Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

Bài viết đáng chú ý: ĐẤT NƯỚC CÓ BAO GIỜ BUỒN THẾ NÀY CHĂNG ?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình là bất khả xâm phạm?

Cùng với cơn bão phản ứng đối với thủ tướng đang đột ngột ập đến, đã loan truyền một dự đoán về khả năng Nguyễn Văn Bình có thể trở thành con cờ đầu tiên bị “hy sinh”.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Ảnh: Hoàng Hà
Thời tiết bất thường
Song chủ đề của cơn bão này có lẽ không phải phát xuất từ hành động gây hấn của nhà cầm quyền Trung Quốc. Mà nó đến bởi sự lệch pha đang ngày càng cực đoan giữa các phe phái chính trị ở Việt Nam.
Tin tức về việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có khả năng phải rời bỏ chức vụ của ông trước nhiệm kỳ đã không còn là của hiếm ở Thủ đô. Vào những ngày qua, thông tin “tuyệt mật” này còn được cả giới đầu tư ngân hàng TP.HCM biết đến, mà bằng chứng là một số khách hàng lớn đã bắt đầu chiến dịch rút tiền mặt khỏi Ngân hàng Phương Nam – một trong những địa chỉ vẫn được giới chức chính trị liệt vào loại chân rết của nhóm Nguyễn Đức Kiên, Nguyễn Thanh Phượng…
Thậm chí một vài nguồn tin còn cho biết Nguyễn Tấn Dũng có thể phải chia tay với cái ghế “Chúa Trịnh” của mình ngay tháng 8/2012, sau một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm trong Bộ Chính trị Đảng – nơi người đang nhắm đến chức vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam chỉ nhận được 4/13 phiếu ủng hộ tiếp tục chấp nhiệm.
Sự thay đổi khá bất ngờ về nhân sự chủ chốt trong đảng đã khiến cho con tàu chính quyền chao đảo. Đó và đây đang diễn ra một cuộc “chạy loạn” khá quyết liệt. Không có gì dễ hình dung hơn việc những cấp dưới thân cận và thường xuyên phục vụ cho quyền lợi nhóm của gia đình Nguyễn Tấn Dũng đang phải tìm đường thoát thân, trước khi nghĩ đến một bến đỗ mới và cũng trước lúc mọi chuyện trở nên tồi tệ không lường trước.
Một trong những người được xem là thủ hạ thân tín nhất của thủ tướng đương nhiệm là Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình.
Cùng với cơn bão phản ứng đối với thủ tướng đang đột ngột ập đến, đã loan truyền một dự đoán về khả năng Nguyễn Văn Bình có thể trở thành con cờ đầu tiên bị “hy sinh”. Nếu hệ lụy này xảy ra, giới quan sát có thể dễ hiểu những nguồn cơn nào ẩn sâu bên trong đã dẫn đến như thế.
Cơ hội đầu tiên
Vào tháng 8/2011, Nguyễn Văn Bình đã được bầu chọn làm thống đốc Ngân hàng Nhà nước, từ cương vị cấp phó trước dó. Người tiền nhiệm của Bình – ông Nguyễn Văn Giàu – đã được thuyên chuyển sang một ủy ban phụ trách về kinh tế của Quốc hội, cũng là nơi mà tiếng nói trở nên lơ lửng.
Bối cảnh nhậm chức của tân thống đốc Ngân hàng Nhà nước lại trùng với khoảng thời gian mà các thị trường đầu cơ ở Việt Nam chỉ tồn tại duy nhất một con sóng vàng. Cũng bởi thế, thị trường này cần được xem là câu chuyện đầu tiên, khởi đầu cho một nhiệm kỳ đầy biến động của Nguyễn Văn Bình.
Thử thách đầu tiên của thời gian ấy lại là nạn đầu cơ vàng mà đã từng hiện hình không biết bao nhiêu lần chỉ tính từ năm 2000 đến nay.
Trong khoảng thời gian 11 năm từ năm 2000 đến năm 2011, trong khi giá vàng thế giới tăng 7,6 lần thì giá vàng trong nước đã làm được điều kỳ diệu hơn thế nhiều: chẵn 10 lần.
Năm 2011 cũng có thể là thời gian lập đỉnh của sóng vàng. Sóng tăng cuối cùng diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9/2011, với giá vàng quốc tế tăng 32%, còn giá vàng trong nước vọt lên đến 40%, từ mức 35 triệu đồng/lượng lên đến 49 triệu đồng/lượng.
Trước sự sốt ruột của dư luận xã hội về “cơn điên” giá vàng cùng độ chênh cao đến 4-5 triệu đồng/lượng so với giá thế giới, vào cuối tháng 8/2011, vị tân thống đốc đã nêu ra một “tiêu chí” mà được giới phân tích và toàn bộ báo giới ghi nhớ: chỉ cần giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới 400.000 đồng/lượng là vàng có dấu hiệu bị đầu cơ. Nếu bình ổn giá vàng để tránh đầu cơ, sẽ giữ giá trong nước cao hơn thế giới không quá 400.000 đồng/lượng.
Nhưng sau khi thông điệp “400.000” được phát đi từ tân thống đốc, cho đến cuối năm 2011 vẫn không hề xuất hiện một động tác kiểm tra, thanh tra nào từ phía cơ quan Ngân hàng Nhà nước, trong khi giá vàng thoải mái nhảy múa trên thị trường tự do. Mức giá niêm yết hàng ngày lại khởi phát từ một nơi được giới đầu tư nhận thức là “hậu phương” của Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Công ty Vàng bạc đá quý SJC. Đây cũng chính là công ty trực thuộc Ban Tài chính quản trị của Thành ủy TP.HCM.
Để sau gần một năm kể từ ngày thống đốc Nguyễn Văn Bình nhậm chức, điều có thể được gọi là “dấu hiệu đầu cơ” đã thường vượt gấp 10 lần chiều cao của chính nó.
Chiều cao đó lại là chiều sâu lợi nhuận của kẻ đã tạo ra nó.
Dù chưa có một thống kê nào của Ngân hàng Nhà nước được công bố về độ chênh cao bình quân giữa giá vàng trong nước so với giá thế giới, nhưng hiện tượng mà bất kỳ người dân mua bán vàng nào đều dễ nhận thấy là độ chênh cao này luôn từ 3-4 triệu đồng/lượng.
Vào nửa cuối năm 2011, uy tín của Ngân hàng Nhà nước và cá nhân Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã có phần sút giảm, bởi cùng với nạn đầu cơ vàng tái diễn liên tục là những hoài nghi đầu tiên về cái gọi là “trò chơi thanh khoản” mà cơ quan này đã áp đặt trên thị trường liên ngân hàng nhằm phục vụ cho ý đồ của nhóm tài phiệt thâu tóm các ngân hàng nhỏ.
Thậm chí cơ hội của Ngân hàng nhà nước nhằm cải thiện hình ảnh của mình trong tâm trí người dân càng trở nên nhỏ bé khi vào những ngày giá vàng trở nên điên loạn nhất, lời khuyến cáo của Ngân hàng Nhà nước về nạn đầu cơ đã chỉ được phát đi sau khi SJC cùng một số doanh nghiệp vàng khác đã “thoát hàng” đến hơn hai chục tấn vàng với giá rất cao.
Song cơ hội của Ngân hàng Nhà nước càng ít đi bao nhiêu thì làn sóng dư luận xã hội về lợi ích nhóm lại càng lan truyền nhanh và rộng bấy nhiêu. Vào thời gian này, cụm từ “nhóm lợi ích” đã bắt đầu được nhắc đến, bàn luận một cách công khai và dường như không chỉ dừng ở những hàm ý về hố phân cách xã hội.
“Lấy nó nuôi nó”
Một cơ hội khác cũng đến với vai trò tân thống đốc vào đầu tháng 10/2011. Trong bối cảnh giá vàng trong nước lao dốc cùng giá thế giới, Ngân hàng Nhà nước cùng với Công ty SJC và một số ngân hàng được mệnh danh là “Nhóm G” đã phát đi một thông điệp mới: “Lấy nó nuôi nó”, hay còn gọi là giải pháp tạo ra quỹ vàng quay vòng can thiệp thị trường.
Theo giải pháp này, việc can thiệp vào thị trường sẽ thực hiện theo phương châm “hiệp đồng tác chiến” dưới sự chỉ huy của Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng và SJC cùng bán theo một mức giá và liên tục tung hàng cho đến khi giá vàng trở về bình thường. Theo ước tính, quỹ vàng quay vòng của ngân hàng và SJC ít nhất cũng 20 tấn (530.000 lượng vàng). Số vàng này gấp nhiều lần hạn ngạch nhập khẩu vàng mà Ngân hàng Nhà nước từng cấp trong mỗi đợt, vì thế khả năng bình ổn thị trường cao hơn.
Chỉ cần giải pháp này làm được một nửa nội dung của nó, lợi ích nhóm của các chủ thể đầu cơ vàng có thể đã được giảm đi 50%.
Ngay lập tức, giải pháp này được công bố rộng rãi. Một vài chuyên gia thân cận với Ngân hàng Nhà nước còn cho rằng đây là một phát minh mang tính khoa học của cơ quan này. Vài tờ báo phấn khích nhất còn gọi giải pháp mới của Ngân hàng Nhà nước là “toa thuốc đặc trị đầu cơ vàng”.
Tuy nhiên cho đến cuối năm 2011, sau khi giải pháp trên được nêu ra, đã chẳng có bất kỳ sự thay đổi nào.
Sự đổi thay duy nhất chỉ diễn ra đối với các ngân hàng và doanh nghiệp được quyền kinh doanh vàng: sau khi đã được thỏa mãn về quota nhập khẩu vàng và được hứa hẹn cả về cơ chế mở tài khoản giao dịch vàng, mục tiêu ban đầu về bình ổn giá vàng đã bị quên lãng một cách nhanh chóng. Thay vào đó, vẫn là thực trạng găm vàng, niêm yết vàng giá cao, vẫn là chất kích thích tiềm ẩn cho chỉ số lạm phát chưa chịu ngủ yên.
Hoàn toàn khác với thái độ dứt khoát đến bất thường trong công tác duy trì nghiêm trần lãi suất huy động 14%/năm – tiền đề của “trò chơi thanh khoản”, Ngân hàng nhà nước đã chẳng có bất kỳ một đợt kiểm tra đối với hoạt động niêm yết vàng giá cao và nạn đầu cơ hoành hành hàng ngày trên thị trường.
Lời hứa hẹn trước công luận “Sẽ phối hợp với công an để làm rõ đối tượng đầu cơ, làm giá trên thị trường” của tân thống đốc Nguyễn Văn Bình vào cuối tháng 8/2011 đã mau chóng chìm vào dĩ vãng.
Cho tới nay, ngay cả hoạt động nhập khẩu vàng của các doanh nghiệp cũng chưa từng được Ngân hàng Nhà nước công khai theo cách “minh bạch hóa” – một cụm từ mà cơ quan này vẫn thường sử dụng trong các báo cáo của mình.
Nguồn cơn của việc thiếu minh bạch trong cơ chế nhập khẩu vàng, hiểu một cách đơn giản, là một khi người dân nắm được tình hình cung tương đương hoặc lớn hơn cầu, giá vàng trong nước sẽ bắt buộc phải “bám sát giá thế giới”.
Nhưng đã chỉ rất ít công luận dám đề cập đến những bất cập và nghịch lý trên. Một sự áp đặt vô hình đã phủ trùm lên những tờ báo có tính phản biện cao nhất ở Việt Nam, liên quan đến mối quan hệ giữa Ngân hàng Nhà nước với nhóm lợi ích vàng.
Nhưng dư luận cũng là quá đủ.
Người ta còn ngờ rằng giải pháp “lấy nó nuôi nó” của Ngân hàng Nhà nước thực ra chỉ là một bức bình phong giúp cho các doanh nghiệp vàng có thêm thời gian để tiếp tục bán vàng giá cao, bao gồm vàng tự có và lượng vàng đã nhập khẩu, theo phương châm riêng của họ: lấy vàng nuôi vàng.
Tức giá vàng trong nước được các “ông lớn” trong giới kim quý điều chỉnh cuộc chơi theo trình tự: áp giá thấp để thu mua rồi mang đi xuất khẩu trong trường hợp giá thế giới cao hơn; giữ giá trong nước cao, nhập khẩu vàng về bán trong trường hợp giá vàng thế giới thấp hơn!
Trong gần một năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã chơi trò tung hứng bên nặng bên nhẹ: không công khai cơ chế nhập khẩu vàng, không quản lý giá niêm yết vàng, không làm rõ được bất kỳ đối tượng nào đầu cơ vàng, nhưng lại muốn đóng vai trò đạo diễn cho một sân khấu với sự diễn xuất của diễn viên duy nhất mang tên SJC.
Trong khi đó, nạn đầu cơ vàng vẫn tái diễn công khai, thuần bản chất, với tư thế của kẻ độc quyền đầu cơ.
“Lấy dân nuôi nó”?
Đầu cơ vàng có nhiều hình thức và biến tướng đi kèm. Tiếp theo thành công quá dễ dàng đạt được trong chiến dịch thâu tóm các ngân hàng nhỏ, Nguyễn Văn Bình còn đưa ra một đề xuất gây chấn động: hình thành quỹ huy động vàng từ dân.
Vào cuối tháng 10/2011, ý tưởng này lần đầu tiên xuất hiện và đã được một vài tờ báo tung hô. Một số chuyên gia phân tích cũng cho rằng đó là sự cần thiết nhằm dọn dẹp nạn đầu cơ trên thị trường vàng.
Nhưng vào lúc đó, người ta vẫn chưa nhận ra nguồn gốc của đầu cơ vàng không chỉ từ các nhóm đầu cơ nhỏ, mà luôn được tổ chức và kích động bởi những con cá mập lớn hơn nhiều. SJC và một số ngân hàng có quota nhập khẩu vàng như ACB, Eximbank, Vietcombank…, đều là những địa chỉ mà nhóm đại gia ngân hàng nắm quyền chi phối và dễ dàng thao túng. Chỉ một số ít công ty và ngân hàng chủ chốt có đặc quyền kinh doanh vàng đã nắm đến khoảng 85% thị phần vàng. 15% thị phần còn lại được chia cho khoảng 12.000 cơ sở kinh doanh vàng tư nhân trên toàn quốc.
Tuy vậy, kẻ nào đi quá nhanh lại dễ vấp. Cái được gọi là “cơ chế làm giá” quá lộ liễu của các nhóm đầu cơ vàng đã gây phản cảm nơi dư luận và càng làm lộ rõ chân tướng của những kẻ lũng đoạn.
Điểm trùng hợp là cũng trong khoảng thời gian cuối năm 2011, đầu năm 2012, làn sóng phản biện đối với nhóm lợi ích ngân hàng đã dâng lên ngày càng mạnh mẽ trong dư luận và công luận. Những tiếng nói phản biện ban đầu còn lẻ tẻ và chưa tạo được sức thu hút đối với quần chúng, nhưng sau đó đã chĩa dần mũi dùi trực diện vào Thống đốc Nguyễn Văn Bình, thậm chí gián tiếp đề cập đến vai trò và trách nhiệm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Người dân hoàn toàn có lý do để lo ngại rằng, chỉ với công cụ lãi suất mà nhóm lợi ích ngân hàng đã lũng đoạn gần như toàn bộ huyết mạch tín dụng quốc gia, thì nếu đề án huy động vàng được triển khai, nó rất có thể sẽ trở thành một hoạt động lừa mị và lừa đảo mới, không những không bình ổn được thị trường vàng mà con khuyến khích tính đầu cơ tăng cao. Hậu quả của vấn nạn đó là không có gì bảo đảm cho vàng của dân sẽ được ngân hàng bảo quản và trả lại cho dân tương ứng với giá trị đầu vào của nó. Nói cách khác, nếu đã từng có nhiều khoản tín dụng bị Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chân rết của nó làm cho biến mất chỉ bằng những động tác phù phép, thì số phận vàng của dân có lẽ cũng không có quá nhiều khác biệt.
Mở đầu năm 2012, một hiện tượng kỳ quặc đã xảy ra: đề án huy động vàng trong dân của Ngân hàng Nhà nuớc ít được đề cập, để sau đó gần như bị quên lãng.
Vì sao thế?
Chỉ đến gần giữa năm 2012, những thông tin nội bộ mới cho biết: nhóm lợi ích ngân hàng đã phải tạm dừng việc xây dựng và triển khai đề án huy động vàng đầy tham vọng của mình, để dành thời gian đối phó với những thách thức khác.
Trong đó, có cả những thách thức chính trị bắt đầu xuất hiện từ nhóm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đối với cái ghế đã bắt đầu lung lay của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Cái ghế của Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng bắt đầu chao đảo…
“Nhân vật của năm 2011”
Với học vị tiến sĩ khoa học kinh tế và được xem là người có chuyên môn về ngành ngân hàng, Nguyễn Văn Bình đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của dư luận và báo giới, trong bối cảnh nền tín dụng và tiền tệ Việt Nam chìm sâu trong cơn buốt giá lạm phát cùng quá nhiều nguy cơ vừa phát lộ vừa tiềm tàng trên thị trường tiền tệ và các thị trường đầu cơ sau tiền tệ.
Khi năm suy thoái 2011 chưa kết thúc, người vẫn còn được xem là tân Thống đốc của Ngân hàng nhà nước đã được VnExpress, một tờ báo điện tử có lượng truy cập lớn ở Việt Nam, bầu chọn là “Nhân vật của năm 2011”. Cũng cho đến lúc đó, ít ai biết được việc Bình chính là một mắt xích quan yếu nhất mà theo những tin tức tin cậy, nhân vật “bố già” Nguyễn Đức Kiên đã bằng nhiều cách, từ vận động hành lang đến tác động trực tiếp vào khâu tổ chức cán bộ, để kết quả là Bình đã tiếp cận được vị trí ủy viên Trung ương Đảng cùng chức vụ Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Hoạt động vận động trên đã diễn ra vào thời thịnh trị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Với vai trò gần như không thể thay thế trong Bộ Chính trị, tiếng nói của Dũng đã trở nên có tính quyết định về bước đường công danh cho người đệ tử của ông.
Cùng lúc, gương mặt sáng giá của Nguyễn Văn Bình cũng làm nên một lớp sơn tôn tạo cho ông trong con mắt của báo giới. Trong thời gian đầu Bình chấp nhiệm chức vụ thống đốc, không chỉ VnExpress mà một số tờ báo khác đã bày tỏ thái độ nhiệt tình ủng hộ đối với ông, đặc biệt liên quan đến một số vấn đề có tính cải cách quản lý nhà nước đối với thị trường vàng, ngoại tệ và lãi suất mà ông nêu ra.
Khá dễ hiểu là đối với bất kỳ một quan chức nào trong bộ máy chính quyền, người dân cũng chỉ mong ngóng đến sự thay đổi, dù là một chút. Chỉ có điều, không có người dân Việt Nam nào có thể tự tin về một sự đổi thay đất nước như Tổng thống Barack Obama đã làm cho dân tộc Mỹ sau khi thắng cử.
Uy tín của Nguyễn Văn Bình có thể đã đạt đến đỉnh cao chỉ sau hai tháng hành động. Vào đầu tháng 9/2011, quyết định về tái thiết lập trần lãi suất huy động 14% của Ngân hàng Nhà nước và tiếp theo đó là động tác xử lý quyết liệt những vi phạm vượt trần tại một số chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần, đã làm cho dư luận bất ngờ sôi nổi, càng khiến người ta kỳ vọng vào động cơ trong sáng của thống đốc nhằm làm trong sạch ngành ngân hàng – nơi vẫn bị xem là tập trung rất nhiều khuất tất của nạn đầu cơ ngầm, cũng như đã tạo ra hố phân hóa giàu nghèo quá lớn so với khối doanh nghiệp trong hoàn cảnh con tàu kinh tế đất nước đang lao về vực thẳm.
Chỉ có điều, cho đến lúc đó vẫn ít ai nghiệm ra được cái vực thẳm ấy đã được tạo ra bởi một vực thẳm khác.
Vực thẳm khác chính là thị trường liên ngân hàng.
Vực thẳm thanh khoản
Vào đầu năm 2012, trong một hội nghị ngành ngân hàng, giám đốc Ngân hàng BIDV chi nhánh Hà Nội, ông Ngô Văn Dũng, đã cung cấp những thông tin rất tương đồng với dư luận về vấn đề vượt trần lãi suất huy động trong thời gian gần đây: “Trên thực tế, kỷ cương lãi suất huy động trên thị trường ngân hàng chỉ giữ được từ ngày 7/9 đến hết tháng 9/2011. Còn từ tháng 10/2011 đến nay, đặc biệt là tháng 12/2011, thị trường ngân hàng đang phải chịu đựng tình trạng mặc cả lãi suất, song không dễ phát hiện, không dễ tố cáo”.
Phát ngôn trên là thái độ thừa nhận công khai đầu tiên của một quan chức ngành ngân hàng, sau nhiều dị nghị của dư luận nhưng vẫn chưa hề nhận được hồi đáp hoặc lời giải thích nào từ phía lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước.
Dĩ nhiên sự phân hóa trong khối ngân hàng đã không diễn ra một cách bằng phẳng, càng không mang dáng dấp của hình ảnh công bằng mà các quan chức thường diễn thuyết về chủ nghĩa xã hội. Mà thực tế, đó chỉ là một thi trường của loài cá lớn và những con cá bé.
Bị chèn ép cũng là một động lực khiến cho người ta có thể phải tiết lộ về hoàn cảnh của mình vào một lúc bĩ cực nào đó.
Từ giữa tháng 10/2011, đột nhiên lãi suất liên ngân hàng trong thị trường II tăng mạnh. Ban đầu mức tăng đến 16% đã được xem là khá cao. Nhưng sau đó, lãi suất liên ngân hàng đã tái hiện hình ảnh của chỉ số lạm phát trong năm 2011 khi tăng đến 23%. Thậm chí có thời điểm đến 30%.
Thị trường II khi đó được mô tả như một sự hỗn loạn. Những người có thâm niên kỳ cựu trong ngành ngân hàng đều phải thừa nhận là hiếm có một thị trường liên ngân hàng nào trên thế giới lại dễ bị thao túng và dễ chao đảo như ở Việt Nam.
Một sợi dây thòng lọng đã được thắt nút, nhưng không phải với doanh nghiệp đã và đang khát vốn, mà nhắm đến chính một số ngân hàng thương mại nhỏ. Đó cũng là những ngân hàng bị xem là yếu kém, bị dư luận nhỏ to đồn đoán về một danh sách “đen” nào đó của Ngân hàng Nhà nước chứa đựng những ngân hàng như thế.
Tình hình trở nên hỗn loạn trên thị trường liên ngân hàng trong suốt tháng 10/2011. Hàng loạt ngân hàng thương mại nhỏ, dù trước đó chưa từng kêu ca về chuyện “thỏa thuận” lãi suất huy động lên đến 20-25% với khách hàng, lại buộc phải kêu thét về cái giá cắt cổ mà họ phải đi vay từ các ngân hàng lớn.
Vì sao lại xảy ra nạn đói vốn ghê gớm mà đã dẫn đến chuyện kêu khóc như thế?
Một chuyên gia ngân hàng và cũng là thành viên của Hội đồng tư vấn chính sách tài chính và tiền tệ quốc gia – tiến sĩ Trần Hoàng Ngân – vào thời điểm đó đã đánh giá: tác động điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất tái cấp vốn từ 14% một năm lên 15%, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 14% lên 16% mỗi năm, áp dụng từ ngày 10/10/2011 cũng là một nhân tố đẩy lãi suất liên ngân hàng dâng cao. Và một khi lãi suất liên ngân hàng đã tăng cao thì nó cũng giống như cơn bệnh đã lộ ra, tức dấu hiệu lâm sàng của căn bệnh thiếu thanh khoản.
Tất nhiên có nhiều lý do để giải thích cho tình trạng “bất ngờ” thiếu hụt thanh khoản của một số ngân hàng thương mại. Nhưng về mặt thời điểm, rõ ràng chỉ từ khi Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất tái cấp vốn, những ngân hàng bị liệt vào loại “có vấn đề” mới thật sự phải đối mặt với chọn lựa sinh tồn.
Tân thống đốc Nguyễn Văn Bình đã đi nước cờ đầu tiên – một bước đi rất có tính toán và dự cảm nhiều hứa hẹn.
Trong toàn bộ bối cảnh trắng đen lẫn lộn như thế, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã không hề phát ra một nhận định hoặc có chỉ đạo điều chỉnh nào.
Những kẻ tuẫn nạn
Nhưng vào thời gian quý 3/2011, giới phân tích ngân hàng và báo giới hầu như bị hút sự chú ý sang vấn nạn đầu cơ vàng – một địa chỉ vẫn luôn nhận được lời hứa hẹn “sẽ giải quyết” của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, cũng như thị trường ngoại tệ luôn nhấp nhổm thế phá trần của nó. Trên một phương diện khác, báo chí rất thường phản ánh tình trạng đói vốn và sắp rơi vào tình thế kiệt quệ của nhiều doanh nghiệp sản xuất và bất động sản, nhưng lại hầu như quên mất ngân hàng cùng những lợi ích ẩn giấu mới là nguồn gốc sâu xa gây ra những hậu quả ấy.
Chỉ mãi về sau này, nhìn lại và suy ngẫm, người ta mới thấy trong khi đã không có bất cứ một vấn nạn đầu cơ hay khát vốn nào được Ngân hàng nhà nước giải quyết trong thời gian đó, thì lại đã diễn ra những cuộc sáp nhập ngân hàng rất mau lẹ và thành công.
Kết quả của sự thành công đã được trù liệu ấy là một danh sách những ngân hàng nhỏ cần phải được thâu tóm. Lẽ dĩ nhiên, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan lập ra danh sách đó và được thông qua bởi lãnh đạo Chính phủ. Những ngân hàng được lựa chọn cũng đương nhiên phải thỏa mãn điều kiện yếu kém về thanh khoản. Không được bơm vốn, ngược lại còn bị siết chặt bởi một số quy định ngặt nghèo về tỷ lệ dự trữ bắt buộc và những ràng buộc liên quan như tỷ lệ dự phòng rủi ro nợ xấu, số ngân hàng này chẳng mấy chốc đã rơi vào tình trạng mất thanh khoản trầm trọng, có nguy cơ dẫn đến phá sản.
Được “lựa chọn” đầu tiên, vấn đề tồn vong của ba ngân hàng thương mại Ficombank, TinNghiaBank, SCB không phải gì khác hơn là cơn khủng hoảng thanh khoản. Chỉ khi đó, vai trò của Ngân hàng Nhà nước mới thật sự lộ diện bằng việc chấp thuận cho sự hợp nhất của ba ngân hàng này.
Tuy vậy, trò chơi chỉ mới bắt đầu.
Sau trung tuần tháng 10/2011, một sự bất ngờ nữa lại xảy đến khi Ngân hàng Nhà nước nêu ra bốn quan điểm về tái cấu trúc hệ thống –  nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong những năm tới.
Theo Ngân hàng Nhà nước, “sáp nhập ngân hàng là xu hướng tất yếu”.
Chỉ một tuần sau, bài toán xử lý những kẻ đói ăn đã được giải quyết phần nào: 5 hoặc 6 ngân hàng, mỗi ngân hàng sẽ được Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn từ 1.000 đến 5.000 tỷ đồng, và đương nhiên các khoản tái cấp vốn này đều được gắn kèm với điều kiện ngặt nghèo của nó.
Trước đó, những ông chủ của các ngân hàng “có vấn đề” đã không thể hình dung họ bị đẩy vào một tình thế buộc phải “ngửa tay xin bố thí”. Kết cuộc của tình thế này chỉ được nhận ra khi mọi sự đã an bài, khi phần thắng chắc chắn đã nằm trong tay kẻ cầm chịch.
Nhưng lúc đó mọi chuyện đã quá muộn dù chỉ để vớt vát.
Trò chơi thôn tính đã lên đến đỉnh điểm khi một ngân hàng thương mại nhỏ có tên là Phương Nam bị thâu tóm. Sự kiện này đã không được nhiều người để tâm, nếu như nó không dẫn đến một sự kiện lớn hơn nhiều: từ vai trò xếp gần cuối bảng trong tổng sắp ngân hàng về tiêu chí tín dụng, từ vai trò bị thâu tóm, Phương Nam lại được Ngân hàng Nhà nước xếp vào nhóm ưu tiên về tăng trưởng tín dụng, đồng thời trở thành ngân hàng thâu tóm một con cá mập rất lớn là Sài Gòn Thương Tín (Sacombank).
Vào cuối năm 2011, toàn bộ giới đầu tư và các ngân hàng đều xôn xao về vụ việc thâu tóm này, theo một kịch bản mà người ta chỉ có thể hình dung xảy ra ở Phố Wall. Chỉ trong một thời gian ngắn chưa đầy nửa năm, Sacombank đã nằm gọn trong tay của nhóm “bố già” Nguyễn Đức Kiên, cùng với sự chi phối và hỗ trợ của Ngân hàng Bản Việt – nơi Nguyễn Thanh Phượng, con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giữ vai trò chủ chốt.
Đế vương và hành khất
Cho đến đầu năm 2012, vụ việc thâu tóm Sacombank đã hoàn tất. Những lãnh đạo chủ chốt của Sacombank hoặc bị đẩy vào thế làm thuê cho ông chủ mới, hoặc nghỉ hưu non. Tất cả diễn ra một cách hoàn toàn âm thầm và lạnh lùng, như nó phải thế trong bầu không khí “capitalisme sauvage” (chủ nghĩa tư bản dã man) ứng với kịch bản đương đại Việt Nam..
Trong khi đó, tình trạng bĩ cực của các doanh nghiệp đã lên đến gần đỉnh điểm. Tết 2012 đã chứng kiến một sự phân hóa chưa từng thấy từ kể từ mùa Xuân năm 1975 và hơn hẳn hậu quả bi thảm nhưng cào bằng của chiến dịch giá – lương – tiền năm 1985: trong khi ít nhất 80.000 doanh nghiệp phải giải thể và phá sản cùng hàng trăm ngàn công nhân không có đủ vài trăm ngàn đồng để mua vé tàu về quê ăn tết, hầu hết các ngân hàng lại công bố không thương xót số tiền thưởng bình quân lên đến 40-50 triệu đồng cho nhân viên của mình.
Như để vớt vát thể diện đã bắt đầu sa sút của mình từ những dư luận về thâu tóm ngân hàng lẫn thái độ dung túng cho các nhóm đầu cơ vàng lộng hành, vào thời điểm sát tết 2012, Nguyễn Văn Bình đã phát đi một thông điệp về yêu cầu “tiếp tục thắt lưng buộc bụng để kềm chế lạm phát”, cũng như tiếp tục hứa hẹn sẽ “điều hành chính sách tín dụng linh hoạt và uyển chuyển”.
Nhưng từ thời điểm đó trở đi, xã hội đã trở nên dị ứng trước chuỗi ngôn từ phủ dụ của người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước. Ngay cả một tờ báo có khuynh hướng ủng hộ Bình trước đó như VnEconomy cũng dần chuyển sang thái độ hoài nghi.
Hơn bất kỳ một quan chức nào, Nguyễn Văn Bình đã trở thành “Nhân vật của năm 2011” như trang tin VnExpress bình chọn, với những kết quả rõ rệt phục vụ cho nhóm tài phiệt ngân hàng chỉ trong chưa đầy nửa năm nhậm chức.
Thành quả lớn nhất mà nhóm tài phiệt ngân hàng đã đạo diễn trên sân khấu thôn tính có lẽ là cái tên Phương Nam. Từ vị thế một kẻ hành khất, ngân hàng này đã được biến thành một đế vương.
Nhưng bằng chứng cho sự thay lông đổi áo trên lại không bao giờ đến từ những công bố công khai của Ngân hàng Nhà nước hay Văn phòng Chính phủ. Chỉ đến giữa năm 2012, bằng chứng ấy mới được trưng ra bởi một báo cáo chi tiết của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia – một cơ quan tư vấn trực thuộc Chính phủ. Theo báo cáo này và theo quan điểm của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, Ngân hàng Phương Nam cần phải xếp vào loại “tiêu cực”.
Thời điểm hoàn thành báo cáo trên là cuối năm 2011. Tuy vậy, đường đi của bản báo cáo đã bị án ngữ ngay tại bàn làm việc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Từ đó đến nay, sân khấu thâu tóm ngân hàng và nạn hoành hành đầu cơ vàng đã tạm nhường chỗ cho sân khấu chính trị, với mối liên hệ ràng buộc về số phận của người được “tôn vinh” là vị thủ tướng tai tiếng và tham nhũng nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng “Nhân vật của năm 2011”.
Ở một thái cực khác, lại đã xuất hiện những dấu hiệu rút tiền đầu tiên khỏi Ngân hàng Phương Nam của một số đại gia.
Tạm kết, “ông vua béo với anh hành khất gầy chỉ là hai món ăn trên cùng một bàn tiệc” – lời của Hamlet trong vở bi kịch của Shakepeare.
Thường Sơn
CTV Phía Trước
© Tạp chí Phía trước

CT Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói láo không bị đóng thuế

Nguyễn Sinh Hùng, chủ tịch Quốc Hội Việt Nam Cộng Sản thường được gọi là Hùng “hói”, một biểu tượng của tư duy làng xã và thói dối trá, bốc phét không bị đóng thuế.
Cùng với ông thủ tướng lúc nào cũng “quyết liệt”, Hùng hói khi với tư cách là phó thủ tướng thường trực, bộ trưởng Bộ Tài Chính, “tay hòm chìa khóa”, cũng “quyết liệt” không kém. Nhưng càng “quyết” bao nhiêu thì nền kinh tế đất nước càng “liệt” dần, bế tắc...
Hùng “hói” đã từng có nhiều phát ngôn nổi tiếng trong đó có câu “Sai thì phải sửa, làm 10 việc tốt cũng có thể có một việc sai. Nếu cách chức hết thì lấy ai làm việc” (Vneconomy.vn 12/06/2010).
Nhưng đặc biệt nhất vẫn là vụ Vinashin. Ngày 8 Tháng Sáu 2010, khi được các phóng viên hỏi về những lo ngại về hiệu quả kinh doanh tại Vinashin trong kỳ họp Quốc hội, Hùng “hói” cười vô tư, nói: “Tôi thì vẫn chưa lo” (dantri.com.vn).
Nhưng, như một cái chợp mắt, một tháng sau, Tháng Bảy 2010, thông tin về vụ bê bối ở Vinashin bung ra. Vinashin lỗ và thất thoát 4.5 tỷ USD, tương đương 4.5% GDP của Việt Nam! Ðứa con cưng của nền kinh tế Việt Nam, “quả đấm thép” mà Thủ Tướng Ba Dũng định bằng nó để “vươn ra biển lớn” trở thành quả đấm vào không khí.
Ấy vậy, khoảng Tháng Chín 2010, Hùng “hói” vẫn cố gắng thuyết phục Quốc Hội rằng, 2013, Vinashin sẽ có lãi trở lại.

Nguyễn Sinh Hùng. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Tờ Báo Mới viết lúc bấy giờ viết như sau:

“Phó thủ tướng thường trực cho biết việc tái cơ cấu bắt đầu từ năm 2008 bằng việc cắt giảm dự án đầu tư, thu hồi khoản vốn góp ở các dự án khác (từ 106 dự án đến nay chỉ còn 28 dự án). Ðầu năm 2010, tái cơ cấu Vinashin chuyển sang bước 2: Chuyển vận tải hàng hóa sang Vinalines; chuyển công nghiệp đóng tàu phụ trợ chuyên dùng cho ngành dầu khí sang Tập Ðoàn Dầu Khí. Và bây giờ là tái cơ cấu bước 3”.
“Cũng theo phó thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng thì kinh tế đang dần phục hồi, công nghiệp tàu thủy thế giới bắt đầu phục hồi và ngành công nghiệp tàu thủy của chúng ta cũng bắt đầu phục hồi. Việc 130 con tàu vẫn giữ được hợp đồng đã giúp chúng ta cơ cấu tài chính, giải quyết khó khăn. 28 nhà máy đóng tàu hoạt động trở lại. 27 con tàu dở dang đang đóng tiếp tục được triển khai. Doanh thu của Vinashin trong năm 2010 dự kiến đạt khoảng 14,000 tỷ đồng. Ðặc biệt, 23/26 tàu mà Vinashin chuyển giao cho Vinalines đã ra biển chở hàng và có doanh thu”.
“Nếu thị trường vận tải biển phục hồi nhanh, giá cước vận tải biển tăng, giá đóng tàu tăng, nếu chúng ta quản trị kinh doanh tập đoàn tốt thì tình hình sẽ được cải thiện”. “Trước mắt, năm nay Vinashin sẽ vẫn lỗ, sang năm lỗ ít, 2012 sẽ đứng vững, giảm lỗ và năm 2013-2014 sẽ trở lại có lãi”.
Thế là Hùng hói “quyết liệt” bằng cách ký văn bản cho phép Vinashin được huy động 20,000 tỷ đồng, trong đó phát hành 3,000 tỷ đồng trái phiếu, ép các ngân hàng phải cho Vinashin vay 10,000 tỷ trong thời điểm các doanh nghiệp nhỏ và vừa cực kỳ khó khăn vì thiếu vốn và vay 400 triệu USD từ nguồn vốn nước ngoài (vneconomy.vn 25/09/2008).
Loay hoay cùng Nguyễn Tấn Dũng và phe nhóm cứu Vinashin, cho tới Tháng Bảy 2011 Hùng hói được bầu làm chủ tịch Quốc Hội. Coi như chạy bỏ của chạy lấy người, cũng là một cuộc chơi phân quyền trong bộ tứ.
Tháng Mười Một 2011 hãng Elliott Advisors đã kiện Vinashin lên tòa thượng thẩm London về việc đến cuối 2010 và đầu 2011 Vinashin đã không trả được một phần gốc từ 600 triệu USD cho các chủ nợ tổng cộng là 180 triệu USD và 23 triệu lãi. Ðây là tiền vay của ngân hàng Thụy Sĩ Credit Suisse vào Tháng Sáu 2007 bằng cách phát hành 600 triệu USD trái phiếu với kỳ hạn 8 năm. Vì Vinashin là tập đoàn kinh tế nhà nước nên một số chủ nợ đã đòi chính phủ Việt Nam trả thay.
Theo tin được công bố ngày 13 Tháng Ba 2013, Elliott Advisors thôi kiện vì được thỏa thuận rằng, Vinashin sẽ phát hành 623 triệu USD trái phiếu do chính phủ bảo lãnh với kỳ hạn 12 năm (tức là sau khi Ba Dũng và Hùng “hói” đã về “vui thú điền viên”), lãi suất 1%/năm, không trả lãi và gốc hàng năm mà trả một lần cả gốc và lãi khi đáo hạn. Nói cách khác sau 12 năm Vinashin (hoặc nếu Vinashin không trả được thì chính phủ) phải trả tổng cộng 697.76 triệu USD cho những người nắm giữ trái phiếu Vinashin này. Thế là cuối cùng nợ của Vinashin đã được chuyển thành nợ của chính phủ.
Trở thành “Lê Lai cứu Chúa”, ném bùn qua ao, giãn nợ cho Vinashin, Vinalines cũng ngụp lặn trong bê bối.
Vinalines “được phân bổ” khoảng 14,200 tỷ đồng công nợ của Vinashin, tiếp nhận 26 con tàu có tuổi bình quân 20.47 năm và gần 1.500 thuyền viên. Mặc dù phải bỏ ra 4-5 trăm tỷ đồng để thanh toán các khoản nợ nóng, phải đầu tư tiền sửa chữa tàu, trả lương cho thuyền viên, họ vẫn tuyên bố rằng đến năm 2012, 2013 đội tàu sẽ làm ăn có lãi.
Thế nhưng, hiện nay đang có 7 con tàu thuộc biên chế Vinashinlines cùng gần 100 thủy thủ đang mắc kẹt ở nước ngoài. Những người thủy thủ đã nhiều lần gửi đơn kêu cứu về nước do điều kiện sống thiếu thốn và nợ lương nhiều tháng, trong đó có trường hợp 18 tháng làm việc không lương. Theo báo cáo tình trạng các tàu bị bắt giữ của Vinashinlines, tổng nợ gồm nợ lương và tiền ăn phải cho thủy thủ của 6 tàu đang neo tại nước ngoài tính đến ngày 2 Tháng Giêng 2013 là gần 12.6 tỉ đồng. Toàn bộ doanh thu hiện nay đều đã phải cấn trừ nợ với người thuê tàu nên không có tiền để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hỗ trợ cho các thủy thủ đoàn trên tàu đang bị bắt giữ và chờ kế hoạch khai thác. Chính phủ lại tiếp tục ứng vay 200 tỉ đồng giúp Vinashinlines có nguồn để gửi tiền ăn và chi phí sinh hoạt hàng tháng cho các thủy thủ, lộ trình bán tàu dự kiến đến hết Tháng Sáu 2013.
Tuy nhiên, theo báo chí trong nước, khác với Vinashin, nơi mà con số được công bố vào giữa năm 2010 là hơn 86,000 tỷ đồng, số liệu nợ nần của tổng công ty hàng hải thực tế mới chỉ được công bố rải rác ở một số tổ chức tín dụng. Bức tranh đầy đủ nhất cho đến thời điểm này mới chỉ được hé lộ tại dự thảo đề án tái cơ cấu tổng công ty, được Vinalines trình Bộ Giao Thông Vận Tải giữa năm 2012. Ðây là cơ sở để xây dựng đề án chính thức, được thủ tướng phê duyệt hồi đầu Tháng Hai 2013.
Nợ ở công ty mẹ Vinalines không thấm vào đâu so với con số tổng hợp tại các đơn vị thành viên. Ðến Tháng Năm 2012, các công ty con trong hệ thống nợ ngân hàng và các tổ chức tín dụng tổng cộng 61,768 tỷ đồng, tương đương hơn 2.96 tỷ USD. Trong số này khoảng ba phần tư là nợ của các ngân hàng, tổ chức tín dụng nước ngoài, với 2,607 tỷ đồng nợ quá hạn. Tương tự như công ty mẹ, số tiền này cũng được các đơn vị của Vinalines sử dụng chủ yếu vào việc mua sắm tàu trong giai đoạn từ 2005 đến nay.
Riêng trong năm 2012, Vinalines cho biết toàn hệ thống có nghĩa vụ trả tổng cộng hơn 6,275 tỷ đồng tiền nợ. Trong điều kiện khó khăn về khả năng thanh toán, tổng công ty này chỉ có thể trả trước 2,050 tỷ, còn lại “xin tái cơ cấu”.
Về dài hạn, để giải quyết khối nợ gần 3 tỷ USD của cả tổng công ty, Vinalines đề xuất giải pháp chủ yếu là “bán tàu”. Sau khi bán, số nợ còn lại được ước khoảng 6,123 tỷ đồng tiếp tục được doanh nghiệp này xin khoanh, giãn, thậm chí xóa toàn bộ nợ gốc tại các ngân hàng.
Ðối với Vinashin, theo quyết định số 2108/QÐ-TTg ngày 18 Tháng Mười Một 2010 của thủ tướng chính phủ, Vinashin đã được “tái cơ cấu” lần thứ nhất, theo đó chỉ giữ lại công ty mẹ và 42 doanh nghiệp thành viên. Tuy nhiên, hai năm qua, Vinashin vẫn ngụp lặn trong khó khăn và gần đây, đã có thông tin về việc tập đoàn này sẽ được “tái cơ cấu” lần thứ hai, theo đó sẽ tiếp tục thu nhỏ quy mô, chỉ giữ lại công ty mẹ cùng 12 doanh nghiệp đóng tàu và Viện Khoa Học Công Nghệ Tàu Thủy.
Vinalines mới đây đã được chính phủ phê duyệt đề án tái cơ cấu. Theo đề án đã được phê duyệt, Vinalines sẽ tập trung vào 3 lĩnh vực chính là vận tải biển, khai thác cảng biển và dịch vụ hàng hải, trở thành doanh nghiệp nhà nước nòng cốt trong 3 lĩnh vực này. Năm 2012, Vinalines lỗ 2,439 tỷ đồng và dự kiến năm 2013 tiếp tục lỗ khoảng 2,100 tỷ đồng.
Nhưng những con tàu nát của Vinashin-Vinalines không dễ dàng bán tháo, chúng giống như bị thủng nặng, nước chảy vào không có cách nào tát ra ngoài. Mọi ý định bơm tiền của ông thủ tướng và phe nhóm đều không ăn thua.
Ngày 3 Tháng Tư 2013 thứ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải Nguyễn Hồng Trường cho biết do phải đối mặt với muôn vàn khó khăn về thị trường nên hai doanh nghiệp này đã đứng trên bờ vực phá sản (infonet.vn 3/04/13).
Công bố của ông Nguyễn Hồng Trường là cái tát vào sự bốc phét kinh hoàng của Hùng “hói” rằng, “năm 2013-2014 sẽ trở lại có lãi”.
Việc phá sản có thể xảy ra trong năm nay. Bốc phét dây dưa để vớt vát, ngụy biện cho lối làm ăn tùy tiện, không hiệu quả và những mánh mung trục lợi, đã đến lúc chấm dứt. Tất cả các phương tiện được sử dụng lao vào cứu chữa, tái cơ cấu, bơm tiền, miễn thuế, giãn nợ... đã không cứu được cú đắm sâu ngoạn mục của con tàu Vinashin.
Rất có thể Vinashin sẽ thực sự trở thành “đống sắt vụn”, vì chính Hùng “hói”, Ba Dũng và phe nhóm là những người đã vung tiền vay mượn cho mua về đống phế liệu ấy.
Lê Diễn Ðức
(Người Việt)
 

'Đổi quốc hiệu không bằng lo thực chất'

Chuyên gia về luật hiến pháp trong nước nói với BBC rằng việc đổi tên hiệu quốc gia không quan trọng bằng việc làm sao đảm bảo thực chất cho đất nước được hưởng tự do, dân chủ và các quyền con người thực sự.
Trao đổi với BBC hôm 23/4 từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đăng Dung, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng việc để tính từ đi kèm tên nước như hiện nay là 'xã hội chủ nghĩa' có thể không phù hợp vì nó chỉ thể hiện một ước muốn còn ở xa trong tương lai.
Ông nói: "Việc chuyển sang 'Việt Nam Dân chủ Cộng hòa' theo đề nghị của một số nơi như Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, hay thậm chí của một số học giả, tôi thấy rằng có thể là tốt hơn bởi vì chính thể phải phù hợp với điều kiện thực tiễn, ở thực tại.
Xã hội Việt Nam
Chính quyền và đảng đang huy động 'toàn dân' đóng góp cho sửa đổi hiến pháp
"Chứ chế độ chính trị để như trước vì tương lai quá. Hiến pháp đặt ra vấn đề là phải kéo nó về thực tại, giải quyết những gì đang diễn ra ở cuộc sống chứ không phải giải quyết cái gì ở tương lai, ở thời tương lai.
Ông nói ở một số quốc gia, chế độ chính trị vẫn để là 'Vương quốc' hay 'Quốc vương', một thể chế chính trị rất cũ nhưng ở bên trong, tất cả những gì thể hiện trong đời sống của họ lại đều mang danh một chế độ 'dân chủ, cộng hòa' và ông cho rằng đây là một điều tốt.
Chuyên gia luật nhận xét trên thế giới hiện có rất ít quốc gia đề tên hiệu 'Xã hội chủ nghĩa' và cho rằng tên hiệu của Việt Nam như hiện này 'có một cái gì đó hơi xa' với thực tế của đất nước.
Giáo sư Dung cho rằng đổi tính từ trong quốc hiệu trở lại 'Dân chủ, Cộng hòa' có thể là một phương án có nhiều tiềm năng, phù hợp, đồng thời theo ông sẽ không có vấn đề gì sau khi đổi quốc hiệu về cơ bản nói chung cũng như về mặt thừa kế, tiếp tục, xử lý các hệ lụy về pháp lý hay giao dịch quốc tế nói riêng.
Ông nói: "Hiện nay cũng có một số quan điểm khác, việc đổi tên nước có thay đổi về mặt nội dung hay không.
"Hình thức thay đổi thì nội dung có thay đổi hay không thì người ta cũng lo lắng. Anh thay đổi về mặt hình thức nhưng nội dung không thay đổi thì cũng chẳng có nghĩa lý gì cả".

GS Nguyễn Đăng Dung: "Ăn nhau vẫn là phải đổi nội dung thể hiện bên trong cuộc sống của xã hội Việt Nam như thế nào... Thế còn... nếu không có tự do, không có dân chủ thì cũng bằng không"
'Cũng bằng không'
Ông nhấn mạnh: "Ăn nhau vẫn là phải đổi nội dung thể hiện bên trong cuộc sống của xã hội Việt Nam như thế nào, đấy là vấn đề."
"Thế còn... cuộc sống ở bên trong không thể hiện được hình thức ở bên ngoài, nếu không có tự do, không có dân chủ thì cũng bằng không."
Gần đây ý kiến của dư luận và một số học giả trong nước còn cho rằng quốc hiệu cũng thể hiện kỳ vọng về mục tiêu quốc gia hay thể chế hướng tới.
Về hướng đi đổi mới thể chế trong dài hạn của Việt Nam, một nhà nghiên cứu xã hội học trong nước cho rằng nhà nước cần lưu ý các mục tiêu thực chất hơn về công bằng và dân chủ, với trọng tâm ưu tiên đặt vào công bằng xã hội.
Trao đổi với BBC từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đình Tấn, từ Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, nói:
"Công bằng nên đặt trước dân chủ. Dân chủ rất quan trọng, nhưng nếu dân chủ mà không công bằng thì cái dân chủ đó chỉ là lời kêu gọi thôi. Khi có công bằng xã hội, thì khi đó mới có dân chủ, và hai cái đó tương tác với nhau."
GS Nguyễn Đình Tấn (giữa): "Trong tương lai xa, Việt Nam cũng sẽ đi vào quỹ đạo chung, quỹ đạo bình thường của nền văn minh... VN đang đi, nhưng phải đi từ từ, dần dần, VN là phương Đông, không thể thực hiện những cú sốc "
'Quỹ đạo văn minh'

Giáo sư Tấn cho rằng về lâu về dài Việt Nam sẽ hòa nhập với 'quỹ đạo văn minh' quốc tế nhưng từ nay tới đó, quốc gia này sẽ vẫn giữ nguyên thể chế có duy nhất một đảng lãnh đạo là đảng cộng sản Việt Nam.
Ông nói: "Có lẽ trong tương lai xa, rồi thì Việt Nam cũng sẽ đi vào quỹ đạo chung, quỹ đạo bình thường của nền văn minh
"Việt Nam đang đi, nhưng phải đi từ từ, dần dần, Việt Nam là phương Đông, không thể thực hiện những cú sốc được theo kiểu phương Tây.
Về 'mục tiêu phấn đấu' của Việt Nam do Đảng cộng sản đặt ra, trong một trao đổi với BBC gần đây, Đại biểu Quốc hội, sử gia Dương Trung Quốc nêu quan điểm:
"Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội tôi nghĩ vẫn là mục tiêu có thể đặt ra, nhưng nó phải hết sức thực tiễn vì đó là mô hình chưa hề có. Vì thế tôi đề nghị, tôi mong muốn là ta trở lại với chế độ dân chủ, cộng hòa."
Gần đây, truyền thông trong nước phản ánh các ý kiến đặt vấn đề về việc Việt Nam cần sửa đổi tên hiệu của quốc gia ra sao cho phù hợp với tình hình mới nhân dịp nhà nước tổ chức việc lấy ý kiến đóng góp của người dân cho sửa đổi Hiến pháp hiện hành.
Có ý kiến gợi ý rằng đổi lại tên nước là trở lại đúng với Bấm bản chất chế độ, nhưng cũng có ý kiến tin rằng Bấm chưa nên đổi tên trong thời điểm hiện nay và cần cân nhắc toàn cục.
Một blogger là sỹ quan và phóng viên của báo Quân đội Nhân dân còn đặt nghi vấn cho rằng đổi tên nước có thể là ' Bấm một chiêu' mà một số nhà lập pháp tung ra có ý đồ.
Được biết, trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi chính thức mà chính quyền và Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội Việt Nam đưa ra vấn ý người dân hôm 12/4, ở điều 1, phương án 2, nội dung quốc hiệu, có đoạn viết:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”
(BBC) 

Thư ngỏ gửi đ/c Nguyễn Phú Trọng và các đ/c UVBCT, BCHTW khoá XI

Thư ngỏ: Gửi đ/c Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư và các đ/c UVBCT, BCHTW khoá XI

Thưa các đồng chí!

Tôi vô cùng buồn và thất vọng đến đau lòng bởi gần đây, đi đâu, gặp ai cũng đều thấy bàn tán râm ran câu chuyện của anh Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước đến Câu lạc bộ Thăng Long Hà Nội nói chuyện vào ngày 19-2-2013 được ông Đoàn Sự ghi âm, viết thành bài rồi đưa công khai lên mạng Internet. Không hiểu đồng chí Tổng bí thư và các đồng chí đọc chưa? Tôi đọc xong thì thấy quá đau xót cho Đảng. Như một số bài viết đã phân tích trên mạng, trong nội dung bài nói chuyện này đồng chí Trương Tấn Sang tuỳ tiện và vô nguyên tắc nói ra trước đông đảo mọi người nhiều thông tin bí mật nội bộ của Đảng. Không những xúc phạm danh dự tới cá nhân đồng chí Uỷ viên Bộ chính trị, chê bai Đảng mà đồng chí Trương Tấn Sang còn phát ngôn vi phạm các nguyên tắc của Đảng về ngoại giao về vấn đề quan hệ với Trung Quốc, về Campuchia và Lào trong lúc Việt Nam cần có sự ổn định và ủng hộ của bạn bè quốc tế, gây hiểu lầm và phức tạp tình hình.
.
Trương Tấn Sang
Khi nghe những điều đồng chí Trương Tấn Sang, đại bộ phận cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân vô cùng lo lắng. Bởi quan đó họ thấy rất rõ sự mất đoàn kết nội bộ trong Đảng rất trầm trọng, nó gần như một căn bệnh trầm kha hết phương cứu chữa.
.
Cách thể hiện của đồng chí Trương Tấn Sang không phải bộc phát từ bây giờ, mà trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chúng tôi đã nghe dư luận anh em Đảng viên nói với nhau rằng – Tư Sang lần này đang cố chạy chức Tổng bí thư, bằng chứng là nhờ nhóm tướng lĩnh, lão thành cách mạng viết đơn kiến nghị gửi đến Bộ chính trị - Ban chấp hành TW, từ việc làm này đã gây rối an ninh nội bộ. Tiếp đó đến hội nghị Ban chấp hành TW lần thư 6 khoá XI. Sau khi hội nghị đã bế mạc, đồng chí Tư Sang đi đến đâu cũng nói: trong nội bộ Đảng có bầy sâu to, rồi đến bôi đen đồng chí Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng v..v...         
.
Chuỗi theo một số sự kiện bất thường của đồng chí Trương Tấn Sang, chúng tôi thấy đáng ngờ, bởi lời nói của đồng chí Tư Sang đã được các trang blog lề trái trích đăng nguyên văn công khai dựa vào những lời phát biểu đầy chia rẽ nội bộ. Hay nói cách khác, đầy thâm thù, để cho các phần tử xấu lợi dụng việc này công khai chống phá Đảng, chống phá đất nước. Từ ngày đồng chí lên làm Chủ tịch nước, chưa thấy đưa ra một kế sách hay, một chiến lược đúng để cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân vực dậy nền kinh tế đất nước đang chịu ảnh hưởng tác động bởi kinh tế thế giới đang lâm vào cảnh suy thoái toàn cầu. Mà trái lại đi đến đâu, đồng chí cứ nhắc đi, nhắc lại chuyện nội bộ TW6 và đồng chí X là ai? Nhưng điều lạ thay, việc làm của đồng chí Tư Sang vô nguyên tắc như vậy mà chẳng hiểu sao Bộ chính trị, Ban chấp hành TW không có ý kiến chỉ đạo kiểm điểm làm rõ trách nhiệm, xử lý kỷ luật? Do tập thể Bộ chính trị không có ý kiến gì, nên nhân góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đồng chí Trương Tấn Sang còn đòi tăng quyền của Chủ tịch nước, nhằm củng cố cho quyền lực riêng của cá nhân Chủ tịch nước và tuyên bố muốn thu hồi quyền thống lĩnh quân đội nhằm làm lu mờ vai trò lãnh đạo của Đảng. Với những hành động ngày càng phức tạp và manh động, có thể thấy rõ Trương Tấn Sang đang thực hiện:

1. Ra sức vận động số đông người gọi là có uy tín, làm kiến nghị, trong tình hình hiện nay nên tổ chức Đại hội giữa nhiệm kỳ, buộc Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nghỉ và Trương Tấn Sang sẽ làm Tổng bí thư.
.
Kính thưa các đồng chí!
.
Tôi thực sự không hiểu, một người lãnh đạo cao nhất của đất nước luôn tư lợi, không lo cho dân chỉ lo củng cố quyền lực cho cá nhân, luôn gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ như Trương Tấn Sang mà vẫn bình yên vô sự thì thật là đáng hổ thẹn cho Đảng. Cứ để Trương Tấn Sang lộng hành thế này, thì Đảng và đất nước Việt Nam ta sẽ đi về đâu? Nếu Đảng không ra tay chỉnh đốn, khi lòng tin của dân đối với Đảng đã mất thì nguy cơ mất Đảng là điều dễ hiểu và sẽ sớm xảy ra thôi!
.
Với tư cách là cán bộ lão thành, từng là Uỷ viên Trung Ương nhiều khoá, tôi thấy rõ nguy cơ mất nước không phải do giặc ngoại xâm, mà chính là những Đảng viên như Trương Tấn Sang đang lợi dụng quyền lực của mình để phá Đảng. Bằng lá thư ngắn ngủi này, tôi đề nghị đồng chí Tổng bí thư và các đồng chí trong Bộ chính trị phải kiểm điểm nghiêm khắc việc làm trên của Trương Tấn Sang để lấy lại uy tín trong Đảng.
.
Xin trân trọng cảm ơn.
.
L.C.Đ
(lão thành cách mạng, nguyên UVTW nhiều khoá) 

Ủy viên BCT Nguyễn Xuân Phúc - Kẻ phản trắc "số 1" miền Trung

Nguyễn Xuân Phúc chỉ là anh quan hàng tỉnh lẻ tài năng thấp kém mà làm sao ngoi lên đến Uỷ viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng ?
 Đó là biệt tài của Nguyễn Xuân Phúc. Trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 có hơn 65 đoàn đại biểu thì Nguyễn Xuân Phúc với chức danh Bộ trưởng Chủ nhiệm VPCP đã mời cơm gần 60 đoàn. Anh gặp riêng các trưởng đoàn, các Uỷ viên TW để vận động trước nhất gom phiếu cho mình và gạt Nguyễn Bá Thanh (Bí thư Đà Nẵng), gạt Vũ Ngọc Hoàng (Nguyên Bí thư Quảng Nam- Phó ban Tuyên giáo) để 2 vị này không lọt vào Bộ chính trị- bởi vì miền Trung khó lòng có 2 Uỷ viên Bộ chính trị, anh tung đủ chiêu nào là Nguyễn Bá Thanh độc đoán chuyên quyền, nào là Vũ Ngọc Hoàng yếu đuối, bệnh tật…và đúng như tính toán, Nguyễn Xuân Phúc đã vào Bộ chính trị. Người Quảng Nam Đà Nẵng nói rằng “nước chảy ngược” là như thế.

Mặt khác Nguyễn Xuân Phúc ngầm kết nối với Nguyễn Văn Chi (dân Đà Nẵng) Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra để cung cấp thông tin về vụ Vinashin. Khi đó Chi hứa sẽ đưa Phúc vào Bộ chính trị. Đương nhiên Phúc lọt vào mắt xanh Trương Tấn Sang vì Trương Tấn Sang đang dùng Vinashin để đánh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nguyễn Xuân Phúc là như vậy, thượng đội hạ đạp, phản thầy bất kỳ lúc nào, miễn là gió đổi chiều là theo chiều gió để được cho mình.

Nguyễn Xuân Phúc cặp kè với 1 nữ giám đốc Công ty tư vấn xinh đẹp ở Bà Rịa-Vũng Tàu, 2 người hết khách sạn này đến khách sạn khác kể cả ở Phú Quốc và TP. Hồ Chí Minh, Phúc luôn mạnh tay can thiệp cho mỹ nữ trúng dự án.

Nguyễn Xuân Phúc còn có đệ tử là Hồ Minh Hoàng giám đốc Công ty Hải Thạch ở xứ Tuy Hoà Phú Yên. Hồ Minh Hoàng là anh của Hồ Minh Hậu, anh em Hoàng Hậu đoạt của mấy ngân hàng trên 400 tỉ rồi cho Hậu chuồng đi trốn ở nước ngoài nhận lệnh truy nã đặc biệt, Hoàng ở lại phủi tay, Công ty Hoàng như cái lỗ mũi, tiền không có trả lương nhân viên nhưng được Nguyễn Xuân Phúc đỡ đầu trao cho dự án hầm đèo Cả cả tỉ USD, và cho y làm Tổng giám đốc, Công ty cổ phần nhưng được Phúc can thiệp nên ôtô được đăng ký xe bản xanh 80B để vào Nam ra Bắc. Về việc ăn bẩn của Nguyễn Xuân Phúc thì hết đường nói. Công ty nào cũng hứa, được thì đớp, mà không được thì lặn, đó là sách của Nguyễn Xuân Phúc.

Anh em chú bác họ Nguyễn Xuân Phúc & "Thủ tướng tâm thần" Nguyễn Xuân Châu hứa hẹn gì với nhau lúc còn ở "quê hương" Quảng Nam?!
Năng lực Nguyễn Xuân Phúc đúng là anh quan tỉnh lẻ ,ra trước quốc hội trả lời chất vấn à à, ê ê loanh quanh không có ý nào có cở Phó Thủ tướng vậy mà cũng được Trương Tấn Sang khen là lưu loát, được cả Chủ tịch Quốc hội khen là đầy đủ (?). Phúc đã từng phản Thủ tướng và sẽ sẵn sàng làm phản như thế.

Một con người đầy cơ hội và gian manh,phản chủ như vậy có nên dùng không?
Trần Lê
(On The Net)

Alan Phan - Một tầng lớp trung lưu cho Việt Nam

“Chúng ta phải chú tâm vào lợi ích của những gia đình trung lưu để tạo một nền kinh tế ổn định. Như cha tôi, mỗi đêm Chúa Nhật, phải mất ngủ đi quanh nhà suy nghĩ tìm cách mưu sinh, trong khi con cái ông, nằm trong chăn ấm cúng, mơ về những giấc mộng lớn. Những gia đình không chắc là sáng Thứ Hai sẽ có được gì, nhưng luôn luôn tin rằng những ngày tốt đẹp của quốc gia đang đợi chờ trước mặt” - (Charles Schumer)

Trong bài nói chuyện tại Café Thứ Bẩy hôm 6 tháng 4 năm 2013 cho khoảng 80 bậc trí giả ở Saigon, tôi đã mạo muội múa rìu qua mắt thợ và bầy tỏ quan điểm của tôi về đề tài khá bao quát,” Những điều kiện tiên quyết để tạo dựng một nền kinh tế vững mạnh”. Dĩ nhiên, tôi phải đón đầu đây là những tư duy rất sơ đẳng, hoàn toàn chủ quan từ góc nhìn cá nhân và đòi hỏi các khảo cứu sâu rộng cùng phản biện trí thức khác.

Theo tôi, 3 điều kiện đó là: (a) một thể chế chính trị hiện đại (b) một nền giáo dục tự do và thực tiễn và (c) một hệ thống tài chánh liên thông với thế giới. Nhưng trên hết là một tầng lớp trung lưu để nâng đỡ và nuôi dưỡng nền kinh tế này.

Tôi không được phép nói thêm về điều kiện chính trị và chỉ có thể bàn qua về nền giáo dục hay hệ thống tài chánh.

Môi trường giáo dục

Ai cũng biết người Việt là một trong những dân tộc hiếu học nhất. Bản chất thông minh, sinh viên Việt đã tạo những thành quả ấn tượng tại khắp các học đường trên thế giới. Các bậc phụ huynh cũng coi chuyện đầu tư vào giáo dục của con em là lựa chọn hàng đầu. Tại Việt Nam, có trên 20 triệu sinh viên học sinh, vài chục ngàn tiến sĩ và cả triệu cử nhân đã được đào tạo trong nước.

Tuy nhiên, sự đóng góp của giáo dục trong nền kinh tế gần như rất thấp vì khả năng của sinh viên ra trường thua kém chuẩn mực đòi hỏi của nghề nghiệp quá xa. Một thí dụ tôi hay kể là hãng Intel cần 120 chuyên viên trung cấp cho nhà máy ở Thủ Đức của họ. Trong số gần 2,000 ứng viên xin việc, họ chỉ nhận vài chục người, số còn lại phải nhập khẩu chuyên viên từ Mã Lai hay Philippines. Ngay cả những ngành học không cần cho ứng dụng kinh tế như khoa học nhân văn, tự nhiên, sư phạm… các sinh viên ra trường cũng thua xa các bạn đồng nghiệp tại Đông Nam Á.

Hệ thống đại học Mỹ được xem như là tối ưu trong các xếp hạng; dù các trường tại Âu châu có thể đã tồn tại lâu hơn. Lý do chính là chánh phủ Mỹ không bao giờ can thiệp vào giáo trình hay điều hành của bất cứ đại học nào,dù nhiều đại học công có nhận tài trợ từ ngân sách tiểu bang. Sự tự do này đem đến một sáng tạo rất đa chiều đa dạng.

Yếu tố giáo dục này đã đem một lợi thế cạnh tranh đáng kể cho nền kinh tế Mỹ; nhất là khi những sinh viên ngoại quốc của các trường đại học Mỹ quay về bản xứ để nắm các chức vụ quản lý quan trọng trong lãnh vực chánh phủ hay tư nhân. Tầm nhìn hay tư duy hay phương cách làm việc rất thích ứng với nền kinh tế toàn cầu do Mỹ đề xướng.
 
Hệ thống tài chánh

Vì đây là nền kinh tế toàn cầu nên cội rễ tài chánh (huyết mạch của hệ thống) phải có cùng một hệ điều hành. Một phần mềm cho IPhone không chạy trên các điện thoại Android hay ngược lại. Đó là lý do nền kinh tế Trung Quốc, mặc cho sự tăng trưởng ấn tượng và số lượng dân, vẫn tiềm tàng nhiều bất ổn, nhất là khi các siêu cường áp lực Trung Quốc phải để cho đồng nhân dân tệ (yuan) thả nổi và tự do hoán chuyển.

Ngày nào mà Việt Nam chưa dám cho tiền “VN đồng” hội nhập vào hệ thống tiền tệ thế giới thì chúng ta vẫn chỉ đá bóng trên sân nhà, với những quy luật riêng, không giống ai và không thể ra biển lớn để thi đua hay thu hút khán giả. Nền kinh tế sẽ bị giới hạn và luôn thu nhỏ, lệ thuộc vào nghị quyết của chánh phủ và những con cá mập tư bản nước ngoài có liên hệ chính trị với các quan chức và đại gia. GDP có thể tăng trưởng (dù không mấy ai ngoài cuộc tin vào các số liệu này) nhưng dòng tiền đầu tư chính thống (rất dồi dào trên thế giới) vẫn sẽ không đến với Việt Nam.

Thêm vào đó, để 3 diều kiện trên tồn tại và phát triển, chúng ta cần một tầng lớp trung lưu để nuôi dưỡng và bảo đảm sự vững mạnh cùng sáng tạo này của nền kinh tế.
 
Trung lưu là nền tảng

Dựa trên kinh nghiệm của Âu, Mỹ, Úc, Nhật, Hàn Quốc, Singapore…, tôi cho rằng tầng lớp trung lưu đã đóng góp rất tích cực vào sự phồn thịnh của các quốc gia này.

Trước hết, tầng lớp này là những “con kiến” cần cù xây dựng ngày đêm trong công việc được giao phó để tạo một phân khúc sản lượng cao nhất của GDP. Vì tạo được thu nhập lớn theo số đông, họ cũng là những người dân đóng thuế nhiều nhất cho ngân sách quốc gia. Sự đóng góp của họ còn thể hiện qua nhu cầu tiêu dùng, vốn tiết kiệm trong các ngân hàng, quỹ đầu tư và các hoạt động thiện ích ngoài xã hội.

Nhờ các hệ thống tín dụng dài và ngắn hạn, tầng lớp trung lưu tại các xứ này cũng là những người nắm giữ phần lớn tài sản…và do đó, phần lớn nợ nần liên quan. Trong định luật kinh tế, thành phần có nhiều thứ để mất là thành phần năng động và bảo thủ nhất. Vì tài sản, vì nợ nần, họ phải cật lực và sáng tạo để kiếm tiền, để giữ gìn tài sản cho gia đình và bảo vệ xã hội quốc gia khi gặp hiểm họa từ bên ngoài. Tầng lớp trung lưu thường bao gồm những người yêu nước nhất.

Dù thành phần trung lưu có nhiều tài sản và thu nhập nhất nhờ chiếm đa số dân, nhưng các tài sản và nợ nần này lại trải đều ra, tạo một thế cân bằng cho nền kinh tế. Cá nhân mỗi người không đủ giàu hay lớn để có ảnh hưởng gì đến thị trường; và trong việc đóng góp cho quốc gia, họ không đủ quyền lực hay kiến thức để tìm cách trốn thuế hay di chuyển tài sản ra nước ngòai. Đó là lý do chính một nền kinh tế tạo dựng trên nền tảng “trung lưu” này sẽ vững bền và mạnh mẽ hơn. Nguyên lý này ông cha ta đã biết,” dân giàu nước mạnh”.
 
Quá khứ và tương lai

Trong lịch sử nước nhà, các lãnh đạo kinh tế của Việt Nam đã phạm hai lỗi lầm lớn trong quá khứ tạo nên hai cuộc khủng hoảng coi như “đại suy thoái” trầm trọng. Đầu tiên là chương trình cải cách ruộng đất theo mô hình Trung Quốc vào năm 1953 khi quốc gia còn là một nước nông nghiệp. Loại trừ phú nông ra khỏi nền kinh tế còn thô sơ để sở hữu hóa ruộng đất (cha chung không ai khóc) đã gây đói nghèo và thoái hóa tại nông thôn kéo dài nhiều thập kỷ.

Sau đó, chương trình “diệt tư sản” sau 1975 đã tàn phá thêm tầng lớp trung lưu đang là cột sống của nền kinh tế miền Nam vào giai đoạn đầu của phát triển. Suy thóai kéo dài hơn 20 năm sau đó là hệ quả của sự thiếu vắng một tầng lớp trung lưu trong xã hội. Hồi phục chỉ bắt đầu khi tư nhân được phép làm ăn, với sự góp vốn phần lớn từ các Việt Kiều và các nhà đầu tư ngoại. Hiện nay, một tầng lớp trung lưu đã manh nha hình thành; nhưng những chánh sách ưu tiên, dồn nguồn lực cho các doanh nghiệp nhà nước có thể làm trì trệ thui chột sự tăng trưởng nhiều hứa hẹn này.

Giáo điều và chủ nghĩa thực ra là một thừa thãi trong việc phát triển nền kinh tế vững mạnh. Đặng Tiểu Bình đã hiểu được chân lý về “mèo trắng mẻo đen hay mèo đỏ” sau 30 năm lỗi lầm của chánh phủ Trung Quốc. Tuy nhiên, dồn chuột bắt được cho một nhóm lợi ích bằng ban phát quyền lực và quyền lợi trong một cuộc cạnh tranh không chính thống cũng sẽ tạo những bất ổn mà Tập Cận Bình đang phải đối phó. Như Acemoglu đã nhận xét trong cuốn “Why nations fail?’, miếng bánh kinh tế phải được san đều ra cho số đông, qua một sân chơi bằng phẳng với những trọng tài công minh.

Mọi can thiệp để lèo lái nền kinh tế theo chiều hướng tạo lợi ích cho một thiểu số người, không sớm thì muộn sẽ kết cuộc trong suy thoái và đổ vỡ cho đại đa số. Tầng lớp trung lưu đủ thông minh để nhận ra sự khác biệt giữa “bánh vẽ và thực tại” qua các hoạt dộng hàng ngày. Hãy cho họ cơ hội để họ có động lực chính đáng trong việc đóng góp vào sản lượng quốc gia.

Có phải Marx đã phán,” chúng ta không có gì để mất, ngoài những gông cùm…”?
Alan Phan
(Blog Alan Phan)
 

Phan Minh Ngọc - Người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước thật khó hiểu

Càng ngày càng thấy nghi ngờ những người đại diện cho NHNN hiểu rõ, hiểu đúng những gì mình đang nói, đang làm và sẽ làm.
Chuyện đầu tiên là về Thống đốc Bình khi cho rằng “phá giá đồng tiền không có lợi cho tổng thể nền kinh tế, do Việt Nam vẫn đang là nước nhập siêu và ít nhất phải nhập siêu trong 5 năm tới. Tỷ giá ổn định là tín hiệu tích cực cho nền kinh tế và tỷ giá chỉ nên biến động trong khoảng 1-2%...”
Có lẽ đồng chí Bình chưa học hay quên mất kiến thức kinh tế học cơ bản (của thế giới hiện đại, tất nhiên, chứ không phải thời Liên Xô), rằng nếu là nước nhập siêu (và còn nhập siêu dài dài, như đồng chí ấy nói) thì tỷ giá cần phải điều chỉnh theo hướng để nội tệ mất giá (tức phá giá) để thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu, và tức là giảm nhập siêu. Nói cách khác, không thể lấy cái lý do là nước đang nhập siêu để nói rằng không phá giá.
Chuyện thứ hai là về bình ổn thị trường/giá vàng. Mặc dù có sự “ông chằng bà chuộc” ngay trong nội bộ NHNN về mục tiêu can thiệp vào thị trường vàng của NHNN (để bình ổn giá vàng hay bình ổn thị trường vàng) nhưng điểm chung là với người ngoài cuộc thì mục tiêu can thiệp thị trường vàng của NHNN là điều hoặc là ngớ ngẩn, hoặc chỉ có Chúa mới biết thực sự là gì.
Để ổn định, dù là giá vàng hay thị trường vàng nói chung chung, thì nguyên tắc là phải để cung cầu trên thị trường vàng trong nước ít biến động qua từng ngày, từng giờ, theo kiểu ổn định thị trường thịt lợn. Tuy nhiên, giá vàng thế giới ở mức độ nào đó có liên thông với giá vàng trong nước. Cả cung và cầu vàng quốc tế cũng vậy. Không thể có cách nào cách ly toàn bộ thị trường vàng trong nước với quốc tế được. Mà giá vàng, cung cầu vàng trên thế giới biến động từng giây, từng phút. Vì thế, giá vàng, cung cầu vàng trong nước cũng phải đi theo xu thế tương ứng trên thế giới. Mà như vậy thì hoặc NHNN sẽ phải can thiệp, bình ổn giá vàng/thị trường vàng quốc tế để chúng không biến động làm ảnh hưởng đến giá vàng/thị trường vàng trong nước, hoặc NHNN sẽ phải từ bỏ mục tiêu ổn định giá vàng/thị trường vàng trong nước, nếu không ổn định được giá vàng/thị trường vàng quốc tế.
Có thể NHNN quan niệm rằng ổn định giá vàng/thị trường vàng trong nước tức là làm cho giá vàng/thị trường vàng trong nước vận động phù hợp với diễn biến giá vàng/thị trường vàng quốc tế (trước đây thì có thêm mục tiêu là thu hẹp khoảng cách giá vàng trong nước và quốc tế ở mức 400k VND. May mà nay đã lờ đi). Nhưng nếu vậy thì, vì giá vàng, cung cầu vàng trên thế giới biến động từng giây, từng phút, về nguyên tắc NHNN cũng sẽ phải thường trực trên thị trường vàng trong nước như người bán/mua cuối cùng 24h/24h, 7 ngày/tuần, chứ không phải thỉnh thoảng thông báo và ném ra thị trường để cho đấu giá (với giá sàn đặt ra trước đó một khoảng thời gian không thể gọi là ngắn) một lượng vàng nhất định nào đó vào ngày x, ngày y, ngày z (và sau đó có nữa hay không thì chịu). Vì tính chất thời điểm và tần suất khác biệt như vậy nên chắc chắn hành động can thiệp này của NHNN không góp phần gì vào làm ổn định thị trường vàng cả, nếu không muốn nói ngược lại.
Thêm nữa, hành động can thiệp này của NHNN không thể dẹp được nạn “đầu cơ” vàng, có thể là một mục đích chính đáng trong con mắt của NHNN. Tung vàng dự trữ quốc gia (rất có hạn) ra bán thì có thể làm cho giá vàng đi xuống và làm thiệt hại kẻ nào đó đã ôm vàng trước đó đợi giá vàng lên thì bán ra kiếm lãi. Nhưng việc tung vàng ra bản thân nó đã tạo cơ hội cho kẻ khác đầu cơ khi tin rằng khi chấm dứt đấu giá vàng hoặc giữa hai đợt đấu giá, giá vàng trong nước sẽ bật lại. Họ sẽ mua vào và đợi chờ giây phút hiện thực hóa nhận định của mình. Trừ khi NHNN ngớ ngẩn đến mức, và có khả năng, cung vàng liên tục và với số lượng lớn để giá vàng trong nước liên tục đi xuống thì giới đầu cơ mới thiệt hại không gượng được đến mức chết hết, bỏ chạy không ngoái đầu và không có ý định quay lại thị trường vàng. Nhưng do số lượng vàng dự trữ chỉ có hạn, quan trọng hơn, việc sử dụng chúng không phải chỉ để cho bình ổn thị trường vàng trong nước nên suy ra rằng “nạn đầu cơ” vàng vẫn sẽ còn đất sống và thậm chí còn sống khỏe với một thị trường vàng nay đã bị NHNN làm cho thêm bất ổn và thêm cơ hội đầu cơ.
Nếu vẫn cố tình làm như đang làm bây giờ (tích cực tung vàng dự trữ quốc gia ra đấu thầu trong nước) thì hoặc là NHNN đang nhắm đến một mục tiêu nào đó khác (và chắc là không minh bạch, không vì lợi ích cả nền kinh tế), chứ không phải là mục tiêu mà nó tuyên bố (một cách cũng rất mâu thuẫn, mù mờ), hoặc là hành động này của NHNN là một hành động ngu xuẩn xuất phát từ một hiểu biết sai lầm chết người (bình ổn cái không thể bình ổn được về nguyên tắc).
Vì không tin rằng NHNN là nơi chứa toàn những bộ óc thứ cấp nên tớ thiên về khả năng đầu (NHNN có mục tiêu khác với những mục tiêu nó công bố).
Phan Minh Ngọc

Trương Duy Nhất - Tổng Bí thư và Thủ tướng nên ra đi

(TTHN) - Đồng chí Trương Duy Nhất cứ toạc luôn là đ/c X và đ/c Tổng Lú nghỉ để đ/c 4S và đ/c Bá ô dù của TDN thay cho nó nhanh và rõ. Cứ úp mở mà làm gì? :D

NguyenPhuTrong3

Sau hội nghị 6, đúng lý phải có ai đó ra đi. Nhưng không một ai. Lòng tin và sự kiên nhẫn của dân đã đến hạn cùng.
Chẳng lẽ để tình hình đất nước, kinh tế như thế, tình hình nội tại đảng như thế mà không có một ai phải chịu trách nhiệm? Không thể chấp nhận một thứ trách nhiệm tập thể chung chung. Trách nhiệm tập thể là thứ vô trách nhiệm.
Kinh tế tụt dốc, bấn loạn, nát bươm- Trách nhiệm thuộc về Thủ tướng.
Chính trị rối loạn, mất đoàn kết, chiến dịch ra quân tắm rửa rầm rộ với mục tiêu “bắt sâu” diệt bầy “lợi ích nhóm” của đảng chẳng đem lại kết quả gì- Trách nhiệm thuộc về Tổng Bí thư.
Không làm được thì phải nghỉ. Cảm thấy bất lực thì tránh sang bên nhường cho người khác, đội ngũ khác.
Không thể cứ mãi ra rả hô hào tái cấu trúc nhưng chẳng biết tái cái gì và tái ra sao. Không thể cứ mãi như ông già quê, vục đầu vào bếp thổi lửa nhóm lò mà mong xây dựng chỉnh đốn đảng được.
Để cứu vãn tình hình kinh tế và chính trị lúc này, chỉ có một cách: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải ra đi.
Đã đến lúc cần một Tổng Bí thư khác và một Thủ tướng khác.
Trương Duy Nhất
(Blog Trương Duy Nhất)

Việt nam: ‘Lòng dân bất mãn chưa từng thấy’?

Nhật báo New York Times hôm thứ Tư ngày 24/4 vừa đăng một bài báo về lòng tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong tình hình khó khăn hiện nay.
Dưới tiêu đề ‘Những lúc khó khăn cũng là lúc bất đồng và trấn áp công khai nở rộ ở Việt Nam’, nhà báo Thomas Fuller của New York Times đã đưa ra quan sát này trong một lần đi tìm hiểu thực tế mới đây ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nhân vật chủ đạo trong bài báo là giáo sư Nguyễn Phước Tường (tức Tương Lai), cựu cố vấn của hai đời thủ tướng Việt Nam.
Ngoài ra ký giả này cũng đã trao đổi với ông Trương Huy San (tức nhà báo Huy Đức), một cựu cố vấn khác của thủ tướng là Tiến sỹ kinh tế Lê Đăng Doanh, cũng như một số nhà quan sát khác để tìm hiểu về tình hình kinh tế chính trị của Việt Nam hiện nay.

Một góc ở Sài Gòn
Tình hình kinh tế chính trị Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản được cho là đã xấu đi rất nhiều
‘Không tin Đảng nữa’

“Trên các kệ sách chất đầy các tuyển tập của Marx, Engels và Hồ Chí Minh, dấu ấn của một đời trung thành với Đảng Cộng sản, nhưng ông Nguyễn Phước Tường, 77 tuổi, nói ông không còn tin vào Đảng nữa,” bài báo bắt đầu từ tư gia của GS Tương Lai ở ngoại ô thành phố lớn nhất nước.
“Ông Tường, cũng giống như rất nhiều người khác ở Việt Nam hiện nay, đang lên tiếng phản đối chính quyền mạnh mẽ.”
“Chế độ của chúng tôi là độc tài toàn trị,” ông Tường được dẫn lời nói, “Tôi là người sống trong lòng chế độ – tôi biết tất cả những khiếm khuyết, những sai lầm sự suy thoái của nó.”
    "Trong vòng 21 năm sống ở đất nước này tôi chưa bao giờ sự bất mãn với chế độ của trí thức và doanh nhân đến mức độ như hiện nay." - Peter R. Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu tư Indochina Capital
“Nếu chế độ này không được sửa đổi thì tự nó sẽ sụp đổ,” ông nói thêm.
Theo Fuller thì Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của người dân về sự trượt dốc của nền kinh tế và nội bộ Đảng đang bị chia rẽ giữa một bên là những người bảo thủ muốn vẫn duy trì những nguyên tắc soi đường của chủ nghĩa xã hội và sự độc quyền lãnh đạo và một bên là những người kêu gọi một xã hội đa nguyên và chấp nhận hoàn toàn chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên quan trọng nhất là Đảng đang đối phó với một xã hội thông tin ngày càng rộng mở và khán giả ngày càng tỉnh táo trước các thông tin khi mà có nhiều tin tức và ý kiến khác nhau lan truyền trên mạng làm ảnh hưởng đến sự tuyên truyền của truyền thông Nhà nước.
Bài báo dẫn nhận định của ông Carlyle A. Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc, một trong những học giả nước ngoài hàng đầu về Việt Nam, cho rằng giờ đây sự chỉ trích Đảng đã ‘bùng nổ trên toàn xã hội’.
Đây là khác biệt lớn nhất so với các thách thức mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng trải qua kể từ khi Đảng này thống nhất đất nước 38 năm trước đây như cuộc chiến với Trung Quốc và Campuchia, khủng hoảng tài chính và chia rẽ nội bộ.
Cũng theo quan sát của ông Thayer thì ‘bất đồng nở rộ nhưng đồng thời sự đàn áp cũng gia tăng’.
‘Bi quan sâu sắc’
Kinh tế Việt Nam đang bộc lộ hết tất cả những khiếm khuyết mà thời gian dài không được khắc phục
“Có thêm nhiều người muốn bày tỏ chính kiến phê phán chính phủ của mình hơn trước và những gì họ chỉ trích cũng nghiêm trọng hơn,” ông Trương Huy San (tức nhà báo, blogger Huy Đức – tác giả Bên Thắng Cuộc), nói với New York Times.
Vấn đề đăṭ ra ở đây, theo nhà báo Fuller, là ‘khó mà hiểu được sự bi quan sâu sắc’ của người dân trên đất nước này nếu nhìn vào bề mặt của sự tăng trưởng kinh tế.
Theo bài báo này thì nhiều người cho rằng Việt Nam đang mất phương hướng mặc dù đất nước này có dân số trẻ và làm việc chăm chỉ.
“Trong vòng 21 năm sống ở đất nước này tôi chưa bao giờ sự bất mãn với chế độ của trí thức và doanh nhân đến mức độ như hiện nay,” ông Peter R. Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu tư Indochina Capital, được dẫn lời nói.
Tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức hồi đầu tháng Tư năm nay, các diễn giả đã ‘tranh nhau nói trước micro’, kinh tế gia Lê Đăng Doanh thuật lại với New York Times.
Ông cho biết nhiều người đã chỉ trích mặc dầu nền kinh tế cần phải được tái cơ cấu sâu rộng nhưng ‘gần như chẳng ai làm gì cả’.
“Đó là sự khủng hoảng lòng tin,” ông Doanh được dẫn lời nói, “Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới mọi việc sẽ được cải thiện nhưng họ không thấy gì cả,” ông nói.
    "Đó là sự khủng hoảng lòng tin. Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới mọi việc sẽ được cải thiện nhưng họ không thấy gì cả." - Kinh tế gia Lê Đăng Doanh
Bài báo đã nêu đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là trung tâm của cơn bão chính trị hiện nay.
“Sự tự tin thái quá và các chương trình đầy tham vọng của ông Dũng lúc đầu giúp ông có người ủng hộ bởi vì ông đã đoạn tuyệt với khuôn mẫu một cán bộ Đảng xơ cứng,” bài báo viết.
Tuy nhiên, sau đó ông làm nhiều người bất mãn với việc giải tán ban cố vấn vốn là động lực phía sau chương trình cải cách kinh tế mà ông Tương Lai là một thành viên.
Bên cạnh đó, chính sách kinh tế mang dấu ấn cá nhân ông Dũng là thúc đẩy thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước theo kiểu các chaebol của Hàn Quốc, đã đem lại hiệu quả ngược.
Điều hành các tập đoàn này những người thân cận với Đảng Cộng sản, những người đã biến các tập đoàn thành nhiều công ty khác nhau mà họ không đủ khả năng điều hành cũng như đầu cơ trên thị trường chứng khoán và bất động sản.
Hai tập đoàn trong số này đã gần như sụp đổ và đang đứng bên bờ vực phá sản.

Đường phố Hà Nội
Đảng Cộng sản ngày càng mất đi sự ủng hộ trong lòng người dân Việt Nam
‘Căng thẳng trong Đảng’
Đảng Cộng sản ngày càng mất đi sự ủng hộ trong lòng người dân Việt Nam
Ông Tường nói với New York Times rằng những khó khăn của nền kinh tế đã khiến cho căng thẳng trong nội bộ Đảng Cộng sản dâng cao.
Hồi tháng Hai, ông đã tham gia soạn thảo một thư kiến nghị gửi đến lãnh đạo Đảng Nguyễn Phú Trọng để kêu gọi thay đổi Hiến pháp theo hướng đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Ông nói đến nay ông chưa nhận được phản hồi gì cả.
Giờ đây ông đang cảm thấy áp lực thời gian, ông cho biết. Căn bệnh ung thư của ông, mặc dù đang thuyên giảm, giống như là sự giải phóng tư tưởng thôi thúc ông phải nói lên điều mà ông cho là sự thật, ông nói.
“Nói cho cùng, Marx là một nhà tư tưởng vĩ đại,” ông nói, “Nhưng nếu như thế giới này chưa từng có Marx thì có lẽ sẽ tốt đẹp hơn.”
Bản điện tử của bài báo này trên trang chủ của New York Times đã nhận được một số ý kiến phản hồi của độc giả.
Một người ký tên là R. Vasquez đến từ tiểu bang New Mexico của Hoa Kỳ bình luận: “Đảng (Cộng sản Việt Nam) chỉ là cạn nhiệt huyết và ý tưởng. Những người thật sự còn trung thành với lý tưởng cộng sản giờ cũng đã 70, 80 tuổi... Các thế hệ tiếp nối sẽ thấy ngày càng khó mà hài hòa giữa những lý luận của các nhà tư tưởng ở châu Âu vào thế kỷ 19 với nhu cầu và khát vọng của nước Việt Nam trong thế kỷ 21.”
Còn Party State đến từ thành phố Vancouver của Canada thì viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã suy đồi cả về tinh thần lẫn đạo đức. Sự mục nát sẽ dẫn đến chỗ Đảng sụp đổ. Vấn đề ở đây là điều gì sẽ xảy ra sau đó? Liệu Việt Nam có trở thành một chế độ độc tài quân sự hay sẽ có một nhân vật như Hun Sen lên nắm quyền? Tương lai, tôi sợ rằng, sẽ còn tồi tệ hơn nhiều so với hiện tại.”
‘Giá đừng phản chiến’
Charles ở Slough, Vương quốc Anh, tự vấn phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam. Độc giả này viết:
“Những người chúng ta đã từng tham gia vào phong trào phản chiến trong những năm 60 và 70 nên treo cổ trong tủi hổ và nên xin lỗi người dân Việt Nam. Với việc ủng hộ phe cộng sản và gây sức ép lên Quốc hội cắt đứt mọi viện trợ cho miền Nam Việt Nam thì chúng ta đã góp phần đảm bảo cho chiến thắng của ông Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta.
Lại nữa, hãy thử nghĩ xem nếu không có cuộc cách mạng này thì ngày nay Việt Nam đã tốt hơn như thế nào? Ba mươi năm chiến tranh, số người chết không kể xiết, thiệt hại và đau thương vô cùng lớn – tất cả chỉ để đem đến kết cục là một chế độ kinh tế Marxist không khả thi do một Đảng cộng sản suy đồi và tàn bạo lãnh đạo.
Hãy nghĩ xem giờ này Việt Nam sẽ như thế nào nếu họ trải qua 60 năm thị trường tự do giống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Singapore. Chắc chắn là không hoàn hảo nhưng sẽ tốt hơn nhiều và lại không có chết chóc hay tàn phá.”
Tuy nhiên ý kiến này đã bị một công dân mạng khác có tên là Khang Duong từ Việt Nam phản bác: “Ông chỉ đọc từ một phía và ông không hiểu gì về Việt Nam cả. Tôi không nghĩ rằng Việt Nam sẽ tốt hơn nếu không làm cách mạng. Đất nước của ông bị nước khác tàn phá, người dân của ông mất hết quyền lực và bị đối xử như súc vật? Miền Nam điêu tàn dưới tay của một kẻ độc tài. Ngô Đình Diệm không phải do người dân Việt Nam mà là người Pháp, người Mỹ đưa lên. Nếu Hồ Chí Minh không làm cách mạng thì cũng sẽ có một cuộc cách mạng khác mà thôi.”
(BBC)

Đào Tuấn - Sắp đổi tiền?

500
Hình như không ngẫu nhiên một bãi trông xe nào đó từ chối nhận tiền mệnh giá 500 đồng. Có thể tưởng tượng được không tờ tiền mệnh giá 500 đồng giờ chỉ có thể mua nổi một quả ớt.
Tỷ giá vnd/usd đã tăng vọt trong 3 ngày cuối tuần. Ừ, thì đó là dịp giỗ tổ, là dịp tiêu tiền, nhưng với việc những bà nội trợ thắt chặt chi tiêu đến mức lập ra các “Hội đi chợ 98 ngàn đồng mỗi ngày” thì rõ ràng, dịp nghỉ lễ hoàn toàn không phải là cái cớ để người dân đổi ngoại tệ đi du hí.
Thủ phạm, rất có thể chỉ là một lời thở than mang tính chất thắc mắc rất đỗi cầu bất cầu bơ của một ai đó, ở một đâu đó, rằng: Liệu đổi tên nước, theo một ý kiến cá nhân của một ai đó không nhớ nổi, thì liệu sẽ phải đổi tiền! Nhắc lại, trên mỗi tờ tiền, đều có in tên nước và quốc huy.
Nhưng vì sao mấy chữ “đổi tiền”, một hoạt động kinh tế về bản chất là bình thường, dù trước một thực trạng kinh tế bất thường, lại nhạy cảm đối với người dân đến mức biến họ trở nên ngây thơ như vậy?
Có nguyên nhân lịch sử của nó.
Sách “kinh tế Việt Nam thăng trầm và đột phá” của tướng Công an Phạm Minh Chính do NXB Chính trị quốc gia ấn hành cho biết 4 chi tiết liên quan đến lần đổi tiền đầu tiên năm 1959: Chỉ diễn ra trong 5 ngày, từ 28.2 đến 3.4.1959. Mức đổi ngay cho mỗi hộ là 2 triệu đồng tiền đang lưu hành. Trong 5 ngày này “giá cả tăng vọt”. Và: Lần đổi tiền này mang ý nghĩa quản lý nhà nước về tiền tệ và phân bố lại tài sản trong dân cư.
Sau này, còn có 2 lần đổi tiền nữa. Một vào ngày 3.5.1978 để thống nhất tiền tệ trên toàn quốc sau giải phóng. Mệnh giá đổi tiền bấy giờ là 1 đồng tiền mới = 1 đồng tiền cũ ngân hàng miền Bắc= 0,8 đồng tiền ngân hàng cũ miền Nam. Và lần đổi tiền 19.4.1985 chủ yếu do áp lực lạm phát, khi đó đã lên tới mức phi mã “3 con số”.
Nhìn lại lịch sử, cần phải nói một cách thành thật và công bằng, lần đổi tiền nào thì người dân luôn chịu phần thiệt thòi. Và trong tiềm thức, họ sợ hãi hai chữ “đổi tiền”. Đây thực chất cũng là nguyên nhân thâm căn cố đế đã trở thành một phản xạ bản năng, khiến cho việc tích lũy mồ hôi, nếu như không muốn nói là “chôn dấu”, luôn là vàng.
Hôm qua, trên Lao động, đại diện NHNN đã chính thức bác bỏ tin đổi tiền, bởi một lẽ rất đáng tin, rằng: Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ tiền mặt trong lưu thông rất cao. Thậm chí, để in được lượng tiền mặt như thế thì phải mất vài năm. Huống chi việc đổi tiền phải “Căn cứ vào rất nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế-xã hội có phù hợp không? Cơ cấu đồng tiền còn hợp lý không; hay bộ tiền có bị làm giả quá nhiều không, khiến người dân mất lòng tin vào đồng tiền?”
Giờ đây, không quốc gia, chính thể nào cưỡng từ đoạt lý đến mức hết tiền thì in thêm, bất chấp giá trị mua thực tế của đồng tiền. Cũng không phải muốn đổi tiền là nói đổi.
Nhưng để một nguyên lý tất yếu của kinh tế có thể xua tan những hoài nghi có căn nguyên lịch sử, để những tin vịt “đổi tiền” sẽ chỉ được coi như “tin ngày cá” hoặc nhận được nụ cười khẩy của dân chúng, thì có lẽ những lời lẽ bác bỏ của người có trách nhiệm là chưa đủ.
Một tờ báo, cũng hôm qua, mở một chuyên mục gọi là “Sống sót trong cuộc khủng hoảng”. Và lời tâm sự đầu tiên là lời than thở “3 năm qua, mình đang nghèo bị nghèo 2 lần nghèo. Lương giảm, ai cũng thấy rõ điều này. Nhưng rổ CPI của gia đình mình thì tăng khủng khiếp. Thu nhập giảm 30%, CPI thì tăng vài chục %, làm sao để sống được đây”.
Có thể, những người công nhân đang “sống sót” bằng việc nhịn bữa sáng, có thể những bà nội trợ, đang tồn tại bằng một cái “Dây chuối 98 ngàn” sẽ không hiểu nhiều về chỉ số lạm phát. Nhưng thực tế là lạm phát đang làm đồng tiền mất giá bình quân 2 con số mỗi năm.
Và vì thế, để có được một nụ cười khẩy trước những cái tin đồn thì phải làm sao lạm phát không làm vô nghĩa thêm những đồng tiền phải đổi bằng mồ hôi thêm nữa. Hình như không ngẫu nhiên một bãi trông xe nào đó từ chối nhận tiền mệnh giá 500 đồng.
Có thể tưởng tượng được không tờ tiền mệnh giá 500 đồng giờ chỉ có thể mua nổi một quả ớt.
Đào Tuấn
(Blog Đào Tuấn)

Công an Hưng Yên xin lỗi và bồi thường 2 nhà báo bị đánh ở Văn Giang

Công an tỉnh Hưng Yên vừa chính thức có lời xin lỗi công khai và bồi thường 2 nhà báo VOV bị lực lượng làm nhiệm vụ đánh trong vụ cưỡng chế đất tại xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên.
Lãnh đạo Công an tỉnh Hưng Yên sáng nay cho biết, sau khi có kết luận điều tra vụ việc 2 nhà báo VOV là nhà báo Nguyễn Ngọc Năm và nhà báo Hán Phi Long bị công an đánh trong buổi cưỡng chế đất tại xã Xuân Quan, Công an tỉnh Hưng Yên đã nhanh chóng chỉ đạo cơ quan điều tra vào cuộc, làm rõ vụ việc và có thông báo đến bị hại và người liên quan về quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

2 nhà báo VOV bị hành hung trong vụ cưỡng chế tại Văn Giang.
2 nhà báo VOV bị hành hung trong vụ cưỡng chế tại Văn Giang.
Về mặt dân sự, lãnh đạo Công an tỉnh Hưng Yên cho biết, trình tự gặp gỡ của đại diện CQĐT Công an tỉnh và Công an huyện Văn Giang với 2 nhà báo về dân sự cũng đã được giải quyết.
Theo đó, việc công khai xin lỗi 2 nhà báo Nguyễn Ngọc Năm và Hán Phi Long làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) về vụ việc đáng tiếc xảy ra đã được tổ chức với sự tham dự của lãnh đạo Công an tỉnh Hưng Yên, lãnh đạo Công an huyện Văn Giang và đơn vị, cá nhân khác có liên quan.
Cũng tại buổi xin lỗi, Thượng úy Đặng Quang Hoàng, Công an huyện Văn Giang - người được xác định là một trong những cán bộ của đoàn cưỡng chế đã đánh 2 nhà báo - cũng đã trực tiếp xin lỗi 2 nhà báo VOV, bồi thường tiền mặt về tổn thất gây ra đối với 2 nhà báo.
Sự việc xảy ra cách đây đúng 1 năm, ngày 24/4/2012, 2 nhà báo VOV là anh Nguyễn Ngọc Năm và anh Hán Phi Long được đài giao nhiệm vụ theo dõi, đưa tin, nắm tình hình vụ việc cưỡng chế ở huyện Văn Giang.
Sáng 24/4, 2 nhà báo về xã Xuân Quan - nơi đang có đông người tụ tập - ghi nhận tình hình. Theo tường trình của 2 nhà báo, họ không đi vào khu vực cưỡng chế mà đứng ở hành lang Nhà văn hóa thôn 1 (đang ở giai đoạn hoàn thiện) quan sát vụ việc. Nhà báo Phi Long vừa đưa máy ảnh lên chụp thì một vài người mặc sắc phục công an và một số người khác tiến về phía anh, xông vào đánh anh, giật máy ảnh.
Thấy đồng nghiệp bị đánh, anh Năm đến can thiệp cũng bị đánh. Anh này sau đó bị đưa về trụ sở Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Giang lập biên bản tạm thu điện thoại, giấy tờ.
(Dân trí)

Trung Quốc: Khủng bố tại Tân Cương, 15 cảnh sát bị chém chết

Cảnh sát thị trấn Selibuya đã phái lực lượng đến địa điểm xảy ra vụ khủng bố, những cảnh sát này đều bị lực lượng này chém chết.
Truyền thông Trung Quốc ngày 24/4 đưa tin, lúc 1 giờ 30 phút chiều qua tại khu vực thị trấn Selibuya huyện Ba Thục, Tân Cương, Trung Quốc đã xảy ra một vụ khủng bố khiến ít nhất 15 người thiệt mạng.

Lực lượng cảnh sát chống khủng bố Trung Quốc diễn tập tại Tân Cương (hình minh họa)
Sự việc xảy ra khi 3 viên chức địa phương thị trấn Selibuya đến nhà một hộ dân trong vùng thì bị nhiều đối tượng khả nghi dùng đao kiếm tự chế tấn công, họ đã lập tức điện báo về cấp trên, sau đó bị nhóm đối tượng này khống chế.
Sau khi nhận tin báo, cảnh sát thị trấn Selibuya đã phái lực lượng đến địa điểm xảy ra vụ khủng bố, những cảnh sát này đều bị lực lượng này chém chết. 3 người bị chúng bắt giữ trước đó cũng đã bị giết, sau đó chúng châm lửa phóng hỏa khu nhà.
Vụ khủng bố này đã khiến 15 cảnh sát địa phương thiệt mạng, cảnh sát cũng đã bắn chết 6 tên và bắt sống 8 tên tham gia gây án. Theo kết quả điều tra sơ bộ thì đây là một tổ chức tội phạm khủng bố, việc điều tra xử lý vẫn đang được tiếp tục.
(GDVN)

Ông trùm Tộ 'Tích' sống vương giả trong trại điên

Gây ra hàng loạt vụ giết người, cố ý gây thương tích… nhưng Tộ “Tích” lại thoát khỏi sự điều tra bởi có giấy chứng nhận bị tâm thần. Ung dung hưởng thụ trong  viện, Tộ “Tích” vẫn điều hành các hoạt động phạm tội của đám đàn em.
Gây án rồi giả điên
Giang hồ đất Cảng từ lâu đã trở thành thương hiệu khiến những người dân lương thiện nơi mảnh đất này thấy chút hổ thẹn, còn “dân xã hội” thì coi đó là bàn đạp để lấy số má với đồng bọn ở khắp các tỉnh thành khác. Nhưng quả thực không thể phủ nhận một thực tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội thì mảnh đất này cũng xuất hiện nhiều tay anh chị cộm cán, hành xử côn đồ, máu lạnh.
Sau những tay anh chị như Dung Hà, Lâm “già”, Cu Nên…, thời gian gần đây, cái tên Mai Đức Vượng (tức Tộ “Tích”, 32 tuổi, trú tại Q.Ngô Quyền, TP.Hải Phòng) nổi như cồn trong giới giang hồ đất Cảng. Tộ “Tích” nổi bởi dưới trướng của y có cả đàn em mới lớn khoảng chục tên, lúc nào cũng “găm” dao, kiếm, súng trong người và sẵn sàng đi giải quyết các mâu thuẫn làm ăn cho đại ca Tộ “Tích”. Ngoài nuôi ăn uống, Tộ “Tích” còn trả lương cho đám đàn em bặm trợn để chúng trung thành với mình.

Trùm giang hồ Mai Đức Vượng - Tức Tộ "Tích"
Từ 2008 đến 2011, trên địa bàn TP.Hải Phòng xảy ra hàng chục vụ án giết người, cố ý gây thương tích do đàn em của Tộ Tích gây ra. Tên trùm này luôn chỉ đạo đàn em khi gây án bịt mặt nên rất khó nhận diện, khi chúng phát hiện người cần thanh toán là bắn rồi tẩu thoát rất nhanh, chưa kể chúng còn tổ chức cất giấu và tiêu hủy vũ khí ngay sau khi gây án. Bởi thế, lực lượng công an vô cùng vất vả khi lần theo dấu tích của nhóm này. Chỉ đến khi xảy ra vụ bắn anh Nguyễn Chí Kiên (35 tuổi, ngụ Q.Lê Chân) thì công an mới xóa sổ được băng của trùm giang hồ này.
Thế nhưng, ngay cả khi đã “bắt bài” được Tộ “Tích” và cùm tay y, công an Hải Phòng vẫn đành “ngậm ngùi” mở khóa bởi Tộ “Tích” đã “phù phép” có được một “tấm bằng điên”. Với kết luận thuyết phục của Trung tâm giám định pháp y tâm thần - Sở Y tế Hải Phòng: “Vượng ( tức Tộ “Tích”) mắc bệnh tâm thần thể động kinh. Trước và trong khi thực hiện hành vi phạm tội Vượng có mắc bệnh này. Bệnh làm Vượng giảm khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi…”. Viện KSND TP ra quyết định chữa bệnh bắt buộc với Tộ “Tích” tại Bệnh viện tâm thần T.Ư 1 (hay còn gọi là Viện pháp y tâm thần trung ương, ở Thường Tín, TP.Hà Nội). Cơ quan CSĐT - Công an Hải Phòng cũng đã ra quyết định đình chỉ điều tra với Tộ “Tích” ngay sau đó.
Dẫu thân đang phải điều trị bắt buộc tại bệnh viện tâm thần, nhưng trên thực tế, trước ngày diễn ra phiên xử của một tên đàn em dưới trướng, chính Tộ “Tích” đã đích thân gọi điện cho gia đình người bị hại, đe dọa giết nếu dám tố cáo hành vi tội ác của bọn chúng trước Tòa. Chưa dừng lại ở việc gọi điện, nhiều lần Tộ “Tích” còn đích thân xuất hiện ở những chốn ăn chơi của Hải Phòng, khi thì để hẹn con nợ đến đòi tiền, lúc thì để vui vẻ với các chiến hữu của y.
Thậm chí, trong một lần truy quét một tụ điểm của công an Hải Phòng, cơ quan điều tra đã phát hiện và bắt giữ Tộ “Tích” cùng với súng, dao. Nhưng lần ấy, cơ quan điều tra buộc phải trao trả Tộ “Tích” cho Viện pháp y tâm thần trung ương quản lý đối tượng này vì y vẫn đang trong thời gian chữa trị bệnh điên. Tộ “Tích” lý giải cho sự xuất hiện của y tại chốn ăn chơi ấy rằng, lần ấy y xin các bác sĩ về quê giỗ bố và đến đó để gặp bạn(?). Mười mươi thấy rằng, tất thảy chỉ là chiêu trò của tên trùm giang hồ Tộ “Tích” nhưng cơ quan điều tra vẫn chẳng thể điều tra tiếp tục vì Tộ “Tích” có lá bùa hộ mệnh là giấy chứng nhận bị điên.
“Chén” sò huyết trước khi bị bắt
Từ 28/7/2012, Tộ “Tích” vào Viện pháp y tâm thần trung ương chữa bệnh. Nhưng sau gần 8 tháng điều trị, Viện pháp y tâm thần trung ương vẫn khẳng định với công an Hải Phòng rằng bệnh tình chưa ổn định. “Bằng điên” của Tộ “Tích” khiến cơ quan điều tra gặp muôn vàn vướng mắc, khó khăn. Nhưng vì Tộ “Tích” là đối tượng cực kỳ côn đồ, manh động nên cơ quan điều tra Hải Phòng vẫn quyết tâm bắt giữ.

Trùm giang hồ Tộ "Tích" giả điên vẫn không thoát tội.

Sau nhiều ngày quyết liệt đấu tranh, làm việc “căng thẳng” với phía Viện pháp y tâm thần trung ương, vị giám đốc viện này mới đưa ra quyết định hội chẩn bệnh tình của Tộ “Tích”. Khoảng 17h ngày 17/4/2013, ngay khi nhận được kết luận hội chẩn, rằng bệnh tình của Tộ “Tích” đã ổn định, lực lượng công an Hải Phòng đã ngay lập tức triển khai bắt giữ Tộ “Tích” ngay tại phòng bệnh.
Khi công an ập vào phòng bệnh nơi Tộ “Tích” đang chữa trị để bắt trở lại tên này, có 26 đối tượng giang hồ, lưu manh các tỉnh đang có mặt tại đó. Núp dưới danh nghĩa kẻ điên, những tên giang hồ số má này đua nhau ném dưa chuột, đồ ăn…vào các chiến sĩ công an, nhằm cản trở người thi hành công vụ.
Nhưng dẫu có xảo trá, tinh vi đến mấy, Tộ “Tích” vẫn không thể thoát khỏi lưới trời. Ngay sau khi khống chế được Tộ “Tích”, chiếc xe đặc chủng chờ sẵn đã mở toang cửa đón chào trùm giang hồ đất Cảng. Áp tải thành công Tộ “Tích” về trại tạm giam Công an Hải Phòng, các chiến sĩ làm nhiệm vụ thở phào nhẹ nhõm. Và nơi trại tạm giam, biết chẳng thể giả điên để trốn tránh nữa, Tộ “Tích” bước đầu khai nhận hành vi phạm tội của mình, trong trạng thái tinh thần hoàn toàn tỉnh táo, không có biểu hiện của bệnh lý.
Nói về chiến công khiến đông đảo người dân đất Cảng thỏa lòng mong đợi này, thượng tá Lê Hồng Thắng – phó trưởng phòng PC45, công an Hải Phòng - cho biết: “Việc tên giang hồ khét tiếng Tộ “Tích” và nhiều tên khác dùng giấy chứng nhận bị bệnh điên để né tránh sự điều tra của pháp luật đã khiến người dân giấy lên những hồ nghi, băn khoăn. Chúng tôi khẳng định, không có bất cứ sự khoan nhượng nào đối với những kẻ tội phạm này. Bọn chúng sử dụng nhiều chiêu trò để làm khó cơ quan điều tra, nhưng chúng tôi quyết tâm đưa mọi việc ra ánh sáng”.
Và vị chỉ huy này tiết lộ thêm, để chuẩn bị cho việc bắt giữ Tộ “Tích”, suốt hơn một tháng trời trước đó, cơ quan điều tra Hải Phòng phải cử riêng 7 chiến sỹ công an giám sát tên này 24/24 tại nơi chữa bệnh. “Anh em chúng tôi canh gác ở ngoài phòng bệnh của Tộ “Tích” rất khổ, trời rét mướt, nóng bức bất thường, chúng tôi vẫn phải thức 24/24, phải chia ca chia kíp trực, rồi chia nhau từng hộp cơm nguội ngắt. Trong khi đó, trong phòng bệnh, những kẻ giang hồ số má có “bằng điên” kia lại thỏa thê đánh chén sơn hào hải vị do người nhà chúng cung phụng. Thậm chí, trước thời điểm chúng tôi bắt Tộ “Tích”, vợ và con hắn đã đi taxi từ Hải Phòng lên Hà Nội, mang theo sò huyết và đồ ăn cho hắn….” – một trinh sát trực tiếp tham gia giám sát, bắt giữ Tộ “Tích” chia sẻ.
Bắt giữ trở lại trùm giang hồ đất Cảng gây hoang mang dư luận một thời thể hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối với tội phạm của lực lượng công an Hải Phòng. Tộ “Tích” iêng hùng một thời trong giới giang hồ không thể thoát tội cho dù có lá bùa hộ mệnh là giấy chứng nhận điên.
Thùy Linh
(Infonet)

Vụ mang quan tài diễu phố: Bộ CA công bố nguyên nhân cái chết của nạn nhân

Nguyên nhân dẫn tới xô xát là do Tuấn Anh buông lời chê Tuấn “trông mày già thế”.
Chiều 24/4, Thượng tá Nguyễn Đức Huy, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (PC45, Công an tỉnh Vĩnh Phúc) cho biết, vụ mang quan tài diễu phố ở Vĩnh Phúc sắp có kết luận cuối cùng.
Nạn nhân của vụ việc là Nguyễn Tuấn Anh (27 tuổi, trú tại Phố Cả, phường Hội Hợp, TP Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc), bị chết sau khi uống rượu và xô xát với nhóm đối tượng ăn đêm tại Quán Tiên.
Bị Tuấn Anh chê già, Tuấn đã bảo đồng bọn đánh chết cho hả giận

Vụ mang quan tài diễu phố: 5 người bị khởi tố
Nạn nhân bị đánh chết vì chê hung thủ già
Sau khi vào cuộc điều tra, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định đây là một vụ án mạng do mâu thuẫn bộc phát. Công an tỉnh Vĩnh Phúc cũng đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với 6 đối tượng về hành vi “Giết người” gồm: Nguyễn Văn Tình (SN 1988), Nguyễn Văn Định (SN 1983) cùng ở huyện Vĩnh Bảo - TP Hải Phòng; Phùng Đắc Tú (SN 1994), Phùng Mạnh Tuấn (SN 1992) cùng ở xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc và Đặng Quốc Tú (đăng ký thường trú tại tỉnh Vĩnh Phúc) và Nguyễn Văn Bình (tức Bính Cong, SN 1997), cùng ở phường Đồng Tâm, TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Tiếp đó, cơ quan CSĐT bắt thêm Nguyễn Văn Hiệp (SN 1986, ở phường Hội Hợp, TP Vĩnh Yên) về hành vi không tố giác tội phạm và Nguyễn Anh Tuấn (SN 1992, trú tại huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) về hành vi che giấu tội phạm. Theo cơ quan điều tra, đến thời điểm này, chỉ có 8 bị can liên quan đến vụ án này.
Thượng tá Hà Văn Chí, Phó trưởng phòng PC45, công an tỉnh Vĩnh Phúc cho biết, đối tượng cầm đầu trong vụ này là Phùng Mạnh Tuấn. Sau khi Tuấn Anh trong tình trạng say rượu nói với một đối tượng “ trông mày già thế” thì xảy ra xô xát với nhóm này.
Phùng Mạnh Tuấn và Phạm Đắc Tú (Tú “đen”) hô lên: “Đánh chết nó đi” rồi cả nhóm lùa theo truy sát Tuấn Anh. Cả nhóm đã dùng tay, chân đánh Tuấn Anh. Có 2 đối tượng cầm theo dao song không chém được Tuấn Anh cái nào. Quá trình xảy ra rất nhanh, từ quán đến mương chỉ khoảng 50 mét. 
Phùng Mạnh Tuấn
Khi chạy gần đến cống, Tuấn Anh bị ngã. Đúng lúc đang nhổm dậy chạy thì Phùng Mạnh Tuấn lao đến đạp vào mông Tuấn Anh khiến nạn nhân bị lao đầu xuống mương. Lúc này nước bơm vào cống đã được gần chục ngày, sâu hơn 1 mét.
Trong cơn hăng máu, các đối tượng tiếp tục lội xuống mương dùng điện thoại soi song không thấy mới lội lên bờ bảo: “Kệ nó, anh em mình về”. Tuy nhiên, trước khi về thì nhóm này còn lấy thêm gạch- đá ném xuống nước. Khi khám nghiệm tử thi, nạn nhân chỉ có 1 số vết tím ở lưng, không đáng kể.
Theo Thượng tá Huy, thời điểm nạn nhân trên bờ và bị đạp còn sống nên mới có kết luận bị chết do ngạt nước. Bởi đây là nguyên nhân chính dẫn tới việc nạn nhân tử vong. Điều này phù hợp với cơ chế chết của anh Tuấn Anh, nghĩa là anh Tuấn Anh sau khi bị đánh đa chấn thương, trong người lại có hơi rượu nên khi bị đẩy xuống mương nước, không có khả năng phản kháng (dù chưa bị chết), từ đó dẫn đến bị ngạt nước và tử vong.

Đoàn Ngọc Tú
(Infonet) 

Tiền đâu ra xây dựng Nhà thờ tổ ông Nguyẽn Sinh Hùng?

Cả tuần trước dân cư trên mạng bàn tán xôn sao về việc Chủ Tich Nguyễn Sinh Hùng làm lễ động thổ xây nhà thờ Tổ của mình ở Nghệ An vô cùng Hoành tráng. Nhưng không ai biết tiền ở đâu ra và sẽ tốn bao nhiêu để làm một khu đền thờ hoành tráng như vậy. Trên các tờ báo lề Đảng không ai nhắc đến tên một người phụ nữ luôn đi cạnh vị CHủ Tich Quốc Hội và đứng trong hàng xúc cát từ trong mấy mục gỗ đổ ra ngoài mà người ta gọi là lễ động thổ! Người đó chính là bà Thái Hương, vừa là chủ nhân của Ngân hàng Bắc Á, vừa là chủ công ty Cổ Phần TH với dự án nuôi bò tại 29 ha ở Nghệ An.

Bà Thái Hương - Người bỏ ra 150 tỷ để xây nhà thờ Tổ Nguyễn Sinh Hùng
Theo báo cáo đợc chính NH Bắc Á công bố đến 31/12/2011:
  1. Vốn chủ sở hữu 3.000 tỷ đồng
  2. Tổng dư nợ : 2.344 tỷ đồng, trong đó nợ NHNN 3.327 tỷ và nợ của các Tổ chức tín dụng khác là 8.957 tỷ - Đây chính là khoản tiền chi viện của Ngân hàng Phát triển nông nghiệp (Gọi tắt Agribank) và BIDV, đến giai đoạn hiện nay số tiền được hai ngân hàng này chi viện đã trên 10.000 tỷ.
  3. Đồng thời chính Công ty CP TH của bà Thái Hương cũng được chính Agribank và BIDV cho vay từ nguồn vốn ưu đãi của Chính Phủ dành cho nông dân lên tới 10.000 tỷ đồng chỉ trong vòng 08 tháng vừa qua.
Lễ động thổ
Một câu hỏi đặt ra: Trong khi Ngân hàng nhà nước (NHNN) đang xiết chặt tín dụng, không có bất cứ một doanh nghiệp nào có thể vay được tiền và hơn 200.000 doanh nghiệp đã chết, vậy bà Thái Hương là ai mà được ưu ái như vậy? Xin thưa: Thứ nhất, Bà Thái Hương là người đồng hương với Chủ tich Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng. Thủ Tướng Dũng và Thống đốc Bình đã ra tay giúp bà Thái Hương để đổi lại ủng hộ của Nguyễn Sinh Hùng và đó là lý do vì sao tại Quốc hội khoá 3 này Thống đốc Bình đã thoát chất vấn cho dù rất nhiều bức xúc của cử tri cả nước gởi gấm Đại biểu của mình cần có câu trả lời khi chỉ một thời gian ngắn lên tại vị ở vị trí Thống đốc NHNN đã làm cho nền kinh tế bị suy thoái với việc xuất hiện hàng loạt những việc bất bình thường trong chính sách và trong thực hiện tái cấu trúc ngân hang mà dư luận cả nước xôn sao về sự chi phối bởi nhóm lợi ích ….
Thứ hai, để trả công, chính bà Thái Hương là người đã và sẽ bỏ ra 150 tỷ đồng xây dựng đền thờ Tổ cha mẹ Bác Hồ mà ngày 10/6/2012 vừa rồi Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng đã về dự lễ động thổ.

Quy hoạch tổng thể Nhà thờ Tổ của Nguyễn Sinh Hùng

Thực chất đến thời điểm tháng 9/2011, Ngân hàng Bắc Á đã mất trắng 5.000 tỷ đồng do chính bà Thái Hương lợi dụng mình cũng là chủ của NH Bắc Á nên đã rút toàn bộ tiền huy động của dân trên 9.000 tỷ tài trợ cho các dự án của mình và không có khả năng trả nợ. Thay vì, NH Bắc Á sẽ phải đưa vào danh sách tái cấu trúc, sáp nhập và bà Thái Hương chắc chắn sẽ bị khởi tố vì những hành vi phạm pháp của mình trong việc cố tình lừa đảo lấy tiền của người dân đổ cho dự án của riêng mình dẫn đến không có khả năng trả nợ. Vậy mà lại được NHNN cùng hai ông anh cả Agribank và BIDV rót xuống 10.000 tỷ đã phù phép biến bà Thái Hương không những thoát khỏi phá sản, tù tội, lại bỗng nhiên trở thành doanh nhân ‘có tâm’ ‘xây dựng nhà thờ tưởng nhớ đến ông tổ của Đảng CSVN’!
Lấy được 10.000 tỷ của nhà nước, lại thoát tù tội mà chỉ phải chi có 1.5% - 150 tỷ đồng thì cũng còn quá hời! Đúng là “không nghề nào ‘hời’ bằng nghề mua vua, bán chúa” – Câu nói của Lã Bất Vi dù hang ngàn năm rồi quả vẫn không ngoa!
Tóm lại: Nếu doanh nghiệp nào muốn vay được tiền của Ngân hàng thì cần phải xây them mấy cái nhà thờ Bác Hồ nữa!
(QLB) 

Việt Nam quyết tâm gia nhập Hiệp định TPP

Đại sứ Marantis đã gặp nhiều giới chức cao cấp của Việt Nam
Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nói với Quyền Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Demetrios Marantis rằng Việt Nam quyết tâm gia nhập Hiệp định TPP.
Đại sứ Marantis đang có chuyến thăm làm việc kéo dài ba ngày, bắt đầu từ 21/4, để thảo luận với giới chức cao cấp của Việt Nam về việc Việt Nam đàm phán gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong thời gian tới.
Hôm thứ Ba 23/4, ông Marantis đã hội kiến Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trước khi gặp ông Vũ Văn Ninh, theo website của cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ.
Chủ tịch Sang được dẫn lời "đề nghị hai bên cần tăng cường trao đổi, rút ngắn lộ trình đàm phán TPP".
Ông nói: "Việt Nam sẽ nỗ lực tối đa và mong muốn nhận được sự giúp đỡ về kỹ thuật của Mỹ, thúc đẩy đàm phán thành công, tạo tiền đề nâng tầm quan hệ Việt Nam - Mỹ".
Trong khi đó, Quyền Đại diện Thương mại Marantis đánh giá rằng "để hoàn tất đàm phán TPP vào tháng 10 năm nay, Mỹ và Việt Nam còn nhiều nội dung cần trao đổi để đi đến thống nhất".
Phát biểu của ông Marantis cho thấy quá trình đàm phán của Việt Nam còn nhiều khó khăn tuy thời gian không còn nhiều.

Ông Demetrios Marantis và ông Vũ Văn Ninh (ảnh của website Chính phủ)
Ông Demetrios Marantis và ông Vũ Văn Ninh (ảnh của website Chính phủ)
Quyền lao động

Cuộc gặp đầu tiên trong chuyến công du của ông Demetrios Marantis là với Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội Nguyễn Thanh Hòa, trong đó hai bên thảo luận việc sửa đổi Luật Lao động và Công đoàn của Việt Nam trong bối cảnh gia nhập TPP.
Quyền lao động được cho là một yếu tố quan trọng trong đàm phán TPP của Việt Nam.
Sau đó Đại sứ Marantis đã gặp Thứ trưởng Công an Tô Lâm, trong đó ông đã đề cập một số quan ngại của Hoa Kỳ, trong có việc Việt Nam ngăn chặn các website bất đồng chính kiến và liên hệ giữa quan hệ thương mại song phương với tình hình nhân quyền.
Cải thiện nhân quyền là một trong các đòi hỏi của không chỉ Hoa Kỳ mà còn của nhiều quốc gia Phương Tây để tăng cường hợp tác kinh tế.
Giới quan sát bình luận rằng Chính phủ Việt Nam thường đưa ra các nhượng bộ về nhân quyền trong khi đàm phán các hiệp định hợp tác quan trọng; và ngược lại, các nước liên quan cũng lấy nhân quyền làm chủ đề để gây áp lực với Hà Nội.
Đại sứ Marantis còn gặp Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, trong đó ông thảo luận các cơ hội TPP có thể mang lại cho Việt Nam, cũng như các vấn đề chính còn đang phải thương lượng, như tiếp cận thị trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư và thương mại điện tử.
Với Bộ trưởng Tài Nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang, ông Demetrios Marantis đã bàn các vấn đề buôn bán trái phép động vật hoang dã, khai thác gỗ trái phép và trợ giá cho ngư nghiệp, trong các đòi hỏi chung ngặt nghèo về bảo vệ môi trường.
Hiệp định quan trọng
Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam.
Thương mại hai chiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng từ 1 tỷ đôla năm 2001 tới 26 tỷ vào năm ngoái.
Hiệp định TPP có thể làm tăng mạnh con số đó và được cho là có lợi cho cả hai bên.
Trong buổi tiếp Đại sứ Marantis chiều 23/4, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh khẳng định "Việt Nam nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Hiệp định TPP, theo website Chính phủ.
“Từ một thành viên liên kết, Việt Nam đã trở thành thành viên đàm phán chính thức. Trải qua nhiều vòng đàm phán, các bên đều đạt được những tiến bộ quan trọng. Điều này khẳng định quyết tâm của Chính phủ Việt Nam”, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nói.
(BBC)

Trần Mạnh Hảo - Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?

images
Ông Trần Mạnh Hảo
Lời mào đầu của tác giả: Tôi viết bài thơ này sau khi đọc bài thơ “ Đất nước những tháng năm thật buồn” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Xin cám ơn nhà văn Nguyễn Quang Lập đã đăng bài thơ này trên trang web Quê choa (tại đây) ngay sau khi tác giả gửi đến.
Cũng xin cám ơn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã gợi hứng cho tôi viết bài thơ “Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng ?”. Nguyễn Khoa Điềm thế hiện trong bài thơ “ Đất nước những năm tháng thật buồn” là một con người cô đơn tuyệt đối trong một xã hội mà đảng cộng sản muốn tập thể hóa cả tấm hồn con người. Sao trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa vui hơn tết này mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại thấy đất nước mình buồn thảm dường ấy ? Những câu thơ tuyệt hay mà nhà thơ rút ra từ gan ruột đã làm tôi choáng váng :

Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội

Có còn bay trong đêm

Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?

Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng

Mong gặp một con cá hanh khác ?



Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má

Không phải gạt vội vì xấu hổ

Ngước mắt, tin yêu mọi người



Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta

Trong không gian đầy sợ hãi ?



Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ “ thời chống Mỹ” gần như duy nhất còn có thể làm được thơ hay. Maiacopxki từng nói : “Anh có thể dối em tất cả nhưng trong thơ anh không thể dối”. Tôi không tin vào những bài thơ nhàn nhạt, tôi chỉ tin vào thơ hay. Anh Điềm làm thơ hay như thế khiến tôi tin anh đang thành thật bộc lộ con người cô đơn, con người gần như tuyệt vọng vào một đất nước đang bị băng hoại như đất nước ta hôm nay. Có khá nhiều người vẫn lên án nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chỉ vì anh đã từng là ủy viên bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam phụ trách trưởng ban tuyên giáo…Xin nhắc lại một câu danh ngôn phương Tây : “ Quyền lực làm tha hóa con người”. Vâng, đã đi theo ma thì phải mặc áo giấy. Nếu Trần Mạnh Hảo hay nhà thơ Bùi Minh Quốc… do ma đưa lối qủy dẫn đường mà bỗng dưng vào được bộ chính trị đảng cộng sản, biết đâu ta lại chẳng sắt máu hơn anh Điềm hồi ấy…, biết đâu ta vẫn còn diện áo giấy để làm ma văn học ? Hãy để anh Điềm được quyền làm một nhà thơ công dân, được quyền mặc áo vải, được nói thật với trang giấy và độc giả bằng những vần thơ nhỏ máu…
Tôi bắt đầu yêu quý lại nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng bài thơ rất hay này của anh…

ĐẤT NƯỚC CÓ BAO GIỜ BUỒN THẾ NÀY CHĂNG ?

Thơ Trần Mạnh Hảo


Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ

Những dòng sông là đất nước thở dài

Chó sủa trăng nhà ai ?

Không phải vầng trăng đất nước



Tôi ngồi ngót bảy mươi năm

Chờ một lời nói thật

Bầy sói tru ý thức hệ lang băm

Người nông dân bị cướp đất phải hát bài dân chủ

Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi



Đất nước đang treo trên sợi chỉ mành

Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa 4 tốt

Có kẻ rước giặc lên bàn thờ

Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa

Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ



Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó

Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân

Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột

Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm thần

Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc

Đám gà què bàn hiến pháp cối xay



Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay

Những thiên đường vỡ chợ

Những học thuyết đứng đường

Hoàn lương tượng đài

Hoàn lương chân lý

Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn lương



Không ai đuổi cũng giật mình bỏ chạy

Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự do

Mơ được đứng bên lề đường

Nói một câu gan ruột

Đất nước buồn

Đất nước bị ruồi bu



Đất nước bị cầm tù trong ngực trái

Chưa kịp nghĩ một điều gì

Sao đã toát mồ hôi ?

Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi ?


Lý tưởng của loài dơi là muỗi

Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn

Không ai tin vào hoa hồng nữa

Không ai tin vào dơi nữa

Dơi trở về làm chuột khoét quê hương


Sài gòn 24-4-2013

Trần Mạnh Hảo
(Quê Choa) 

Nguyễn Ngọc Già: Trần Huỳnh Duy Thức - Tình Yêu Kỳ Diệu



Tôi đã từng hỏi nhà tôi: Nếu anh bị bắt như những người tù nhân lương tâm thì sao?
Em không biết, dù đã từng vài lần nghĩ về điều này. Em cũng không biết, lúc đó em có đủ bản lĩnh đấu tranh cho anh như những người vợ khác không nữa, nhưng có một điều chắc chắn: em sẽ chờ anh, chờ anh về cho đến khi nào em còn sống - nhà tôi nhẹ nhàng trả lời.
Câu trả lời giản dị của nhà tôi làm tôi chợt nhớ đến vợ anh Trần Huỳnh Duy Thức.
Tôi không biết chị là ai, ngoài một bài báo cũ gần 4 năm về trước cho hay chị có tên Lê Đính Kim Thoa, khi đài BBC phỏng vấn về tình trạng chồng mình.
Từ một lá thư, anh Thức viết trong tù [1]:
"...ánh mắt Mẹ vẫn còn một số lo âu, dù đã bớt rất nhiều. Ba rất hiểu những lo âu đó. Nhưng hãy vứt bỏ tất cả, tất cả mọi lo âu và sống vui, thật vui và lạc quan Mẹ à. Chúng ta cần có sự quan tâm cần thiết nhưng không bao giờ cần đến sự lo âu cả. Đừng lo lắng về những gì mà chúng ta không thay đổi được. Ba từng đọc một tài liệu thống kê rằng 92% nỗi lo âu của người Mỹ là vô ích hoặc chẳng có căn cứ gì, chúng chỉ mang đến cho họ những phiền não, khiến họ chẳng làm được việc gì, rồi từ đó làm họ càng lo âu, càng bị cuốn vào vòng xoáy của chúng. Trong mọi hoàn cảnh, ta hãy chủ động chấp nhận tình huống xấu nhất rồi giữ nỗ lực để đạt được càng trên mức đó càng tốt, như vậy sẽ tạo cho ta một tâm lý tích cực, thấy mọi việc dần tốt lên, không thể xấu hơn được nữa. Điều tác hại nhất đối với tâm lý con người là bị rơi vào cảm giác ngày một xấu đi, hoặc hy vọng rất nhiều rồi thất vọng, chúng ta đã chấp nhận được tình trạng xấu nhất, giờ nó cũng qua rồi..."
và từ những vần thơ anh viết cho chị [2]:
Chốn lao tù thân xác anh xiềng xích
Nhưng Con đường anh vẫn bước dưới trời thu
Bão tố mưa giông sóng dữ thác ghềnh
Không ngăn được anh đi về phía trước

Em hãy vui lên bão dữ sắp qua rồi
Anh đã thấy bến chờ em đứng đợi
Gió đông chiều thoảng hoa rừng thơm mát
Biết chăng em xuân đang đợi én về
Tôi mường tượng về hình ảnh của chị nhưng mãi không phác họa ra được bức chân dung như mình muốn...
Gác lại để đó, bởi không thể vẽ một người với vóc dáng mờ ảo, đó là bức chân dung nhạt nhòa, không phản ánh được cái "thần" cần chuyển tải đến người đọc, dù chị đã gây ấn tượng mãnh liệt với tôi bằng câu nói giản dị và bình thản [3] sau khi chồng đã thụ án 2 năm:
“Anh ấy đâu có tội gì đâu nên vẫn bình thường, tinh thần vẫn ổn như cũ vậy thôi. Vẫn giữ vững lập trường từ xưa đến giờ.”
Công việc, những biến cố, sự kiện xã hội kéo tôi đi và lãng quên chị, nhưng hình ảnh chị vẫn thấp thoáng đâu đó bởi ít nhất một câu hỏi bám riết trong đầu tôi: Chị đã phản ứng như thế nào ngay trước lời tuyên án tàn khốc đối với chồng mình: 16 năm tù giam và 5 năm quản chế? Câu hỏi cứ ám ảnh tôi, bởi đó là "kỷ lục" cao nhất trong mười năm trở lại đây cho những người đã thành án chính thức sau phiên phúc thẩm. 
***
Sài Gòn hôm nay không nắng. Màn trời bàng bạc mây xám ảm đạm với cơn mưa lất phất suốt ngày, lên tiếng báo hiệu cho mùa hè đang tới. Những ngày này làm tôi chạnh lòng nhớ về những ngày hỗn độn trên quê hương của 38 năm về trước. Quãng thời gian này của ngày xưa, nhà nhà nhốn nháo, xã hội bấn loạn vào ban ngày cùng với những đêm giới nghiêm thật lặng lẽ mà căng thẳng, hồi hộp với tiếng đại bác vẫn ầm ì dội về cùng những hỏa châu, chốc chốc lóe sáng đầy trời như ánh mắt đỏ ngầu của những ai không thể ngủ. Mấy má con tôi thì khấp khởi hy vọng và chờ mong tin anh trai tôi từ Côn Đảo trong cái nóng hầm hập của mùa hè. 
Rồi hội ngộ trong chan hòa nước mắt, sau những tháng năm xa cách biền biệt không chút tin tức của cái thuở truyền thông ngày xưa còn lạc hậu.
Mấy ngày nay, tin tức bỗng hỗn loạn vô cùng, từ phủ nhận việc đổi tiền cho đến những tín hiệu đen đủi của các ngành kinh tế, cho thấy sự thất bát trở nên vô phương cứu vãn cùng với việc xuất hiện những trang blog mới, lạ và kỳ quái v.v... Những thông tin ở đó như đánh phủ đầu tất cả. Loạn xạ. Hồ đồ và mất phương hướng. Chừng như không phải là vài ba phe đang đánh nhau mà tới những chục phái có lẻ! Điều này chứng tỏ bộ máy tuyên truyền và định hướng của giới cầm quyền hoàn toàn mất kiểm soát, hầu như bất lực với châm ngôn "hồn ai nấy giữ".
Nhớ đến lời của Thức, tôi càng cảm phục tài năng dự báo chuẩn xác của anh khi nhiều lần nhấn mạnh [4]: "...trong những bối cảnh chính trị tương tự như Việt Nam hiện nay, sự thay đổi sẽ diễn biến rất nhanh một khi lực lượng cơ hội phá vỡ thế cân bằng trong nội bộ của một Đảng toàn trị...". Những thước "phim âm bản" của 7 năm về trước mà Thức đành bỏ dở nửa chừng vì án tù, nay đang dần thay thế bằng "dương bản" ngày càng mồn một cho bộ phim "xã hội Việt Nam - những điểm chết tận cùng" đang rõ rệt hơn bao giờ hết. 
Khả năng dự báo khoa học chuẩn xác của anh càng chỉ ra một con người sáng suốt trong mọi hoàn cảnh và bình tĩnh trong mọi tình huống. Con người ta chỉ đạt đến độ tĩnh tâm mới có thể làm được như vậy. Ở đây, tôi phát hiện ra Thức trong tư cách một con người biết yêu và yêu tha thiết như Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết trong tác phẩm "Anger": Patience is the mark of true love (Tạm dịch: Sự kiên trì là chỉ dấu của tình yêu chân thật). Không xuất phát từ đó, chắc anh khó lòng truyền nghị lực cho vợ mình bình thản đối diện với án tù nghiệt ngã mà anh nhận lãnh.
Không những thế, không có tình yêu chân thật ở nghĩa rộng hơn xuất phát từ tính kiên trì hiếm có, anh cũng khó lòng bình thản và lạc quan, vững tin vào con đường đã chọn, sau khi đã chấp nhận toàn bộ tài sản mấy trăm tỉ đồng biến mất. Còn gì để bàn cãi về sự kiên trì mà từ đó tạo nên tình yêu - tình yêu cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng mà không phải ai cũng có được? 
Không biết giông tố bao giờ nổi lên, nhưng dù cho tạo hóa trút cơn thịnh nộ đến cỡ nào đó cũng không làm cánh Đại Bàng e sợ, bởi đặc tính của Đại Bàng - vua của các loài chim - là cách đón đầu cơn bão. Khi cơn bão sắp tới, không như tất cả mọi loài chim đều tìm cách chạy trốn, Đại Bàng bay đến một đỉnh núi thật cao và đậu ở đó để chờ. Một khi cơn bão ập tới, Đại Bàng đón đầu và dùng chính sức mạnh của cơn bão để đưa đôi cánh mình bay vút lên bầu trời, cưỡi lên cơn bão đang gào thét bên dưới.
Trả lại đất trời bình yên sau cơn bão lớn, Đại Bàng trở về với thiên chức của mình, thách đố với những ngọn núi cao hơn và nó xứng đáng nhận vai trò thủ lĩnh trong những cuộc chinh phục mới.
***
Khuất sau những gì kiên trì lại ôn hòa, dũng mãnh lại dẻo dai, cương mà không cứng, nhu nhưng không nhược, Trần Huỳnh Duy Thức vẫn chứng tỏ tâm hồn êm ả và lãng mạn như vốn có từ những vần thơ anh viết cho vợ, cho mẹ, cho cha. Anh quả là người may mắn và diễm phúc khi có một gia đình và những người bạn hiểu đúng con đường anh chọn.
Có chăng, còn một chút lắng đọng mà tôi muốn gởi đến anh trong lao khổ vẫn đầy ắp tình yêu. Tình yêu của anh đôi khi như những đợt sóng dập dồn vỗ vào ghềnh đá; lúc lại thiết tha, bỏng cháy như ngọn lửa hồng trên bãi biển mênh mông; có khi thầm thì, mượt mà như bàn tay mềm ấm vỗ về nỗi đau nhân thế. 
...Và cho cả chị - Lê Đính Kim Thoa:
Có bỡ ngỡ là mặt trời bỡ ngỡ.
Có xôn xao là sỏi đá xôn xaọ
Cánh tay anh, anh đã dặn nằm im.
Ðể người yêu thả trôi suối tóc mềm
Ðôi mắt anh đã trở thành tinh tú.
Ðứng thật xa canh chừng giấc ngủ ngon.
Anh canh chừng con thuyền lạ đi ngang.
Sẽ chở em về quê hương thần thoại
(Kỳ Diệu - Anh Bằng) [5]

http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=WIbhzD7qN60

Ai cũng có một thời tuổi trẻ để sống và để yêu. 
Bạn hãy lắng nghe đi! Lắng nghe để giật mình đến thinh lặng, bởi không chỉ những ca từ kiêu sa mà nồng cháy, ở đó toát lên cả một vùng trời bình yên sau cơn bão lớn của những con người thủy chung và say đắm; tái tê đến nồng nàn.
Rồi "Con thuyền lạ" sẽ ngang qua để đón anh cùng đưa người vợ hiền về "quê hương thần thoại". Hơn cả như vậy, chắc chắn một điều: niềm tin "canh chừng" giấc ngủ cho chị sẽ mãi là "hằng số" trong anh.
Trần Huỳnh Duy Thức - Lê Đính Kim Thoa, Anh - Chị có quyền tự hào về tình yêu của mình. Không chỉ là "quê hương thần thoại" bước ra từ những nốt nhạc lóng lánh như dải lụa mà nó trở thành sự thật trong cõi nhân sinh.
Trần Huỳnh Duy Thức - Lê Đính Kim Thoa xứng đáng để ngợi ca với tư cách những Con Người Thủy Chung và Cao Cả!
Nguyễn Ngọc Già
________________

[1] Những lá thư của Trần Huỳnh Duy Thức gửi từ trong tù ra (1) (Dân Luận)
[2] Những bài thơ của Trần Huỳnh Duy Thức (Dân Luận)
[3] Vụ Lê Công Định – vì đâu nhận tội? (Dân Luận)
[4] Thanh Hương - Vì sao sắp có một liên minh chính trị ở Việt Nam? (tiếp theo và hết) (Dân Luận)
http://www.youtube.com/watch?v=WIbhzD7qN60 [5]
(Dân luận)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét