Nhắc
đến châu Á, nhiều người nghĩ ngay đến Trung Hoa và Ấn Độ - những gã
khổng lồ đang thống trị nền kinh tế thế giới. Nhưng Đông Nam Á, một tiểu
vùng bao gồm 10 quốc gia, đang sống như một cái bóng của hai người hàng
xóm khổng lồ, vẫn là một trung tâm kinh tế và thương mại lớn mạnh.
Đầu
tiên, các quốc gia Đông Nam Á này - được bao bọc bởi nhiefu các thỏa
thuận thương mại và chính trị - dường như vẫn không có ý nghĩa gì với
nhau. Sau cùng, khu vực bao gồm một đất nước giàu có, vương quốc dầu mỏ
(Brunei); một đất nước hậu xung đột xã hội (Campuchia); một nền kinh tế
trung chuyển thịnh vượng (Singapore). Thêm vào đó, còn có một đất nước
tự cung tự cấp dưới chế độ quân đội từ năm 1962 ( Miến Điện); một nước
nghèo, bị khóa trong lục địa chỉ trông chờ vào thủy điện và khai khoáng
(Lào); và một đất nước đông dân có tốc độ tăng trưởng kinh tế kình địch
với Trung Hoa (Việt Nam), không nhắc đến 4 nền kinh tế đa dạng có mức
thu nhập trung bình đang mong muốn vươn lên ngưỡng các nước phát triển
(Indonesia, Malaysia, Philipines và Thái Lan). (1)
Tuy
nhiên, các nước này chia sẻ vị trí chiến lược và khai thác tài nguyên
thiên nhiên phong phú. Hơn thế, sự đa dạng và hội nhập cao nằm ở trung
tâm của khu vực có tốc độc tăng trưởng cũng như phục hồi nhanh. Về chính
trị, khu vực này mang lại một phần ổn định cho thế giới và đang nhanh
chóng định hình lại sự cân bằng quyền lực toàn cầu. Kết quả là, nó tiếp
tục phát triển, dù phụ thuộc vào việc đầu tư cơ sở hạ tầng và giáo dục,
cũng như cải thiện môi trường kinh doan, một việc rất quan trọng với
phần còn lại của thế giới.
Triển vọng kinh tế
Mười
quốc gia Đông Nam Á có tổng GDP vào khoảng 1,9 ngàn tỷ USD (lớn hơn Ấn
Độ); với dân sổ khoảng 600 triệu người (gần gấp đôi Hoa Kỳ); và với mức
thu nhập đầu người gần bằng Trung Hoa. Suốt một thập kỷ qua, các quốc
gia này có tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 5% mỗi năm. Nếu Đông Nam Á
là một quốc gia, nó sẽ là nền kinh tế lớn thứ 9 trên thế giới. Nó cũng
sẽ phụ thuộc lớn vào thương mại, với tỷ trọng thương mại với GDP là hơn
150% và là nhà sản xuất hàng hóa và là một trong những nền kinh tế có
hiệu quả của thế giới.
Trong
những năm 1970, một số nước trong khu vực đã chỉ ra được những triển
vọng trong nền kinh tế của họ. Singapore đã cho thấy một "con hổ châu Á"
(cùng với Hàn Quốc, Hồng Công và Đài Loan), trong khi Indonesia,
Malaysia, Philipines và Thái Lan là "những chú hổ con" đang ẩn mình. Cả
năm quốc gia đã phát triển với tên gọi đó, cùng với Singapore giờ đây là
một nền kinh tế có thu nhập cao cùng với 4 "chú hổ con" đều là những
nền kinh tế có mức thu nhập trung bình. Thành viên cuối cùng của nhóm
các nước có mức thu nhập trung bình của Đông Nam Á, Việt Nam, đã áp dụng
mô hình kinh tế của Trung Hoa và gặt hái được sự bùng nổ tăng trưởng
tương tự cũng như xóa đói giảm nghèo, cho dù đang ở giai đoạn tăng
trưởng nóng.
Cho
dù cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á những năm 1997-1998 làm chặn lại
đà tăng trưởng nhan chóng của họ, những chú hổ con vẫn đạt được mức tăng
trưởng ấn tượng trung bình 7% từ năm 2000. Và, mawcj dù chịu ảnh hưởng
của cuộc Đại Suy thoái, những quốc gia có mức thu nhập trung bình đã
phục hồi 1 cách ngoạn mục trong năm 2010. Thực tế, toàn bộ tiểu vùng đã
có màn trình diễn ấn tượng, tăng trưởng ở mức 8%, như sự điều chỉnh
chính sách nhanh chóng đã giúp vượt qua khủng hoảng một các nhẹ nhàng
đồng thời cho phép phục hồi nhanh chóng dẫn đến thúc đẩy sự phục hồi
toàn cầu lan rộng hơn.
Vị trí chiến lược, dư thừa tài nguyên
Một
phần, sự thành công của Đông Nam Á mang nợ vị trí địa lý của mình. Các
quốc gia này trấn giữ dọc eo biển Malacca, là kênh tàu biển bận rộn thứ
2 trên thế giới (sau Kênh đào Anh) và là tuyến đường có lưu lượng các
tàu dầu đông thứ 2 (sau eo biển Homuz). Hơn một nửa tiềm lực các đội tàu
thương mại của thế giới sử dụng kênh này mỗi năm, và việc đóng eo biển
này có thể phá vỡ và thậm chí là thảm họa cho thương mại thế giới.
Các tuyến đường biển xung quanh eo biển.
Tiểu
vùng này còn là khu vực có tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng
dầu mỏ dồi dào, nguồn thủy điện và địa nhiệt điện, khoáng sản đa dạng,
gỗ, gạo, dầu cọ, coca và cà phê. Qua nhiều thế kỷ, các tài nguyên này đã
thu hút nhiều thương nhân, thực dân và gần đây nhất là các nhà đầu tư.
Tài nguyên này cũng thúc đẩy khu vực vào quá trình giao thương hàng hóa,
đưa các quốc gia này thành một trong số những nước có tỷ trọng thương
mại - GDP lớn nhất thế giới. (2)
Tài
nguyên thiên nhiên dư thừa của Đông Nam Á cũng taoj bàn đạp cho việc
công nghiệp hóa trong những năm 1970-1980, đặc biệt là với những "chú hổ
con". Các quốc gia này áp dụng chính sách thiên về xuất khẩu của các
quốc gia láng giềng đã thành công như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan,
thúc đẩy thương mại, tài chính và đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nền
kinh tế tiên tiến. Thêm vào đó, việc quản lý kinh tế vĩ mô, liên quan
đến các hệ thống thương mại mở, lãi suất tiết kiệm cao cùng với tốc độ
tăng trưởng nhanh, nguồn lực lao động trẻ cho phép các mực độ đầu tư cao
và sự tăng trưởng ổn định trong suốt 3 thập kỷ. Quá trình công nghiệp
hóa của Việt Nam bắt đầu chậm hơn, trong những năm 1990. Ngày này, tất
cả những nền kinh tế này là một phần của mạng lưới sản xuất cạnh tranh
cao và danh tiếng của Đông Á, cùng với Trung Hoa.
Tài
nguyên thiên nhiên của Đông Nam Á cũng thúc đẩy ngành dịch vụ.
Singapore trở thành cảng trung chuyển lớn nhất thế giới, củng cố chặt
chẽ ngành giao vận, tài chính và dịch vụ thương mại. Trong khi ấy, bốn
"chú hổ con" đã gây dựng được một ngành công nghiệp du lịch lớn mạnh,
chiếm phần lớn lượng du khách nước ngoài vào Đông Nam Á (67 triệu du
khách vào năm 2010, v]ợt xa Trung Hoa với 56 triệu du khách).
Gần
đây nữa, các xu hướng dịch vụ mới đầy hứng thú đang lớn lên ở đây, với
Singapore đang áp lực trở thành trung tâm sinh-hóa toàn cầu và Kuala
Lumpur, thủ đô của Malaysia, đang thiết lập nó trở thành trung tâm tài
chính hồi giáo toàn cầu.
Vai trò của ASIAN
Ngoài
ra, cả mười nước Đông Nam Á này thuộc về Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN) một tổ chức khu vực đươc thành lập 45 năm, đã xúc tiến sự hội
nhập kinh tế và hướng tới tạo ra một cộng đồng kinh tế -một thị trường
duy nhất cho thực phẩm, dịch vụ, đầu tư và lao động có tay nghề - vào
năm 2015. Trong khi nhiều nhà quan sát đặt câu hỏi về tính khả thi của
mốc thời gian này, ASEAN đã đạt được các mức thuể quan thấm hơn và thiết
lập khu vực mậu dịch tự do giữa các thành viên trong đó. Mỉa mai thay,
thương mại trong ASEAN lại tăng trưởng thấp hơn ASEAN giao thương với
Trung Hoa, một xu hướng thỏa thuận thương mại tự do giữa Trung Hoa và
ASEAN, đã trở nên có hiệu lực từ đầu năm 2010, sẽ là trọng tâm.
Thậm
chí còn có thể quan trọng hơn, ASEAN cũng đã đóng vai trò trụ cột ổn
định trong cả khu vực và trên thế giới, xóa tan đi những chỉ trích của
những dự đoán trước đó từ năm 1967 rằng khu vực này sẽ sớm tiêu vong. Kể
từ đó, không có cuộc chiến tranh nào nổ ra giữa các thành viên, như là
tổ chức có những xung đột trung gian. (3) Tổ chức này cũng đã làm
việc để giải quyết tranh chấp trên quần đảo Trường Sa giàu tài nguyên,
nơi có thể án ngữ đường vào Ấn Độ Dương của Hoa Kỳ cũng là nơi mà Trung
Hoa, Đài Loan, Việt Nam, Philipines, Malaysia và Brunei đều tuyên bố chủ
quyền.
Sự
hữu dụng của nền kinh tế, chính trị ASEAN đã hấp dẫn các quốc gia khác.
Năm 199, Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc đã cùng thiết lập quan hệ với
ASEAN thành ASEAN+3. Sự thành công trong việc mở rộng nhóm bao gồm một
cơ chế mới cho việc cung cấp tính thanh khoản trong suốt cuộc khủng
hoảng tài chính (một hành động đáp ứng lại nhận thức cứng nhắc của IMF
trong quá trình khủng hoảng tài chính tại Châu Á) và một sự đảm bảo cho
việc thiết lập cơ sở dự trữ 720,000 tấn gạo cho khu vực sau cuộc khủng
hoảng lương thực quốc tế năm 2011. Cả hai sự khởi đầu này là quan trọng
trong việc xây dựng khối để nâng cao sự ổn định kinh tế trong khu vực.
Và, với việc bao gồm Nhật Bản và Trung Hoa, ASEAN+3 đã giúp làm giảm bớt
những căng thẳng giữa hai quốc gia này.
Khối
ASEAN đang hứa hẹn có thêm các quốc gia thông qua Hội nghị thượng đỉnh
Đông Á (EAS-East Asian Summit), lần đầu được tổ chức năm 2005 có sự tham
gia của ASEAN+3 và các nước Úc, Ấn Độ, New Zealand. Nhóm này đã không
thành công trong việc đưa ra các sáng kiến cụ thể, nhưng cả Hoa Kỳ và
Nga đều đã vận động vất vả để tham dự Hội nghị Thượng đỉnh vào tháng
Mười tới đây, đây là bằng chứng về tiền năng của Khối đã được nhận thấy.
Cá biệt, Hoa Kỳ khá quan tâm đến Đông Nam Á, với tiềm năng của mình
giúp Hoa Kỳ duy trì đường vào Ấn Độ Dương và phục vụ như là đối trọng
với Trung Hoa. Các lý do khác bao gồm vai trò của Hoa Kỳ như là nhà đầu
tư cũng là thị trường nước ngoài lớn nhất của tiểu vùng và vai trò quan
trọng của Indonesia trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu.(4)
Những thách thức
Tất
nhiên, không có khu vực nào mà không có thách thức và rủi ro. Đối với
Đông Nam Á, sự nổi lên của Trung Hoa trong hai thập kỷ tới như là nền
kinh tế lớn nhất thế giới được cho là đặt ra một thách thức lớn nhất.
Trong khi điều này mang lại một lượng lớn cơ hội, nó đồng thời cũng mang
lại số lượng rủi ro quan trọng tương đương. Đối mặt với nền kinh tế, xã
hội môi trường Trung Hoa và các thách thức quốc tế, Đông Nam Á chắc
chắn sẽ phải chuẩn bị cho bất kỳ một sự bất ổn có thể nảy sinh. Quan
trọng không kém, các nhà tạo lập chính sách Đông Nam Á nhìn nhận sự xâm
chiếm khu vực của Trung Hoa như là một rủi ro an ninh có thể có - một lo
ngại đã được nhấn mạnh bởi các sự cố gần đây ở quần đảo Trường Sa.
Sự
phát triển kinh tế của các "chủ hổ con" cũng bộ lộ nhiều quan ngại
khác. Trong nửa cuối thế kỷ, một số quốc gia đã có sự chuyển đổi từ thu
nhập trung bình lên mức thu nhập cao dựa trên thế mạnh sản xuất và dịch
vụ của họ. Họ phải di chuyển lên phía trên của chuỗi giá trị nhưng phải
cạnh tranh với rất nhiều các yêu cầu khắt khe của các nền kinh tế tiên
tiến- trình độ giáo dục cao và lực lượng lao động sáng tạo, một nền văn
hóa xuất sắc, kỹ năng sáng nghiệp, tiếp cận tài chính và hạ tầng (đặc
biệt cần ở Indonesia và Philipines) cùng với môi trường kinh doanh cạnh
tranh. Những nền kinh tế thu nhập thấp của Đông Nam Á đang dần quan tâm
đến những vấn đề này, nhưng công sức của họ sẽ cần nhiều nỗ lực và phối
hợp hơn nếu muốn đạt được những kết quả thực sự.
Hướng về phía trước
Trong
một hoặc hai năm tới, các nền kinh tế Đông Nam Á sẽ đối mặt với con
đường gồ ghề như là sự tăng trưởng chậm hơn ở mức ổn định 5% mỗi năm -
không chỉ bởi vì môi trường kinh tế quốc tế đang trở nên chậm chạp hơn,
mà còn do áp lực lạm phát trong tiểu vùng đang thúc đẩy các chính sách
vĩ mô chặt chẽ hơn và giá cả hàng hóa đã trở nên đắt đỏ hơn.
Cũng
khá quan trọng, Thái Lan và Malaysia đều được cho là sẽ có những căng
thẳng về chính trị. Chiến thắng của đảng Pheu Thai ở Thái Lan trong cuộc
tổng tuyển cử cuối tuần qua đã mở ra một giai đoạn không ổn định mới ở
đây. Và cuộc bầu cử ở Malaysia, dự kiến trong năm nay, có thể mang lại
những căng thẳng về chính trị và dân tộc trên bề mặt một lần nữa.
Tuy
nhiên, viễn cảnh tổng thể nền kinh tế Đông Nam Á về lâu dài là vẫn tươi
sáng. Vẫn áp lực tăng trưởng đạt được trong quá khứ - quản lý kinh tế
vĩ mô, các hệ thống thương mại mở, xu thế nhân khẩu học thuận lợi và lãi
suất tiết kiệm cao sẽ xuất hiện lại. Mức tăng trưởng nhanh của Trung
Hoa và Ấn Độ cũng sẽ là động lực hỗ trợ. Hơn thế, tiểu vùng đang chứng
minh là nguồn năng lượng, nguyên liệu, linh kiện và phụ kiện không thể
thiếu cho ngành sản xuất đang tăng trưởng nhanh chóng của Trung Hoa,
đồng thời sự kết nối sản xuất với Ấn Độ đang có bước tăng trưởng nhanh
chóng.
Most
importantly, however, the sub-region’s middle-income economies must
move up the value chain to further their economic prosperity. If they
accomplish this, Southeast Asia, now in the shadow of its two giant
neighbors, could well become home to full-fledged tigers and dragons.
Tuy
nhiên, điều quan trọng nhất là các nền kinh tế thu nhập trung bình phải
dịch chuyển lên phía trên của chuỗi giá trị tới khu vực kinh tế thịnh
vượng hơn. Nếu đạt được điều này, Đông Nam Á hiện giờ đang là cái bóng
của 2 gã hàng xóm khổng lồ, có thể chính thức trở thành những con hổ con
rồng đủ lông đủ cánh.
-------------------------------------
Vikram
Nehru là một tư vấn cho khu vực Đông Á của Ngân hàng Thế giới và sẽ sớm
gia nhập Carnegie như cộng tác viên cao cấp. Ông đã từng là Kinh tế
trưởng, Giám đốc bộ phận Xóa đói giảm nghèo, quản lý kinh tế, phát triển
khu vực tư nhân và tài chính cho Khu vực Đông Nam Á của Ngân hàng thế
giới.
(1) Đông Timor và Papua New Guinea không bao gồm trong định nghĩa của tác giả về Đông Nam Á.
(2)
Thậm chí Miến Điện - với chính sách tự cung tự cấp và các biện pháp
trừng phạt thương mại bởi các nước phương Tây - cũng đạt được tỷ trọng
thương mại - GDP lên đến 40% nhờ vào đường biên giới với Trung Hoa, Thái
Lan và Ấn Độ.
(3)
Khi sự xảy ra đụng độ, như xung đột biên giới gần đây giữa Thái Lan và
Camphuchia liên quan đến ngôi đền bị tranh chấp, ASEAN đứng ra trung
gian hòa giải và tạo điền kiện thuận lợi cho trao đổi thông tin giữa hai
bên. Hơn thế, gần đây ASEAN còn cung cấp cho chính quyền quân sự Miến
Điện một khuôn khổ chấp nhận được trong việc gia nhập với cộng đồng quốc
tế sau một trận lốc xoáy.
(4)
Từ khi Obama nhận nhiệm sở, Hoa Kỳ đã chủ động quay lại với Đông Nam Á,
một phần để đáp lại sự ảnh hưởng của Trung Hoa đang lớn lên trong khu
vực và một phần do mối quan tâm đến quần đảo tranh chấp Trường Sa có thể
chặn lối vào Ấn Độ Dương của Hoa Kỳ. Các quốc gia Đông Nam Á đều chào
đón sự quay lại vì một số lý do khác nhau: một số nhìn nhận đó như là sự
cân bằng quyền lực đối chọi với Trung Hoa; số khác nhận ra lợi ích
chính đáng của Hoa Kỳ trong việc đảm bảo sự ổn định ở Đông Nam Á như là
nhà đầu tư lớn nhất và thị trường lớn nhất của tiểu vùng này.
Hoa
Kỳ cũng quan tâm đến Đông Nam Á vì Indonesia, quốc gia hồi giáo lớn
nhất thế giới đang thiết lập các cuộc tấn công khủng bố, một vài trong
số đó rõ ràng là nhắm vào lợi ích của Hoa Kỳ. Indonesia bắt đầu trở
thành đồng minh của Hoa Kỳ và châu Âu trong cuộc chiến chống khủng bố
toàn cầu, và những nỗ lực của đất nước này để thiết lập một nền dân chủ
chính thống và chính phủ phân lập phải tiếp tục mang lại nền kinh tế
thịnh vượng, công bằng, tự do và xóa bỏ các nhóm cực đoan cùng với bất
công và tuyệt vọng. Những thành công gần đây của của Indonesia trong
việc chống lại các nhóm Hồi giáo thánh chiến đã làm giảm quy mô nhưng
chưa giảm được tần số các vụ khủng bố bạo lực và những vụ khủng bố này
có thể được xuất khẩu đến các điểm nóng tiềm tàng ở Malaysia và nam Thái
Lan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét