TS. Tô Văn Trường - Chính phủ, chính danh của Hiến pháp là gì?
Điều này khiến cho một số nhà trí thức cao niên, cao kiến vàkhá nổi tiếng trong nước tỏ thái độ bất bình.Có vị nói: “Ô, hóa ra mình nhiệt tình, vô tư, đưa cả sự nghiệp và uy tín ra “thế chấp”, lại moi óc huy động lượng nơ-ron thần kinh tỉnh táo để góp ý với Đảng, hóa ra nay bị “quy vào” suy thoái. Một số vị gọi điện và gửi thư E.mail đến tôi, nói là: “Chắc phải có thư hoặc tâm sự cá nhân nào đó gửi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói rõ điều này”. Tôi mạnh dạn khuyên, chưa chắc ông ta đã tiếp thu, cái kiến nghị của 72 vị đứng ra đại diện là quá đủ rồi. Làm gì mà TBT không biết? Mà nếu biết, thì ông ta đã không phát biểu như vậy. Nghe thế, có vị nói với tôi: “Thôi, có gì đành ‘ngậm đắng nuốt cay’ vậy, cũng phải ‘đành nhắm mắt đưa đưa mồm / Thử xem con tạo nó…bò lồm ngồm đến đâu’. Đành lòng vậy, cầm lòng vậy”.
Suốt chiều, tôi cứ nghĩ: Khi các nhà trí thức còn tin tưởng là Đảng sẽ có đổi mới, đảng sẽ mạnh bạo sửa sai, đảng sẽ biết nghe tiếng nói thẳng nói thật, thì mới đưa kiến nghị như vậy. Mất công lắm, suy tư trăn trở lắm, chọn nội dung, chọn câu chữ, tu từ học mới ra được bản kiến nghị đó. Vậy mà nay đến TBT cũng bàng quan, còn bị “quy vào” như thế thì đau lắm! Đến trí thức còn bị đối xử vậy, thì ý kiến người dân có là “cái đinh” gì không?
Người dân tích cực, hào hứng, tham gia đóng góp ý kiến với Đảng chỉ khi có lòng tin của họ và mong muốn của Đảng được xây dựng trên nền tảng dám nhìn thẳng vào sự thật, thảo luận một cách công khai và dân chủ cùng với cả nước để tìm lối đi cho đất nước. Phát huy dân chủ là tạo cơ chế để người dân, đặc biệt giới trí thức tham gia vào mọi mặt của cuộc sống, nhất là phản biện xã hội. Phản biện cần phải được thực hiện trong quá trình hình thành, tạo ra cơ chế, đường lối, chính sách chứ không phải sau khi đã ban hành để tránh không còn phải xé rào! Ngay khi tổng kết rút kinh nghiệm đổi mới từ năm 1986 người dân đã được biết qua bài viết của GS Đặng Phong cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự: “Những cuộc điều tra thăm dò khách quan, vai trò của báo chí, vai trò của Quốc hội, các cơ quan nghiên cứu độc lập đã không có điều kiện để phát huy hết hiệu quả. Có nơi, chúng chỉ mang nặng tính chất hình thức, như những vật làm cảnh hơn là những công cụ hữu hiệu của xã hội. Thay vào đó là một hệ thống những kênh thông tin khép kín, vừa chậm chạp, vừa nghèo nàn và méo mó. Trong nhiều trường hợp, sự méo mó đó cộng với quyền uy đã dẫn tới những sai lầm mang nặng tính chủ quan, duy ý chí, mà sau này Đại hội Đảng lần thứ VI đã kiểm điểm và phê phán nghiêm khắc.”
Trong thời gian vừa qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng (Đảng quản và dân tự phát) đã có nhiều người viết góp ý với Đảng tùy theo chỗ đứng, góc nhìn về những điều mình mong muốn nhất hoặc thấy rõ nhất. Có nhiều bài viết chỉ 1 đến 3 trang nhưng có bài viết công phu đến hơn 40 trang, rất tâm huyết, quan tâm, trăn trở lo lắng về vận mệnh của đất nước. Nhiều phân tích, đề xuất sắc sảo, thẳng thắn mang tính đột phá về tư tưởng và hành động của các vị lão thành cách mạng, cán bộ nghỉ hưu, cựu chiến binh, giới trí thức, tiếc rằng vẫn chưa được làm rõ nét trong Dự thảo văn kiện! Phải chăng do ngôn ngữ bất đồng theo nghĩa nói bằng thứ tiếng khác nhau hay là do các vấn đề liên quan về phương thức, cách thức lắng nghe tiếp thu ý kiến?! Theo thiển nghĩ của tôi, nếu tiếp tục cất công làm phép quy chiếu, đem so sánh kết cấu, từng câu chữ, để tranh luận tìm ra vài ý mới hay nhiều chỗ khác xa với Hiến pháp 1992, nhưng hầu như đã báo động trước là chẳng giải quyết được vấn đề gì, bởi vì gò bó vào câu chữ rất bảo thủ, trì trê, sẽ bị cuốn theo lối mòn.
Dù có viết góp ý hay đến mấy cũng thế thôi khi mà cốt lõi của vấn đề là người ta viết văn kiện vẫn theo lối tư duy, thói quen xưa nay là “ý Đảng, lòng Dân” vừa không chuẩn, vừa quá cảm tính. Thực ra, phải đặt ngược lại: Nguyện vọng của nhân dân phải trở thành ý chí của Đảng. Nhận thức là cả quá trình, tiếc thay cho đến tận ngày nay, người ta vẫn coi câu khẩu ngữ “ý Đảng, lòng Dân” như sự phát kiến vĩ đại. Ý là nói về lý trí, lý tính, duy lý có tính chất rất quan trọng, mang tính trí tuệ, thể hiện trong tư duy, định hướng, tầm nhìn, phương pháp luận, giải pháp v.v… Lòng có thể hiểu là thể hiện tình cảm, mong muốn. Chỉ khi nào viết dự thảo bổ sung, sửa đổi Hiến pháp và các văn kiện văn kiện phù hợp với thực tế đúng đắn, sáng tạo, phong phú, sâu sắc được xây dựng trên quan điểm “ý Dân, lòng Dân” thì mới có giá trị đi vào cuộc sống. Ngày xưa, Tư Mã Thiên có nói đại ý như sau: “Người phụ nữ làm đẹp vì người mình yêu, còn kẻ sĩ dốc sức vì tri kỷ”. Ngày nay, suy rộng ra, nếu Đảng với Dân là tri kỷ thì Đảng phải nghe Dân và Dân sẽ dốc lòng vì Đảng.
Tôi chỉ đơn cử một vài ví dụ về quan điểm và các giải pháp đưa ra cần phải xem xét lại vì không logic, không được lòng dân. Lâu nay, nhiều vụ khiếu kiện gây bất ổn trong xã hội chính là liên quan đến vấn đề cho nhà nước toàn quyền phân phối "quyền sử dụng đất"! Câu hỏi được đặt ra là tại sao một chính quyền dù ở bất cứ vị trí nào từ trung ương đến địa phương có quyền lấy đất canh tác của dân để giao cho một doanh nghiệp khi cả hai về mặt luật pháp là hai thực thể kinh tế độc lập và giống nhau!? Ở các nước, chỉ có thể lấy lại đất tư nhân nếu như sử dụng để xây dựng công trình công cộng như đường sá, công viên, sân bay, bến cảng v.v… chứ không có quyền lấy đất giao cho doanh nghiệp. Làm như thế là phân biệt đối xử, vi phạm hiến pháp. Nếu vì lý do kinh tế mà lấy lại thì phải có cơ chế bảo đảm không có phân biệt đối xử, thí dụ thông qua quyết định của cộng đồng và sau khi nhà nước lấy lại, phải có đấu giá để mọi người tham dự. Vậy cái câu: “Đất đai là sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý vẫn nằm lù lù trong Hiên spáp và các bộ luật! Tự nó đã mâu thuân rồi. Làm gì có chuyện một người sở hữu và một ngươi được toàn quyền quản lý? Thế thì cái gọi là “sở hữu” là tiếng nước nào mà người dân không có chút quyền gì về đất đai?
Từ trước đến nay, chúng ta quen nói đến “ý Đảng, lòng Dân”. Hô lên, rồi cùng nhau nói hoài, đến mức thành khẩu hiệu! Lịch sử cũng đã chứng minh rằng sức mạnh của Đảng là nằm trong khối đại đoàn kết toàn dân, thành công của Đảng là bởi các quyết sách của Đảng đưa ra phù hợp với “lòng Dân”. Bởi vậy đã đến lúc phải nhận thức rằng “ý Đảng” cũng là “ý Dân”, từ đó có thể nói cụm từ quen thuộc trên thành “Đảng cần phải biết Ý Dân, lòng Dân” vừa đúng nghĩa, vừa sâu sắc hơn.
Tôi tán thành những lý giải về chủ đề này của tác giả Đặng Văn Huấn trong bài Đầu năm nói chuyện ‘chính trị', đăng trên TuanVN.net ngày 25-2: “Hiến pháp phải xây dựng được mô hình sinh hoạt dân chủ, hạn chế tập trung quyền lực và lạm dụng quyền lực. Cụ thể là phải bảo vệ các quyền công dân được phản biện, tập hợp và giám sát nhà nước, đúng với tinh thần khẩu hiệu "dân bàn, dân làm, dân kiểm tra… Phải coi đây là một hình thức sinh hoạt chính trị dân chủ thực sự nhằm phát huy tiếng nói, nguyện vọng, lợi ích chính trị của người dân, và các lực lượng xã hội. Đây chính là một cơ hội lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thu thập những tinh hoa trí tuệ trong nhân dân, để dám thay đổi những gì đã cũ kỹ, lạc hậu từ đó hội nhập với thế giới”.
Để Hiến pháp thực sự có sức sống, nội dung phải được xây dựng trên tinh thần cầu thị, dân chủ lấy “Dân làm gốc”. Các vấn đề Đảng nêu ra xuất phát từ ý Dân, lòng Dân sẽ được sự ủng hộ của Dân, chỉ khi đó nội dung văn kiện, các câu chữ, khẩu hiệu mới biến thành sức mạnh vật chất để lần này có một bản Hiến pháp thực sự khoa học, hiện đại, văn minh. Tại sao lòng dân nói ra thì bị “quy vào là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức …”. Vậy, cái gì cũng ý đảng tuốt luốt, dân không được quyền “xía” vào chuyện gì cả, thì hô hào đóng góp gọi là “rộng rãi”, thực chất chỉ là mang cái tiếng dân chủ hình thức để làm gì? Hiến pháp của ai, cho ai, vì ai? Có đi vào đời sống được hay không? Hay sửa đổi, bổ sung lần này chỉ thêm rách chuyện nát băm rồi lớp sau lại sửa tiếp hoặc thậm chí nước ta bị sạt nghiệp vì không có Hiến pháp thực sự đầy đủ, trí tuệ, hoàn hảo, chính chủ, chính danh?
TS. Tô Văn Trường
Hiến pháp phải là mái nhà bảo vệ nhân dân
Hiến pháp không chỉ là câu chuyện xa vời của các chính khách nhằm
thiếp lập thể chế quyền lực cho thượng tầng chính trị, ngược
lại, nếu được vận dụng nghiêm cẩn, sẽ gắn sát sườn và bảo vệ trực
tiếp quyền lợi của tất cả công dân.
Một câu chuyện nhỏ về Hiến pháp Mỹ nhưng liên quan tới Việt Nam để minh họa, vụ kiên Tinker v. Des Moines được phán quyết bởi Tòa tối cao Mỹ năm 1969.
Chuyện nhỏ mà không nhỏ, bởi đây là một trong những vụ kiện tiêu biểu và nổi tiếng nhất trong lịch sử vận dụng Tu chính án số một của Hiến pháp Mỹ̀.
Tu chính án số một được phát biểu như sau trong Hiến pháp Mỹ: “Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào liên quan tới việc tổ chức tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hoặc hạn chế tự do ngôn luận, báo chí hoặc quyền của dân chúng được hội họp một cách hòa bình, và quyền khiếu kiện Chính phủ nhằm thay đổi những thực tế đang gây bất bình”.
Người dân Mỹ biểu tình trong những năm 1970 để phản đối chiến tranh tại Việt Nam. Ảnh: Linzik
Câu chuyện bắt đầu vào một ngày tháng 12/1965, một nhóm học sinh lớn tụ tập ở căn nhà của cậu Christopher Eckhardt, 16 tuổi ở tiểu bang Iowa. Họ quyết định thể hiện thái độ phản kháng đối với sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam bằng việc đeo băng tay màu đen khi tới trường trung học Des Moines.
Ban giám hiệu trường Des Moines bằng cách nào đó đã biết trước được ý đồ của nhóm học sinh. Ngày 14/12, ban giám hiệu nhóm họp và ra một điều luật mang tính ngăn chặn: buộc học sinh nào đeo băng đen tới trường phải gỡ bỏ, nếu không, sẽ bị cho thôi học cho tới khi nhận thức ra vấn đề.
Nhóm học sinh “nổi loạn” đã biết được chính sách mới của nhà trường, tuy thế, họ không lùi bước. Sáng 16/12/1965, cô bé Mary Beth 13 tuổi và cậu Christopher Eckhardt 16 tuổi vẫn đeo băng đen tới trường để phản đối Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Hôm sau, cậu bé John Tinker 15 tuổi cũng thực hiện hành vi tương tự. Họ đều bị nhà trường đuổi về với lời đe dọa: khi nào không đeo băng tay nữa thì hãy tới trường. Nhóm “nổi loạn” lại tiếp tục thể hiện sự phản kháng bằng cách ở nhà cho tới hết năm. Còn hơn thế, thông qua cha mẹ, họ khởi kiện lệnh cấm đeo băng đen của nhà trường vì cho rằng điều luật ấy là vi hiến, xâm phạm tới quyền tự do ngôn luận được ghi trong Tu chính án số một của Hiến pháp.
Vụ án được Tòa án Quận xem xét và sau khi điều trần, tòa án bác bỏ cáo buộc của nhóm học sinh, với lý do: nhà trường có quyền hợp hiến trong việc ngăn chặn mọi hành vi gây rối loạn kỷ cương trường học. Nhóm học sinh tiếp tục kiện lên tòa án cao hơn nhưng cáo buộc tiếp tục bị bác.
Tính chất điển hình của vụ kiện đã khiến Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trực tiếp vào cuộc và quyết định tiếp nhận vụ án. Tại phiên xử ở tòa tối cao, 7 trong số 9 quan tòa đã đồng thuận và khẳng định: đeo băng đen trong trường hợp này hoàn toàn không thể gây ra và không liên quan gì tới việc gây rối, ngược lại, đeo băng đen là “ngôn luận thuần túy” được bảo vệ toàn diện trong Tu chính án số một của Hiến pháp̀.
Tòa phán: “Những nỗi sợ và lo lắng vô cớ về gây rối không thể đứng trên quyền tự do biểu đạt… Các trường công không phải là lãnh địa của độc quyền lãnh đạo. Các quan chức của trường không có quyền áp đặt tuyệt đối lên học sinh. Cả trường và học sinh đều là những thực thể nằm dưới Hiến pháp. Các học sinh đeo băng tay để biểu lộ sự bất đồng của họ đối với cuộc chiến Việt Nam cũng như ủng hộ việc ngừng bắn, các em muốn hành vi ấy được mọi người biết và từ đó làm theo… Trong trường hợp này, Hiến pháp không cho phép các quan chức nhà nước được khước từ quyền tự do biểu đạt ấy của các em”.
Tòa án Tối cao đã lật ngược lại toàn bộ phán quyết của các tòa cấp thấp hơn và vận dụng Tu chính án số một trong Hiến pháp để bảo vệ các em học sinh. Điểm đặc biệt cần lưu ý trong vụ án này các em học sinh đã lặng lẽ đeo băng tay chứ không hề phát ngôn chống chính sách tham chiến của chính phủ. Tu chính án số một cũng chỉ quy định hết sức đơn sơ là sẽ bảo vệ “quyền tự do ngôn luận”. Nhưng Tòa án Tối cao đã vận dụng Hiến pháp hết sức linh hoạt khi cho rằng bản thân hành vi đeo băng tay cũng là một hình thức ngôn luận mang tính biểu tượng, bất kỳ hành vi nào phát đi một thông điệp và người tiếp nhận có thể hiểu thông điệp đó thì dù không nói ra lời vẫn được coi là ngôn luận. Tu chính án số một trong Hiến pháp không chỉ bảo vệ quyền nói mà cả quyền được lặng im, nếu sự im lặng ấy là thông điệp.
Vụ án Tinker v. Des Moines đã mở đường cho Tòa Tối cao cũng như các tòa cấp thấp hơn vận dụng Hiến pháp để bảo vệ người dân trong vô số vụ án sau này liên quan tới các hành vi mang tính biểu tượng. Nếu không có Hiến pháp bảo vệ, không có sự công minh của Tòa án tối cao, làn sóng biểu tình và các hình thức đa dạng phản đối chiến tranh Việt Nam trong nhân dân Mỹ̀ không bao giờ dữ dội, mạnh mẽ đến như thế. Chính nhân dân Mỹ đã tạo ra một phần sức ép khiến chính phủ Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Họ làm được điều ấy bởi họ được chở che dưới mái nhà Hiến pháp.
Hiến pháp không phải là chuyện “trên trời” mà ngược lại, bảo vệ lợi ích “sát sườn” của mọi người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Cho dù có thể rất nhiều người hoàn toàn không biết gì về Hiến pháp và không nhận ra ảnh hưởng to lớn của nó, thì “nụ cười” hay “nước mắt” của họ trong tương lai sẽ bị tác động bởi Hiến pháp và quá trình thực thi nó. Cho dù ảnh hưởng của văn bản pháp lý cao nhất này lên mỗi cá thể sẽ khác nhau, có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nhưng số phận của toàn bộ đất nước và tất cả nhân dân không thể tách rời khỏi mái nhà chung trên đầu chúng ta, mái nhà mang tên “Hiến pháp”.
Khánh Duy (VNN)
Một câu chuyện nhỏ về Hiến pháp Mỹ nhưng liên quan tới Việt Nam để minh họa, vụ kiên Tinker v. Des Moines được phán quyết bởi Tòa tối cao Mỹ năm 1969.
Chuyện nhỏ mà không nhỏ, bởi đây là một trong những vụ kiện tiêu biểu và nổi tiếng nhất trong lịch sử vận dụng Tu chính án số một của Hiến pháp Mỹ̀.
Tu chính án số một được phát biểu như sau trong Hiến pháp Mỹ: “Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào liên quan tới việc tổ chức tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hoặc hạn chế tự do ngôn luận, báo chí hoặc quyền của dân chúng được hội họp một cách hòa bình, và quyền khiếu kiện Chính phủ nhằm thay đổi những thực tế đang gây bất bình”.
Người dân Mỹ biểu tình trong những năm 1970 để phản đối chiến tranh tại Việt Nam. Ảnh: Linzik
Câu chuyện bắt đầu vào một ngày tháng 12/1965, một nhóm học sinh lớn tụ tập ở căn nhà của cậu Christopher Eckhardt, 16 tuổi ở tiểu bang Iowa. Họ quyết định thể hiện thái độ phản kháng đối với sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam bằng việc đeo băng tay màu đen khi tới trường trung học Des Moines.
Ban giám hiệu trường Des Moines bằng cách nào đó đã biết trước được ý đồ của nhóm học sinh. Ngày 14/12, ban giám hiệu nhóm họp và ra một điều luật mang tính ngăn chặn: buộc học sinh nào đeo băng đen tới trường phải gỡ bỏ, nếu không, sẽ bị cho thôi học cho tới khi nhận thức ra vấn đề.
Nhóm học sinh “nổi loạn” đã biết được chính sách mới của nhà trường, tuy thế, họ không lùi bước. Sáng 16/12/1965, cô bé Mary Beth 13 tuổi và cậu Christopher Eckhardt 16 tuổi vẫn đeo băng đen tới trường để phản đối Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Hôm sau, cậu bé John Tinker 15 tuổi cũng thực hiện hành vi tương tự. Họ đều bị nhà trường đuổi về với lời đe dọa: khi nào không đeo băng tay nữa thì hãy tới trường. Nhóm “nổi loạn” lại tiếp tục thể hiện sự phản kháng bằng cách ở nhà cho tới hết năm. Còn hơn thế, thông qua cha mẹ, họ khởi kiện lệnh cấm đeo băng đen của nhà trường vì cho rằng điều luật ấy là vi hiến, xâm phạm tới quyền tự do ngôn luận được ghi trong Tu chính án số một của Hiến pháp.
Vụ án được Tòa án Quận xem xét và sau khi điều trần, tòa án bác bỏ cáo buộc của nhóm học sinh, với lý do: nhà trường có quyền hợp hiến trong việc ngăn chặn mọi hành vi gây rối loạn kỷ cương trường học. Nhóm học sinh tiếp tục kiện lên tòa án cao hơn nhưng cáo buộc tiếp tục bị bác.
Tính chất điển hình của vụ kiện đã khiến Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trực tiếp vào cuộc và quyết định tiếp nhận vụ án. Tại phiên xử ở tòa tối cao, 7 trong số 9 quan tòa đã đồng thuận và khẳng định: đeo băng đen trong trường hợp này hoàn toàn không thể gây ra và không liên quan gì tới việc gây rối, ngược lại, đeo băng đen là “ngôn luận thuần túy” được bảo vệ toàn diện trong Tu chính án số một của Hiến pháp̀.
Tòa phán: “Những nỗi sợ và lo lắng vô cớ về gây rối không thể đứng trên quyền tự do biểu đạt… Các trường công không phải là lãnh địa của độc quyền lãnh đạo. Các quan chức của trường không có quyền áp đặt tuyệt đối lên học sinh. Cả trường và học sinh đều là những thực thể nằm dưới Hiến pháp. Các học sinh đeo băng tay để biểu lộ sự bất đồng của họ đối với cuộc chiến Việt Nam cũng như ủng hộ việc ngừng bắn, các em muốn hành vi ấy được mọi người biết và từ đó làm theo… Trong trường hợp này, Hiến pháp không cho phép các quan chức nhà nước được khước từ quyền tự do biểu đạt ấy của các em”.
Tòa án Tối cao đã lật ngược lại toàn bộ phán quyết của các tòa cấp thấp hơn và vận dụng Tu chính án số một trong Hiến pháp để bảo vệ các em học sinh. Điểm đặc biệt cần lưu ý trong vụ án này các em học sinh đã lặng lẽ đeo băng tay chứ không hề phát ngôn chống chính sách tham chiến của chính phủ. Tu chính án số một cũng chỉ quy định hết sức đơn sơ là sẽ bảo vệ “quyền tự do ngôn luận”. Nhưng Tòa án Tối cao đã vận dụng Hiến pháp hết sức linh hoạt khi cho rằng bản thân hành vi đeo băng tay cũng là một hình thức ngôn luận mang tính biểu tượng, bất kỳ hành vi nào phát đi một thông điệp và người tiếp nhận có thể hiểu thông điệp đó thì dù không nói ra lời vẫn được coi là ngôn luận. Tu chính án số một trong Hiến pháp không chỉ bảo vệ quyền nói mà cả quyền được lặng im, nếu sự im lặng ấy là thông điệp.
Vụ án Tinker v. Des Moines đã mở đường cho Tòa Tối cao cũng như các tòa cấp thấp hơn vận dụng Hiến pháp để bảo vệ người dân trong vô số vụ án sau này liên quan tới các hành vi mang tính biểu tượng. Nếu không có Hiến pháp bảo vệ, không có sự công minh của Tòa án tối cao, làn sóng biểu tình và các hình thức đa dạng phản đối chiến tranh Việt Nam trong nhân dân Mỹ̀ không bao giờ dữ dội, mạnh mẽ đến như thế. Chính nhân dân Mỹ đã tạo ra một phần sức ép khiến chính phủ Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Họ làm được điều ấy bởi họ được chở che dưới mái nhà Hiến pháp.
Hiến pháp không phải là chuyện “trên trời” mà ngược lại, bảo vệ lợi ích “sát sườn” của mọi người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Cho dù có thể rất nhiều người hoàn toàn không biết gì về Hiến pháp và không nhận ra ảnh hưởng to lớn của nó, thì “nụ cười” hay “nước mắt” của họ trong tương lai sẽ bị tác động bởi Hiến pháp và quá trình thực thi nó. Cho dù ảnh hưởng của văn bản pháp lý cao nhất này lên mỗi cá thể sẽ khác nhau, có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nhưng số phận của toàn bộ đất nước và tất cả nhân dân không thể tách rời khỏi mái nhà chung trên đầu chúng ta, mái nhà mang tên “Hiến pháp”.
Khánh Duy (VNN)
Tổng bí thư ĐỪNG “QUY VÀO” NHƯ THẾ !
Bùi văn Bồng
BVB – 19h, ngày 25/2 đưa phát biểu tại Vĩnh Phúc của TBT ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng như sau: “Vừa
rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính
trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp
không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng
không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không?
Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông
tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”. Đảng
phát động toàn đảng, toàn dân phát huy trí tuệ, liên hệ thực tế, đóng
góp xây dựng sửa đổi Hiến pháp 1992, sao mà chưa gì TBT đã chặn họng bà
con như thế? TBT Nguyễn Phú Trọng không nên đánh giá những người dân,
những cán bộ đảng viên, các nhà trí thức đóng góp ý kiến xây dựng, sửa
đổi Hiến pháp (mà dẫu có trái ý lãnh đạo) là “có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức …”. Dân không nói theo ý đảng là dân bị suy thoái, thế đảng mất hết niềm tin, uy tín với dân thì đảng suy cái gì? Suy cho cùng, nhìn thật chuẩn trong xã hội ta, ai là những người suy thoái, biến chất?
Ôi, tự do độc lập!…
… Xanh biết mấy là trời xanh tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Khi mặt trời nghe bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa trái ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc…” (Chế Lan Viên)
* * *
… Ta đã trả giá đau và ta đã học nhìn.
* * *
… Ta đã trả giá đau và ta đã học nhìn.
Ta đã gặp những điều không hề chờ gặp
Nào đâu phải chỉ là rắn phục giữa vườn hoa
Những kẻ tốt đến yếu mềm chỉ là đồ giẻ rách
Rắn còn nằm cuộn khúc giữa lòng ta
… Ta hiểu được những ai đã sai và có thể còn sai
Và chất người trong ta cộng sản thêm chút nữa… (Việt Phương)
Nào đâu phải chỉ là rắn phục giữa vườn hoa
Những kẻ tốt đến yếu mềm chỉ là đồ giẻ rách
Rắn còn nằm cuộn khúc giữa lòng ta
… Ta hiểu được những ai đã sai và có thể còn sai
Và chất người trong ta cộng sản thêm chút nữa… (Việt Phương)
* Theo Thạc sĩ Nguyễn Văn Hào:
“Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” là khái
niệm chỉ những hiện tượng, biểu hiện tiêu cực, không bình thường đã và
đang diễn ra trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Hiện tượng này có thể làm lung lay vị trí cầm quyền của Đảng, đe dọa đến sự tồn vong chế độ.
Lần này, Hội nghị Trung ương 4, khóa XI chỉ ra khá rõ ràng, cụ thể
những biểu hiện khác nhau của “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống”. Đó là: “phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ,
cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”.
Để quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI cần
thiết phải làm rõ những biểu hiện cụ thể của suy thoái về tư tưởng chính
trị và suy thoái về đạo đức, lối sống và mối quan hệ giữa chúng với
nhau.
1. Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị nhìn chung là “phai
nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định mục tiêu, sa sút ý chí chiến
đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, không làm tròn
bổn phận, chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tác tổ
chức sinh hoạt đảng; là dao động, mơ hồ, mất phương hướng, cho rằng theo
con đường nào, xã hội nào cũng được, phụ hoạ theo nhận thức sai trái,
quan điểm lệch lạc; là nói và làm trái Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết,
quy định của Đảng, thậm chí a dua, xuyên tạc, bôi đen…”[1]. Suy thoái về
tư tưởng chính trị thực chất là sự biến đổi theo chiều hướng xấu dần về
phẩm chất chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên dẫn đến xa rời
những nguyên tắc, quan điểm chính trị.
Nhìn vào thực trạng suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện nay có thể nhận thấy những biểu hiện cụ thể như:
Dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường đi lên CNXH. Đây là
biểu hiện rõ nét nhất, tập trung nhất của suy thoái tư tưởng chính trị.
Từ dao động dẫn đến hoài nghi, không tin vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, không
kiên định lập trường, quan điểm, làm xuất hiện chủ nghĩa cơ hội.
Không tích cực học tập, nghiên cứu lý luận. Không ít cán bộ, đảng
viên tự thỏa mãn, bằng lòng với trình độ đã có, những nhận thức đơn
giản, chung chung về Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng. Học chủ yếu để lấy bằng để đủ điều kiện đề bạt, cất nhắc,
nâng ngạch…
Phủ nhận thành quả do cách mạng đem lại. Dạng này xảy ra ở khá
nhiều người, họ thường ca cẩm về sự thiếu thốn, lạc hậu của đất nước,
chê bai đất nước và con người Việt Nam. Cao hơn là công khai bày tỏ sự
nuối tiếc vì đã theo cách mạng, lãng phí thời gian tuổi trẻ của mình. Tư
tưởng này thường hay dẫn đến việc xét lại quá khứ, nặng về phê phán,
chỉ trích các khuyết điểm mà không tính đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Từ
đó dẫn tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự đúng đắn của
đường lối.
Thiếu thống nhất với quan điểm, đường lối của Đảng, nói và làm
không đúng với chủ trương, chính sách hiện hành. Nhiều người không thật
sự thông suốt, nhận thức chưa đầy đủ, thông tin thiếu cập nhật nên cố
tình hiểu sai, cắt khúc, chỉ khai thác những nội dung có lợi cho riêng
mình, né tránh những vấn đề phức tạp. Sự nguy hiểm của tình trạng này là
tạo ra sự nói dối, nói một đường làm một nẻo, nói là nhất trí với đường
lối, chủ trương nhưng không làm hoặc làm khác đi.
Không chấp hành nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.
Dạng này thường có biểu hiện “nhạt đảng”, ít coi trọng sinh hoạt đảng,
không đặt mình dưới sự quản lý, giám sát của chi bộ, tổ chức đảng; báo
cáo không trung thực, không nghiêm khắc tự phê bình và phê bình.
Lơ là mất cảnh giác, không kiên quyết phê phán, đấu tranh với những
người có quan điểm sai trái. Một số cán bộ, đảng viên nhận được tài
liệu đang lưu hành trái phép đã không báo cáo, nộp lại cho cấp ủy hoặc
cơ quan chức năng mà cố tình giữ lại, sao chụp chuyển cho người khác.
Hiện tượng khá phổ biến là thờ ơ với các hành động, lời nói tiêu cực của
các phần tử bất mãn. Có người tán thưởng, hùa vào hoặc giữ im lặng,
không tranh luận, sợ mất lòng.
Cơ hội chính trị. Tư tưởng cơ hội chính trị của một số cán bộ, đảng
viên gắn liền với động cơ cá nhân, thường là từ những người bất mãn,
công thần, kiêu ngạo, coi thường tập thể. Một số được nước ngoài tâng
bốc, tài trợ đi đến chống đối Đảng và Nhà nước.
Việc chia tách từng nội dung là để dễ bề nhận diện, trên thực tế và
trong nhiều trường hợp, các nội dung này gắn kết với nhau, từ sự suy
thoái này đến sự suy thoái khác hoặc cùng một lúc có sự suy thoái trên
nhiều nội dung. Cần phải lưu ý rằng, “tự suy thoái”, “tự diễn biến” là
chính, dù có những tác động ngoại cảnh. Bởi vậy, suy thoái về tư tưởng
chính trị là sự suy thoái rất khó nhận biết, khó phát hiện, diễn ra thầm
lặng trong mỗi con người cán bộ, đảng viên. Nếu chỉ căn cứ và lời nói,
việc làm nhiều khi không thấy rõ.
2. Biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức, lối sống “là sa vào chủ
nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, thực dụng, vụ lợi, lo vun vén cho bản thân
và gia đình, không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, để vợ (chồng),
con và người thân lợi dụng chức quyền của mình để trục lợi, tiến thân;
là cơ hội, hám danh, chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy
tuổi, chạy bằng cấp…; là đố kỵ, kèn cựa địa vị, cục bộ, bè phái, gây mất
đoàn kết trong Đảng; là quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, nỗi
khổ của nhân dân, bất chấp đạo lý, dư luận vì lợi ích cục bộ, lợi ích
nhóm; là kiêu ngạo, tự phụ, gia trưởng, độc đoán, tùy tiện, vô tổ chức,
tham nhũng, lãng phí, sống xa hoa, hưởng lạc.”[2].
Tính chất nghiêm trọng của suy thoái đạo đức, lối sống trong cán
bộ, đảng viên hiện nay là đang có xu hướng lan rộng trong nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng mà chủ yếu tập trung vào
những điểm sau:
Chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng chưa được ngăn chặn. Đó là
thái độ vô trách nhiệm, chỉ lo vun vén cá nhân, kiếm lợi trước mắt, bỏ
qua lợi ích lâu dài. Điều đáng lo ngại là lối sống này không chỉ diễn ra
ở số cán bộ, đảng viên trẻ, ít được rèn luyện mà còn diễn ra trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên đã qua thử thách trong chiến đấu, sản xuất nay
có chức, có quyền.
Lối sống cơ hội, buông thả. Các loại “chạy chọt”; bệnh thành tích,
bệnh nói dối. Một số sống buông thả, sử dụng tiền công quỹ để ăn chơi sa
đọa, xa xỉ vi phạm luân thường, đạo lý.
Lời nói không đi đôi với việc làm. Nói nhiều làm ít, “nói một đằng làm một nẻo”, phát ngôn bừa bãi…
Quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật. Điển
hình là bệnh hình thức, bệnh thành tích đã và đang làm tốn tiền nhà
nước, công sức của nhân dân.
Đạo đức nghề nghiệp không được đề cao và gương mẫu thực hiện. Có
những lĩnh vực tưởng chừng như không thể xảy ra nhưng vẫn có tiêu cực,
tham nhũng. Chẳng hạn như: giáo dục, y tế, cứu trợ xã hội…
Sự toan tính, vụ lợi của một số cán bộ, đảng viên có chức quyền.
Điều này thể hiện tính thương mại trong hôn nhân, quan hệ gia đình,
trong tổ chức cưới, đám giỗ, tân gia, mừng thọ, mừng bằng cấp…
- Tham nhũng, lãng phí là nguy cơ lớn nhất đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.
3. Từ sự nhận diện trên, xin rút ra một vài điều để tham khảo.
Thứ nhất, suy thoái về tư tưởng chính trị gắn với suy
thoái đạo đức, lối sống, hai mặt này gắn bó, tác động qua lại với nhau.
Vì thế, có thể xác định suy thoái tư tưởng chính trị qua đạo đức, lối
sống và cũng có thể nhìn vào đạo đức, lối sống để nhận biết được suy
thoái về chính trị tư tưởng trong mỗi cán bộ, đảng viên. Trong các văn
kiện của Đảng, hai loại suy thoái này đều được Đảng ta xem xét ngang
nhau trong nhận thức, động cơ, thái độ và hành vi của cá nhân, tổ chức
và trong hậu quả chính trị, xã hội mà nó gây ra.
Thứ hai, thông thường sự suy thoái về đạo đức, lối
sống dễ nhận thấy và xuất hiện trước. Khi sự suy thoái này kéo dài không
được ngăn chặn sẽ xuất hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Trong thực
tế, có nhiều trường hợp suy thoái về tư tưởng chính trị (sự vô tổ chức,
kỷ luật; vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng…) xuất hiện
trước và là nguyên nhân đưa đến suy thoái về đạo đức, lối sống. Tuy
nhiên, cũng có trường hợp do nhận thức, do quan niệm về lý tưởng sống
cho nên có sự suy thoái về tư tưởng chính trị nhưng không có biểu hiện
suy thoái về đạo đức, lối sống cá nhân.
Thứ ba, trong tổ chức đảng, đôi khi chỉ cần một vài
người, nhất là lãnh đạo chủ chốt suy thoái thì có thể làm suy thoái
nhiều người trong tổ chức.
Thứ tư, suy thoái về tư tưởng chính trị là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến tệ quan liêu, đồng thời quan liêu là sự hiện thực
hóa sự suy thoái về tư tưởng chính trị. Vì thế, ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái về tư tưởng chính trị phải đi liền với việc chống quan liêu. Hơn
nữa, suy thoái tư tưởng chính trị cùng với quan liêu là nguyên nhân dẫn
đến tham nhũng, lãng phí và tham nhũng là biểu hiện cao nhất của sự suy
thoái về đạo đức, lối sống. Khi tham nhũng, lãng phí không được ngăn
chặn sẽ tác động trở lại làm cho suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo
đức, lối sống diễn ra nhanh và khó kiểm soát hơn. Tuy nhiên, trong thực
tế không phải tất cả những người suy thoái về tư tưởng chính trị đều
tham nhũng, lãng phí.
ThS. Nguyễn Văn Hào
(Học viện Chính trị – Hành chính khu vực III)
Phản ứng đầu tiên
Đông A
Ngay lập tức sau khi phổ biến bài viết Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng, phóng viên Nguyễn Đắc Kiên của báo Gia đình và Xã hội đã bị kỷ luật buộc thôi việc.
Hôm nay có người nói với tôi về khoản 2, điều 6 trong Pháp lệnh cán
bộ, công chức: “Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ, công vụ theo
đúng quy định của pháp luật” hay khoản 1 điều 16 Luật Viên chức: “Chấp
hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và
pháp luật của Nhà nước”. Có nghĩa là bất kể ai là công chức, viên chức
nếu góp ý dự thảo Hiến pháp mà sai đường lối, chủ trương của Đảng đều có
thể bị buộc thôi việc vì đã vi phạm Pháp lệnh cán bộ, công chức hay
Luật Viên chức.
Bây giờ tôi
mới hiểu tại sao chỉ có những người về hưu mới có thể lên tiếng. Sống
trong một đất nước như Việt Nam có lẽ lúc nào chúng ta cũng như đi trên
dây. Thật là mệt mỏi!
Cứ như thế này là ổn.
“NHIỆM VỤ CỦA TÔI LÀ PHÁ VỠ HUYỀN THOẠI NGƯỜI ANH HÙNG XÔ-VIẾT” (Phần 1)
[04.11.2012 19:29 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]
(NCTG) “Người chết nhiều vô kể. Mùa thu chúng tôi còn
có một ngàn năm trăm người, tháng 3 khi tôi bị chuyển khỏi trại, chỉ
còn năm trăm tù nhân sống sót. Những người chết đều bị làm mồi cho bầy
sói” – Rózsás János, “Solzhenitsyn của nước Hung” chia sẻ về những năm
tháng cực khổ tại “quần đảo ngục tù” Gulag ở Liên Xô.
Nhà văn Rózsás János, pho bách khoa toàn thư về Gulag
Trong tác phẩm nổi tiếng đó, nhà văn Nga đã dành những trang sách rất thân tình cho người bạn Hung kém ông tám tuổi mà ông rất quý mến vì tính hiếu học và tình yêu nồng hậu đối với nền văn hóa Nga của anh. Nhưng, chắc bản thân Solzhenitsyn cũng không ngờ rằng Rózsás sau này cũng trở thành một nhà văn, hơn nữa, tác phẩm của ông đã gây tiếng vang lớn ở ngoại quốc, khiến ông thường được nhắc đến bằng cái tên “Solzhenitsyn của nước Hung”.
Rózsás János sinh năm 1926 tại Budapest. Thời niên thiếu, như các bạn bè cùng lứa, ông bị cưỡng bức tham gia tổ chức Levente, một tổ chức của chính phủ thân Hitler, bắt buộc thanh thiếu niên độ tuổi 13-21 phải sống và sinh hoạt theo một chế độ quân sự hà khắc và giáo dục họ theo hệ tư tưởng sô-vanh bá quyền. Năm mười tám tuổi, ông bị bắt khi Hồng quân Liên Xô tràn sang đất Hung, bị tòa án quân sự mặt trận (của Liên Xô) xử mười năm tù giam. Đầu năm 1945, cùng nhiều bạn hữu khác, Rózsás bị đưa sang Liên Xô và trong chín năm tiếp tới, ông đã trải qua thời gian cùng quẫn, cực khổ nhất của cuộc đời trong mười sáu nhà tù và trại tập trung thuộc hệ thống Gulag khét tiếng. Chính vào thời gian đó, Rózsás đã gặp gỡ và làm quen với văn hào Solzhenitsyn, người bạn tù đã giúp đỡ ông làm quen với ngôn ngữ và nền văn học Nga mà ông hằng yêu mến. Hai người còn giữ tình bạn đẹp đẽ đó cho đến cuối đời.
Được trả tự do năm 1953 và được Tòa án Tối cao Liên Xô phục hồi danh dự năm 1962, Rózsás đã tham gia cuộc cách mạng Hung năm 1956, rồi trở thành một nhà văn. “Thời thanh niên cay đắng” (Keserű ifjúság, 1986), cuốn hồi ký dựa trên nhật ký viết trong chín năm tù của ông được ấn hành lần đầu ở München, sau đó được ra mắt tại quê hương ông vào thời kỳ Hungary thay đổi thể chế chính trị, là một tư liệu động lòng và có sức công phá mạnh mẽ về hệ thống tù ngục vô nhân đạo ở Liên Xô. Tác phẩm này đã khiến Rózsás nổi tiếng ở trong và ngoài nước.
Ngày nay, khi khái niệm “Gulag” dường như đã đi vào quá khứ và nhiều người cho rằng đây là một đề tài đã lỗi thời, Rózsás vẫn giữ nguyên quan điểm của ông: phải nêu lên sự thật trần trụi, phải để hậu thế biết đến thứ “sản phẩm” quái đản đó của “CNCS hiện thực”, nơi mà hàng triệu, hàng chục triệu tù nhân vô tội như ông đã là nạn nhân. Thông qua ví dụ bản thân, Rózsás còn muốn công khai phục hồi danh dự cho hàng triệu công dân ngoại quốc, từng là nô lệ khổ sai của thể chế Xô-viết trong suốt bao nhiêu năm trời, sau khi Hồng quân tiến vào “giải phóng” các nước Đông Âu năm 1945. Bằng việc khởi thảo tác phẩm “Bách khoa toàn thư về Gulag” (Gulag-lexikon, 2000), ông còn muốn phá vỡ huyền thoại “anh hùng”, “giải phóng” của quân đội Liên Xô và chế độ Xô-viết.
Nhân sự ra đi của Rózsás János, NCTG xin chuyển ngữ bài nói chuyện sau đây, được thực hiện cách đây mười hai năm với một nhà văn được coi là “pho tự điển bách khoa sống về Gulag”. Hy vọng độc giả Việt Nam cũng có thể tìm thấy những thông tin hữu ích về một thời kỳ tệ hại và một hệ thống tù ngục khổ sai khét tiếng của cái gọi là “CNCS hiện thực” theo mô hình Stalinist, còn để lại những hậu quả cho đến ngày nay.
Các chú thích trong bài là của người dịch. (NCTG)
Quần đảo ngục tù Gulag: địa ngục trần gian của những người tù khổ sai
- Mùa thu năm 1944, sau khi Szálasi (1) lên nắm quyền, những thành viên phong trào Levente bị điều động nhập ngũ. Một số người được đưa đi huấn luyện ở Đức, số còn lại tập luyện trong nước, hoặc bị đưa thẳng ra mặt trận, phụ thuộc tình hình biến chuyển của chiến sự. Tháng Chạp 1944, sau ba tuần tập huấn, tôi bị đưa ra trận ở vùng Marcali.
- Giới thanh niên như ông được trang bị vũ khí ra sao?
Sẽ là quá lời nếu bảo chúng tôi được vũ trang! Ra trận trong bộ quần áo dân sự của mình, chúng tôi được nhận một khẩu súng trường hiệu Mauser từ thời Đệ nhất Thế chiến với mười viên đạn, và một khẩu Panzerfaust, tức là súng chống tăng. Có thể nói rằng loại súng này chúng tôi chỉ được thấy lần đầu khi người ta nhét vào tay chúng tôi.
Chúng tôi được trao nhiệm vụ ngăn chặn những đơn vị thiết giáp Xô-viết đang trên đà tấn công. Sự thực, chúng tôi bị tống vào lò sát sinh. Rồi chúng tôi chẳng làm được quái gì cả. Vượt qua trận tuyến, chúng tôi bị bắt giam mà không hề chống cự. Trong chín năm tiếp tới, cha mẹ tôi không hề biết tôi sống hay chết, và tôi cũng không được biết gì về họ.
- Ông và đồng đội chờ đón quân Liên Xô như những hàng binh?
- Chúng tôi không hèn nhát đâu. Kỳ thực, chúng tôi còn là những đứa trẻ. Sau nửa thế kỷ, nhìn lại, có lẽ phải bật cười vì hoàn cảnh chúng tôi bị bắt làm tù binh. Đơn vị chúng tôi bị chia cắt làm đôi. Các chỉ huy của chúng tôi không hề có chút hiểu biết quân sự gì, đã tách khỏi chúng tôi cùng một điện báo viên người Đức. Đó là những thanh niên hơn tuổi chúng tôi, được thăng cấp vội vàng. Như sau này chúng tôi được biết, những kẻ bất hạnh đó cũng bị chạm trán với Hồng quân, chỉ có vài người sống sót.
Trời tối dần, năm mươi tám đứa chúng tôi còn trơ lại trong một khu rừng. Không còn ai chỉ huy, chúng tôi đã rã rời và đói khát đến mức chẳng suy nghĩ gì được nhiều, ai nấy quyết định lăn ra ngủ đến sáng hẵng hay. Đi đâu thì sẽ bàn sau. Rạng sáng, ba người lính Xô-viết đang đi săn thỏ trong rừng, phát hiện ra chúng tôi. Trong số chúng tôi có mấy anh người miền Nam (2), họ biết tiếng Serbia và tìm cách giải thích cho người Nga hiểu rằng chúng tôi hoàn toàn không có ý định đánh đấm gì, chúng tôi bị người Đức dồn ra mặt trận thôi.
Mấy anh lính Nga chế nhạo chúng tôi hồi lâu, họ niềm nở đưa chúng tôi về trụ sở chỉ huy. Tại đó, sự đón tiếp không lấy gì làm thân mật. Chúng tôi bị tước vũ khí, bị giam giữ, rồi bị đưa ra tòa và bị xét xử ngay trong ngày hôm đó.
- Người Nga không đối xử với các ông như với những tù binh?
- Không. Chúng tôi bị coi là những tên phát-xít. Trong cái phiên tòa kéo dài mấy phút ấy, chúng tôi chẳng hiểu chút gì cả. Người ta bắt chúng tôi ký một biên bản gồm mười sáu trang giấy, cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu trong đó có những gì. Một bà cụ người Ukraine ở vùng núi Kárpát (3) phiên dịch cho chúng tôi, bà ta đã không biết một câu tiếng Hung thì chớ, lại còn mù tịt cả tiếng Nga. Quá trình “phiên dịch” chỉ vỏn vẹn như sau: bằng mười ngón tay, bà ra hiệu cho chúng tôi biết chúng tôi bị mấy năm tù. Nhưng cũng có người bị đưa đi xử bắn ngay lập tức. Tất nhiên, để ra vẻ hình thức, người ta cũng hỏi chúng tôi có cần luật sư không?
- Người ta không cho ông và các đồng sự biết rằng tại sao những người Levente lại bị coi là tội phạm chiến tranh, chứ không phải là tù binh?
- Thật bí ẩn, nhưng rốt cục chúng tôi cũng được biết. Người Nga nghĩ rằng độ tuổi tối thiểu để bị gọi nhập ngũ ở Hung là 21, thành thử ai chưa đến lứa tuổi đó đều là những kẻ tự nguyện ra trận. Do đó, họ đều phải là những tên quốc xã, những kẻ thù sẵn sàng làm mọi tội ác để chống lại Hồng quân. Người ta không biết phong trào Levente là gì. Họ tưởng chúng tôi là một tổ chức ở Hung, tương tự như Hitlerjugend (4).
- Tiếp tục ra sao?
- Chúng tôi bị nhồi nhét vào những toa tàu vốn dùng để chở trâu bò, cùng với các quân nhân Xô-viết đã bị kết án. Đó là những kẻ đào ngũ, không tuân lệnh cấp trên, trộm cắp, cướp bóc đủ loại. Khi đến nhà tù Odessa, chúng tôi không mấy khi được nghe tiếng Hung. Mọi dân tộc của Liên Xô đều có “đại diện” ở đây, nói đúng hơn, tù nhân được chuyển về đây từ những vùng đã được Hồng quân “giải phóng” đầu năm 1945.
Sau này, trong trại tập trung, chúng tôi còn gặp gỡ rất nhiều tù binh Đức và Nhật. Và một điều rất đáng chú ý: có khá nhiều tù nhân là những cựu Bạch vệ đã từng trốn chạy chính phủ bôn-sê-vích sang các nước phương Tây, nhưng điều bất hạnh là họ chạy chưa đủ xa! Cơ quan phản gián Xô-viết có những dữ liệu chính xác về những người này. Địa chỉ nhà ở của họ tại Vienna, Praha hay Dresden bị phát giác, họ bị bắt và đưa về từ đấy.
- Khi đoàn tàu chở tù binh đến Odessa đầu năm 1945, ông thấy cảnh tượng ở đó như thế nào?
- Thành phố đổ nát điêu tàn, không có nhà ga, người ta chỉ quét dọn những đống gạch đổ khỏi đường ray xe lửa mà thôi. Sau sáu tuần bị sống cách ly, tôi bị đưa đến một trại tập trung ở Nicolayev, cách Odessa chừng một trăm cây số. Tại đó, chúng tôi phải thu dọn những mảnh vụn đổ nát của một nhà máy đóng tàu, bị quân Đức ném bom tan tành. Mùa thu, chúng tôi bị chở đi một trại tập trung khác ở ngã ba sông Dnieper; các tù binh khác thế chân chúng tôi. Một năm sau, chúng tôi đến vùng Bắc Ural, tôi ở đó hai năm rưỡi tại một công xưởng khai thác cây làm giấy. Các bạn tù của tôi đều bị tản mát đi nhiều nơi, tôi không được biết gì về họ.
- Căn cứ vào yếu tố gì mà người ta phân ông và các bạn tù đi nơi này, nơi khác?
- Tù nhân chủ yếu được phân loại dựa trên trạng thái sức khỏe: người thì bị điều xuống mỏ, người đi làm đường, người đi làm xây dựng, kẻ khác vào nông trường sản xuất trong trại tập trung… Nhưng cũng còn phụ thuộc vào chuyện trong thời gian đó, nền kinh tế quốc dân Liên Xô cần nô lệ làm thứ việc gì. Gulag, cơ quan lãnh đạo và quản lý các trại tập trung trên toàn quốc, chính là một Bộ Lao động, có thẩm quyển xếp đặt, bố trí lao động cho chừng mười, mười lăm triệu tù nhân.
- Hoàn cảnh sống của ông?
- Thay đổi. Ở vùng Ural, chúng tôi phải sống giữa những hoàn cảnh vô nhân đạo đến mức ngay những tù nhân có thể lực tốt nhất cũng bị suy sụp trong chốc lát. Sau một thời gian, người ta chỉ còn biết bắt tôi làm việc trong nhà máy gạch, còn khi tôi đã ở ngưỡng cửa của cuộc sống với cái chết, tôi được chuyển đến một trại “hồi sức”, tại đó tôi được suất ăn nhiều hơn chút đỉnh. Người chết nhiều vô kể. Mùa thu chúng tôi còn có một ngàn năm trăm người, tháng 3 khi tôi bị chuyển khỏi trại, chỉ còn năm trăm tù nhân sống sót. Những người chết đều bị làm mồi cho bầy sói.
- Sao cơ?
- Tôi không thể dùng được từ ngữ nào chính xác hơn. Bởi lẽ không thể đào huyệt trên nền đất băng giá, thành thử những người chết chỉ được phủ tuyết ở một khoảng đất gần trại; ai nấy đều bảo “rồi tới mùa xuân sẽ chôn cất”. Nhưng lũ sói không chờ đến mùa xuân.
Trong trại, nguồn gốc dân tộc và lý do ngồi tù là những việc không ai quan tâm. Chẳng hạn, người ta liệt tôi là người Ukraine vì tôi học tiếng Nga theo thổ ngữ Ukraine trong thời kỳ ở vùng lân cận Odessa. Năm 1949, tôi bị đưa về Kazakhstan. Lý do là bởi có nhiều vụ nổi loạn xảy ra trong thời gian đó tại các trại tập trung vùng cực, và những tù nhân chính trị bị coi là nguy hiểm nhất – như tôi – đều bị chuyển xuống miền Nam. Nặng nhất là những tội số 1, số 6, số 8 và số 9. Tôi thuộc loại số 9.
- Tội sát nhân thuộc số mấy?
- Nói chung, tội sát nhân và những tội hình sự thông thường được coi là tội nhẹ, nhưng người ta cũng đánh số tù thường phạm theo kiểu khác. Hồi sinh thời Stalin, tù chính trị không được hưởng ân xá, ngược lại, tù thường phạm được hưởng mọi dịp ân xá. Sau đây là “thứ hạng” có thể của một bản án chính trị:
1. phản bội tổ quốc, 1/b. phản bội tổ quốc bằng cách làm yếu chính thể Xô-viết – những quân nhân Xô-viết bị Đức bắt làm tù binh bị liệt vào tội này, vì họ “làm yếu” Hồng quân.
2. khởi nghĩa vũ trang.
3. ủng hộ kẻ thù
4. ủng hộ các thế lực tư sản quốc tế – thường thường các nhà tu hành bị tội này.
5. tạo điều kiện cho kẻ thù tấn công Liên Xô – ít người bị kết tội này.
6. làm gián điệp, nhất là gián điệp cho đế quốc – tội này bất cứ ai cũng có thể bị, nếu người ta không thể buộc anh ta vào một tội khác. Dân Hung đa số bị tội này.
7. phá hoại kinh tế, tội này ít bị xử.
8. có hành vi khủng bố.
9. biệt kích.
10. tuyên truyền chống chế độ Xô-viết.
11. tuyên truyền kích động tập thể.
12. không tố cáo những kẻ phạm tội chính trị: đây là một trong những tội trầm trọng nhất.
- Nếu ai đó không làm chỉ điểm, anh ta sẽ phạm vào tội trầm trọng nhất?
- Còn tệ hơn thế nữa. Tôi được biết một vài trường hợp, chẳng hạn các cô gái Hung bị kết tội 12 vì họ đã không tố cáo anh trai họ. Khi Hồng quân tràn vào Hung, ông anh trai ngộ sát một người lính Xô-viết trong khi hai người vật lộn, vì tên lính này đã hãm hiếp em gái anh ta. Người anh bị tử hình, các cô em gái bị kết án mười năm lao động trừng giới.
Tiếp tục về các “tội”: 13. phục vụ chính quyền Nga hoàng – tội này không bị đưa ra vào thời chúng tôi. Ngược lại, tội 14: có hành vi phản cách mạng trong kinh tế – hay được đưa ra, nhất là đối với những tù binh không chịu làm việc. Còn nếu người ta kèm thêm tội 19 vào những tội kể trên thì nghĩa là không phải họ muốn nói đến những tội đã được thực hiện, mà là nói đến chủ định, hoặc khả năng có thể chuẩn bị thực hiện những tội đó.
Các quan tòa diễn giải điều này như sau: dựa trên học thức, thành phần xuất thân, dựa vào cương vị công tác của anh, anh “có thể gây án, nếu muốn”. Nghĩa là, cho dù anh không có ý định gây án đi nữa, cá nhân anh cũng là một mối nguy hiểm tiềm ẩn đối với chủ nghĩa cộng sản. Đây là đỉnh cao của nền luật học Xô-viết. Những bản án chính trị thường bắt đầu từ án tù mười năm, đến tận mức án tử hình.
Xem tiếp Phần 2 của bài viết.
Chú thích:
(1) Szálasi Ferenc (1897-1946): lãnh tụ theo xu hướng dân tộc cực đoan, sáng lập Đảng Quốc xã đầu tiên ở Hungary năm 1935, lên nắm quyền nhờ sự ủng hộ của Hitler ngày 15-10-1944.
(2) Lãnh thổ cực Nam thuộc Vương quốc Hungary thời trước năm 1920, bị nhập vào những quốc gia láng giềng khác sau Hiệp định Trianon.
(3) Dãy núi vùng biên giới Hungary – Ukraine.
(4) Tổ chức thanh niên phát-xít ở Đức.
Nguyễn Hoàng Linh chuyển ngữ và chú giải – Còn tiếp
_________________________________________________________________________________
|
||
|
||
“NHIỆM VỤ CỦA TÔI LÀ PHÁ VỠ HUYỀN THOẠI NGƯỜI ANH HÙNG XÔ-VIẾT” (Phần 2)
[06.11.2012 00:11 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]
(NCTG) “Người lính Xô-viết dù có làm việc gì nhơ bẩn
đến mấy đi nữa, họ cũng vẫn là anh hùng, danh dự người lính của họ được
bảo vệ. Người ta bấu víu vào huyền thoại giả tạo của một quân đội giải
phóng anh hùng. Nhiệm vụ của tôi là phá vỡ huyền thoại của thể chế
Xô-viết, bằng những chứng liệu thực tế” – tâm niệm của nhà văn Rózsás
János, nhà viết sử biên niên của Gulag.
Nhà văn Rózsás János, người mang trong lòng tâm nguyện “để cả đời mình để trở thành nhà viết sử cho những đồng hương Hungary bị bắt sang trại tập trung Gulag Liên Xô” – Ảnh: Kristó Róbert
- Ở Kazakhstan khá hơn so với miền Bắc?
- Thoạt đầu thì không. Stalin nghĩ ra việc xây dựng một thành phố giữa vùng hoang mạc vì tại đó người ta phát hiện ra một trữ lượng than lớn. Tôi sống cùng một ngàn hai trăm bạn tù trong những lều trại ngoài trời, chúng tôi là những người đầu tiên sống ở vùng hoang mạc đó. Bốn năm sau, khi tôi được phóng thích, thành phố này đã có mười lăm ngàn dân cư.
- Một ngày trong trại khổ sai, nếu ông làm đúng như luật lệ nhà tù?
- Theo lệ thường, mỗi ngày chúng tôi phải làm việc mười hai tiếng; phạm nhân có bổn phận thực hiện chỉ tiêu, nếu nhiệt độ không xuống dưới 42 độ âm (- 42 độ C). Mỗi ngày chúng tôi được 65 dkg bánh mì đen và được húp thỏa thích xúp bắp cải, xúp ngô hoặc xúp dưa chuột; không có gì khác biệt lớn giữa ba loại xúp đó. Đây là những thứ xúp không hề có cái, không có chất mỡ, chỉ mặn và vừa có chút màu.
Về mặt lý thuyết chúng tôi có khẩu phần thịt: một tù nhân được 4,5 dkg thịt hoặc 12 dkg cá, nhưng những thứ này chẳng bao giờ đến tay chúng tôi vì chúng phải qua tay biết bao người. Ngoài đời mọi người cũng đói khát. Một lần vào năm 1945, sếp của chúng tôi, viên chỉ huy trại bảo nhiều người dân sẵn sàng đổi chỗ với chúng tôi, vì ít nhất chúng tôi còn có khẩu phần bánh mì hàng ngày, chứ ngoài đời, trong thành phố, lắm lúc phải chờ hàng tuần, hàng tháng mới có xe chở bánh mì đến. Như vậy, có lẽ dễ hiểu là mọi người đều cố ăn trộm theo khả năng của họ.
- Tù nhân được ăn mặc ra sao?
- Thời gian đầu chúng tôi mặc bộ quần áo rách rưới của mình. Tới Ukraine, tôi được nhận quần áo, của những người lính tử trận ngoài trận địa. Trên áo quần, còn có lỗ đạn thủng, vết máu và vết cháy sém. Mùa thu, lần đầu chúng tôi có đồ lót, lúc đó áo quần chúng tôi đã rách như tổ đỉa, không thể khâu vá vì người ta cấm chúng tôi dùng kim. Theo tôi, chúng tôi đói và rét không phải vì họ muốn, mà đơn thuần bởi người ta cũng không có gì để cho chúng tôi.
- Thật khổ…
- Ngoài đói và rét, thường xuyên chúng tôi còn bị đối xử một cách thô bạo. Những người quản lý lao động bắt chúng tôi làm việc quá sức, thường xuyên hành hạ chúng tôi về thể xác và tinh thần, nhục mạ chúng tôi…
- Tù nhân có được vệ sinh cá nhân tử tế không?
- Tùy từng thời, các hoàn cảnh cũng khác: trong chín năm, tôi đã trải qua mười sáu trại tập trung. Hồi đầu ở Nicolayev, chúng tôi không được tắm rửa gì cả. Người ta chở nước để nấu nướng bằng xe thùng từ ngoài vào. May ra ở nơi làm việc, thỉnh thoảng chúng tôi được phép rửa mặt đôi chút. Năm tháng trôi qua, bỏ lại cuộc chiến sau lưng, hoàn cảnh cũng được cải thiện: chúng tôi được tắm rửa nơi thì hàng tuần, nơi thì ba tuần một lần. Cuối cùng, năm 1953, chúng tôi được thay đồ lót hàng tuần.
Tuy nhiên trong những năm đầu, khi chúng tôi lâm vào cảnh khốn cùng ở ranh giới của sự sinh tồn và bất sinh tồn, chúng tôi sống gần như thú vật, không mấy ai quan tâm đến chuyện tắm táp, vệ sinh cá nhân. Có khi phải dùng gậy để lùa chúng tôi vào buồng tắm vì thay quần áo cũng là cả một cực hình. Chúng tôi chỉ muốn nằm dài trên tấm phản gỗ, đừng bị ai quấy rầy. Chúng tôi thường nói: “Bọn mình chỉ TỒN TẠI, chứ không SỐNG.”
- Có tồn tại một loại thứ hạng gì giữa các tù nhân không?
- Tù thường phạm là những ông chủ. Về mặt xã hội, tù thường phạm được coi là những kẻ thuộc giai cấp “gần gũi”, do đó họ luôn được Ban quản lý ưu đãi, phân cho những chỗ ăn ở tốt, thậm chí còn được giao nhiệm vụ quản lý tù chính trị. Họ không chịu lao động, ngược lại, họ còn tước khẩu phần ăn cùng những bộ quần áo còn lành lặn đôi chút của chúng tôi, vì đội gác tù cho họ cả thứ quyền ấy.
Tù nhân người bản địa đôi khi được tiếp tế, nhưng lũ thường phạm cũng cướp đi những gì tốt nhất của họ. Cố nhiên điều này không ứng với người ngoại quốc như chúng tôi: chúng tôi không được gửi và nhận thư từ cũng như quà tiếp tế.
- Trong trại tập trung, có thứ đời sống tinh thần, thơ ca, chuyện trò rôm rả như ở các nhà tù bình thường không?
- Không có mấy, trại tập trung là chuyện khác. Chúng tôi phải sống cách ly nhau. Tôi sống bốn năm ở Kazakhstan, nhưng không bao giờ được biết có bao nhiêu người Hung ở trại bên cạnh. Nếu muốn gặp gỡ ai đó, tôi phải tìm cách lẩn trốn. Để tránh lũ chỉ điểm, chỉ có thể trò chuyện về những việc không đâu vào đâu, ví dụ “ở nhà, cậu nấu món bắp cải nhồi thịt như thế nào?”.
Trong trại tập trung, hỏi “trước kia cậu làm gì?” hay “tại sao cậu bị án tù mười lăm năm?” là một hành vi bất lịch sự, chẳng kém gì hỏi tuổi một phụ nữ. Không hề có thứ chuyện trò chân thật hay thân tình, ai nấy đều ngại nhau.
Tình hình chúng tôi khá lên chút đỉnh sau một cuộc nổi loạn trong tù. Đó là năm 1952. Sau tám năm, đây là năm đầu tiên chúng tôi không bị đói. Thậm chí, chúng tôi còn được mức lương tối thiểu, có thể dùng nó mua bánh mì. Chúng tôi còn được đọc báo nữa. Thoạt đầu, tất nhiên người ta chỉ đọc cho chúng tôi nghe những đoạn đã được bộ máy kiểm duyệt cho phép. Nếu ai đó có ý liếc trộm tờ báo, anh ta sẽ được một cái tát, mặc dù báo chí Xô-viết thời đó có quái gì đâu…
Về sau, người ta đặt tờ “Pravda” (Sự thật) vào tủ kính, tôi học đọc tiếng Nga bằng cách đó. Thời gian cuối chúng tôi còn có thể mượn báo về đọc, nhưng không được trò chuyện, bàn tán về những bài viết trong báo.
- Ai kiểm tra xem tù nhân có trò chuyện về các bài báo hay không?
- Lũ chỉ điểm sẽ báo cáo ngay. Vào thời gian đó chúng tôi đã được tách khỏi tù thường phạm. Điều này khiến chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm nhiều, nhưng đồng thời người ta cũng thực hiện một chế độ kỷ luật nghiêm ngặt hơn, trại chúng tôi được coi là một nhà tù trừng giới. Hơi một tí là bị nhốt vào xà-lim, nghĩa là trong năm ngày trời, người tù phải nhảy lò cò trong cái rét 2-4 độ để thoát chết.
- Cuộc nổi loạn trong tù diễn ra như thế nào?
- Người Ukraine, người Chechnya và người Estonia được coi là những phần tử nguy hiểm nhất, họ bị cách ly khỏi những tù nhân khác và bị dồn vào trại số 1. Chúng tôi ở trại số 2. Đám gác tù ngày càng tổ chức trà trộn nhiều tên chỉ điểm, bằng cách đe dọa hoặc tạo cho chúng những lợi lộc nho nhỏ. Đến năm 1951, bầu không khí đã ngột ngạt và con số chỉ điểm đã tăng đến mức không ai còn dám trò chuyện với nhau, kẻ này sợ người khác là mật vụ. Tất cả mọi người đều trở nên đáng ngờ, không thể chịu đựng nổi tình cảnh ấy.
Đúng lúc đó, những chiến sĩ đấu tranh cho tự do của dân tộc Ukraine bị bắt giam và bị đưa vào trại. Trong thời gian 1944-1952, các chiến sĩ này tổ chức chiến tranh du kích, thoạt đầu chống Đức, sau chống Liên Xô. Quả là những tay anh chị, họ bị đưa thẳng từ rừng về trại chúng tôi. Họ mang một làn gió mới đến trại vì chúng tôi, những kẻ bị tù tội từ năm 1944, là những quả chanh đã bị vắt kiệt, không còn sức lực và cũng không còn đầu óc kháng cự. Nhưng những người Ukraine vẫn còn những nhân tố đó.
Họ quyết định chấm dứt sự thống trị của lũ chỉ điểm. Họ chọn một giải pháp đặc biệt: bầu ra trong nội bộ một tòa án, một viện công tố, một phòng điều tra, thậm chí, cả một đội hành quyết. Không ai biết cụ thể các cơ quan này gồm những ai. Mọi thứ diễn ra hệt như ở ngoài đời. Nếu điều nghi ngờ được chứng thực, khi đó họ tuyên án tử hình và đội hành quyết thực hiện bản án, hoặc họ yêu cầu một kẻ tình nghi khác phải giết một tên chỉ điểm đã bị kết án; bằng không, tay này cũng phải chịu chung số phận. Nhưng nếu hoàn thành nhiệm vụ, hắn sẽ được trắng án.
- Bản án được thực hiện như thế nào?
- Tùy từng trường hợp. Chẳng có cách nào khác, luật pháp của bầy sói ngự trị, hoặc hắn, hoặc tôi phải chết. Thường thường, người ta dùng búa hay rìu choảng vào đầu tội nhân ở nơi làm việc, hoặc dùng dao đâm hay cứa cổ.
- Nhưng làm sao điều tra được ai là chỉ điểm?
- Có thể biết điều này một cách khá chắc chắn. Nói chung, những ai đi vào tòa nhà Ban quản lý nhà tù và bị phát giác, đều bị đánh dấu hỏi. Ngoài ra, ai có chỗ ở quá tốt, được hưởng nhiều lợi lộc, cũng là kẻ đáng nghi. Thông thường, lũ chỉ điểm thuộc số người làm ở nhà bếp hoặc giữ kho quần áo. Khó giữ được bí mật trong một cộng đồng khép kín như thế.
- Những vụ “hành quyết” ấy có để lại hậu quả ra sao?
- Thoạt đầu, người ta coi đó là những tai nạn trong phân xưởng. Mùa xuân năm 1951, sau khi những cuộc hành quyết đã diễn ra liền trong mấy tháng, Ban quản lý trại bắt đầu mở cuộc điều tra. Những người Ukraine khả nghi bị giam trong xà-lim riêng và bị canh phòng cẩn mật. Đồng thời, lũ chỉ điểm, sau khi cảm thấy tính mạng bị đe dọa, đã đề nghị viên chỉ huy trại cho chúng vào một nhà tù xây bằng đá tảng để lánh nạn.
Chẳng mấy chốc, một tin được lan truyền: bọn chỉ điểm, sau khi vào “nhà đá”, đã hành hạ các tù nhân Ukraine để trả thù. Cả trại phát khùng và tấn công khu nhà đá. Cuộc nổi loạn trong trại khởi đầu như thế. Các tù nhân xé rách hàng rào, đánh nhừ tử đội lính gác. Nhưng chúng tôi không vào được trong nhà tù vì cánh cửa quá chắc. Rồi quân đội tràn đến, họ bắn chỉ thiên lên trời. Thương thay, có một người bất hạnh đang ngồi trên chiếc giường tầng, bị trúng một viên đạn lạc về hướng lán trại. Sau đó, chúng tôi tuyệt thực trong bốn ngày.
Dường như Ban lãnh đạo nhà tù nhận thấy họ đã xử sự quá trớn, thành thử theo lệnh của trung ương, tình hình chúng tôi dần dần được cải thiện. Chế độ nhà tù bớt hà khắc, thời gian cuối người ta còn xây cho chúng tôi một sân chơi bóng chuyền và chúng tôi còn có một chiếc máy hát có loa kiểu cũ.
- Như vậy, cuộc nổi loạn đã không bị đàn áp?
- Không bao giờ Ban quản lý trại biết được ai là người khỏi xướng và trong nhóm tù nhân Ukraine, những ai là người thực hiện các vụ “thanh trừng”. Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn ít lâu, người ta tập trung toàn bộ các thanh niên Ukraine và đưa họ xuống làm việc ở mỏ đồng.
- Sau chín năm ngồi tù, ông có cảm tưởng ra sao khi biết mình được tự do?
- Dần dần, chúng tôi đoán là mình sẽ được phóng thích. Sau cái chết của Stalin vào tháng 3-1953, tù thường phạm lại được hưởng ân xá. Tháng Sáu, Ban quản lý bắt đầu triệu tập những người nước ngoài (có hai mươi bảy người Hung), họ thông báo sẽ đưa chúng tôi khỏi trại, nhưng không nói sẽ trả tự do cho chúng tôi. Viên chỉ huy trại, vốn quý người Hung vì họ làm việc rất cừ, đã giải quyết cho chúng tôi đi bằng tàu hỏa chở khách đến vị trí tập trung ở Lemberg (1).
Chỉ khi đến đó, người ta mới thông báo rằng chúng tôi được về nhà trong vòng một vài tuần lễ. Nhưng nào phải vài tuần! Chúng tôi phải đợi năm tháng rưỡi vì đồng chí Rákosi (2) không muốn cho chúng tôi trở về. Theo các nguồn tư liệu, ông ta nói với các đồng chí Liên Xô như sau: nếu để lũ phát-xít như bọn tôi về nước, ông ta sẽ không bảo đảm việc xây dựng CNXH ở Hung! Cuối cùng, Rákosi vẫn đành phải nhận chúng tôi vì dân Romania, dân Đức và người các dân tộc khác đã được về nước từ lâu.
Chặng đường về nước vô cùng buồn bã. Một thiếu tá Liên Xô đi tay không đưa chúng tôi đến Csap. Con tàu lắc lư chở chúng tôi đi trên chiếc cầu biên giới, đúng vào lúc chúng tôi nghe tiếng chuông ở Záhony (3) điểm mười hai giờ trưa, chúng tôi khóc nức nở và hát Quốc ca. Qua cầu, một toán người có vũ trang vận áo bông, dẫn chó vây quanh đoàn tàu. Họ nói tiếng Hung, nhưng trông bộ dạng hệt như người Liên Xô. Chúng tôi không thể đoán ra họ là ai, nhưng không ai nghĩ đến một quang cảnh tiếp đón như thế.
Người ta gào lên với chúng tôi bằng một giọng thô lỗ nhất: “Cút mẹ chúng mày đi, đồ phát-xít khốn nạn!”. Giữa chừng, lũ chó xếp hàng xung quanh chúng tôi. Cố nhiên, giấc mơ trong từng ấy năm trời của chúng tôi – quỳ xuống hôn đất mẹ sau khi bước xuống tàu hỏa – đã hoàn toàn tan biến. Cái giọng điệu mà chúng tôi được nghe chẳng khác gì trong trại tập trung, chỉ khác là bằng tiếng Hung.
Chúng tôi phải xếp hàng ba, khác với ở Nga, tại đó thường là hàng năm. Trong tiếng chó sủa râm ran, chúng tôi bị toán người vũ trang giải đến một căn nhà nghỉ ở Nyíregháza, tại đó chúng tôi phải làm bản tường trình lý lịch. Chúng tôi đã ngỡ là ở quê hương, chúng tôi cũng phải tiếp tục đời sống lao tù. Khó tin nổi rằng năm ngày sau chúng tôi được tự do. Trong số chúng tôi, có những người bị tách ra và bị giam trong tù. Tôi nghĩ rằng có thể đó là những cựu chính khách hoặc sĩ quan cao cấp.
Chúng tôi sống ở cạnh nhà ga Kanizsai, tôi đã nhìn thấy căn nhà qua cánh cửa sổ, nhưng tôi hoàn toàn không biết điều gì sẽ chờ tôi ở nhà. Không thể diễn tả nổi khoảng khắc tôi được gặp lại cha mẹ tôi sau chín năm trời xa cách. Lúc đó tôi mới hay rằng cha tôi cũng bị bắt làm tù binh và bị giam nửa năm trời (đến tháng 9-1945) trong một trại tập trung ở Liên Xô.
- Ông hòa nhập với cuộc sống ở quê hương ra sao?
- Khó khăn lắm. Tôi được nhận làm kế toán. Năm 1956, tôi là thành viên Ủy ban Cách mạng, vậy mà tôi vẫn không bị bắt giữ một lần nữa mới lạ chứ. Tuy nhiên, tôi cũng biết là mình bị theo dõi.
- Ông hay được nhắc đến như “Solzhenitsyn của nước Hung”. Quả thực hai người đã là bạn tù?
- Chúng tôi bị giam cùng trại tập trung ở Kazakhstan, tình bạn giữa hai chúng tôi còn kéo dài đến bây giờ. Thời đó, chúng tôi bị coi là những kẻ kỳ quặc vì cả hai đều không lăng xăng trong nhà bếp, mà thường quanh quẩn bên thư viện. Năm 1962, khi cuốn sách “Một ngày trong đời của Ivan Denisovich” được đăng tải trên tờ tạp chí văn học “Noviy Mir” (Thế giới mới), thông qua tờ báo, tôi liên hệ với Solzhenitsyn, chúng tôi bắt đầu trao đổi thư từ về các vấn đề văn học.
Về sau, khi ông trở thành một nhân vật “khó xử” về mặt chính trị, tôi liên lạc thư từ thông qua vợ ông. Chúng tôi nghĩ rằng bằng cách ấy, chúng tôi sẽ đánh lạc hướng được cơ quan KGB. Quả là ngây thơ! Năm 1974, khi Solzhenitsyn bị trục xuất khỏi Liên Xô, Nhà xuất bản Chính trị (4) gửi thư cho tôi từ Moscow, họ đề nghị tôi viết hồi ký rồi họ sẽ in. Họ tin rằng trái với Solzhenitsyn, tôi sẽ viết tốt về cuộc sống trong trại tập trung vì tôi yêu quý nền văn hóa Nga, tôi tìm hiểu và nghiên cứu nền văn học Nga và tôi đồng cảm với dân tộc Nga, là dân tộc phải chịu đựng nhất trên hoàn cầu.
Tôi hỏi làm sao họ biết tất cả những điều này. Họ thông báo cho tôi biết: tất cả những lá thư tôi viết cho Solzhnitsyn đã đều qua tay họ. Họ nghĩ rằng tôi sẽ là đối âm của người bạn tôi. Thoạt tiên tôi không muốn viết, nhưng sau đó tôi vẫn viết, cố nhiên tôi đã không được khen ngợi vì những gì mình viết. Họ không nhận được những gì họ muốn. May cho tôi là thời đại Gorbachev đến đúng lúc.
Về sau, bằng cách nào không rõ, tập bản thảo của tôi được chuyển sang Munchen và được xuất bản tại đó. Các “đồng chí” có thẩm quyền bảo tôi: “Người ta sẽ không biến anh thành kẻ “tử vì đạo”, anh sẽ không thành Solzhenitsyn của nước Hung đâu”. Còn có thể kể nữa, nhưng tôi không muốn…
- Ông vẫn còn ngại KGB, hay các “đồng chí” người Hung ư?
- KGB vẫn chưa giải thể.
- Tuy nhiên, dường như các nhân viên KGB và các đồng nghiệp người Hung của họ để ý đến các vụ phạm pháp có tổ chức là chính, chứ họ đâu có quan tâm mấy đến việc tẩy rửa những tàn tích nhơ bẩn của cái thể chế đã mất.
- Trước mắt, tốt hơn cả là chưa nên khuấy đảo! Chủ nghĩa xã hội chưa phải là một việc đã qua, những thế lực rất đáng kể còn muốn phục hồi lại đế chế Liên Xô. Chủ nghĩa Đại Slav (5), sự hoài niệm về đế chế Liên Xô có cội rễ rất sâu trong nước Nga.
- Hiện tại, ông đang viết cuốn “Bách khoa toàn thư về Gulag”, theo lịch trình, sẽ được ấn hành bởi Nhà xuất bản Puski vào năm sau. Xin ông cho vài lời về cuốn sách?
- Năm 1989, tôi bắt đầu thu thập tư liệu về những tù nhân Hung ở Gulag; khi đó, tôi quyết định sẽ viết một cuốn tự điển bách khoa – dựa trên tài liệu, giấy tờ, lời khai của các bạn tù – để chứng tỏ chúng tôi không phải là phát-xít, không phải là tội phạm chiến tranh. Nhiều người bảo tôi gắng sức làm gì, mọi sự sẽ được đưa ra ánh sáng nếu KGB công bố các tài liệu lưu trữ. Đúng vậy, có điều theo ý tôi, nếu các tài liệu lưu trữ được công bố, mọi thứ giấy tờ sẽ cho thấy chúng tôi là những tên phát-xít hung hãn!
Thành thử, khi chúng tôi còn sống và những tư liệu về chúng tôi vẫn còn, cần phải giải quyết và thu thập chúng, làm sáng tỏ lịch sử chân thực của chúng tôi. Nếu bây giờ tôi không làm điều này, năm chục năm về sau các sử gia “xã hội” sẽ nói rằng cơ quan tư pháp Xô-viết đã giúp nước Hung loại trừ hàng vạn tên phát-xít hung ác, tạo điều kiện phát triển cho công cuộc xây dựng hòa bình ở nước này. Cần phải chứng minh bằng thực tế rằng người ta đã hủy hoại xương sống, đã cướp đi phần tinh túy của một dân tộc, biến giới thanh niên thành những nô lệ.
Cho đến nay, tôi đã tái tạo lại lịch sử chính xác của bốn ngàn người, thường là dựa trên các tài liệu do Tòa án Tối cao Moscow hoặc Viện Kiểm sát Tối cao Liên Xô gửi, và những tài liệu ấy cũng củng cố nhận định trên của tôi. Sau khi khảo cứu hàng ngàn trường hợp, tôi nhận ra rằng cạnh bản án gửi cho tôi, người ta tự động kèm thêm một văn bản phục hồi danh dự cho người bị án. Theo đó, chính phía Liên Xô cũng nhận thấy những lời buộc tội đều là giả trá.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ: cho đến nay, những người bị buộc tội sát hại binh lính Nga vẫn chưa được phục hồi. Mặc dù chúng tôi biết lý do những vụ “sát hại” đó: nạn nhân đã hãm hiếp, cướp bóc, hoặc có khi chính anh ta là kẻ giết người đầu tiên. Người lính Xô-viết dù có làm việc gì nhơ bẩn đến mấy đi nữa, họ cũng vẫn là anh hùng, danh dự người lính của họ được bảo vệ. Người ta bấu víu vào huyền thoại giả tạo của một quân đội giải phóng anh hùng. Nhiệm vụ của tôi là phá vỡ huyền thoại của thể chế Xô-viết, bằng những chứng liệu thực tế.
Ghi chú:
(1) Còn được gọi theo tên khác là Lvov, một thành phố thuộc lãnh thổ Ukraine ngày nay.
(2) Rákosi Mátyás (1892-1971): Tổng bí thư đảng Cộng sản Hung, người du nhập và xây dựng mô hình Stalinist vào Hung.
(3) Csap và Záhony là hai thành phố ở biên giới Hung – Ukraine.
(4) Nhà xuất bản APN ở Liên Xô.
(5) Phong trào chủ trương thống nhất các dân tộc Slav sưới sự lãnh đạo của nước Nga – Sa hoàng.
Nguyễn Hoàng Linh chuyển ngữ và chú giải
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM 1979
nguyentrongtaoNGÔ BẮC
Lời Người Dịch: Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đã phóng ra cuộc tấn công của nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đã rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đã không rời Căm Bốt mãi cho đến năm 1989.” ….
“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng phía Trung Quốc đã học được một bài học quan trọng.”
Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước. Đối chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rõ ràng vấn đề sinh tử của dân tộc Việt Nam hiện nay là phải tìm mọi cách đê duy trì được sự độc lập và vẹn toàn lãnh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi hổ đối với Trung Quốc.
1.Sun Dreyer
VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA:
VÒNG XOÁY TRÔN ỐC SỰ VẤN ĐỀ VÀ
CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM (1979)
One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War (1979).
2. Steven J. Hood,
BẮC KINH, HÀ NỘI, VÀ ĐÔNG DƯƠNG –
CÁC BƯỚC TIẾN TỚI SỰ ĐỤNG ĐỘ
(Beijing, Hanoi, and Indochina – Steps to the Clash,
trong quyển Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War, 1992.
3. Zhang Xiaoming,
ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀ
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC
ĐI ĐÊN CHIẾN TRANH
VỚI VIỆT NAM
(Deng Xiaoping and China’s Decision to Go to War with Vietnam),
Journal of Cold War Studies, Summer 2010, vol. 12, No. 3, 3-29.
4, Nicolas Khoo,
HỒI KẾT CUỘC CỦA
MỘT TÌNH HỮU NGHỊ BẤT KHẢ HỦY DIỆT:
Sự Tái Xuất Hiện Của Sô Viết và
Sự Chấm Dứt Liên Minh Trung Quốc – Việt Nam, 1975-1979
trong quyển Collateral Damage: Sino – Soviet Rivalry and the Termination
of The Sino – Vietnamese Alliance, Columbia University Press, 2011, 103-136.
5. Herbert S. Yee,
CUỘC CHIẾN TRANH
BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC – VIỆT NAM:
CÁC ĐỘNG LỰC, CÁC TÍNH TOÁN VÀ
CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG
trong quyển The Sino-Vietnamese Border War: China’s Motives,
Calculations and Strategies, China Report (xuất bản
tại New Delhi, India), Bộ 16, số 1, 1980, các trang 15-32.
6. Edward C. ODow’d,
CHIẾN DỊCH NĂM 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.
7. Edward C. ODow’d,
TRẬN ĐÁNH LẠNG SƠN, THÁNG HAI – THÁNG BA 1979
trong quyển Chinese Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,
các trang 45-73; Chapter 5: The Battle of Lang Son, February – March 1979,
các trang 74-88; Chapter 0: Conclusion: the legacy of an “incredible, shrinking war”,
các trang 159-166.
8. Harlan W. Jenks,
CUỘC CHIẾN TRANH “TRỪNG PHẠT”
CỦA TRUNG QUỐC ĐÁNH VÀO VIỆT NAM:
MỘT SỰ LƯỢNG ĐỊNH VỀ QUÂN SỰ
(“China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military
Assessment”, Asian Survey 14, no. 8 (1979): 801-815.
9. Chen C. King,
CUỘC CHIẾN CỦA TRUNG QUỐC
ĐÁNH VIỆT NAM:
MỘT PHÂN TÍCH QUÂN SỰ
(“China’s War Against Vietnam: A Military Analysis”),
Journal of East Asian Affairs, no. 1 (1983): 233-63.
10. John M. Peppers, ,
CHIẾN LƯỢC TRONG XUNG ĐỘT CẤP VÙNG:
MỘT TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU
ĐIỂN HÌNH VỀ TRUNG QUỐC
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
LẦN THỨ BA NĂM 1979
(Strategy In Regional Conflict:
A Case Study of China In The Third Indochina Conflict of 1979),
U.S. Army War College, Carlisle Barracks, 2001.
11. Alexander Woodside
DÂN TỘC CHỦ NGHĨA VÀ
NẠN NGHÈO ĐÓI
TRONG SỰ TAN VỠ CÁC QUAN HỆ
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM
Nationalism and poverty in the Breakdown
of Sino-Vie6namese Relations,
Pacific Affairs, Fall 1979,
các trang 381-409.
12. Dennis Duncanson
CHIẾN TRANH VIỆT NAM
CỦA TRUNG QUỐC:
CÁC ĐÒI HỎI CHIẾN LƯỢC CŨ VÀ MỚI
China’s Vietnam War:
new and old strategy imperatives,
The World Today, 35, số 6 (1979),
các trang 241-248.
13. James Mulvenon
CÁC GIỚI HẠN CỦA NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH:
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Limits of Coercive Diplomacy:
The 1979 Sino-Vietnamese Border War,
Journal of Northeast Asian Studies; Fall 95,
Vol. 14 Issue 3, các trang 68-88.
14. Andrew Scobell
NGOẠI GIAO CƯỠNG HÀNH NỬA VỜI:
CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC
ĐÁNH VIỆT NAM
“Explaining China’s Use of Force”,
China’s Use of Military Force Beyond the Great Wall and the Long March
Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press, 2003
các trang 192-198.
15. Daniel Tretiak
CHIẾN TRANH VIỆT NAM CỦA TRUNG QUỐC
VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA NÓ
“China’s Vietnam War and Its Consequences,” The China Quarterly 80 (1979), các trang 740-67.
16. Bruce Burton
CÁC SỰ GIẢI THÍCH ĐỐI CHỌI
VỀ CUỘC CHIẾN TRANH
TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
“Contending explanations of the 1979 Sino – Vietnamese War”,
International Journal, Volume XXXIV, no. 4/Autumn 1979, các trang 699-722.
17. Ramesh Thakur
TỪ SỐNG CHUNG ĐẾN XUNG ĐỘT:
CÁC QUAN HỆ
HÀ NỘI – MẠC TƯ KHOA – BẮC KINH
VÀ CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT
Coexistence to Conflict: Hanoi-Moscow-Pekings Relations and The China-Vietnam War,
The Australian Outlook, Volume 34, số 1, 1980, các trang 64-74.
18. Todd West
TỪ SỐNG SỰ NGĂN CẤM KHÔNG THÀNH CÔNG
CUỘC XUNG ĐỘT TRUNG QUỐC – VIỆT NAM NĂM 1979
Failed Deterrence, The 1979 Sino-Vietnamese Conflict,
Stanford University Journal of East Asian Affairs, Vol. 6, No. 1, Winter 2006, các trang 73- 85.
19. Colonel G.D Bakshi
Cuộc Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979:
Trường Hợp Nghiên Cứu Điển Hình
Trong Các Cuộc Chiến Tranh Hạn Chế
VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited Wars,
Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000
20. Bruce Elleman
Các Quan Hệ Sô Viết – Trung Quốc Và Cuộc Xung Đột
Trung Quốc – Việt Nam Tháng Hai 1979
Đọc tại Cuộc Hội Thảo 1996 Vietnam Symposium,
“After the Cold War: Reassessing Vietnam”,
được tổ chức vào các ngày 18-20 Tháng Tư, 1996
tại Vietnam Center, Texas Rech University, Lubbock, Texas
21. Henry J. Kenny
CÁC NHẬN THỨC CỦA VIỆT NAM VỀ CUỘc CHIẾN TRANH,
1979 VỚI TRUNG QUỐC “Vietnamese Perceptions of the 1979 War with China,
Chinese Warfighting: The PLA Experience Since , đồng biên tập bởi
Mark A. Ryan, David Michael Frakelstein, Michael A. McDevitt, Chapter 10, các trang 217-241s
22. Xiaoming Zhang
CUỘC CHIẾN TRANH
NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆT NAM: MỘT SỰ
TÁI LƯỢNG ĐỊNH, “China’s War with Vietnam: A Reassessment”,
The China Quarterly, số 184, December 2005, các trang 851-874.
23. Douglas E. Pike, Cộng Sản Đấu Cộng Sản Tại Đông Nam Á (“Communism vs Communism in Southeast Asia), International Security, Vol. 4, No. 1 (Summer, 1979), từ trang 20.
24. Phụ Lục: Các tài liệu của Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng của Trung Quốc về Chiến Tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979: Các báo cáo và kiểm điểm của 13 đơn vị quân đội Trung Quốc đã tham gia vào Chiến Dịch 1979 xâm lăng Việt Nam.
Các bài nghiên cứu quan trọng khác sẽ được cập nhật khi cần thiết.
Zhang Xiaoming
Department of Leadership and Strategy at the Air War College
CUỘC CHIẾN TRANH NĂM 1979 CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆT NAM: MỘT SỰ TÁI LƯỢNG ĐỊNH *
Ngô Bắc dịchĐại Ý:
Bài viết này cố gắng phát hiện các nhận thức riêng của Trung Quốc về cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam. Bài viết bao gồm các quan hệ lịch sử của Trung Quốc với Việt Nam và ảnh hưởng của chúng trên khuynh hướng của Bắc Kinh đối với chiến tranh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình, chiến lược quân sự của Trung Quốc và các sự chuẩn bị cho cuộc tấn công. Bài viết cho thấy phương cách mà khuynh hướng của Bắc Kinh đối với chiến tranh đã có một loạt riêng biệt các đặc tính Trung Quốc ra sao: việc tính toán thời điểm và sự sử dụng sức mạnh quân sự như thế nào, mục tiêu thầm kín trong suốt cuộc chiến và căn bản trên đó sự thành công được lượng giá. Bài viết tái duyệt các tác động của cuộc xung đột, cả về mặt chính trị lẫn quân sự, và các bài học rút ra như được nhận thấy bởi chính người Trung Quốc.
***
Vào đầu năm 1979, Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam, theo lời của giới lãnh đạo Trung Quốc, để “dạy cho Việt Nam một bài học” mà nó sẽ không sớm quên. Bất kể sự tuyên xác chiến thắng của Bắc Kinh, giới học giả hiên nay nói chung đồng ý rằng cuộc chiến đã không diễn tiến tốt như Trung Quốc đã kỳ vọng và rằng QĐGPNDTQ (Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc) đã thi hành nhiệm vụ một cách kém cỏi trong cuộc xung đột. Chính Trung Quốc, chứ không phải Việt Nam, đã nhận được bài học. 1 Tài liệu của Trung Quốc về cuộc chiến tranh vẫn còn được bảo mật cao độ, và tin tức cung ứng không chỉ rời rạc và thiên lệch, mà còn đáng ngờ vực về mức độ chân thật. Hiện có ít bài viết bằng Anh ngữ và phần lớn những gì đang hiện hữu chứa đầy sự ức đoán và không chính xác, được chống đỡ bởi lời đồn đãi ở Hồng Kông và Đài Loan. Tuy nhiên, giờ đây sự kiểm soát thông tin của Bắc Kinh xem ra đang được nới lỏng. Nhiều tài liệu lưu hành nội bộ liên quan đến sự thi hành và các kinh nghiệm của QĐGPNDTQ trong cuộc chiến tranh năm 1979 đã tới được các thư viện Mỹ và khả dĩ tiếp cận để sử dụng trên mạng internet. Ngoài ra, các hồi ký của các sĩ quan quân đội cao cấp cũng được cung cấp. 2
Bản Đồ 1
Bài viết này gắng sức để phát hiện các nhận thức của chính phía Trung Quốc về cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam dựa trên một sự khảo sát các tài liệu có nguồn gốc nguyên thủy và sự nghiên cứu của các học giả hàng đầu. Bài viết bắt đầu với một sự thảo luận các quan hệ lịch sử của Trung Quốc với Việt Nam và ảnh hưởng của chúng trên đướng hướng của Bắc Kinh tiến tới chiến tranh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình. Kế tiếp, bài viết khảo sát vai trò của QĐGPNDTQ, bao gồm chiến lược quân sự và các sự chuẩn bị của Trung Quốc cho cuộc tấn công và các quan điểm của chính QĐGPNDTQ về các cuộc hoạt động quân sự. Sau cùng, bài viết duyệt xét các tác động của cuộc xung đột, cả về mặt chính trị lẫn quân sự, và các bài học lĩnh hội được như được nhìn bởi chính người Trung Quốc. Bài viết diễn giải đường hướng tiến tới chiến tranh của Bắc Kinh, trình bày một loạt riêng biệt các đặc tính Trung Quốc: giới lãnh đạo Bắc Kinh đã không ngần ngai sử dụng vũ lực sau khi đã tính toán kỹ lưỡng thời điểm và phương cách sử dụng quyền lực quân sự; mục tiêu căn bản của QĐGPNDTQ là nắm giữ và duy trì thế chủ động hành quân; và căn bản chính yếu trên đó phía Trung Quốc đã lượng giá sự thành công quân sự là địa chính trị chứ không phải là thi hành công tác. 3 QĐGPNDTQ đã bị đối xử một cách thô bạo bởi phía Việt Nam, nhưng đã hoàn thành các mục đích chiến lược của Bắc Kinh, chuyển hướng sự chú tâm của Việt Nam đến áp lực quân sự mới tại biên giới phía bắc của nó, điều làm giảm bớt chính sách phiêu lưu của Việt Nam tại Đông Nam Á. Song QĐGPNDTQ đã thất bại trong việc phân cách các bài học lĩnh hội được từ cuộc xung đột ra khỏi triết lý và truyền thống quân sự lỗi thời, có thể kiềm chế sự hiện đại hóa và biến đổi của nó.
Một Quan Điểm Lịch Sử Văn Hóa
Bắc Kinh và Hà Nội đã từng là các đồng minh thân cận kể từ cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất hồi đầu thập niên 1950. Như thế, tại sao CHNDTQ đã quyết định đi đến chiến tranh với CHXHCNVN (Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) vào cuối năm 1978? Các lý do của Bắc Kinh rõ ràng bao gồm “giấc mộng đế quốc” bá quyền của Hà Nội tại Đông Nam Á; sự vi phạm biên giới Trung Quốc và theo sau là sự xâm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc; sự ngược đãi người gốc Hoa đang sinh sống tại Việt Nam; và sự thân mật của Việt Nam với Liên Bang Sô Viết, nước đang mở rộng khu vực ảnh hưởng của nó vào vùng Đông Nam Á. 4 Các quan sát viên đương thời và vài cuộc nghiên cứu sau này cho rằng các mục tiêu đích thực (bona fide) [sic] của Bắc Kinh là nhằm chuyển hướng áp lực quân sự của Hà Nội trên Căm Bốt và buộc chân các lực lượng của Hà Nội tại một mặt trận thứ nhì. 5 Tác giả Robert Ross tranh luận rằng sự sử dụng vũ lực của Trung Quốc đánh Việt Nam không chỉ là một sự đáp ứng đối với sự xâm lược của Hà Nội tại Đông Dương mà cũng là một sự đáp ứng trước sự hợp tác của Việt Nam vào sự bao vây Trung Quốc ra khỏi Đông Nam Á của Sô Viết. 6 Các cuộc nghiên cứu khác lập luận rằng cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam có chủ ý nhằm làm mất tín nhiệm Liên Bang Sô Viết như một đồng minh đáng tin cậy trong trường hợp có khủng hoảng. 7
Trong cuộc nghiên cứu của mình về mối quan hệ của Bắc Kinh với Việt Nam trước khi có cuộc chiến thắng của Hà Nội năm 1975, tác giả Zhai Qiang kết luận rằng “chính trị thực tế đã không là ngôn ngữ đuy nhất được nói bởi các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong các quan hệ quốc tế. Mặc dù họ tự nhận là các kẻ theo chủ nghĩa quốc tế Mác-xít và Lê-nin-nít, họ đã thừa kế trọn vẹn di sản lịch sử của Trung Hoa: một thế giới quan lấy Trung Hoa làm trung tâm, vốn nhìn các nước nhỏ ở ngoại vi Trung Hoa, bao gồm cả Việt Nam, là thấp kém và nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, ‘sự tự hào lịch sử và sự nhạy cảm văn hóa’ đã là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc. Trong suốt lịch sử của họ, người Việt Nam đã ưa thích việc vay mượn và thích nghi văn minh và các định chế Trung Quốc cho sự áp dụng của chính họ, trong khi vẫn cương quyết về việc bảo toàn nền độc lập và di sản văn hóa của mình. Họ đã tìm kiếm sự giúp đỡ của Trung Quốc khi họ bị suy yếu về mặt nội bộ và trở nên thù nghịch khi họ thống nhất và thoát khỏi sự xâm lược từ bên ngoài. 8 Các hình ảnh lịch sử tương ứng được ghi khắc bởi các nhà lãnh đạo và nhân dân của hai nước về mối quan hệ Trung – Việt rõ ràng đã đóng một vai trò có ý nghĩa trong quyết định của Bắc Kinh nhằm phát động một cuộc tấn công trừng phạt đánh vào Việt Nam.
Kể từ đầu thập niên 1950, Trung Quốc đã từng là một kẻ ủng hộ quân sự và chính trị mạnh mẽ của Hà Nội, trợ giúp Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại người Pháp và đánh bại người Mỹ “xâm lược”. Các cuộc nghiên cứu hiện thời cho thấy rằng chính sách của Trung Quốc đối với Hà Nội trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên được hướng dẫn bởi các sự cứu xét đa diện từ truyên thống lịch sử cho đến ý thức hệ cách mạng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, trong suốt diễn tiến, cảm nghĩ của Trung Quốc về sự ưu việt đã chế ngự sự nhận thức của họ về mối quan hệ của họ với Việt Nam. 9 Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc lập lại nhiều lần các lời tuyên bố rằng phía Việt Nam phải được đối xử như “kẻ bình đẳng”, tác giả Chen Jian nhận xét rằng mỹ từ như thế đã tự phản ảnh niềm tin mạnh mẽ của họ rằng “họ đã chiếm cứ một vị thế từ đó truyền phán các giá trị và các quy luật cư xử sẽ khống chế các tương quan của họ với các lân bang”. 10 Bắc Kinh có tuyên bố rằng nó chưa hề áp đặt các điều kiện kinh tế và chính trị trên khoản viện trợ vật liệu và quân sự khổng lồ của nó cho Hà Nội. Nó muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc trong phong trào giải phóng dân tộc trong vùng và trên thế giới. Thái độ này của Trung Quốc đã gây tức giận đối với phía Việt Nam, những kẻ đặc biệt nhạy cảm về quá khứ nhiều khó khăn của họ với Trung Hoa. Cho dù Bắc Kinh và Hà Nội có gọi nhau là “các đồng chí anh em” vào lúc đó, tiếng thì thầm là ác cảm gia tăng của Việt Nam đối với phiên bản hiện đại của Trung Quốc về mối quan hệ của họ. 11
Một sự duyệt xét tài liệu bằng tiếng Hán liên quan đên cuộc chiến tranh năm 1979 phát hiện rằng các sự tường thuật về sự cư xử sai trái của Việt Nam đối với Trung Quốc kể từ 1975 còn làm tổn thương hơn nữa cảm giác ưu việt của Trung Quốc. Giới lãnh đạo trung tâm Việt Nam đã chấp nhận một chính sách sẽ xem chủ nghĩa đế quốc Mỹ như một “kẻ thù trong trường kỳ”, nhưng Trung Quốc là “kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp nhất”, và một “đối thủ tương lai mới” mà Việt Nam phải chuẩn bị để giao chiến. 12 Để đáp ứng, Tổng Cục Chính Trị của QĐNDVN đã thúc giục các lực lượng vũ trang Việt Nam tiếp nhận một chiến lược tấn công đối với Trung Quốc, tấn công và phản công một cách tích cực vào kẻ thù bên trong và bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, và biến các vùng biên giới thành một mặt trận chống Trung Quốc. 13 Sự coi thường của Việt Nam dành cho QĐGPNDTQ và sự tự tin quá đáng vào quyền lực quân sự của chính họ cũng tạo thành một chất xúc tác thúc đẩy giới quân sự Trung Quốc hành động. Các lực lượng được tôi luyện bởi chiến trận của QĐNDVN đã giao tranh gần như liên tục trong nhiều thập niên và đã có thể tuyên bố chiến thắng trên hai quyền lực Tây Phương quan trọng, trong khi các chuyên viên của Việt Nam đã nhận định rằng QĐGPNDTQ có năng lực chiến đấu thấp và tinh thần kém. QĐNDVN đặc biệt tự hào về các khí giới do Nga chế tạo và các trang bị của Mỹ tịch thu được của nó, mà theo tin tức truyền thông của Việt Nam, vượt xa bất kỳ thứ gì được sở đắc bởi QĐGPNDTQ. 14
Trong hơn hai thập niên, Trung Quốc đã cung cấp cho Hà Nội 20 tỷ [mỹ kim] viện trợ, nhiều hơn bất kỳ nước nào khác. Khi Việt Nam bắt đầu cưỡng bách hồi hương người gốc Hoa tại miền bắc Việt Nam và gia tăng sự vi phạm lãnh thổ Trung Quốc tại biên giới, nhiều người Trung Quốc đã nghĩ rằng Hà Nội đã vô ơn trước sự trợ giúp và hy sinh này. Đã có một sự biểu lộ công khai nỗi tức giận đối với Việt Nam. 15 Những kẻ đã từng trợ giúp phe cộng sản Việt Nam trong các cuộc chiến tranh của họ chống lại người Pháp và người Mỹ đặc biệt cảm thấy bị phản bội và hăm hở để”dạy cho Việt Nam một bài học”. Trong số này có Đặng Tiểu Bình, phó thủ tướng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng QĐGPNDTQ, kẻ có sự bực bội với thái độ không tử tế của Việt Nam đối với sự trợ giúp của Trung Quốc có thể truy tìm ngược lại từ giữa thập niên 1960. 16 Khi mà sự thù hận giữa hai nước gia tăng vào cuối thập niên 1970, ông ta càng trở nên cảm xúc hơn, có lần còn gọi Việt Nam là wangbadan (theo nghĩa đen là “trứng con rùa” nhưng có thể phiên dịch như “đồ chó đẻ” [s[on] o[f] b[itch] trong nguyên văn, chú của người dịch] trước mặt một nhà lãnh đạo nước ngoài. 17 Các lý thuyết gia quân sự nói chung đồng ý rằng “với ý định thù nghịch ở cả hai bên, sự tức giận và oán ghét … cổ vũ” cho sự giao chiến. 18 Sự xấc láo của Việt Nam cùng với các vụ đụng độ biên giới không ngừng gia tăng và cuộc di cư đang diễn tiến của cư dân gốc Hoa làm phát sinh xúc cảm cao độ trong các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Trung Quốc, và sự cứu xét việc sử dụng vũ lực.
Bước Tiến Khởi Sự Đến Chiến Tranh Của Trung Quốc
Vẫn không có chứng liệu chắc chắn về thời điểm và phương cách mà Bắc Kinh đã lấy quyết định cho hành động quân sự đánh Việt Nam. Tác giả Nayan Chanda, một thông tín viên Đông Nam Á lâu năm của tạp chí Far Eastern Economic Review, tường thuất với ít chi tiết rằng giới lãnh đạo Trung Quốc đã lấy quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học” vì tác phong “vô ơn và ngạo mạn” của nó trong một phiên họp hàng tuần của Bộ Chính Trị hồi đầu Tháng Bảy 1978. Tuy nhiên, ông ta nghĩ rằng chính tại cuộc họp này mà giới lãnh đạo Trung Quốc đã liên kết “một cách đanh thép” quyết định của họ tiến hành hành động quân sự như một biện pháp nhằm “làm suy yếu vị thế của Sô Viết trong Thế Giới Thứ Ba”. 19 Các nguồn tin Trung Quốc mới khiến ta nghĩ rằng sự suy ngẫm về một đáp ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa Trung Quốc và Việt Nam là một tiến trình chậm chạp; không quyết định nào đã được đạt tới cho mãi khá lâu sau này. Hơn nữa, hành động được cứu xét ban đầu như một cuộc xung đột liên quốc gia được địa phương hóa chứ không như một phần của chiến lược chống bá quyền trên toàn cầu của Trung Quốc. Trong những năm khởi đầu của thời hậu-Mao, Bắc Kinh đã áp dụng một loại giới lãnh đạo đồng thuận thường liên can đến một tiến trình kéo dài của các sự tham khảo không chính thức trong các nhà lãnh đạo cao cấp và các thuộc cấp, kể cả các viên chức chính phủ và sĩ quan quân đội cấp thấp chịu trách nhiệm về vấn đề, trước khi có một quyết định chung quyết.
Zhou Deli, tham mưu trưởng Quân Khu Quảng Châu, có nhớ lại rằng, trong Tháng Chín 1978, một phiên họp về “cách thức giải quyết lãnh thổ của chúng ta bị chiếm đóng bởi các lực lượng Việt Nam” được tổ chức tại Bộ Tổng Tham Mưu QĐGPNDTQ. 20 Tiêu điểm khởi thủy là về sự xung đột biên giới, được nhận thức như là một nguồn cội chính yếu của sự leo thang căng thẳng đương thời giữa hai nước kể từ 1976. 21 Một đề xuất thăm dò đã khuyến cáo một cuộc hành quân quy mô nhỏ đánh vào một trung đoàn địa phương quân Việt Nam ở Trùng Khánh, một huyện biên giới giáp ranh với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, tiếp theo sau một sự duyệt xét tin tức tình báo cập nhập thông báo về một cuộc xâm lăng của Việt Nam sắp xẩy ra vào Căm Bốt, đa số các tham dự viên đã lập luận rằng bất kỳ hành động quân sự nào được lấy phải có một tác động quan trọng trên Hà Nội và tình hình Đông Nam Á. Họ đã khuyến cáo một cuộc công kích vào một đơn vị quân đội chính quy Việt Nam trên một khu vực địa dư rộng lớn hơn. 22 Mặc dù phiên họp đã kết thúc mà không có một quyết định cụ thể nào, nó đã ấn định cho nhịp độ của kế hoạch chiến tranh chung cuộc của Trung Quốc đánh Hà Nội, và có thể đã là bằng chứng đầu tiên của một sự liên kết hành động quân sự tại biên giới phía bắc của Việt Nam với sự xâm lăng của Việt Nam tại Đông Nam Á.
Dù thế, một cuộc hoạt động quân sự trên quy mô rộng lớn đánh Việt Nam có rủi ro tạo tác động cho hình ảnh quốc tế của Trung Quốc trong vùng và thế giới. Cuộc thăm viếng chính thức đã được sắp xếp thời biểu của Đặng Tiểu Bình đến Thái Lan, Mã Lai và Singapore vào đầu Tháng Mười Một cung cấp cơ hội để tìm kiếm sự ủng hộ của các nước này cho chính sách về Việt Nam của Trung Quốc. Trong suốt cuộc du hành, họ Đặng đã tạo ấn tượng trên các vị chủ nhà ngoại quốc rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu Việt Nam tấn công Căm Bốt. 23 Trong nước, truyền thông đầy những bài xã luận và bình luận kết án sự xâm lấn của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc và cảnh cáo về sự trả đũa khả hữu. 24
Vào ngày 23 Tháng Mười Một, Bộ Tổng Tham Mưu đã triệu tập một phiên họp khác trong đó một ý đồ mới về chiến tranh đã được nghị luận. Cứu xét các khuyến cáo trước đây, Bộ Tổng Tham Mưu đã mở rộng phạm vi và thời hạn của các hoạt động. Các kế hoạch đã biến tất cả các thành phố và các vị trí quân sự Việt Nam quan trọng ngang biên giới các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam thành các mục tiêu cho các sự tấn công, dự liệu rằng điều này sẽ gián chỉ sự xâm lược của Việt Nam. Một lần nữa, một số tham dự viên cảm thấy rằng các hoạt động này đã không đủ xa khi chúng vẫn còn bị hạn chế ở một khu vực xa xôi và không đặt ra sự đe dọa trực tiếp lên Hà Nội. Tuy nhiên, họ đã không lên tiếng phản đối, giả định rằng giới lãnh đạo trung ương đã có sự cứu xét tỉ mỉ trên vấn đề đó. Phiên họp đã giao phó chiến dịch sẽ được thực hiện bởi các Quân Khu Quảng Châu và Vân Nam. 25 Phiên họp cũng đã đề nghị sự thuyên chuyển lực lượng trừ bị chiến lược của QĐGPNDTQ, tổng cộng gồm bốn quân đoàn và một sư đoàn, từ các Quân Khu Vũ Hán và Thành Đô để tăng cường cho các mặt trận Quảng Tây và Vân Nam. 26
Vào ngày 7 Tháng Mười Hai, Quân Ủy Trung Ương (QUTƯ) đã triệu tập một phiên họp, được tường thuật đã kéo dài từ bốn đến năm tiếng đồng hồ, và đã quyết định phóng ra một cuộc chiến tranh hạn chế trên biên giới phía nam của Trung Quốc để “hoàn kích” Việt Nam. 27 Ngày kế tiếp, QUTƯ đã đưa ra một mệnh lệnh giao phó các Quân Khu Quảng Châu và Vân nam thực hiện chiến dịch quân sự với tất cả binh sĩ sè phải sẵn sàng hành động vào ngày 10 Tháng Một 1979. Các chỉ thị ghi rõ rằng cuộc chiến tranh sẽ được hạn chế một cách nghiêm ngặt, thực hiện trong vòng 50 cây số kể từ biên giới và kéo dài trong hai tuần lễ. Kế đó QUTU đã nhấn mạnh đến các giáo điều nòng cốt của học thuyết hoạt động truyền thống của QĐGPNDTQ yêu cầu hai bộ chỉ huy quân khu phải tập trung một lực lượng vượt trội để bao vây các lực lượng địch từ các cạnh sườn, để tiêu diệt từng lực lượng địch riêng biệt với các trận đánh hủy diệt quyết định mau chóng, và rồi triệt thoái tức thời”. 28 Thời điểm của mệnh lệnh này cho thấy Trung Quốc đang đáp ứng với cuộc xâm lăng sắp xảy ra của Việt Nam vào Căm Bốt, nhưng bằng việc phóng ra một chiến dịch quân sự quan trọng ngay trước khi các lực lượng Việt Nam băng qua sông Mekong cũng là để phản ứng đối với vài năm tức giận gây ra bởi động thái vô ơn của Việt Nam.
Đặng Tiểu Bình Đưa Ra Quyết Định
Mặc dù guồng máy chiến tranh của Tryng Quốc đã sẵn sang vào đầu Tháng Mười Hai, nhật kỳ xác định cho các cuộc tấn kích vẫn chưa được ấn định. Các cuộc nghiên cứu trước đây phỏng định rằng quyết định chiến tranh của Bắc Kinh đã được đưa ra tại Hội Nghị Công Tác Trung Ương giữa 10 Tháng Mười Một cho đến 15 Tháng Mười Hai 1978. 29 Trong thực tế, phiên họp này, được triệu tập để cứu xét một nghị trình cải cách kinh tế cho mười năm sắp tới, đã được kết thúc nhằm vào các di sản của cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Vẫn chưa rõ là liệu đã có một sự thảo luận đáng kể về tình hình Đông Dương hay không. 30 Tuy nhiên, phiên họp đã củng cố vị thế của Đặng Tiểu Bình trong giới lãnh đạo trung ương, giúp ông ta, mặc dù chỉ là một trong năm phó chủ tịch Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và Tổng Tham Mưu Trưởng, sẽ là người lấy quyết định về Việt Nam.
Tại một phiên họp QUTƯ tối đón Năm Mới, họ Đặng đã đề nghị một cách chính thức một cuộc chiến tranh trừng phạt đánh Việt Nam. Mọi người tham dự, kể cả Hoa Quốc Phong, chủ tịch QUTƯ, được tường thuật đều đã ủng hộ cho đề nghị này. Họ Đặng đã chỉ định Hứa Thế Hữu chỉ huy các hoạt động từ Quảng Tây bên phía đông, 31 và Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), tư lệnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy các hoạt động từ Vân Nam bên phía tây, gạt sang một bên Wang Bicheng, tư lệnh Quân Khu Côn Minh. 32 Rõ ràng quan ngại về sự thay đổi cấp chỉ huy vào lức sắp sửa có chiến tranh, họ Đặng sau đó đã phái hai tổng tham mưu phó của ông đến Côn Minh để giám sát sự chuyển tiếp và các sự chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ chỉ huy tập trung hóa, hai quân khu sẽ thực hiện cuộc chiến tranh một cách độc lập, gần như không có sự phối hợp hay cộng tác. Phiên họp cũng đã lập lại rằng cuộc xâm lăng phải mau lẹ và tất cả các binh sĩ phải được rút về sau khi đã đạt được các mục tiêu hành quân. 33
Các bài viết hiện nay nêu ý kiến rằng một số các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã chống đối một cuộc tấn công vào Việt Nam, nhưng các bài viết này lại không đồng ý về những nhà lãnh đạo nào và về hình thức mà sự chống đối đã có. 31 Bởi Đặng Tiểu Bình là kiến trúc sư chính của ý đồ, nhiều phần là không có bất kỳ ai sẽ thách đố quyết định của ông với tư thế cao cấp và nhiều uy tín của ông ta trong Đảng. Sự kiểm soát của họ Đặng Bộ Tổng Tham Mưu mang lại cho ông một băng tần thuận tiện để làm cho guồng máy quân sự của Trung Quốc chuyển động trước khi giới lãnh đạo trung ương đưa ra một quyết định chính thức. Làm giống như họ Mao, họ Đặng đã tham khảo một cách kín đáo với các phụ tá tin cậy trước khi đưa ra một quyết định, và chỉ sau đó mới mang quyết định của ông cho sự tán đồng chính thức bởi Bộ Chính Trị. Một trong những phụ tá thân cận nhất của ông là Chen Yun (Trần Vân), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và một đảng viên lão thành của Đảng, kẻ được tường thuật đã đóng góp đáng kể vào quyết định chiến tranh với Việt Nam.35
Đã có vài quan ngại chính yếu: liệu Liên Bang Sô Viết sẽ đáp ứng với các cuộc tấn công trả đũa từ phía bắc để buộc Trung Quốc phải giao tranh trong một cuộc chiến hai mặt trận hay không; liệu Hoa Kỳ sẽ lợi dụng cơ hội để thủ lợi từ tình hình hay không; dư luận thế giới sẽ phản ứng như thế nào; và liệu chiến tranh với Việt Nam sẽ cản trở nghị trình mới của Trung Quốc về sự hiện đại hóa kinh tế hay không. 36 Trở ngại gây lo sợ nhất là phản ứng của Sô Viết. Theo sự phân tích tình báo bởi Bộ Tổng Tham Mưu, Mạc Tư Khoa sẽ có ba sự lựa chọn quân sự trong sự đáp ứng với cuộc xâm lăng: một cuộc xâm nhập vũ trang ồ ạt kể cả một cuộc tấn công trực tiếp vào Bắc Kinh; xúi giục nhân viên dân tộc ít người vũ trang, những kẻ lưu vong tại Liên Bang Sô Viết, để tấn công các tiền đồn của Trung Quốc tại Tân Cương và Nội Mông; hay sử dụng các sự đụng độ nhỏ để đẩy lên cao các sự căng thẳng biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, bởi Liên Bang Sô Viết đã không có đủ các lực lượng để thực hiện bất kỳ các hoạt động quân sự quy mô nào đánh Trung Quốc ngay lập tức, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt họ Đặng, đã tin tưởng rằng một hành động quân sự ngắn hạn, giới hạn và có tinh chất phòng thủ chống Việt Nam sẽ không khiêu khích sự can thiệp của Mạc Tư Khoa và một sự công phẫn quốc tế. 37 Hai cuộc xung đột biên giới trước đây, với Ấn Độ trong năm 1962 và với Sô Viết trong năm 1969, đã chứng thực cho sự tính toán này. Ước muốn về một cuộc chiến tranh ngắn cũng trợ lực trong việc làm dịu bớt sự chống đối trong nước và biện minh cho sự lựa chọn chính sách của Bắc Kinh. Dù thế, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không thể hạ thấp sự cảnh giác của họ, và đã đồng thời ra lệnh cho các binh sĩ tại các quân khu phía bắc và tây bắc xúc tiến sự ứng chiến đối với các cuộc tấn kích khả hữu của Sô Viết. 38
Phiên họp tối đón Năm Mới đã triển hạn việc ấn định thời điểm của hành động quân sự. Các nhà phân tích Tây phương lập luận rằng Bắc Kinh vẫn còn bị kiềm hãm bởi sự quan ngại về phản ứng quốc tế. Các cuộc du hành đã được xếp lịch của họ Đặng sang Hoa Kỳ và Nhật Bản chính vì thế đã được thu xếp để “trắc nghiệm trào lưu”. 39 Tuy nhiên, các kẻ liên hệ mật thiết với họ Đặng nghĩ rằng phản ứng giật lùi của quốc tế sẽ không ngăn cản ông bởi vì ông ta sẽ không nhường bước trước bất kỳ điều gì một khi ông đã quyết đoán trong tư tưởng. 40 Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã lo ngại nhiều hơn về việc liệu các lực lượng của họ có đủ thời giờ để thực hiện các sự chuẩn bị thích đáng cho cuộc xâm lăng hay không. Các binh sĩ Trung Quốc đã không tham dự vào bất kỳ cuộc chiến tranh nào trong một thời khoảng lâu dài, trong khi nhiều kẻ trong chúng đã không hiểu được việc đi dến chiến tranh chống lại một đồng minh truyền thống và một lân bang nhỏ bé. 41 Không lâu sau phiên họp tối đón Năm Mới, họ Đặng đã phái Yang Yong, tổng tham mưu phó, và Zhang Zhen, chỉ huy Tổng Cục Hậu Cần (Tiếp Vận), lần lượt đên Quảng Yây và Vân Nam để thanh tra các điều kiện chiến đấu của các binh sĩ. Kinh sợ về sự thiếu sẵn sàng của họ, họ Zhang đã tức thời khuyến cáo sự triển hoãn chiến tranh trong một tháng. Ông ta sau này nhớ lại rằng QUTƯ đã đồng ý đẩy lùi cuộc phản công cho đến giữa Tháng Hai. 42 Họ Yang đã lập bản báo cáo, cùng với các đề nghị về kế hoạch chiến tranh, vào ngày 22 Tháng Một tại nhà riêng của họ Đặng với sự hiện diện của các nhà lãnh đạo chính yếu của QUTƯ. 43 Nhiều phần là chính tại phiên họp này giới lãnh đạo Trung Quốc đã tái khẳng định quyết định chiến tranh và đã ấn điểm một khung thời gian cho ngày D. Vào ngày kế đó, Bộ Tổng Tham Mưu đã tổ chức một phiên họp trong đó kế hoạch chiến tranh được chung quyết và các binh sĩ được lệnh sẵn sàng hành động vào ngày 15 Tháng Hai. 44 Để ngăn chặn tình hình trở nên nằm ngoài sự kiểm soát, giới lãnh đạo trung ương đặc biệt yêu cầu Hứa Thế Hữu đình chỉ các hoạt động quân sự và rút quân về sau khi chiếm đoạt được Lạng Sơn và Cao Bằng, hai thành phố Việt Nam quan trọng tại biên giới. 45
Vào ngày 11 Tháng Hai 1979, hai ngày sau khi Đặng Tiểu Bình quay trở về Bắc Kinh từ cuộc du hành của ông ta sang Hoa Kỳ và Nhật Bản, một hội nghị Bộ Chính Trị mở rộng đã được triệu tập. Họ Đặng đã phát biểu rành mạch lý luận căn bản cho cuộc tấn công vào Việt Nam, và sau đó một lệnh tiến hành để phóng ra các cuộc tấn công vào Việt Nam hôm 17 Tháng Hai đã được truyền ra cho các cấp chỉ huy quân sự địa phương tại Quảng Tây và Vân Nam. 46 Đây là ngày mà các quan sát ba thứ ba đã dự liệu từ lâu. Họ đồn đãi, một cách khả tín, rằng việc ấn định thời biểu của một cuộc công kích có thể liên hệ chặt chẽ với các yếu tố thời tiết: nó sẽ không thuận lợi để thực hiện các hoạt động quân sự trong mùa mưa, thường bắt đầu trong Tháng Tư, hay để tấn công quá sớm khi các lực lượng Sô Viết có thể băng ngang các con sông đông lạnh dọc biên giới Trung Quốc – Sô Viết. 47 Họ Đặng và các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác đã sẵn tính toán một cách cẩn thận mọi sự phân nhánh [mũi tấn công] khả dĩ một khi các binh sĩ của họ băng qua biên giới Việt Nam. Họ đã giới hạn phạm vi, thời gian và không gian cho cuộc chiến tranh và đặt tên cho nó là một cuộc “hoàn kích tự vệ”, trong nỗ lực làm giảm thiểu bất kỳ các phản ứng tiêu cực nào trong và ngoài nước. 48 Tuy nhiên, một khi cuộc chiến tranh đã được khởi động, họ Đặng, trong khi chăm chú theo dõi những gì đang diễn ra, đã chỉ đưa ra ít mệnh lệnh và chỉ thị cụ thể (trái với phong cách lãnh đạo của họ Mao). 49
Chiến Lược, Các Mục Tiêu và Các Sự Chuẩn Bị
Tác giả Gerald Segal cho rằng động lực chủ yếu của Trung Quốc cho việc tấn công Việt Nam là nhằm chặn đứng tham vọng và sự xâm lược của Việt Nam tại Đông Nam Á và sự đe dọa của Việt Nam đối với an ninh quốc gia Trung Quốc, cũng như để phơi bày sự yếu kém của Sô Viết. Nhưng sự tính toán chính trị yếu kém có nghĩa rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tự đặt mình vào vị thế khó khăn của việc tạo lập một chiến lược để trừng phạt Việt Nam và họ đã chưa hề có một cơ may để thành công. 50 Ước vọng được phát biểu một cách rõ ràng của Trung Quốc nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học” đã chuyên chở mục tiêu chiến tranh hàng đầu của nó sẽ là “một hành vi trả thù”. 51 Ngay từ khởi đầu, Bắc Kinh đã giới hạn các mục tiêu và sự tiến hành chiến tranh sẽ không vượt quá một vụ xung đột biên giới song phương. Giới lãnh đạo quân sự của Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu hãy đề xuất một chiến lựoc hành quân sẽ không chỉ nhằm hoàn thành mục tiêu trừng phạt, mà còn hạn chế chiến sự trong không và thời gian.
Câu hỏi thực sự cho các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc địa phương là đến mức độ nào mục tiêu dạy cho Việt Nam một bài học có thể được đạt tới hay đo lường được. Sự hiểu biết thông thường về QĐGPNDTQ luôn luôn đặt sự nhấn mạnh đặc biệt vào sự tiêu diệt các lực lượng sinh tử (yousheng liliang) của địch. Một trong những truyền thống hoạt động của QĐGPNDTQ là sự sử dụng một lực lượng có ưu thế tuyệt đối để bảo đảm thắng lợi. Vào giữa Tháng Một 1979, hơn một phần tư các quân đoàn tác chiến của QĐGPNDTQ đã được tập hợp tại biên giới Trung – Việt, một tổng số hơn 320,000 binh sĩ. Rút ra từ kinh nghiệm chiến đấu của chính mình và dựa trên kiểu chiến thuật và hành quân mà QĐGPNDTQ đã phát triển trong quá khứ, Hứa Thế Hữu đã đáp ứng các đòi hỏi chiến tranh của giới lãnh đạo trung ương với một đường hướng đựoc biết đến là niudao shaji (dùng một con dao mổ trâu để giết gà). Sự thực hiện sự giao chiến này bao hàm ba thành tố căn bản: các cuộc công kích phải tập trung vào các bộ phận sinh tử của sự phòng thủ của địch, nhưng không phải trên điểm mạnh của địch; lực lượng và hỏa lực áp đảo phải được sử dụng để đập tan sự phòng thủ của địch tại điểm giao tranh; bộ đội tấn công phải di chuyển một cách mau lẹ tối đa khả dĩ để tiến sâu, và công kích trong mọi hướng vào trọng tâm của địch. Bằng cách này, họ Hứa đã kỳ vọng rằng các lực lượng của ông ta sẽ cắt sự phòng thủ của địch ra thành từng mảnh nhỏ, phá vỡ sự kháng cự của đối phương, và sau đó tiêu diệt phe địch. 52
Chiếu theo các nguyên tắc này, các Quân Khu Quảng Châu và Côn Minh đã phát triển các kế hoạch chiến tranh liên hệ của chúng với một sự nhấn mạnh trên sự tiêu diệt các sư đoàn chính quy của Việt Nam trên biên giới với Trung Quốc. Chiến tranh sẽ được giao đấu trong hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên, một cuộc tấn công hai mũi sẽ được mở ra nhắm vào Cao Bằng và Lào Cai, để bao vây hai sư đoàn Việt Nam tại đó và để tiêu diệt chúng, trong khi phóng ra một cuộc tấn công cùng lúc vào Đồng Đăng nhằm gây hoang mang cho Hà Nội về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó, các lực lượng QĐGPNDTQ tại Quảng Tây sẽ tập trung vào việc tấn công Lạng Sơn, trong khi các đối tác của chúng tại Vân Nam sẽ mưu tính giao chiến với một sư đoàn Việt Nam tại khu vực Sa Pa. Một tổng số tám quân đoàn QĐGPNDTQ sẽ can dự tức thời, với một quân đoàn được giữ làm quân trừ bị.
Bắc Kinh cũng có phác họa một chiến lược về thời điểm và phương cách mà không lực sẽ phải được sử dụng. Không Lực QĐGPNDTQ sẽ đưa 18 trung đoàn không quân cùng với sáu phi đoàn bay bổ túc để chuẩn bị trợ giúp các cuộc hành quân trên đất liền. Để tránh leo thang cuộc xung đột, QUTƯ hạn chế sự sử dụng không lực trong phạm vi lãnh thổ của chính Trung Quốc, trong khi ra lệnh cho các đơn vị không quân phải chuẩn bị yểm trợ cho các cuộc hành quân trên bộ “nếu cần thiết”, mặc dù không đưa ra một định nghĩa rõ ràng đâu và khi nào một tình trạng “cần thiết” có thể phát sinh. Mệnh lệnh quy định rằng bất kỳ hoạt động nào bên ngoài không phận của Trung Quốc phải được cho phép bởi QUTƯ. Dựa trên nguyên tắc này, chiến lược đã yêu cầu tất cả các đơn vị không quân ở vào tình trạng ứng chiến để phòng thủ không phận và yểm trợ trên bộ, và trong lúc đó cho bay càng nhiều phi vụ càng tốt trên không phận biên giới khi các cuộc tấn công trên bộ khởi sự nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam hoạt động đánh lại Trung Quốc. Nhân viên kiểm soát và chỉ huy không quân và các bộ phận kiểm soát chiến thuật được phái đến các bộ chỉ huy tiền phương của các Quân Khu Quảng Châu và Côn Minh, các tổng hành dinh lục quân và vài sư đoàn lực lượng trên bộ sẽ đảm trách các nhiệm vụ tấn công chính yếu. 53
Từ cuối năm 1978 cho đến suốt Tháng Một 1979, binh sĩ Trung Quốc đã vội vã huấn luyện chiến đấu và thao diễn. Nhiều người trong họ là các tân binh mới tuyển mộ vốn từng tham gia vào sự sản xuất nông nghiệp trong một thời gian lâu dài, một nỗ lực giờ chót điên rồ như thế, dù có hữu ích, nhất định là không đủ. Sự huấn luyện phần lớn tập trung vào các kỹ năng căn bản của người lính chẳng hạn như bắn súng và ném lựu đạn, với một ít đơn vị có thể thực hiện bất kỳ sự huấn luyện hay thao diễn chiến thuật có ý nghĩa nào ở các cấp sư đoàn và trung đoàn. Nhiều sĩ quan đã báo cáo rằng họ không chắc chắn về năng lực giao chiến của binh sĩ của họ. Sau cùng, các binh sĩ QĐGPNDTQ được chỉ định cho cuộc xâm lăng được huấn luyện tồi và không được chuẩn bị một cách thích đáng cho một cuộc chiến tranh hiện đại chống lại các lực lượng của Việt Nam, các kẻ với kinh nghiệm chiến đấu thu thập được trong 25 năm chiến tranh trước khi có cuộc xung đột này rõ ràng đã không được chú ý tới. 54
Bất kể nhu cầu khẩn cấp về sự huấn luyện, QĐGPNDTQ vẫn tiếp tục truyền thống quân sự của nó, sử dụng sự nhồi sọ chính trị để nâng cao tinh thần và cải thiện hiệu năng chiến đấu. Một guồng máy tuyên truyền đã được vận hành để thuyết phục các người lính rằng quyết định đi đến chiến tranh của giới lãnh đạo trung ương là cần thiết và đúng đắn. Việt Nam đã thoái hóa thành “Cuba ở Phương Đông”, “bọn côn đồ của Á Châu” và “đàn chó săn của Liên Bang Sô Viết”, đang cố gắng theo đuổi các tham vọng bành trướng của nó. Ý thức hệ chính trị Mác-Xít, mặc dù được chia sẻ bởi hai nước, đã không ngăn cản Trung Quốc khỏi việc phóng ra các hành động tự vệ chống lại một lân bang nhỏ bé hơn khi các quyền lợi dân tộc tối thượng có liên can đến. Các buổi diễn giảng, các phiên họp tố cáo, và các cuộc triển lãm hình ảnh và chứng liệu phục vụ cho việc truyền thụ lòng yêu nước và căm thù kẻ địch. Ít nhất chúng cung cấp một sự giải thích xem ra có hiệu lực cho các người lính Trung Quốc bình dân và ít học về lý do tại sao Trung Quốc phải phóng ra các cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam, một nước đã từng là một nước anh em, đồng chí trong thời gian rất lâu.
Chiến Dịch Quân Sự
Các cuộc “hoàn kích tự vệ” của QĐGPNDTQ đã được thực hiện trong ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ ngày 17 đến 25 Tháng Hai, trong đó các lực lượng Trung Quốc đã phá tan sự kháng cự ở tuyền thứ nhất của Việt Nam và chiếm đoạt các tỉnh lỵ Cao Bằng và Lào Cai, và các thị trấn biến giới then chốt tại Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngỏ dẫn đến Lạng Sơn. Giai đoạn thứ nhì là một chiến dịch đánh Lạng Sơn và các khu vực chung quanh nó ớ phía đông, và Sa Pa cùng Phong Thổ ở phía tây bắc, từ 26 Tháng Hai đến 5 Tháng Ba. Giai đoạn cuối cùng là một nỗ lực khác nữa để bình định các lực lượng địch tàn dư trong khi phá hủy các cơ sở quân sự tại vùng biên giới với Trung Quốc trước khi có sự triệt thoái hoàn toàn vào ngày 16 Tháng Ba. Các hoạt động quân sự được thực hiện bên trong lãnh thổ Việt Nam dọc theo biên giới kéo dài 900 cây số từ đông sang tây. Trong 30 ngày, các lực lượng Trung Quốc đã giao tranh các trận đánh đẫm máu nhất kể từ sau Chiến Tranh Triều Tiên; sau này, nó đã trở thành một đường ranh phân chia rõ rệt cho QĐGPNDTQ.
Cuộc tấn công của Trung Quốc khiến Hà Nội bị bất ngờ. Tình báo Việt Nam rõ ràng đã không cảnh báo giới lãnh đạo Hà Nội để chuẩn bị cho một cuộc xâm lăng của Trung Quốc. Bất kể sự “rung kiếm” của Bắc Kinh trong vài tháng, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã không thể tin rằng “một nước xã hội chủ nghĩa anh em” sẽ lại đi tấn công nó bao giờ. Khi các số lượng đông đảo các binh sĩ Trung Quốc vượt qua biên giới, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng và Tổng Tham Mưu Trưởng QĐNDVN đang thăm viếng Phnom Penh. Cung cách mở rộng của các cuộc công kích của QĐGPNDTQ cũng gây hoang mang cho bộ chỉ huy cao cấp của Việt Nam về việc xác định trục chính của các lực lượng xâm lăng và các mục tiêu thực sự của cuộc tấn công. 55 Trong khi đưa ra một lời yêu cầu khẩn cấp cho Mạc Tư Khoa về việc chu toàn các nghĩa vụ của Nga chiếu theo bản hiệp ước hữu nghị và hợp tác vừa mới được ký kết giữa hai nước, sự đáp ứng tức thời của Hà Nội là “ứng biến, thẩy ra bất kỳ sự kháng cự nào có thể trì hoãn sự tiến quân của Trung Quốc”. 56 Các trận đánh quan trọng đã được giao tranh chung quanh các thị trấn biên giới tại Sóc Giang, Đông He [Đồng Hà?], Đồng Đăng, Cao Bằng, Lào Cai và Cam Đường, liên can đến việc giao tranh từng đường hầm một và từng ngọn đồi một. Cả hai phía đều bày tỏ một sẵn sàng để đẩy mạnh cuộc tấn công và phản công bất kể các số tổn thất nặng nề. Vào ngày 20 Tháng Hai, các cố vấn Sô Viết đã kết luận rằng sự phòng thủ kiểu du kích và không có phối hợp của Việt Nam sẽ không có khả năng chặn đứng các lực lượng Trung Quốc khỏi việc tiến quân. Một khuyến cáo đã được đưa ra để không vận một đoàn quân (30,000 binh sĩ) tức thời từ Căm Bốt nhằm tăng cường sự phòng thủ giữa Lạng Sơn và Hà Nội. Các nguồn tin Sô Viết cho thấy rằng các cố vấn của họ đã thực hiện các nỗ lực lớn lao để đi tìm nhà lãnh đạo Việt Nam và thuyết phục ông ta hành động. 57 Thiếu sự hiểu biết về các mục tiêu chiến tranh của Bắc Kinh, Hà Nội rõ ràng chậm chạp trong sự đáp ứng với tình hình thay đổi mau chóng trên chiến trường.
Bất kể sự khai thông ban đầu của QĐGPNDTQ, địa hình, đặc biệt việc thiếu các đường lộ, và sự kháng cự dữ dội từ các lực lượng chính quy, các đơn vị an ninh địa phương và dân quân Việt Nam, đã sớm đặt các bộ đội Trung Quốc vào một tình trạng chiến đấu không ngờ, làm bộc lộ nhiều nhược điểm và sự vô hiệu năng của QĐGPNDTQ về mặt chỉ huy, truyền thông, và tiếp vận. Phần lớn các vấn đề có tính chất nội tại trong truyền thống của QĐGPNDTQ. Trong vài dịp, bộ chỉ huy mặt trận Trung Quốc đã thúc giục sự yểm trợ của không quân khi các cuộc công kích trên bộ gặp phải sự chống đối dữ dội từ phía Việt Nam. Bộ Tổng Tham Mưu [QĐGPNDTQ] đã từ chối chấp thuận sự cho phép như thế, thay vào đó ra lệnh cho họ chỉ dựa chuyên độc vào pháo binh để yểm trợ hỏa lực. 58 QĐGPNDTQ và các tướng lĩnh của nó được sinh ra từ một truyền thống định chế vốn quen thuộc với việc giao tranh loại chiến tranh bộ binh hạng nhẹ với hỏa lực của pháo binh và ưu thế về quân số. “Tinh thần của lưỡi lê” vẫn tiếp tục chế ngự. Hậu quả, Cuộc Chiến Tranh Trung – Việt 1979 thì nhiều chết chóc và bạo tàn trên đất liền.
Sự thành công của cuộc xâm lăng “giáo trừng” của QĐGPNDTQ lệ thuộc vào các chiến thuật xâm nhập, đánh vào cạnh sườn và bao vây Cao Bằng. Tuy nhie6n, hai sư đoàn tấn công thọc sâu đã không đến được nơi hẹn của chúng trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Địa thế núi đồi, với rừng rậm và không đường xá, và các cuộc phục kích bởi dân quân và các lực lượng địa phương Việt Nam, đã tạo ra các khó khăn bất ngờ cho các binh sĩ Trung Quốc. Sự chậm trễ của chúng đã buộc Hứu Thế Hữu phải kiềm giữ một cuộc tấn công tức thời vào Cao Bằng, ngay dù một đoàn quân dưới sự chỉ huy của một viên phụ tá, Wu Zhong, đã sẵn tiến sát đến thành phố từ hướng đông và nam. 59 Tuy nhiên, một cuộc điều tra đang tiếp diễn về sự liên hệ chính trị của ông ta trong Cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã đình chỉ vị thế chỉ huy của họ Wu vào giữa lúc đang có chiến dịch. Trong một điện tín ngày 20 Tháng Hai, họ Hứu đã lập lại sự phân công trước đó rằng chiến dịch sẽ tiếp tục nằm dưới sự chỉ huy của một viên tự lệnh phó khác của ông, cho dù viên tự lệnh phó kể sau cùng binh sĩ của ông ta vẫn còn đang đánh mở đường tiến vào Cao Bằng từ hướng bắc. Mãi cho đến ba ngày sau, họ Hứa và các sĩ quan tham mưu của ông ta mới đi đến việc nhận thức rằng thành phố chỉ được phòng thủ bởi một quân số nhỏ của Việt Nam, che chắn cho bộ chỉ huy của họ và chính quyền tỉnh rút lui. Ông ta khi đó đã ra lệnh các cuộc công kích vào thành phố, nơi mà các lực lượng Trung Quốc đã chiếm cứ sau vài tiếng đồng hồ giao tranh. 60
Sự chiếm cứ chậm trễ Cao Bằng đã làm đảo lộn kế hoạch chiến dịch nguyên thủy của QĐGPNDTQ, vốn được thiết kế để mưu tìm các vụ giao chiến quyết định và mau lẹ. Các lực lượng Việt Nam được phân tán thành các đơn vị cấp đại đội và trung đội, ẩn trốn trong các ngọn núi, rừng rú và hang động, và tiếp tục phóng ra các cuộc phản công. Sự kháng cự kiên cường bởi các người lính và dân quân Việt Nam đã buộc phía Trung Quốc phải xét lại các chiến thuật hành quân của họ, phân chia binh sĩ thành các đội hình cấp tiểu đoàn và đại đội để tham gia vào các hoạt động lùng và diệt địch ở các khu vực Cao Bằng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh và Quảng Hoa [?] [nguyên bản ghi sai là Trung Khang và GuangHoa, chú của người dịch]. Các chiến thuật mới bao gồm việc chặn đường, khai quang các ngọn đồi, lục soát các hang động, tiêu thổ và phá nổ các đường hầm. 61 Các sự giao tranh ác liệt vẫn tiếp tục và hàng trăm binh sĩ và thường dân Việt Nam đã bị giết chết. Nhưng phải chờ mãi đến ngày 6 Tháng Ba khi các tài liệu Việt Nam tịch thu được dường như cho thấy rằng sư đoàn QĐNDVN được chỉ định để phòng thủ Cao Bằng đã bị đánh bại. Không có sự kiện đó, các tổn thất nặng nề của QĐGPNDTQ trong giai đoạn đầu tiên sẽ có nghĩa rằng cuộc hành quân xem ra ít thành công hơn nhiều. 62
Bắc Kinh ngày càng trở nên lo ngại về diễn tiến của cuộc chiến tranh, thúc đẩy viên tư lệnh chiến trường tại Quảng Tây khởi sự trận đánh quyết định vào Lạng Sơn, một cửa ngõ che chắn cho Hà Nội từ phía bắc, càng sớm càng tốt. 63 Rõ ràng không thỏa mãn với những gì đã xảy ra tại Cao Bằng, họ Hứa đã tái tổ chức kế hoạch hành quân và thúc giục các binh sĩ của ông ta phải kịch liệt hơn nữa để đánh chiếm Lạng Sơn. Sáu sư đoàn Trung Quốc đã tham gia trong trận đánh quyết định này, khởi sự từ ngày 27 Tháng Hai, được mở màn bởi một trận pháo kích ồ ạt. Sau các trận đánh dữ dội, các lực lượng Trung Quốc trước tiên đoạt được sự kiểm soát trên phần lớn cao điểm bao quanh và sau đó chiếm cứ phần phía bắc thành phố hôm 2 Tháng Ba, vốn là ngày được dự trù để đình chỉ các hoạt động quân sự. Bởi vì guồng máy tuyên truyền của Hà Nội từ khước không chịu nhìn nhận sự thất trận của Việt Nam tại Lạng Sơn, họ Hứa đã quyết định tiếp tục cuộc hành quân, đẩy các binh sĩ của ông vượt qua sông Kỳ Cùng, vốn phân cách Lạng Sơn thành các huyện phía bắc và phía nam, chiếm đoạt toàn thể thành phố, và sau đó tiến quân xa hơn về hướng nam để tạo lập một tư thế quân sự de dọa Hà Nội. 64 Mặc dù Bắc Kinh ủng hộ quyết định của họ Hứa, nó đã loan báo sự rút quân hôm 5 Tháng Ba, ngay sau khi các binh sĩ Trung Quốc chiếm cứ phần phía nam của Lạng Sơn, tuyên bố rằng họ đã đạt được các mục đích chiến tranh của họ.
Lượng Định Chiến Tranh Của Trung Quốc Với Việt Nam
Cuộc chiến tranh của Trung Quốc với Việt Nam năm 1979 là hoạt động quân sự lớn nhất mà QĐGPNDTQ đã phát động kể từ sau cuộc Chiến Tranh Triều Tiên. Được dựa trên chiến lược của Mao Trạch Đông rằng “trong mọi trận đánh, tập trung một lực lượng áp đảo tuyệt đối trên địch quân”, Bắc Kinh đã điều động chín quân đoàn chính quy cùng với các đơn vị địa phương quân và đặc biệt, với tổng số hơn 300,000 binh sĩ, để thực hiện một cuộc chiến tranh trừng phạt đánh Việt Nam trong một tháng. Các đơn vị chiến đấu cơ của Không Quân đã bay 8500 phi vụ trong các nhiệm vụ tuần không, trong khi các đơn vị vận tải và trực thăng thực hiện 228 phi vụ trong các công tác không vận, 65 Hải Quân đã phái một lực lượng đặc nhiệm (bao gồm hai khu trục hạm trang bị hỏa tiễn và ba đội tàu tấn công nhanh trang bị hỏa tiễn và thủy lôi) đến quần đảo Hoàng Sa (Paracels) [Xisha trong nguyên bản, chú của người dịch] để chuẩn bị cho sự can thiệp hải quân của Sô Viết. Ngoài ra, các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam đã động viên hàng chục nghìn dân quân và dân công để yểm trợ cho các hoạt động quân sự của chúng. 66 Trong suốt cuộc xung đột, các lực lượng Trung Quốc đã chiếm đoạt được ba tỉnh lỵ của Việt Nam và hơn một tá các thành phố và thị trấn biên giới, tuyên bố đã giết và làm bị thương 57,000 binh sĩ Việt Nam và gây tổn hại nặng nề cho bốn sư đoàn chính quy và mười trung đoàn khác cùng với việc tịch thu một số lượng lớn vũ khí. Bắc Kinh khẳng định rằng cuộc chiến tranh năm 1979 đánh Việt Nam được kết thúc với sự thắng lợi của Trung Quốc. 67
Tuy nhiên, phần lớn các cuộc nghiên cứu đương thời ghi nhận rằng “Việt Nam trong thực tế đã chiến đấu tốt hơn” các lực lượng Trung Quốc trên chiến trường bởi có các khó khăn của QĐGPNDTQ trong cuộc hành quân và các tổn thất nặng nề được báo cáo. 68Hà Nội tuyên bố rằng chỉ có các lực lượng địa phương và dân quân đã tham gia vào cuộc xung đột, và đã không sử dụng các chiến thuật phòng thủ ngoài việc tấn công thường trực chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Họ đã chỉ mất Lạng Sơn và các thành phố khác sau khi đã gây ra các tổn thất khổng lồ trên các lực lượng Trung Quốc. 69 Đài Phát Thanh Hà Nội lúc đó đã loan báo rằng phía Việt Nam đã hạ sát và làm bị thường 42,000 binh sĩ Trung Quốc. 70 Chỉ có ít tài liệu phía Việt Nam được cung cấp cho các nhà nghiên cứu về thành quả và sự tổn thất của họ trong cuộc xung đột ngoài các thông tin được đưa ra bởi các cá nhân trên mạng tin không gian, cho thấy ngược lại sự can dự sâu xa bởi các lục lượng chính quy QĐNDVN và các sự tổn thất nặng nề hơn. 71 Một sự tái lượng định về cuộc chiến tranh của Trung Quốc với Việt Nam chỉ dựa độc nhất trên các nguồn tin Trung Quốc là một chiều nhưng có thể soi sáng hơn.
Một khảo hướng cho sự lượng giá các điều thắng và thua của Trung Quốc là tập trung vào số tổn thất. Bắc Kinh khởi thủy nhìn nhận rằng 20,000 binh sĩ Trung Quốc hoặc bị chết hay bị thương trong cuộc xung đột biên giới với Việt Nam. 72 Giới học thuật hiện nay có khuynh hướng đi đến một số ước lượng nhiều đến 25,000 binh sĩ QĐGPNDTQ bị chết khi giao chiến và 37,000 người khác bị thương. 73 Các nguồn tin Trung Quốc cung ứng gần đây phân loại các sự tổn thất của QĐGPNDTQ là 6,900 bị chết và khoảng 15,000 bị thương, đưa lại một tổng số tổn thất à 21,900 binh sĩ trên một lực lượng xâm lăng hơn 300,000 người. Các sự tổn thất của Trung Quốc trong một cuộc chiến tranh ngắn ngủi như thế là khá cao trong bất kỳ trường hợp nào, tiếp tục cho thấy một trong các đặc điểm dai dẳng trong kiểu cách hoạt động và chiến thuật của QĐGPNDTQ: một sự sẵn lòng để chịu nhận các tổn thất nặng nề khi được xem là cần thiết. 74 Các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem các sự tổn thất sẽ là một tiêu chuẩn tương đối không quan trọng cho việc đo lường sự thành công quân sự chừng nào họ còn tin tưởng tình hình chiến lược tổng quát vẫn nằm trong tầm tay và sự kiểm soát của họ. 75
Từ một cái nhìn Trung Quốc, cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam đã là một sự đáp ứng quân sự được điều hợp một cách đắn đo trước chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc và sự bành trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á cũng như các khát vọng toàn cầu của Sô Viết. 76 Mặc dù chiến dịch này làm phát lộ các khiếm khuyết của QĐGPNDTQ trong học thuyết và các chiến thuật hiện đại, từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc, Trung Quốc đã nắm chắc sự chủ động và nhịp độ của cuộc xung đột. Bắc Kinh làm Hà Nội sửng sốt không chỉ bởi việc phóng ra các cuộc tấn công ồ ạt, mà còn bởi sự triệt thoái mau lẹ của nó mà không bị sa lầy tại Việt Nam. 77 Sư thăm dò của nó về sự đáp ứng của Sô Viết đối với cuộc xâm lăng cũng đã thành công trong việc phơi bày sự vô khả năng hay không sẵn lòng của Mạc Tư Khoa để hậu thuẫn cho Việt Nam. Sự nương tựa của Việt Nam vào Liên Bang Sô Viết về an ninh rõ ràng đã là một kinh nghiệm thất vọng. Điều sau rốt trở nên quan yếu hơn nữa là cuộc chiến tranh năm 1979 đã là sự khởi đầu của chính sách của Bắc Kinh “làm rỉ máu” Việt Nam trong một nỗ lực nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Hà Nội tại Đông Nam Á. Một sự triệt thoái của Việt Nam ra khỏi Căm Bốt tiếp theo sau cuộc tấn công của Trung Quốc thì đáng mong ước đối với giới lãnh đạo Trung Quốc, nhưng họ không bao giờ dự liệu một sự triệt thoái tức thời. Trung Quốc vẫn còn điều khiển một sự lựa chọn chiến lược bằng việc duy trì áp lực quân sự trên Việt Nam vốn bao gồm cả sự đe dọa bằng mồm thường trực về một cuộc tấn công thứ nhì, và việc bắn phá bằng trọng pháo dữ dội từng chập và các trận đánh biên giới to lớn trong gần như toàn thể thập niên của các năm 1980. 78 Một cuộc nghiên cứu hồi đầu thập niên 1990 kết luận: “Cuộc chiến tranh thì thành công nhiều nhất khi được nhìn như một chiến thuật trong chiến lược của Trung Quốc về một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài”. 79
Tương tự, cuộc chiến tranh đã không tạo ra các hậu quả quốc tế đáng kể cho Trung Quốc. Sự sử dụng lực lượng quân sự đánh Việt Nam đã nâng cao các mối nghi ngờ của Nam Dương và Mã Lai, các nước luôn luôn cảnh giác về ảnh hưởng của Trung Quốc trong vùng. Sự chiếm đóng của Việt Nam tại Căm Bốt, điều đã đe dọa Thái Lan, đã giúp sức cho sự tăng trưởng liên tục liên hiệp chống đối mạnh mẽ bởi các nước thuộc khối ASEAN đối với Việt Nam. 80 Liên quan đến mối quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ, cuộc xâm lăng trừng phạt của Trung Quốc rõ ràng thành công một cách đặc biệt. Trong khi Hoa Thịnh Đốn công khai kết án cả cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt lẫn cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam, nó đã chia sẻ cùng quan tâm của Trung Quốc trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Sô Viết tại Đông Nam Á. Sự sẵn lòng sử dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất kể các sự tổn thất đến đâu mà nó phải gánh chịu, đã biến Trung Quốc thành “một kẻ gián chỉ có giá trị” trước chính sách bành trướng của Sô Viết – Việt Nam; Hoa Thịnh Đốn đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để đối cân với Liên Bang Sô Viết. 81
Giới lãnh đsạo Việt Nam chưa bao giờ có vẻ làm như thông hiểu chiến lược và các mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc, nhưng khăng khăng cho rằng cuộc xâm lăng năm 1979 sẽ là một màn mở đầu của ý đồ trường kỳ của Bắc Kinh nhằm xâm phạm chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. 82 Sau khi có sự loan báo sự rút quân của Trung Quốc vào ngày 5 Tháng Ba, Hà Nội đã kêu gọi một cuộc tổng động viên toàn quốc trong khi thúc giuc sự xây dựng các vị trí phòng thủ trong và chung quanh Hà Nội. Vào cuối Tháng Năm, QĐGPNDTQ đã phục viên lại tình trạng bình thường. 83 Tuy nhiên, Việt Nam tiếp tục phải canh chừng, duy trì các lượng quân số lớn lao dọc theo biên giới phía bắc của nó đôi diện với Trung Quốc vào một thời điểm khi nền kinh tế của nó ở “vào một tình trạng tồi tệ hơn bất kỳ lúc nào khác kể từ 1975”. 84 Hậu quả, các mưu toan của Hà Nội để chiến đấu hai cuộc chiến tranh cùng lúc, một tại Căm Bốt và một tại biên giới phía bắc của nó, rõ ràng đã đưa đến giá phải trả lên cao về mặt xã hội và kinh tế quốc gia, thu hút mất nỗ lực của Hà Nội để hiện đại hóa nền kinh tế của nó, và quan trọng hơn, triệt hạ các tham vọng địa chính trị của nó. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Việt Nam đã không nắm được sự nghiêm trọng của tình hình, và tiếp tục sự lệ thuộc của xứ sớ của họ vào Liên Bang Sô Viết cho đến khi có sự sụp đổ của Sô Viết vào năm 1991. Nếu có bất kỳ bài học nào mà phía Việt Nam phải rút ra từ cuộc chiến tranh năm 1979 với Trung Quốc, bài học đó là Việt Nam, như một tướng lĩnh Việt Nam nhận định sau này, “phải học cách sống với lân bang to lớn của chúng ta”. 85
Liên quan đến câu hỏi tại sao Trung Quốc đã lo lắng để sử dụng lực lượng chuẩn mực đánh Việt Nam trong năm 1979, sự phân tích ở đây phù hợp với sự khẳng định bởi các cuộc nghiên cứu khác rằng các sự đe dọa nhận thức được đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ thì đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, đủ để mở rộng các trách nhiệm của QĐGPNDTQ vượt xa ngoài sự phòng thủ chống lại sự tấn công. 86 Các tranh chấp lãnh thổ và sự căng thẳng biên giới đã là các thành tố châm ngòi bề ngoài để thúc đẩy Bắc Kinh cứu xét sự sử dụng vũ lực chống lại lân bang phía nam của nó, trong khi sự bộc phát của chủ nghĩa dân tộc nhiều xúc cảm có xu hướng tăng cường một tâm trạng Trung Quốc rằng một số loại trừng phạt trên một đồng minh khi xưa phản bội đã quay lại chống Trung Quốc là cần thiết. Cảm tính này cũng đã đóng một vai trò đáng kể trong việc mang lại một sự đồng thuận rộng rãi trong các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Trung Quốc để ủng hộ họ Đặng, nhân vật trung tâm trong việc đưa ra các quyết định điều động quân đội đánh Việt Nam. Trên các vấn đề về chủ quyền lãnh thổ, vốn luôn luôn nâng cao các xúc động của người dân Trung Quốc, quan điểm quân sự xem ra sẽ là yếu tố xác định trong các quyết định để khởi phát các chiến sự thực sự. Phiên họp tham mưu Tháng Chín, từ việc đưa ra các khuyến cáo cho giới lãnh đạo trung ương để đối phó với các quan hệ đang ngày càng tồi tệ hơn giữa Trung Quốc và Việt Nam, đã là khởi điểm của một hoạt động quân sự quan trọng. Sự phân tích của quân đội về phản ứng của Sô Viết cũng trợ lực cho sự giải tỏa bất kỳ ngờ vực nào về việc chấp nhận rủi ro, nếu có bất kỳ rủi ro nào hiện hữu. Dù thế quân đội tự đặt mình dưới các ước muốn của giới lãnh đạo trung ương. Một khi quyết định đã được đưa ra để phát động một cuộc xâm lăng trừng phạt Việt Nam, các tướng lĩnh QĐGPNDTQ đã hăng hái để đảm nhận các nhiệm vụ của họ với sự ưa thích sử dụng lực lượng tối đa.
Các Bài Học Lĩnh Hội Được
Bất kể sự thành công chiến lược của Trung Quốc, vài câu hỏi trọng yếu vẫn còn cần phải giải đáp, chẳng hạn như QĐGPNDTQ đã nhận thức ra sao về thi hành công tác của nó tại Việt Nam, đâu là những bài học mà nó đã lĩnh hội được từ chiến dịch, và đến mức độ nào kinh nghiệm này đã ảnh hưởng đến sự suy tư của QĐGPNDTQ về tương lại của nó. Như một phần trong truyền thống của QĐGPNDTQ, tất cả các binh sĩ tham dự vào cuộc xung đột đều được lệnh phải viết các bản tóm lược về kinh nghiệm chiến đấu của họ. Khi nhìn lại quá khứ, giới lãnh đạo QĐGPNDTQ nhận thấy chính mình ở vào một vị thế mâu thuẫn. Trong khi tuyên bố Trung Quốc đã chiến thắng cuộc chiến, họ đã phải thừa nhận các giá nặng nề mà QĐGPNDTQ đã phải trả. Trong quan điểm của giới lãnh đạo QĐGPNDTQ, một sự lượng giá vô tư về các khiếm khuyết của QĐGPNDTQ có tính cách bắt buộc. Tuy nhiên, họ lo sợ về một xu hướng đánh giá quá mức thành quả và các khả năng quân sự của Việt Nam. 87 Theo đúng lẽ, sự tự hào dân tộc và thành kiến văn hóa của họ tất nhiên đã ngăn cản họ đưa ra các kết luận thẳng thắn về kinh nghiệm của QĐGPNDTQ trong cuộc chiến, điều có thể được tổng hợp thành sáu chủ điểm.
Chủ điểm thứ nhất nhắm vào một châm ngôn của QĐGPNDTQ theo truyền thông, rằng bất kỳ quyết định quân sự và chiến lược đứng dắn nào phải rút ra từ một sự nắm vững tình hình trong mọi khía cạnh. Cuộc chiến tranh năm 1979 đã cho thấy rằng QĐGPNDTQ đã chỉ chú ý sơ sài về học thuyết chiến đấu và các chiến thuật của QĐNDVN trước chiến tranh. Hậu quả, quân đội Trung Quốc đã ước lượng thấp năng lực giao chiến của các đối phương của nó. Có thể từ sự lo sợ về việc dành quá nhiều uy tín cho quân đội Việt Nam, tài liệu của QĐGPNDTQ kết luận rằng các lực lượng chính quy của địch đã không có sự kiên cường trong sự phòng thủ và tấn công, và đã có ít hoạt động được phối hợp, nhưng đã phải công nhận rằng các chiến thuật loại du kích, các đặc công, và và dân công Việt Nam đã thành công một cách bất ngờ trong việc khiến cho các lực lượng Trung Quốc bị mất thăng bằng trong khi chúng đang tìm kiếm một cách âu lo các trận đánh quyết định với các lực lượng chủ lực của QĐNDVN trong một cuộc chiến tranh tóe lửa. 88 Một sĩ quan Hoa Kỳ từng có lần tóm tắt kinh nghiệm Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam, ghi nhận rằng không thể nào “để xâm nhập, thọc vào bên sườn và bao vây” các vị trí công sự phòng thủ của Việt Nam “mà không chịu các tổn thất cực kỳ nặng nề”. 89 Các chiến thuật của QĐGPNDTQ về việc xua lính bộ binh của nó vào sự chiến đấu cận chiến đông đảo với các đối phương của họ và sự chấp nhận của nó các tổn thất nhân mạng cao có thể giúp để giải thích tại sao phía Trung Quốc đã đưa ra các sự khẳng định này về sự vô khả năng của QĐNDVN để phòng thủ các vị trị của nó. 90
Các khó khăn không ngờ trong cuộc hành quân đã dẫn dắt phía Trung Quốc đến việc rút ra một bài học thứ nhì từ cuộc xung đột liên quan đên tình báo và việc lập kế hoạch. Sự thiếu thốn từ lâu tin tức về một đồng minh truyền thống đã đặt ra một thách đố chính yếu cho việc hoạch định chiến tranh và các cuộc hành quân của Trung Quốc. Sự lượng định của QĐGPNDTQ về địa dư và địa hình của miền bắc Việt Nam thường dựa trên các bản đồ và thông tin địa dư lỗi thời, trong khi năng lực thám thính của nó bị giới hạn trên chiến trường. 91 Một thất bại quan trọng của quân đội Trung Quốc là không cứu xét đến số lượng khổng lồ các lực lượng dân quân trong sự tính toán của nó về sức mạnh quân sự của Việt Nam. Kinh nghiệm của QĐGPNDTQ cho thấy rằng dân quân Việt Nam đã dựng lên một sự kháng cự kiên quyết hơn và đã thực hiện nhiều cuộc đột kích ngạc nhiên hơn vào các lực lượng xâm lăng so với quân chính quy QĐNDVN. Các nhà hoạch định QĐGPNDTQ khởi thủy đã nghĩ rằng họ đã tập hợp một lực lượng áp đảo với tỷ số 8:1 đối với các lực lượng Việt Nam. Đã có 40,000 đến 50,000 dân quân trong khu vực Cao Bằng không thôi, sự kiện này đã làm thay đổi một cách đáng kể tỷ số lực lượng xuống 2: 1. Trong suốt chiến dịch, QĐGPNDTQ không hề có vẻ có khả năng duy trì ưu thế lực lượng để đưa ra một cuộc tấn kích phân định thắng bại. Cuộc hành quân cũng chứng tỏ sự khó khăn biết bao để thi hành các hoạt động quân sự tại một nước ngoài nếu dân chúng địa phương được động viên để kháng cự. 92
Cuộc xung đột với Việt Nam đã giúp cho QĐGPNDTQ rút ra được một bài học thứ ba về các năng lực giao chiến của nó. Đó là lần đầu tiên mà giới lãnh đạo QĐGPNDTQ đã thực hiện các cuộc hành quân liên binh chủng với xe tăng và pháo binh trợ lực cho các cuộc tấn công của bộ binh, trong khi tập hợp các lực lượng không và hải quân để cung cấp yểm hộ. Sự lạc hậu trong học thuyết và các chiến thuật đã ngăn cản các lực lượng Trung Quốc trong việc thực hiện một cuộc hành quân phối hợp cụ thể. Trong khi các sự kiềm chế chính trị và tư tưởng quân sự lỗi thời của Bắc Kinh đã cấm chỉ sự tham gia của các lực lượng không quân để trợ lực các cuộc hành quân, các lực lượng diện địa cũng phô bày sự thi hành yếu kém giữa các đơn vị bộ binh, thiết giáp và pháo binh để thực hiện trọn vẹn các chiến thuật liên binh chủng. Một thí dụ rõ rệt là bộ binh chưa bao giờ được huấn luyện với sự hiểu biết thích đáng về cách thức vận hành cùng với các đơn vị thiết giáp. Các người lính bộ binh, tự buộc mình vào tháp của xe tăng bằng dây thừng để tránh khỏi bị rơi xuống khi di chuyển, đã bị kẹt cứng khi bị bắn bởi địch quân. Mặt khác, các đơn vị xe tăng, thường hoạt động không có sự trợ lực của bộ binh và sự truyền tin trực tiếp giữa hai bên, đã phải gánh chịu nhiều tổn thất và hư hại bất ngờ. 93 Kinh nghiệm chiến tranh năm 1979 đã dạy cho QĐGPNDTQ các bài học quý báu trong các kỹ năng liên binh chủng.
Bài học thứ tư là vấn đề chỉ huy và kiểm soát vốn đã phát sinh phần lớn từ các truyền thống và văn hóa của QĐGPNDTQ. Các mối quan hệ cá nhân giữa các sĩ quan chỉ huy và các binh lính, vốn đã được vun xới trong quá khứ, vẫn còn quan trọng đối với QĐGPNDTQ. Bởi các mối quan hệ liên cá nhân thì quan trọng hơn các quan hệ định chế, điều không gây ngạc nhiên rằng các nhà lãnh đạo của Quân Khu Quảng Châu đã thừa nhận sau này là họ cảm thấy không thoải mái khi chỉ huy các binh sĩ được chuyển giao từ Các Quân Khu Vũ Hán và Thành Đô suốt trong chiến dịch. 94 Các nhà lãnh đạo này cũng đã nhận được nhiều lời phàn nàn từ lớp binh lính cấp dưới về cung cách lãnh đạo của họ Hứa bởi vì ông ta trước đây chưa từng chỉ huy họ. Các vấn đề chỉ huy của QĐGPNDTQ đã bị hỗn tạp bởi sự thiếu thốn các sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu. Bất kể việc phái các sĩ quan cao cấp hơn, các kẻ lão luyện trong chiến tranh, xuống các đơn vị binh sĩ cấp thấp hơn để trợ giúp việc chỉ huy, các hoạt động của QĐGPNDTQ vẫn còn bị thất bại bởi sự vô khả năng của các sĩ quan cấp thấp hơn để đưa ra các phán đoán độc lập và các hoạt động phối hợp vào các lúc nguy kịch. Dù thế, cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam đã khai sinh một thế hệ trẻ các cán bộ quân đội trên chiến trường, và ngày nay nhiều người trong họ đang phục vụ ở các chức vụ cao cấp của QĐGPNDTQ. 95
QĐGPNDTQ đã thiếu khá nhiều một hệ thống vận chuyển tiếp tế hiện đại và cơ cấu để trợ lực một hoạt động tấn công, cách xa, di chuyển mau lẹ. Các thống kê điều hành cho thấy rằng số tiêu dùng trung bình hàng ngày số đạn dược và nhiên liệu là 700 tấn mỗi loại.96 Các hoạt động tiếp vận đã là một lãnh vực quan trọng cho QĐGPNDTQ rút ra các bài học. Không có các cơ sở vận tải và nhà kho thích đáng, cả hai Quân Khu Quảng Châu và Côn Minh đã phải gộp chung thành một hệ thống tiếp tế, vốn kbông bao giờ điều hành một cách trôi chảy và có hiệu năng. Các số lượng đáng kể các đồ tiếp tế đã bị mất mát vì hoặc do sự quản lý yếu kém hay bởi sự phá hoại của Việt Nam. Trong khi các lực lượng của chúng tiến sâu hơn vào trong lãnh thổ Việt Nam, các sĩ quan tiếp vận cũng nhận thấy khó khăn để giữ các tuyến giao thông mở ngỏ mà không phải di chuyển một số lớn các lực lượng để bảo vệ chúng. QĐGPNDTQ đã kết luận rằng điều thiết yếu phải tạo lập một bộ chỉ huy vận tải để đối phó với các vấn đề mà các binh sĩ của nó gặp phải trong các cuộc hành quân. 97 Kinh nghiệm này rõ ràng vẫn hệ trọng tại Trung Quốc ngày nay khi viên phó chỉ huy Đại Học Quốc Phòng QĐGPNDTQ nói chuyện tại một cuộc hội thảo về “sự kiểm soát giao thông” trong năm 2002. 98
Bài học cuối cùng là một sự giải thích về phương cách học thuyết cũ về chiến tranh nhân dân đã được áp dụng như thế nào cho một cuộc xung đột được giao tranh bên ngoài các biên giới của Trung Quốc. Một nguyên tắc của học thuyết chiến tranh nhân dân là sự động viên thường dân để ủng hộ chiến tranh. Kinh nghiệm chiến tranh năm 1979 cho thấy rằng gần như là điều bất khả cho các lực lượng QĐGPNDTQ khổng lồ hoạt động bên ngoài xứ sở mà không khuấy động sự ủng hộ của quần chúng cho chiến tranh trong quốc nội. Các guồng máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã khiêu gợi lòng yêu nước và sự kiêu hãnh của công chúng nơi các người lính Trung Quốc. Các sự biểu lộ mạnh mẽ lòng yêu nước đã giúp QĐGPNDTQ có được sự ủng hộ trực tiếp cho các hoạt động từ người dân sinh sống tại hai tỉnh biên giới. Riêng trong tỉnh Quảng Tây không thôi, hơn 215,000 cư dân địa phương đã được động viên để phục vụ như các kẻ khiêng cáng, canh gác an ninh và phu khuân vác đồ tiếp liệu đến mặt trận; và hơn 26,000 thành viên dân quân từ vùng biên giới đã thực sự can dự vào các hoạt động chiến đấu trực tiếp. QĐGPNDTQ vào lúc đó đã có một hỗn hợp hổ lốn của một hệ thống tiếp tế đòi hỏi mọi đơn vị phải tự túc trong việc “tiếp vận đơn lẻ”, hệ thống tiếp tế trên bãi chiến trường. 99 Các chính quyền địa phương đã tạo dễ dàng cho các binh sĩ bằng việc đơn giản hóa các thủ tục ttrưng thu, đã giúp họ nhận được đầy đủ vật liệu và thực phẩm tươi trong thời gian ngắn nhất khả dĩ. Một kinh nghiệm như thế đã thuyết phục giới lãnh đạo QĐGPNDTQ rằng sự động viên các chính quyền và thường dân địa phương để ủng hộ một cuộc chiến tranh vẫn còn là chìa khóa đi đến chiến thắng. 100
Các bài học này lĩnh hội được từ cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam có thể không mạch lạc, bao quát và hoàn toàn khách quan bởi QĐGPNDTQ không lượng giá sự thành công của nó trong một hoạt động quân sự trên căn bản kết cuộc hành quân mà đúng hơn trên căn bản tác động của cuộc xung đột trên tình hình tổng quát. Ảnh hưởng sâu xa bởi lời dạy của họ Mao rằng chiến tranh tự nền tảng là một công tác chính trị, chừng nào Trung Quốc còn có thể tuyên xác là thành công trong việc đạt được các mục tiêu quân sự và chiến lược của nó, QĐGPNDTQ sẽ xem các vấn đề phát sinh từ các sự thất bại chiến thuật là thứ yếu. Đây cũng là lý do tại sao các bài học này biến đổi một cách đáng kể so với những gì được rút ra từ các cuộc nghiên cứu Tây Phương, vốn chính xác và nhiều thông tin hơn ở mức độ nào đó, song có vẻ hơi thái quá một chút qua việc kéo căng các nguồn tài liệu hạn chế của chúng cho các kết luận trên một đề tài cực kỳ phức tạp. 101 Các cuộc nghiên cứu của QĐGPNDTQ xem Cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-76) sẽ là yếu tố nguy hại đã triệt hủy các truyền thống tốt đẹp của QĐGPNDTQ, và hậu quả, các lực lượng Trung Quốc đã thi hành một cách yếu kém trong chiến tranh. Các bài học mà QĐGPNDTQ lĩnh hội đặt tiêu điểm nhiều trên trình độ chiến thuật của cuộc chiến với sự nhấn mạnh về chỉ huy và kiểm soát, sự phối hợp giữa các binh lính, cơ cấu lực lượng và vũ khí, hơn là trên triết lý có tính chất học thuyết và chiến lược. Trong cuộc lượng giá của nó về kinh nghiệm chiến tranh năm 1979, QĐGPNDTQ rõ ràng không có nỗ lực để che đậy hay lướt qua các khuyết điểm và khó khăn của chính nó vào lúc đó; tuy thế, nó đã không cứu xét đến các truyền thống và tư tưởng quân sự sai lầm của chính nó. 102
Các cuộc nghiên cứu Tây Phương đã nối kết các bài học Việt Nam của QĐGPNDTQ với sự tái lượng giá năm 1985 của giới lãnh đạo Trung Quốc về bản chất của chiến tranh hiện đại và các mối đe dọa đối diện với Trung Quốc, và các nỗ lực sau đó để tinh giản và chuyên nghiệp hóa QĐGPNDTQ trong suốt thập niên 1980. 103 Các bài học Việt Nam của QĐGPNDTQ và sự bùng nổ tiếp tục tại biên giới Trung – Việt trong suốt thập niên 1980 có thể đã giúp cho giới lãnh đạo Trung Quốc thực hiện sự chuyển tiếp chiến lược từ sự nhấn mạnh đến sự chuẩn bị để giao tranh chiến tranh toàn diện sang sự chuẩn bị cho chiến tranh địa phương và hạn chế như chiều hướng của thời đại. 104 Ít nỗ lực đã được thực hiện trong sự biến đổi của QĐGPNDTQ thành một lực lượng hiện đại trong thập niên 1980 để sửa chữa tư tưởng quân sự khiếm khuyết của nó, vốn luôn luôn xem nhẹ vai trò của không lực. Hậu quả, nếu có bất kỳ điều gì mà QĐGPNDTQ vẫn còn xem ra chưa thẳng thắn, đó là các bài học về ưu thế trên không hay sự trợ lực không quân cận chiến. Tài liệu và các sách giáo khoa của QĐGPNDTQ tiếp tục trung dẫn “năng lực gián chỉ” của không lực Trung Quốc như nguyên do chính yếu khiến Không Quân Việt Nam đã không tham gia vào cuộc xung đột. 105 Thống Chế Diệp Kiêm Anh (Yi Jianying) còn bình luận một cách diễu cợt rằng các hoạt động trên không giả tạo của Trung Quốc trong cuộc chiến đánh Việt Nam đã là một “phương cách tài tình của việc sử dụng không lực”. 106 Một nhận định như thế không chứng tỏ điều gì khác hơn sự khiếm khuyết của giới lãnh đạo Trung Quốc để tán thưởng vai trò trọng yếu của không lực trong chiến tranh hiện đại.
Dù thế, một tổng quan về kinh nghiệm của QĐGPNDTQ trong cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam cung cấp các cái nhìn quán triệt hữu ích vào phương cách mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tiến đến các vấn đề chiến tranh và chiến lược ra sao, thì phù hợp với các sự khám phá của các cuộc nghiện cứu hiện có khác. 107 Trước tiên, các nhà lãnh đạo thì cân nhắc và tính toán về thời điểm và cách thức mà sức mạnh quân sự sẽ được sử dụng, nhưng đã không ngần ngại đi đến chiến tranh một khi họ đã quyết định rằng các quyền lợi quốc gia của Trung Quốc bị nguy hiểm hay va chạm. Thứ nhì, QĐGPNDTQ đã phô bày một sự ưu tiên cho việc chiếm giữ và duy trì sự chủ động hoạt động bằng việc điều động một lực lượng vượt trội. Thứ ba, cảm nghĩ của Trung Quốc về sự chiến thắng quân sự đặt nhiều vào sự lượng giá của họ các kết cuộc địa chính trị hơn là vào các phán đoán của họ trên thành quả hoạt động tại chiến trường. Kể từ cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam, QĐGPNDTQ đã tến hành các sự tu chỉnh bao quát trong học thuyết phòng thủ, chỉ huy và kiểm soát, các chiến thuật hành quân, và cơ cấu lực lượng, trong khi thế giới của các hoạt động quân sự đã được biến đổi một cách đáng kể kể từ cuộc chiến tranh năm 1979. Ngày nay, không ai sẽ kỳ vọng các lực lượng vũ trang Trung Quốc lập lại những gì nó đã làm trong cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam. Từ một quan điểm lịch sử, chuỗi khác biệt của các đặc điểm Trung Quốc bị phát lộ trong cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam vẫn còn liên hệ đến định chế quân đội Trung Quốc và với sự hiểu biết của các quan sát viên về chiều hướng của Trung Quốc để sử dụng sức mạnh quân sự không chỉ trong quá khứ mà còn trong hiện tại và tương lai nữa./-
___
CHÚ THÍCH
* Tôi thu thập được rất nhiều từ các sự bình luận và ý kiến của các tác giả Nick Sarantakes, Andrew Scobell, Toshi Yoshihara và Zhai Qiang. Các quan điểm phát biểu trong bài viết này là của riêng tôi và không nhất thiết phản ảnh chính sách hay lập trường chính thức của Bộ Không Lực, Bộ Quốc Phòng hay chính phủ Hoa Kỳ.
1. Gerald Segal, Defending China (New York: Oxford University Press, 1985), các trang 211-227; Nayan Chanda, Brother Enemy: the War after the War (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1986); King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979 (Stanford: Hoover Institution Press, 1987); Steven J. Hood, Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War (Armonk, NY: M. E. Sharpe, 1992); Bruce Elleman, Modern Chinese Warfare, 1785-1989 (London: Routledge, 2001), chương 17.
2. Thí dụ, các tài liệu nội bộ được biên soạn bởi Văn Phòng Tổng Quát của Tổng Cục Chính Trị, Zhong Yue bianjing ziwei huanji zuozhan zhengzhi gongzuo jingyan xuanbian (Biên Soạn Các Tài Liệu Về Công Tác Cán Bộ Trong Cuộc Hoàn Kích Tự Vệ Tại Biên Giới Trung – Việt) (Guangzhou: xuất bản bởi ban biên soạn, 1979), từ giờ trở đi được viết tắt là GGZH; các trang trên mạng internet của Trung Quốc chứa đựng tài liệu, các hồi ký, các hồi ức cá nhân và các trích đoạn từ các ấn phẩm Trung Quốc về cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam. Có nhiều báo cáo về các trận đánh gương mẫu bởi các đơn vị cá biệt. Hữu dụng nhất là “Zhongyue zhanzheng beiwanglu” (Trung-Việt Chiến Tranh Bị Vong Lục: Các Văn Thư về Chiến Tranh Trung – Việt) được cung cấp tại:http://jngs.3322.org/mymemo/war79/part_1.htm, từ giờ trở đi được viết tắt là ZZB. Các tài liệu đáng chú ý nhất là các hồi ức và hồi tưởng của Zhou Deli về Xu Shiyou (Hứa Thế Hữu) và vai trò của ông ta trong cuộc chiến tranh với Việt Nam: Yi ge guoji canmouzhang de zishu (Các Hồi Ức Cá Nhân Của Một Tham Mưu Trưởng Cao Cấp) (Nanjing: Nanjing Press, 1992), và Xu Shiyou di zuihou yizhan (Trận Đánh Cuối Cùng Của Hứa Thế Hữu) (Nanjing: Jiangsu People Press, 1990).
3. Về ba sự phát hiện này, xem Andrew Scobell, “Is there a Chinese way of war”, Parameters, tập 35, Số 1 (Mùa Xuân 2005), các trang 118-121.
4. Renmin ribao (Nhân Dân Nhật Báo), 19 Tháng Ba 1979. Muốn có bản tiêng Anh, xem Beijing Review, 23 Tháng Ba 1979.
5. Harlan W. Jencks, “China’s ‘punitive’ war on Vietnam: A Military Assessment”, Asian Survey, Tập 19, số 8 (Tháng Tám 1979), các trang 802-803; Hood, Dragons Entangled, các trang 50-57; Segal, Defending China, các trang 213-14; Carlyle A. Thayer, “Security issues in Southeast Asia: The Third Indochina War”, bài tham luận được đọc tại Hội Nghị An Ninh và Kiểm Soát Vũ Khi Tại Bắc Thái Bình Dương, Canberra, ACT, 12-14 Tháng Tám 1987.
6. Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975-1979 (New York: Columbia University Press, 1988), trang 253.
7. Thayer, “Security issues in Southeast Asia”, Elleman, Modern Chinese Warfare, trang 285.
8. Qiang Zhai, China and The Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill, NC: The University of North Carolina Press, 2000), các trang 6, 219.
9. He Di, “The most respected enemy: Mao Zedong’s perception of the United States”, trong sách đồng biên tập bởi Michael Hunt và Liu Jun, Toward a History of Chinese Communist Foreign Relations, 1920s – 1960s: Personalities and Interpretative Approaches(Washington, DC: Woodrow Wilson International Center for Scholars Asian Program, 1995), các trang 27-66; Chen Jian, “China’s involvement in the Vietnam War, 1964-1969”, The China Quarterly, No. 142, (June 1995), các trang 356-387.
10. Chen Jian, Mao’s China and the Cold War (Chapel Hill, NC: The University of North Carolina Press, 2001), trang 237.
11. Cũng xem, Xiaoming Zhang, “China’s involvement in Laos during the Vietnam War, 1963-1975”, The Journal of Military History, số 66 (Tháng Mười 2002), các trang 1141-66.
12. Wang Taipung (biên tập), Zhonghua renmin gongheguo waijiaoshi (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Ngoại Giao Sử) (Beijing: World Knowledge Press, 1999), trang 68.
13. Han Huanzhi, Dangdai Zhongguo jundui de junshi gongzuo (Các Sự Vụ Quân Sự Của Trung Quốc Đương Đại), Tập I, (Beijing: Social Science Press, 1988), các trang 559-560.
14. Henry J. Kenny, “Vietnamese perceptions of the 1979 war with China”, trong sách đồng biên tập bởi Mark A. Ryan, David M. Finkelstein, và Michael A. McDevitt, Chinese Warfighting: The PLA Experience since 1949 (Armonk, NY: M. E. Sharpe, 2003), trang 228.
15. Guo Ming (biên tập), Zhong Yue guanxi yanbian sishi nian (A 40-Year Development of the China-Vietnam Relationship) (Nanning: Guangxi People Press, 1992), trang 106.
16. Xem Arne Odd Westad và các tác giả khác (đồng biên tập), “77 conversations between Chinese and foreign leaders on the wars in Indochina, 1964-1977”, Cold War International History project, Working Paper 22 (Washingtoin, DC: Woodrow Wilson Center, 1998), các trang 94-98, và các trang 194-95.
17. Lee Kuan Yew, From the Third World to First: The Singapore Story: 1965-2000 (New York: Harper Collins, 2000), trang 595.
18. Raymond Aron, Peace and War: A Theory of International Relations (Garden City, NY: Anchor Press, 1973), trang 19.
19. Chanda, Brother Enemy, trang 261.
20. Phiên họp được chủ tọa bởi Zhang Caiqian, phó tổng tham muu trưởng, với sự tham dự của các sĩ quan tham mưu của các phòng tính báo và hành quân Bộ Tổng Tham Mưu cũng như các sĩ quan của các Quân Khu Quảng Châu và Côn Minh, Zhou Deli, Personal Recollections, các trang 239-240.
21. Theo tác giả quyển tiểu sử của Wang Shangrong (Dương Thượng Côn), một vấn đề chính yếu mà Bộ Tổng Tham Mưu đã phải đối phó thường xuyên là sự xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam sau năm 1976, Luo Yuansheng, Baizhan jiangxing Wang Shangrong (The Biography of General Wang Shangrong) (Beijing: PLA Art Press, 1999), các trang 375-77.
22. Zhou Deli, Personal Recollections, các trang 239-243.
23. Lee Yuan Yew, The Singapore Story, trang 601.
24. Thí dụ, xem bình luận của Tân Hoa Xã ngày 27 Tháng Mười, Beijing Review, số 44 (3 Tháng Mười Một 1978), các trang 25-26; Các Báo cáo, Beijing Review, số 45(10 Tháng Mười Một 1978), các trang 26-27.
25. Zhou Deli, Personal Recollections, các trang 244-45.
26. Đây là các Quân Đoàn 43, 54, và sư đoàn 58 của Quân Đoàn 20 từ Vũ Hán và các Quân Đoàn 13 và 50 từ Thành Đô. Tin tức này được dựa trên lịch sử đơn vị rải rác được cung ứng trên trang mạng của ZZB.
27. Min Li, ZhongYue zhanzheng shinian (Ten Years of Sino-Vietnam War) (Chengdu: Sichuan University Press, 1993), trang 15.
28. Zhou Deli, Personal Recollections, trang 246; Han Huaizhi, Contemporary China’s Military Affairs, Tập I, các trang 663-678.
29. Chen, China’s War, các trang 85-86.
30. Sun Dali, “A turning point in the history of new China”, trong sách biên tập bởi Lin Zhijian, Xin Zhongguo yaoshi shuping (Duyệt Xét Các Biến Cố Quan Trọng Của Tân Trung Quốc) (Beijing: CCP History Press, 1994), các trang 476-500).
31. Jin Ye, Hu Juchen, và Hu Zhaocai, Baizhan jiangxing Xu Shiyou (Tiểu Sử Tướng Hứa Thế Hữu) (Beijing: PLA Art Press, 1999), trang 332; Wang Xuan, Mao Zedong zhi jian – minjiang zhixing Xu Shiyoun (Thanh Kiếm của Mao Trạch Đông: Một Vị Tướng Xuất Sắc Hứa thế Hữu) (Nanjing: Jiangsu People Press, 1996), trang 132.
32. Đã có sự đồn đãi rằng sự thay đổi cấp chỉ huy này một phần vì một sự xung khắc cá nhân giữa họ Hứa và họ Wang khi người kể tên sau, tư lệnh phó của người kể tên trước tại Quân Khu Nam Kinh, đã công khai gia nhập phái chính trị đối lập ở địa phương chống lại họ Hứa trong Cuộc Cách Mạng Văn Hóa hồi năm 1966.
33. “Lecture notes on the 1979 counterattack in self-defence on the Sino-Vietnamese border” (“Các ghi nhận của bài thuyết giảng về cuộc hoàn kích tự vệ năm 1979 tại biên giới Trung – Việt”) không đề tên tác giả nhưng rõ ràng có sự chính xác trong các chi tiết, trongZZB.
34. Chen, China’s War, các trang 85-87; Ross, Indochina Tangle, các trang 230-31; Andrew Scobell, China’s Use of Military Force: Beyond the Great Wall and the Long March (Cambridge: Cambridge University Press, 2003), các trang 130-32.
35. Họ Trần đã không chỉ ủng hộ quyết định của họ Đặng mà còn đưa ra các khuyến cáo về cách thức điều hành. Zhu Jiamu, Chen Yun nianpu (A Chronicle of Chen Yun’s Life, 1905-1995), Tập 2 (Beijing: Central Document Press, 2000), các trang 235-36.
36. Zhou Deli, The Last Battle (Trận Đánh Cuối Cùng), trang 16.
37. Giới quân sự Trung Quốc đã tính toàn người Nga sẽ phải cần tới 14 ngày hay lâu hơn để đưa ra một sự đáp ứng quân sự, vào lúc đó Trung Quốc hẳn đã đạt được các mục tiêu chiến tranh của nó.
38. Min Li, Ten Years of Sino-Vietnam War, các trang 15-17, Jin Ye, Hu Juchen, và Hu Zhaocai, Xu Shiyou, trang 332; Zhang Weiming, Jin Hui và Zhang Huizheng, Zhong Yue zhanzheng milu (The Secret Account of the China-Vietnam War: Bí mật Chiến Tranh Trung-Việt) (Hong Kong: Tiandi Books, 1993), các trang 27-28.
39. Segal, Defending China, trang 214.
40. Nhiều thuộc cấp của ông ta có ghi nhớ rằng họ Đặng sẽ không thay đổi ý nghĩ một khi đã suy nghĩ thấu đáo và đưa ra quyết định. Thí dụ, xem Chen Zaidao, Chen Zaidao huiyilu (Chen Zaidao’s Memoirs: Hồi Ký của Chen Zaidao) (Beijing: PLA Press, 1991), trang 462.
41. ZGJX, Tập 1, các trang 2-19.
42. Zhang Zhen, Zhang Zhen huiyilu (Hồi Ký của Zhang Zhen) (Beijing: PLA Press, 2003), các trang 170-71.
43. Họ là Xu Xiangqian, Nei Rongzhen và Geng Biao, Jiang Feng và các tác giả khác, Yang Yong jiangjun zhuan (Yang Yong Tướng Quân Truyện) (Beijing: PLA Press, 1991), trang 495.
44. Zhou Deli, Personal Recollections, trang 257.
45. Zhang Zhen, Memoirs (Hồi Ký), trang 166.
46. Zhou Deli, Personal Recollections, các trang 259-260; Jiang Feng và các tác giả khác, Yang Yong, các trang 496-97.
47. Jencks, “China’s ‘punitive’ war”, các trang 804-805; Herbert Yee, “The Sino-Vietnamese border war”, trong China Report, Tập 16, số 1 (Tháng Một – Tháng hai 1980), trang 22.
48. Theo Zhou Deli, tên của cuộc hành quân được chọn trong phiên họp ngày 23 Tháng Một. Zhou Deli, Personal Recollections, trang 258.
49. Luo Yuansheng, Wang Shangrong, trang 378.
50. Segal, Defending China, các trang 213-17.
51. Ross, Indochina Tangle, trang 224.
52. Zhou Deli, The Last Battle, các trang 123-24.
53. Zhang Zhizhi, “Air Force troops in the self defensive counterattacks against Vietnam: Các binh sĩ Không Lực Trong Cuộc Hoàn Kích Tự Vệ Chống Việt Nam”, trong sách biên tập bởi Cục Chính Trị của Không Quân, Lantian zhi lu (Con Đường Dẫn Đến Trời Xanh) (Beijing: Cục Chính Trị Không Quân, 1992), các trang 350-52; Wang Hai, Wang Hai shangjiang: Wo de zhandou shengya(General Wang hai: My Combat Career: Thượng Tướng Wang Hai: Binh Nghiệp Chiến Đấu Của Tôi) (Beijing: Central Document Press, 2000), các trang 337-38.
54. Thí dụ, Quân Đoàn 13, được chỉ định làm lực lượng tấn kích chính tại Vân Nam, đã bổ sung 70 đại đội với 15,381 binh sĩ bổ túc, trong đó 11,874 là tân binh mới tuyển mộ. “Lịch sử chiến đấu của Quân Đoàn 13 trong cuộc hoàn kích tự vệ chống Việt Nam”, trongZZB. Cũng xem, Zhou Deli, The Last Battle, các trang 63-64, 67-71. Zhang Zhen, Memoirs (Hồi Ký), trang 170.
55. Theo một nhà ngoại giao Việt Nam cao cấp, Hà Nội có dự liệu cuộc xâm lăng của Trung Quốc, nhưng không ở một quy mô như thế và với một lực lượng như thế. Kenny, “Vietnamese Perception”, các trang 221, 228.
56. Douglas Pike, PAVN: People’s Army of Vietnam (QĐNDVN: Quân Đội Nhân Dân Việt Nam) (Novado, CA: Presidio, 1986), trang 264.
57. Tin tức này dựa trên một bài báo được phiên dịch bằng tiếng Hán nhan đề “Được chào đón bởi Việt Nam với vòng hoa” nguyên thủy xuất hiện bằng tiếng Nga trên tờ Red Star Paper hôm 16 Tháng Một, 2001, hiện được cung cấp tại trang mạnghttp://www.cmilitary.com/articleReader.php?idx=83458.
58. Jiang Feng và các tác giả khác, Yang Yong, trang 497.
59. Zhou Deli, The Last Battle, các trang 158-59.
60. Qu Aiguo, Baizhan jiangxing Wu Zhong (Tiểu Sử Tướng Wu Zhong) (Beijing: PLA Art Press, 2000), các trang 431-448.
61. Hiển nhiên không được chuẩn bị cho các cuộc hành quân như thế, Tổng Cục Hậu Cần của QĐGPNDTQ đã tung các súng phun lửa vào trong các trận đánh lúc giữa cuộc chiến. Zhang Zhen, Memoirs, trang 172.
62. Zhou Deli, The Last Battle, các trang 176-77.
63. Zhou Deli, Personal Recollections, trang 281.
64. Zhou Deli, The Last Battle, trang 222. Han Huaizhi, Contemporary China’s Military Affairs, Tập 1, trang 669.
65. Zhang Zhizxhi, “Air Force troops,” trang 353.
66. ZGJX, Tập 1, các trang 363-65. Wang Dinglie, Dangdai Zhongguo kongjun (Đương Đại Trung Quốc Không Quân) (Beijing: Social Science Press, 1989), trang 638.
67. Các lời tuyên bố chiến thắng của QĐGPNDTQ bao gồm sự phá hủy 340 khẩu pháo, 45 xe tăng, và khoảng 400 xe vận tải, và tịch thu được 840 khẩu pháo, và hơn 11,000 khẩu súng nhỏ cùng nhiều loại quân trang khác. Min Li, Ten Years of Sino-Vietnam War, trang 65. Cũng xem “Lecture notes on the 1979 counterattack in self-defence”, trong ZZB.
68. Kenny, “Vietnamese perceptions”, trang 231; Chen, China’s War, trang 113.
69. Christopher E. Goscha (phiên dịch), “Comrade B on the plot of the reactionary Chinese clique against Vietnam”, Cold War International History Project Bulletin (Washington, DC: Woodrow Wilson Center), Các số 12-12, (Mùa Thu/Mùa Đông 2001), trang 279. Cũng xem, Kenny, “Vietnamese Perceptions”, trang 230.
70. Đài Phát Thanh Hà Nội, Phần phát thanh trong nức, 4 Tháng Ba 1979, trong FBIS, 5 Tháng Ba 1979, Việt Nam, trang K25. Phía Việt Nam ước lượng các số tổn thất của Trung Quốc là 25,000 bị chết và 50,000 người khác bị thương. Kenny, “Vietnamese Perceptions”, trang 235.
71. Kenny, “Vietnamese perceptions”, các trang 217-236. Các bài viết rời rạc về sự can dự của Việt Nam vào trong cuộc xung đột được cung cấp tại
http://www.china-defense.com/forum/index.php?showtopic=2016&hl=1979+war+with+Vietnam
72. AFP (Hong Kong), 2 Tháng Năm 1979, trong FBIS, 3 Tháng Năm 1979, PRC, trang E1.
73. Chen, China’s War, các trang 113-14. Các số thống kê của tác giả Chen về các sự tổn thất của QĐGPNDTQ đã được trích dẫn sâu rộng như một nguồn tin chính thống trong nhiều cuộc nghiên cứu của Tây Phương.
74. Một tài liệu nội bộ cho thấy rằng 10, 202 bi nh sĩ bị thương đã nhận được sự điều trị tại 17 bệnh viện trong Quân Khu Quảng Châu,Dui Yue zhiwei huanji zouzhang weiqin baozhang jinglian zhiliao huibian (Biên tập Các Tài Liệu về Kinh Nghiệm Của Công tác Y Tế Trong Cuộc Hoàn Kích Tự Vệ Chống Việt Nam), biên soạn bởi Ban Y Yế Cục Hậu Cần, Quân Khu Quảng Châu (không ghi nơi xuất bản, và được xuất bản bởi ban biên tập, 1979). Một vài nguồn tin tiếng Hán không chính thức cũng tiết lộ rằng các số tổn thất thì nhẹ hơn ở Vân Nam với 2,812 người bị chết và 5,074 người bị thương. Được trích dẫn từ “Lecture notes on the 1979 counterattack in self-defence” trong ZZB.
75. Ron Christman, “How Beijing evaluates military campaigns: an initial assessment”, trong sách đồng biên tập bởi Laurie Burkitt và các tác giả khác, The Lessons of History: The Chinese People’s Liberation Army at 75 (Carlisle, PA: Strategic Studies Institute, US Army War College, 2003), các trang 253-292.
76. Ross, Indochina Tangle, các trang 223-237; Scobell, China’s Use of Military Force, các trang 135-36.
77. Theo sự tường thuật, Hà Nội đã hoạch định việc sử dụng bốn sư đoàn để phóng ra một cuộc phản công tại Lạng Sơn vào ngày 7 Tháng Ba, 1979, nhưng không bao giờ thực hiện việc đó bởi có sự triệt thoái của QĐGPNDTQ.
78. Kể từ 1979, đã có ít nhất sáu cuộc đụng độ biên giới quan trọng giữa Trung Quốc và Việt Nam (Tháng Bảy 1980, Tháng Năm 1981, Tháng Tư 1983, Tháng Tư – Tháng Bảy 1984, Tháng Sáu 1985 và Tháng Mười Hai 1986 – Tháng Một 1987).
79. Muốn có thí dụ, xem Annie Gilks, The Breakdown of the Sino-Vietnamese Alliance, 1970-1979 (Berkeley, CA: Institute of East Asian Studies, University of California, 1992), trang 233.
80. Chen, China’s War, trang 135.
81. Ross, Indochina Tangle, các trang 234-35.
82. Kenny, “Vietnamese perceptions”, các trang 234-35; Pike, PAVN, các trang 265-66.
83. “A notice of the forward command of the Guangzhou Military Region on the forces involved in the war to return to normal status” (Một thông tri của bộ tư lệnh tiền phương của Quân Khu Quảng Châu về các lục lượng tham dự chiến tranh quay trở về trạng thái bình thường”), GGZH, trang 49.
84. Carlyle A. Thayer, The Vietnam People’s Army under Đổi Mới (Singapore: Institute of South-East Asian Studies, 1994), các trang 11-12.
85. Kenny, “Vietnamese perceptions”, trang 236.
86. Xem, thí dụ, Allen S. Whiting, “The PLA and China’s threat perceptions”, The China Quarterly, số 146 (Tháng Sáu 1996), các trang 596-615; Scobell, China’s Use of Military Force, trang 193.
87. Luo Yuansheng, Wang Shangrong, trang 382.
88. Zhou Deli, Personal Recollections, các trang 287-290.
89. Michael Lee Lanning, và Dan Cragg, Inside the VC and the NVA: The Real Story of North Vietnam’s Armed Forces (New York: Ivy Books, 1992), trang 208.
90. Các nhà phân tích Tây Phương nói chung tin tưởng rằng các đơn vị này của QĐNDVN, với đầy đủ các cựu chiến binh của cuộc chiến tranh lâu dài tại miền nam, được chứng tỏ quen chiến trận và có kỹ năng cao độ trong các chiến thuật của chiến tranh du kích. Các nguồn tin Việt Nam gần đây cho thấy rằng họ là các lính trưng binh, và mới chỉ gia nhập quân đội trong Tháng Sáu 1978. Xem chú thích số 71.
91. Các bản đồ mà QĐGPNDTQ sử dụng có tỷ lệ 1:100,000, được in năm 1965 dựa trên ấn bản năm 1938 của Pháp, cung cấp ít tin tức chi tiết. Hậu quả, các lực lượng QĐGPNDTQ thường lạc đường trong suốt cuộc tiến quân của chúng tại vùng núi đồi Bắc Việt.
92. Zhou Deli, Personal Recollections, các trang 294-95.
93. Theo các nguồn tin Trung Quốc, các đơn vị xe tăng QĐGPNDTQ đã phải chịu các tổn thất nhiều nhất trong bốn ngày đầu tiên của cuộc chiến đấu, lên tới 87% tổng số tổn thất chiến đấu, nhưng phần lớn có thể sửa chữa được. Vào lúc chấm dứt chiến tranh, chỉ có 44 xe tăng và các xe vũ trang là bị tổn thất hoàn toàn, trưmg dẫn từ ZZB.
94. Zhou Deli, Personal Recollections, các trang 287-88.
95. Một vấn đề quan trọng, như cựu tham mưu trưởng Quân Khu Quảng Châu đã vạch ra, là một số các sĩ quan cấp thấp đã có một sự hiểu biết kém cỏi về địa hình và việc đọc bản đồ và đã chỉ có thể dựa vào các chỉ thị từ thượng cấp của họ. Cùng nơi dẫn trên, trang 289.
96. Cùng nơi dẫn trên, trang 298.
97. Xu Guangyi, Dangdai Zhongguo jundui de houqin gongzuo (Contemporary China’s Armed Forces Logistics: Công tác Hậu Cần Cho Các Lực Lượng Vũ Trang của Trung Quốc Đương Đại) *Beijing: Social Science Press, 1990), trang 178; Zhang Zhen, Memoirs, trang 172.
98. Chen Zuhua và Liu Changli, “Summary of the symposium on control of communication”, Zhongguo junshi kexue (Khoa Học Quân Sự Trung Quốc), Tập 15, số 1 (2002), các trang 145-48.
99. Các binh sĩ QĐGPNDTQ đã phải mua đồ tiếp tế hàng ngày bởi chính họ tại các chợ địa phương.
100. Zhou Deli, Personal Recollections, các trang 300-301.
101. Thí dụ, Edward C. O’Dowd và John F. Corbett, Jr., “The 1979 Chinese campaign in Vietnam: lessons learned, trong sách biên tập bởi Laurie Burkitt và các tác giả khác, The Lessons of History, các trang 353-371, nghiên cứu các bài học lĩnh hội bởi QĐGPNDTQ chỉ dựa trên hai nguồn tin: một là bản tóm lược về vai trò được nắm giữ bởi các khóa sinh của trường bộ binh thuộc Quân Khu Quảng Châu trong chiến tranh và nguồn tài liệu kia là một bản phân tích ngắn về chiến dịch 1979 bởi các nhà nghiên cứu thuộc Học Viện Khoa Học Quân Sự.
102.Phòng Quân Sử, Học Viện Khoa Học Quân Sự, Zhongguo renmin jiefangjun de qishi nian (70 năm Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc) (Beijing: Military Science Press, 1997), trang 613.
103. David Shambaugh, “China’s military in transition: politics, professionalism, procurement and power projection”, The China Quarterly, số 146 (Tháng Sáu 1996), trang 279.
104. Li nan, “The PLA’s evolving warfighting doctrine, strategy and tactics, 1985-1995: a Chinese perspective”, và Paul H. B. Goodwin, “From continent to periphery: PLA doctrine, strategy and capabilities towards 2000”, The China Quarterly, số 146 (Tháng Sáu 1996), các trang 443-487.
105. Liu Guoyu, Zhongguo renmin jiefangjun zhanshi jiaocheng (Textbook of PLA Fighting History: Sách Giáo Khoa Về Lịch Sử Giao Tranh Của QĐGPNDTQ) (Beijing: Military Science Press, 2000), trang 235.
106. Zhang Zhizhi, “Air Force troops”, các trang 355-56.
107. Các cuộc nghiên cứu này là của Elleman, Modern Chinese Warfare, Scoibell, China’s Use of Force, Ryan, Finkelstein, và McDevitt, Chinese Warfighting, Mark Burles và Abram Shulsky, Patterns in China’s Use of Force: Evidence from History and Doctrinal Writings (Santa Monica, CA: RAND, 2000), và Allen Whiting, “China’s Use of Force, 1950-95, and Taiwan”, International Security, số 26 (Mùa Thu 2001), các trang 103-130./-
_____
Nguồn: Xiaoming Zhang, China’s War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, số 184, December 2005, các trang 851-874.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
07.01.2013
Không ai có thể ngăn cản được con đường đi đến Sự Thật
Trần Quốc Việt (Danlambao) – Anh Nguyễn Đắc Kiên
đã cứu danh dự chung cho các nhà báo Việt Nam dưới chế độ toàn trị dù
cái giá anh trả là bị đuổi việc, là tương lai bấp bênh đang chờ anh và
gia đình.
Những công dân Locris ở miền trung Hy Lạp cổ đại đều được ban cho
quyền tự do ngôn luận, dù nhiều người trả giá rất cao. Tại các cuộc họp
công cộng, ai cũng có thể đứng lên bàn cãi về những thay đổi trong luật
pháp hay trong phong tục, với chỉ một điều kiện duy nhất. Trước khi họ
bày tỏ ý kiến người ta tròng sợi dây thừng vào cổ họ. Nếu những gì họ
nói không làm công chúng vừa lòng, họ sẽ bị treo cổ ngay.
Câu chuyện “đóng góp” ý kiến về hiến pháp hiện nay ở Việt Nam chính là phiên bản “tự do ngôn luận” cổ đại ở trên.
Sợi dây thừng đầu tiên đã được đảng CSVN tròng vào cổ anh Nguyễn Đắc Kiên và những người góp ý kiến khác.
Anh Nguyễn Đắc Kiên là nhà báo can đảm, và câu chuyện của anh gợi
tôi nhớ đến câu chuyện của nhà báo can đảm khác. Đó là nhà báo Từ Chung, chủ bút nhật báo độc lập Chính Luận.
Chính Luận là tờ báo không do dự chỉ trích chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa, Hoa Kỳ, hay Cộng Sản. Vì sự trung thực can đảm này, Cộng Sản
đã ghi tên chủ nhiệm Đặng Văn Sung và chủ bút Từ Chung vào danh
sách sách những kẻ phải giết. Vào tháng Sáu 1965 Việt Cộng gởi thư tố
cáo họ là “những con chiên ghẻ phục vụ chủ Mỹ” và đe dọa ám sát họ.
Người ký tên dưới bức thư là Võ Công Minh “Chỉ huy Phân đội 628, Lực lượng Giải Phóng Vũ trang khu vực Sài Gòn- Gia Định.”
Chính Luận đăng lá thư này, kèm theo bài xã luận đáp lại rằng báo
chỉ cố gắng phục vụ một người chủ duy nhất- Sự Thật- như được minh chứng
qua việc các bên đều chỉ trích báo. Nhưng chỉ những người cộng sản, bài
xã luận tuyên bố, mới đe dọa giết chết họ. Bài xã luận kết luận:
“Như tất cả mọi người đều quý sự sống, chúng tôi quý sự sống
Chúa đã thở vào thân xác chúng tôi. Nhưng chúng tôi sẽ nhìn thẳng vào
nòng súng của kẻ giết người đến hại chúng tôi và chúng tôi sẽ nói: “Ông
có thể giết chúng tôi, nhưng tinh thần của chúng tôi sẽ sống mãi.”
Vào ngày 30 tháng Mười Hai, 1965, khi chủ bút Từ Chung từ trên xe
hơi bước xuống trước nhà ông, hai tên khủng bố Việt Cộng bắn bốn viên
đạn vào người ông ở khoảng cách gần và giết ông ngay tức thì.
Tinh thần của chủ bút Từ Chung ngày xưa chính là tinh thần của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên ngày nay.
Tinh thần Sự Thật ấy được nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn khẳng định như sau trong bức thư gởi Hội nhà Văn Xô Viết:
“Tất nhiên tôi tin chắc rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của mình
với tư cách là một nhà văn trong mọi hoàn cảnh-ngay cả càng thành công
hơn và không bị thử thách hơn từ nấm mồ hơn từ trong cuộc đời tôi. Không
ai có thể ngăn cản được con đường đi đến sự thật, và để đẩy mạnh chính
nghĩa của sự thật, tôi sẵn sàng chấp nhận cả cái chết.”
Nếu nước ta có nhiều người như Từ Chung, Nguyễn Đắc Kiên, Điếu Cày,
Tạ Phong Tần, Đỗ Thị Minh Hạnh và nhiều người dấn thân khác thì tự do
đến sớm hơn cho tất cả mọi người Việt Nam. Họ là những người can đảm.
Như lời người Mỹ hay nói về nước họ như sau: “Đất nước của những người tự do nhờ những người can đảm.”
Càng nhiều người can đảm dấn thân sớm ngày nào thì Việt Nam nhất định sẽ trở thành đất nước của tự do sớm ngày đó.
_____________________________________
Bài liên quan đã đăng:
Nói chuyện lý tưởng cộng sản với con trai gần 16 tuổi: “Người cộng sản tốt – một ngộ nhận lớn”
Phan Châu Thành (Danlambao) - “Nếu
một người cộng sản còn có phẩm chất tốt nào đó, thì đó là những phẩm
chất Con người cơ bản, không phải phẩm chất đặc thù của cộng sản do đảng
CS cho họ. Thực tế đảng CS của họ là guồng máy kiên định “chuyên
chính” được thiết kế và vận hành để loại bỏ rất hiệu quả tất cả các phẩm
chất tốt của từng Con người đảng viên lúc đầu mang vào đảng. Vì thế,
những người cộng sản cũng có thể còn giữ được đôi chút phần tốt của Con
người, nhưng họ không phải họ là những người Cộng sản tốt hay cộng sản
chân chính. Vì không tồn tại “thực thể nào” như vậy nên không có khái
niệm như vậy, hay khái niệm “người cộng sản tốt” chỉ là ngộ nhận.”
Con trai yêu quí,
Hôm qua, khi bố con mình đang tỷ thí tài năng chơi bi-a với nhau
vừa nói chuyện về kế hoạch chuẩn bị cho tương lai của con, bố đã bất ngờ
khi con hỏi: “Thế kế hoạch và chuẩn bị cho tương lai của bố ngày xưa thế nào?”
Bố đã đứng như “trời trồng” với cây gậy bi-a chọc mãi vào cổ
họng mình mà suy nghĩ: biết trả lời con thế nào đây? Và bố đã trả lời
con trai thế này, con nhớ không, đúng như thực tế nó là như vậy, rằng:
Cả cuộc đời tuổi trẻ của mình bố đã được ông bà, cả đại gia đình
(cách mạng), nhà trường xã hội nuôi dậy để trở thành người cộng sản, để
tham gia tích cực xây dựng đất nước XHCN. Và đó cũng từng là mục tiêu,
nguyện vong, lý tưởng của cuộc đời bố, gọi là lý tưởng cộng sản. Bố đã tin và làm theo/cho lý tưởng đó hoàn toàn, kể cả trong những năm đầu bố đang học đại học ở Đông Âu.
Mà lý tưởng cộng sản đó thực ra bố chỉ biết chấp nhận và tuân theo,
hoàn toàn không có ý thức rõ rệt của riêng mình về nó thực sự là, không
thể so sánh với ý thức rõ ràng của con hôm nay về những gì con muốn làm
trong tương lai vài/nhiều năm tới. Bố đã tin thế là vì không ai hỏi bố
nghĩ gì, tin gì, nên hình như cả thế hệ bố chẳng ai chịu nghĩ gì cả, chi
nghe và tin theo người khác thôi. Niềm tin đó là ở cấp độ 1 – niềm tin
chỉ qua việc nghe lời nói của người khác, rất yếu và không bền vững.
Người khác (đã tạo niềm tin cấp độ 1 cho bố) ở đây là người thân (ông bà
nội con) họ hàng, thầy cô, nhà trường, cả xã hội… tất cả những người có
uy tín và ảnh hưởng lên bố đã “nghĩ hộ” và “lựa chọn hộ” bố hết rồi.
Tất cả xã hội chỉ truyền và nhận niềm tin (vào lý tưởng cộng sản và
tương lai XHCN) ở cấp độ 1 – chỉ nói và nghe thôi, chẳng ai nhìn thấy
hay biết thực chất cộng sản hay CNXH là gì cả…
Và tất cả họ chi muốn bố làm một điều: trở thành người cộng sản,
như họ. Công thức ở đây là: Họ nghĩ, họ chọn, bố làm, kết quả không ai
biết là gì, chỉ hy vọng.
Bố đã không có lựa chọn nào khác như con hôm nay, lại không thông
minh bằng con, càng không có điều kiện tiếp cận mọi thông tin như con
các chị con, và cả thế hệ trẻ hôm nay. Hôm qua, bố con mình đã bàn đến
nhiều khả năng cho con, và lựa chọn cuối cùng là của con, bố chỉ là “cố
vấn”, không can thiệp, cũng không can thiệp được.
Còn niềm tin và lựa chọn lý tưởng cộng sản của bố ngày xưa là hành động theo bản năng “con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”, không hề xuất phát từ niềm tin của riêng mình… Hôm nay, bố không muốn áp đặt cho con thói quen đó.
Nhưng trong 5-6 năm cuối thời gian bố học, thực tập và làm việc ở
nước ngoài, niềm tin của bố vào lý tưởng cộng sản đã bị lung lay rồi sụp
đỏ hoàn toàn. Đó là vì bố đã chứng kiến từ bên trong hầu như toàn bộ
quá trình tan rã và sụp đổ của các nhà nước cộng sản Đông Âu. Qua đó bố
hiểu về bản chất của lý tưởng cộng sản khác, ngược lại hoàn toàn, với
những gì bố đã tin trước đó. Nhưng niềm tin mới đó rất mạnh mẽ, vì nó ở
cấp độ 2 – nhờ quan sát mà thấy và hiểu, nhờ và bị tham gia một cách bị
động (sống trong xã hội với những biến cố đó), và nhờ biết suy nghĩ chủ
động (trước đó bố không suy nghĩ về lý tưởng cộng sản, chỉ tin thôi) của
bố, một thanh niên đã chín chắn hơn thêm 5-7 tuổi so với thời học phổ
thông và mới vào đại học…
Vậy là niềm tin mới của bố về lý tưởng cộng sản mạnh chắc hơn, có
cơ sở hơn, bền vững hơn, đã thay thế niềm tin cũ (năng lượng lơn hơn
luôn thắng năng lượng thấp hơn). Năng lượng đó biến thành hành động của
bố: bố quyết định sẽ không bao giờ trở thành người cộng sản!
“Nhưng bố vẫn giữ những phẩm chất tốt của cộng sản trong cuộc sống và công việc của mình?” Con đã hỏi xen vào đoạn này của bố như thế. Và bố cũng lại bất ngờ vì câu hỏi cũng rất khó này của con, chỉ biết hỏi lại “Tại sao con nói thế?” để suy nghĩ thêm về câu trả lời. “Tại mẹ nói vậy, mẹ nói bố vẫn là người cộng sản một nửa, nửa tốt” – Con đã trả lời vậy.
Bố đã nói: “Cảm ơn con và mẹ đã nghĩ tốt về bố. Nhưng không hoàn toàn vậy đâu”. Con đã nhíu mày ngạc nhiên về chữ “không hoàn toàn vậy đâu”
đó mà bố đã không giải thích tiếp. Rất tiếc là cuộc trao đổi của bố con
mình đã bị cắt ngang ở đó vì bà gọi bố con mình vào ăn trưa, và sau đó
chưa có cơ hội để chúng ta tiếp tục và kết thúc nó.
Nhưng bố thì cứ nghĩ tiếp về nó hoài. Và bố quyết định tiếp tục và
tạm kết nó ở đây, trên bài viết/là thư này cho con. Lý do: câu hỏi khó
thứ hai của con đã vô tình nhắc đến một khái niệm rất quan trọng và bố
nghĩ xã hội này đang nhầm lẫn.
Bố xin trả lời chính thức lại câu hỏi thứ hai của con như sau:
Thứ nhất, bố cảm ơn mẹ và con đã nghĩ và tin bố có những phẩm chất
tốt. Nhưng bố tin nêu bố có phẩm chất nào tốt như thì đó là phẩm chất
tốt của phần Con người trong bố trong mỗi con người, mà thôi, không phải
là phần con người cộng sản tốt, hay là “phần cộng sản tốt”.
Chính cái phần cộng sản tốt này đã làm lầm đường lạc lối biết bao
thế hệ người Việt lẽ ra là ưu tú với dân tộc lại trở thành tội đồ dân
tộc.
Thứ hai, con và mọi người đều biết rõ, bố đã từ chối trở thành
người cộng sản (từ chối vào đảng và nhiều động tác khác tránh xa cộng
sản nữa từ thời du học về đến nay), chưa bao giờ trở thành người cộng
sản, thì làm sao là phần tốt hay có phần tốt của người cộng sản được?
Câu hỏi của con dẫn đến một câu hỏi khó thứ ba, rất quan trọng: Có
hay không những người cộng sản tốt? Hay: Có hay không cái người ta gọi
là “những người cộng sản chân chính”?
Câu trả lời của bố là: Không! Dứt khoát là không! Tại sao vậy? Bởi vì:
Người Cộng sản = Con người + Lý tưởng CS + Hành động Cộng sản
Phần Con người, chúng ta biết là có Tốt hoặc Xấu;
Phần Lý tưởng Cộng sản: Chỉ có Sai, độc hại với cả Loài người, tức là rất xấu (Nhân loại đã bác bỏ);
Phần hành động cộng sản: Vô cùng độc ác, xấu xa, gian trá, lật lọng…(Nhân loại đã đã chứng kiến do cộng sản đã tự chứng minh suốt hàng thế kỷ nay…)
Vậy phần tốt nếu có của Con người cộng sản nằm ở đâu?
Nó chỉ có trong phẩm chất phần Con người ban đầu mà một số họ –
những người CS may ra còn giữ được. Còn họ càng có lý tưởng cộng sản
“cao đẹp”, hành động cộng sản “kiên quyết hy sinh” thì họ càng trở thành
những người dơ bẩn độc hại và tàn ác, và cái phần tốt trong Con người
họ ban đầu mà vốn dĩ ai cũng có càng biết mất đi không cứu vãn được…
Con trai, bố muốn nhắc lại với con lần nữa:
Nếu một người cộng sản còn có phẩm chất tốt nào đó, thì đó là những
phẩm chất Con người cơ bản, không phải phẩm chất đặc thù của cộng sản
do đảng CS cho họ. Thực tế đảng CS của họ là guồng máy kiên định “chuyên chính” được
thiết kế và vận hành để loại bỏ rất hiệu quả tất cả các phẩm chất tốt
của từng Con người đảng viên lúc đầu mang vào đảng. Vì thế, những người
cộng sản cũng có thể còn giữ được đôi chút phần tốt của Con người, nhưng
họ không phải họ là những người Cộng sản tốt hay cộng sản chân chính.
Vì không tồn tại “thực thể nào” như vậy nên không có khái niệm như vậy, hay khái niệm “người cộng sản tốt” chỉ là ngộ nhận.
“Cộng sản” và “Tốt đẹp” hay “người cộng sản” và “người tốt” là hai
cặp tố chất, hai loại người ngược nhau hoàn toàn, cái đầu triệt tiêu cái
sau. Bởi vì, cộng sản đơn giản là triệt tiêu đa số vì quyền lợi thiểu
số, vốn là cái xấu kinh khủng nhất của con người, loài người: diệt
chủng!
Khái niệm “người cộng sản tốt” hay “người cộng sản chân chính” chỉ
là ngộ nhận lớn mà bọn cộng sản “gộc” – tàn ác nhất, luôn muốn thổi to
lên để chúng và cả cái đảng độc tài nấp vào để lừa bịp cả xã hội vốn
đang u mê vì sợ hãi cộng sản đến tê liệt, như những con mồi đang bị đàn
rắn thôi miên nhìn ra những vầng hào quang rắn chói lòa… mà thôi.
Cái gọi là “con người, đạo đức và tư tưởng HCM” cũng chỉ là như vậy, con ạ.
Không có những cái, những kẻ gọi là “Cộng sản… mà tốt!”
Đó là điều bố mong con và mẹ phân biệt được và không dễ dàng ngộ nhận như thế.
Bố của con trai yêu quí!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét