(TBKTSG)
- Quyền con người, quyền cơ bản của công dân (gọi chung là quyền hiến
định) là một trong những nội dung đổi mới lớn nhất của Hiến pháp 2013.
Đằng sau việc thay đổi tên chương và đưa từ vị trí thứ năm lên vị trí
thứ hai trong Hiến pháp là sự thay đổi tư duy: (1) Quyền hiến định không
còn bị coi là sản phẩm ban phát của Nhà nước, ngược lại Nhà nước có
được ngân sách là do nhân dân đóng thuế, Nhà nước có được quyền lập pháp
là do cả cộng đồng thống nhất trao cho; (2) Quyền hiến định không phải
là thứ có thể tùy tiện cắt xén bởi bất kỳ cơ quan nhà nước nào, mà việc
hạn chế quyền hiến định phải tuân theo những nguyên tắc, mục đích nhất
định và chỉ một số loại văn bản mới được phép hạn chế quyền hiến định.
Quyền hiến định có thể bị hạn chế bởi văn bản nào?
Nếu như Hiến pháp 1992 cho phép bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng có
quyền can thiệp vào quyền hiến định, bằng mọi loại văn bản pháp luật
bằng cách gắn thêm đằng sau mỗi quyền hiến định cái đuôi “theo quy định
của pháp luật”, thì điều 14 khoản 2 Hiến pháp 2013 đã chỉ rõ phương tiện
được phép hạn chế quyền hiến định:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật (TG: của Quốc hội) trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”.
Tuy nhiên, sáu tháng sau khi Hiến pháp có hiệu lực, vẫn còn rất nhiều
trường hợp các quyền hiến định của công dân bị hạn chế không phải bằng
luật mà bằng những văn bản dưới luật.
Xin đơn cử: quy định trong thời bình thí sinh trúng tuyển đại học vẫn
phải nhập ngũ nếu có giấy báo nhập ngũ tại điều 1 khoản 1 Thông tư liên
tịch số 13/2013/TTLT-BQP-BGDĐT, ngày 22-1-2013 của Bộ Quốc phòng và Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
Mặc dù quy định này không trái với điều 29 khoản 5 Luật Nghĩa vụ quân
sự, nhưng đã thay đổi tập quán ưu tiên quyền học tập trong thời bình đã
được xác lập gần 30 năm nay. Điều đáng nói, quy định này trực tiếp đụng
chạm đến mối quan hệ giữa quyền học tập tại điều 39 Hiến pháp và nghĩa
vụ quân sự tại điều 45 khoản 2 Hiến pháp.
Đây là một mối quan hệ rất quan trọng, ảnh hưởng tới quyền hiến định
của hàng triệu thí sinh trúng tuyển đại học hàng năm, cần được minh định
bằng luật, chứ không nên thay đổi quan hệ này chỉ bởi một thông tư.
Nghị định “không đầu” (1) có hợp hiến?
Theo điều 14 khoản 2 Hiến pháp 2013, quyền hiến định chỉ có thể hạn chế
bởi luật; không thể dùng một nghị định để trực tiếp hạn chế một quyền
hiến định.
Tuy nhiên, điều 14 khoản 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật lại
cho phép dùng nghị định để thay thế luật, pháp lệnh, nếu đó là vấn đề
cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh.
Điều này có nghĩa, Chính phủ có thể sử dụng điều 14 khoản 4 này để trực
tiếp hạn chế quyền hiến định bằng nghị định mà không cần luật hay pháp
lệnh, miễn rằng Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép (2). Cắt xén quyền
hiến định đến điểm nào thì phải dừng?
Quyền hiến định vô cùng rộng rãi, đẹp đẽ và lấp lánh, nhưng cũng vô
cùng chung chung. Trong số này, có những quyền tự thân nó có thể đi vào
cuộc sống ví dụ như quyền sống, quyền tự do tín ngưỡng. Tuy nhiên đa
phần các quyền hiến định cần được thể chế hóa bằng luật để bảo đảm việc
sử dụng quyền hiến định của người này không xâm phạm đến quyền hiến định
của người khác; đặc biệt trong trường hợp có những cặp quyền hiến định
tồn tại trong thế “cạnh tranh” lẫn nhau.
Điều này có nghĩa, sau khi ban hành luật để hạn chế, điều chỉnh các
quyền hiến định, đối với một số loại quyền, cần được tiếp tục chi tiết
hóa bởi các văn bản dưới luật. Mỗi một cấp, một lần ban hành văn bản
hướng dẫn sẽ giống như một “nhát kéo”, mà quyền hiến định là tấm vải.
Nếu không có người “thợ may” thì tấm vải không trở thành quần áo hữu
dụng nhưng “thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ”, những nhát kéo của “thợ may”
sẽ không tránh khỏi sự tùy tiện, nếu không có tiêu chí giới hạn. Điều gì
sẽ xảy ra nếu quyền hiến định bị thu hẹp dần qua các nhát kéo (luật,
nghị định, thông tư...) đến mức giá trị cơ bản của quyền hiến định không
còn? Lúc đó quyền tự do hiến định sẽ mất hết ý nghĩa, giống như một
điều khoản vô hiệu trong hợp đồng có thể khiến cho toàn bộ phần hợp đồng
còn lại trở nên vô hiệu, nếu đó là “điều khoản cốt lõi”.
Ví dụ: nếu cấm nhà báo tường thuật lời của đại biểu tại Quốc hội hay
lời của luật sư tại tòa án, thì quyền tự do ngôn luận đã bị hạn chế đến
mức mất hết ý nghĩa.
Chính vì vậy, việc thể chế hóa, chi tiết hóa các quyền hiến định, ngoài
việc phải phục vụ các mục đích tại điều 14 khoản 2 Hiến pháp, thì việc
thể chế không được phép làm cho quyền hiến định mất ý nghĩa cơ bản, việc
hạn chế quyền hiến định không được chạm vào vùng lõi của mỗi quyền hiến
định.
Hay nói một cách hình tượng hơn, thì khi thân chủ là nhân dân giao tấm
vải quyền hiến định quý giá của mình cho thợ may nhà nước với nhiệm vụ
may ra chiếc quần âu tiện dụng, thì thợ may có quyền tùy nghi thiết kế,
thêm túi, bóp ống, xẻ tà... nhưng không bao giờ được phép tùy tiện cắt
xén đến mức “cái đũng quần âu không còn”.
Nếu pháp luật đặt ra quá nhiều điều cấm, đến mức hạn chế quyền tự do mà
người dân thực tế được hưởng thì quyền hiến định đã mất hết ý nghĩa. Và
nên nhớ, đằng sau mỗi lệnh cấm, luôn mở ra một cơ hội tham nhũng cho ai
có quyền thực thi hay bỏ qua lệnh cấm cho một ai đó.
(*) Khoa Luật, Đại học Kinh tế TPHCM
(1) Nghị định thông thường có một luật hay pháp lệnh ở bên trên để
hướng dẫn, nhưng loại nghị định này không có cái gì ở trên đầu, nên được
giới khoa học pháp lý gọi là nghị định không đầu.
(2) Nhân dân trao quyền lập pháp cho Quốc hội thì Quốc hội phải
thực hiện, Hiến pháp không có điều khoản nào cho phép Quốc hội được tiếp
tục trao quyền lập pháp cho cơ quan khác ngoài Quốc hội.
Hiến pháp vẫn phải chờ?
|
Thời báo Kinh tế Sài Gòn
|
Thứ Hai, 23/6/2014, 09:48 (GMT+7)
|
|
|
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký lệnh công bố Hiến pháp 2013. Ảnh TTXVN |
(TBKTSG) - Bản Hiến pháp mà Quốc hội đã thông qua vào năm ngoái và đã
bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm nay là kết tinh của một quá trình kéo dài
trong nhiều năm, trải qua nhiều cuộc thảo luận, góp ý, kể cả tranh luận
rất sôi nổi trên các diễn đàn, từ tổ dân phố đến Quốc hội. Cho dù có
thể vẫn còn nhiều ý kiến chưa được tích hợp vào bản Hiến pháp chính thức
nhưng đây được xem là một cột mốc quan trọng trong đời sống chính trị
của nước ta.
Thế nhưng, theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường chỉ xét riêng về
những điều khoản liên quan đến quyền con người, quyền công dân đã thấy
có 29 luật, pháp lệnh cần được sửa đổi bổ sung, ban hành để phù hợp với
quy định của Hiến pháp. Trong số 29 luật, pháp lệnh này có 7 luật, pháp
lệnh chưa được đưa vào chương trình chỉnh sửa của năm 2015. Có nghĩa là
đến năm 2016 vẫn có thể còn những luật và pháp lệnh trái với Hiến pháp
mà nhân dân cả nước dày công xây đắp.
Không lẽ từ giờ đến đó, Hiến pháp mới sẽ có những điều khoản tạm thời chưa có hiệu lực?
Xin lấy ba ví dụ liên quan đến môi trường kinh doanh. Điều 33 Hiến pháp
quy định “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề
pháp luật không cấm”. Điều 14 Hiến pháp cũng quy định “quyền con người,
quyền công dân (trong đó có quyền tự do kinh doanh) chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết, vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”.
Điều đó có nghĩa điều 159 của Bộ luật Hình sự về tội kinh doanh trái
phép không còn đúng nữa. Đại biểu Nguyễn Văn Phúc (Hà Tĩnh) đã đặt câu
hỏi rất xác đáng: Nếu không phù hợp [với Hiến pháp] thì cần bãi bỏ hoặc
nên được giải thích và áp dụng như thế nào trong khi Bộ luật Hình sự
chưa được sửa đổi. Có cần trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết
giải thích vấn đề này hay không?
Một ví dụ khác. Điều 15 Hiến pháp có nói: “Việc thực hiện quyền con
người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Trong khi đó điều 258 của Bộ
luật Hình sự thì liệt kê thêm “tổ chức” trong các đối tượng bị xâm phạm
lợi ích (tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân). Rõ ràng Bộ luật
Hình sự cần phải sửa đổi để phù hợp với Hiến pháp nhưng từ nay cho đến
khi bộ luật này được sửa đổi thì giả thử có người xâm phạm lợi ích của
tổ chức thì sao? Xử như thế nào?
Ngay cả vấn đề đang được Quốc hội thảo luận sôi nổi vào cuối tuần trước
là lấy phiếu tín nhiệm, nên làm một hay hai lần trong suốt một nhiệm
kỳ; lấy phiếu tín nhiệm nên chỉ có hai mức hay vẫn ba mức (tín nhiệm
cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp).
Nhưng có lẽ các đại biểu quên rằng Hiến pháp mà họ mới thông qua vào kỳ
họp trước chỉ quy định một khái niệm mà thôi: đó là Quốc hội có nhiệm
vụ “Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn”. Hiến pháp hoàn toàn không đề cập đến chuyện lấy phiếu tín
nhiệm; vì sao các đại biểu vẫn bàn để ra một nghị quyết có thể sai tinh
thần của Hiến pháp?
Đây là một vấn đề rất quan trọng và thiết thân đối với cuộc sống của
tất cả mọi người dân. Thiết nghĩ Quốc hội cần có tiếng nói chính thức:
Hiến pháp có phải chờ luật thì mới có hiệu lực hay không? |
|
Tại sao cộng sản tồn tại lâu?
Son Tran
" CỦNG BỞI THẰNG DÂN NGU QUÁ LỢN CHO NÊN QUÂN ẤY MỚI LÀM QUAN" -Tản Dà- * Những gì độc ác, bẩn thỉu của cộng sản, những người khác đã nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ mình cũng không cần nhắc lại. Tôi chỉ nghĩ đến một điều, cái gì đã làm cộng sản tồn tại lâu như thế? Ngoài
sự cấu kết quyền lực – quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản đã
làm gì để chúng ta thành ra một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống
dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm nay? Ngoài sự mafia, côn đồ, trấn áp
bằng sợ hãi, giáo dục một cách ngu dân ra, chúng còn làm gì nữa? Ai
từng học luật đều biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh được,
thì hành vi con người sẽ phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức. Pháp luật
không theo con người lên giường, vào toa-lét, xuống bếp. Nhưng đạo đức
theo ta khắp nơi, tận trong ngõ ngách tâm hồn. Pháp luật cũng không ép
tạo ra đạo đức. Chính sự vô thần vô thánh, không thừa nhận đức tin đã
hun đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người ta ăn, đút
sữa độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ,… Vì những người
này họ không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp
luật. Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không
sợ quả báo, không sợ bị đày xuống địa ngục,…thì họ còn sợ gì nữa? Việc gì mà họ không dám làm? Còn
những kẻ yếu không có niềm tin là có Phật, có Chúa, có Thánh Allah luôn
soi sáng mình, giúp đỡ mình, ngự trị trong mình, thì họ còn biết dựa
vào đâu để tìm lại niềm lạc quan mà sống? Mà tranh đấu để tự tìm lấy giá
trị sống thiêng liêng mà đấng tạo hóa đã ban cho mỗi chúng ta? Tôi có
cảm giác như mình đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang vu,
hỗn loạn về vật chất – nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như thế
không? Giữa sự hỗn loạn và hoang vu ấy, cái ác sẽ luôn luôn ngự trị, kẻ
có sức mạnh sẽ luôn trấn áp chúng ta. Chúng ta – những kẻ được đến
trường nhưng thật ra thất học, những kẻ nghĩ mình lương thiện nhưng thật
ra không có lương tri, những kẻ đủ ăn mặc nhưng thật sự chưa hề nếm mùi
vị hạnh phúc, những kẻ đọc sách – nghe nhạc mỗi ngày nhưng không biết
đó chẳng phải là nghệ thuật đích thực – một nền nghệ thuật có thể soi
sáng tâm hồn ta chứ không phải ru ta ngủ trong quên lãng. Những kẻ hoang
mang không biết tin ai, không hiểu nên làm gì cho đúng. Lúc đó, lúc hỗn loạn và hoang vu đó, anh cộng sản xuất hiện và nói: Đời chúng mày chỉ cần độc lập – tự do – hạnh phúc. Chúng
ta tưởng thế là hay ho lắm! Dù nền độc lập này có mang lại tự do không?
Có hạnh phúc không? Hay chúng ta đang cúi đầu nô dịch cho ai đây? Chúng
ta thực chất đang sống thế nào đây? Và đang để lại cho con cháu chúng
ta di sản gì? Chúng ta đeo bám theo họ, quên cả chính bản thân mình, một
con người, cần phải sống sao cho đúng nghĩa, đúng phẩm cách, hành động
đúng theo những gì mà một con người có lương tri cần phải hành động. Bạn
có đang tự hào vì mình là người việt nam không? Hỡi những con người ấu
trĩ mang trong mình một đinh ninh sắt đá là tôi rất tự hào vì tôi là
người việt nam “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất,
đoàn kết thương yêu nhau,…” đã từng đấu tranh thắng Mỹ, các bạn không
thấy điều đó nó hết thời rồi à? Ta thắng Mỹ để có một xã hội phồn vinh,
một dân tộc được tôn trọng. Chứ còn thắng Tàu, thắng Pháp, thắng Mỹ,
thắng khắp nơi… Mà ngày nay những kẻ ta từng thắng đó, nó coi chúng ta
còn không hơn con chó thì cái chiến thắng đó nhắc tới làm chi cho thêm
nhục? Mặt phải, chúng ta ra rả trên báo mỗi ngày là “Mỹ đã đến biển Đông”, “bà
Hillary dọa TQ không nên gây hấn”,.. để mong lòng dân yên ổn. Mặt trái,
chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ những lớp cán bộ đã từng được Tàu đào
tạo để cám ơn họ đã “dạy dỗ” cả đám chóp bu việt nam. “Đĩ” chưa từng
thấy! Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính quyền việt nam hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót. Lá mặt lá trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh? Còn dân việt nam thì sao? Dám
cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào xâm lược việt nam nữa không?
Mà cầm súng để làm gì? Kết quả của gần 40 năm độc lập, ai cũng thấy cả
rồi, không cần nói nữa. Và cả bọn hèn hạ chúng ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử. (SƯU TẦM)
MỘT “HỒI KÝ SONG ĐÔI”
CHÂN THỰC VÀ SINH ĐỘNG
(Đọc Chúng tôi đã sống như thế của PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết,
NXB Tri Thức, 4-2013)
Trung Sơn
(Bài đăng trên báo Thừa Thiên – Huế (Cuối tuần) số 747 ra ngày 18/5/2014)
—o0o—
Có lẽ nhiều bạn đọc chưa biết tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, chính là phu nhân của nhạc sĩ Phạm Tuyên, một chuyên gia đầu ngành về giáo dục mầm non, với hàng chục công trình nghiên cứu đã được xuất bản.
Trong “Lời giới thiệu”, nhà thơ Trần Đăng Khoa gọi đây là một “cuốn sách đặc biệt”; cũng có thể gọi đây là “hồi ký song đôi”, do Nguyễn Ánh Tuyết đã dành rất nhiều trang
“viết thay” cho Phạm Tuyên. Bản thân cuộc đời tác giả (1936-2009),
xuất thân từ một gia đình “cách mạng nòi” ở Quảng Bình (bố mẹ của
bà đều là cán bộ tiền khởi nghĩa), lại về làm dâu quan Thượng thư
Phạm Quỳnh với án tử tháng 8-1945 tại Huế, hơn 60 năm qua vẫn đang
chờ “lịch sử đánh giá” (**) một cách chính thức, công
bình. Rồi những cuộc “trường chinh” từ chiến khu “Bình Trị Thiên
khói lửa” đến các trung tâm đào tạo nhân tài (Trường Phan Đình
Phùng Hà Tĩnh, Khu học xá Nam Ninh Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa
học Giáo dục Liên Xô) để không ngừng bổ sung kiến thức, trở thành
nhà giáo mẫu mực cho hầu hết cán bộ đầu ngành giáo dục mầm non
của đất nước trong mấy chục năm qua, đã là một thiên tiểu thuyết có
đủ mọi cung bậc tình cảm, gợi nghĩ đến rất nhiều vấn đề có ý nghĩa
lâu dài. Đó là truyền thống gia đình, là thái độ của người lãnh
đạo đối với trí thức, là quan niệm về giáo dục tuổi mầm non…
Một lần, Trường Nguyễn Ái Quốc mời
Nguyễn Ánh Tuyết đến nói chuyện về tâm lý trẻ em… Trước các cán bộ
cao cấp, có người là Trung ương ủy viên, nhiều người là Bí thư
Tỉnh ủy, Nguyễn Ánh Tuyết, sau chút ái ngại đã “phủ đầu” bằng
một câu đầy ấn tượng: “Có ba thảm họa mà thế giới loài người ngày nay đang hết sức sợ hãi, đó là thiên tai, chiến tranh và… trẻ em hư!”. Thính giả đã bị thuyết phục khi chị phân tích việc giáo dục trẻ em không phải là chuyện “đàn bà con trẻ” mà chính là “chiến lược con người”.
Nếu những trang viết trong chương “Đường
vào khoa học” thể hiện rõ nét chân dung một trí thức có ý chí
mạnh mẽ, luôn thao thức, trăn trở vì sự nghiệp chung, thì phần ghi
lại cuộc đời và hoạt động âm nhạc của Phạm Tuyên là một “biên niên”
đầy đủ và sinh động nhất quá trình sinh thành, phổ biến cùng những
“dư âm” 700 ca khúc của ông, trong đó có những bài đứng vào hàng
đầu các bài hát hay nhất cũng là tác phẩm được phổ biến rộng rãi
nhất và có tuổi thọ cao nhất về nhiều đề tài quan trọng từ bài
hát Tiến lên Đoàn viên (viết từ năm 1954) và Chiếc đèn ông sao (đề tài thiếu nhi) cho đến các bài hát về lịch sử, đất nước như Đảng đã cho ta cả một mùa xuân, Chiếc gậy Trường Sơn, Như có Bác trong ngày đại thắng…
Lý giải việc một nghệ sĩ có hoàn
cảnh gia đình “đặc biệt” như Phạm Tuyên vẫn sáng tác được nhiều ca khúc
hay như thế, Nguyễn Ánh Tuyết viết: “… chính là anh đã xác định cho mình một lẽ sống cao đẹp mà suốt đời anh nguyện đi theo”. Cũng
thật là đặc biệt, một nhà khoa học về tâm lý giáo dục lại có không
ít trang viết phân tích về nghệ thuật âm nhạc thấu đáo; đó là chưa
nói đến lợi thế “người nhà”, được sống gần gũi bên nhạc sĩ, Nguyễn
Ánh Tuyết đã chứng kiến những thời khắc người nghệ sĩ rung động
viết nên các tác phẩm để đời.
“…Nhớ lại đúng vào thời điểm 21 giờ
30 đêm 28-4-1975, khi nghe bản tin thời sự loan báo Nguyễn Thành
Trung, một trung úy phi công “ngụy” đã ném bom vào sân bay Tân Sơn
Nhất, một niềm xúc động dâng trào với linh cảm là chẳng bao lâu nữa
thôi thì Sài Gòn và cả miền Nam sẽ được giải phóng. Đêm hôm ấy,
tôi thấy anh bồi hồi khác thường, trên tay cầm mẩu giấy và chiếc
bút chì ra đứng đầu cầu thang, nơi đó có một bóng đèn chiếu
sáng, ngoài trời lâm thâm mưa. Anh cứ đứng đó ghi xong cả giai
điệu và lời ca của bài hát Như có Bác trong ngày đại thắng
để không phá giấc ngủ của vợ con (vì nhà rất chật)… Bài hát được
sáng tác trong một khoảnh khắc ngắn ngủi vào cái đêm 28-4-1975,
nhưng nói cho chính xác thì nó được sinh ra từ khoảnh khắc đó
cộng với cả cuộc đời anh…”. (Tr.260)
Một điều cũng rất đáng kể là hồi ký
của Nguyễn Ánh Tuyết không né tránh những sự thật nghiệt ngã,
không chỉ của “cụ Phạm” mà cả người anh trai – Nguyễn Thanh Huyên (bút
danh Nguyễn Kiến Giang). Từ 19 tuổi, anh đã là bí thư huyện Lệ Thủy, sau
1954, trở thành một nhà nghiên cứu lý luận đầy triển vọng, được cử làm
Phó Tổng biên tập Nhà xuất bản Sự Thật, nhưng vì mạnh dạn nêu những vấn
đề mới, bị xem là “trái chiều”, anh đã “mất hết”!…
Thật đáng quý, là mặc dù những người
thân của tác giả bị vướng vào hoàn cảnh thật oái oăm, những trang
sách của Nguyễn Ánh Tuyết không hề có một dòng trách móc hay
giận hờn, mà luôn tràn đầy niềm tin yêu trong trẻo và cả vẻ đẹp
của sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ nhỏ như hầu hết những bài hát
của Phạm Tuyên. Có lẽ chính là sự trùng hợp đó đã gắn kết hai con
người xuất thân từ hai đối cực suốt hơn nửa thế kỷ và Nguyễn Ánh
Tuyết có thể “viết thay” hồi ký cho Phạm Tuyên bắt đầu từ “lễ cưới
vàng” tổ chức vào mùa xuân 2007, những trang viết chân thật, sinh
động đến mức chính Phạm Tuyên đã phải thốt lên: “… Nhiều bài mình viết xong rồi quên. Thế mà bà ấy nhớ. Nhớ rồi ghi chép rất tỉ mỉ! Mình đọc cảm động quá!”. Hẳn là vì thế mà nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết: “Tôi tin, rất tin cuốn sách sẽ làm bạn đọc yêu thích”
T.S.
Sau vụ án xử Cụ Phạm, khi gặp
hai người chị của Phạm Tuyên tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “Cụ Phạm là người của lịch sử, rồi sẽ được lịch sử đánh giá
lại”. Những năm gần đây, nhiều tác phẩm của Cụ Phạm đã được tái bản,
không ít nhà nghiên cứu đã đánh giá cao những đóng góp của Phạm
Quỳnh đối với văn hóa dân tộc, nhưng cũng có ý kiến trái chiều…
Những chữ in nghiêng trong bài đều trích từ tác phẩm của Nguyễn Ánh
Tuyết.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét