“…Giấu
mình chờ thời…” là sách lược đúng đắn, khôn ngoan mà ông Đặng để lại
cho hậu lãnh đạo Trung Quốc. Giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay cho rằng
Trung Quốc có đủ mọi điều kiện để tuyên bố với thế giới rằng: Đã qua rồi
thời kỳ “giấu mình chờ thời”. Các hành động ngoại giao, quân sự của
Trung Quốc đối xử với thế giới trong đó có Việt Nam đã chứng minh điều
đó. Tham vọng quá lớn, giới lãnh đạo Trung Quốc không kiềm chế nổi. Tiếc
thay họ quá vội vàng, nôn nóng.
Bài
viết này tôi chỉ phản ánh khái quát mang tính chủ quan về sách lược của
Trung Quốc đối với Việt Nam sau thời kỳ “giấu mình chờ thời”.
“Diễn biến hòa bình” Made in China!.
Mỹ
tấn công I răc, Apganixtan… rồi gần đây Pháp, Ý tấn công Ly-bi không
phải là để chiếm đất đai, mở rộng lãnh thổ mà cái họ cần đạt được là
đánh đổ chế độ hiện tại, dựng lên một chính phủ mới “thân” họ, sẵn sàng
đáp ứng những nhu cầu chiến lược kinh tế, quân sự của họ hiện tại và
tương lai. Tuy nhiên việc sử dụng vũ lực chỉ khi thật cần thiết, cân
nhắc tính toán hết sức kỹ lưỡng và cũng chỉ nhằm vào những quốc gia sợ
chiến tranh, khả năng phản kháng của dân tộc thấp, còn thì thực hiện các
“cuộc cách mạng màu” như thời gian gần đây tỏ ra vô cùng hiệu quả.
Việt
Nam sau 1975 thực tế rõ ràng là có rất nhiều lực lượng thù địch hoạt
động chống phá với mục đích là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, lật đổ chế độ. Việt Nam gọi đó là “Chiến lược diễn biến hòa
bình”. Với sự đổi mới tư duy, đa phương hóa trong các mối quan hệ, Việt
Nam đã từng bước hòa nhập vào thế giới. Những nước trước đây được coi là
thù địch nay trở thành đối tác, thậm chí còn là bạn. Việt Nam sẵn sàng
là bạn với tất cả các nước trên thế giới. áp lực “diễn biến hòa bình”
giảm hẳn, nhưng có một sức ép khác – sức ép này nằm trong chiến lược
thôn tính Việt Nam vô cùng thâm hiểm mà nhà cầm quyền Trung Quốc đã
triển khai thực hiện từng giờ từng phút không bao giờ ngơi nghỉ. Nếu như
“chiến lược diễn biến hòa bình” nhằm mục đích lật đổ chế độ, xóa bỏ
Đảng Cộng SảnViệt Nam thì chiến lược thôn tính Việt Nam của Trung Quốc
thâm và hiểm ở chỗ nó không lật đổ chế độ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng SảnViệt Nam mà nó thực hiện dưới một chiêu bài mà ai cũng bị
lầm tưởng là cùng là quốc gia có chế độ chính trị “giống nhau” do một
“Đảng Cộng Sản lãnh đạo”. Mặc dù sự khác nhau giữa hai chế độ, hai đảng
giống như sự khác nhau giữa chó sói và cừu
nhưng Trung Quốc “mị Việt Nam” với danh nghĩa “đồng chí”… lợi dụng tính
nhân ái, nhường nhịn, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam để chèn ép, bắt
nạt, mặc cả trên xương máu người Việt Nam vì quyền lợi của dân tộc mình.
Phá hoại, lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam, bắt kinh tế Việt Nam hoàn
toàn phụ thuộc vào Trung Quốc để khống chế chính trị, biến Đảng Cộng
SảnViệt Nam, nhà nước, chính phủ Việt Nam thành tay sai “đồng chí tốt”,
thành một công cụ pháp lý cho dã tâm bành trướng của mình.
Dùng vũ lực
cũng để đạt được mục đích này, vậy cần chi phải dùng vũ lực. Đó là
“chiến lược diễn biến hòa bình mang màu sắc Trung Quốc.
Điều
đáng tiếc là Việt Nam luôn sợ làm tổn hại đến mối quan hệ “đồng chí,
hữu nghị mà hai nước, hai đảng dày công vun đắp” nên mất cảnh giác, bị
động đối phó và luôn bị bất ngờ này đến bất ngờ khác khiến phải gánh
chịu những hậu quả thất thiệt.
Cài thế chiến lược diễn biến hòa bình thôn tính Việt Nam
Một
điều khẳng định là Trung Quốc không bao giờ muốn Việt Nam hùng mạnh.
Trung Quốc không muốn Việt Nam thống nhất, muốn Việt Nam đánh Mỹ đến
người cuối cùng để tạo cho Trung Quốc một vùng đệm an toàn. Việt Nam
thống nhất, không nghe sự điều khiển của Trung Quốc là có chuyện, họ
không để yên.
Năm
1979, Khơ me đỏ dưới sự chỉ đạo của quan thầy Trung Quốc sau khi “thịt”
hơn 3 triệu người dân tộc mình, dùng hàng chục sư đoàn quân hiếu chiến
tấn công Việt Nam ở biên giới tây nam. Thật ra mà nói nếu như không để
cho bọn Pol Pôt làm loạn ở tây nam của Việt Nam thì một ông Đặng chứ 10
ông Đặng ngay cả suy nghĩ cũng không dám nghĩ đến tấn công Việt Nam.
Việt Nam hầu như bỏ ngỏ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, tập trung lực
lượng tiêu diệt và làm tan rã hàng chục sư đoàn tinh nhuệ, ác thú của
Khơ me đỏ – thiện chiến hơn rất nhiều quân của Trung Quốc thời ông Đặng,
đánh đến tận sào huyệt của chúng. Đây là điều không phải đơn giản và
không phải quân đội nước nào cũng làm được chỉ trong một trận.
Việc
đánh tan gọng kìm phía nam tưởng đã yên nhưng Trung Quốc đâu có từ bỏ.
Căm pu chia, Lào hiện nay đang được Trung Quốc tìm mọi cách bành trướng
và thôn tính để áp dao vào sườn Việt Nam. Thế trận này luôn là nguy hiểm
tiềm tàng với Việt Nam.
Trong
nước, Trung Quốc đã thuê đất “trồng rừng” ở những vị trí xung yếu biên
giới như Lạng sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng. Tại Nghệ An họ thuê gần với
đường 7, đường 8 sang Lào, những vùng như Tương Dương, Quỳ Châu, Quỳ Hợp
được coi như phên dậu quốc gia cũng được thuê. Tại Quảng Nam họ thuê
gần khu vực có đường thuận tiện lên Tây Nguyên và Căm pu chia… Bất kỳ
người Việt Nam nào có chút hiểu biết về quân sự cũng đều hoảng hốt và
toát mồ hôi hột. Lưu ý là những khu vực mà họ thuê thì người Việt Nam
không được bén mảng vào và với cách quản lí như ông chủ tịch tỉnh Lạng
Sơn tuyên bố thì… ngay cả xe tăng Trung Quốc cũng có thể ém sẵn trong
khu vực “trồng rừng” của họ. Vị trí Tây Nguyên, nơi mà các nhà quân sự
cho rằng ai chiếm được nó là làm chủ toàn Đông Dương thì Trung Quốc đang
tìm cách đặt chân vào (khai thác bôxit).
Về
kinh tế. Quả thật, đối đầu với Trung Quốc về quân sự Việt Nam không và
chưa bao giờ sợ. Nhưng làm ăn kinh tế với Trung Quốc mới thật nỗi sợ.
Nếu Việt Nam cảnh giác với Trung Quốc như đã từng cảnh giác với phương
tây trong chiến lược diễn biến hòa bình thì không hề gì, đằng này Trung
Quốc nhiều tiền, một số quan chức bộ ngành Việt Nam vì quyền lợi cục bộ,
cá nhân mà coi nhẹ an ninh quốc gia.
Tính
đến nay có tới 90% các công trình khai khoáng, luyện kim, dầu khí, hóa
chất đều do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận. Có tới 30 doanh nghiệp Trung
Quốc đang thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia. Xét về điện đã có
nhiều dự án tỷ đô la rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc. Tiêu biểu phải kể
đến dự án điện Quảng Ninh 1, 2 với giá trị 400 triệu USD; điện Mỹ Tân 2
với số vốn 1,3 tỷ USD; điện Duyên Hải 1 là 4,4 tỷ USD.
Vấn
đề cần đặt ra là: Tại sao và Trung Quốc muốn gì?. Trước hết phải hiểu
vì sao các doanh nghiệp của Trung Quốc trúng thầu, (ngoài tình “đồng
chí” nên được ưu tiên ra) vì họ bỏ giá rẻ. Bỏ giá rẻ là lỗ, chẳng có
doanh nghiệp nào điên khùng như thế nhưng các doanh nghiệp của Trung
Quốc thì không. Miễn sao trúng thầu, còn tiền thì chính phủ Trung Quốc
lo. Trúng thầu rồi thì họ làm đến đâu là quyền của họ… Việc một công
trình, dự án có giá rẻ chỉ là cái lợi nhỏ nhưng cái giá mà xã hội và an
ninh đất nước phải trả là quá đắt. Thứ nhất là hầu như các dự án đó có
tiến độ rất ì ạch, khi hoàn thành thì vận hành gặp rất nhiều trục trặc, phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc.
Thứ hai là họ không thuê lao động là người Việt Nam mà họ đem người
Trung Quốc sang hàng ngàn người nhằm thực hiện chính sách di dân. (Liệu
Anh, Pháp, Mỹ, Nhật mà trúng thầu họ có đem người họ sang không?). Ngoại
trưởng Mỹ chẳng đã từng gọi Trung Quốc là thực dân ở châu Phi đó sao!.
Đến đây chúng ta tự hỏi nếu như xảy ra chiến tranh giữa Trung Quốc và
Việt Nam thì các ngành công nghiệp quan trọng mà Trung Quốc trúng thầu
có phát huy hết công suất để phục vụ cho chiến tranh hay là đóng cửa? An
ninh năng lượng của Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc thì liệu Trung
Quốc có “quên” không, khi chiến tranh nổ ra?…Hàng ngàn lao động phổ
thông trai tráng của Trung Quốc nó sẽ làm gì trong khi chưa có chiến
tranh mà đã ngỗ ngáo làm loạn lên, gây mất an ninh trật tự như ở phố
Ninh Bình và một số nơi khác?
Gần
đây Trung Quốc hung hăng đe dọa Việt Nam không phải là không có cơ sở.
Phải chăng thế trận họ cài đã xong? Trung Quốc đã, đang tạo nên một sức
ép rất lớn lên Việt Nam. Việt Nam phải đối phó với rất nhiều mũi nhọn mà
Trung Quốc chĩa vào chứ không phải chỉ riêng ở Biển Đông. ở cạnh ông
“hàng xóm” này giá như ta chuyển được nhà của mình đi nơi khác.
Sự kiện biển Đông – Quân cờ đi lạc nước!
Báo
chí tốn rất nhiều giấy mực nói về vấn đề này (gây hấn trong Vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam), rằng đây là phép thử của Trung Quốc với
Việt Nam, các nước ASEAN, Mỹ vv…vv. Không rõ Trung Quốc rút ra được kết
luận gì cho phép thử này, có điều dư luận chung đều cho rằng: “Trung
Quốc dại dột đem búa thử vào tấm kính xem kính có dễ vỡ hay không?”.
Đương nhiên kính có thể vỡ hoặc không, nhưng khi đã vỡ thì chẳng lành
lại được bao giờ. Và hiện thực là kính đã vỡ.
Tôi cho rằng hành động của nhà cầm quyền Trung Quốc gần đây trên biển Đông đã phạm 3 sai lầm nghiêm trọng.
Một là: Kích hoạt tinh thần dân tộc của người Việt Nam – một sức mạnh khủng khiếp mà lịch sử đã ghi nhận.
Hai là:
Trung Quốc đã tự vạch mặt mình trước nhân dân Việt Nam và những người
hiểu biết trên toàn thế giới. Nếu như còn chút lòng tin nào của nhân dân
Việt Nam với nhà cầm quyền Trung Quốc thì giờ đây lòng tin đó đã cạn.
Vì đây là hành động ăn cướp trắng trợn, ngang ngược không hơn không kém
mang tầm cỡ quốc gia. Tuyên bố của bộ Ngoại giao Việt Nam rằng “Trung
Quốc cố tình biến khu vực không tranh chấp thành khu vực tranh chấp…”
nghe qua thì đơn giản nhưng đồng bào Việt Nam hãy hình dung như sau: Bạn
có một ngôi nhà trên một khu đất đắc địa đã có giấy chứng nhận quyền sở
hữu đất (Như Vùng Đặc Quyền Kinh Tế của Việt Nam mà Luật biển 1982 đã
công nhận). Bạn mở một quán giải khát trong khu vườn của mình để kinh
doanh nhưng rất nhiều lần bị một kẻ mặt mũi bặm trợn không rõ ở đâu đến
phá (Việt Nam thăm dò khai thác tài nguyên thì bị Trung Quốc gây hấn
trong Vùng Đặc Quyền Kinh Tế). Nó tuyên bố đất này của nó. Nó hung hăng
vung gươm rút kiếm đe dọa cho bạn một bài học… Sau đó nó đề nghị, thôi
không cãi nhau nữa, “gác tranh chấp, cùng khai thác”, ông một bên tôi
một bên cùng mở quán. Vậy bạn có chấp nhận đề nghị của nó không? Sợ nó
mà chấp nhận thì mất không đất. Bức xúc không?
Ba là:
Dồn lấn Đảng Cộng SảnViệt Nam, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam (Gọi tắt là
Hà Nội) đến chân tường. Hoặc là chấp nhận “gác tranh chấp cùng khai
thác” nghĩa là mất chủ quyền, công nhận đường “lưỡi bò” phi lý của Trung
Quốc để bị dân tộc Việt Nam khai tử; hoặc là như Tổ tiên ông cha ta đã
từng làm với bọn phong kiến phương Bắc. Đương nhiên Hà Nội sẽ đứng lên như Tổ tiên ông cha – là điều Trung Quốc không muốn.
Muốn
thôn tính một quốc gia khác mà mắc phải một trong ba sai lầm này thôi
thì cũng đủ phá sản. Vì đây là sai lầm mang tính chiến lược, chứng tỏ
Trung Quốc đã nóng vội, đi quá đà. Phải chăng đường lối đối ngoại của
Trung Quốc đều do những cái đầu nóng trong giới quân sự chi phối? May
thay, Trung Quốc không mạnh như Mỹ, tiềm lực quân sự không mạnh như Mỹ
(đây cũng là điều mà ông Lưu Á Châu cũng cho là may thay) chứ nếu như …
họ có thể “bỏ Paris vào trong cái lọ”.
Thế đứng Việt Nam khi gần lửa.
Điều
trước tiên là phải xác định đúng kẻ luôn căm thù, chơi xấu ta. Thời
gian trôi đi, ai cũng có thể thay đổi, ngay như quan hệ của Mỹ – Việt
Nam, dù Mỹ đã gây nên bao đau thương tang tóc cho Việt Nam trong thời
gian gần đây nhất thì bây giờ là đối tác, sẵn sàng là bạn của nhau. Thế
nhưng Trung Quốc đối với Việt Nam vẫn không bao giờ thay đổi, có chăng
là thay đổi của Việt Nam mà thôi. Việt Nam đặt quá lòng tin vào Trung
Quốc. Bây giờ thì… đã rõ. Tuy nhiên trong thời đại toàn cầu hóa, thì vẫn
phải quan hệ mọi mặt từ kinh tế, xã hội và ngay cả quân sự. Nhưng quan
hệ đó phải trên nguyên tắc bất di bất dịch là: Cái gì đôi bên cùng có
lợi mà không ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thì làm. Còn có lợi lớn mấy
chăng nữa mà có nguy cơ đến an ninh quốc gia thì không. (Chẳng hạn như
chuyện khai thác bôxit ở Tây Nguyên. Rõ ràng việc khai thác là cần thiết
không bàn cãi, nhưng ai là chủ thầu mới quan trọng. Với tôi, ai cũng
được, trừ Trung Quốc.) Muốn vậy phải có một bộ phận gồm những chuyên gia
quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội giỏi nhất để nghiên cứu mối quan hệ
này thật thấu đáo, phát hiện kịp thời và có quyền dừng ngay tức khắc, không để họ cài thế, chơi xấu với ta.
Điều
thứ hai là chọn bạn mà chơi. Quả thật Việt Nam ta nằm ở một vị trí mà
có thể kết bạn với ai cũng dễ, ai cũng muốn kết bạn với mình. Rất dễ
hiểu vì nếu là bạn thì họ sẽ có nhiều quyền lợi ở Việt Nam. Vấn đề chính
là ta phải như thế nào để Nga, Ấn Độ, Mỹ và Nhật Bản là bạn. Có bạn ta
không đơn độc. Trung Quốc cảnh báo, hù dọa ta rằng: “Nước xa không cứu
được lửa gần”, chứng tỏ họ tỏ ra run sợ khi Việt Nam có nhiều bạn. Việt
Nam đâu phải là “sân sau” của Trung Quốc, đúng không?. Khi đã có “nước”
rồi, dù xa thì ta vẫn yên tâm sẵn sàng dùng “lửa dập lửa”.
Tiếp
theo là muốn có “lửa mà dập lửa” thì tăng cường quốc phòng. Mua sắm vũ
khí tối tân hiện đại. Phải tính toán lựa chọn loại vũ khí nào phù hợp với lối đánh Việt Nam.
Xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng có khả năng cải tiến vũ khí đáp
ứng kịp thời những chiến thuật độc đáo khi tác chiến cần thiết.
Cuối
cùng là phải đoàn kết, bình tĩnh, sáng suốt, tự tin. Làm hết sức mình
có thể để không xảy ra chiến tranh, nhưng khi chiến tranh xảy ra thì
không sợ.
Lê Ngọc Thống
@ Viet-studies
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét