, thường xuyên đăng tải các chủ đề thời sự đang được bàn luận trên các blog.
Hiện trang Bấm BBC Tiếng Việt có chừng 65% bạn đọc thường xuyên đến từ Việt Nam.
Ngoài điện tín về BBC nói trên, loạt tài liệu vừa tung ra trên Wikileaks cũng đề cập tới nhiều chủ đề chính trị-xã hội khác, như tranh luận về Trường Sa ở trong nước, Hoa Kỳ huấn luyện Cảnh sát biển Việt Nam, người cùng quê Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra làm quan ở Hà Nội, các nhận xét về ông Võ Văn Kiệt, phát biểu của nhiều nhân vật chính trị Việt Nam, chuyện Canada mời Linh mục Nguyễn Văn Lý sang di trú, thực trạng người trong nước sang Hoa Kỳ mua nhà, và đề tài hoạt động dân chủ trong nước...
Wikileaks: Giáo dục Mỹ ở Việt Nam
Việc cổ vũ cho các chuẩn
mực giáo dục Mỹ ở đại học Việt Nam được xem là giúp gây ảnh hưởng đến
thế hệ lãnh đạo Việt Nam tương lai, theo lời của những nhà ngoại giao Mỹ
ở Việt Nam.
Đây là một phần Bấm
nội dung trong bức điện, bị tiết lộ qua Wikileaks, chuẩn bị
cho chuyến thăm Hà Nội hồi tháng Tư năm 2010 của Tiến sĩ Kerri-Ann
Jones, Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách các vấn đề Đại dương, Khoa
học và Môi trường quốc tế.
Mỗi khi có một quan chức từ Washington đến thăm Việt Nam, sứ quán Mỹ tại Hà Nội đều gửi về điện thư đánh giá tình hình Việt Nam với mục đích chuẩn bị kiến thức cho phái đoàn sắp sang.
Bức điện gửi Tiến sĩ Kerri-Ann Jones ngày 24/02/2010 là bức thư gần nhất mang nội dung này, trong số các điện thư vừa được Wikileaks công bố trong tuần.
Trong thư, người khi đó là đại sứ tại Hà Nội, ông Michael Michalak (nhiệm kỳ 2007 - 2011), nhận định giáo dục "tiếp tục là vấn đề quan trọng trong mối quan hệ".
Ông nói sứ quán "tích cực" tìm cách thúc đẩy việc áp dụng các chuẩn mực giáo dục Hoa Kỳ trong các trường đại học Việt Nam để "gây ảnh hưởng đến thế hệ lãnh đạo kế tiếp, gia tăng số lượng người tốt nghiệp có kỹ năng cần thiết để làm cho công ty Mỹ ở Việt Nam, và giúp Bộ Giáo dục - Đào tạo hiện đại hóa hệ thống bị nhiều người xem là hệ thống giáo dục đổ vỡ".
Trong bức điện, đại sứ cho biết Quỹ Giáo dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation, VEF) đến năm 2010 đã đưa 306 người sang học ở 70 trường của Mỹ, đa số là học tiến sĩ khoa học.
Ông cho biết một bộ quy định pháp chế liên quan VEF lúc đó đang chờ Quốc hội Mỹ xem xét mà nếu được thông qua sẽ cho phép VEF tiếp nhận cả những người Việt muốn theo học ngành khoa học xã hội.
Vấn đề Trung Quốc
Bức điện nói sự nghi ngờ Trung Quốc tại Việt Nam "hằn sâu", nhưng Hà Nội cũng thực tế nhìn vào sự bất cân đối quyền lực và không muốn gây thù địch với Trung Quốc.
"Hà Nội cũng không mắc ảo tưởng rằng họ có thể 'cân bằng' Trung Quốc với từng cá nhân Hoa Kỳ, Nga hay Nhật Bản."
Trích điện thư
"Ở trong nước, Đảng cũng không chấp nhận cách tiếp cận mang tính đối đầu hơn với Trung Quốc: khi đã được bùng ra, tình cảm dân tộc chủ nghĩa, dù ban đầu nhắm tới Trung Quốc, có thể dễ dàng quay sang Đảng."
Theo đại sứ Michalak, Việt Nam muốn có quan hệ "ấm áp và ổn định" với Trung Quốc, đồng thời "thận trọng" tìm kiếm nhiều tình bạn song phương.
Lá thư nói quan hệ song phương với Việt Nam có thể xem là đang ở mức phong phú nhất kể từ khi hai nước lập lại quan hệ năm 1995, phần lớn là nhờ hai nước nhìn thấy giá trị chiến lược trong việc mở rộng quan hệ đối tác.
"Những người bảo thủ quyền uy trong Đảng Cộng sản và ngành an ninh, gồm cả quân đội, vẫn lo ngại về ý định của Mỹ, nhưng ảnh hưởng của họ sẽ phai nhạt theo thời gian khi dân số trẻ của đất nước ngày càng hướng về phương Tây."
Đại sứ Michalak nói Việt Nam đã có nhiều tiến bộ về tự do tôn giáo nhưng quyền chính trị và tự do báo chí đã xấu đi khi Đảng Cộng sản gia tăng đàn áp trước thềm Đại hội Đảng tháng Giêng 2011.
Chất độc da cam
Theo đại sứ Mỹ, "những nghiên cứu môi trường gần đây cho thấy việc nhiễm dioxin tập trung ở khoảng 20 'điểm nóng', phần lớn nằm trong những khu vực từng là sân bay Mỹ, nơi lưu trữ, chuyên chở và vận chuyển chất da cam".
Trong khi Việt Nam vẫn nói dioxin có vai trò dẫn đến gần ba triệu người tàn tật, nhưng đại sứ Mỹ viết rằng "chúng tôi không tin con số này có thể được hỗ trợ bởi số liệu và phân tích vững chắc về khoa học".
Nhưng đại sứ Mỹ cho rằng sự tham gia của Mỹ trong vấn đề này "đã đạt được nhiều, cả trong việc chuyển hóa giọng điệu cuộc đối thoại, xây dựng khả năng giải quyết vấn đề môi trường và giúp đỡ người tàn tật".
Theo bức điện, khoảng 75% viện trợ phát triển mà Mỹ dành cho Việt Nam liên quan các vấn đề sức khỏe, như HIV/AIDS, dịch cúm...
Thiếu tá VN 'say rượu' bàn chuyện biên giới
Một trong những Bấm điện tín của Sứ quán Mỹ ở Hà Nội, bị Wikileaks tiết lộ, cho biết một thiếu tá biên phòng Việt Nam trao đổi với viên chức Mỹ trong tình trạng say rượu, một ngày sau khi hai chính phủ Việt - Trung ký một loạt thỏa thuận quan trọng về biên giới năm 2009.
Từ 16 đến 18/11 năm 2009, đã diễn ra cuộc gặp giữa hai Trưởng đoàn đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc tại Bắc Kinh.
Ngày 18/11 năm đó, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn và Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vũ Đại Vĩ đã ký Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc.
Một trong những điểm gây tranh cãi cho dư luận trong ngoài nước Việt Nam là chủ đề khai thác, phát triển du lịch thác Bản Giốc, mà khi đó hai phái đoàn nói sẽ sớm khởi động đàm phán xây dựng một hiệp định về việc này.
Theo điện tín của Sứ quán Mỹ, vào ngày 19/11, một ngày sau khi hai nước Việt - Trung ký các thỏa thuận, một viên chức chính trị của sứ quán Mỹ đã lên thăm thác Bản Giốc và gặp lính biên phòng cùng một đại diện đối ngoại của tỉnh Lạng Sơn.
Bức điện kể lại rằng một chỉ huy biên phòng, tự giới thiệu là Thiếu tá Hoa (bản gốc tiếng Anh không có dấu) đến gặp trong tình trạng say rượu (visibly drunk).
Ông này giải thích ông vừa xong một phiên "tham vấn" không chính thức với lính biên phòng Trung Quốc bên kia sông, diễn ra vào mỗi tháng hoặc khi có vấn đề xảy ra.
Khi được hỏi "vấn đề" có thể là gì, ông nói thỉnh thoảng khách du lịch lại bị ngã xuống nước.
Theo bức điện, Thiếu tá này bực bội trước ý kiến rằng Bản Giốc là "điểm nóng", tuy ông thừa nhận vấn đề biên giới là "nhạy cảm".
Vị thiếu tá nói với phía Mỹ rằng ông không biết đường biên giới chính xác của thác, nói rằng đó chỉ là cái thác thôi và chẳng ai có thể đi qua.
Ông kết luận: "Chỉ là vài thước đất thôi, nếu như nó có nghĩa là Việt Nam và Trung Quốc có thể có hòa bình và cùng nhau phát triển."
Quan trọng biểu tượng
Trong phần bình luận, bức điện đồng ý với Thiếu tá Hoa rằng ông này cũng một phần có lý.
Đại sứ Michael Michalak, người ký tên dưới bức điện, nói thương lượng quanh thác Bản Giốc "có tầm quan trọng biểu tượng trong các trí thức dân tộc chủ nghĩa ở Hà Nội và TP. HCM và cộng đồng đối kháng hải ngoại".
Nhưng ông viết trong bức điện: "Tuy vậy, trong thực tế, thỏa thuận biên giới đã gỡ bỏ một tiềm năng va chạm giữa Trung Quốc và Việt Nam."
"Đây là một thành tựu quan trọng, như chúng tôi đã ghi nhận khi thỏa thuận được ký, đặc biệt trong bối cảnh cuộc chiến 1979 với Trung Quốc mà đã làm con số người Việt chết lên đến 20.000 được xúc tác bởi một tranh chấp biên giới, ngay cả nếu nguồn cơn gốc rễ là cuộc xâm lăng Campuchia của Việt Nam."
Trên đường về, người đại diện cho ủy ban nhân dân Lạng Sơn chỉ cho phía Mỹ xem những ngôi làng từng bị san phẳng trong cuộc chiến ngắn ngủi năm 1979.
Bức điện kết luận người ta nên ghi nhớ Việt Nam cố gắng "giải quyết một cách thực tiễn mối quan hệ không cân xứng với Trung Quốc".
Những người chỉ trích cho rằng thác Bản Giốc, cả phần chính và phần phụ, là của Việt Nam đã bị Trung Quốc "lấn chiếm".
Còn theo quan điểm chính thức hiện nay của chính phủ Việt Nam, "phần thác cao rất đẹp của Bản Giốc hoàn toàn nằm bên phía Việt Nam, phần thác thấp nhưng là phần chính nằm ở sông Quế Sơn có một phần thuộc Trung Quốc" (Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng, phát biểu năm 2007).
Bản tiếng Anh: English version:
Viewing cable 10HANOI218, SCENESETTER FOR VISIT BY OES ASSISTANT SECRETARY JONES TO
If you are new to these pages, please read an introduction on the structure of a cable as well as how to discuss them with others. See also the FAQs
Reference ID | Created | Released | Classification | Origin |
---|---|---|---|---|
10HANOI218 | 2010-02-24 10:38 | 2011-08-26 00:00 | UNCLASSIFIED//FOR OFFICIAL USE ONLY | Embassy Hanoi |
VZCZCXRO1792 RR RUEHHM DE RUEHHI #0218/01 0551039 ZNR UUUUU ZZH R 241038Z FEB 10 FM AMEMBASSY HANOI TO RUEHC/SECSTATE WASHDC 0967 INFO RHMFIUU/HQ EPA WASHINGTON DC RUEAUSA/DEPT OF HHS WASHINGTON DC RUEHC/DEPT OF AGRICULTURE WASHINGTON DC RUEHC/USAID WASHDC 0038 RUEHHI/AMEMBASSY HANOI RUEHHM/AMCONSUL HO CHI MINH CITY 0533 RUEHJA/AMEMBASSY JAKARTA 0038 RUEHPH/CDC ATLANTA GA
UNCLAS SECTION 01 OF 07 HANOI 000218 SENSITIVE SIPDIS SIPDIS STATE FOR OES, EAP/MLS E.O. 12958: N/A TAGS: SENV TBIO SOCI PREL ECON KGHG KHIV VM SUBJECT: SCENESETTER FOR VISIT BY OES ASSISTANT SECRETARY JONES TO VIETNAM REF: A. 09 HANOI 330; B. 09 HANOI 899; C. HANOI 7; D. 09 HANOI 672 ¶E. HANOI 11; F. HANOI 198; G. 09 HANOI 925; H. 09 HANOI 1300 ¶I. HANOI 202; J. 09 HANOI 1418; K. 09 HANOI 1300; L. 09 HANOI 558 ¶M. 09 HANOI 722; N. 09 HANOI 578; O. 08 HANOI 1293; P. 08 HANOI 406 ¶Q. 08 HANOI 370; R. HANOI 58; S. 08 HANOI 1370; T. 08 HANOI 1100 ¶U. 08 HANOI 1088; V. 09 HANOI 1020; W. 08 HANOI 981; X. 08 HANOI 119 ¶Y. 09 HCMC 595; Z. 08 HANOI 1261; AA. 09 HANOI 639; BB. 09 HCMC 573 CC. 09 HANOI 1274; DD. 09 HCMC 674; EE. HANOI 32 Introduction ------------ ¶1. (SBU) Mission Vietnam looks forward to welcoming you to Hanoi. Your visit will be an important signal to the Vietnamese of continued U.S. engagement on health and environmental issues. Your meetings with the Government of Vietnam (GVN), the United Nations (UN), and the European Union will allow us to finalize preparations for the April International Ministerial Conference on Animal and Pandemic Influenza. You will meet with high-ranking GVN officials and scientists to discuss opportunities to build U.S.-Vietnamese Science and Technology cooperation. The GVN considers climate change to be the second most important issue that it faces, behind economic growth and poverty reduction. In turn, you will have the opportunity to advocate for Vietnamese support in international climate change negotiations. You should be prepared for questions regarding the Lower Mekong Initiative and your interlocutors may seek increased U.S. assistance for responses to Agent Orange, and its contaminant, dioxin. United States-Vietnam Relations ------------------------------- ¶2. (SBU) Our bilateral relationship with Vietnam is arguably at its most productive since relations were normalized in 1995, in large part due to Vietnam and the United States seeing the mutual strategic value of expanding their partnership. Vietnam is the 13th most populous country in the world and a critical geo-strategic partner for the United States in Asia, while the United States is one of Vietnam's largest economic and trading partners, as well as the key balancing force in maintaining a stable geopolitical environment, assured independence and freedom of action. We are Vietnam's largest export market, its third-largest trading partner, and one of its largest foreign investors. We have broadened our cooperation in public health, education, mine clearance, and WTO and BTA compliance. Strategically, Vietnam views the U.S. presence in the region as a force for stability, and security cooperation has expanded as our two militaries explore opportunities to cooperate effectively. Powerful conservative voices in Vietnam's Communist Party and HANOI 00000218 002 OF 007 security services, including the military, remain wary of U.S. intentions, but their influence will wane over time as the country's young population -- the first generation in memory to live without war -- increasingly looks to the West(Refs A and B). Profound differences remain, however, particularly in our approach to human rights. Vietnam has made strides in religious freedom (Ref C), but political rights and press freedoms trends have worsened as the Party clamps down on dissent in advance of the January 2011 Party Congress (Ref D). Foreign Policy Priorities: China and the United States --------------------------------------------- --------- ¶3. (SBU) Vietnam's overriding strategic concern remains China. Mistrust of China runs deep, fed by historical animosities and simmering resentment over South China Sea territorial disputes (Refs E and F). However, Hanoi is realistic about the power imbalance and is wary of antagonizing China. Hanoi is also under no illusions that it can somehow "balance" China with the United States, Russia, or Japan individually. Nor is a more confrontational approach toward China something the Party tolerates domestically: once unleashed, nationalistic sentiment, though initially directed at China, could easily turn toward the Party itself. Instead, Vietnam seeks to maintain as cordial and stable a relationship with China as possible, while also cautiously cultivating a diverse range of bilateral friendships and enmeshing these in a framework of multilateral engagement. In this context, Vietnam's bilateral relationship with the United States enjoys pride of place; however, Vietnam is wary of pushing the agenda with the United States too far, too fast, lest it antagonize China. Vietnam puts great store in ASEAN and has suggested repeatedly that it would like to facilitate better contact between ASEAN and its "plus one" dialogue partners, the United States in particular (Ref G). Vietnam's chairmanship this year gives it an opportunity to lead on regional economic integration and tougher issues like Burma and a collective ASEAN policy in the South China Sea. Vietnam has lobbied hard to host a U.S.-ASEAN summit in Hanoi in 2010. Economic Successes and Challenges --------------------------------- ¶4. (U) (SBU) Vietnam's "doi moi" (renovation) program of economic reform, begun in 1986, has set the country on a successful market economy path, with an average growth rate of 7.5 percent over the past decade. A recent World Bank study described Vietnam's poverty reduction rate as the most significant in such a short period of time of any nation in history. The GVN focuses on exports and foreign direct investment in its drive to achieve middle-income status in the near future. ¶5. (U) In 2009, the U.S. was Vietnam's second largest trade partner overall, after China. Since the 2001 U.S.-Vietnam Bilateral Trade Agreement (BTA), bilateral trade has increased from $2.91 billion to $14 billion in 2009. Despite the global financial downturn, U.S. exports to Vietnam actually stayed level at approximately $2.8 billion. Agriculture trade was particularly strong. The U.S. was the largest foreign investor in Vietnam in 2009, with total new and additional FDI of $9.8 billion. ¶6. (SBU) While the great majority of experts consider Vietnam's long-term economic prospects to be bright, short-term macroeconomic imbalances are worrying investors (Ref H). As Vietnam winds down the stimulus measures it took in response to the financial crisis, it will have to navigate a difficult path between reaching ambitious economic growth targets and controlling inflation and significant budget and trade deficits (Refs I, J and K). To HANOI 00000218 003 OF 007 maintain high growth over the long term, Vietnam needs to overhaul its infrastructure, reduce widespread corruption, and reform its educational system to provide an adequately skilled workforce. Seventh International Ministerial Conference on Animal and Pandemic Influenza -------------------------------------------- ¶7. (U) Health diplomacy is a pillar of the bilateral relationship. Approximately seventy-five percent of all U.S. official development assistance to Vietnam focuses on health issues, and our cooperative efforts to prevent and treat HIV/AIDS and combat pandemic and avian influenza are the hallmarks of our bilateral health relationship. At meetings with the Minister of Agriculture and Rural Development, the UN and other partners, you will have the opportunity to finalize preparations for the upcoming International Ministerial Conference on Animal and Pandemic Influenza (IMCAPI) hosted by the GVN on April 19-21 in Hanoi. We are pleased with the preparations for the event, but still need to ensure an effective and appropriate joint statement and high level USG representation. Pandemic Influenza ------------------ ¶8. (SBU) U.S. efforts have made a difference in Vietnam's fight to contain highly pathogenic avian influenza (HPAI) and have contributed to Vietnam's overall efforts to improve health systems capacity. USG influenza-related assistance has focused on controlling the H5N1 strain in animals and humans, preventing a pandemic, including strengthening emergency preparedness, building veterinary laboratory capacity, animal vaccination campaigns, animal surveillance and response, and public awareness. In 2008, the USG became the largest bilateral donor, surpassing investment by the Government of Japan. Since 2005, the USG has provided USD 50 million to counter the threat of influenza to Vietnam. With international assistance, the GVN took quick action to contain HPAI, and has been rewarded with a notable drop in the number and intensity of animal outbreaks and human infections. With USG support, Vietnam is steadily building is independent capacity to produce and market human vaccines against influenza. (Ref L) Vietnam has moved from an emergency response phase into a more sustained approach. This increased capacity clearly contributed to an effective national response as H1N1 influenza swept across Asia (Ref M). However, Vietnam now needs to develop a sustainable long-term strategy focusing on improved poultry management practices to minimize the risk of a pandemic, emergent from Vietnam. Though internal GVN communications difficulties sometimes delay notification to the international health community, and bureaucratic friction may slow sample sharing, our Vietnamese counterparts remain committed to the campaign. HIV/AIDS and Other Health Issues -------------------------------- ¶9. (SBU) In 2005, Vietnam became the fifteenth and last focus country under the President's Emergency Plan for AIDS Relief. Led by the Ambassador and jointly planned and implemented by USAID, HHS/CDC, DOD and HHS/SAMHSA, the program focuses on prevention, care and treatment for those infected and strengthening of the health system in Vietnam (Ref N). The program continues to successfully build local capacity to prevent the spread of HIV/AIDS and to provide care, treatment and support for an increasing HANOI 00000218 004 OF 007 proportion of the estimated 243,000 Vietnamese infected with HIV. From September 2008 through September 2009, 178,635 individuals received PEPFAR-supported counseling and testing for HIV/AIDS, while 124,992 individuals had been provided with HIV/AIDS palliative care, and over 33,000 initiated on anti-retroviral therapy. From an initial budget of USD 18 million, PEPFAR funding has grown to USD 87.8 million for FY 2010 with a cumulative total of 410.8 million since 2004. About 25 percent has gone directly to the GVN. The USG is in the process of developing a Partnership Framework Agreement with Vietnam for a comprehensive and evidence-based, five-year strategy in line with GVN's five-year strategy focusing on sustainability, capacity building, health systems strengthening, and tuberculosis (Ref O). Our health diplomacy program extends into many other areas, including assistance to combat other infectious diseases (including cholera, tuberculosis, malaria and dengue fever), road safety, tobacco control, and food safety. U.S. assistance, largely focused on targeted, disease-specific programs, has provided tangible benefits to the people of Vietnam, but be most effective and sustainable must be focused in health systems strengthening. (Refs P and Q) Increasingly, we try to focus on two principal challenges to health sector reform: insufficient human resource capacity and an inadequate regulatory regime. Climate Change -------------- ¶10. (U) The GVN understands that climate change threatens could erode its poverty reduction gains, limit economic growth, and endanger food security. In response, the government is looking for international partners to support its climate change responses, particularly those focused on adaptation (Ref R). During Prime Minister Dung's 2008 visit to Washington, our two nations agreed to set up a new joint subcommittee under the existing bilateral Science and Technology Agreement to advance specific areas of cooperation on climate change adaptation and mitigation. We are preparing for the first meeting of the subcommittee in Hanoi at the end of March. Also during the Prime Minister's visit, the United States and Vietnam announced the creation of the Delta Research and Global Observation Network (DRAGON) Institute at Can Tho University. Supported by the U.S. Geological Survey, the DRAGON Institute is facilitating cooperation among scientists and policy makers to address environmental issues, especially climate change, threatening the Mekong Delta (Ref S). Various other U.S. agencies, including USAID, the U.S. Forest Service, EPA, and NOAA participate in projects that directly or indirectly support Vietnam's climate change response. While the Ministry of Natural Resources and Environment (MONRE) will coordinate GVN climate change policy, several other ministries, particularly MARD, will play important roles in developing GVN adaptation and mitigation responses. We expect the MONRE Minister to raise climate change cooperation during your meeting. Agent Orange and Dioxin ----------------------- ¶11. (SBU) While debate continues over the possible human effects of exposure to dioxin, a contaminant in the wartime defoliant Agent Orange, recent environmental studies show that dioxin contamination is concentrated in approximately 20 "hotspots," mostly areas within former U.S. airbases where Agent Orange was stored, loaded and transferred. Areas subjected to heavy aerial spraying do not currently have soil concentrations considered hazardous. The United States and Vietnam have not reached agreement on the scope of possible health effects, with Vietnam continuing to argue that over three million handicapped can trace their disabilities to dioxin exposure. We do not believe that this figure can be supported by scientifically-sound data and analysis. Statements that describe every child born with a birth defect anywhere in Vietnam as a "victim of agent orange" are common and remain a favorite propaganda tool for persons opposed to closer U.S.-Vietnam relations. However, our engagement on this issue has accomplished much, in both transforming the tone of the dialogue and capacity HANOI 00000218 005 OF 007 building to address environmental issues and provide assistance for the disabled (Ref T). ¶12. (SBU) We continue to work with the GVN, UNDP, Ford Foundation and other donors in a multilateral coalition to support environmental remediation of three priority hotspots in Danang, Hoa Binh and Phu Cat airfields (Ref U). From 2001 to 2007, the USG spent over USD 2 million to initiate technical dialogues, scientific conferences on the effects of AO/dioxin, and fund a 4-year project to build the capacity of Vietnamese scientists to analyze soil samples collected from the Danang airport. The Joint Advisory Committee (JAC) for Agent Orange/dioxin, which brings together scientists and researchers from both governments to provide science-based advice to policy makers for potential environmental and health cooperation, held its fourth annual meeting in September, during which Vietnamese and U.S. members reviewed ongoing health and remediation projects (Ref V). In 2007, Congress appropriated USD 3 million for "dioxin mitigation and health activities" in Vietnam. After completing an interagency process to refine USG-wide policy to support AO/dioxin-related efforts, USAID was selected to implement the USD 3 million. Subsequently, in both 2009 and 2010, Congress appropriated an additional USD 3 million for a total of USD 9 million. In 2008 and 2009, with GVN participation, USAID provided USD 2 million to fund medical services for the disabled in Danang and will provide an additional USD 1 million this year. In 2009, USAID, again with GVN participation, selected CDM International to prepare an environmental assessment and engineering plans and designs for remediation at the Danang airport. Results of the environmental assessment will drive selection of the technology option for remediation. EPA is partnering with the Vietnam Academy of Science and Technology to pilot bioremediation technology at the airport. The USG hopes to support actual containment and remediation work in ¶2011. Balancing Environment and Economic Growth ----------------------------------------- ¶13. (SBU) Vietnam's rapid economic growth has strained its ability to protect the environment. In particular, the GVN has not been able to control growing pollution, particularly from booming Export Processing Zones and Industrial Parks (Refs W and X). Recently, local media has turned its focus onto this issue, highlighting several cases of egregious violations of Vietnamese pollution control laws (Refs Y and Z). We have also seen growing concern about the environment from average Vietnamese, particularly the wealthier urbanized population, which now concerns itself with quality of life issues as well as economic well being. While the GVN has drafted an array of environmental laws, it lacks the ability (and perhaps the will) to enforce these provisions and lacks sufficient penalties to deter illegal behavior. Our counterparts in the Environmental Police Department and the Vietnam Environment Administration frequently request assistance on issues ranging from legislative drafting to technical training to financial assistance. To date, U.S. support for these "brown" issues has been modest (Ref AA). We have identified the need to balance economic growth with environmental protection as perhaps the most important future ESTH issue in Vietnam and strive to document many of the areas in which U.S. assistance could make a difference. At the same time, Vietnam's attempts to respond to environmental strains provide potential trade opportunities for U.S. environmental technology, equipment and services firms. Science and Technology Cooperation ---------------------------------- ¶14. (U) In the ten years since the United States and Vietnam signed our bilateral Agreement on Scientific and Technical Cooperation, such cooperation has steadily increased. Your predecessor co-chaired the sixth U.S.-Vietnam Joint Commission Meeting (JCM), during which the two delegations reviewed the broad nature of ongoing collaborative efforts. The Vietnamese brought over 40 delegates to Washington, reflecting the importance which they attach to U.S.-Vietnamese efforts. Since the JCM, the two governments have moved forward in several areas, including road HANOI 00000218 006 OF 007 safety and nuclear cooperation. Vietnam will host the seventh JCM, tentatively scheduled for November 2010, and would like this session to celebrate the tenth anniversary of our bilateral S&T Agreement and the fifteenth anniversary of the resumption of bilateral relations. We have used the Embassy Science Fellow program to boost the breadth of our S&T engagement. This year, Dr. David Roberts from the Department of Energy, has worked with the Vietnam National Science Foundation to set up a research Centers of Excellence initiative. While Vietnam's scientific research and development capacities remain limited, the GVN actively seeks to promote the sector (Ref BB). However, at the same time, the GVN also tries to maintain a tight grip over subjects approved for research and how (and if) researchers can release certain research conclusions (Ref CC). You will have the opportunity to meet with the Minister of Science and Technology and to visit the Vietnam Academy of Science and Technology (VAST), where you will tour the biotechnology institute and get to hold -scientist-to-scientist discussions with VAST researchers. Lower Mekong Initiative ----------------------- ¶15. (SBU) Vietnam has responded positively to the U.S. Lower Mekong Initiative (LMI), announced following the first U.S. Lower Mekong Ministerial meeting last July 23 in Thailand between Secretary Clinton and the foreign ministers of the Lower Mekong Countries - Cambodia, Laos, Thailand and Vietnam. Our interlocutors look forward to cooperating with the United States and their neighbors on regional health concerns, management of the Mekong River and developing responses to climate change (Ref DD). The GVN has agreed to co-host this June a U.S.-funded LMI Infectious Disease Conference. We are working with our Vietnamese partners to finalize the agenda, which we expect will focus on transnational, action-oriented cooperative responses to infectious diseases and will build upon discussions from the April IMCAPI meeting. While welcoming greater U.S. engagement in the region, Vietnamese officials will look for more concrete signs of U.S. interest, particularly in light of Japan's recent announcement of its own USD 1.5 billion Mekong initiative. In your meetings, you may be asked to describe how the upcoming conference fits into long-term U.S. regional health programs and how to assure that the LMI is a real partnership - with adequate opportunities for input from the Lower Mekong Countries. Education --------- ¶16. Education remains a major issue in the relationship, with the Mission actively seeking to promote the adoption of American educational practices at Vietnamese universities in order to influence the next generation of Vietnamese leaders, increase the number of graduates with the skills needed to work for American companies in Vietnam, and help the Ministry of Education and Training modernize what is widely regarded as a broken educational system. The Ambassador hosted an Education Conference in Hanoi in mid January, 2010 that brought together more than 600 American and Vietnamese educators representing more than 250 schools and companies with educational programs in Vietnam, for discussions on how to reach a variety of key educational goals (Ref EE). The number of Vietnamese enrolling in the United States continues to grow rapidly, with 13,000 Vietnamese students now in the United States, three times the number there three years ago. Funded by the USG, the Vietnam Education Foundation (VEF) has placed 306 Fellows at 70 top U.S. graduate institutions, mostly for doctoral degrees in the sciences, while the VEF Visiting Scholar Program provides opportunities for Vietnamese to pursue post-doctoral programs at U.S. universities for up to 12 months. VEF Fellows and Visiting Scholars are required to return to Vietnam upon completion of their academic programs in the United States. You will have opportunity to meet with VEF alumni at a reception hosted by Deputy Chief of Mission Palmer (Note: VEF legislation pending before Congress would put VEF more directly under the control of State/ECA and broaden the scope of VEF fellowships to include the social sciences. End Note). HANOI 00000218 007 OF 007 ¶17. (SBU) We look forward to your visit and stand ready to do everything we can to make your time in Vietnam as productive as possible. Michalak
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét