Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012

Thủ tướng thỏa thuận lớn với Trung Quốc - và các vấn đề liên quan

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gặp nhau bên lề Hội chợ Hiệp hội ASEAN-Trung Quốc (CAEXPO) tổ chức ở thành phố Nam Ninh tỉnh Quảng Tây, trao đổi các ý kiến về tranh chấp Biển Ðông và cùng đạt nhiều thỏa thuận quan trọng.
.



Theo bản tin Tân Hoa Xã, Việt Nam và Trung Quốc đồng ý áp dụng những điều đã được lãnh tụ hai nước đồng thuận để giải quyết tranh chấp Biển Ðông khi Hồ Cẩm Ðào và Nguyễn Phú Trọng gặp nhau hồi tháng 10 năm ngoái ở Bắc Kinh.
Tức là giải quyết tranh chấp “xuyên qua đàm phán và đối thoại.”
Tân Hoa Xã thuật lời Tập Cận Bình nói vấn đề Biển Ðông không những tượng trưng toàn diện cho mối quan hệ giữa hai nước mà cũng tác động đến mối quan hệ nếu không được đối phó đúng cách.
Tân Hoa Xã cũng thuật lời Tập Cận Bình nói “hai lãnh đạo đã đạt nhiều thỏa hiệp quan trọng liên quan tới biển và hai nước nên sốt sắng áp dụng chúng.” Tuy nhiên Tân Hoa Xã không nêu ra cho biết những thỏa hiệp đó là gì.
Về phía Hà Nội, bản tin của Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) viết rằng trong cuộc gặp mặt của hai ông Nguyễn Tấn Dũng và Tập Cận Bình, “Hai bên nhất trí cho rằng cần kiên trì giữ gìn hòa bình, ổn định tại Biển Ðông, giải quyết thỏa đáng mọi vấn đề thông qua đàm phán hòa bình và xuất phát từ tầm cao chiến lược của quan hệ hai nước.”
TTXVN thuật lời ông Dũng kêu gọi “hai bên cần thực hiện nghiêm chỉnh nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, tuân thủ nghiêm túc thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, giải quyết thỏa đáng tranh chấp và những vấn đề mới nảy sinh thông qua đàm phán hữu nghị, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Ðông (DOC), tiến tới Bộ Quy tắc ứng xử của các bên tại Biển Ðông (COC).”
TTXVN không hề nói gì tới những “thỏa hiệp trên biển” như Tân Hoa Xã đã hé lộ chút ít ngoài rất nhiều lời ca ngợi như là, “Hai nhà lãnh đạo nhất trí cho rằng tình hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc do các thế hệ lãnh đạo tiền bối và nhân dân hai nước dày công vun đắp là tài sản vô cùng quý giá của hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước, hai bên cần phải có trách nhiệm kế thừa, gìn giữ và phát huy.”
Trong chuyến đến Bắc Kinh của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, ngày 11 tháng 10, 2011 Việt Nam-Trung Quốc ký bản “Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển.”
Bản thỏa thuận này viết ở điều 3 rằng, “Ðối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.”
Và tại điều 4 thì, “Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của thỏa thuận này.”
Và tại điều số 5 của bản thỏa thuận thì kêu gọi, “Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau.”
Bản thỏa thuận này cũng như bản tuyên bố chung ngày 15 tháng 10, 2011 toàn là những lời lẽ mơ hồ nên Bắc Kinh liên tiếp có các hành động khiêu khích, lấn tới trong khi vẫn cao giọng kêu gọi Hà Nội tôn trong các sự “đồng thuận” của các lãnh tụ cấp cao.
Bắc Kinh vẫn ngang nhiên cấm đánh cá, vẫn bắt ngư dân Việt, vẫn mở thầu dò tìm dầu khí ngay ở các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Không những vậy, Bắc Kinh còn tuyên bố thành lập thành phố và bộ quân sự “Tam Sa” cấp huyện đặt bộ chỉ huy tại đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Không thấy TTXVN đưa tin gì cho thấy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có đặt vấn đề gì đối với những hành động bá quyền của Trung Quốc hay không. Báo chí Trung Quốc thì luôn luôn đưa ra các lời đe dọa dùng võ lực để “dạy Việt Nam” bài học mỗi khi có chuyện căng thẳng về tranh chấp biển đảo.
Theo Người Việt

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nói nhảm

PV Quốc Doanh – Boxitvn.net

Ông Nguyễn Chí Vịnh được cho như người phụ trách ngoại giao quốc phòng của Việt Nam
Ông Nguyễn Chí Vịnh được cho như người phụ trách ngoại giao quốc phòng của Việt Nam
Lâu lắm rồi, tôi không cầm đến tờ báo Quân Đội Nhân Dân. Những bài phỏng vấn tướng lĩnh dĩ nhiên tôi không đọc. Ngày 17/9/2012, một người gói đồ cho tôi tờ báo Quân Đội Nhân Dân có bài phỏng vấn Thượng tượng Nguyễn Chí Vịnh. Tựa đề bài phỏng vấn: “Giữ vững ổn định chính trị để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình”. Nhớ lại báo Quân Đội Nhân Dân vừa có bài bịa ra cuộc phỏng vấn nhà văn Nguyên Ngọc, bị dư luận phê phán, nghĩ rằng chắc có cho kẹo thì phóng viên báo Quân Đội Nhân Dân cũng không dám bịa bài phỏng vấn ông Vịnh, nên tôi đọc thử.
Thấy một bài rất nhảm!
1/ Trích nguyên văn: “PV: Thượng tướng có thể cho biết, tại sao tình hình Biển Đông lại diễn biễn phức tạp trong thời gian qua? Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: (…) Một phần nguyên nhân khác, thực ra không nằm trên biển mà ở trên đất liền. Những nước không ở gần Biển Đông, thậm chí ở tận châu Âu, châu Mỹ, cũng bàn về vấn đề Biển Đông khiến dư luận quan tâm hơn”.
Tại sao “cũng bàn về vấn đề Biển Đông” mà khiến tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp? Thượng tướng Vịnh muốn tung hỏa mù để che đậy dã tâm của Trung Quốc chính là nguyên nhân gây ra tình hình Biển Đông phức tạp chăng?
2/ Trích nguyên văn: “PV: Đề nghị Thượng tướng cho biết, tại cuộc Đối thoại, các vụ việc xảy ra trên Biển Đông trong đầu năm nay có được nêu không? Quan điểm của quân đội hai nước xử lý những vấn đề này như thế nào? Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: (…) Hai bên khẳng định, lực lượng quốc phòng không tham gia giải quyết xung đột. Bên cạnh đó, quân đội phải đóng góp ý kiến tham mưu để hai Đảng, hai Nhà nước giải quyết các vấn đề bằng biện pháp hòa bình”. (hết trích)
Nói như thế, chỉ đúng khi xung đột xảy ra trên vùng biển quốc tế hoặc… biển Trung Quốc. Còn xung đột xảy ra trên vùng biển của nước ta, ở các quần đảo của nước ta, do Trung Quốc kéo đến gây ra, mà quân đội nước ta “không tham gia giải quyết xung đột”, chỉ “đóng góp ý kiến” để giải quyết “bằng biện pháp hòa bình” thì làm sao giữ được toàn vẹn lãnh thổ quốc gia?
3/ Trích nguyên văn: “PV: Trước bối cảnh như vậy, quan điểm của Bộ Quốc phòng Việt Nam trong công tác bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ như thế nào thưa Thượng tướng? Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: (…) Chúng ta luôn phải nhớ nằm lòng kim chỉ nam “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” mà Đảng ta và Bác Hồ đã chỉ ra, bảo vệ vững chắc chế độ XHCN mới giữ được độc lập chủ quyền”. (hết trích)
Lịch sử mấy nghìn năm của nước ta, khi chưa có CNXH, đã giữ vững được độc lập chủ quyền. Còn mấy chục năm nay, khi có CNXH, nước ta mất quần đảo Hoàng Sa, một số đảo trong quần đảo Trường Sa và vài vị trí trên đất liền cho Trung Quốc. Và nói như Thượng tướng Vịnh, tương lai, nếu không còn CNXH, nước ta sẽ không giữ được độc lập chủ quyền?
Làm tướng để giữ nước, ăn nói cho có gang có thép, đừng nói nhảm. Nếu không biết cách nói không nhảm, thì đừng nói làm xao động lòng quân sỹ và nhân dân.
Ngày 20/9/2012
Q.D.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

"Bật mí" của một Hiệu trưởng: Vì sao phải thu của phụ huynh học sinh

Lâu nay gần như cả xã hội lên án việc lạm thu trong các nhà trường. Các ý kiến đó đa phần nhằm vào Ban Giám hiệu. Là một Hiệu trưởng trường tiểu học của một huyện nghèo, tôi vô cùng bức xúc, nhưng chẳng lẽ tranh cãi.
Bật mí của một Hiệu trưởng: Vì sao phải thu của phụ huynh học sinh
Nhưng đến hôm nay thì đúng là chịu không nổi nữa, tôi xin có vài dòng. Thưa các anh, chị! 
Tại sao phải thu của phụ huynh học sinh? Đã bao giờ các vị hỏi ngân sách nhà nước cấp cho chúng tôi bao nhiêu tiền 1 năm chưa? 
Ở huyện tôi, tất cả các trường tiểu học đều được cấp tiền chi khác là 10 triệu đồng 1 năm với cả thầy và trò khoảng gần 500 con người. Hàng tháng, chúng tôi không dám đặt cả báo Đảng. Tiền điện thoại cơ quan, tiền mạng Internet có tiết kiệm cũng phải 4-5trăm nghìn đồng mỗi tháng. Chúng tôi được thu Quỹ Hỗ trợ giáo dục 15.000đ/1HS/tháng gồm tất cả tiền điện, tiền tổ chức các hoạt động giáo dục, tiền cơ sở vật chất, sửa máy vi tính, đổ mực máy in...
Các ngày lễ như 2/9, 1/5, 20/10, 8/3 chúng tôi đều “nhịn chay” cả. Nếu có tổ chức được một bữa ăn thì phải ký thành 6-7... buổi lao động ngày thứ bảy  (mỗi ngày 20.000đ), nếu không thì kho bạc không duyệt. Tiền HS học 2 buổi/ngày mặc dù Luật Giáo dục quy định bậc tiểu học không phải đóng học phí, nhưng ở huyện tôi bắt tiền này phải nộp trả bù lương cho GV hợp đồng (những GV do sai lầm của lãnh đạo cũ của huyện đã kí kết hợp đồng hưởng lương ngân sách).
Chưa kể việc thăm viếng bố mẹ, bản thân, vợ con... của lãnh đạo xã, huyện ủy, UBND huyện, Phòng Giáo dục, Công đoàn GD, Kho bạc nhà nước, Phòng Tài chính kế hoạch...
Ngày 20/11, ngày Tết Nguyên đán chúng tôi phải đi “lễ” đủ các ban bệ này, nếu không thì khó lòng làm việc. Tài chính cấp cho các trường bằng cơ sở vật chất, nhưng trường đi "lại lỗ" phải bằng tiền (mà số tiền này phải “biến tướng”).
Thêm nữa, bây giờ xã hội hiện đại, học sinh phải được học bằng máy tính. Mà máy tính thì phải nối mạng, phải có phòng, có bàn ghế, có máy chiếu... Những thứ ấy chúng tôi lấy đâu ra? Rồi hội hè, thi giáo viên giỏi, học sinh giỏi… làm gì có tiền dẫn HS đi thi?
Ngày xưa học sinh phải lao động từ nhỏ, đi học có 1 buổi còn 1 buổi vẫn thỉnh thoảng đến trường lao động. Nhưng bây giờ học cả 2 buổi, vậy ai quét trường, ai lao động, ai làm cỏ, cắt tỉa cây cảnh? Đương nhiên là phải thuê, vậy thuê thì lấy tiền đâu?
Từ khi đi dạy học chưa bao giờ Tết Nguyên đán chúng tôi được hưởng quá 200.000đ (kể cả Hiệu trưởng). Còn nhiều, nhiều nữa mà tôi không thể kể hết. Vài lời tâm sự, mong cha mẹ học sinh và toàn xã hội thấu hiểu để chia sẻ.
Đoàn Văn Vườn  (Dân trí)

Lãnh đạo Vnexpress bị tố về tội vu khống nhận hối lộ và loạn dâm

 
Chu Mộng Long – Chiều nay, vừa nhận thư trả lời của Phó tổng biên tập Vnexpress Phạm Văn Hiếu, chưa kịp viết bản yêu cầu báo chí thứ hai, thì Blog Chu Mộng Long nhận được bài viết cũng lấy tên Bình Nguyên gửi qua email tố ông Phạm Văn Hiếu tội vu khống về việc nhận hối lộ và loạn dâm ở Vnexpress. Bài viết vốn đã phản ánh khách quan, đa chiều, ý kiến các bên và cơ quan có thẩm quyền, Chu Mộng Long dĩ độc trị độc, tác nghiệp theo cách của Vnexpress, chỉ cần xào nấu lại và đăng nóng để bạn đọc thưởng thức mà không cần kiểm chứng, vì không thể liên lạc với cán bộ hoạt động bí mật Vnexpress.

*
Nữ phóng viên tố bị Phó tổng biên tập Phạm Văn Hiếu vu khống loạn dâm với 3 nam phóng viên Vnexpress

Cho rằng đồng nghiệp và lãnh đạo của mình đã “bịa chuyện” mình nhận tiền hối lộ và ngủ với 3 nam phóng viên, một nữ phóng viên của Vnexpress đã gửi đơn yêu cầu cơ quan chức năng xử lý về hành vi vu khống.
 Bà Hải Duyên, phóng viên Vnexpress vừa gửi đơn đến công an yêu cầu xử lý đồng nghiệp, đồng thời là lãnh đạo cùng cơ quan là Phó Tổng biên tập Phạm Văn Hiếu, vì ông này “có hành vi bịa đặt, vu khống gây ảnh hưởng đến uy tín và danh dự” của mình.
Trong đơn tố cáo bà Hải Duyên cho hay, ông Phạm Văn Hiếu đã tự dựng chuyện, tuyên truyền và công khai với học viên các lớp tại chức ở FPT rằng trong một lần đi chơi với học viên, bà Hải Duyên đã tiêu hết 9 triệu đồng nhận hối lộ của học viên.
Theo bà Hải Duyên, ông Phạm Văn Hiếu còn tuyên truyền với các học viên rằng, bà Hải Duyên đã đi ăn nhậu với 3 nam phóng viên và sau đó ngủ (tức loạn dâm) cùng với 3 người này. “Sự việc nói trên làm tổn hại nghiêm trọng đến tinh thần, sức khỏe và danh dự của tôi và gia đình”, phóng viên Hải Duyên nhấn mạnh.
Trao đổi với Chu Mộng Long Blog, bà Hải Duyên cho biết, ban đầu nghe người này người kia nói lại việc ông Phạm Văn Hiếu rêu rao, bịa chuyện không tốt về mình nhưng bà vẫn bình tĩnh vì “trinh tiết mình đã mất, sợ gì nói chuyện loạn dâm”. Suốt những tháng hè, thông tin này được lan truyền đến khắp nơi, từ trong nước đến hải ngoại, từ châu Á đến châu Phi, Mỹ La tin… Bà nói, trong đơn bà đã vạch trần việc ông Phó tổng Vnexpress Phạm Văn Hiếu, do ám thị khi xem quá nhiều phim sexy, nên ông đã có những biểu hiện loạn dâm, nhiều lần tán tỉnh bà và nhiều phóng viên xinh đẹp khác rồi đề nghị loạn dâm bất thành, ông đã bày trò rêu rao bịa đặt để tạo tin hot cho tờ báo lá cải do ông nắm giữ một phần lớn cổ phần.
“Sự việc còn đến tai những người thân, gia đình của tôi, gây ảnh hưởng rất nhiều khiến tôi vô cùng bức xúc, phải làm cho ra nhẽ. Tôi có đủ các nhân chứng, cơ sở chứng minh mình trong sạch và đã nhờ luật sư, bác sĩ để giải quyết việc này đến cùng”, bà Hải Duyên nói.
Trong khi đó, ông Phạm Văn Hiếu phủ nhận việc mình là người tung tin đồn thổi và cho hay, với tư cách là Phó Tổng biên tập Vnexpress nên khi nghe những thông tin từ học viên, cán bộ trong tòa soạn, ông có trách nhiệm đi kiểm chứng, tìm hiểu. “Sự việc trắng đen thế nào hiện Ban biên tập và cơ quan chức năng đang trong quá trình thẩm tra, làm rõ”, ông Phạm Văn Hiếu nói.
Còn Tổng biên tập Thang Đức Thắng cho biết, ông mới biết chuyện của hai cán bộ của mình và việc bà Hải Duyên gửi đơn cho công an thành phố cùng một số cơ quan khác, yêu cầu làm rõ việc bị đồng nghiệp “tố cáo có hành vi nhận hối lộ và loạn dâm với phóng viên”.
Theo ông Tổng biên tập Thang Đức Thắng, Tòa soạn Vnexpress có liên kết đào tạo với một số trung tâm giáo dục, các trường dân lập và cán bộ, phóng viên của tòa soạn thường đi giảng dạy và tác nghiệp khắp nơi, không quản lí được, nên chuyện nhận hối lộ và loạn dâm rồi ganh tị và tố nhau là có thể xảy ra. “Theo nội dung tố cáo, sự việc xảy ra liên quan đến các phóng viên thuộc Ban xã hội của Vnexpress. Hiện lãnh đạo Tòa soạn mới thành lập ban thanh tra để xác minh vụ việc sau đó mới có hướng giải quyết”, ông Thang Đức Thắng nói.
Công an TP cho biết đang điều tra, làm rõ nội dung đơn tố cáo của phóng viên Hải Duyên.
Bình Nguyên gửi cho Blog Chu Mộng Long
Xem Tổng biên tập FTU chửi Vnexpress
———————————————————————————————————————————————————
Vụ này tha hồ kiện qua kiện lại, vui lắm đây!
Dự kiến ông Phạm Văn Hiếu và cán bộ Vnexpress gửi cho Blog Chu Mộng Long Bản yêu cầu báo chí, Chu ta sẽ trả lời theo cách trong công văn sau:

Hải An - Hãy nhận ra sự thật trước khi quá muộn!

Thành lập thành phố Tam Sa, quản lý biển đảo Tổ quốc ta, ngang ngược gọi thầu trên vùng biển thuộc hải phận của ta. 23.000 tàu cá Trung cộng lại tràn ngập biển Đông, có sự bảo vệ của các tàu hải giám, diễu võ dương oai, hù doạ về mặt quân sự. Biển đảo của ta đã bị lão láng giềng đại hán hung hãn và tàn bạo, ăn cướp ngư trường, bắt bớ ngư dân, tài sản, đòi tiền phạt, là chuyện thường ngày của họ. Họ muốn ta không thể hành nghề ngay trên vùng biển của mình để dễ bề chiếm đoạt.
         
Dưới danh nghĩa: “16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt”, từ nhiều năm nay, đội quân ngầm của chúng đã mai phục hầu hết các vùng miền của Tổ quốc. Từ địa bàn chiến lược xung yếu về quân sự, quốc phòng ở Tây Nguyên, đến 300 ngàn ha rừng đầu nguồn của 18 tỉnh đã bị họ chiếm giữ với danh nghĩa cho thuê dài hạn. Từ các công trường, xí nghiệp trong các ngành kinh tế trọng điểm và then chốt của ta đều do họ “trúng thầu”, rải ra từ Bắc chí Nam. Hàng vạn lao động, kể cả những lao động phổ thông, nấp dưới danh nghĩa khách du lịch rồi ở lại, chui vào các công trình. Hàng nghìn thương nhân của họ, tìm mọi cách thu mua, vơ vét hàng hoá, nông sản, thực phẩm… Với những chiêu bài rất đểu, ban đầu với giá cao, lừa dân ta bán cho chúng, khi trúng mánh rồi thì họ hạ giá, thậm chí cuỗm nợ rồi chuồn thẳng, để nhân dân ta điêu đứng cùng với đống hàng thừa ế, không biết tiêu thụ vào đâu. Biết bao trò lừa đảo, thu mua móng trâu, rễ hồi, lá vải, lá nhãn, râu ngô, rắn, mèo, đến việc in tiền giả, phá hoại ta về sản xuất, về kinh tế, vẫn cứ diễn đi, diễn lại với nhiều chiêu đểu khác nhau. Mua những mặt hàng kém chất lượng, làm bẩn như chế biến chè, tôm, gạo, kém phẩm chất, vu oan giá hoạ, bôi nhọ thương hiệu của ta. Rồi những sản phẩm độc hại, những mặt hàng kém chất lượng đến hoa quả, thịt ôi, lòng thối, tàn hại nhân dân ta về sức khoẻ và bệnh tật… Đó là chưa kể những sản phẩm độc hại về văn hoá tư tưởng, tuyên truyền xuyên tác sự thật và lẽ phải, chửi bới, đe doạ nhân dân ta trên những phương tiện thông tin, báo chí của họ.
         
Tội ác của họ đối với nhân dân ta lúc này hiểm độc gấp trăm nghìn lần so với tổ tiên họ ngày trước.

Chưa bao giờ chủ quyền đất nước bị kẻ thù tàn bạo xâm phạm đến mức nghiêm trọng, đáng báo động và lo ngại như hiện nay.

Tại sao họ có thể làm việc đó một cách dễ dàng như vậy?

Đó là bọn tham nhũng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là giặc nội xâm đã và đang tiếp sức cho họ. Không có bọn tham nhũng can tâm làm tay sai cho giặc, với phương châm “16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt”, cùng với những đồng tiền hối lộ, khống chế và làm cho loá mắt, mà không thấy rõ tim đen và bản chất ma giáo, xấu xa và đê tiện của họ.

Không có bọn tham nhũng ăn đút lót, thì làm sao họ có thể khai thác boxit ở Tây Nguyên, phá hoại cả về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi trường và văn hoá trên mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc và coi đó là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước.

Không là bọn tham nhũng bán nước thì ai dám cho thuê rừng đầu nguồn, mà thực chất là giao trứng cho ác. Chúng sẽ đưa người sang lập ấp, lấy vợ , lấy chồng, sinh con đẻ cái, khai thác kiệt quệ tài nguyên đất nước ta, rồi ở lỳ và chờ thời cơ thuận lợi để cướp.

Không có bọn tham nhũng vì lợi ích bản thân, vì lợi ích phe nhóm, thì làm sao họ có thể trúng thầu hầu hết các công trình trọng điểm quốc gia, vừa kéo dài thời gian, vừa tốn kém mà chất lượng đều rất đáng lo ngại, buộc ta phải hoàn toàn phụ thuộc vào họ.

Không có bọn tham nhũng thì làm sao họ có thể xây dựng nhà máy chế biến tinh bột cho doanh nhân Trung Quốc ở ngay trên đất Móng Cái, mà thành phố và tỉnh Quảng Ninh không biết hoặc cố tình lờ đi.

Không có bọn tham nhũng bán nước tiếp tay thì làm sao đội quân ngầm của họ có thể rải ra trong các tỉnh, từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, thậm chí ở cả những nơi bí mật quân sự không cho phép họ vẫn mò tới.

Không có bọn tham nhũng xấu xa thì làm sao hàng hoá kém chất lượng và độc hại của họ có thể tràn lan trên khắp mọi miền đất nước, làm cho nền knh tế của ta ngày càng suy yếu. Công trình Sông Tranh 2 là một ví dụ cay đắng và gần đây nhất là người Trung Quốc cùng với doanh nhân ở Hà Nội sản xuất bim bim có phẩm màu độc, gây hại về sức khoẻ cho cả trẻ em và nếu không ngăn chặn kịp thời thì xe TUK TUK made in China lại tràn ngập thị trường giao thông Hà Nội, theo “sáng kiến vĩ đại” của ông Bùi Danh Liên – Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Hà Nội.

Không có bọn tham nhũng lưu manh thì làm sao đất nước ta cứ ngày càng kiệt quệ, nhân dân ta ngày càng nghèo khổ, càng buồn chán, càng phẫn uất, cảm thấy bất lực với những vụ thất thoát, tham ô hàng trăm tỷ, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng và nợ nần ngày càng chồng chất. Tài nguyên đất nước ngày càng cạn kiệt và các thế hệ mai sau sẽ còn điêu đứng vì những món nợ khổng lồ.

Chưa bao giờ giặc nội xâm và ngoại xâm lại câu kết với nhau chặt chẽ như lúc này. Dân ta lại một cổ hai tròng. Một đất nước đã từng đem ra đấu tố, đánh đập, bắn giết cả  các vị từ Chủ tịch nước, uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên soái, tướng lĩnh đến những người có công mà họ tôn vinh là đồng chí thân thiết. Bóc lột và đán áp tàn nhẫn ngay chính với nhân dân nước họ thì làm sao chúng có thể tốt với nhân dân và bè bạn các nước khác.

Thế mà buồn thay, lại có những kẻ cứ rúc đầu vào cái rọ: “16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt”, càng ngày càng bị thít chặt vào cái thòng lọng của chúng.

Tại sao người ta chỉ vì quyền lợi ích kỷ của mình, của một nhóm người mà sẵn sàng quên đi lợi ích của cả dân tộc và để rồi dẫn đến những hành động mù quáng, vu cáo, đàn áp những người biểu tình yêu nước, thương dân, những người đấu tranh cho tự do, dân chủ trong đó có nhiều vị có công lao lớn đối với cách mạng, với những nhân sỹ, trí thức, được nhân dân yêu mến và quý trọng.

Tình hình đất nước đang ngàn cân treo sợi tóc. Kẻ thù đã vào trong nhà, ngoài ngõ của mình rồi, chứ đâu phải chỉ lăm le ở ngoài phên dậu. Bọn bành trướng đại Hán Bắc Kinh, với tinh thần dân tộc cực đoan, từ một gã AQ thứ thiệt bị khinh miệt, rẻ rúng, mới vươn lên đã đòi làm bá chủ thế giới, làm cha bố thiên hạ, trở thành tên đế quốc xâm lược hung hãn nhất của thời đại cũng như trong lịch sử nhân loại.

Chúng đã nện ta những đòn chí tử và còn tiếp tục ra đòn cho đến khi ngã quỵ. Thế mà vẫn còn cứ u u mê mê, vẫn chưa có dấu hiệu thức tỉnh. Chúng vừa đánh, vừa đá, vừa xoa, không những không dám kêu la, mà vẫn còn tung hê, nịnh hót, ca ngợi. Vẫn cứ “bạn khuyên ta thế này, thế nọ”, đừng có dại mà đi với ai, mà chỉ có chơi với họ. Chỉ có họ mới là người tốt thực sự, mới là kẻ thật lòng, thật bụng, vì hai nước đều cùng chung lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cùng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Vẫn phải “gác lại tranh chấp, không để biển Đông ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của quan hệ Việt – Trung”.

Bạn bè và lý tưởng nào với quân ăn cướp? Việt Nam đòi hỏi chủ quyền của mình phải được tôn trọng, theo đúng luật pháp quốc tế, chứ có tranh chấp với ai ma phải “gác lại”? “Không để Biển Đông làm ảnh hưởng đến đại cục”. Đại cục nào với bọn đế quốc bành trướng, chỉ muốn cướp của người làm của mình, bằng cách dở thói côn đồ, hung hăng và đe doạ.

Đúng là luận điệu của kẻ xuyên tạc, kẻ đánh tráo khái niệm, để che dấu cho hành động xâm lược của mình, được lũ bán nước dơ bẩn, trắng trợn, bảo vệ cho chính kẻ thù của dân tộc, bằng những định hướng tối tăm và thứ lý luận quái gở.

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Hãy cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ nói anh là người thế nào”.

Hỡi các vị tham nhũng! Các người có biết việc làm của mình đã tiếp tay cho kẻ thù tàn bạo ở bên ngoài, đẩy đất nước vào con đường lầm than, khổ cực, chỉ làm cho bọn bành trướng đại Hán vui lòng và không có mong muốn gì hơn thế!

Các người đang tâm bán cả non sông gấm vóc mà tổ tiên để lại cho muôn đời con cháu, chỉ vì lợi ích của các người và phe nhóm.

Nhân dân ta đã trải qua nhiều năm chiến tranh, chịu đựng biết bao hi sinh mất mát. Hơn ai hết chúng ta muốn được sống trong hoà bình, hữu nghị và xây dựng đất nước, trong tình thân ái với các dân tộc trên toàn thế giới. Chúng ta quý trọng nhân dân Trung Quốc với tấm lòng bao dung, bè bạn nhưng chúng ta cũng quyết không chịu cúi đầu nô lệ, không chịu khuất phục, nếu kẻ thù cứ tiếp tục lấn tới.

Nếu kẻ thù hiểm độc thông qua các người để thực hiện mưu đồ cướp nước ta thì tội “cõng rắn cắn gà nhà” của các ngươi sẽ bị muôn đời nguyền rủa và hậu quả sẽ khôn lường. Không chỉ các ngươi mà con chấu các ngươi cũng sẽ phải chịu sự trừng phạt của lịch sử, chứ đâu phải chỉ “hổ thẹn với tiền nhân”.

Đất nước này đâu phải chỉ của một nhóm người tự xưng và tự nhận, mà là của chín mươi triệu nhân dân, trong đó có đồng bào ta ở nước ngoài.

Ai là người xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nếu không phải là nhân dân? Ai sẽ là kẻ bỏ chạy tháo thân khi đất nước lâm nguy, với bao nhiêu vàng bạc, châu báu mà họ đã cướp được của nhân dân, nếu không phải là bọn bán nước!

Ý nguyện của nhân dân là ý nguyện của trời đất. Nhân dân không chỉ quyết định vận mệnh của chính mình mà còn quyết định số phận của đất nước, trong đó có số phận của bọn cướp nước và bán nước.

Việt Nam không phải là một Tây Tạng, một Tân Cương, một Nội Mông của bọn bành trướng đại Hán xâm lược.

Hãy nhận ra sự thật trước khi quá muộn.

Ngày 21 tháng 9 năm 2012
                                                                                       
Hải An

1264. TRẬT TỰ CHÂU Á BỊ THÁCH THỨC

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

TTXVN ( Hồng Công 17/9)
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thời gian gần đây giới chuyên gia nói nhiều đến mối quan hệ cộng sinh cũng như những căng thẳng chiến lược trong quan hệ giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới hiện nay là Mỹ và Trung Quốc. Mối quan hệ này ngoài việc tác động đến bản thân hai cường quốc, còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến trật tự khu vực châu Á. Tờ Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng (Hồng Công) vừa đăng bài phân tích của Andrew Leung, một chuyên gia độc lập về Trung Quốc ở Hồng Công, trong đó đưa ra những nhận định cụ thể về vấn đề này như sau:

Trong nhiều thập kỷ, Biển Hoa Nam (Biển Đông) tương đối yên tĩnh, mặc dù đôi khi xảy ra xung đột lãnh hải. Vùng biển bày đến nay phụ thuộc vào một chiếc ô quân sự Mỹ chiếm ưu thế vượt trội mà ở đó các quốc gia khu vực phát triển theo một chuỗi sản xuất và cung ứng cho toàn cầu với Trung Quốc là trọng tâm. Sự ổn định này hiện nay đang bị phiền nhiễu bởi một vài mặt trận.
Đầu tiên, Trung Quốc coi Biển Đông như một khu vực có tầm quan trọng chiến lược ngày càng gia tăng đến mức nước này trở nên ngạo mạn hơn bao giờ hết. Trung Quốc từ lâu đã đưa ra các tuyên bố chủ quyền lãnh hải lịch sử đối với một số hòn đảo nhất định và các đảo san hô vòng và theo đó là một vùng biển rộng lớn ở Biển Đông, được phân ranh giới bởi “đường lưỡi bò” hay “đường 9 đoạn” đầy tranh cãi. Nằm trong các vùng nước đó là các tuyến hàng hải sống còn đối với sự tồn tại của nền kinh tế cũng như là những tiềm năng khổng lồ về trữ lượng năng lượng. Các đối thủ cùng tuyên bố chủ quyền với Trung Quốc trong vùng biển này đã trở nên quyết đoán hơn nhiều trong các tuyên bố của họ, dẫn đến một số căng thẳng trên biển trong thời gian gần đây.
Trong những năm qua, Trung Quốc đã xây dựng các mối quan hệ hài hòa với các nước xung quanh và cả các nước ngoài khu vực. Bắc Kinh đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2003. Với việc thực thi Khu Thương mại Tự do ASEAN – Trung Quốc, “con đường ASEAN”, dựa trên sự đồng thuận và bình đẳng, Trung Quốc đã giành được sức cuốn hút. Tuy nhiên, sự hài hòa cùng có lợi này giờ đây đang cho thấy những dấu hiệu của sự căng thẳng.
Thứ hai, có một sự cạnh tranh quân sự đang ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc. Trung Quốc đang bắt đầu xây dựng một lực lượng hải quân biển xa, với việc trang bị chiếc tàu sân bay đầu tiên của nước này. Các chiến lược gia của Mỹ cũng đã bắt đầu lo ngại bởi những tiến bộ của Trung Quốc trong lĩnh vực chế tạo những quả tên lửa cơ động được mệnh danh là “sát thủ diệt tàu sân bay”, cũng như chiến tranh mạng, kỹ thuật không gian và nhiều lĩnh vực khác.
Để chống lại Trung Quốc, quân đội Mỹ được cho là đang lên kế hoạch mở rộng trên qui mô lớn hệ thống rađa phòng thủ chống tên lửa ở Châu Á. Gần đây, Thời báo Hoàn Cầu của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đưa tin rằng Trung Quốc đang phát triển một loại tên lửa đạn đạo tầm xa có khả năng mang nhiều đầu đạn hạt nhân có thể vượt qua hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ.
Thứ ba, có một sự chia rẽ đang lớn dần trong mối quan hệ kinh tế cộng sinh giữa Mỹ và Trung Quốc. Mỹ giờ đây đang cảm thấy đau đớn vì mất nhiều việc làm vào tay Trung Quốc. Điều đó đã được báo động bởi mức tiêu dùng quá cao đến mức ngập trong nợ nần của Mỹ và được Trung Quốc hào phóng hỗ trợ về tài chính. Về phần mình, Trung Quốc thận trọng với việc dựa quá nhiều vào xuất khẩu cũng như vấn đề tích trưc tiết kiệm quá nhiều trong một “cái bẫy đôla Mỹ”. Hơn nữa, việc phổ biến “mối đe dọa Trung Quốc” đã dẫn đến sự không hài lòng và thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa hai nước. Do đó, những lập trường sai lầm này đòi hỏi một sự xem xét lại về một trật tự châu Á bền vững hơn. Trước tiên, cần phải hiểu là với những thách thức nội tại đang đe dọa khu vực, Trung Quốc cần một môi trường quốc tế ổn định và hòa bình để phát triển và tiến bộ. Theo lời khuyên của cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc sẽ không tìm cách đạt được vai trò lãnh đạo trước khi trở thành nước phát triển hoàn toàn. Hơn nữa, khi phúc lợi kinh tế và an ninh quốc gia của Trung Quốc tiếp tục phụ thuộc vào việc hội nhập với trật tự thế giới, Trung Quốc sẽ có những lợi ích trong việc hành xử như một cường quốc có trách nhiệm.
Trung Quốc do đó đã hoạt động, và có lợi , trong một trật tự khu vực ổn định chủ yếu do Mỹ thiết lập. Trong khi một nước Trung Quốc đang nổi lên có thể không còn chấp nhận sự thống trị của Mỹ một cách dè dặt nữa, việc đánh bật Mỹ khỏi khu vực châu Á sẽ không phải là một lợi thế tốt nhất của Trung Quốc, thậm chí là ngay cả khi Trung Quốc đủ khả năng làm được như vậy. Dưới quan điểm này, sự lớn mạnh của Trung Quốc sẽ không cần phải phụ thuộc vào Mỹ.
Ngoài ra, theo Ủy ban tình báo quốc gia Mỹ, trong một thế giới liên kết và phụ thuộc lẫn nhau, khả năng của Mỹ trong việc lãnh đạo thế giới đã bị kiềm chế hơn. Để ngăn chặn các thách thức toàn cầu và để duy trì trật tự thế giới, Mỹ cần hợp tác chặt chẽ với nhiều nước và vùng lãnh thổ, cũng như là các đồng minh và phi đồng minh, trong đó có các nước đang nổi lên. Thay vì kiểm tra “sự trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc, Mỹ nên tận dụng một cách chiến lược sự trỗi dậy này của Trung Quốc để đạt được một sự ổn định khu vực bền vững.
Hơn nữa, không một láng giềng nào của Trung Quốc, gồm cả Nhật Bản, muốn tham gia một khối quân sự chống Trung Quốc do tất cả các nước đó đề phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế.
Đối lập với nền tảng này, những ý tưởng về một trật tự châu Á ổn định hơn đang được một số chiến lược gia nổi tiếng đưa ra. Như đã nêu trong cuốn sách “Sự lựa chọn Trung Quốc” mang ý tưởng kích động của mình, Giáo sư Hugh White đã lưu truyền tư tưởng về một châu Á “phối hợp các quyền lực” để tránh một đối thủ chiến lược có khả năng nguy hiểm chết người. Mỹ là một đối tác và chia sẻ quyền lực khu vực với Trung Quốc trên cơ sở bình đẳng, sẵn sàng giúp đỡ hoặc cân bằng với các lợi ích khu vực cốt lõi của Trung Quốc, cùng với những lợi ích như vậy của Nhật Bản và Ấn Độ. Mặc dù cách tiếp cận của Giáo sư White có thể được xem xét, nhưng thách thức là làm thế nào có thể đạt được những điều đó khi không có sự thỏa hiệp trong các lợi ích của các đồng minh khu vực của Mỹ?
Zbigniew Brzezinski, một chuyên gia kỳ cựu về chính sách ngoại giao ở Mỹ, đề xuất một chiến lược lớn của Mỹ trên toàn cầu, bao gồm một “Phương Tây rộng lớn hơn” bằng cách lôi kéo Nga và Thổ Nhĩ Kỳ vào một Liên minh châu Âu (EU) mở rộng và một “Phương Đông phức hợp”, nơi Mỹ sẽ hành động như một “người cân bằng khu vực” giống như vai trò của Anh trong nền chính trị châu Âu trước thế kỷ 20.
Một điểm mấu chốt trong thành phần hợp thành chiến lược của Brzezinski về phương Đông là “Tam giác hợp tác Mỹ – Nhật – Trung” được nuôi dưỡng thông qua việc tái hòa giải giữa Trung Quốc và Nhật Bản, giống như đã từng diễn ra giữa Đức và Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Để điều tiết các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, Brzezinski gợi ý giải pháp ban đầu cho những vấn đề bế tắc chính trong quan hệ Mỹ – Trung, đặc biệt là vấn đề Đài Loan. Chuyên gia này hoài nghi việc Đài Loan có thể né tránh hoàn toàn một tiến trình gắn kết chính thức hơn với Trung Quốc Đại lục, có lẽ là dưới công thức “một nước vài chế độ” nhằm tránh bất kỳ hình thức triển khai nào của Quân Giải Phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) trên hòn đảo này. Sự tái trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc thế giới đánh dấu một bước ngoặt khác trong vòng quay của lịch sử. Một màn kịch chuyển giao quyền lực kiểu cổ điển đang diễn ra. Sự đổ vỡ của trật tự châu Á là một viễn cảnh rõ ràng. Một chiến lược hoàn toàn thiên về quân sự chứa đựng đầy rẫy những nguy cơ không thể kiểm soát có thể leo thang thành chiến tranh. Quản lý và điều tiết sự trỗi dậy của Trung Quốc mà không hi sinh các lợi ích của Mỹ thể hiện sự hiểu biết chiến lược sâu sắc và suy nghĩ táo bạo trong các bối cảnh mở rộng nhất.
Trong khi sự phát triển và những sự kiện hiện nay chưa chắc phù hợp với bất kỳ công thức nào, việc hiểu biết sâu sắc hơn và tranh luận về động lực hợp tác có lẽ có tác dụng hỗ trợ tốt hơn cho việc quản lý một trật tự châu Á bền vững hơn, với trụ cột là sự phát triển quan hệ Mỹ – Trung, một mối quan hệ song phương quan trọng nhất thế kỷ 21.
***
TTXVN (Rôma 18/9)
Trung Quốc đang trỗi dậy một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. Vậy tại sao các nước còn lại ở châu Á không hành động cùng nhau? Đây là câu hỏi đặt ra trong bài viết có tiêu đề “Thùng thuốc súng ở Thái Bình Dương” của tác giả Rowan Callick đăng trên trang điện tử “Foreign Policy”. Bài viết có nội dung sau:
Trong thập kỷ qua, các nước Đông Nam Á đã gây ngạc nhiên cho nhiều nhà quan sát do sự thiết tha của những nước này trong việc cùng nhau hợp tác. Xét cho cùng, đây là một khu vực nơi mà các mối thù hận lâu đời (và không quá lâu đời) đang trở nên sâu sắc. Nhưng các nhà quan sát không nên hy vọng nhiều: Những nước đối địch thời hiện đại cùng với các hành trang lịch sử vẫn đang cản trở tiến trình chuyển hóa các dàn xếp này trở thành sự hợp tác khu vực thực sự.
Về lý thuyết, sự tiến bộ dường như đang diễn ra một các nhanh chóng. Năm 2010, Trung Quốc, Ôxtrâylia và Niu Dilân đã thực hiện các thỏa thuận thương mại tự do với Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), cung cấp sự tiếp cận ưu đãi đối với các thị trường của nhau. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đang đàm phán một hiệp định thương mại tự do. Thậm chí hai kẻ thù lâu đời của Trung Quốc và Đài Loan đã tham gia một thỏa thuận kinh tế theo đó giảm bớt các rào cản thương mại, chẳng hạn như thuế quan và hạn ngạch cho cả hai phía “kim ngạch thương mại giữa Đài Loan và Trung Quốc đã đạt 128 tỷ USD trong năm 2011, tăng 13% so với năm trước đó, thời điểm mà thỏa thuận này bắt đầu có hiệu lực.
Nhưng những liên minh kinh tế chắp vá ở Đông Á đang bị đè nặng bởi lịch sử và bị cản trở bởi những thỏa thuận an ninh không hiệu quả. Ba vấn đề nóng lớn nhất của khu vực đã tồn tại trong nhiều thập kỷ, nếu không nói là nhiều thế kỷ, và giống như những ngọn núi lửa – chủ yếu đang nằm im song đôi khi là đã tắt. Bên cạnh các cuộc chiến tranh giữa Việt Nam với Pháp, Mỹ và Trung Quốc, cuộc chiến toàn diện gần đây nhất là Chiến tranh Triều Tiên, vốn đã chấm dứt cách đây gần 6 thập kỷ. Nhưng hậu quả của nó vẫn kéo dài cho đến ngày nay: Bắc Triều Tiên và Mỹ chưa bao giờ ký một hiệp ước hòa bình và về kỹ thuật vẫn đang trong tình trạng chiến tranh. Tương tự, sự xâm lược trước đây của Nhật Bản đối với Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và trên thực tế là cả khu vực Đông Nam Á là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự chuyển biến ở châu Á trong thế kỷ 20. Chiến tranh Thế giới thứ hai cũng vẫn đang gây nên những ảnh hưởng về chính trị ở châu Á lớn hơn nhiều so với ở Mỹ – như việc phá vỡ một hiệp ước quân sự Hàn Quốc – Nhật Bản hồi tháng bảy do tâm lý chống Nhật lâu nay cho thấy.
Nếu Nhật Bản bị đè nặng bởi hành trang lịch sử của mình, thì Trung Quốc cũng vậy. Sau khi quân du kích Trung Quốc đánh bật Nhật Bản vào năm 1945, Mao Trạch Đông và những người theo chủ nghĩa dân tộc ra đảo Đài Loan vào năm 1049, một hòn đảo mà hiện Trung Quốc vẫn đang tuyên bố chủ quyền (và họ đang triển khai hướng vào hòn đảo này khoảng 1.000 quả tên lửa). Hồi tháng Bảy, Trung Quốc đã tổ chức lễ thành lập Thành phố Tam Sa, một khu vực gồm 3.500 dân mà Trung Quốc cho là bao phủ khoảng 770.000 dặm vuông ở Biển Đông. Tuyên bố chủ quyền này đang chọc giận 5 nước khác (trong đó có lãnh thổ Đài Loan), vốn đang coi nhiều phần ở Biển Đông là lãnh thổ của mình. Tổng thống Philippin Bengigno Aquino dường như đã đưa ra phát ngôn đại diện cho tất cả người dân ở khu vực này hồi tháng Bảy: “Nếu một ai đó bước vào sân của bạn và nói với bạn rằng anh ta sở hữu nó, liệu bạn có chấp nhận điều đó?”
Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan cũng đang tranh chấp gay gắt chuỗi đảo không có người ở mà Trung Quốc và Đài Loan gọi là Điếu Ngư còn Nhật Bản gọi là Senkaku. Chuỗi đảo này có vị trí nằm gần Đài Loan, Trung Quốc và đảo Okinawa của Nhật Bản. Vấn đề này đang làm dấy lên tâm lý dân tọc chủ nghĩa trong số 3 bên đối địch này: Thị trưởng Tôkyô Shintaro Ishihara hồi tháng Sáu đã đưa ra một đề xuất rằng một chú gấu trúc con dự kiến ra đời ở Vườn thú Tôkyô nên được đặt tên là Sen-sen hoặc Kaku-kaku (Trong tiếng Nhật đều là để chỉ chuỗi đảo Senkaku).
Bạn có thể cho rằng các nước Đông Á, vốn đang ngày càng giàu có và ổn định, sẽ tìm kiếm các đồng minh khu vực nhằm giúp bảo vệ những lợi ích và chủ quyền của chính họ. Nhưng đây là một khu vực đang có sự thay đổi về hoạt động ngoại giao, và sự hoài nghi rõ ràng đang tiếp tục gây lúng túng cho những dàn xếp dựa trên lí trí. Điều khó tin là hiện chỉ có một liên minh khu vực vốn đòi hỏi phải có một sự phản ứng quân sự trước một cuộc tấn công – đó là liên minh giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, một thỏa thuận đang được “đóng dấu bằng máu”, như Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt mô tả nó trong năm 2009.
Dĩ nhiên, Mỹ có những cam kết tương tự đối với nhiều nước ở khu vực này. Oasinhtơn  có những dàn xếp quốc phòng chính thức với Nhật Bản, Hàn Quốc, Philíppin, Thái Lan và Ôxtrâylia, và các mối quan hệ đối tác về an ninh chặt chẽ (một cấp thấp hơn so với các liên minh) với Đài Loan, Xinhgapo và Inđônêxia. Nhưng những thỏa thuận này đã không được thử nghiệm kể từ Chiến tranh Triều Tiên, khi các binh sĩ Mỹ đẩy lùi một cuộc tấn công dữ dội của quân đội Trung Quốc dọc sông Áp Lục; nguy cơ xảy ra chiến tranh với Trung Quốc có thể khiến Mỹ phải cân nhắc kỹ lưỡng về việc tôn trọng những dàn xếp an ninh của mình.
Một hiệp ước quân sự được áp dụng khác ở khu vực này là Thỏa thuận phòng thủ của 5 nước giữa Ôxtrâylia, Anh, Niu Dilân, Malaixia và Xinhgapo ký năm 1971. Năm nước này nhất trí sẽ vẫn tham vấn lẫn nhau trong trường hợp xảy ra xâm lược từ bên ngoài đối với bán đảo Mã Lai, mà giờ đây chỉ còn là chú thích lịch sử. Không thể nói rằng các nước châu Á hiện không tập trung vào vấn đề phòng thủ: các ngân sách quân sự đang được gia răng một cách nhanh chóng. Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc sẽ tăng gần gấp đôi trong 3 năm tới, còn các nước Đông Nam Á đã gia tăng chi tiêu quốc phòng với mức trung bình là 13,5% trong năm 2011, đồng thời tổng chi tiêu quân sự của châu Á sẽ có thể vượt của châu Âu lần đầu tiên trong năm nay. Chỉ có điều là các nước châu Á hiện nay càng không xích lại gần nhau.
ASEAN, tổ chức chính trị khu vực hàng đầu ở Đông Á, giờ đây đang bị kiềm chế do sự trỗi dậy của Trung Quốc. Được thành lập vào năm 1967 với mục đích tạo sự đoàn kết để đối phó với cái dường như được coi là trào lưu cộng sản lúc đó, ASEAN rõ ràng không phải một hiệp ước phòng thủ: Các thành viên ASEAN chỉ thỏa thuận không tấn công lẫn nhau (mặc dù vậy họ đã phá vỡ cam kết này, nhất là gần đây trong giai đoạn 2008-2011, khi binh sĩ Campuchia và Thái Lan xung đột với nhau liên quan đến quyền sở hữu  ngôi đền năm giữa biên giới hai nước). ASEAN giờ đây đã bao gồm cả Việt Nam và Lào, hai nước chính thức là cộng sản. Trong cuộc họp hàng năm mới đây nhấy hồi tháng Bảy, lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN đã không đưa ra được một thông cáo chung cơ bản, có thể là do sự can thiệp của Trung Quốc và tham vọng của Bắc Kinh trong việc đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông.
Việc Trung Quốc trở thành một trung tâm mới với tư cách là đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các nước ở khu vực có nghĩa rằng mặc dù các nước láng giềng đang lo ngại về sự phô trương sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng cũng như giọng điệu mang tính dân tộc chủ nghĩa của Trung Quốc, nhưng họ không muốn để các nền kinh tế của mình phải đối mặt với nguy cơ nếu đương đầu trực tiếp với Bắc Kinh. Nhưng Trung Quốc cũng cảm thấy dễ bị tổn thương. Zhu Feng, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược tại Đại học Bắc Kinh, năm 2009 đã mô tả Trung Quốc là “một cường quốc đang trỗi dậy cô đơn” – một mô tả thích hợp với một nước mà với 14 nước láng giềng thì chỉ liên minh duy nhất với Bắc Triều Tiên, quốc gia dường như đang ngày càng bị xa lánh.
Điều đó không có nghĩa là hiện không có những điểm sáng. Inđônêxia, nền dân chủ lớn ở trong khối, đã và đang dần dần thể hiện tâm lý ác cảm đối với Trung Quốc – trong nhiều thập kỷ cho đến tận năm 2000, nước này thậm chí đã cấm nhập khẩu các xuất bản phẩm được viết bằng tiếng Trung Quốc. Mianma thì đang tự do hóa. Bất chấp những tuyên bố đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với Đài Loan, cả hai bờ Eo biển Đài Loan đã cải thiện quan hệ kể từ khi Tổng thống Mã Anh Cửu đắc cử năm 2008. Nhưng tình trạng thiếu tin cậy lẫn nhau có nghĩa rằng một cuộc xung đột khu vực có thể quét sạch những thành quả kinh tế.
***
TTXVN (Bắc Kinh 17/9)
Chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 4-5/9 của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đang tiếp tục khiến dư luận quan tâm về nhiều vấn đề liên quan đến nhiều phương diện. Tạp chí “Tuần tin tức Trung Quốc” số ra ngày 10/9/2012 cho rằng điều đình về các vấn đề tranh chấp lãnh thổ Trung Quốc – Nhật Bản ngày càng nóng lên là chủ đề quan trọng trong chuyến thăm, đồng thời bà ngoại trưởng Mỹ cũng có thể giải thích về chiến lược “trở lại châu Á” của Mỹ. Xét về tính chất lâu dài qua việc Mỹ muốn nâng cao quyền phát ngôn và xu hướng lợi ích mà Mỹ đang cần củng cố, Trung Quốc cần phải có cách nhìn lâu dài đối với chiến lược như vậy của Mỹ và phải đối phó, ứng xử một cách bình tĩnh và tích cực chứ không hẳn mọi sự đều là bao vây Trung Quốc.
Là chặng dừng chân thứ ba trong chuyến thăm 6 nước châu Á – Thái Bình Dương, chuyến thăm Trung Quốc lần này của Ngoại trưởng H. Clinton tỏ ra đột ngột hơn mọi chuyến thăm thông thường trước đó, cho đến tận ngày 28/8 khi công bố thông tin đối ngoại, Bộ ngoại giao Mỹ vẫn chưa tiết lộ chút thông tin gì về lịch trình chuyến thăm này.
Bối cảnh chuyến thăm diễn ra đúng vào lúc châu Á – Thái Bình Dương đang bước vào một “mùa nhiều vấn đề”: Vấn đề đảo Điếu Ngu ngày càng căng thẳng, vấn đề Nam Hải (Biển Đông) giữa Trung Quốc và Philíppin cũng đang rắc rối. Ngày 30/8 khi trả lời câu hỏi của các phóng viên, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Patrick Ventrell cho biết tranh chấp lãnh thổ là chủ đề quan trọng trong chuyến thăm Trung Quốc của Ngoại trưởng H. Clintn, đồng thời cũng đề cập đến các vấn đề khác mà hai bên cùng quan tâm.
Chủ nhiệm Ban nghiên cứu vấn đề quốc tế, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Giáo sư Trương Uẩn Lĩnh cho rằng “các hoạt động dồn dập gần đây của Ngoại trưởng H. Clinton ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương chủ yếu xoay quanh việc cấu trúc lại chiến lược trở lại châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Chiến lược đó chủ yếu là đề phòng Trung Quốc ngạo mạn, bảo vệ lợi ích của Mỹ. Muốn thực hiện điểm này, cần phải bàn bạc với Trung Quốc”. Trong các công việc song phương, khu vực và quốc tế, nếu không có sự tham gia và bàn bạc của Trung Quốc, thậm chí sẽ có thể dẫn đến đối đầu, lợi ích của nước Mỹ cũng sẽ bị tổn hại.
1. Chuyến thăm “cuối cùng trên cương vị ngoại trưởng” và lợi ích của nước Mỹ
Về lịch trình chuyến thăm Trung Quốc lần này, theo quan sát của Phó giám đốc Học viện quan hệ quốc tế, Đại học Nhân dân Trung Quốc Kim Xán Vinh, có thể xem xét một số phương diện về mặt kỹ thuật:
Thứ nhất, bà Clinton sẽ rời khỏi vị trí Ngoại trưởng Mỹ sau kỳ bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm nay, đây có thể sẽ là chuyến thăm Trung Quốc cuối cùng của bà trên cương vị Ngoại trưởng, và đây là dịp để bà đến chào các nhà lãnh đạo chủ chốt của Trung Quốc. Xét về mặt lễ nghi thì đây là yếu tố rất cần thiết.
Thứ hai, cách đây hai tháng, trong “chuyến đi 13 ngày 9 nước” của bà Clinton, từ Nhật Bản phía Đông Trung Quốc đến Mông Cổ ở phía biên giới Bắc Trung Quốc, tiếp đến là Việt Nam, Lào, Campuchia, bà Clinton đã đi một nửa vòng lớn quanh Trung Quốc. Tờ “The Financial Times” của Anh khi đó đưa tin bình luận, “chuyến thăm châu Á của bà Ngoại trưởng Mỹ để lại dấu ấn Trung Quốc sâu đậm, đã hoàn toàn nhắm vào Trung Quốc nhưng lại không có từ nào nhắc đến từ “Trung Quốc”.
Theo cách bình luận của Kim Xán Vinh, “xét về phương diện ngoại giao là có chút thất lễ, cần phải lấp lại cho đầy. Còn theo Phó trưởng ban nghiên cứu nước Mỹ thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc Nghê Phong, “nếu muốn có một dấu chấm câu cho hết chuyến đi châu Á mà không đến Trung Quốc thì đó là một dấu chấm không hoàn chỉnh”.
Theo quan sát của Trương Uẩn Lĩnh, còn một bối cảnh ngoại giao quan trọng khác thúc đẩy chuyến thăm Trung Quốc của Ngoại trưởng H. Clinton, đó là tình hình Đông Bắc Á căng thẳng sẽ gây tổn hại cho chiến lược tổng thể châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. “Trong khi quan hệ Trung – Nhật căng thẳng, Nhật Bản và Hàn Quốc đối đầu, nhiều bên đều muốn Nhật Bản không tiếp tục làm cho tình hình căng thẳng thêm nên muốn Mỹ đứng ra nói chuyện”. Trương Uẩn Lĩnh cho biết trong khi tình hình Nam Hải căng thẳng, ở mức độ nào đó Mỹ phấn khởi, vì như vậy sẽ có lợi cho Mỹ, đối với Trung Quốc là bất lợi. Nhưng tình hình Đông Bắc Á lại không như vậy. Cả Hàn Quốc và Nhật Bản đều là đồng minh của Mỹ, nếu tình hình khu vực này quá rối ren sẽ xảy ra nhiều mâu thuẫn, thậm chí còn khuấy lên Chủ nghĩa dân tộc, như vậy cũng không đảm bảo được cho lợi ích của bản thân nước Mỹ.
2. Chuyến thăm dàn xếp
Đây là chuyến thăm Trung Quốc thứ hai của bà H. Clinton trong năm nay, chuyến thăm được quan tâm trong thời điểm tranh chấp liên quan vấn đề Nam Hải và Điếu Ngư tăng lên.
Là nước đồng minh của Nhật Bản, Mỹ không những nhiều lần tuyên bố “Hiệp ước đảm bảo an ninh Nhật – Mỹ” sẽ áp dụng thích hợp cho đảo Điếu Ngư, mà gần đây Mỹ còn tổ chức diễn tập quân sự liên hợp “chống cướp đảo”, Chính phủ Mỹ còn thừa nhận dùng âm đọc trong từ ngữ Nhật Bản để gọi đảo Điếu Ngư là Senkaku. Trong khi va chạm giữa ba nước Trung Quốc – Mỹ – Nhật Bản xung quanh vấn đề đảo Điếu Ngư không ngừng diễn ra, các phương tiện truyền thông đồn đoán rộng rãi rằng đảo Điếu Ngư sẽ là chủ đề đầu tiên mà bà Clinton sẽ vấp phải trong chuyến thăm.
Báo “Liên hợp buổi sáng” của Xinhgapo đưa tin nhiệm vụ số một trong chuyến thăm Trung Quốc của Ngoại trưởng Clinton là đề phòng Trung Quốc và Nhật Bản sử dụng sức mạnh quân sự do tranh chấp đảo Điếu Ngư gây ra, tránh cho lợi ích ngoại giao và lợi ích chiến lược của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương bị ảnh hưởng nhiều.
Trong vấn đề đảo Điếu Ngư, ngoài va chạm giữa Trung Quốc và Nhật Bản, thái độ của Mỹ cũng khiến một số dư luận và các nhà quan sát phê phán. Theo tin của Tân Hoa Xã, Ted Carpenter – Nghiên cứu viên cao cấp về chính sách quốc phòng và ngoại giao thuộc Hội học thuật Cato (Cato Institute) ở Mỹ cho biết lập trường của Chính phủ Mỹ tự mâu thuẫn trong vấn đề này.
Capenter nói “bởi phương thức duy nhất mà Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ – Nhật áp dụng thích hợp cho đảo Điếu Ngư là Mỹ coi Điếu Ngư là lãnh thổ Nhật Bản, vì thế tôi không biết lập trường của Mỹ trong vấn đề này sẽ thống nhất trong cách nói như thế nào”. Carpenter cho rằng ý đồ thực sự của Mỹ trong vấn đề đảo Điếu Ngư là hi vọng thấy được lập trường của Nhật Bản thắng thế. Về mặt sách lược, khả năng kiểm soát đảo Điếu Ngư của Nhật Bản lớn hơn Trung Quốc, Mỹ hi vọng sẽ giữ nguyên trạng nhưng mặt khác, Mỹ không muốn vì thế mà quan hệ với Trung Quốc xảy ra khủng hoảng.
Ngày 3/9, tại buổi họp báo thường kỳ, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho biết trong vấn đề đảo Điếu Ngư, “Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ – Nhật” là di sản của của thời kỳ chiến tranh Lạnh, không nên vượt quá phạm trù song phương, không được gây tổn hại cho lợi ích của bên thứ ba, hi vọng Mỹ thực sự thể hiện thái độ trung lập trong vấn đề này.
Trương Uẩn Lĩnh nói “vấn đề đảo Điếu Ngư chủ yếu vẫn là vấn đề giữa Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng phía sau có nhân tố Mỹ. Trung Quốc sẽ tỏ rõ thái độ phản đối Mỹ phối hợp phòng vệ”, đồng thời cho rằng nếu theo cách nói của Mỹ thì cặp quan hệ Nhật – Mỹ là hết sức quan trọng đối với Mỹ, nhưng cụ thể Mỹ sẽ đảm nhận nghĩa vụ bảo vệ an ninh như thế nào, vấn đề này sẽ được quyết định bởi phán đoán của bản thân nước Mỹ. Trong vấn đề đảo Điếu Ngư, Mỹ sẽ không có bất cứ cam kết nào, nhưng sẽ nhấn mạnh lập trường không đứng về bên nào trong vấn đề chủ quyền, có nghĩa vụ đảm bảo an ninh đối với đảo Điếu Ngư, và hi vọng hai bên giải quyết hòa bình.
Trương Uẩn Lĩnh cho rằng việc Mỹ quan tâm nhất là không để tình hình khu vực mở rộng và không để Mỹ bị cuốn hút vào. “Nếu làm to chuyện quá, đồng minh của Mỹ nhiều như vậy sẽ đều mong muốn nhảy vào can thiệp”.
Nghê Phong nói “trong vấn đề Nam Hải và đảo Điếu Ngư, các bên đều biết rõ điểm giới hạn của nhau”, đồng thời chỉ rõ việc phát triển đến mức độ nào đó sẽ phải kìm xuống, tất cả đều không muốn cho vấn đề bùng nổ.
3. Tái cấu trúc chiến lược
Đối với rất nhiều báo chí và dư luận, chuyến thăm châu Á – Thái Bình Dương của Clinton lần này vẫn để lộ rõ ý đồ nhằm vào Trung Quốc.
Theo tờ “The Financial Times” của Anh, chuyến thăm của bà H. Clinton cho thấy Nam Thái Bình Dương đang trở thành một bộ phận để Mỹ và Trung Quốc đọ sức toàn diện nhằm tranh giành ảnh hưởng địa chính trị ở khu vực châu Á.
Tạp chí “Nhà ngoại giao” của Nhật Bản cho hay bà H. Clinton quyết định tham gia Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương, cho thấy địa vị chiến lược của Nam Thái Bình Dương ngày càng quan trọng, việc bà Clinton tham gia diễn đàn có thể cũng là sự đáp trả của Mỹ trước ảnh hưởng đang ngày càng mở rộng của Trung Quốc ở khu vực này.
Theo tờ “Los Angeles Times” của Mỹ, mục tiêu chiến lược trở lại châu Á của Mỹ là Trung Quốc. Mỹ cho rằng Ôxtrâylia – đồng minh lớn nhất của mình ở khu vực này đã không đủ lực để kiềm chế Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong khi tham gia Diễn đàn các quốc đảo Nam Thái Bình Dương ngày 31/8, bà H. Clinton phát biểu rằng “châu Á – Thái Bình Dương đủ rộng để chứa cả nước Mỹ và Trung Quốc”, đồng thời nhấn mạnh Mỹ hoạt động nhiều ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương không phải nhằm vào quốc gia đặc biệt nào.
Theo Trương Uẩn Lĩnh, thái độ lần này của bà Clinton là một cách đáp lại Trung Quốc. Tháng 2 năm nay, trước khi khởi hành đi thăm Mỹ, khi trả lời phỏng vấn của “Washington Post” bằng văn bản, Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói rõ “Thái Bình Dương đủ rộng để dung nạp hai nước Trung – Mỹ. Vì vậy, đó cũng là một cách đáp lại Trung Quốc, chứng tỏ bà Clinton tán đồng với quan điểm của Trung Quốc. Ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Trung Quốc và Mỹ không phải cứ mỗi nước phải ở một chỗ, mà là một kiểu quan hệ cùng chung sống”
“The Financial Times” đưa tin, những năm gần đây tiềm lực của Trung Quốc tăng mạnh ở khu vực Nam Thái Bình Dương. Theo con số của Viện nghiên cứu chính sách quốc tế Lowy ở Ôxtrâylia, viện trợ và các khoản cho vay mềm của Trung Quốc đối với khu vực Nam Thái Bình Dương đã tăng từ 23 triệu USD năm 2005 lên 200 triệu USD hiện nay. Tuilaepa, Thủ tướng Samoa gần đây cho biết so với Mỹ, Trung Quốc là người bạn tốt hơn của các nước Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc viện trợ linh hoạt, còn Mỹ thì “chỉ hào hứng với những nơi nào có chiến tranh”.
Trương Uẩn Lĩnh cho rằng trước đây Mỹ không hề coi trọng Diễn đàn các quốc đảo Nam Thái Bình Dương, nhưng Trung Quốc gần đây lại luôn là đối tác quan trọng của Diễn đàn này. Ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực này đang từng bước mở rộng. Nhân tố Trung Quốc ở các khu vực Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương đã nổi lên rõ, chiến lược trở lại châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ chắc chắn sẽ phải cân bằng với Trung Quốc, kiềm chế vai trò chủ đạo của Trung Quốc.
Tuy nhiên, Trương Uẩn Lĩnh không đồng tình với những dư luận theo cách hiểu cho rằng đó là sự “bao vây Trung Quốc”, mà “từ khi có cuộc chiến chống khủng bố đến nay Mỹ quả thực đầu tư vào những khu vực này rất ít, mọi nguồn lực chủ yếu chỉ tập trung cho những khu vực khác. Một số lợi ích truyền thống của Mỹ đang suy yếu đi, ví dụ như Đông Nam Á, Nam Thái Bình Dương, không còn chỗ nào đế Mỹ quan tâm đến, việc trở lại như hiện nay là trở lại tăng cường và khôi phục sự có mặt của nước Mỹ ở khu vực này”.
Kim Xán Vinh nhìn nhận một nhiệm vụ quan trọng khác trong chuyến thăm châu Á – Thái Bình Dương của bà H. Clinton lần này là giải thích lại và cấu trúc lại chiến lược “trở lại châu Á” của Mỹ, vì xét từ thời điểm hiện nay, “trở lại châu Á” đã dẫn đến một số vấn đề phiền phức. Trước hết là dẫn đến sự căng thẳng của Trung Quốc, tính đến nay Trung Quốc đã tương đối kiềm chế, không có động tác nào lớn nhưng dư luận Trung Quốc rất bất bình, Mỹ cần chú ý đến điểm này và phải có một số điều chỉnh. Kim Xán Vinh nêu rõ, điều quan trọng hơn nữa là ở trong nước Mỹ đã tỏ ra nghi ngờ về chính sách này của Mỹ.
Mới đây, tờ “The Wall Street Journal”, đại diện cho giới thương gia, đã bắt đầu phê phán chính sách “trở lại châu Á” thật là trống rỗng. không có kết quả thực chất mà đem lại một núi phiền phức.
Trương Uẩn Lĩnh cho biết đứng trước chiến lược “trở lại châu Á” của Mỹ, Trung Quốc cần điều chỉnh lại thái độ. “Một mặt phải thấy được sự thách thức đối với chúng ta,muốn nâng cao lợi ích của nước Mỹ thì phải làm yếu đi sự hiện diện của Trung Quốc. Mặt khác, cũng phải bình tĩnh xử lý, đó là một kiểu quan hệ đa tầng chứ không phải là một tai nạn, các nước khác ở châu Á muốn phát triển quan hệ cũng không thể hoàn toàn coi thường Trung Quốc”.
Theo quan điểm của Trương Uẩn Lĩnh, việc Mỹ “trở lại châu Á”, nâng cao sự hiện diện và củng cố lợi ích của họ ở khu vực này, có thể là xu hướng phát triển trong thời gian rất dài tới đây, Trung Quốc cần đối phó tích cực, “nhưng nếu hiểu quá cặn kẽ, quá cảnh giác thì có khả năng sẽ đi đến một hướng đối đầu”.
***
Ngày 10/9, trang “Tin tức Trung Quốc” đăng bài viết “Khó khăn của Nhật Bản khi quay lại châu Á” của tác giả Bào Thịnh Cương, có nội dung như sau:
Cốt lõi trong chiến lược quay trở lại châu Á của Nhật Bản là liên minh Nhật – Mỹ, mục tiêu một là kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy, hai là hồi sinh tham vọng của Nhật Bản tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Rõ ràng Mỹ quay trở lại châu Á được Nhật Bản cho là thời cơ đổi vận ngàn năm khó gặp, hoàn toàn đã quên những năm 1980 của thế kỷ trước, đây là thời kỳ Mỹ thổi phồng thuyết về mối đe dọa từ Nhật Bản và tiến hành kiềm chế Nhật Bản, khiến cho Nhật Bản lâm vào tình trạng mất phương hướng trong hơn 20 năm. Nhật Bản quay trở lại châu Á, tham vọng tràn trề, xuất quân mọi hướng thì tại sao Nhật Bản đột nhiên lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn, đối mặt với bốn bề trở ngại?
Thứ nhất, Nhật Bản đã sai lầm khi lý giải và tính toán ý đồ và thực lực khi quay trở lại châu Á của Mỹ, kiềm chế của Trung Quốc trỗi dậy là mục tiêu chiến lược chung của Mỹ và Nhật Bản, trong khi thực lực của Nhật Bản không thể bằng Mỹ, đối với sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc, kẻ thù lớn nhất rõ ràng là Mỹ và Nhật Bản. Dư luận Nhật Bản phổ biến cho rằng Mỹ quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương là nhằm cân bằng với sự trỗi dậy ngày càng nhanh của Trung Quốc. Do lo ngại thực lực quân sự của Trung Quốc tăng nhanh, nên việc Mỹ muốn mở rộng sự hiện diện tại châu Á hiển nhiên là một cơ hội thuận lợi đối với Nhật Bản. Từ Chính phủ đến các phương tiện truyền thông Nhật Bản đều vui mừng, cho rằng Mỹ muốn liên kết với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Ôxtrâylia hình thành vành đai bao vây đối với Trung Quốc. Với phán đoán như vậy, Nhật Bản đã phối hợp với chiến lược quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, sẵn sàng thỏa hiệp trên nhiều vấn đề. Mỹ quay trở lại châu Á trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và kinh tế suy thoái, lại thiếu nguồn tài nguyên cần thiết mà to lớn để thực hiện chiến lược “chuyển hướng này”, điều này đã quyết định tính hạn chế và tính không bền vững của nguồn tài nguyên chiến lược quay trở lại châu Á của Mỹ. Mỹ hi vọng thông qua Nhật Bản và các nước đồng minh châu Á khác gánh vác một phần áp lực, bản thân đứng đằng sau thực hiện chính sách trung lập và cân bằng hai bờ (Đông – Tây Thái Bình Dương), đổ thêm dầu vào lửa. Trong khi Nhật Bản có tính toán của riêng mình, muốn lợi dụng việc Mỹ quay trở lại châu Á, cậy thế bắt nạt người, không chỉ muốn kiềm chế Trung Quốc, mà còn hi vọng qua đó làm hồi sinh tham vọng của mình tại châu Á, rõ ràng, tính toán của Mỹ là vì lợi ích bản thân, lợi dụng Nhật Bản và đồng minh kiềm chế Trung Quốc, tránh được việc mình phải trực tiếp can dự và bỏ phí đầu tư, vì Mỹ đã không còn đủ sức để đảm đương một cuộc chiến tranh khác, trong khi suy nghĩ và hành động của Nhật Bản rõ ràng là hơi quá mức, nếu không có sự can dự và ủng hộ của toàn lực Mỹ, Nhật Bản tự mình có thể làm được gì?
Thứ hai, Nhật Bản đã sai lầm khi đánh giá sức mạnh của mình, cho rằng theo đuôi Mỹ sẽ có thể hoành hành ngang ngược, không chỉ tăng bốc phát triển sức mạnh quân bị, mà còn xuất quân bốn phía, không đã đắc tội với Trung Quốc, mà còn đắc tội với Nga và Hàn Quốc, khiến các nước xung quanh có tâm lý cảnh giác và có hành động đáp trả đối với Nhật Bản, cho nên Nhật Bản lâm vào hoàn cảnh khốn cùng bốn phía, hoàn toàn là do tự chuốc vạ vào thân, gieo gió gặp bão. Tháng 4/2012, Thủ tướng Nhật Bản Noda tiến hành hội đàm với Tổng thống Mỹ Obama tại Oashinhtơn, đồng thời ra tuyên bố chung “Kế hoạch chung hướng tới tương lai”. Tuyên bố này kêu gọi từng bước tăng cường bảo đảm an ninh và hợp tác kinh tế, làm sâu sắc liên minh Mỹ – Nhật nhằm duy trì ổn định và thịnh vượng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đứng trên trận tuyến “quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương” của Mỹ, hai bên tỏ rõ Mỹ và Nhật Bản sẽ bắt tay giữ vai trò chủ đạo trật tự mới của khu vực này. Đối với Trung Quốc, Nhật Bản theo đuôi Mỹ thổi phồng thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc, thực chất là tìm cớ để bành trướng. Phối hợp với Mỹ xây dựng vòng đai bao vây chuỗi đảo đối với Trung Quốc lấy liên minh Mỹ – Nhật làm hạt nhân. Can dự vào Nam Hải (Biển Đông), gây mâu thuẫn và chia rẽ giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực nhằm kiềm chế Trung Quốc, gia tăng các hành động đối với đảo Điếu Ngư.
Bên cạnh đó, thái độ của Nhật Bản, Nga và Hàn Quốc trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ biển đảo cũng có xu hướng cứng rắn, Nhật Bản cho rằng Mỹ quay trở lại châu Á tạo cơ hội tốt cho Nhật Bản, nếu thời điểm này không giải quyết và thu hồi đảo tranh chấp, sau này sẽ không còn cơ hội, sự thật chứng minh điều này là một sai lầm.
Cuối cùng, Nhật Bản sai lầm khi đánh giá lập trường và sự lựa chọn của các quốc gia châu Á đối với Trung Quốc, cho dù Mỹ và Nhật Bản ra sức kích động, gây chia rẽ quan hệ giữa Trung Quốc với các quốc gia châu Á, mưu cầu bảo đảm châu Á tiếp tục thịnh vượng và phát triển chung, mong muốn cô lập Trung Quốc, kết quả lại khiến Mỹ và Nhật Bản tự rơi vào hoàn cảnh bị cô lập. Mỹ và Nhật Bản quay trở lại châu Á, mục đích quá rõ ràng là nhằm kiềm chế Trung Quốc, nhưng dựa vào đồng minh, dựa vào diễn tập quân sự, dựa vào chút ít hành động là có thể kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy sao? Sự thật chứng minh Mỹ – Nhật nằm ở quân sự và chiến lược kiềm chế, chiến lược này kéo dài từ thời kỳ Chiến tranh Lạnh, tư tưởng cốt lõi là chủ nghĩa tiến công hiện thực, nhưng Trung Quốc đã áp dụng chiến lược mang tính phi đối xứng, nhằm đợi đối thủ mệt mỏi mới tấn công, tránh được mũi đao đâm trực diện. Ngoài ra, hiện nay Trung Quốc không chỉ là động cơ phát triển kinh tế thế giới, mà còn là nước thúc đẩy sự phát triển chung và thịnh vượng của các quốc gia châu Á, sự phát triển kinh tế giữa các quốc gia châu Á với Trung Quốc có mối liên quan chặt chẽ, nhu cầu của các quốc gia châu Á là một khu vực hòa bình, ổn định, kinh tế phát triển và thịnh vượng chứ không phải là xung đột và bất ổn, bị trói buộc trên chiến xa của Mỹ, trở thành kẻ đầy tớ và vật hi sinh cho lợi ích của Mỹ.
Mỹ quay trở lại châu Á thực sự là một thời cơ tốt để Nhật Bản đổi vận, nhưng sai lầm của Nhật Bản là: một là đánh giá quá cao ý đồ chiến lược và thực lực quay trở lại châu Á của Mỹ, sự thật, Mỹ đã không còn là nước Mỹ trước đây; hai là Nhật Bản đánh giá quá cao thực lực của mình, bộc lộ quá sớm ý đồ chiến lược và dã tâm khu vực, từ đó dẫn đến tâm lý cảnh giác của các nước xung quanh; ba là Nhậ Bản quá vội vàng lạc quan cho rằng chỉ cần theo đuôi Mỹ, thổi phồng thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc, là có thể hình thành liên minh chống Trung Quốc lấy Mỹ – Nhật làm hạt nhân, khiến cho Trung Quốc bị rơi vào thế cô lập và bị gạt ra rìa, từ đó kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Sai lầm về chiến thuật có thể sửa chữa, phán đoán sai lầm về chiến lược sẽ dần trở thành tai họa không thể cứu vãn, việc đánh giá sai lầm đối với chiến lược quay trở lại châu Á của Mỹ làm cho Nhật Bản đi hết sai lầm này đến sai lầm khác, dẫn đến bốn bề đều gây thù địch, cuối cùng rơi vào tình thế khó khăn, mưu đồ kiềm chế và cô lập Trung Quốc nhưng ngược lại chính Nhật Bản lại bị cô lập và bị gạt ra rìa./.

1200. Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990

Posted by ttxcc6 on 22/09/2012
 
 
 
 
 
 
Rate This

Posted by basamnews on 11/08/2012
Viet Studies

Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990

Nguyễn Trung *
Võng Thị, Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2012
Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta. 

Tóm tắt lịch sử đã xảy ra: Không thể nào chấp nhận được thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, ngay sau 30-04-1975 Trung Quốc đã tạo ra cái “bẫy Campuchia”, khuyến khích Khmer đỏ khiêu khích vũ trang đánh Việt Nam và đến tháng 4-1977 Khmer đỏ đã tiến hành chiến tranh lớn tấn công diện rộng toàn vùng biên giới Tây Nam nước ta giáp Campuchia; đồng thời ngày 17-02-1979 Trung Quốc huy động 60 vạn quân phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn ồ ạt tiến công toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, với cái đích kiêu ngạo “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Với chiến lược căng Việt Nam ra cả hai đầu mà đánh, hai cuộc chiến tranh dã man này nhằm mục đích khuất phục nước ta, trên thực tế đến 1989 mới thực sự im tiếng súng ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia. Song cả hai cuộc chiến tranh này đã thất bại, vì Trung Quốc không thực hiện được mục tiêu chiến lược của nó là khuất phục Việt Nam, hơn thế nữa Việt Nam đã đánh tan Khmer đỏ và cứu được nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc luôn là đòi hỏi chiến lược của Việt Nam, song tình hình nêu trên cho thấy dù bị sức ép quyết liệt từ phía Trung Quốc và bị bao vây cấm vận vì vấn đề Campuchia, Việt Nam không ở trong thế yếu. Song vào thời điểm cuối những năm 1980 và đầu năm 1990 các nước Liên Xô Đông Âu sụp đổ. Diễn biến này được lãnh đạo nước ta lúc ấy coi là hệ quả phản công của chủ nghĩa đế quốc, và lo rằng nạn nhân kế tiếp có thể là Việt Nam. Với tư duy như vậy, sau nhiều nỗ lực khác không thành vì bị Trung Quốc luôn gây sức ép, lãnh đạo nước ta đã chấp nhận hai đòi hỏi quan trọng nhất của Trung Quốc là rút quân khỏi Campuchia và loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch để mở đầu cho quá trình bình thường hóa quan hệ. Ngày 3 và 4 tháng 9-1990 cuộc họp cấp cao Thành đô được tiến hành, Việt Nam tham gia với mong muốn bình thường hóa quan hệ và liên minh với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bất chấp việc Trung Quốc tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, bất chấp công cuộc đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986 mang lại thành quả bất ngờ và nhanh chóng cải thiện tình hình kinh tế nước ta trong những năm ấy.
Sai lầm nghiêm trọng thứ nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không nhìn ra sự sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới cho phép nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi cùng với cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước mình, không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội này đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính trị.
Sai lầm nghiêm trọng thứ hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình thường hóa quan hệ quốc gia – quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có ảo tưởng liên minh ý thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những mâu thuẫn hay xung đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc gia và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta đã chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần như với bất cứ giá nào.
Bình thường hóa quan hệ Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam được hưởng một thời kỳ hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là thời kỳ hòa hoãn trên thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức hệ. Thực tế diễn ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt Nam đã làm tất cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với cái đích trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung Quốc. Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi mặt.
Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.
Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên ngoài.
Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân.
Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc.
Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung  càng phát triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước đang lâm nguy.
Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen!
Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!
Để mỗi chúng ta có những căn cứ các đáng về mối lo nguy cơ mới, trong phần phụ lục kèm theo bài này, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trích dẫn trong tài liệu nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội nghị Thành Đô 9-1990.
 
——————————————————————————–

Phụ lục

 Một số ý trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu

Hội nghị Thành Đô, tháng 9 năm 1990

Dương Danh Dy, Hà Nội, tháng 10 -2011
 
“…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên tắc” về CPC như đã trình bày trên, phía Việt Nam đã không hề(hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979  do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.. Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay  “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”…


Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thưòng chiến tranh(trong khi đã nêu vấn đế Mỹ  bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thưòng hoá quan hệ hai nuớc) nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc  về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi nghĩa của mình? Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dưòng như  giành được “vị thế chính nghĩa”  trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính qui  xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta  tại vùng 6 tỉnh  biên giới Việt Nam. Làm cho một bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: “Việt Nam  xua đuổi nguời Hoa”, “ViệtNam xâm lược Cămpuchia”… là  đúng, việc thế giới “ lên án, bao vây cấm vận Việt Nam” là cần thiết, việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học” là phải đạo v.v.… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.


…Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc( ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên).


…Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát..”. Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc(tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây  dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được…

 
…Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến đại hội VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo  có  tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào,  có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…


…Có thể có ngưòi không đồng ý nhận định này, nhưng người viết bài này luôn cho rằng rằng Nguyễn Cơ Thạch là số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am hiểu  sâu sắc  tình hình quốc tế, có quan hệ tương đối tốt với một số chính khách phương tây và đặc biệt là người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam, đang tích cực vạch trần và ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá quyền của họ khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh  thấy rằng nếu không cương quyết ép ban lãnh đạo Việt Nam loại bỏ  Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ “sớm thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc”, sẽ  nhanh chóng có “ vai trò quan trọng trong khu vực và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung Quốc thế hệ nào cũng đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm….


…Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam ( lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp  cho biết)
Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói rõ vấn đề


…Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “ cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.  “Hội nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu những người có trách nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội nghị này và nghiêm chỉnh đánh giá lại “kết quả”
…Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà ngưòi viết xin mạnh dạn khởi đầu  trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào? 
(1)Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước xhcn Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc.  Từ  đó  đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện “bức tường Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yelsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Cộng hoà liên bang Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên, Trong tình hình như thế mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới.  Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Hồi ký Trần Quang Cơ).
Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện Thiên An Môn”, Triệu T ử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ … Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự(có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ)Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.
(2) Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo  chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh”kiên cường, bất khuất, không sợ  địch”mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để  sẵn sàng nhận sai  về phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho ngưòi tiền nhiệm. Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển  đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân  thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa  xã hội” “vì đại cục”… của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.
Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi “láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí” luôn rêu rao “16 chữ vàng” đang không ngừng vận dụng những “thành quả cũ” vào trong quan hệ với Việt Nam  chúng ta hiện nay và trong tưong lai….

…”

Hết

 
Nguồn: Viet Studies

* Ông Nguyễn Trung nguyên là Đại sứ VN tại Thái Lan, thành viên Ban Nghiên cứu của Chính phủ (Phan Văn Khải), Viện Nghiên cứu phát triển IDS,

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét