SGTT.VN - Tốc độ tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm
được thông báo đạt mức trên 7%. Tuy nhiên, con số thực tế có thể còn cao
hơn, vì vốn của tổ chức tín dụng (TCTD) đưa ra nền kinh tế không chỉ
qua cho vay đối với doanh nghiệp và cá nhân.
Hạn mức tín dụng là công cụ của chính sách tiền tệ do
ngân hàng trung ương sử dụng nhằm khống chế trực tiếp mức dư nợ tín dụng
của các TCTD, từ đó kiểm soát tổng lượng tiền đưa vào nền kinh tế. Năm
2011, Chính phủ chỉ đạo ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải bảo đảm tốc độ
tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%.
Trái phiếu doanh nghiệp là một hình thức cấp tín dụng
Nhiều
ngân hàng đã lách tỷ lệ bảo đảm an toàn bằng cách đẩy mạnh các hoạt
động đầu tư tài chính, đặc biệt là mua trái phiếu doanh nghiệp.
|
Mặc dù luật TCTD định nghĩa: “Cấp tín dụng là việc thỏa
thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng
và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”, nhưng hạn mức tăng trưởng tín dụng
từ trước đến nay vẫn được hiểu là chỉ áp dụng đối với nhóm nghiệp vụ cho
vay, cho thuê với tổ chức kinh tế và cá nhân (còn gọi là cho vay thị
trường 1). Trong khi đó, tài sản có của ngân hàng thương mại (NHTM) còn
nhiều mục khác, mà đáng chú ý nhất là nhóm góp vốn liên doanh, mua chứng
khoán, góp vốn đồng tài trợ (hay còn gọi là nhóm đầu tư tài chính).
Trước đây, nhóm này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản, mức độ biến
động ít, đồng thời không có yêu cầu cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng
vốn rõ ràng trong tính toán các yếu tố về thanh khoản trong kỳ giám sát
ngày của ngân hàng. Nhưng từ khi NHNN ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN
quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn của TCTD, đặc biệt trong bối cảnh
chính sách tiền tệ thắt chặt, việc khống chế tốc độ tăng dư nợ đã làm
giảm lợi nhuận của các NHTM. Nhiều ngân hàng đã lách trần tín dụng, lách
tỷ lệ bảo đảm an toàn bằng cách đẩy mạnh các hoạt động đầu tư tài
chính, đặc biệt là mua trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác.
Dư luận không biết được tổng số dư đầu tư tài chính của
toàn hệ thống ngân hàng là bao nhiêu, nhưng chắc phải là con số lớn, vì
đến cuối tháng 5/2011, chỉ tính riêng tổng giá trị đầu tư tài chính của
19 ngân hàng cổ phần (phía Nam) đã là 88.635 tỉ đồng, bằng 15,2% so với
tổng tài sản của cả 19 ngân hàng. Ngoài ra, nhiều NHTM còn đẩy vốn vào
nền kinh tế bằng cách hoạt động cấp vốn, góp vốn vào công ty con, công
ty liên kết của chính mình; thực hiện hoạt động ủy thác và nhận ủy thác
cho vay, góp vốn, đầu tư, kinh doanh chứng khoán ....
Luật các TCTD không quy định cụ thể về việc mua trái
phiếu doanh nghiệp là một hình thức cấp tín dụng của các TCTD. Tuy
nhiên, khoản 14, điều 4 của Luật có các quy định về các nghiệp vụ cấp
tín dụng khác. Đồng thời, khoản 3, điều 98 giao cho NHNN chấp thuận các
hình thức cấp tín dụng khác của NHTM. Về hạn mức cấp tín dụng cho 1
khách hàng cũng có quy định: “mức dư nợ cấp tín dụng... bao gồm cả tổng
mức đầu tư vào trái phiếu do khách hàng phát hành”. Từ trước đến nay,
việc mua trái phiếu doanh nghiệp hay ủy thác (trừ ủy thác cho vay) đều
không được coi là hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, về bản chất, việc
TCTD mua trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là trái phiếu phát hành riêng
lẻ, trực tiếp cho TCTD phải được xem là một nghiệp vụ cấp tín dụng của
TCTD cho doanh nghiệp phát hành. Như vậy, nếu tính đúng, tính đủ các
thành phần của cấp tín dụng thì mức tăng tín dụng thực tế phải cao hơn
mức tăng NHNN đã công bố. Ví dụ, mức dư nợ của 19 NHTM cổ phần phía Nam
phải cộng thêm vào gần 42.700 tỉ đồng (là số tiền do các NHTM này đầu tư
vào chứng khoán do tổ chức kinh tế phát hành) mới ra con số cấp tín
dụng thực tế của các ngân hàng này trong 5 tháng đầu năm 2011.
Rủi ro hệ thống và tăng áp lực lạm phát
Hoạt động đầu tư tài chính của các NHTM đã bộc lộ những
dấu hiệu đáng lo ngại, dẫn đến tình trạng cho đến nay tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Một phần vì thiếu các quy định giám sát thanh khoản chặt chẽ (kể cả
văn bản pháp lý của NHNN lẫn quy định nội bộ của các NHTM). Rủi ro lớn
nhất là có thể một số vốn mua trái phiếu doanh nghiệp thực chất là cấp
tín dụng cho các doanh nghiệp “sân sau” của ngân hàng, hoặc một hình
thức đảo nợ. Còn tiền ngân hàng ủy thác cho các công ty chứng khoán và
quỹ đầu tư thì trong bối cảnh thị trường bất động sản, thị trường chứng
khoán sụt giảm như hiện nay, việc thu hồi vốn là không dễ dàng. Đó là
chưa kể trong nhiều hợp đồng ủy thác vốn, một số NHTM không quy định rõ
ủy thác vốn cho bên nhận ủy thác để làm gì mà chỉ có những cam kết về
mức lãi suất ủy thác (khá cao, có hợp đồng lên đến 23 - 24%/năm). Với
mức lãi suất này, nhiều khả năng bên nhận ủy thác (chủ yếu là các công
ty chứng khoán, quỹ đầu tư tài chính) chỉ có thể cho vay ngắn hạn với
những lĩnh vực có tính đầu cơ như bất động sản, kinh doanh chứng khoán,
ngoại tệ và vàng.
Với hệ số tạo tiền của kênh tín dụng ngân hàng, nếu số
tiền các TCTD đã bỏ ra mua trái phiếu doanh nghiệp được tính vào dư nợ
cho vay nền kinh tế thì con số này lớn hơn, gây áp lực không nhỏ lên lạm
phát.
Để giảm thiểu rủi ro thanh khoản hệ thống, rõ ràng,
minh bạch số liệu cấp tín dụng cho nền kinh tế, NHNN nên sớm có văn bản
hướng dẫn về nghiệp vụ cấp tín dụng khác, đặc biệt là hình thức mua trái
phiếu doanh nghiệp, hoạt động ủy thác để làm cơ sở pháp lý xử lý các
vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai Luật TCTD năm 2010 và thực
tiễn hoạt động của các TCTD.
Trí Dũng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét