Trung Quốc Giương Cờ và Hạ Cánh
2011-07-06
Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa - RFA ngày 20110706
Lãnh đạo Bắc Kinh thấy những gì ở bên trong?
Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc
hôm mùng một vừa qua, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào phát biểu rằng đảng phải đảm
bảo ổn định xã hội nếu không thì mọi thành quả đạt được đều tiêu
vong.
- Năm 1992, sau khi tuần thú các tỉnh miền Nam, Đặng Tiểu Bình tiếp tục cho phát triển khu vực kinh tế tư doanh vì đấy là động lực cần thiết cho phát triển, nhưng lại củng cố quyền lực đảng cho chặt chẽ hơn. Khi ấy, thiên hạ mới nói đến phép lạ kinh tế Trung Quốc mà ít chú ý đến phí tổn xã hội của cái phép lạ này. Sau khi họ Đặng tạ thế năm 1997, thế hệ thứ ba lên lãnh đạo là Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu Dung Cơ tiếp tục chiến lược đó và lấy xuất khẩu làm đầu máy tăng trưởng nên mới có tốc độ tăng trưởng gọi là rồng cọp, nhất là từ khi xứ này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2001.
- Điều sáng tạo của Giang Trạch Dân mà Việt Nam cũng đang kín đáo và dè dặt áp dụng là kết nạp tư doanh vào hệ thống chính trị, cụ thể là cho doanh gia được gia nhập đảng để đảng có thể kiểm soát được doanh trường. Nhưng kết quả lại là sự cấu kết giữa các đảng viên và đại gia kinh doanh để chia chác đặc quyền và đặc lợi. Chính là sự cấu kết này mới cản trở nhiều nỗ lực cải cách của thế hệ lãnh đạo thứ tư là Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo ngày nay.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nhìn từ cơ cấu địa dư hình thể Trung Quốc, ta thấy xứ này có ba khu vực khác biệt theo lối ta gọi là "nhất quốc tam kinh", một quốc gia có ba nền kinh tế mà diễn đàn của chúng ta nhiều lần đề cập tới từ mấy năm qua. Thế hệ Giang Trạch Dân có thấy ra vấn đề là tốc độ tăng trưởng không đều giữa các khu vực nhưng vẫn ưu tiên phát triển khu vực trù phú nhất ờ vùng duyên hải, qua chiến lược xuất khẩu.
- Thế hệ Hồ Cẩm Đào càng thấy ra vấn đề chính trị của lối phát triển đầy bất công xã hội nên muốn tập trung quyền lực để trung ương tái phân phối lợi tức cho các tỉnh nghèo và cho các thành phần cùng khốn ở thôn quê hầu tránh nguy cơ động loạn xã hội. Nhưng họ bị chính hệ thống cấu kết giữa các thế lực kinh tế và đảng bộ địa phương cản trở.
Tình trạng cấu kết ấy thực tế khai thác đặc lợi cho một thiểu số chừng 70 triệu đảng viên và hai ba chục triệu đại gia kinh tế, tổng cộng là trăm triệu người so với dân số một tỷ ba, và họ cưỡng chống những chủ trương cải cách bất lợi cho họ. Hệ thống kinh tế chính trị này thực tế là một thế lực phản tiến hóa rất mạnh.
Vũ Hoàng: Một trọng điểm của chiến lược Đặng Tiểu Bình được Giang Trạch dân tiếp tục chính là lấy xuất khẩu làm đầu máy. Thưa ông, tình hình bây giờ có khác hay không và thế hệ Hồ Cẩm Đào hay thế hệ nối tiếp sau Đại hội 18 vào năm tới có chọn lựa nào khác chăng?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau khi lên lãnh đạo từ năm 2003, thế hệ Hồ Cẩm Đào đã muốn thay đổi và tìm một lực đẩy khác hơn là xuất khẩu hầu tránh được sự khác biệt lợi tức quá lớn giữa các khu vực và thành phần kinh tế. Nhưng họ làm không nổi vì sức kéo hay sự cưỡng chống của các đảng bộ kiếm lời nhờ chiến lược này. Thực tế thì ngày nay, họ vẫn đang phải áp dụng chiến lược xuất khẩu trong khi thế giới đã đổi khác.
- Đổi khác vì thế giới ngày nay hết còn các đầu máy nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc như xưa. Cụ thể là ba khối kinh tế giàu mạnh nhất là Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản đang phải giảm chi và tiêu thụ ít hơn nên xuất khẩu không còn tạo ra tác dụng đòn bẩy cho kinh tế Trung Quốc, cho nên thị trường tiêu thụ nội địa của xứ này phải giữ vai trò thay thế, mà thật ra vẫn chưa đủ lực.
- Người ta cứ nói đến sức mạnh rồng cọp của kinh tế Trung Quốc chứ lợi tức một người dân xứ này chỉ bằng 8% lợi tức bình quân của dân Mỹ thôi. Vì vậy, trong những năm tới, với sức mua nội địa chưa đủ mạnh để bù đắp thiếu hụt về xuất cảng, kinh tế Trung Quốc sẽ có đà tăng trưởng chậm hơn trung bình mấy chục năm qua.
- Nếu tăng trưởng dưới 8% một năm là bộ máy sản xuất không hấp thụ nổi 14 triệu thanh niên đến tuổi gia nhập thị trường lao động và thất nghiệp trong giới trẻ sẽ là yếu tố khủng hoảng khác, ngoài sự bất mãn phổ biến của dân nghèo về đời sống của họ và về sự lạm dụng của hệ thống kinh tế chính trị, của các tay tư bản đỏ được nhiều đảng viên bảo trợ phía sau. Chính là sự bất mãn phổ biến này mới khiến đảng nói đến việc chuyển hướng từ lượng sang phẩm trong Kế hoạch Năm năm thứ 12, từ 2011 đến 2016. Nếu không thì xứ này có thể bị loạn và càng dễ bị loạn nếu kinh tế hạ cánh không an toàn trong thời gian tới đây.
Vũ Hoàng: Phải chăng vì vậy mà đảng Cộng sản Trung Quốc
mới đang củng cố quyền lực và lại tung ra khẩu hiệu cách mạng đỏ như
dưới thời Mao Trạch Đông?
READ MORE - Trung Quốc Giương Cờ và Hạ Cánh
Lãnh đạo Bắc Kinh thấy những gì ở bên trong?
Ông
nói thêm rằng trong tiến trình phát triển hiện nay, thể nào cũng có
vấn đề và xung đột. Trong khi ấy, người ta chú ý đến sự kiện là tư
tưởng cực tả thời Mao Trạch Đông đã tái xuất hiện và đang trở thành một
chủ nghĩa dân tộc không chỉ nhắm vào Tây phương mà còn có chiều hướng
chỉ đạo phương thức sinh hoạt và suy tư của người dân.
Lãnh đạo Trung Quốc đang thấy những gì ở bên trong, 90 năm sau khi đảng Cộng sản ra đời, 60 năm sau khi thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và 30 năm sau khi tiến hành cải cách kinh tế? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi cho nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa qua cuộc trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.
Vũ Hoàng: Đài Á Châu Tự Do xin kính chào ông Nguyễn Xuân
Nghĩa. Thưa ông, mùng một Tháng Bảy vừa rồi, Trung Quốc long trọng tổ
chức lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Trung Hoa. Trong dịp
này người ta lại chú ý đến lời phát biểu đầy ưu lo của Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào, người lãnh đạo cả đảng, nhà nước và quân đội Trung Quốc.
Trong khi ấy, thế giới cũng nói đến sự tái xuất hiện của phong trào "Văn hóa đỏ" - nhất là ở thành phố Trùng Khánh - khiến người ta nhớ đến cuộc "Cách mạng Văn hóa" xảy ra đúng 45 năm trước. Thưa ông, câu hỏi mà nhiều người nêu lên là "chuyện gì đang xảy ra tại Trung Quốc"?
Lãnh đạo đảng Cộng sản xứ này thấy những gì mà có vẻ e ngại và dường như còn đang huy động quần chúng vào những chiến dịch tuyên truyền đã từng thấy ngày xưa?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng xứ này đang ở vào một khúc quanh khá ngặt nghèo về kinh tế xã hội, lại đang ở giữa giai đoạn chuyển giao quyền lực qua một đại hội đảng, và đảng Cộng sản Trung Quốc thấy ra những bất ổn về chính trị nên mới tìm về phản ứng cách mạng năm xưa. Đây là điều rất đáng lo ngại cho người dân ở bên trong và cho các lân bang bên ngoài.
Vũ Hoàng: Chúng ta không quên rằng 30 năm sau khi ông Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, Trung Quốc đã vọt lên thành một cường quốc kinh tế và năm nay vừa qua mặt Nhật Bản. Thế thì vì sao lãnh đạo của họ lại có vẻ ưu lo như vậy?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết, có lẽ ta nên nhìn vào bối cảnh chung của các quốc gia khi khởi sự công nghiệp hóa, với quy luật phổ biến là "đà gia tốc của khoa học kỹ thuật" khiến các nước đi sau có thể tiến nhanh hơn vì tiếp nhận kinh nghiệm và kiến thức của các nước đi trước.
- Chẳng hạn như Tây phương mất chừng 200 năm để công nghiệp hóa; sau đó, Nhật Bản mất 125 năm; đến các nước tân hưng Đông Á thì chỉ mất có 50 năm. Cũng trong giai đoạn khởi phát đó, nước Anh mất gần 60 năm để nhân đôi lợi tức bình quân một đầu người, sau đó Hoa Kỳ mất chừng 47 năm, Nhật Bản mất có 34 năm và Nam Hàn mất 11 năm. Trung Quốc cũng thế, từ khi chuyển hướng kinh tế vào năm 1979, xứ này đã thấy lợi tức nhân đôi trong vòng chưa đầy 10 năm đầu tiên.
- Với một dân số cực lớn là hơn một tỷ 300 triệu người, tổng sản lượng tăng vọt sau 150 năm lụn bại của xứ này mới gây ấn tượng về một "sự kỳ diệu kinh tế của Trung Quốc", hoặc về thành tích của đảng Cộng sản Trung Quốc. Đó là nói về số lượng và thời khoảng trong giai đoạn "cất cánh" hay khởi phát của một quốc gia.
- Nhưng 30 năm sau Đặng Tiểu Bình, chiến lược kinh tế đã đi hết sự vận hành dễ dàng ban đầu và đảng cần có những chọn lựa khác trong khi lại gặp nhiều mâu thuẫn bên trong do chính hệ thống kinh tế chính trị gây ra. Cho nên, kinh tế có thể hạ cánh thiếu an toàn và có khi chính trị sẽ lâm khủng hoảng. Nỗi bất an đó mới khiến một số xu hướng trong đảng phát huy lại tinh thần cách mạng thời Mao Trạch Đông để bảo vệ quyền lực đảng. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào có nói đến yêu cầu chiến lược là ổn định thì cũng vì sự ưu lo ấy.
Vũ Hoàng: Ông vừa nói rằng chiến lược kinh tế của Đặng
Tiểu Bình đã đi hết sự vận hành dễ dãi ban đầu và xứ này gặp nhiều mâu
thuẫn do hệ thống kinh tế chính trị gây ra. Xin ông giải thích cho
thính giả hiểu rõ hơn sự thể ấy vì dường như Việt Nam cũng áp dụng mô
thức cải cách kinh tế của Trung Quốc và đang gặp một số vấn đề tương
tự.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau giai đoạn cách mạng hoang tưởng và duy ý chí của Mao khiến xứ này còn lụn bại hơn trước, Đặng Tiểu Bình đã tiến hành cải cách qua việc giải phóng khả năng sản xuất của khu vực tư nhân và áp dụng quy luật tự do của thị trường một cách có chọn lọc. Nhờ vậy mà sản lượng kinh tế tăng vọt nếu ta so sánh với sự suy sụp thảm khốc của "Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại" thời Mao. Nhưng chỉ 10 năm sau thôi, quy luật thị trường cũng gây ra vấn đề về kinh tế, trước tiên là lạm phát. Và hệ thống kiểm soát chính trị trong nền kinh tế tự do hơn lại sản sinh ra thuộc tính của mọi chế độ độc tài, là nạn tham nhũng, Do đó, năm 1989, xứ này mới bị khủng hoảng, kết thúc bằng vụ thảm sát Thiên an môn vào tháng Sáu năm đó.
Lãnh đạo Trung Quốc đang thấy những gì ở bên trong, 90 năm sau khi đảng Cộng sản ra đời, 60 năm sau khi thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và 30 năm sau khi tiến hành cải cách kinh tế? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi cho nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa qua cuộc trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.
Lãnh đạo TQ âu lo?
Trong khi ấy, thế giới cũng nói đến sự tái xuất hiện của phong trào "Văn hóa đỏ" - nhất là ở thành phố Trùng Khánh - khiến người ta nhớ đến cuộc "Cách mạng Văn hóa" xảy ra đúng 45 năm trước. Thưa ông, câu hỏi mà nhiều người nêu lên là "chuyện gì đang xảy ra tại Trung Quốc"?
Lãnh đạo đảng Cộng sản xứ này thấy những gì mà có vẻ e ngại và dường như còn đang huy động quần chúng vào những chiến dịch tuyên truyền đã từng thấy ngày xưa?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng xứ này đang ở vào một khúc quanh khá ngặt nghèo về kinh tế xã hội, lại đang ở giữa giai đoạn chuyển giao quyền lực qua một đại hội đảng, và đảng Cộng sản Trung Quốc thấy ra những bất ổn về chính trị nên mới tìm về phản ứng cách mạng năm xưa. Đây là điều rất đáng lo ngại cho người dân ở bên trong và cho các lân bang bên ngoài.
Vũ Hoàng: Chúng ta không quên rằng 30 năm sau khi ông Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, Trung Quốc đã vọt lên thành một cường quốc kinh tế và năm nay vừa qua mặt Nhật Bản. Thế thì vì sao lãnh đạo của họ lại có vẻ ưu lo như vậy?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết, có lẽ ta nên nhìn vào bối cảnh chung của các quốc gia khi khởi sự công nghiệp hóa, với quy luật phổ biến là "đà gia tốc của khoa học kỹ thuật" khiến các nước đi sau có thể tiến nhanh hơn vì tiếp nhận kinh nghiệm và kiến thức của các nước đi trước.
- Chẳng hạn như Tây phương mất chừng 200 năm để công nghiệp hóa; sau đó, Nhật Bản mất 125 năm; đến các nước tân hưng Đông Á thì chỉ mất có 50 năm. Cũng trong giai đoạn khởi phát đó, nước Anh mất gần 60 năm để nhân đôi lợi tức bình quân một đầu người, sau đó Hoa Kỳ mất chừng 47 năm, Nhật Bản mất có 34 năm và Nam Hàn mất 11 năm. Trung Quốc cũng thế, từ khi chuyển hướng kinh tế vào năm 1979, xứ này đã thấy lợi tức nhân đôi trong vòng chưa đầy 10 năm đầu tiên.
- Với một dân số cực lớn là hơn một tỷ 300 triệu người, tổng sản lượng tăng vọt sau 150 năm lụn bại của xứ này mới gây ấn tượng về một "sự kỳ diệu kinh tế của Trung Quốc", hoặc về thành tích của đảng Cộng sản Trung Quốc. Đó là nói về số lượng và thời khoảng trong giai đoạn "cất cánh" hay khởi phát của một quốc gia.
- Nhưng 30 năm sau Đặng Tiểu Bình, chiến lược kinh tế đã đi hết sự vận hành dễ dàng ban đầu và đảng cần có những chọn lựa khác trong khi lại gặp nhiều mâu thuẫn bên trong do chính hệ thống kinh tế chính trị gây ra. Cho nên, kinh tế có thể hạ cánh thiếu an toàn và có khi chính trị sẽ lâm khủng hoảng. Nỗi bất an đó mới khiến một số xu hướng trong đảng phát huy lại tinh thần cách mạng thời Mao Trạch Đông để bảo vệ quyền lực đảng. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào có nói đến yêu cầu chiến lược là ổn định thì cũng vì sự ưu lo ấy.
Mâu thuẫn chính trị-kinh tế
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau giai đoạn cách mạng hoang tưởng và duy ý chí của Mao khiến xứ này còn lụn bại hơn trước, Đặng Tiểu Bình đã tiến hành cải cách qua việc giải phóng khả năng sản xuất của khu vực tư nhân và áp dụng quy luật tự do của thị trường một cách có chọn lọc. Nhờ vậy mà sản lượng kinh tế tăng vọt nếu ta so sánh với sự suy sụp thảm khốc của "Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại" thời Mao. Nhưng chỉ 10 năm sau thôi, quy luật thị trường cũng gây ra vấn đề về kinh tế, trước tiên là lạm phát. Và hệ thống kiểm soát chính trị trong nền kinh tế tự do hơn lại sản sinh ra thuộc tính của mọi chế độ độc tài, là nạn tham nhũng, Do đó, năm 1989, xứ này mới bị khủng hoảng, kết thúc bằng vụ thảm sát Thiên an môn vào tháng Sáu năm đó.
- Năm 1992, sau khi tuần thú các tỉnh miền Nam, Đặng Tiểu Bình tiếp tục cho phát triển khu vực kinh tế tư doanh vì đấy là động lực cần thiết cho phát triển, nhưng lại củng cố quyền lực đảng cho chặt chẽ hơn. Khi ấy, thiên hạ mới nói đến phép lạ kinh tế Trung Quốc mà ít chú ý đến phí tổn xã hội của cái phép lạ này. Sau khi họ Đặng tạ thế năm 1997, thế hệ thứ ba lên lãnh đạo là Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu Dung Cơ tiếp tục chiến lược đó và lấy xuất khẩu làm đầu máy tăng trưởng nên mới có tốc độ tăng trưởng gọi là rồng cọp, nhất là từ khi xứ này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2001.
- Điều sáng tạo của Giang Trạch Dân mà Việt Nam cũng đang kín đáo và dè dặt áp dụng là kết nạp tư doanh vào hệ thống chính trị, cụ thể là cho doanh gia được gia nhập đảng để đảng có thể kiểm soát được doanh trường. Nhưng kết quả lại là sự cấu kết giữa các đảng viên và đại gia kinh doanh để chia chác đặc quyền và đặc lợi. Chính là sự cấu kết này mới cản trở nhiều nỗ lực cải cách của thế hệ lãnh đạo thứ tư là Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo ngày nay.
Nhưng kết quả lại là sự cấu kết giữa các đảng viên và đại gia kinh doanh để chia chác đặc quyền và đặc lợi. Chính là sự cấu kết này mới cản trở nhiều nỗ lực cải cách của thế hệ lãnh đạo thứ tư là Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo ngày nay.Vũ Hoàng: Nhưng thưa ông vì sao thế hệ thứ tư lại phải tiến hành cải cách và họ bị cản trở như thế nào?
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nhìn từ cơ cấu địa dư hình thể Trung Quốc, ta thấy xứ này có ba khu vực khác biệt theo lối ta gọi là "nhất quốc tam kinh", một quốc gia có ba nền kinh tế mà diễn đàn của chúng ta nhiều lần đề cập tới từ mấy năm qua. Thế hệ Giang Trạch Dân có thấy ra vấn đề là tốc độ tăng trưởng không đều giữa các khu vực nhưng vẫn ưu tiên phát triển khu vực trù phú nhất ờ vùng duyên hải, qua chiến lược xuất khẩu.
- Thế hệ Hồ Cẩm Đào càng thấy ra vấn đề chính trị của lối phát triển đầy bất công xã hội nên muốn tập trung quyền lực để trung ương tái phân phối lợi tức cho các tỉnh nghèo và cho các thành phần cùng khốn ở thôn quê hầu tránh nguy cơ động loạn xã hội. Nhưng họ bị chính hệ thống cấu kết giữa các thế lực kinh tế và đảng bộ địa phương cản trở.
Tình trạng cấu kết ấy thực tế khai thác đặc lợi cho một thiểu số chừng 70 triệu đảng viên và hai ba chục triệu đại gia kinh tế, tổng cộng là trăm triệu người so với dân số một tỷ ba, và họ cưỡng chống những chủ trương cải cách bất lợi cho họ. Hệ thống kinh tế chính trị này thực tế là một thế lực phản tiến hóa rất mạnh.
Vũ Hoàng: Một trọng điểm của chiến lược Đặng Tiểu Bình được Giang Trạch dân tiếp tục chính là lấy xuất khẩu làm đầu máy. Thưa ông, tình hình bây giờ có khác hay không và thế hệ Hồ Cẩm Đào hay thế hệ nối tiếp sau Đại hội 18 vào năm tới có chọn lựa nào khác chăng?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Sau khi lên lãnh đạo từ năm 2003, thế hệ Hồ Cẩm Đào đã muốn thay đổi và tìm một lực đẩy khác hơn là xuất khẩu hầu tránh được sự khác biệt lợi tức quá lớn giữa các khu vực và thành phần kinh tế. Nhưng họ làm không nổi vì sức kéo hay sự cưỡng chống của các đảng bộ kiếm lời nhờ chiến lược này. Thực tế thì ngày nay, họ vẫn đang phải áp dụng chiến lược xuất khẩu trong khi thế giới đã đổi khác.
- Đổi khác vì thế giới ngày nay hết còn các đầu máy nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc như xưa. Cụ thể là ba khối kinh tế giàu mạnh nhất là Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản đang phải giảm chi và tiêu thụ ít hơn nên xuất khẩu không còn tạo ra tác dụng đòn bẩy cho kinh tế Trung Quốc, cho nên thị trường tiêu thụ nội địa của xứ này phải giữ vai trò thay thế, mà thật ra vẫn chưa đủ lực.
- Người ta cứ nói đến sức mạnh rồng cọp của kinh tế Trung Quốc chứ lợi tức một người dân xứ này chỉ bằng 8% lợi tức bình quân của dân Mỹ thôi. Vì vậy, trong những năm tới, với sức mua nội địa chưa đủ mạnh để bù đắp thiếu hụt về xuất cảng, kinh tế Trung Quốc sẽ có đà tăng trưởng chậm hơn trung bình mấy chục năm qua.
- Nếu tăng trưởng dưới 8% một năm là bộ máy sản xuất không hấp thụ nổi 14 triệu thanh niên đến tuổi gia nhập thị trường lao động và thất nghiệp trong giới trẻ sẽ là yếu tố khủng hoảng khác, ngoài sự bất mãn phổ biến của dân nghèo về đời sống của họ và về sự lạm dụng của hệ thống kinh tế chính trị, của các tay tư bản đỏ được nhiều đảng viên bảo trợ phía sau. Chính là sự bất mãn phổ biến này mới khiến đảng nói đến việc chuyển hướng từ lượng sang phẩm trong Kế hoạch Năm năm thứ 12, từ 2011 đến 2016. Nếu không thì xứ này có thể bị loạn và càng dễ bị loạn nếu kinh tế hạ cánh không an toàn trong thời gian tới đây.
Củng cố quyền lực
Nguyễn Xuân Nghĩa: -Tôi
có cảm tưởng là lãnh đạo Trung Quốc đang thiếu thống nhất về các ưu
tiên và sau Đại hội năm tới thì Thường vụ Bộ Chính trị có thay đổi lớn
với bảy ủy viên mới bên cạnh hai nhân vật có thể lãnh đạo là Tập Cận
Bình và Lý Khắc Cường. Trong hoàn cảnh bất nhất của lãnh đạo trước các
mục tiêu mâu thuẫn, lại gặp bất ổn về kinh tế và tranh giành quyền lực
trên thượng tầng, Trung Quốc có thể gặp rủi ro lớn.
- Chính là trong không khí ấy ta mới thấy xuất hiện xu hướng mị dân lối cực tả là phát huy sức mạnh của quần chúng bằng khẩu hiệu cách mạng như Mao Trạch Đông. Hiện tượng Trùng Khánh giương cờ đỏ là một biểu hiện rõ rệt nhất. Lồng trong đó là tư tưởng ái quốc theo kiểu chủ nghĩa Đại Hán chống mối nguy lũng đoạn của Tây phương hay sự cấu kết của các đảng viên tham ô biến chất với doanh nghiệp nước ngoài. Rồi còn phản ứng bành trướng của nhiều tướng lãnh, vốn cũng có tiếng nói trong hai cơ chế lãnh đạo quân đội là Quân ủy Trung ương của đảng và của nhà nước. Họ đang đẩy những kẻ có tham vọng lên lãnh đạo vào chủ trương bá quyền của nước lớn để tìm thêm phương tiện cho quân đội.
- Nếu nhìn về dài thì khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị rút lui vì đã cao tuổi sau năm 1992, ông ta vẫn duy trì chiến lược mở cửa về kinh tế nhưng tuyệt đối kiểm soát chính trị và dựa vào quân đội để chuẩn bị việc chuyển quyền êm thấm cho thế hệ Giang Trạch Dân mà còn chọn người sẽ kế nhiệm Giang Trạch Dân là Hồ Cẩm Đào.
- Kết cuộc thì nếu không thay đổi, đảng sẽ bị khủng hoảng, mà thay đổi không khéo thì càng dễ bị khủng hoảng! Chính là sự phân vân ấy mới là cơ hội tái xuất hiện của các phản ứng cực đoan nhất, khiến nhà nước sẽ kiểm soát kinh tế chặt chẽ hơn và đảng sẽ lấy ý thức hệ cách mạng làm kim chỉ nam, một kịch bản có rất nhiều rủi ro cho các lân bang yếu kém như Việt Nam.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã giành cho cuộc phỏng vấn này.
- Chính là trong không khí ấy ta mới thấy xuất hiện xu hướng mị dân lối cực tả là phát huy sức mạnh của quần chúng bằng khẩu hiệu cách mạng như Mao Trạch Đông. Hiện tượng Trùng Khánh giương cờ đỏ là một biểu hiện rõ rệt nhất. Lồng trong đó là tư tưởng ái quốc theo kiểu chủ nghĩa Đại Hán chống mối nguy lũng đoạn của Tây phương hay sự cấu kết của các đảng viên tham ô biến chất với doanh nghiệp nước ngoài. Rồi còn phản ứng bành trướng của nhiều tướng lãnh, vốn cũng có tiếng nói trong hai cơ chế lãnh đạo quân đội là Quân ủy Trung ương của đảng và của nhà nước. Họ đang đẩy những kẻ có tham vọng lên lãnh đạo vào chủ trương bá quyền của nước lớn để tìm thêm phương tiện cho quân đội.
- Nếu nhìn về dài thì khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị rút lui vì đã cao tuổi sau năm 1992, ông ta vẫn duy trì chiến lược mở cửa về kinh tế nhưng tuyệt đối kiểm soát chính trị và dựa vào quân đội để chuẩn bị việc chuyển quyền êm thấm cho thế hệ Giang Trạch Dân mà còn chọn người sẽ kế nhiệm Giang Trạch Dân là Hồ Cẩm Đào.
Trong hoàn cảnh bất nhất của lãnh đạo trước các mục tiêu mâu thuẫn, lại gặp bất ổn về kinh tế và tranh giành quyền lực trên thượng tầng, Trung Quốc có thể gặp rủi ro lớn.- Hơn hai chục năm sau, khi Hồ Cẩm Đào chuẩn bị rút lui, kinh tế bắt đầu có triệu chứng suy trầm với lạm phát và rủi ro bể bóng đầu tư, mà ông ta lại không có uy tín hay ảnh hưởng lớn mạnh như Đặng Tiểu Bình và thực tế thì vẫn phải nương vào các tướng lãnh mà không chọn được người sẽ kế vị sau này.
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
- Kết cuộc thì nếu không thay đổi, đảng sẽ bị khủng hoảng, mà thay đổi không khéo thì càng dễ bị khủng hoảng! Chính là sự phân vân ấy mới là cơ hội tái xuất hiện của các phản ứng cực đoan nhất, khiến nhà nước sẽ kiểm soát kinh tế chặt chẽ hơn và đảng sẽ lấy ý thức hệ cách mạng làm kim chỉ nam, một kịch bản có rất nhiều rủi ro cho các lân bang yếu kém như Việt Nam.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã giành cho cuộc phỏng vấn này.
Đúng Boong!
Charlemagne - June 16th 2011
READ MORE - Đúng Boong!
On target
Sự yếu kém quân sự của Âu Châu...
Robert Gates’s parting shot exposes Europe’s military failings
Tuần báo The Economist của
Anh trong số đề ngày 18-24 Tháng Sáu vừa qua có một bài rất lạnh lùng
của Charlemagne (bút hiệu của tác giả chuyên về đề tài Âu Châu). Dù đã
cũ vẫn đáng được giới thiệu nguyên bản dưới đây.
Trên đường về hưu, Tổng trưởng Quốc
phòng Robert Gates của Hoa Kỳ dữ dội than phiền về khả năng quân sự quá
tệ của các thành viên Âu Châu trong Minh ước Phòng thủ Bắc Đại Tây
Dương NATO. "Một liên minh quân sự lớn mạnh nhất trong lịch sử mới chỉ
có 11 tuần tham dự một chiến dịch chống một chế độ có trang bị quân sự
nghèo nàn trong một xứ thưa thớt dân cư, vậy mà nhiều đồng minh đã thiếu
đạn, rồi lại nhờ Hoa Kỳ bù đắp!" Đó là tình trạng bi hài của Âu Châu
trong chiến dịch Libya - và còn xa hơn thế. Có một câu cũng rất đáng chú
ý: "Sau Chiến tranh lạnh, mối quan tâm về an ninh của Hoa Kỳ đã chuyển
dịch về Trung Đông, Nam Á và sau cùng sẽ là Trung Quốc. Âu Châu cần lo
lấy việc an ninh của mình...." Đúng boong!
THREE
months into the war in Libya, and confident talk of Muammar Qaddafi’s
forces being broken by NATO’s bombs is being accompanied by worries that
the alliance itself is feeling the strain of a prolonged campaign. The
British naval chief says that, if the war drags on beyond the autumn, he
will have to take “challenging decisions” about how to deploy his
ships. His French counterpart complains that if his only carrier, the Charles de Gaulle,
remains off Libya for the rest of the year it will have to be out of
service for maintenance throughout 2012. Norway, one of the few
stalwarts ready to bomb Colonel Qaddafi’s forces, says its small air
force can no longer cope: it will cut back operations now, and cease
them altogether on August 1st.
Yet
it was a thunderous parting shot from Robert Gates, the outgoing
American defence secretary, that most cruelly exposed Europe’s
shortcomings. At the outset Europeans relied on the Americans to lead
the operation in Libya. Now under NATO control, they still depend on
America to identify targets and provide air-to-air refuelling. American
experts were rushed in to boost NATO’s command centre in Naples. “The
mightiest military alliance in history is only 11 weeks into an
operation against a poorly armed regime in a sparsely populated
country,” Mr Gates pointed out. “Yet many allies are beginning to run
short of munitions, requiring the US, once more, to make up the
difference.”
The
underlying reason for these failings is no secret. Most Europeans spend
too little on defence, and what they do is often wasted. That Europeans
would struggle, militarily and politically, to maintain tens of
thousands of troops in far-off Afghanistan is understandable. That they
should be tiring in a limited air campaign on Europe’s own borderlands
(less intense than the Kosovo war of 1999, for instance) suggests
something bigger is amiss.
Libya
reveals an uncomfortable fact about NATO. Its military strength is
determined mainly by what America is ready to put in. Without America,
the military punch of even the most powerful European members, Britain
and France, is limited. What is more, as Mr Gates also said, Europeans
should not take America’s commitment for granted. He is among the last
American cold warriors to hold office; a new generation of leaders may
not share his attachment to the alliance, and may even come to see it as
a burden. Unless Europe does more, NATO faces “collective military
irrelevance” and a “dim and dismal future”.
Mr
Gates’s words may be dismissed as the curmudgeonly mutterings of a
retiring politician. Every American administration has hectored the
Europeans about burden-sharing. John Foster Dulles, Eisenhower’s
secretary of state, threatened an “agonising reappraisal” in 1953.
American leaders invariably come to value the Europeans as useful
political allies if not military ones. Even the unilateralist George
Bush junior made up with his European critics. Amid the agonies of Iraq,
American generals took to quoting Churchill: “There is at least one
thing worse than fighting with allies—and that is to fight without
them.”
NATO
has survived long past its initial mission of confronting the Soviet
Union. It frets endlessly about its purpose, but is now busier than
ever. And yet there is a mental change, says Kurt Volker, a former
American ambassador to NATO. “For Europeans NATO means America; for
America it means Europe. It no longer belongs to any of us.” This
estrangement could worsen. With the end of the cold war, America’s
security concerns have shifted from Europe to the Middle East, South
Asia and, ultimately, to a rising China. Europe should take care of its
own security; its value lies in what help it can give.
But
the debt crisis means that European countries are cutting defence
spending. Just three now reach NATO’s target of spending at least 2% of
GDP on defence: Britain, France, and Greece. Several spend 1% or less.
This compares with America’s commitment of some 5% of GDP. As America,
too, starts to pare back defence, it will become more critical of
European free-riders.
Libya
is a warning. America no longer expects to lead military action; even
its backseat role is controversial at home. The southern Mediterranean
should be of vital importance to Europeans. If they cannot act here,
what is the point of their spending $275 billion on defence? In these
days of austerity, Europeans will not suddenly spend more. But they
could at least spare defence the biggest cuts—and they could co-ordinate
better to ensure that NATO retains a balance of forces.
Now,
more than ever, Europeans need to get more bangs for their bucks. They
have more soldiers than America, but can deploy far fewer abroad. Their
budgets are fragmented among lots of armies, navies and air forces.
Europe produces 20 different kinds of armoured vehicles, six types of
attack submarines and three of fighter jets. With the cost of military
equipment rising faster than inflation, European countries plainly need
to find greater economies of scale. This does not imply creating a
European army, as some favour. That would be a recipe for paralysis:
just try sending the Franco-German brigade to Afghanistan, let alone
Libya. Instead Europeans need to specialise and, when they do similar
things, they should pool equipment.
None
of this is easy. Countries want neither to depend on others nor to be
dragged into somebody else’s war. Some have defence industries to prop
up. But Denmark has given up submarines, letting it play a bigger role
in Afghanistan and Libya. Several countries share C-17 transport
aircraft. Last year’s Franco-British defence pact points the way: the
two countries will co-operate in, among other things, nuclear tests,
aircraft-carrier operations and a joint expeditionary force, as well as
unglamorous but vital support tasks. The lesson is clear: pool it or
lose it.
Economist.com/blogs/charlemagne
Economist.com/blogs/charlemagne
http://www.economist.com/node/18836734
Trung Quốc - Hạ Cánh Tơi Bời
A. Gary Shilling - Bloomberg
Năm bài về những lý do khiến Trung Quốc có thể "hạ cánh thiếu an toàn"
READ MORE - Trung Quốc - Hạ Cánh Tơi Bời
Năm bài về những lý do khiến Trung Quốc có thể "hạ cánh thiếu an toàn"
Quang diện Trung Hoa rất hoa lệ....
Không chỉ Dainamax
Magazine mới trình bày mãi những lý do khiến kinh tế Trung Quốc có thể
trôi vào khủng hoảng. Tuần qua, trên hệ thống truyền thông chuyên đề có
uy tín của Hoa Kỳ về kinh tế tài chánh là Bloomberg, nhà tư vấn kinh tế
A. Gary Shilling và Chủ tịch của doanh nghiệp tư vấn A Gary Shiliing
& Co. có một loạt năm bài về lý do tại sao Trung Quốc có thể gặp
hiện tượng "hạ cánh tơi bời" chứ không an toàn. A. Gary Shilling là
người đã tiên báo nhiều biến cố kinh tề từ mấy chục năm nay nên lời cảnh
báo của ông rất đáng chú ý.
Dainamax xin phép
trình bày nguyên văn Anh ngữ. Những ai ở Hà Nội muốn biết về sự yếu mạnh
thực tế của Trung Quốc để thoát khỏi nỗi sợ Bắc Kinh và dự đoán về kinh
tế Việt Nam nên chịu khó... phiên dịch lấy! Những người khôn ngoan tại
Sàigòn cũng có thể tìm thấy trong loạt bài này một số dự báo về tình
hình trị trường, cái gì sẽ lên giá hay xuống giá, và tại sao.... Phần
phụ đề các bức tranh minh họa là của Dainamax... cho nó vui đời!
Why China’s Heading for a Hard Landing
Part 1: by A. Gary Shilling – Bloomberg - Jun 27, 2011
Part 1: by A. Gary Shilling – Bloomberg - Jun 27, 2011
(A. Gary
Shilling is president of A. Gary Shilling & Co. and author of “The
Age of Deleveraging: Investment Strategies for a Decade of Slow Growth
and Deflation.” The opinions expressed are his own. This is the first in
a five-part series.)
Few countries are more important to the global economy than China.
But its reputation as an unstoppable giant -- as a country with an
unending supply of cheap labor and limitless capacity for growth --
masks some serious and worsening economic problems.
China’s
labor force is aging. Its consumers save too much and spend too little.
Its political and economic policy tools remain crude. Its state
bureaucracy seems likely to curb spending just as exports weaken, and
thus risks deflation. As U.S. consumers retrench, and as the global
commodity bubble begins to dissipate, these fundamental weaknesses will
combine in a way that’s unlikely to end well for China -- or for the
rest of the world.
To
start, China is much more vulnerable to an international slowdown than
is generally understood. In late 2007, my firm’s research found that too
few people in China had the discretionary spending capability to
support its economy domestically. Our analysis showed that it took a
per-capita gross domestic product of about $5,000 to have meaningful
discretionary spending power in China.
About
110 million Chinese had that much or more, but they constituted only 8
percent of the population and accounted for just 35 percent of GDP in
2009, while exports accounted for 27 percent. Even China’s middle and
upper classes had only 6 percent of Americans’ purchasing power.
Why Overconfidence Abounds
With such limited domestic spending, why do so many analysts predict that China can continue its robust growth?
In
part because they believe in the misguided concept of global decoupling
-- the idea that even if the U.S. economy suffers a setback, the rest
of the world, especially developing countries such as China and India,
will continue to flourish. Recently -- after China’s huge $586 billion
stimulus program in 2009; massive imports of industrial materials such
as iron ore
and copper; booms in construction of cement, steel and power plants,
and other industrial capacity; and a pickup in economic growth -- the
decoupling argument has been back in vogue.
This
concept is flawed for a simple reason: Almost all developing countries
depend on exports for growth, a point underscored by their persistent
trade surpluses and the huge size of Asian exports relative to GDP.
Further, the majority of exports by Asian countries go directly or
indirectly to the U.S. We saw the effects of this starting in 2008: As
U.S. consumers retrenched and global recession reigned, China and most
other developing Asian countries suffered keenly.
Overconfidence
in China’s ability to keep its economy booming is also partly
psychological. It reminds me of the admiration and envy (even fear) that
many felt toward Japan during its bubble days in the 1980s. As Japanese companies bought California’s Pebble Beach, Iowa farmland and Rockefeller Center in New York,
what was safe from their zillions? Then the Japanese stock and
real-estate bubbles collapsed, and Japan entered the deflationary
depression in which it’s still mired.
Success and Complacency
What’s
more, China’s recent successes have been so pronounced that they’ve led
many to conclude that its economy is a juggernaut. And, indeed, the
Chinese have much to be proud of: Last year, China passed Japan to
become the world’s second largest economy, a huge achievement
considering China started in the late 1970s with a tiny
pre-industrialized economy.
But
this success may have led to complacency. I suspect that the 2007-2009
global recession, and the dramatic transformation by U.S. consumers from
gay-abandon borrowers-and- spenders to Scrooge-like savers, caught
Chinese leaders flat- footed. They probably planned to encourage consumer spending and domestic-led growth, but later -- much later.
Growth Machine
They were enjoying a well-oiled growth machine. Growing exports, especially to American consumers, stimulated the capital spending
needed to produce yet more exports and jobs for the millions of Chinese
streaming from farms to cities. Wages remained low, due to ample labor
supplies, and held down consumer spending. So did the high Chinese
consumer saving rate. Because Chinese could not invest offshore, much of
that saving went into state banks at low interest rates. The money was then lent to the many inefficient government-owned enterprises at subsidized rates.
In a country where stability is almost worshipped, why would any leader want to disrupt such a smoothly running economy?
But before you worry about China’s becoming No. 1 any time soon, consider the remaining gap between its economy and the U.S. economy.
In 2009, China’s GDP was $4.9 trillion, only 34 percent of the U.S.’s
$14.3 trillion. Because China has 1.32 billion people, or 4.3 times as
many as the U.S. has, the gap in per-capita GDP was even bigger: China’s
$3,709 was only 8 percent of the U.S.’s $46,405.
A Wide Gap
Just
to maintain this gap at current levels, Chinese GDP will need to grow
at double-digit rates for four years before tapering off, or rise
sixfold in three decades (assuming that U.S. real GDP increases 2
percent per year on average for the next 30 years, and using government
population projections). To close the per-capita GDP gap in 30 years,
Chinese GDP would need to grow about 10 percent per year for three
decades, or expand to 17.8 times its current size in that period.
Such rates of growth seem close to impossible if the global economy slows.
As the announcer for the Cleveland Indians used to say when the Tribe was hopelessly behind, “They have their work cut out for them!”
Vỡ đồ gia bảo
Hard Landing - Part 2: June 27, 2011
China
has become an economic giant because it has so many people who are
producing moderate amounts. In most ways, however, China remains an
underdeveloped country with political and economic policy tools that are
crude by Western standards. Those tools can spur impressive growth
--but they also mask some deep structural weaknesses in China’s economy.
It’s relatively easy for developing countries
to grow by emulating the technology of advanced nations or, in China’s
case, by forcing them to share it as the price of doing business or by
simply stealing it.
And
a tightly controlled economy can get results quickly. That’s what
happened with China’s $586 billion stimulus program introduced in 2009.
Growth in gross domestic product leaped from a 6 percent rate in early
2009 back to double digits. Most of the money was channeled through
government-controlled banks, whose lending increased by $1.4 trillion,
or 32 percent, over the course of 2009 after being flat since early
2006. The money supply increased by 29 percent.
Those
loans financed public and industrial infrastructure and real estate.
Property prices in January 2010 were up 9.5 percent from a year earlier,
according to government numbers, and much more by private realistic
estimates. Employment gained along with economic activity, and in the
third quarter of 2009, there were 94 job openings for every 100
applicants, up from 85 in depressed 2008, and close to the pre-crisis
average of 97.
Unsustainable Growth
Here’s
what we should remember: This kind of growth is unsustainable, and it
won’t be able to cover up China’s underlying vulnerabilities forever.
China’s
reliance on exports and a controlled currency for growth, for instance,
will no longer work if U.S. consumers are engaged in a chronic saving
spree, as I believe they will be. Chinese export growth, which averaged
21 percent per year in the last decade, is bound to suffer.
The
country’s seemingly inexhaustible pool of cheap labor is expected to
peak in 2014, in part due to its rigid one-child policy. By some
estimates, ample labor has boosted GDP growth by 1.8 percentage points
annually since the late 1970s, but the contraction of the working-age
population will reduce growth by 0.7 percentage points by 2030.
Wages and Ages
Wages are already rising, and even Chinese manufacturers are moving production to Vietnam and Pakistan,
where pay levels are a third of China’s. Some factory workers have seen
wage increases of 20 percent to 30 percent in the last year or so, with
those producing goods for foreign companies seeing especially large
boosts. At the same time, better conditions in rural areas have reduced
the flow of cheap labor into coastal cities.
As
the Chinese population ages, the ratio of retirees to working-age
people is forecast to rise from 39 percent last year to 46 percent in
2025.
This
does not bode well for China’s future growth. When Communist Party
leaders transitioned China’s economy from a cradle-to-grave nanny state
to a progressively free-market one starting in 1978, no meaningful
unemployment, retirement or state health systems were instituted.
(Although President Hu Jintao
said in October that China will “institute a social safety net that
covers all,” and the government has set a goal of providing basic
medical care for all Chinese by 2020.)
Prodigious Saving
So
the Chinese must save prodigiously to provide for their welfare and
retirement. This has contributed mightily to China’s high rate of saving
and low rate of spending, and its consequent reliance on exports.
Chinese households save close to 30 percent of income on average, in
large part to cover old age and medical costs.
Yes,
the Chinese saving rate will be pushed down in time by aging Chinese
who still consume but no longer work, much as it has in Japan.
Nevertheless, less saving and more Chinese consumption won’t substitute
for weakening exports any time soon. Chinese consumers buy only about
one-tenth of those in Europe and the U.S. combined. As the euro zone
remains troubled, and the U.K. slashes government stimulus and U.S.
consumers continue to retrench, it’s unlikely that a drop in Chinese
saving could offset the negative effects of reduced exports.
Inflation Looming
Finally,
China’s state-controlled economic boom may soon lead to crippling
inflation. In February 2010, the director of the National Bureau of
Statistics said that “asset-price increases pose a challenge for
macroeconomic policy.”
The
housing boom has pushed up prices to the point that apartments in
Beijing are affordable to only the top 20 percent of earners -- they’re
selling at about 22 times average income (average U.S. house prices
peaked at six times average income). A square meter of property in China
costs an estimated 164 times per-capita income, compared with 33 times
in high-priced Japan.
The
2009 stimulus package also spurred consumer price inflation to a
year-over-year acceleration of 5.5 percent in May. Food prices are very
sensitive politically because so many Chinese are at subsistence
incomes, and they rose 11.7 percent in May from a year earlier.
Chinese
leaders are not amused, and are taking stringent restraining actions.
But with only blunt-force economic tools available, it’s not clear that
they’ll be capable of managing a controlled slowdown without significant
pain.
Húc bừa càng bể!
Hard Landing - Part 3 - June 28, 2011
China
is hoping to cool its white- hot economy without precipitating a
recession. Doing so will be extremely difficult: Inflation fears are
growing, the government’s ability to respond is quite limited, and
China’s economic model, which leaves bureaucrats guessing about the
market effects of their directives, is ultimately untenable.
Inflation worries start with housing. With Chinese exports curtailed by U.S. consumer retrenchment, capital spending
threatened by government restraints and excess capacity, and domestic
spending less than robust, housing has been China’s big generator of
economic growth in recent years. By some estimates, half of Chinese GDP
is linked to real-estate activity.
The
government is fearful of rising prices, and has moved to prevent
speculation. Buyers must now put down 60 percent of the purchase price
on second homes, and 30 percent on first homes. The government is
pressing banks to contain mortgages, and some have raised interest rates. In January, the mayor of Shanghai announced a new tax on property transactions that may be copied nationwide as other officials attempt to cool prices.
With
these restraints in place, and with supply starting to catch up with
demand, housing sales have slowed. But this has not fully curtailed
China’s real-estate bubble: Housing starts rose about 40 percent last
year. Developers are rushing to build while they try to support
faltering prices by delaying completions and creating artificial
shortages. Of course, these efforts are difficult to maintain because
they tie up capital in uncompleted houses. Houses are now being built at
about twice the rate they’re being sold, well above earlier norms.
Huge Loans
A
report this week by China’s National Audit Office found that a
significant chunk of bank loans made to provincial- government financing
vehicles were improperly funneled into property investments,
contributing to a debt load equal to some 27 percent of GDP. Other huge loans to state-owned enterprises, intended to finance infrastructure, also reportedly went into real estate and may be at risk.
With
inventories soaring while demand softens, and the government clamping
down on speculation, a collapse of the housing bubble seems increasingly
likely.
Prices Rising
Housing
isn’t the only area where signs of inflation are popping up. In May,
consumer prices increased 5.5 percent versus a year earlier. In
December, Chinese leaders agreed to “put stabilizing the overall price
level in a more prominent position” in their ranking of economic
priorities. In a country where many live at or below the poverty level,
food costs are obviously a major concern, and they jumped 11.7 percent
in May from a year earlier.
The
government appears increasingly worried about social unrest. In
November, it said it was ready to impose price controls to reduce
inflation, especially on food and energy, and said it would help the
poor with higher welfare payments. The unrest continues and,
significantly, has moved from rural areas to the cities.
Income inequality also remains a problem. The flow of Chinese to more prosperous urban areas has increased average living standards,
but the difference between the rich and the rest continues to widen. In
2010, annual per-capita income was about $2,900 in cities and about
$900 in rural areas. (Adjusting for lower costs in rural areas reduces
this gap.)
Limited Response
China’s ability to respond to these worries is extremely limited. The central bank relies on adjusting reserve requirements
and limits on bank lending to implement monetary policy. Since January
2010, it has raised reserve requirements 12 times (to 21.5 percent),
while only increasing the one-year lending rate four times (to 6.31
percent), to accommodate inefficient state-enterprise borrowers, which
provide a lot of jobs.
Finally,
implementing any policy in an economy that is partly
government-controlled, partly market-driven is very difficult. In a
completely controlled economy, as China’s used to be, government leaders
might have made economically inefficient decisions, but their authority
wasn’t disputed. In an open economy, as in Singapore, the markets make the decisions, and politicians have little involvement.
But
under China’s current arrangement, officials making major decisions
have to guess what market reactions will result, then try to mitigate
the unintended consequences of their actions.
Unintended Consequences
With a managed floating exchange rate,
for example, officials have to estimate how much hot money will enter
China in anticipation of a stronger currency, and then determine how to
neutralize the undesired effects of this flow. Government policies that
encourage exports and trade surpluses have pushed China’s
foreign-currency reserves to more than $3 trillion. Until recently, all
the foreign-currency earnings of Chinese exporters had to be traded in
for yuan, but then the central bank was forced to issue securities to
sop up that money to avoid depreciation.
Similarly,
the Chinese government sets yearly limits on bank loans in advance, but
leaves it up to the banks and demand to determine the monthly lending
pattern. So the banks rush to make loans early in the year for fear that
the government will reduce the limit in a midcourse correction.
I
suspect that such a hybrid market system is too unwieldy to allow the
Chinese government to manage a soft landing for its economy. By my
reckoning, the Federal Reserve
has tried 12 times in the post-World War II era to cool an overheating
economy without precipitating a recession. It succeeded only once. Can
the politically controlled Chinese central bank, and the government
leaders who really call the shots, be more successful than the
independent Fed?
That seems unlikely. And the consequences, for China and the world economy, could be unfortunate.
Lửa đổ thêm dầu... cặn
Hard Landing - Part 4 - June 29, 2011
Past performance, in China’s case, may be indicative of future results.
In late 2007, the Chinese government was scrambling to control a capital-spending
boom. The central bank was concerned about 11 percent growth in gross
domestic product, far above its official target of 8 percent, and about
money flooding in from exports and direct foreign investment.
By
Nov. 1, the People’s Bank of China had raised its one- year lending
rate five times and reserve requirements eight times to soak up excess
liquidity.
My
firm’s research predicted then that the government would curb capital
spending and excess liquidity just as exports weakened. Then, as excess
capacity mounted, direct foreign investment would disappear and
deflation would reign.
That’s
essentially what happened in 2008 and 2009, as the effects of China’s
fiscal and monetary restraint coincided with the worldwide economic
slump. The growth rate dropped to 6 percent, which in China constituted a
major recession.
Don’t be surprised if history repeats itself in the next few years.
This
time around, some signs of cooling are already apparent. Besides
dampened housing demand, the HSBC Flash China Manufacturing Purchasing
Managers Index in June fell to 50.1, its lowest level in 11 months.
Passenger-vehicle sales grew 33 percent in 2010, when the government
subsidized small-car purchases, but only 3 percent this April over a
year earlier.
Money, Banks, Stocks
Growth
in the broadest measure of China’s money supply has declined from 30
percent year-over-year in December 2009 to 15 percent year-over-year at
the end of May. Bank loans fell 25 percent in May from April. Excavator
sales fell
10 percent in May from a year earlier, possibly foreshadowing a
construction bust. The 14.3 percent decline in the Shanghai Composite
Index last year and the 10 percent drop since mid-April also don’t bode
well for growth.
Despite
all these negatives, with recent data showing first-quarter GDP
expanding by a still-healthy 9.7 percent, and consumer inflation at its
highest levels since July 2008, China has continued to tighten its
economic policy. The government raised banks’ reserve requirements to
21.5 percent in June, the ninth such increase since November. And it
will probably continue to tighten until it sees decisive results -- that
is, a hard landing.
What will happen next?
No Floating Yuan
For
one thing, even though a hard landing could cause hot money to flee the
country and weaken the yuan, China will not float its currency. Many
Western governments argue that if China allowed the tightly controlled
yuan to float freely, it would rise against the dollar and other major
currencies. That, the thinking goes, would discourage exports, encourage
imports and quickly eliminate China’s chronic trade surplus.
The
Chinese have repeatedly told Western officials that they will not be
pushed into floating the yuan. They worry that a jump in the currency’s
value would wreak havoc on Chinese exporters and force them to move
production to cheaper venues. A stronger yuan would also reduce the
value of China’s foreign- currency reserves.
Furthermore,
exchange rates have only limited effects on import or export prices
and, therefore, imports and exports themselves. The key determinant of a
country’s exports is the economic health of its trading partners. If
their economies are robust, they buy more of everything, including
imports.
The
dammed-up zeal to own the Chinese currency would dissipate quickly if
all barriers were removed and it became clear that a more expensive yuan
was not ending China’s trade surplus. Pressure from foreign governments
for a stronger yuan would then evaporate, as would interest in owning
more Chinese currency in anticipation of higher values. And the removal
of restrictions that prevent Chinese from diversifying their investments
abroad might actually depress the yuan by encouraging money to flow out
of China.
Holding Treasuries
China also won’t be selling its $1 trillion in reserves of U.S. Treasuries
in great amounts, as some have feared. The Chinese are well aware that
doing so would be disastrous for their economy, because the resulting
nosedive in Treasury prices and the dollar would decimate the value of
China’s remaining holdings of U.S. debt and other assets. A global depression might well ensue, with China and other export-dependent countries as the biggest losers.
Excess Capacity
Instead, China’s most likely reaction -- to focus still more on exports -- will exacerbate its hard landing. If consumer spending
doesn’t increase substantially in the next few years, China will have a
serious problem using all the industrial capacity it has built, partly
to keep people employed. Capacity is mushrooming so rapidly that even in
China’s booming economy, most manufacturers are still seeing flat or
falling utilization rates.
This
unused capacity portends weak profits and trouble for the loans that
financed it. My judgment is that it will once again be used for exports
aimed at the U.S. and Europe. And once again, this will add to global excess supply and put downward pressure on prices.
Then
China, along with other export-dependent emerging economies, will be
competing fiercely in a world of slow growth and deflation.
Phục uyển: nồi cơm úp!
Hard Landing - Part 5: June 30, 2011
The
hard landing that I foresee for China will probably prick the global
commodity bubble, which is already showing signs of topping out.
Agricultural
product prices have jumped, the result of robust demand, bad weather
last year in Russia, recent floods in Australia, and dry and hot La Nina
conditions in Argentina.
Industrial metals such as copper were on a tear. So were precious metals, such as silver.
But
much of the leap in commodity prices was due to investors and other
speculators. Exchange-traded funds had already tied up much of the
physical supplies of gold and other precious metals. Futures contracts
held by speculators were up 12 percent in 2010 through October, with
sharp increases in bullish bets on crude oil, copper and silver.
Volatility forced futures exchanges to raise margin requirements on a
number of commodities.
The
confidence that China would continue to buy huge quantities of almost
all commodities has been the bedrock belief of speculators. For example,
there were rumors that China was again building its emergency petroleum
reserve in the first half of this year.
I’ve
studied many bubbles over the years, and concentrated on predicting
their demises. Commodities show every sign of being in one.
Rare-Earth Exports
China
added to the commodity frenzy last year by slashing exports of
rare-earth metals used in high-tech batteries, TV sets, mobile phones
and defense products. China supplies 95 percent of these elements, and
consumes 60 percent, exporting the rest. Its exports of rare earths fell
9 percent in 2010, but still exceeded the government’s quota by a
third.
Chinese
authorities cut the export quota for the first half of this year by 35
percent from a year earlier. Japanese manufacturers of high-tech gear
are seeking alternative supplies. Of course, China maintains that its
ongoing trade and political spats with Japan have nothing to do with the
tighter quotas. They were necessary, Chinese leaders say, to sustain
rare-earth development and deal with environmental damage caused by
mining.
Speculators
are starting to take stock of the evidence of a hard landing in China,
and industrial commodity prices, including copper, are swooning. As in
the past, warnings about shortages in key industrial inputs are
magically being contradicted as unaccounted-for stockpiles materialize.
Weather-Driven Supply
Agricultural
producers are influenced by global demand and by weather-driven supply.
I’ll leave it to others to forecast the weather. But note that ideal
growing weather often follows the kind of bad weather we’ve seen lately,
and bumper crops and surpluses often replace worrying shortages in a
crop-year or two.
Furthermore,
China imports (and might have stockpiled) soybeans and other
agricultural products that would suffer from a slowing economy. Weakness
in industrial commodities can easily spread to the agricultural area.
Notice the close correlation among all commodity groups in recent years.
The huge quantities of hot, highly leveraged money now sloshing around
the world tend to end up on the same side of the same trade at the same
time.
As
speculators suffer setbacks in one area, they quickly bail out of
other, fundamentally unrelated areas to preserve their capital.
Commodity Exporters
The
bursting of the commodities bubble will be bad news for
developing-country producers such as Brazil, which has thus far largely
escaped recent global economic and financial woes but is a major
exporter of iron ore and other commodities to China. Developed commodity
exporters -- Canada, New Zealand and Australia -- as well as their
currencies, may also suffer.
I’ve
long believed that a hard landing in China would be preceded by a price
collapse in copper and other industrial commodities. Copper prices
peaked in February, and Barrick Gold Corp. (ABX)’s
agreement on April 25 to acquire copper producer Equinox Minerals Ltd.
to gain mineral resources outside its area of specialization is a
classic sign of a peak.
Another
classic sign of a speculative price peak was the sudden appearance of
copper inventories where none were thought to exist. As prices start to
break, hoarded commodities suddenly become available for sale by highly
leveraged owners. Copper in China was so abundant that bonded warehouses
were full. In January and February, extra copper was sold abroad as
Chinese exports were eight times the year-earlier total.
Falling Copper Prices
London
Metal Exchange bonded warehouses saw copper inventories leap 17 percent
in the first quarter. Furthermore, to circumvent tight bank lending in
China, borrowers are relying more on available letters of credit to
finance copper arbitrage trading and otherwise have the use of the
borrowed money with copper purchases as their collateral. If copper
prices continue to fall, those borrowers will have to sell their copper
on the market to prevent further losses, resulting in still-lower
prices.
Meanwhile,
sugar topped out in February, and cotton in March. I pointed this out
in a speech to an investor conference in April, and several people in
the audience questioned my facts. I compared those who hadn’t noticed
this peak to Wile E. Coyote of the “Road Runner” cartoons, who runs off
the cliff and finds himself suspended in air before dropping to the
valley floor.
Further
confirmation came May 2, when silver prices, which had skyrocketed
earlier, started to collapse and virtually all other commodities
followed: crude oil, cotton, copper, grains and even gold.
Moving in Lockstep
As
I noted earlier, there is so much leverage money floating around the
world that regardless of how it’s managed -- by fundamental, momentum or
technical strategies -- it tends to end up on the same side of the same
trades at the same time. So, when one of these positions reverses, the
effects spread rapidly as speculators bail out of their positions to
reduce risk and preserve their capital. Keep in mind that the prices of
the wide variety of commodities continue to move in lockstep.
Many
commodity bulls see this trend as a short-lived midcourse price
correction and have maintained their long positions in copper, crude
oil, corn and even silver. But markets anticipate, and it now appears
the declines in commodities are foreshadowing a hard landing in China,
with the effects spreading globally.
Mồ Côi Đặng Tiểu Bình
2011-07-05
Quốc Việt và Nguyễn Xuân Nghĩa - SBS Ngày 20110705
Nên lại khôi phục tư tưởng Mao Trạch Đông....
Nhà phê bình Nguyễn Xuân Nghĩa nói về thời hậu Dặng Tiểu Bình
Trở về lối cũ...
Trung Quốc đang ở vào khúc quanh chuyển tiếp lãnh đạo trong khi kinh tế và xã hội lại có đầy những thách đố.
Sau khi Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách năm 1979, tình hình xứ này xoay chuyển ra sao? Tiếp tục loạt bài phỏng vấn của Trưởng Ban Việt Ngữ Quốc Việt của đài SBS tại Úc Châu về cuốn sách "Việt Nam và Trật Tự Trung Hoa" xuất bản năm 1997, tác giả là chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ trình bày một số nhận định và kết luận của ôngvề tương lai trước mặt.
Xin quý vị đón nghe qua mạch dẫn sau đây:
READ MORE - Mồ Côi Đặng Tiểu Bình
Nên lại khôi phục tư tưởng Mao Trạch Đông....
Nhà phê bình Nguyễn Xuân Nghĩa nói về thời hậu Dặng Tiểu Bình
Trở về lối cũ...
Trung Quốc đang ở vào khúc quanh chuyển tiếp lãnh đạo trong khi kinh tế và xã hội lại có đầy những thách đố.
Sau khi Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách năm 1979, tình hình xứ này xoay chuyển ra sao? Tiếp tục loạt bài phỏng vấn của Trưởng Ban Việt Ngữ Quốc Việt của đài SBS tại Úc Châu về cuốn sách "Việt Nam và Trật Tự Trung Hoa" xuất bản năm 1997, tác giả là chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ trình bày một số nhận định và kết luận của ôngvề tương lai trước mặt.
Xin quý vị đón nghe qua mạch dẫn sau đây:
http://www.sbs.com.au/yourlanguage/vietnamese/highlight/page/id/177155/t/Issues-of-Vietnam-TUE-110705
Từ Caracas Tới Bắc Kinh
Nguyễn Xuân Nghĩa - Người Việt ngày 20110705
"Kinh Tế Cũng Là Chính Trị"
Khi Lãnh Tụ Venezuela Hít Đất Thì Thiên Triều Hít Bụi
Hồ Cẩm Đào dẫn Hugo Chavez duyệt đoàn quân danh dự
Hôm 30 vừa
qua, Tổng thống Hugo Chavez của Venezuela xuất hiện trên truyền hình để
thông báo với quốc dân là ông đang trị bịnh ung thư. Chuyện lý thú là
ông không phát biểu tại thủ đô Caracas mà nói 15 phút trên truyền hình
của Cuba, nơi ông qua đó chữa bệnh. Ban đầu thì còn giấu kín bệnh lý chứ
bây giờ thì nói thật, dù chỉ một phần. Ngày mùng bốn Tháng Bảy mới có
tin là Hugo Chavez đã trở về sau hai cuộc giải phẫu và vẫn còn đang
trong thời kỳ dưỡng bệnh.
Lý thú hơn nữa là Bắc Kinh lại theo dõi rất sát chuyện này!
Nhưng vì sao lại nói tới Caracas và Bắc Kinh trên cột mục định kỳ về kinh tế của quý độc giả? Vì thưa rằng kinh tế cũng là chính trị. Và rằng Bắc Kinh đã bỏ rất nhiều tiền nuôi nấng quan hệ khắng khít với chế độ độc tài này. Chuyện ấy cũng ly kỳ như ông "Lú" Trọng hay chú Ba Dũng của Hà Nội bỗng dưng... "chuyển qua từ trần" vậy!
Nuôi mãi con ngựa mà nó lại bốn vó giữa dòng thì có phải là phí không nào?
***
Cho đến nay, Chính quyền Cộng sản Bắc Kinh vẫn giữ im lặng trước sự kiện lãnh đạo Venezuela lâm trọng bệnh.
Việc kế nhiệm
một lãnh tụ độc tài thường xảy ra sau hậu trường hắc ám và việc người
anh hay Phó Tổng thống xứ này sẽ lên cầm quyền từ lúc lâm thời cho đến
khi Hugo Chavez... lâm tử là một vấn đề đáng cho Bắc Kinh theo dõi vì có
khi họ sẽ tuột tay ở Caracas.
Nhưng phải theo dõi một cách kín đáo thôi.
Nếu Thiên
triều bức xúc nhiều quá thì người ta thấy ra sự thật vô cùng bất tiện:
Bắc Kinh đầu tư rất mạnh vào các chế độ độc tài và mục nát nhất. Các chế
độ ấy là Bắc Hàn, Miến Điện, Angola, Sudan, Zambia, hay cả Iran và
Libya (30 tỷ đô la cho Gaddafi chứ không ít). Vì vậy, việc các đấng con
trời xâm nhập vào một tiền đồn chống Mỹ tại Mỹ châu La tinh, là xứ
Venezuela, này không là điều ngạc nhiên.
Nhưng khác với
thời hoang tưởng của Mao là khi mà đảng Cộng sản Trung Quốc cấy hạt
nhân "cách mạng vô sản" vào các nước nhược tiểu - trong đó có ba nước
Đông Dương và một chuỗi quốc gia Đông Nam Á - để đòi lãnh đạo khối "phi
liên kết", lãnh đạo Bắc Kinh thời nay lại thực tiễn hơn nhiều. Họ chỉ
đầu tư khi có lợi về kinh tế, tại các quốc gia có tài nguyên thiên nhiên
mà Trung Quốc rất cần để tiến hành công nghiệp hoá.
Việc một xứ
này đầu tư vào xứ khác để cùng khai thác và chia nhau thành quả là bình
thường. Nhưng trong tiến trình đó, Trung Quốc đi sau các nước Tây phương
nên gặp cảnh "trâu chậm uống nước đục" vì chỉ còn loại thị trường xương
xẩu có vấn đề. Thí dụ như bị thế giới tẩy chay hay cấm vận – như Bắc
Hàn, Sudan, Miến Điện hay Iran....
Con trời vốn dĩ sành ăn, họ biết rằng những miếng gần xương nhất cũng là những miếng "ngon" nhất!
Vì vậy, rất đáng trách mà cũng thuộc diện "kinh tế chính trị học vô đạo", Bắc Kinh bắt tay các chế độ hung đồ - "rogue regimes"
– và tiếp tay phường vô lại để vơ vét tài nguyên của người dân nghèo
khốn ở nơi đây: loại dự án "bô-xít" của Việt Nam nằm trong diện đó!
Mà chưa hết,
họ khai thác rồi thải ra từng núi rác về xã hội và về môi sinh cho đời
sau gánh vác: nạn khai thác lao động và ô nhiễm môi trường là đặc sản
Trung Quốc. Các nước dân chủ mà dính vào trò bẩn ấy thì bị dư luận ở nhà
tố cho sặc gạch, tẩy chay cho hết khách. Hoặc bị dàn luật sư bầy trận
để đòi bồi thường thiệt hại lên tới bạc tỷ. Bắc Kinh khỏi lo chuyện ấy,
nên cứ phơi phới đi tới!
Đó là về bối cảnh chung.
Về xứ
Venezuela, Bắc Kinh cứ... cứng như bin là kín như bưng mà tung hoành vô
tội vạ nên ít ai kiểm tra được sự thật. Chỉ còn cách thu lượm thông tin ở
nhiều nguồn khác nhau để vẽ ra một phần của bức tranh toàn cảnh.
Venezulea là
một xứ thuộc loại giầu năng lượng nhất thế giới - trữ lượng có xác định
về dầu thô là hơn 210 tỷ thùng và về khí đốt là 180 ngàn tỷ thước khối.
Vì vậy xứ này không thể nằm ngoài tầm nhắm của Thiên triều. Cho nên, từ
2005 đến nay, với Venezuela, họ đã đầu tư trực tiếp, cung cấp tín dụng
đặc biệt ("với màu sắc Trung Hoa") và hứa hẹn nhiều hợp đồng lên tới
ngạch số tổng cộng là gần 50 tỷ đô la.
Tương đương với gần 50% tổng sản lượng GDP của Việt Nam chứ không ít!
Một số tín dụng – tiền cho vay - được Venezuela thanh toán bằng dầu. Chút nữa xin sẽ nói sau.
Một số khác, chừng 10 tỷ đô la, là loại có "màu sắc Trung Hoa" nên cần giải thích ngay: cho vay... bằng đồng Nguyên. Là đồng "Yuan", mà truyền thông cứ gọi là "Nhân dân tệ" hay "Renminbi", tội cho nhân dân Trung Quốc dường nào! Tức là Bắc Kinh bấm nút in bạc cho Venezulea một "tín khoản" – "line of credit"
– cỡ 10 tỷ đô, để Hugo Chavez thoải mái mua đồ Trung Quốc theo điều
kiện của Bắc Kinh, nhưng không hề có rắc rối gì về chuyện nhân quyền hay
môi sinh như loại tín dụng của các nước dân chủ Tây phương.
Nhân đó Bắc
Kinh tri hô cho bàn dân thiên hạ biết khả năng phổ biến của đồng Nhân
dân tệ, một bước cạnh tranh với đồng bạc xanh của Mỹ! Kinh tế cũng là
chính trị mà....
Bây giờ mới đến chuyện dầu.
Khác với dầu của Libya là loại "thanh" và "ngọt", tức là có hàm lượng sulfure
thấp và giá trị rất cao, dầu của Venezuela là loại "đậm" và "chua" nên
phải chế biến tốn kém hơn, trước khi đem vào nhà máy lọc dầu thành xăng.
Khi đầu tư vào Venezuela, Bắc Kinh cũng học nghề chế biến – "học nghề"
là cách nói lịch sự về nghệ thuật ăn cắp mà khỏi trả tác quyền - loại
dầu đậm này và nhân đó cài vào các dự án liên doanh. Thí dụ như một dự
án lọc dầu có nhật lượng là 400 ngàn thùng một ngày tại Quảng Đông.
Dại gì mà không làm vậy khi Venezuela bán dầu và đầu tư vào Mỹ dưới thương hiệu Citgo! Tức là vẫn học lóm công nghệ - technology - của Mỹ đế, qua trung gian Venezuela! Dù là hạng bét thì cũng khỏi trả royalty. Khôn thấy mẫu thân!
Vì trang báo
có hạn, người viết xin khỏi liệt kê danh sách chừng một tá dự án thuộc
loại ma quỷ của Bắc Kinh trong hệ thống kinh tế chính trị Venezuela.
Nhưng tin chắc là giới hữu trách của Mỹ cũng biết mà khỏi cần đọc báo
Người Việt!
Bây giờ, sau
khi nuôi con mòng cho béo thì Hugo Chavez lại ngất ngư sức khoẻ và xứ
Venezuela có khi lại đổi chủ trong điều kiện bất thường. Vốn dĩ kẻ cặp
hay gặp bà già – xin lỗi các bà già trên toàn thế giới – cho nên nếu có
cảnh đổi chủ thì rất dễ có chuyện... quịt nợ!
Một giả thuyết
hoàn toàn không hoang tưởng: khi đảng Cộng sản Việt Nam hết lãnh đạo
cái xứ khốn khổ này thì người dân Việt Nam có cúi đầu chấp hành những
cam kết bất công và bất chánh của Hà Nội với Bắc Kinh không? Vì thế, nếu
chế độ Hugo Chavez lâm vào nội loạn, dân Venezulea sẽ nổi dậy như đã
từng làm vào năm 2002. Khi ấy, họ sẽ phủ nhận loại quyết định bán dầu mà
bán nước của Hugo Chavez. Có khi còn tràn vào khu vực kinh doanh của
Trung Quốc để biến thành bình địa.
Làm Bắc Kinh lỗ vốn!
Ngay trước mắt
thì có thể lỗ 15 tỷ đô la. Không nhiều nếu so với lượng đầu tư hải
ngoại của Trung Quốc, riêng năm 2010 đã lên tới gần 60 tỷ đô la. Không
nhiều nhưng vẫn đáng kể. Còn đáng kể hơn nếu dân Venezuela chất đồng
Nguyên thành đống để dâng cho... bà Hoả!
Rất là mất mặt Thiên triều!
Nước Mỹ vốn
quen với cảnh cờ hoa bị đốt, hình lãnh tụ bị treo làm người nộm, họ coi
đó là quyền tự do phát biểu của Đệ nhất Tu chính án. Chứ Thiên triều đầy
mặc cảm thì không chịu được: lại là âm mưu Mỹ đế sau khi can thiệp vào
Libya làm Thiên triều mất béng 30 tỷ!
Đó là chuyện trước mắt.
Về dài nếu
Venezuela có loạn, bị nội chiến, đổi chủ hoặc chế độ phải thoả hiệp thì
tính chất hung đồ của Hugo Chavez không dứt cũng phải giảm. Venezuela sẽ
giã từ chiến lược Chavez để thoát khỏi tình trạng bị cô lập hiện nay.
Lý do là vì
Hugo Chavez mà quốc gia giàu tài nguyên này bị tụt hậu, nhất là về kỹ
nghệ hoá dầu và năng lượng – tương tự như Iran. Cũng nhờ Venezuela bị cô
lập, Bắc Kinh có một sân chơi bất bình đẳng và lén chui vào chơi bẩn.
Mai đây, nếu xứ này có thay đổi về chính trị, chế độ mới tại Caracas sẽ
thay đổi chánh sách kinh tế và đầu tư. Họ cần hình thái làm ăn sạch sẽ
và tiến bộ hơn. Từ đó, giới đầu tư Tây phương sẽ trở lại và Bắc Kinh hết
trò ma bùn độc diễn.
Vì thế, căn bệnh của Hugo Chavez không là chuyện nhỏ, mà là điều khiến Thiên triều phải quan tâm.
***
Theo truyền
thống, chúng ta chỉ nên luận về thiên hạ sự để nhớ đến chuyện nhà.
Chuyện Việt Nam. Vì vậy, lời kết ở đây là một nhắc nhở:
Cách đây đúng
15 năm, khi còn là Tổng lý Quốc vụ viện, Thủ tướng Lý Bằng của Trung
Quốc đã cầm đầu một phái đoàn tham dự Đại hội đảng Cộng sản Việt Nam.
Phái đoàn rất hùng hậu vì có chừng 150 doanh gia cầm cặp tham quan khắp
nơi. Họ lặng lẽ đi rải phân để bón lên một tầng lớp lãnh đạo có quan
điểm "hữu nghị" với Thiên triều.
Nói về kinh tế
chính trị, thời ấy, trung bình ngân sách một tỉnh thì chỉ có chừng một
triệu đô la, cho nên với vài trăm ngàn "đầu tư" ở từng nơi thì họ đã cấy
và từ đó nuôi được khá nhiều người, từ cấp huyện ủy trở lên. "Phát huy
dân chủ từ cơ sở" mà... Rồi yên tâm là Trung ương đảng của Hà Nội từ nay
biểu quyết những điều "có lợi cho đôi bên" mà toàn dân không biết. Có
biết cũng đành chịu!
Đôi khi còn ăn
theo, hơn là dại dột đi làm cách mạng dân chủ và đòi bảo vệ tổ quốc:
làm kinh tế vốn dĩ vẫn khôn hơn làm chính trị!
Bây
giờ chúng ta hiểu vì sao mà Hà Nội kềm chế phản ứng của người dân và
chủ trương "đối thoại song phương" với Bắc Kinh trước những gì đang xảy
ra ngoài Đông hải. Vì vậy người Việt cũng nên quan tâm đến biến động tại
Venezuela!
Subscribe to:
Posts (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét