http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=bUvTUuk0bG4
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=MG2ontdMLNA
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=miasM9xX53o
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=gpn9_F7ODPk
Chính trị – Xã hội
19 điều cấm đối với đảng viên (RFA) —Nhấn mạnh lại 19 điều cấm Đảng viên (BBC)Làm gì để lấy lại lòng tin nhân dân? (BBC) -Không ít người nói hội nghị chỉnh đốn Đảng sẽ không đủ để lấy lại lòng tin của người dân. —AI LÀ BẠN, AI LÀ THÙ CỦA ĐẢNG? (Huynhngocchenh) —Trans-Pacific Partnership & Generalized System of Preferences (DĐKT) -Đến thời điểm này, con số chữ ký ủng hộ cho thỉnh nguyện thư gửi lên TT Hoa Kỳ Barrack Obama nhằm giải cứu Việt Khang và các tù nhân tôn giáo, chính trị và lương tâm tại Việt Nam đã vượt quá con số 90000 và có khả năng vượt mốc 100000 trước ngày 5-3-2012……. —CHỈNH ĐỐN ĐẢNG LIÊN QUAN THẾ NÀO VỚI NHÀ MÁY GIẤY (Mai xuân Dũng blog)
ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT VÀ ĐIỀU CẤM TRONG ĐẢNG (Maithanhhai)….Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình…..Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá…. —Trần Bì – Chỉnh và Đốn (Danluan) —Việt Nam phải thay đổi! Thời gian không thể chờ đợi! (Ls.Trần Lâm- DLB) —Nghe Tổng “Trọng” tụng kinh (DLB) —Lưỡi đao và cái phao (Đào Tuấn)
Hoa Kỳ muốn có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam (VOA) —Tranh biếm họa của Kỳ Văn Cục - Vá Đảng từ đâu??? (Danluan) —-Ðại Sứ Mỹ David Shear sắp gặp cộng đồng Việt Nam »-Đàn Chim Việt
Sử dụng vũ khí trái luật tràn lan ở VN (RFA) —-Chiến tranh biên giới – 33 năm trước (Bùi Tín -VOA)
Gia đình ông Vươn dựng lại nhà bị phá (BBC) —Có lý nào vụ Tiên Lãng cũng sẽ chìm vào lãng quên? (Davang) —Hải Phòng đó hiên ngang chỉ biết ngẩng đầu (Trương văn Dũng- Nguyentuongthuy) —60 ngày & những phát ngôn ấn tượng (Truongduynhat)–“GIANG HỒ ÐẤT CẢNG” VÀ SỰ THỰC VỀ MỐI LIÊN KẾT NGẦM(Nhipcauthegioi-Hoàng sơn từ Hà nội) —Bí thư và chủ tịch xã Vinh Quang chỉ bị ‘cảnh cáo’ (Nguoiviet)
Tản mạn về…China Number One (Hiệu Minh) —Vài hình ảnh về cuộc Cải cách ruộng đất do Hồ Chí Minh phát động (1953-57)DCVOnline —Ngọn lửa Việt Khang -Duy Anh (DCVOnline)
Tại sao Việt Nam mở thêm casino? (Ngô nhân Dụng – Nguoiviet) —Báo trong nước tránh nhắc tên Việt Nam khi loan tin Sukhoi SU-30 cháy (NV)
Tại sao xe cháy? Ai trả lời? (NLĐ) Ông Trời!?- Xe cháy là tại Ông Trời?
Kinh tếVốn FDI giảm nhiều trong khi lạm phát tăng (RFA)
Xăng dầu muốn tăng 800 – 1000 đồng/lít (VEF))
văn hóa – Giáo dục
Cuộc chiến Việt-Trung trong “Xe lên xe xuống” – tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Bình Phương (RFI)
Thế giới
Tranh chấp khai thác dầu khí giữa Philippines và Trung Quốc (RFA) –Tình hình ở Tân Cương ngày càng bất ổn (RFA) —Đến Thiên An Môn, nghĩ về tính chính trị của địa điểm (Nguyễn hưng Quốc -VOA) —Người Tây Tạng biểu tình tại New Delhi, Ấn Độ (VOA) —Ấn Độ có thể giúp ổn định giá gạo trên thế giới (VOA)
Afghanistan: khủng bố gia tăng trà trộn vào các đơn vị quân sự (RFA) —Ông Kofi Annan đặc trách về Syria đến New York (RFA) –Lực lượng an ninh Syria mở cuộc tấn công trên bộ ở Homs (VOA) —Quốc tế thúc giục Damas hợp tác với Hội Hồng Thập Tự (RFI) –Ai Cập gỡ bỏ lệnh cấm di chuyển đối với nhân viên xã hội Mỹ (VOA)
Bắc Triều Tiên chấp nhận các điều kiện đổi lấy viện trợ lương thực (VOA) —Mỹ ‘gắn hạt nhân với cứu trợ Bắc Hàn’ (BBC) —Mỹ đã trợ giúp lương thực với điều kiện Bình Nhưỡng nhượng bộ hạt nhân (RFI)
Kinh tế Mỹ tăng trưởng nhanh hơn dự báo (VOA) —Nga: Ông Putin sẽ có những chọn lựa khó khăn nếu đắc cử (VOA) —Lãnh đạo phe Áo Vàng Thái Lan bị 20 năm tù (RFI) –Hy Lạp thông qua một kế hoạch khắc khổ mới dưới sức ép của các chủ nợ (RFI)
Váy hở chân của Angelina ‘gây sốt’ (BBC) Chiếc váy hở chân của Angelina Jolie gây sốt trên mạng và tạo ra cả hình ghép để đùa.
Ném mìn vào nhà công an xã (NLĐ)
Giang hồ vùng giáp ranh- Bài 3: Nghi án “bắt tay” chủ địa ốc (PL)
Người Na Uy giản dị. (Song Chi -RFA)
Trật tự thế giới sẽ thay đổi
Chu Chi Nam (Danlambao) - Mỗi thời đại của lịch sử nhân loại đều có một trật tự thế giới. Những trật tự thường được các sử gia đề cập như trật tự thế giới La Mã, ở bên Tây phương; ở bên Đông phương, là trật tự nhà Đường của Tàu, tới trật tự nhà Nguyên của người Mông Cổ. Sau đó là trật tự thế giới của Anh, rồi tới trật tự thế giới Hoa Kỳ, từ đầu thế kỷ 20.Vỗ đầu người – Quên đầu mình (Nguoiviet) -Một nhà dân chủ Miến Ðiện gần đây sung sướng tâm sự với các phóng viên rằng chưa bao giờ đất nước Miến Ðiện có một mùa Xuân dài và hiện diện ở mọi lãnh vực như năm nay: từ thái độ can đảm của những người đang đứng đầu chế độ cai trị hiện nay, đến sự quan tâm và phối hợp hành động quá hiệu quả của thế giới, đến những bước đi thật khôn ngoan và nhân bản của phe đối lập. Thật vậy, chính phủ Thein Sein đang càng lúc càng thay đổi hình ảnh của họ trong mắt dân chúng qua thái độ “thà mất ghế chứ không mất nước” đối với các áp lực của Bắc Kinh….
Mất 9 tỉnh Miền Bắc VN, mà nhân dân không biết”: Chiến lũy Trung Cộng trên lãnh thổ Việt Nam !!! (Lytuongnguoiviet)
Hành lang chiến lũy thứ 2, trong lãnh thổ Việt Nam
do quân đội chủ lực Trung Quốc đang trấn ngự.
Nguồn ảnh: NBL
Và 6 địa hình núi cao hướng ra biển Đông, như 146 độ cao 4.780m,
147 độ cao 4.500m, -3, 255, 211, 227.
Ngày nay đã vào tay Trung Quốc, đang kiểm soát cả vùng biển Vịnh Bắc Bộ
của Việt Nam. Vịnh Bắc Bộ trở thành người tàn phế,
liệt tứ chi, toàn thân bất toại. Nguồn ảnh: NBL
Top Secret Writer
Khi chúng ta ngủ thì Trung Quốc chuẩn bị chiến tranh
Tác giả: WC -Người dịch: Đan Thanh -13-02-2012Khi Trung Quốc cài số chuẩn bị chiến tranh thì Tổng thống Obama tập trung vào việc tạo điều kiện cho nhiều người Trung Quốc sang Mỹ du lịch hơn để ngăn chặn suy thoái – hai quan điểm này có gì sai?
Khi Trung Quốc củng cố khái niệm “trỗi dậy hòa bình” của họ, người ta lấy làm lạ.
Trung Quốc có quan hệ tranh chấp với tất cả 14 quốc gia có chung đường biên giới với họ cũng như những quốc gia không chung biên giới. Nếu có thể tin được đảng cộng sản, thì Trung Quốc là đất nước của hòa bình và hài hòa.
Tuy nhiên, nếu điều đó đúng thì tại sao lại có tất cả những vụ nâng cấp vũ khí? Và nếu vũ khí được sử dụng với mục đích ngăn ngừa, thì tại sao lại có những vụ huyên náo trên mạng do Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch Trung Quốc kiêm lãnh đạo Đảng Cộng sản gây ra?
Vấn đề mấu chốt là, khi Tổng thống Obama ve vãn du khách Trung Quốc, còn các trường đại học của chúng ta (Mỹ) ve vãn con cái của họ, thì những người cộng sản đang gài số cho một cuộc chiến tranh. Rất nhiều người, cộng với rất ít nguồn lực, tạo nên một hỗn hợp chất độc mà sẽ buộc Trung Quốc phải rơi vào một trạng thái đối đầu nào đó. Đó gần như là một kết luận đã được biết trước.
Trung Quốc ôn hòa ư?
Không may cho Trung Quốc là họ chia sẻ biên giới với 14 nước khác nhau, trong đó rất nhiều nước đều sợ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tranh chấp từ việc đòi chủ quyền trên Biển Đông (nguyên văn: South China Sea – biển Hoa Nam) cho tới những hòn đảo ở ngoài khơi Nhật Bản.
Bên cạnh các vấn đề đó, còn có nỗi tức giận về việc Trung Quốc xây đập ngăn nguồn nước chảy vào nhiều quốc gia. Vấn đề mà người ta nên hỏi là liệu Trung Quốc có đang tự đào hố chôn mình – một cái hố mà họ không thể thoát ra một cách có khôn ngoan
Trung Quốc luôn cảm thấy nhục nhã vì quá khứ cận đại của họ. Theo họ, các thế lực ngoại xâm đã đẩy quần chúng nhân dân vào nghiện ngập (thuốc phiện). Họ nói đến những hiệp ước bất bình đẳng, mà “thiên tử” – như cách người Trung Quốc gọi vua của họ – không thể ưng thuận.
Họ từng bị gọi là ông già ốm yếu của châu Á.
Nhưng bây giờ mọi sự đã thay đổi. Đầu tư và các quỹ nước ngoài đã mang lại xung lực cho quá trình tăng trưởng vô cùng mạnh mẽ và một sự tôn trọng mới.
Việc này tương tự như chuyện một thằng bé gầy nhẳng vốn luôn bị trêu chọc ở lớp thể dục bỗng lớn vọt lên sau một mùa hè. Có lẽ nó đã dùng một số steroid tốt cho tiêu hóa nào đó để được cải thiện về hình thể, chỉ để trông khá hơn.
Đứa bé, nuôi trong lòng nhiều năm thù hận, khoe vóc dáng mới ngay bằng việc cưỡi chiếc Nova 74 của nó lượn phố khắp nơi.
Đối với phần lớn người trong thị trấn, nó vẫn cứ là thằng bé gầy giơ xương kia – nhưng bây giờ nó nguy hiểm hơn. Nguy hiểm không phải vì cân nặng của nó, mà vì những điều mà nó nghĩ là nó cần phải làm để chứng tỏ mình.
Bởi vì, như tục ngữ Trung Quốc có nói, “Móng tay mà dựng lên thì phải giũa phẳng đi”, tất cả những gì mà những kẻ bắt nạt nó khi xưa tin tưởng, bây giờ sẽ phải bị xem xét lại.
“Họ sẽ thử nó hay họ sẽ rút lui?”
Đó là câu hỏi xưa như trái đất. Như tất cả những thằng bé hư ở trường đều biết, nếu nói thật rồi thì một ngày nào đó anh sẽ phải làm thật.
Hãy nhìn nước Mỹ vào cuối thập niên 60. Người Trung Hoa bây giờ đang dọn mình chuẩn bị cho chiến tranh, như một bài báo trong tờ “cơ quan ngôn luận” của đảng cộng sản, Global Times (tức là Hoàn Cầu Thời báo – ND) đang là ví dụ rất tốt:
“Trung Quốc, tập trung vào phát triển và hài hòa trong nước, đã cực kỳ nhân từ rồi… Chúng ta không nên bỏ phí cơ hội tiến hành một số cuộc chiến quy mô cực nhỏ có khả năng ngăn chặn, không để những kẻ khiêu khích đi xa hơn… có thể là một nơi lý tưởng để trừng phạt chúng… Tôi tin việc tập trận và xâm phạm lãnh thổ không ngừng (của chúng) đem đến những lý do không thể tốt hơn để Trung Quốc phản công… Lý trí và kiềm chế sẽ luôn hướng dẫn chúng ta trong vấn đề này. Chúng ta nên chuẩn bị kỹ lưỡng cho một trận chiến quy mô nhỏ, trong khi để bên kia phải lựa chọn hoặc chiến tranh hoặc hòa bình”.
Các vấn đề biên giới
Một vấn đề lớn là Trung Quốc đang làm cho một số đáng kể láng giềng của họ căm ghét họ. Các rắc rối mà họ có với Nhật Bản, Việt Nam và Philippines là một số trong những tranh chấp thể hiện rõ nhất, chưa kể với Đài Loan. Và rồi với Ấn Độ, một nước mà họ từng gây chiến cách đây 50 năm.
Nội dung tranh chấp rất khác nhau, nhưng trung tâm của các cuộc tranh chấp vẫn là vấn đề căn bản: “Chúng ta có tin được Trung Quốc không?”. Và dựa vào phản ứng của những nước tiếp giáp với Trung Quốc, có thể thấy câu trả lời là: “Không, chúng ta không tin”.
Vấn đề đã trở nên nghiêm trọng đến mức bây giờ không chỉ một nước đề nghị được Mỹ hỗ trợ về quân sự.
Vấn đề cốt lõi, bên cạnh những ngôn từ ngày càng diều hâu của Trung Quốc, là tốc độ gia tăng quân sự của họ. Trung Quốc sử dụng một mớ thực sự hổ lốn “công nghệ ăn cắp từ Mỹ”. Các vùng biển bao quanh Trung Quốc giờ đây lố nhố tàu ngầm trang bị những phát minh mới nhất “vay mượn” từ quốc gia khác.
Có lẽ như thế chưa đủ, ông già ốm yếu của phương Đông lại còn kiếm cho mình một chiếc “ba-toong” mới, tức là một tàu sân bay (hàng không mẫu hạm). Đó thật sự là một di vật của thời chiến tranh lạnh, được làm mới lại, được mua liều như đánh bạc, và được trang bị thêm nhiều bộ phận mới để trở thành công cụ chiến tranh.
Bầu trời cũng không an toàn, hoặc ít nhất là người ta đã nói như thế, khi mà Trung Quốc đã phát triển một máy bay tàng hình, nhái hàng Mỹ, và cả trực thăng nữa. Với tất cả những thứ đó, không có gì đáng ngạc nhiên lắm khi các nước láng giềng đều sợ sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Liệu có phải tất cả những cỗ máy mang tính hủy diệt đó là cần thiết để hỗ trợ cho sự trỗi dậy “hòa bình” của Trung Quốc, như Trung Quốc nói, hay không?
“Đầu tiên, Trung Quốc đi theo con đường phát triển hòa bình, không giống như một số nước phương Tây đã trở thành siêu cường thế giới thông qua bành trướng về quân sự. Chiến tranh không còn là gam chủ đạo của thời đại nữa. Ngược lại, Trung Quốc đã nhanh chóng tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia cũng như vị thế quốc tế của họ, bằng việc tuân thủ nguyên tắc phát triển hòa bình”.
Trung Hoa – một khi đã là nước hiếu chiến, thì sẽ luôn là nước hiếu chiến
Mặc dù nói rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang trải qua giai đoạn “trỗi dậy hòa bình” là cách nói phổ biến và đúng đắn về mặt sử dụng ngôn từ chính trị, nhưng lịch sử của nước này thì cho thấy một câu chuyện khác hẳn.
Suốt hơn 2500 năm, Trung Quốc trải qua hai thiên niên kỷ chiến tranh, và chỉ có hòa bình trong khoảng 500 năm – quả thật là xã hội hài hòa.
Và mọi chuyện dường như không khá lên. Bạo lực mà bản thân dân Trung Hoa nhằm vào nhau là nguyên nhân làm cho nhiều người chết hơn tổng số người chết trong hai cuộc thế chiến. Đóng một vai trò quan trọng trong việc này là bàn tay của cái chế độ mà giờ vẫn đang cai trị Trung Quốc.
Với tất cả những lời Trung Quốc nói về hòa bình và hòa hợp, người ta phải thắc mắc.
Một vấn đề khác đẩy Trung Quốc vào một kết cục kinh khủng là chuyện tài nguyên, hay xuất phát từ đó là chuyện thiếu tài nguyên.
Chiếm 20% dân số thế giới và không đầy 10% quỹ đất nông nghiệp của trái đất, hầu hết đã bị biến thành đầm lầy độc hại, Trung Quốc đang cần nhiều tài nguyên hơn nữa. Họ không thể sản xuất đủ ngũ cốc, dầu, để đáp ứng nhu cầu của mình.
Và cũng giống như mọi nhà độc tài khác, những người cộng sản Trung Quốc rất sợ các cuộc nổi dậy. Đám đông đang la ó đòi tiếp cận với những thứ mà Trung Quốc không sở hữu một mình.
Khi thời đẹp đẽ đã suy và những cái bụng đói bắt đầu rên rỉ đòi ăn, người Trung Quốc buộc lòng phải hướng ra bên ngoài. Sự hiện diện của họ ở châu Phi, việc họ giao thương với những tên bạo chúa của thế giới, là một sự chứng thực cho việc họ có thể và sẽ phải đi xa tới mức nào để kiếm tài nguyên thô.
Đối với dư luận trong nước Mỹ thì sự trỗi dậy của Trung Quốc lại không phải chuyện gì quan trọng. Suy cho cùng, nếu sự thật được phơi bày, thì một số người có thể đặt vấn đề nghi vấn những công ty đang chuyển việc nghiên cứu và phát triển (R&D) của họ tới một quốc gia từng bị nhiều người so sánh với Đức Quốc xã.
Tôi sẽ không nói liều khi đưa ra những khẳng định về Trung Quốc, nhưng dứt khoát tôi sẽ lưu tâm tới họ. Tuy nhiên, tôi thắc mắc về chính nước Mỹ, và về việc chúng ta (tức là Mỹ – ND) đang tin tưởng nước Trung Hoa cộng sản cùng các công ty tuyến đầu của họ đến như thế nào, bất kể những gì họ đã nói và đã làm.
Trung Quốc đã chứng tỏ khả năng của họ trong việc thâm nhập vào những nguồn tài nguyên an toàn nhất của chúng ta, cũng như kỹ năng ăn cắp các bí mật của ta. Thế mà dường như vẫn chưa đủ, chúng ta còn để cho họ kiểm soát Internet và việc truyền dữ liệu.
Hoa Vi – mặt trận gián điệp của cộng sản – tiến vào trung đô
Một ví dụ về sự ngu dốt của chúng ta khi tin tưởng vào nước Trung Hoa cộng sản là sự xâm nhập của Hoa Vi (Huawei) – được cho là tiền trạm của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Công ty này chuyên bán dây dẫn, đường truyền, và do đó kiểm soát được việc truy cập Internet. Họ đã mở cửa hàng ở Texas và Michigan. Hoa Vi từng bị buộc tội làm gián điệp, ăn cắp dữ liệu, và là công cụ của Trung Quốc nhằm phá thông tin trong trường hợp có chiến tranh.
Từ Anh cho tới Ấn Độ đều tràn ngập nghi ngờ về những mục đích thực của Hoa Vi. Lý do thường được nêu ra nhất là Hoa Vi có những mối liên hệ với chính quyền cộng sản. Thực tế là, ngay cả chính phủ Mỹ cũng có những ý kiến thể hiện sự e dè:
“Một báo cáo của cơ quan tình báo Mỹ đã lần đầu tiên chỉ ra mối liên hệ giữa công ty viễn thông lớn nhất Trung Quốc này với cơ quan tình báo tương tự như KGB của Bắc Kinh. Báo cáo cho rằng gần đây công ty đã nhận được gần một phần tư tỷ đôla từ chính phủ Trung Quốc”.
R&AW cho rằng Hoa Vi là một phần trong mạng lưới gián điệp của Trung Quốc:
“NEW DELHI: Người khổng lồ viễn thông Trung Quốc – công ty Hoa Vi – đã hung hăng phủ nhận mọi sự liên hệ đến Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA), nhưng các đánh giá độc lập của cơ quan tình báo Ấn Độ cho đến nay đã chỉ ra rõ ràng rằng PLA vẫn là một khách hàng của Hoa Vi và ngày càng dính líu tới Hoa Vi nhiều hơn.
Chính quyền Mỹ chia sẻ những mối lo ngại của cơ quan tình báo Ấn Độ về an ninh và về sự liên hệ mật thiết của Hoa Vi với lực lượng an ninh Trung Quốc, điều này đã dẫn đến việc họ hủy bỏ đơn dự thầu của Hoa Vi vào năm 2008 khi Hoa Vi tham gia một dự án 3Com”.
Giảm bớt những hạn chế đối với sinh viên, người nhập cư và doanh nhân Trung Quốc khi mà họ, bằng sự xuất hiện của mình, đang chuẩn bị cho chiến tranh. Việc ấy có khôn ngoan không?
Chúng ta có thực sự tin tưởng được những công ty như Hoa Vi không, khi mà vị lãnh đạo ẩn dật của Hoa Vi – Nhậm Chính Phi (Ren Zhengfie) – là cựu sĩ quan quân đội Trung Hoa và là đảng viên cộng sản?
Vâng, vị lãnh đạo của công ty Trung Quốc mà chúng ta đã lựa chọn cho hoạt động quản lý việc truyền dữ liệu của chúng ta là một sĩ quan hồng quân Trung Hoa đầy kiêu hãnh, một đảng viên cộng sản. Trước khi các vị nhầm tư cách đảng viên cộng sản với những ý thức hệ khác như đảng dân chủ hay cộng hòa, thì các vị phải hiểu rõ thực tế chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc cái đã.
Đối với Trung Quốc, đảng cũng giống như chúa trời, nghĩa là có mặt ở khắp mọi nơi. Thay vì “chỉ” là một thực thể chính trị, thì đảng giống mafia hơn. Tính bí mật, hủ bại, và sự kiểm soát của đảng có nhiều điểm chung với tội phạm có tổ chức hơn là giống với các ý thức hệ chính trị khác. Chủ nghĩa cộng sản, cũng giống như mafia, vào là phải uống máu ăn thề. Còn gì đáng nói hơn việc một trong những hình phạt nặng nề nhất đối với một đảng viên cộng sản là bị mất những đặc quyền đặc lợi mà đảng ban cho đến suốt đời.
Với tất cả những mối lo ngại về Hoa Vi, ta phải tự hỏi tại sao Michigan còn đem hoạt động truyền tải dữ liệu đi thuê ngoài (outsource), thuê kẻ hạ đẳng của thế giới làm.
Việc Hoa Vi gia nhập thị trường Mỹ là tiêu biểu cho sự ngây thơ hay là ngu dốt của chúng ta. Trong khi Trung Quốc cài số chuẩn bị cho cuộc chiến của thế kỷ 21 thì chúng ta bám lấy hàng hóa “sản xuất tại Trung Quốc” (made in China), không chú ý gì tới hành động của họ, và nuốt từng luận điệu của họ.
Chiến tranh, cũng như sự ngu dốt, là cái cần phải tránh đi, bằng bất cứ giá nào.
Nói về Trung Quốc và về sự hòa hợp, chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng bằng một phép màu nào đó, họ sẽ tỉnh dần và nhận ra rằng hành xử một cách hung hăng sẽ gần như làm hỏng hết mọi kế hoạch kinh tế và những điều tốt đẹp họ đang làm. Nhưng chừng nào còn chưa chắc chắn được về các ý định thực sự của họ thì chúng ta còn phải tiếp tục cảnh giác.
“Hầu như tất cả mọi người trong thế giới an ninh mạng đều nhanh chóng lên tiếng và bản thân Hoa Vi cũng đã thừa nhận. Trong một thế giới mà tin tặc đang phát triển mạnh, chẳng doanh nghiệp hay cơ quan chính quyền nào lại muốn mạo hiểm đem cho kẻ thù tiềm tàng của mình công cụ để tiếp cận hệ thống mạng nhà mình, bằng cách đi mua những thiết bị nhạy cảm cả”.
Tác giả: WC là công dân Mỹ, hiện đang sống và làm việc ở Trung Quốc. Ông cung cấp cho độc giả trang Top Secret Writers nhiều kiến thức và kinh nghiệm về các vấn đề quốc tế, văn hóa và thương mại. Ông có 45 bài viết ở trang này.
Nguồn: Top Secret Writer
Gô Ba Chớp Việt Nam
Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Qua bài phát biểu của ông TBT Nguyễn Phú Trọng trong ngày khai mạc Đại Hội Chỉnh Đốn Đảng 27/2/2012, người đọc có làm biếng… hiểu cách mấy vẫn “phát hiện” ra Việt Nam ta đang lù lù một Gô Ba Chớp.http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=LbY4eBV8sSI
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=j4BVfYoeSWg
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=j4BVfYoeSWg
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=j4BVfYoeSWg
Tây tiến một thời và mãi mãi (TVN) còn “biên giới 79 tiến” một thời chôn vùi??? —GS Mỹ luận bàn vai trò trí thức (TVN) –Sửa Hiến pháp và kinh nghiệm kiểm soát quyền lực (VNN) —Cấp trên kiểm điểm trước, làm gương cho cấp dưới (VNN)
Việt – Trung lập đường dây nóng về vấn đề trên biển (VnEx) xem mai mốt mà Ngư dân bị bắn trên lãnh hải mình nó có “nóng” không??? —Việt-Trung: Chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển (VTC)
Đà Nẵng: Bệnh tay chân miệng tăng chóng mặt (VTC) —Căng thẳng tranh chấp đất đai giữa dân và chính quyền (VTC News) – Thực trạng tranh chấp đất đai giữa người dân và chính quyền địa phương đang diễn biến căng thẳng ở nhiều nơi. —–Vì sao dân cản trở giải phóng mặt bằng? (VTC News) – Khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng chậm tiến độ thi công của các dự án giao thông trọng điểm —Bãi bỏ yêu cầu bắt buộc công chứng năm loại hợp đồng nhà đất (SGTT) —-267 nông dân kiện Sonadezi Long Thành (SGTT)
Trăm dâu đổ đầu… người tiêu dùng SGTT.VN – Nếu không giảm phí thì ngay lập tức nó sẽ tác động trực tiếp làm tăng giá cả hàng hoá dịch vụ trong khi điều kiện kinh tế hiện nay còn rất khó khăn. Điều đáng nói hơn, những tác động đó, cuối cùng cũng đổ lên đầu người… —Xây dựng khu đô thị 1,2 tỉ USD tại Bình Dương (SGTT) —Sẽ kiểm tra việc “Nộp 1,2 triệu, 3 ngày có hộ chiếu” (Tamnhin.net) – Sau khi Tamnhin.net đăng tải bài: “Hà Tĩnh: Nộp 1,2 triệu, 3 ngày có hộ chiếu?”, PV đã… —Dân “chết đứng” vì trát đòi nợ “từ trên trời rơi xuống”! (Tamnhin) —Ketamine, một loại ma túy mới xuất hiện ở Việt Nam (RFA)
Cần chấm dứt ngay lý tưởng hoá sự nô lệ và tâm lý xin cho (Lê diễn Đức -RFA)
Nông dân biểu tình tại Hà Nội trong ngày 28/2/2012 – Ảnh: Nguyễn Lân Thắng
Từ “tủ lạnh, Ti vi chạy đầy đường” đến “Gú-gờ chấm Tiên Lãng”(Đào trung Đạo – RFA)
Chủ tịch Việt Nam sẽ thăm TQ (BBC) -Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sẽ thăm Trung Quốc trong dịp nửa đầu năm nay. —’Dùng thông tin để điều chỉnh Đảng’ (BBC) —Philippines và TQ đấu khẩu về Biển Đông (BBC) -Philippines khẳng định quyền thăm dò ở vùng biển ‘thuộc chủ quyền’ sau khi bị Bắc Kinh lên án.
Quan hệ Việt Nam – Vatican ‘cải thiện’ (BBC) -Việt Nam đồng ý “tạo điều kiện tốt hơn” cho đại diện Tòa thánh Vatican thực hiện nhiệm vụ. –Người gặp trắc trở vì chê thơ Tố Hữu (BBC) -Đứng trước linh cữu Bấm nhà văn Hoàng Yến trong đám tang ông, tôi chợt nhớ câu nói của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mấy năm trước: “Nhà văn phải nói lên sự thật…là bài này trên blog của Nhà Văn Nhật Tuấn : Con chim chỉ được hót trong đêm
Trưởng ban cưỡng chế Nguyễn Văn Khanh – Chân nhân bất lộ tướng (Quechoa) —Sự khủng hoảng chính khách nhìn từ Hải Phòng (Quechoa) –VỤ TIÊN LÃNG- KỲ 29: KHÔNG CÓ GÌ PHẢI NGẠC NHIÊN (Nguyencuvinh) -Không có gì phải ngạc nhiên khi nghe tin Huyện Tiên Lãng chỉ kỷ luật cảnh cáo hai quan xã, trong đó có quan Liêm em ruột của quan Hiền vừa bị cách chức. Không có gì phải ngạc nhiên, nếu tới đây bất ngờ Công an Hải Phòng thông báo đình chỉ vụ án hủy hoại tài sản do không xác định được tội phạm.Không có gì……. –Gia đình ‘xin phóng thích’ ông Vươn (BBC- nghe)
Tầm nhìn của con ngựa kéo xe (Trần kinh Nghị blog) –Giảm cán bộ công chức: Đâu có dễ -(Dân Việt) —Đảng cầm quyền là “cầm” cán bộ… (Danviet) –Người mời đã sai, người đến dự cũng sai – GS Bùi Văn Nhơn, nguyên Giảng viên cao cấp Học viện Hành chính Quốc gia: Người mời đã sai, người đến dự cũng sai . Theo GS Bùi Văn Nhơn, việc nhiều cán bộ công chức in tên và chức danh lên thiệp mời cưới, mời ăn giỗ chung quy “cũng chỉ vì cái phong bì”.
VN phản ứng việc TQ uy hiếp ngư dân Quảng Ngãi (Bee) –Việt Nam phản đối Trung Quốc đánh đập ngư dân tại Hoàng Sa (Danviet) —Việt-Trung họp ủy ban liên hợp biên giới đất liền (VN+) –Mỗi cán bộ tự soi mình xem như thế nào (VNN) -soi vào đâu??? –8 tỉnh phải kiểm điểm (Bee) – Ngày 29/2, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Chủ tịch UBND 8 tỉnh: Bình Định, Hà Giang, Lai Châu, Nghệ An, Phú Yên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thanh Hóa nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm…. -ba năm rồi chắc “đầu tỉnh” đã về vườn!!!?
Cụm công nghiệp gây ô nhiễm, dân kêu cứu (Bee) -Mỗi khi các nhà xưởng xả khói thì nhiều người trong làng, đặc biệt là trẻ em và người già hay bị bệnh khó thở, đau đầu —Hay là thu phí Quốc lộ 1A từ Lạng Sơn tới Cà Mau? (Danviet) —Tàu chìm trên biển, 8 thủy thủ được cứu sống (DV) —Điều mẹ Bộ trưởng Vương Đình Huệ căn dặn con khi về quê (DĐDN) —Lao động “ba không” (NLĐ) –Hàng loạt nội dung trái luật trong nghị quyết của HĐND TP.Đà Nẵng(TNO)
Hà Nội giấu dịch TP – Dịch cúm gia cầm xuất hiện, càn quét đàn vịt cả vạn con của nông dân xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên (Hà Nội). Vịt chết, người dân trắng tay, trong khi lãnh đạo xã và cơ quan thú y Hà Nội đều chối: “Làm gì có dịch” —Một tuần thêm 1.500 ca mắc tay chân miệng (VNN) —-Đại diện 5 nước Tiểu vùng Mekong họp tại hà nội (RFA) không viết hoa chữ Hà nội?
1 Giám Mục VN Nêu Sáng Kiến Để Hết Tranh Chấp Đất Công Giáo: Để Làm Giáo Dục, Từ Thiện, Giáo Hội Sẽ Nộp 60% Tài Sản (Vietbao)
Giá gas tiếp tục tăng sốc (Dân trí) – Kể từ 7h30 ngày 1/3, giá gas sẽ lập một kỷ lục trước nay chưa từng có: tăng đến 62.000 đồng/bình 12kg so với giá cuối tháng 2. —Giá gas lập kỷ lục mới: tăng 52.000 đồng/bình TTO – Một số doanh nghiệp gas tại TP.HCM cho biết giá gas bán lẻ tính từ ngày 1-3 sẽ tăng thêm 52.000 đồng/bình 12kg.
‘Bắt bệnh’ thời kỳ khó khăn dai dẳng của kinh tế Việt Nam (DDDN)>>>Ngân hàng “cầm đèn đỏ”: Cố che…vẫn lộ —VN lại lọt Top những nước ‘ngốn’ vàng nhiều nhất (ĐV)
Sàn giao dịch BĐS, nằm chờ hay phá sản? (TP) —Hàng loạt đại gia địa ốc báo lỗ (VnEx) —Đột biến số doanh nghiệp xin giải thể (TP) —DN giải thể, phá sản tăng đột biến (VEF) —-BĐS: Không đảo nợ chỉ có phá sản? (VEF) —Việt Nam sẽ sáp nhập các ngân hàng thương mại nếu nợ xấu gia tăng (RFI)
Khi dừa giảm giá 75% (TT) –Đất trồng lúa mất dần (TT) —Việt Nam thu hút xí nghiệp nước ngoài chuyển sản xuất (RFI)
Bất chấp Trung Quốc, Philippines vẫn cho đấu thầu dầu khí ở Biển Đông (RFI) —Philippines mời gọi các nhà đầu tư thăm dò trữ lượng dầu ở Biển Ðông (VOA)
Bạo loạn Tân Cương ‘làm 12 người chết’ (BBC) —Sudan, Trung Quốc thảo luận về vụ tranh chấp dầu (VOA) —Bạo động ở Tân Cương, 10 người chết (RFA) —-Trung Quốc mong UNHCR có giải pháp cho Syria (RFA) –Phúc trình kêu gọi TQ cải cách của World Bank vấp phải sự chống đối (VOA) —Biểu tình trước sứ quán Trung Quốc ở Seoul, phản đối giao trả người đào tỵ (VOA) —Trung Quốc gọi phát biểu của ông Romney là ‘vô trách nhiệm’ (VOA) —Hàn Quốc ra nghị quyết về người tị nạn (BBC)Thương vong ở Syria tăng cao, LHQ hối thúc ngưng bắn (VOA) –Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc yêu cầu Syria ngưng bắn tức khắc (RFI) –Gọi ông Assad là tội phạm chiến tranh có thể gây phức tạp cho nghị quyết về Syria (VOA) –Hiến pháp mới của Syria vô hiệu cho việc chấm dứt xung đột (RFA) —Hai nhà báo bị thương thoát khỏi Syria (BBC) -Phóng viên ảnh Paul Conroy của Anh và nữ nhà báo Pháp Edith Bouvier đã thoát khỏi thành phố Homs đang bị bao vây và bắn phá ở Syria.
Cambodia cấp gần 1,7 triệu hectare đất để đầu tư (RFA) –Liên Hiệp Quốc báo động: châu Á sản xuất ma tuý ngày càng nhiều (RFA) —Người Mỹ thích kết hôn dị chủng (RFA) —Ông Romney tranh đấu để tránh thất bại tại bang nhà Michigan (VOA) —Quân đội Mỹ vẫn cam kết với sứ mạng Afghanistan bất chấp biểu tình (VOA) —Giá nhà tại Hoa Kỳ xuống nữa (VOA) —Afghanistan: Mỹ báo động kiều dân đừng ra đường (Nguoiviet)
Algeria lại từ chối dẫn độ vợ con Gaddafi về Libya (VN+) —Trưng cầu cuối cùng: Putin thắng với tỷ lệ 59,9% (VN+) —Âm mưu ám sát Thủ tướng Putin có liên hệ đến cuộc bầu cử ngày Chủ nhật (VOA) —-Internet : Công cụ thông tin hiệu quả của phong trào chống Putin tại Nga (RFI) –Không quân Nga lại rơi máy bay tiêm kích Su-30 (VN+) –Ông Putin bỏ qua “âm mưu ám sát” (BBC) —Những điều cần biết về bầu cử Nga (BBC-nghe)
Hy Lạp sẽ tuyên bố vỡ nợ trong vòng 36 giờ tới? (VN+) –Tòa án Đức giới hạn vai trò của Ủy ban đặc trách nợ châu Âu (VOA) Các tay súng giết giám đốc đài phát thanh ở Somalia(VOA) –Một lãnh đạo phe Áo Đỏ Thái bị tù vì tội khi quân (RFI) —-Nhật : khám trụ sở hội Triều Tiên thân Bình Nhưỡng (RFI) —-Sau vụ Fukushima, Nhật đã dự trù Tokyo bị hủy diệt (RFI) –Ấn Độ : Tổng đình công đòi cải thiện luật bảo vệ người lao động (RFI) —Các nước vùng Vịnh tăng phúc lợi xã hội để tránh « Mùa xuân Ả Rập » (RFI) —Gia tăng hợp tác quốc tế hạn chế đánh cá, cứu đại dương (RFI)
Nữ đạo diễn đoạt giải Oscar đầu tiên của Pakistan tung chiến dịch chống tạt axít (RFI)
Mỹ thấy “nhiều điểm cũ” ở lãnh đạo mới của Triều Tiên (VNN) —Ngày 15/3: Facebook ngừng hoạt động? (VTC) —Syria, Iran và Học thuyết của Tổng thống Obama (Tamnhin)
Bên trong tàu ngầm C-56 (BBC) -Chiếc tàu ngầm từng được coi như biểu tượng sức mạnh hải quân Liên Xô ở Vladivostok. —Iran đàn áp bất đồng chính kiến trước khi bầu cử (VOA) –Tổng thống Obama: Ngành Ôtô Hoa Kỳ mạnh trở lại (VOA) —Tổng Thư Ký NATO: Binh sĩ chứng tỏ tự chế phi thường tại Afghanistan (VOA)
Vietnam Plus /BM -QH Pháp phê chuẩn quỹ cứu trợ mới cho eurozone —Vietnam Plus/BM -Bộ ba chủ nợ sẽ trợ giúp Bồ Đào Nha 14,9 tỷ euro —’Thủ tướng Kan đã cứu Nhật Bản’ -VnExpress/BM - Trong khoảnh khắc đen tối nhất hồi tháng ba năm ngoái, giới chức Nhật thậm chí đã tính tới khả năng bỏ cả thủ đô Tokyo, nhưng thảm họa hạt nhân đã được chặn đứng… —Gafin.vn /BM -Israel tìm kiếm ủng hộ của Trung Quốc trong vấn đề Iran, Syria —VOV Online /BM -Thái Lan làm mưa nhân tạo ngăn khói bụi
Chuyện đời nữ Thủ tướng đầu tiên kết hôn với…phụ nữ (Bee) —Tấn công bằng dao tại Tân Cương, ít nhất 12 người chết (Bee) —Máy bay do thám Mỹ theo dõi Triều Tiên như thế nào? (Dân trí) —Mỹ nêu điều kiện viên trợ cho Triều Tiên (ĐV) —Chỉ huy cấp cao Al-Qaeda bị bắt tại sân bay Cairo (VN+) —Đường Điện Kremlin (BBC) -Nhiều góc độ về nước Nga trước kỳ bầu cử tổng thống 2012. —Ông Romney thắng ở Arizona và Michigan (BBC) –Ông Romney thắng 2 cuộc bầu cử sơ bộ ở bang Michigan, Arizona (VOA)
Philippines kiên quyết mở rộng hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông (RFI) —Đô đốc Robert Willard: Hoa Kỳ cần hiện diện ở Biển Ðông (VOA) —Thêm một trường hợp “Ô Khảm” khác xuất hiện tại Trung Quốc (RFI)
Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc yêu cầu Syria ngưng bắn tức khắc (RFI) —Trung Quốc muốn hàn gắn quan hệ ngoại giao với các nước Ả Rập (VOA) —Theo chân bà Aung San Suu Kyi trên đường vận động tranh cử (VOA)Sự Lợi Hại Của Tình Báo Do Thái Mossad Trúc Giang MN (Vietbao) -Hiện nay, không một cơ quan mật vụ nào trên thế giới bí ẩn, gây sợ hải và được khâm phục hơn Mossad
Rước bệnh vì ăn súp vi cá
(VNN) -Việc săn lùng cá mập để lấy vây cá đã đẩy loài “sát thủ đại
dương” này tới bờ vực tuyệt chủng. Tuy nhiên, tuyệt phẩm mà tương truyền
là “đại bổ” này thực ra lại tiềm ẩn nguy cơ chết người. —Khi đại gia đi… phóng to “thằng nhỏ” (VNN)
‘Quan’ miền Tây lại in tên cơ quan lên thiệp cưới (VnEx) -Mấy ngày nay nhiều người dân và cán bộ ở Vĩnh Long bất ngờ khi nhận được thiệp mời cưới con trai của ông Nguyễn Thanh Hoàng, Phó văn phòng Tỉnh ủy Vĩnh Long vì chủ hôn in tên cơ quan lên thiệp cưới. > In cơ quan trên thiệp mời giỗ mẹ/ Chuyển công tác ‘quan’ in chức danh trên thiệp cưới con
Thư phản ánh của người dân gửi Thường trực Tỉnh ủy Vĩnh Long kèm thiệp mời đám cưới con của ông Hoàng. Ảnh: H.Q. —-Vụ một giám đốc sở bị tố nhận tiền hối lộ: Phó trưởng phòng xin rút lời khai (TN) —”Trót” in tên cơ quan lên thiệp cưới, “quan” miền Tây mất ngủ (DV)
Cần Thơ: Số tiền phó phòng Sở Tư pháp nhận hối lộ giảm gần 2,4 tỉ đồng (NLĐ) —Các nguyên nhân có thể gây cháy xe (VnEx) -Chất lượng xăng dầu, phụ tùng, chế độ bảo trì và điều kiện vận hành là những nguyên nhân có thể gây cháy xe. Nhưng đến nay các chuyên gia vẫn chưa đưa ra kết luận cuối cùng về việc này.> Xăng bị nghi là thủ phạm gây cháy xe> Xăng pha acetone – nguyên nhân gây cháy xe?
Cắt khoá, trộm két sắt tiền tỷ táo tợn giữa Hà Nội (VTC) –Bị cáo 16 tuổi nhận bản án 15 năm tù giam (VTC News) —Tài xế taxi Vinasun bị tố trộm laptop của khách (VTC News) —-Bắt quả tang một nam sinh viên trộm cắp xe máy (VTC News) —-Tội ác tày đình của thanh niên 24 tuổi với bà già 62 (VTC News) —Kinh hoàng heo siêu nạc – “Thần dược” là chất độc bị cấm!(TN) —Thoát y trong quán bar (NLĐO)
Mẹ ôm con tự tử giữa đường ray (NLĐO) – Đêm khuya, khi mọi người đã ngủ say, người mẹ dùng chiếc mền quấn đứa con trai vào bên trong rồi bế ra nằm trên đường sắt khiến cả hai thiệt mạng. Vụ việc xảy ra vào khoảng 23 giờ 50 phút ngày 28-2, tại địa phận khu gian đường sắt Thọ Lộc-Hoàn Lão, huyện Bố Trạch (Quảng Bình)
Tập đoàn Bảo Long bị đập phá tài sản -Đại Đoàn Kết/BM - Sáng ngày 28-2-2012 tại khuôn viên Tập đoàn y dược Bảo Long (xã Cổ Đông, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội) đã diễn ra vụ xung đột giữa cán bộ công nhân viên Tập đoàn Bảo Long (Bảo Long) và một số đối tượng thuộc Tập đoàn đầu tư..
Xe khách phóng cực nhanh, tông nữ sinh văng xa 10m (Bee) —Chà ớt vào quần lót người tình của bố (Bee) –Xem “hàng nóng” của giang hồ bị lực lượng 141 thu giữ (Bee) —Sinh viên nửa đêm cầm dao xông vào KTX để cướp (Bee) —Nữ nhân viên kinh doanh chiếm đoạt hơn 4,4 tỷ đồng (Bee) —”Khách Tây” lừa tiền giữa phố Hà Nội (Bee) —Cán bộ tòa án Thái Nguyên bị chém trọng thương (DV) –Cô gái bị bạn trai cũ giết trước ngày cưới (DV)
Thác loạn thâu đêm trong quán massage (DV)
Vén màn cuộc đời bí ẩn của bà lão đột tử để lại 50 lượng vàng (DV) —Đấm chết sếp của vợ ngay tại Viện Dầu khí (DV) –Đấm chết sếp của vợ vì vợ bị sàm sỡ (Dân trí)
Cô dâu trẻ tủi nhục vì hai chữ “trinh tiết” (Dân trí) – Báo Dân trí vừa nhận được đơn của chị Nguyễn Đặng Xuân T. (SN 1993, ở phường Lê Bình, quận Cái Răng, TP Cần Thơ) trình bày về việc chị bị gia đình chồng “trả” về nhà mẹ đẻ vì cho rằng không còn trinh tiết.
‘Quan’ miền Tây lại in tên cơ quan lên thiệp cưới (VnEx) -Mấy ngày nay nhiều người dân và cán bộ ở Vĩnh Long bất ngờ khi nhận được thiệp mời cưới con trai của ông Nguyễn Thanh Hoàng, Phó văn phòng Tỉnh ủy Vĩnh Long vì chủ hôn in tên cơ quan lên thiệp cưới. > In cơ quan trên thiệp mời giỗ mẹ/ Chuyển công tác ‘quan’ in chức danh trên thiệp cưới con
Thư phản ánh của người dân gửi Thường trực Tỉnh ủy Vĩnh Long kèm thiệp mời đám cưới con của ông Hoàng. Ảnh: H.Q. —-Vụ một giám đốc sở bị tố nhận tiền hối lộ: Phó trưởng phòng xin rút lời khai (TN) —”Trót” in tên cơ quan lên thiệp cưới, “quan” miền Tây mất ngủ (DV)
Cần Thơ: Số tiền phó phòng Sở Tư pháp nhận hối lộ giảm gần 2,4 tỉ đồng (NLĐ) —Các nguyên nhân có thể gây cháy xe (VnEx) -Chất lượng xăng dầu, phụ tùng, chế độ bảo trì và điều kiện vận hành là những nguyên nhân có thể gây cháy xe. Nhưng đến nay các chuyên gia vẫn chưa đưa ra kết luận cuối cùng về việc này.> Xăng bị nghi là thủ phạm gây cháy xe> Xăng pha acetone – nguyên nhân gây cháy xe?
Cắt khoá, trộm két sắt tiền tỷ táo tợn giữa Hà Nội (VTC) –Bị cáo 16 tuổi nhận bản án 15 năm tù giam (VTC News) —Tài xế taxi Vinasun bị tố trộm laptop của khách (VTC News) —-Bắt quả tang một nam sinh viên trộm cắp xe máy (VTC News) —-Tội ác tày đình của thanh niên 24 tuổi với bà già 62 (VTC News) —Kinh hoàng heo siêu nạc – “Thần dược” là chất độc bị cấm!(TN) —Thoát y trong quán bar (NLĐO)
Mẹ ôm con tự tử giữa đường ray (NLĐO) – Đêm khuya, khi mọi người đã ngủ say, người mẹ dùng chiếc mền quấn đứa con trai vào bên trong rồi bế ra nằm trên đường sắt khiến cả hai thiệt mạng. Vụ việc xảy ra vào khoảng 23 giờ 50 phút ngày 28-2, tại địa phận khu gian đường sắt Thọ Lộc-Hoàn Lão, huyện Bố Trạch (Quảng Bình)
Tập đoàn Bảo Long bị đập phá tài sản -Đại Đoàn Kết/BM - Sáng ngày 28-2-2012 tại khuôn viên Tập đoàn y dược Bảo Long (xã Cổ Đông, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội) đã diễn ra vụ xung đột giữa cán bộ công nhân viên Tập đoàn Bảo Long (Bảo Long) và một số đối tượng thuộc Tập đoàn đầu tư..
Xe khách phóng cực nhanh, tông nữ sinh văng xa 10m (Bee) —Chà ớt vào quần lót người tình của bố (Bee) –Xem “hàng nóng” của giang hồ bị lực lượng 141 thu giữ (Bee) —Sinh viên nửa đêm cầm dao xông vào KTX để cướp (Bee) —Nữ nhân viên kinh doanh chiếm đoạt hơn 4,4 tỷ đồng (Bee) —”Khách Tây” lừa tiền giữa phố Hà Nội (Bee) —Cán bộ tòa án Thái Nguyên bị chém trọng thương (DV) –Cô gái bị bạn trai cũ giết trước ngày cưới (DV)
Thác loạn thâu đêm trong quán massage (DV)
Vén màn cuộc đời bí ẩn của bà lão đột tử để lại 50 lượng vàng (DV) —Đấm chết sếp của vợ ngay tại Viện Dầu khí (DV) –Đấm chết sếp của vợ vì vợ bị sàm sỡ (Dân trí)
Cô dâu trẻ tủi nhục vì hai chữ “trinh tiết” (Dân trí) – Báo Dân trí vừa nhận được đơn của chị Nguyễn Đặng Xuân T. (SN 1993, ở phường Lê Bình, quận Cái Răng, TP Cần Thơ) trình bày về việc chị bị gia đình chồng “trả” về nhà mẹ đẻ vì cho rằng không còn trinh tiết.
Chân dài bị nhà chồng ruồng rẫy vì nghi mất trinh tiết
(VNN) -Tốn 500 triệu làm đám cưới vì con dâu rất xinh đẹp, nay ông
Nguyễn Hoàng Năm (Cần Thơ) lại trả cô dâu về nhà bố mẹ đẻ vì cho rằng cô
không còn trinh tiết
Đàn ông chừa cái trò mua trinh nhé! (VNN) –Vá màng trinh miễn phí: Nhân văn hay dối trá? (VNN)
đáng ra 2 tin này để ở “xã hội” nhưng do có cái “tin quái” kế trên nên
để ở đây cho tiện theo dõi nếu Bà con nào quan tâm xã hội.
Vì chồng em phải bán thân (Dân trí) – Cúc choàng tỉnh, khi ấy quá nửa đêm. Chiếc đèn ngủ phản chiếu những ánh sáng ma quái tỏa khắp căn phòng soi rõ cả thân hình cô lõa lồ không mảnh vải… —Tắm sông, 3 nữ sinh chết đuối (NLĐ) —-Cướp xe môtô 1.000 phân khối (NLĐ) —Đang nhậu, bỏ đi ngủ và chết cháy (NLĐ) —Kẻ trộm đâm chết chủ nhà (NLĐ) –Mất gần 12 triệu đồng vì một cuộc gọi (VnEx) cái trò này cứ được hoài- Mất tiền do tham!!!! —Sát thủ 15 tuổi, giết người, đếm tiền không ghê tay (VNN)
Ông Nguyễn Hoàng Năm: “Con dâu không còn trinh nên trả lại thôi!” |
Vì chồng em phải bán thân (Dân trí) – Cúc choàng tỉnh, khi ấy quá nửa đêm. Chiếc đèn ngủ phản chiếu những ánh sáng ma quái tỏa khắp căn phòng soi rõ cả thân hình cô lõa lồ không mảnh vải… —Tắm sông, 3 nữ sinh chết đuối (NLĐ) —-Cướp xe môtô 1.000 phân khối (NLĐ) —Đang nhậu, bỏ đi ngủ và chết cháy (NLĐ) —Kẻ trộm đâm chết chủ nhà (NLĐ) –Mất gần 12 triệu đồng vì một cuộc gọi (VnEx) cái trò này cứ được hoài- Mất tiền do tham!!!! —Sát thủ 15 tuổi, giết người, đếm tiền không ghê tay (VNN)
- Nóng trong ngày: Vợ ông Vươn xin giảm tội cho chồng (VNN).
- Đoàn Văn Thắng – Sai phạm ở Tiên Lãng bắt nguồn từ Trung ương? – (Dân Luận). “… có một điểm mấu chốt quan trọng trong vụ ông Lê Đình Thảo khác với vụ của ông Đoàn Văn Vươn là có cơ quan Trung Ương khẳng định về tính pháp lý của Huyện Tiên Lãng trong việc thu hồi đất, đó chính là Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Điều này cực kỳ nguy hiểm và là mấu chốt dẫn đến một loạt sai phạm ở Tiên Lãng”.
- Nguyễn Ngọc Già – Lời nhắn anh Vinh & anh Lập cùng ván bài cần lật ngửa qua vụ án Đoàn Văn Vươn – (Dân Luận).
- Sự khủng hoảng chính khách nhìn từ Hải Phòng (Lê Mai). – HẢO HỚN ĐẤT CẢNG (kỳ cuối) – (Sơn Thi Thư). Mời xem lại: Kỳ 1 – Kỳ 2. – “GIANG HỒ ÐẤT CẢNG” VÀ SỰ THỰC VÊ MỐI LIÊN KẾT NGẦM (NCTG).
- Nguyễn Xuân Trung: GƯƠNG MẶT “CÔNG BỘC” TIÊN LÃNG (Quê Choa). “Có lẽ khi khép lại vụ Tiên Lãng, bà con ta nên sưu tập một bộ ảnh các gương mặt ‘công bộc Hải Phòng’ để đưa vào Bảo tàng cho con cháu Việt Nam ta sau này hiểu thêm về ‘công bộc’, với chú thích: Đây là đầy tớ của dân, công bộc của dân đầu thế kỷ XXI!” =>
- Vụ cưỡng chế đầm tôm: Cảnh cáo Bí thư và Chủ tịch xã Vinh Quang (DT). – Tiên Lãng: Kỷ luật cảnh cáo lãnh đạo Vinh Quang (TTXVN). – Cú sốc “phản vệ” việc cảnh cáo lãnh đạo xã Vinh Quang – (Cu Làng Cát). “Án kỷ luật hai quan xã Vinh Quang nó không đủ nặng để có được lòng tin dân chúng, nó không đủ nặng để các quan hư thụt vòi, nó không đủ độ để trở thành tấm gương tày liếp. Dường như mức án này có điều gì đó khiêu khích dư luận”.
- Báo CCBVN cổ xúy cho đấu đá nội bộ Hải Phòng? – (Cu Làng Cát).
- Đề thơ lên những bức ảnh về thực trạng gia đình ĐOÀN VĂN VƯƠN (Lê Thiếu Nhơn). “Ngôi nhà bị phá tan hoang/ Có vườn chuối biết sài lang phá nhà/ Thế mà miệng lưỡi người ta:/ ‘Dân tình bức xúc, phá nhà bị can’!” – Lê Tự: Vụ cống Rộc: Lòng cha đau hơn xát muối (Trần Nhương).
- Nhà nước và người dân (TBKTSG). “Qua vụ Tiên Lãng hay qua chuyện đổi giờ học, giờ làm ở Hà Nội, vấn đề tổng quát cần đặt ra một cách cấp bách hiện nay là mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân, ít ra xét trên hai phương diện có liên quan chặt chẽ với nhau, đó là cấu hình của bộ máy nhà nước pháp quyền và các quyền dân sinh và dân chủ của người dân. Bởi lẽ nếu không nhận diện và giải quyết được những vấn đề này thì người dân sẽ buộc phải đặt câu hỏi: nhà nước này là nhà nước của ai và vì ai?”
_________________________________________________________
Những lời đốp chát (Nguyễn xuân Nghĩa – Nguoiviet)
Từ hiện tượng Viettel nghĩ về sự hoang phí của một hệ thống -Lê Anh Hùng-Boxitvn
Trung Quốc hối thúc Việt Nam thực sự tôn trọng chủ quyền – quyền lợi và quyền cai quản của Trung Quốc- Boxitvn
Không có lý do gì mà không tin vào nội dung của bài
báo ngắn sau đây đăng trên trang web của Đài phát thanh quốc tế CRI –
Trung Quốc, vốn có tôn chỉ, theo tuyên bố của chính đài này là “tăng
thêm sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa nhân dân Trung Quốc với
nhân dân các nước trên thế giới”. Chỉ xin góp ý một chút về lỗi dùng từ:
Trung Quốc không phải hối thúc, mà là ra lệnh Việt Nam phải thực sự tôn trọng “chủ quyền – quyền lợi và quyền cai quản” của nước đàn anh “bốn tốt, 16 chữ vàng”.
Cần nhó tuyên bố của Hồng Lỗi “hối thúc” Việt Nam là
vào ngày 27/2, đúng ngày Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn
hội đàm với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân, mà nội
dung quan trọng là về “quan hệ song phương và vấn đề biên giới lãnh
thổ.” Phía Việt Nam thì công khai thông báo cho toàn dân rằng trong cuộc
hội đàm đó, “Hai
bên nhất trí quán triệt thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao
hai nước cũng như các thỏa thuận liên quan, duy trì các chuyến thăm cấp
cao, đi sâu hợp tác trên các lĩnh vực, xử lý thỏa đáng những vấn đề tồn
tại, đưa quan hệ hai nước tiếp tục phát triển ổn định, lành mạnh, vì lợi
ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và hợp tác của khu vực
và thế giới.” Như thế, Việt Nam “nhất trí” cho Trung Quốc có chủ
quyền, có quyền lợi, có quyền cai quản Trường Sa và Hoàng Sa ư? Rất khó
tin. Nhưng trong thời đại Internet, nói năng theo cái cung cách tránh
né, che mắt dân của Bộ Ngoại giao Việt Nam trong so sánh với thái độ của
phía Trung Quốc, chỉ đưa đến một kết quả: người dân thấy nhục nhã về sự
ươn hèn của người đại diện đất nước!
Bauxite Việt Nam
Nhìn về Trung Quốc (kì cuối) – Phạm Hy Sơn -Boxitvn
Trung Quốc tăng cường hoạt động trên biển -Ngọc Bi _Boxitvn
Chia ruộng cho quan -Trúc Lê -Boxitvn
Youth BOX: Phỏng vấn bà Lê Hiền Đức
http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=QpEHG4J1jIw
Nguồn: Youth Box
http://www.facebook.com/pages/Youth-Box-Channel/249628838452027
Tuy vậy, cũng theo ông Trọng chưa bao giờ nhiệm vụ xây dựng đảng lại cấp bách như hiện nay. Ông nêu ra ba vấn đề cấp bách và nhấn mạnh cấp bách nhất vẫn là: Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Ông nói: Đứng trên tổng thể mà xét, hiện nay cái làm cho quần chúng oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng.
Xem xét lại lịch sử, ông vua nào không muốn mình là bậc minh quân để thần dân được nhờ, để đất nước được thịnh trị, để bản thân được lưu danh hậu thế. Nhưng các biện pháp tự xây dựng, tự chỉnh đốn đều mang tính chủ quan duy ý chí nên hiệu quả bấp bênh. Có được mấy ông vua là minh quân trong một triều đại? Từ thời nhà Lý, qua nhà Trần, đến thời nhà Lê, nhà Nguyễn, mỗi thời chỉ được vài vị minh quân đầu triều còn sau đó là chấm hết. Chấm hết cho chế độ mà còn chấm hết cho vận mệnh của nước nhà.
Bây giờ các vị cũng đang tự xây dựng và chỉnh đốn với mục đích: “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng” tức là nâng cao đạo đức và năng lực cai trị của mình.
Giải pháp đưa ra là tự phê và phê. Giải pháp ấy không có gì mới mẻ vì là sự lặp lại những gì từ thời mồ ma Mao Trạch Đông đã dùng và tỏ ra không mấy hiệu quả. Chưa nói đó là công cụ bị Mao lợi dụng để thanh trừng nội bộ mỗi khi y mắc sai lầm nhằm tiếp tục củng cố ngôi vị cá nhân độc tôn của y. Các vị cũng liên tục sử dụng giải pháp nầy từ xa xưa đến nay trong mỗi lần xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhưng không lấy gì tỏ ra có hiệu quả bởi lẻ đến hôm nay lại báo động sự suy thoái đạo đức và lối sống của một bộ phận không nhỏ đảng viên đến mức nghiêm trọng, đến mức là chuyện sống còn của Đảng.
Vận mệnh đất nước tùy thuộc vào đạo đức của các vị, nhưng kết quả của việc xây dựng và chỉnh đốn đạo đức và lối sống của các vị lại không lấy gì đảm bảo qua các giải pháp đưa ra.
Các đảng phái chính trị uy tín có tuổi đời trên dưới trăm năm ở Âu, Mỹ như Đảng Lao Động, Đảng Bảo Thủ (Anh), Đảng Xã Hội (Pháp), Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ (Mỹ)… không hề thấy họ mở ra các cuộc chỉnh đốn rầm rộ tốn kém, đảng viên của họ không hề phải phê bình đấu tố lẫn nhau đến tang thương nhưng họ có bao giờ báo động về tình trạng suy thoái đạo đức và lối sống của cán bộ đảng viên của họ.
Ấy là do giải pháp gì?
Rất đơn giản: Các đảng đó tự đặt mình xuống dưới pháp luật. Pháp luật tự nó điều chỉnh đạo đức và lối sống của mỗi đảng viên như tất cả các công dân khác.
Vậy tại sao các vị không thử thực hiện giải pháp tốt đẹp và đơn giản nầy nhỉ?
Hãy đặt các tổ chức của Đảng CSVN vào trong khuôn khổ pháp luật và xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự, đó là giải pháp xây dựng và chỉnh đảng tốt nhất.
Rất mong thay.
Có thể anh Vinh và anh Lập là những nghệ sĩ, nhà văn với tâm hồn khoáng đạt, hào sảng, có sai thì nhận và xin lỗi. Nói thế cuộc đời này đã không có những oan trái ngút trời, thưa hai anh! Mong hai anh hãy suy nghĩ kỹ và rút lại lời xin lỗi đối với Nguyễn Văn Thành, bởi nếu đã công nhận sai thì nó trở thành mối đe dọa truyền kiếp mà hai anh phải trả (có thể trong tương lai không xa lắm, nếu nguyên bộ sậu Nguyễn Văn Thành tiếp tục tại vị).
Khổng Tử nói: “tiểu nhân nan dưỡng”.
Ngoài ra, với tư cách người viết tự do, không ràng buộc gì, tôi cam đoan với hai anh:
- Chắc chắn có chữ HÙA trong đoạn băng hình (hai anh có thể vào Dân Luận và nghe đoạn ghi âm này của một độc giả đã lọc bỏ bớt nhiều tiếng ồn). Chỉ riêng chữ “HÙA” này thôi, cũng đủ để kết luận Nguyễn Văn Thành đã xúc phạm các vị “nguyên”, “cựu” và “đương kim” nổi tiếng. Nếu chưa tin lắm, mời hai anh gõ vào google hai chữ: “chó hùa” sẽ thấy có 51.800 kết quả (2), điều này chứng tỏ cụm từ này khá phổ biến làm cho nhiều người tìm hiểu. Không biết ngoài Bắc và quê các anh ra sao, trong Nam khi dùng chữ “chó hùa” nghĩa là bu vào, xúm vào một cách hung tợn, hỗn ẩu và côn đồ, bất kể đúng sai, miễn làm sao áp đảo tấn công đối phương để giành chiến thắng cho phe mình trước đã. Chỉ riêng từ “HÙA” cũng đủ kết luận Nguyễn Văn Thành đã xúc phạm nghiêm trọng nhân dân Việt Nam mà không cần viện dẫn chữ “THẰNG” ở đây. Chính ra chữ “HÙA” quan trọng hơn nhiều so với chữ “thằng”.
- Không thể thay thế cụm từ “hùa vào thằng Vươn luôn” bằng cụm từ “bắt đầu từ đó luôn”, bởi cả hai cụm từ đều có 5 âm, nhưng cụm sau có hai âm “trắc”: chữ “bắt” và chữ “đó”, đặc biệt chữ “đó” không thể nuốt âm theo cách người miền Bắc (có đặc điểm nói nhanh). Các chữ nuốt âm được phải là âm “bằng” (có dấu “huyền” hoặc dấu “ngang”).
- Nếu hai anh nhận sai, có vẻ ngày hôm nay không có gì, nhưng khi mọi việc diễn ra theo ý muốn của “tập hợp” Nguyễn Văn Thành, thì hai anh là “cái cọc nhọn” đâm thẳng vào tim ác quỷ Dracula nó cần nhổ bỏ trước tiên, kéo theo những “cái gai” khác: các nhà báo tham gia thông tin vừa qua, các đảng viên tốt bụng giúp anh ghi âm, ghi hình lại, các cộng tác viên của hai anh và nhiều người khác. Lại xin lỗi hai anh để nhắc lại cụm từ của người cộng sản: “diệt từ trong TRỨNG NƯỚC” và “ĐÀO TẬN GỐC TRỐC TẬN RỄ” để cho tất cả những ai đang sống tại Việt Nam một lần nữa thấm thía hơn bản chất giới cầm quyền hiện nay là đa số thù dai và hẹp hòi, quyết không bỏ qua bất cứ việc gì, huống gì đây là một việc ảnh hưởng quá lớn đến cái gọi là “danh dự”, “uy tín” của họ.
- Trong trường hợp “tập hợp” Nguyễn Văn Thành cuốn gói, các “đệ tử”, “phe cánh” thuộc hàng “chân truyền” sẽ tiếp tục chĩa ống nhòm về phía hai anh để chộp bất cứ yếu tố có lợi cho chúng và sự rình mò này sẽ diễn ra đến hết cuộc đời. Các anh vẫn còn nhớ đồng nghiệp Lưu Quang Vũ, Dương Thu Hương, Đơn Dương v.v…? Nhắc điều này có vẻ phì cười trong thời đại a còng, tuy nhiên, rất tiếc đầu óc của bọn cặn bã vẫn là đầu óc bã đậu với cụm từ khỏi cãi “gu gồ chấm tiên lãng” để nhắc hai anh, bọn chúng tự phụ đến nỗi đần độn để không đánh giá đúng về sức mạnh kinh hoàng của internet, do đó chúng hầu như chỉ sử dụng những chiêu thức xưa cũ của mấy mươi năm về trước để trả thù. Không thể không nhắc lại chị Tạ Phong Tần ngồi trong nhà xí chúng còn tông cửa xông vào, anh Cù Huy Hà Vũ thì “xài hai bao cao su”, tên công an theo dõi anh Đỗ Nam Hải đã lấy ghế (cái mà người ta đặt mông để ngồi) che mặt (xin lỗi, có khác gì đội quần), cụ Hoàng Minh Chính còn bị ném phân vào nhà v.v…!
Mong anh Vinh và anh Lập bảo trọng.
Các tuyên bố, động thái cứ xoay như đèn cù. Đó cho thấy, chính ông Dũng đang khá bấn loạn, hoang mang vì không nắm được tình hình thực sự diễn biến như thế nào. “Bản lãnh chính trị” – cái rất quan trọng của một đương kim Thủ Tướng hoàn toàn rơi rụng! Sự sáng suốt, bình tĩnh trước biến cố quá đột ngột cũng vụt mất nhanh chóng, cho thấy ông Dũng quá non kém về điều hành. Người điều hành, quản lý đất nước tối cao như vậy là hỏng, khi nghĩ về một biến cố tồi tệ nghiêm trọng hơn rất nhiều, do đó chẳng lấy làm lạ khi nghĩ về việc ông Dũng chối tội trong vụ Vinashin (4).
Như “bức tranh vân cẩu” (5), nếu chúng ta lùi ra xa một chút và nhìn lại toàn cảnh vụ án anh Vươn. Thuở đời, có ông đương kim Thủ tướng nào lại đi đề nghị cấp dưới, đi “xin” tòa (tư pháp độc lập) chiếu cố “giảm tội” cho “phạm nhân”?! Quả là đời biến đổi khôn lường như “tranh vân cẩu” vậy! Hơn thế, ý đồ ông Dũng ban đầu khá rõ theo “phong cách truyền thống” – (tạm gọi) “dẹp loạn”. Hễ có gì lùm xùm là cứ dập tắt cho bằng được, mọi sai trái đều trút lên đầu người dân, quan là đúng!!! Khi dư luận phẫn nộ bởi những đợt sóng cuộn trào cao ngút trời xanh, lúc này ông Dũng biết rõ: hết còn cơ hội “dập từ trong trứng” và tất nhiên ông ta nghe theo lời các… “quân sư” là dễ hiểu, bởi ông vừa đưa được con trai út vào guồng máy quyền lực, có vẻ còn khá hả hê, viên mãn!
Ai tư vấn cái điều oái oăm này thế, ông Dũng? Lũ “Vưu Hồn”, “Bí Trọng” nó đang “gài” ông một vố đấy, ông Thủ tướng “xuất sắc nhất châu Á” ạ! Lũ nó hạ cái uy tín của ông thấp đến nỗi không còn chỗ nào thấp hơn. Ông đang mắt kẹt Vinashin và chúng nó “gài” ông “xin” tòa Hải phòng cân nhắc tội anh Vươn, nghĩa là ông đã nợ chúng một điểm trong ván cờ domino mà ông đang ở thế “triệt buộc”, ông đành phải lật hết các quân cờ và tính điểm với chúng sòng phẳng!
Giật mình đi, ông Dũng! Vinashin đang giao về cho tòa Hải Phòng xử án (6). Ai giao? Trương Hòa Bình _ Chánh án TANDTC – kẻ đã từng ra vẻ cun cút và chiều lụy ông khi tuyến bố “Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, xét xử 2 cấp nên nếu thấy quyết định trái pháp luật thì có quyền hủy, trừ quyết định của Thủ tướng” (7).
Các ý kiến ông Dũng rõ là phụ thuộc vào các “quân sư”, mà một trong các “quân sư” đó chính là Phạm Quý Ngọ – Trung tướng- Thứ trưởng Bộ công an, mà nhà văn Nguyễn Quang Vinh đã có cuộc trao đổi trực tiếp (8). Trong cuộc trao đổi này, với tư cách là Trung tướng – Thứ trưởng Bộ công an, va luôn tự mãn với “chiến công” “hiển hách” trong việc dập tắt vụ nông dân Thái Bình nổi dậy của 15 năm về trước, mà nhà văn Nguyễn Quang Vinh bình: “…với vụ Tiên Lãng, như duyên phận, Trung tướng Phạm Quý Ngọ lại thay mặt Bộ Công an chỉ huy toàn cục những xử lý pháp luật về vụ việc trái pháp luật tại địa phương này”. Không phải là “duyên phận”, đầy ngụ ý hơn nên gọi “nghiệp chướng”, nếu ai đó tin vào “Luật nhân quả”. Tại sao chỉ qua một đêm, suy nghĩ của Tướng Ngọ trở nên lật bàn tay để đi từ dân sai trở thành giới cầm quyền địa phương sai? Một Thứ trưởng Bộ công an với nhiều năm lăn lộn, thủ đoạn có thừa lại có thể bộp chộp thế chăng? Đáng ngờ!
E rằng, không “dễ thương” và “dịu dàng” như “cô gái Thái Bình” thuở nào, bởi “bà Tiên Lãng” đã quá khác:
1) Năm 2012 không phải là 1997 – khác quá xa về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, đạo đức, dân trí kể cả ngoại giao đang rất cô độc và tệ hại. Tất nhiên phải nói cả sự thỏa mãn và lòng tham vô đáy, và bởi từ “vũ khí tối thượng” – INTERNET – thứ mà nhiều người nghĩ rằng nếu nó xuất hiện từ 1997, vụ “dập” Thái Bình không dễ dàng thế! Hải Phòng hôm nay không phải là nơi đèo heo hút gió như… Mường Nhé – nơi còn khá hoang sơ, nói gì đến “web”!
2) Việt Nam chưa cần đi “năn nỉ” trong những chuyên công du quốc tế rằng: “hãy công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường” như mới đây Vũ Văn Ninh – Phó thủ tướng lại tiếp tục “năn nỉ” Mỹ việc này (9).
Khó lắm, khó lắm, không có dễ đâu! Mọi việc đâu dễ ém nhẹm êm xuôi như ngày xưa cho giới cầm quyền ăn ngon và ngủ yên trên chiếc gối êm – “Chủ nghĩa Mác- Lê” & tư tưởng HCM.
Đừng bám vào quá khứ “thành công” trong đàn áp nông dân của ngày xưa để mong đợi chủ quan một thành công ngày nay tương tự y vậy, Tướng Ngọ! Và cũng bởi: LOẠN HẾT RỒI! Một cuộc nội chiến mang dáng dấp “Trịnh – Nguyễn phân tranh” và còn hơn thế nữa, đang dần hiển hiện như nhiều nhận định vừa qua?
***Có thể lắm, bởi trong lúc “khói lửa can qua” tại Tiên Lãng, nơi cách Đà Nẵng cả ngàn cây số, nơi các đồng chí đang “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” để…bóp (cho bằng) nát, thì một “đồng chí” khác bỗng nhảy phắt từ trên ghế xuống, triệu tập mấy ngàn đảng viên, công chức để giáo huấn về “phận công bộc”, vâng! “đồng chí” Nguyễn Bá Thanh, đích y! Việc nhảy xổ ra lúc này để nói những lời đường mật, bỗng làm cho Nguyễn Bá Thanh như vị “cứu tinh đời em” trước quần hùng như rắn mất đầu, hoang mang cao độ bằng mấy vần thơ như xỉa xói vào cả Bộ chính trị ĐCSVN rằng:
Sinh ra vốn dĩ là dân
Phấn đấu dần dần cũng được thành quan
Hết quan rồi lại hoàn dân
Hoàn dân rồi lại dần dần vào quan.
Chắc chắn “vào quan” ở đây là vào quan tài!.
Nguyễn Bá Thanh quả tỏ ra nhạy bén và chớp cơ hội nhanh như cắt trong khi các đồng chí của ông ta đang phơi trần trụi bản chất tham tàn cùng một trình độ dốt nát. Hay! Hãy nghe Blogger Trương Duy Nhất “chê” Nguyễn Bá Thanh như sau (10):
Bây giờ, có thể nói những ai lo lắng cho Trương Duy Nhất sau lời đe dọa từ Tom Cat đã có thể yên lòng, chẳng kẻ nào dám động đến cọng lông chân của anh Trương, một khi “vách đá” sừng sững Nguyễn Bá Thanh (cùng bộ sậu) còn đó, trừ phi một trận tsunami xuất hiện giật sập và cuốn trôi nó.
Cuộc thanh trừng hay cuộc nội chiến, nếu xảy ra chắc chắn nó không xuất phát từ Hà Nội hay Saigon mà có thể phần lớn từ Hải Phòng và Đà Nẵng để rồi lan tỏa. Do vậy, Trương Duy Nhất được khuyến khích hãy phát huy hơn nữa “nhằm thẳng quân mình mà đánh” để ngoài tả phù (công an& tòa án& viện kiểm sát địa phương), và hữu bật (quân đội & các cơ quan công quyền địa phương) còn có “chân giữa” (trọng tâm à nha!) của người phát ngôn “hãy đọc blog đừng đọc báo” nhằm giúp Nguyễn Bá Thanh mau chóng lên ngôi “Chúa” trong một ngày gần nhất. Chúc “tập hợp” Nguyễn Bá Thanh thành công!
Có lẽ đại gia đình anh Vươn trở thành điểm tựa vững chãi cho dân oan trong việc đi đòi công lý, vì thế hai chị và cả các anh đang bị tạm giam chắc chắn không quên sự cưu mang nghĩa tình, sự lên tiếng ủng hộ từ tinh thần đến vật chất của người Việt trong và ngoài nước, đặc biệt giới báo chí. Vậy đề nghị hai chị hãy làm chút gì đó để nâng đỡ tinh thần cho bà con đang bị oan ức, bởi chuyện đại gia đình chị đã trở thành “chuyện không của riêng ai”, hai chị cần có trách nhiệm hơn trong động thái và lời nói của mình. Tất nhiên tôi không dám đòi hỏi những gì quá tầm tay từ hai chị, chỉ mong:
- Thay vì hai chị dùng những câu (đại loại): cám ơn đảng, nhà nước, chính phủ v.v… mong hai chị hãy tỏ rõ tư thế người ngay thẳng, tính chính danh và còn nguyên vẹn quyền công dân bằng những câu (ví dụ):
+ Gia đình chúng tôi đánh giá cao kết luận của Thủ tướng.
+ Gia đình chúng tôi tạm ghi nhận việc hối lỗi của chính quyền địa phương và chờ những hành động phù hợp lời nói từ phía chính quyền.
+ Gia đình chúng tôi tin rằng công lý vẫn tồn tại và pháp luật phải được thực thi tại Việt Nam.
v.v…
Những phát biểu này chứng minh cho phía cầm quyền hiểu cái sai của họ, cũng như hai chị giúp họ giật mình mà tẩy xóa những phát ngôn mang chất ban ơn mưa móc, bởi họ là CÔNG BỘC của nhân dân Việt Nam, những gì họ đang hưởng từ lương cho đến “lậu” đều là của người dân, họ phải thực hiện trách nhiệm và bổn phận của họ.
- Tuyệt đối không tỏ ra nôn nóng hay buồn bã, thất vọng, bởi hàng trăm ngàn dân oan khác đang nhìn vào hình ảnh đại gia đình hai chị, do vậy hai chị không thể làm họ thất vọng.
Rất tiếc khi tôi đang viết bài này, biết thông tin hai chị đã có đơn xin khoan hồng (11) gửi tới chủ tịch nước, tôi cho đó là bước đi sai lầm. Bởi chỉ kẻ có tội mới xin khoan hồng, trong khi vụ việc đại gia đình hai chị vẫn chưa ngã ngũ. Hai chị đã tự đá vào lưới nhà!(**) Quá tiếc!
Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ “tình đồng chí” “đoàn kết thắm thiết” giữa anh Tư và anh Ba lại “hay”!
Sau cùng, cánh nhà báo “lề phải” thân mến, tôi đánh giá cao chuyên môn và đạo đức khi các quý vị tác nghiệp về vụ án Đoàn văn Vươn, các phóng sự, bản tin của quý vị đã làm sôi động bầu không khí “tự do báo chí lề phải” và tôi chung vui với quý vị khi một công ty phát hành sách báo cho biết, những ngày qua lượng báo phát hành ra tăng vọt gần gấp đôi trong tình hình kinh tế èo uột. Quý vị cũng thấy, cuối cùng chính độc giả, chính người dân nuôi quý vị thôi, chả có đảng điếc gì cả! Tuy vậy, mong quý vị hãy chừng mực và cẩn trọng hơn, đừng giật những cái title (ví dụ) “Vỡ òa niềm vui”, “thấu tình đạt lý”, bởi có thể quý vị có thể “vỡ mật”, khi “bức tranh vân cẩu” thay hình đổi dạng ngoạn mục.
Nguyễn Ngọc Già
_______________
http://nguyencuvinh.wordpress.com/2012/02/24/v%e1%bb%a5-tien-lang-k%e1%bb%b3-24-gi%e1%bb%9bi-thi%e1%bb%87u-video-clip-bi-th%c6%b0-thanh-noi-chuy%e1%bb%87n-v%e1%bb%9bi-clb-b%e1%ba%a1ch-d%e1%ba%b1ng/(1)
http://tintuchangngay.info/2012/02/28/hua-vao-th%e1%ba%b1ng-v%c6%b0%c6%a1n-luon-hay-b%e1%ba%aft-d%e1%ba%a7u-t%e1%bb%ab-do-luon-co-quan-tr%e1%bb%8dng-gi-hay-khong/ (1)
http://www.google.com.vn/#hl=vi&sclient=psy-ab&q=%22ch%C3%B3+h%C3%B9a%22&pbx=1&oq=%22ch%C3%B3+h%C3%B9a%22&aq=f&aqi=g1&aql=&gs_sm=3&gs_upl=765l765l17l4758l1l0l1l0l0l0l0l0ll1l0&bav=on.2,or.r_gc.r_pw.r_qf.,cf.osb&fp=c7a31bcb1dbdda2e&biw=1093&bih=444 (2)
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/58391/vu-cuong-che–dang-ra-soat-ai-pha-nha-dan.html (3)
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/51894/thu-tuong–vu-vinashin–toi-khong-ra-quyet-dinh-nao-sai.html (4)
http://vi.wiktionary.org/wiki/Tranh_V%C3%A2n_C%E1%BA%A9u (5)
http://tintuchangngay.info/2012/02/15/giao-tand-h%E1%BA%A3i-phong-xet-x%E1%BB%AD-v%E1%BB%A5-vinashin/ (6)
http://www.baomoi.com/Tan-thanh-su-tham-gia-cua-VKS-vao-cac-phien-toa-dan-su/58/5918151.epi (7)
http://nguyencuvinh.wordpress.com/2012/02/22/v%e1%bb%a5-tien-lang-k%e1%bb%b3-20-trung-t%c6%b0%e1%bb%9bng-th%e1%bb%a9-tr%c6%b0%e1%bb%9fng-b%e1%bb%99-cong-an-ph%e1%ba%a1m-quy-ng%e1%bb%8d-b%e1%bb%99-cong-an-d%e1%ba%b7c-bi%e1%bb%87t-quan-tam-v/ (8)
http://www.tinmoi.vn/pho-thu-tuong-vu-van-ninh-tham-va-lam-viec-tai-my-02757729.html (9)
http://truongduynhat.vn/?p=5589 (10)
http://www.vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/62039/gia-dinh-ong-vuon-gui-don-len-chu-tich-nuoc.html (11)
(*) Độc tài dù sáng suốt đi chăng nữa thì khi sự sáng suốt cắp nón ra đi, độc tài vẫn bám lại. Nguyễn Bá Thanh có phải là “độc tài sáng suốt” và vì dân không, khi nhớ lại vụ Cồn Dầu và vụ tự thiêu của Phạm Thanh Sơn cũng như vụ dân đập phá tan nát một công ty về BĐS?. Hình như Nguyễn Bá Thanh mơ màng nghĩ bản thân gần như một Park Chung Hee hay cao hơn một Lý Quang Diệu? E rằng Bá Thanh còn “đường xa vạn dặm” để vói tới những nhân cách lớn đấy!
(**) Không biết có phải các luật sư tư vấn? nếu quả vậy, thật đáng buồn!
VietNamNet giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại nội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng khai mạc ngày 27/2.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) đã bàn và thống nhất ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là một Nghị quyết rất quan trọng, được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm; quan tâm từ trong quá trình diễn ra Hội nghị đến khi kết thúc Hội nghị. Ngay sau khi ban hành, Nghị quyết đã được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đón nhận với một tình cảm hồ hởi, vui mừng, đồng tình, nhất trí cao, cho rằng Nghị quyết đã lựa chọn đúng vấn đề, đánh giá đúng thực trạng và đề ra đúng các giải pháp để tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân. Đã có hàng trăm bài báo, hàng trăm bức thư, hàng nghìn ý kiến tâm huyết gửi về Trung ương bày tỏ tình cảm và sự tâm đắc, phấn khởi, kỳ vọng của mình. Tuy nhiên, dư luận cũng đang chờ đợi và có phần băn khoăn, lo rằng liệu Nghị quyết lần này có được tổ chức thực hiện hiệu quả không hay lại rơi vào tình trạng “không đạt yêu cầu” như nhiều lần trước. Tâm trạng đó là chính đáng và cũng là điều day dứt, trăn trở chung của tất cả chúng ta.
Ý thức sâu sắc được vấn đề này, ngay tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 4, Ban Chấp hành Trung ương đã yêu cầu phải lãnh đạo, chỉ đạo thật tốt việc tổ chức thực hiện, coi đây là vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa quyết định để đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Sau một thời gian ngắn tích cực và khẩn trương chuẩn bị, hôm nay, Bộ Chính trị triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc để phổ biến, quán triệt nội dung của Nghị quyết Trung ương, Chỉ thị và Kế hoạch triển khai của Bộ Chính trị. Sự có mặt đông đủ của tất cả các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và sự tham gia của toàn thể cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành trong cả nước đã nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Hội nghị này và thể hiện tinh thần nghiêm túc, quyết tâm cao của Đảng ta ngay từ khâu mở đầu trong toàn bộ kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết. Có lẽ đây cũng là Hội nghị lớn nhất về phổ biến một Nghị quyết chuyên đề của Trung ương từ trước đến nay.
Mục đích của Hội nghị này là thông qua việc giới thiệu, phổ biến các nội dung Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch, giúp các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý nghĩa, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những kiến thức cần thiết, những tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó, tạo sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm, thấy đầy đủ trách nhiệm của mình để gương mẫu, tự giác thực hiện và chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết có hiệu quả trên mỗi cương vị công tác tại địa bàn, lĩnh vực thuộc trách nhiệm lãnh đạo của mình. Ban Tổ chức Hội nghị đã phổ biến, báo cáo với các đồng chí chương trình, nội dung, cách thức tiến hành Hội nghị. Tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm là, Hội nghị của chúng ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Các đồng chí cần nêu cao ý thức trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và đất nước, tập trung cao độ cho việc học tập, nghiên cứu, thảo luận, để thu được kết quả tốt. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có quyết tâm rất lớn và thống nhất rất cao. Mong toàn thể các đồng chí cũng thống nhất rất cao và quyết tâm rất lớn, ngay trong việc học tập Nghị quyết này.
Vừa qua, các đồng chí đã được nghe thông báo nhanh kết quả và các nội dung chính của Hội nghị Trung ương 4 qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc tại các hội nghị phổ biến, quán triệt Nghị quyết do cấp uỷ tổ chức. Nghị quyết của Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị viết rất ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, các đồng chí cần nghiên cứu trực tiếp. Sau đây, để giúp các đồng chí hiểu sâu hơn, tôi xin nói thêm một số vấn đề, chủ yếu là cung cấp thông tin hoặc nói rõ hơn một số nội dung được đề cập trong Nghị quyết của Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị.
Tập trung vào 4 phần lớn : (1) Vì sao lúc này Trung ương phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng. (2) Mục đích, yêu cầu, quá trình chuẩn bị và phạm vi của Nghị quyết. (3) Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị. (4) Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện.
I./.Vì sao lúc này Trung ương phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng
Từ trước đến nay, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Đã có không ít các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng Đảng. Các Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đều có đề cập đến công tác xây dựng Đảng; có đại hội có báo cáo riêng về xây dựng Đảng. Chỉ tính từ Đại hội VI đến nay, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành 8 nghị quyết, Bộ Chính trị ban hành 6 nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Ban Bí thư khoá VII đã chỉ đạo tiến hành tổng kết 20 năm xây dựng Đảng thời kỳ 1975 – 1995; Ban Bí thư khoá IX chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới (1986 – 2006), trong đó có phần về xây dựng Đảng.
Đã có nhiều Nghị quyết về xây dựng Đảng như vậy, tại sao lần này Trung ương lại phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng nữa?
Theo tôi có 4 lý do :
Một là, vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng luôn luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là bài học lớn, là kết luận sâu sắc được rút ra qua suốt quá trình hơn 80 năm hoạt động của Đảng ta, đồng thời cũng là lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng, nhiều nước trên thế giới. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Trước kia đã như vậy, hiện nay đang như vậy, và sau này cũng sẽ vẫn như vậy. Các đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã coi sự lãnh đạo của đảng cộng sản là vấn đề có tính nguyên tắc, có tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bác Hồ cũng đã từng nói, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Sự tan rã của Liên Xô là do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân rất cơ bản chính là vì Đảng Cộng sản lúc đó đã suy thoái, biến chất do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi; một số người lãnh đạo cấp cao của Đảng rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội hữu khuynh, mắc sai lầm về đường lối, thậm chí phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đảng đông (21 triệu đảng viên) nhưng không mạnh, mất sức chiến đấu nên khi tình hình xấu xảy ra đã tan rã. Có thể nói, đây là bài học vô cùng sâu sắc và đắt giá mà mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta cần phải thấm thía, luôn luôn khắc sâu, ghi nhớ, đừng để đi vào “vết xe đổ” đau xót đó. Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cải cách, mở cửa cũng luôn luôn khẳng định dứt khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, và trong những lần trao đổi với chúng ta, bạn thường nhấn mạnh không để bị “Tây hoá”, “tha hoá”, “thoái hoá”. Đảng Cộng sản Cu-ba đang đổi mới từng bước theo đường lối “cập nhật hoá mô hình phát triển kinh tế – xã hội”, cũng kiên quyết khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Mới đây, Đảng Cộng sản Cu-ba vừa tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc về xây dựng Đảng. Trong thời đại ngày nay có lẽ không có nước nào trên thế giới lại không có đảng (dù một đảng hay nhiều đảng) hoặc một tổ chức chính trị tương tự như đảng lãnh đạo.
Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng và coi trọng công tác xây dựng Đảng; đây là nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, nền độc lập tự chủ của Tổ quốc ta. Vào thời điểm này, chúng ta càng cần phải khẳng định mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng và ý nghĩa quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Vừa qua, cũng có nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác chưa phải đã nhận thức một cách sâu sắc vấn đề này. Hoặc là chỉ nặng về công tác chuyên môn, chưa quan tâm đầy đủ đến công tác xây dựng Đảng; hoặc là có ý nào đó xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng, coi nhẹ công tác Đảng. Đây đó có người cho rằng phát triển kinh tế thị trường, nhiều thành phần, mở cửa, hội nhập quốc tế, liên doanh, liên kết với nước ngoài thì cần gì phải có sự lãnh đạo của Đảng. Thậm chí có ý kiến cho rằng hình như sự lãnh đạo của tổ chức đảng chỉ gây rắc rối thêm, ngáng trở sự phát triển của kinh tế (?).
Hai là, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay rất to lớn, nặng nề, khó khăn, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo lên cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh hơn nữa. Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng vừa thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây thật sự là một cuộc vận động cách mạng toàn diện, sâu sắc và cao cả.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hoá, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế… Phải xử lý, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa… So với trước đây, chưa bao giờ đất nước ta lại triển khai xây dựng, phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế với quy mô rộng lớn như hiện nay. Có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải được giải đáp và giải quyết, cả về lý luận và thực tiễn; có những vấn đề tưởng chừng như mâu thuẫn, nghịch lý.
Tình hình thế giới lại đang có những diễn biến hết sức mau lẹ, phức tạp, khó dự báo, do có sự tranh chấp giữa các nước lớn, giữa các lực lượng; sự mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các quốc gia, các giai cấp, các dân tộc, các khu vực; sự biến đổi khí hậu toàn cầu; sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái mới, rất quyết liệt. Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế của hệ thống tư bản chủ nghĩa những năm 2008 – 2009 chưa giải quyết xong thì lại đến cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ và nhiều nước Tây Âu lan tràn từ Ai-len, Hy Lạp đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, I-ta-li-a… Phong trào “Chiếm phố Uôn” từ Niu-oóc đã lan khắp các thành phố ở Mỹ, sang cả nhiều nước Tây Âu, Nhật Bản… Cuộc khủng hoảng nợ công này được coi là biểu hiện của “lỗi hệ thống”, phản ánh sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản, có thể dẫn đến cuộc suy thoái mới của chủ nghĩa tư bản, theo như nhận định và dự báo của nhiều chuyên gia quốc tế. Tình hình Biển Đông, tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng đang có những diễn biến phức tạp mới…
Trong tình hình ấy, chúng ta chủ trương thực hiện một đường lối đối ngoại độc lập, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá, hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế; phải xử lý các mối quan hệ sao cho vừa kiên định về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, khôn khéo về phương pháp, sách lược; vừa giữ vững độc lập chủ quyền của quốc gia, bảo vệ được chế độ chính trị, thành quả cách mạng, vừa tạo được môi trường hoà bình, ổn định để phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước, tránh được sơ hở, tránh bị mắc bẫy, thêm được bạn, bớt được thù, quả thật là không đơn giản. Trong quá trình chuyển đổi phương thức quản lý kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, có nhiều việc chúng ta phải vừa làm, vừa học, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm và chịu tác động mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Có không ít vấn đề tác động trực tiếp đến nước ta, vào cả tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của cán bộ, đảng viên, nhân dân ta.
Ba là, bản thân Đảng, bên cạnh mặt tích cực, bản chất và truyền thống tốt đẹp được phát huy cũng đang đứng trước nhiều yêu cầu mới và có những hiện tượng tiêu cực, phức tạp mới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ;… đất nước lại phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế tác động vào Đảng. Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hoá giàu – nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không ? Nhà triết học cổ điển Đức L.Foiơ Băc đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai ? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không ? Thực tế đã có bộ phận suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Có người công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người “sám hối”, “trở cờ”; tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị vi phạm. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền, như Lê-nin và Bác Hồ đã từng cảnh báo. Chúng ta đã tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta ngày càng tiến bộ, trưởng thành; song vẫn còn nhiều hạn chế. Các mặt khuyết điểm, yếu kém chưa khắc phục được bao nhiêu, có mặt còn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tác động tiêu cực vào sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây thực sự là những cảnh báo không thể xem thường.
Bốn là, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt. “Diễn biến hoà bình” là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là “thủ đoạn hoà bình để giành thắng lợi”. Nhiều chuyên gia và chính khách phương Tây còn gọi đây là phương pháp “chuyển hoá hoà bình”, “biến đổi hoà bình”, “cách mạng hoà bình” và gần đây là “cách mạng nhung”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”… Trong chiến lược này, hoạt động tư tưởng – văn hoá được họ coi là “mũi đột phá”, là “cây cầu dẫn vào trận địa”, là lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xoá bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã tổng kết : “Có những việc 100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi, nhưng chỉ cần 10 sứ giả lại có thể hoàn thành”; “một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước”. Ngày nay “làn sóng điện đang thay thế thanh gươm; cây bút là phương tiện đi vào trái tim khối óc con người”; “một đô la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5 đô la chi cho quốc phòng”; “kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo là bốn đòn đột phá khẩu, bốn mũi xung kích để chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị”.
Thời gian gần đây, các làn sóng chống đối ta về mặt tư tưởng chính trị lại rộ lên, có lúc dồn dập. Có thể là do tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến mới; tình hình kinh tế – xã hội nước ta bên cạnh thành tựu lớn cũng xuất hiện những khó khăn và thách thức mới, các tệ nạn xã hội như tham nhũng, hối lộ, ma tuý, mại dâm… tiếp tục gia tăng, sự phân hoá giàu nghèo phát triển. Tình trạng quan liêu, mất dân chủ làm dân bất bình dẫn đến khiếu kiện đông người ở một số nơi phức tạp. Các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chắc mẩm đây là cơ hội để họ dấn tới tác động, làm chuyển hoá tình hình, thay đổi đường lối ở nước ta, cho nên họ hoạt động rất điên cuồng với nhiều thủ đoạn và sách lược mới; vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển lực lượng ở trong nước ta để tạo ra sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, chống đối từ nội bộ Đảng ta, xã hội ta, hòng phá ta từ bên trong phá ra, làm cho “cộng sản tự diệt cộng sản”, “cộng sản con diệt cộng sản bố”. Họ đang cố tìm ra và dựng lên những “ngọn cờ” để chống ta. Một số người cơ hội chính trị, bất mãn cũng lợi dụng các diễn đàn, các mối quan hệ để truyền bá những quan điểm sai trái của mình, liên tiếp viết đơn thư, tài liệu vu cáo, đả kích chế độ ta, tác động vào nhân dân, nhất là thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ, trí thức…
Nội dung các quan điểm của họ vẫn là những luận điệu lâu nay các nhà tư tưởng chống cộng đã từng nói và đã từng nhiều lần bị chúng ta phê phán, bác bỏ. Đại thể vẫn là phủ nhận thành tựu của cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, tồn tại của chúng ta, bôi đen hiện thực, gieo rắc hoài nghi, phá rã niềm tin của nhân dân và cán bộ, quy kết là do đường lối sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước. Phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định con đường xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán, đổ lỗi cho Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng. Kích động chia rẽ nội bộ, tung ra những luận điệu trong Đảng, trong Trung ương, Bộ Chính trị có phe này, phái kia; bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, kể cả Bác Hồ, tìm mọi cách “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”… Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị nói trên tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Trong bối cảnh tình hình nêu trên, nếu Đảng ta không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy mà Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Và đó cũng chính là những lý do giải thích vì sao lần này Ban Chấp hành Trung ương phải tiếp tục bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng.
II./. Mục đích, yêu cầu, quá trình chuẩn bị và phạm vi của Nghị quyết Trung ương 4.
1- Mục đích, yêu cầu
Đại hội XI của Đảng đã xác định chủ đề và cũng là tư tưởng chỉ đạo cho những năm tới là phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và đề ra yêu cầu phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo… tập trung vào 8 nhiệm vụ cơ bản có tính hệ thống, toàn diện. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, phải tiến hành thường xuyên, lâu dài. Trước mắt, cần lựa chọn một số vấn đề cấp bách nhất cần tập trung làm ngay để tạo ra được những chuyển biến cụ thể, rõ rệt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn và góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hội nghị Trung ương 4 bàn và ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chính là để đáp ứng yêu cầu đó, nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XI của Đảng phần nói về xây dựng Đảng, thực hiện Chương trình toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI.
2- Quá trình và cách thức chuẩn bị Hội nghị Trung ương 4
Nhận thức rõ vị trí và ý nghĩa quan trọng của Hội nghị Trung ương lần này, Bộ Chính trị đã tập trung chỉ đạo công việc chuẩn bị một cách rất khẩn trương, nghiêm túc và có bước đổi mới với yêu cầu phải rất cụ thể, thiết thực, khả thi, làm sao chọn đúng vấn đề, xác định đúng trọng tâm, đề ra được những biện pháp tích cực mang tính đột phá để tạo được chuyển biến rõ rệt trong thực tế. Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo chuẩn bị xây dựng Đề án, gồm một số đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và đại diện lãnh đạo các ban đảng ở Trung ương do đồng chí Thường trực Ban Bí thư làm Trưởng ban. Ban Chỉ đạo đã thành lập Tổ Biên tập khẩn trương tổ chức nghiên cứu, xây dựng Đề án. Dự thảo Đề án đã được gửi lấy ý kiến đóng góp của các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương và một số cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương. Đã tổ chức 4 hội nghị lấy ý kiến của đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, bí thư, phó bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Thường trực Ban Chỉ đạo trực tiếp làm việc, nghe ý kiến đóng góp của nhiều đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao, lão thành cách mạng và nhiều đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Trung ương Đảng có kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng. Bộ Chính trị đã dành 2 phiên họp để nghe Ban Chỉ đạo báo cáo và thảo luận những nội dung quan trọng của Đề án để trình Trung ương.
Tại Hội nghị Trung ương 4, các đồng chí Uỷ viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào các đề án, báo cáo của Bộ Chính trị. Đã có 202 lượt ý kiến phát biểu ở tổ và Hội trường; nhiều đồng chí gửi ý kiến bằng văn bản hoặc sửa trực tiếp vào dự thảo Nghị quyết. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua nội dung Nghị quyết và ngày 16-01-2012, Nghị quyết đã được ban hành. Tinh thần chung và sự thống nhất rất cao của Trung ương là quyết tâm tạo ra những bước chuyển biến rõ rệt, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng vì sự nghiệp của đất nước, của dân tộc và của Đảng. Như vậy, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 thực sự là sản phẩm của trí tuệ tập thể.
3- Về phạm vi của Nghị quyết
Lần này, Trung ương không bàn toàn diện mà chỉ chọn một số vấn đề cấp bách nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay để tập trung chỉ đạo thực hiện với mong muốn khắc phục những cách làm dàn trải trước đây, tạo ra bước chuyển biến cụ thể, thiết thực trong thực tế. Đó là 3 vấn đề : (1) Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. (3) Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, trong mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong 3 vấn đề trên, khi thảo luận có ý kiến hỏi vấn đề nào là trọng tâm, là quan trọng nhất, cấp bách nhất ? Có ý kiến cho rằng, bây giờ vấn đề tư tưởng chính trị là quan trọng nhất, vì nó liên quan đến sinh mệnh chính trị của Đảng, đến Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng – tức là vấn đề rất cốt tử. Ý kiến khác lại nói vấn đề ấy là ở trên Trung ương, ở tầm cao, tầm chiến lược, chứ còn ở địa phương, ở cơ sở thì điều nhức nhối là vấn đề suy thoái đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, vấn đề này quần chúng dễ nhìn thấy. Quần chúng ở cơ sở không mất lòng tin vào Đảng, vào đường lối, mà mất lòng tin vào con người cán bộ cụ thể ở cơ sở, mất lòng tin qua một số hiện tượng như tham nhũng, tiêu cực, suy thoái phẩm chất đạo đức, cho nên phải coi vấn đề đạo đức, lối sống là vấn đề cấp bách nhất. Lại có ý kiến cho rằng, bây giờ nguyên nhân của mọi nguyên nhân vẫn là vấn đề cán bộ; con người là quyết định hết thảy. Chúng ta nói mãi mà tổ chức cứ phình ra, bộ máy thì chồng chéo, biên chế thì tăng lên, lương thì bất hợp lý cho nên phải gỡ từ công tác tổ chức, cán bộ. Cũng có ý kiến cho rằng, hiện nay thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân xác định không rõ, nên nhiều vụ việc không xử lý được vì không ai chịu trách nhiệm; có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, thành tích thì nhận của cá nhân, còn khuyết điểm thì đổ cho tập thể; vì vậy vấn đề phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân là vấn đề cấp bách nhất. Mỗi ý kiến đều có khía cạnh hợp lý, đều quan trọng và cấp bách cả, không thể coi nhẹ vấn đề nào. Tuy nhiên, đứng trên tổng thể mà xét, hiện nay cái làm cho quần chúng oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng. Cho nên, 3 vấn đề đã nêu đều quan trọng và có liên quan mật thiết với nhau, nhưng Trung ương thống nhất xác định vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất. Đây chính là khâu đột phá trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng hiện nay, là “mắt xích” chủ yếu mà chúng ta cần nắm lấy, song trong chỉ đạo không được coi nhẹ 2 vấn đề kia.
III./. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết
Như trên đã nói, lần này Trung ương đổi mới cách ra Nghị quyết. Bản Nghị quyết được viết ngắn gọn, nhưng chứa đựng nhiều nội dung cơ bản và quan trọng, có nhiều điểm mới, chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề cấp bách đã được xác định. Trên cơ sở đó, đi thẳng vào đánh giá tình hình, phân tích nguyên nhân, chỉ rõ mục tiêu, phương châm, các giải pháp tiến hành và cách tổ chức thực hiện. Đề nghị các đồng chí đọc, nghiên cứu trực tiếp. Tôi chỉ nhấn mạnh thêm một số điểm :
1- Về đánh giá tình hình và nguyên nhân
Việc đánh giá tình hình thường rất khó, vì nó tuỳ thuộc vào chỗ đứng, góc nhìn, cách nhìn, lượng thông tin có được của mỗi người. Thực tế khi thảo luận ở Hội nghị Trung ương và xin ý kiến đóng góp của một số tập thể và cá nhân, có một số ý kiến cho rằng, Đề án chưa thể hiện tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, còn né tránh, chưa thấy hết mức nghiêm trọng của những yếu kém, khuyết điểm, tình hình nghiêm trọng hơn nhiều. Một số ý kiến khác lại cho rằng, Đề án nêu phần khuyết điểm quá nặng nề, đen tối, tình hình Đảng không đến mức như vậy; nếu xấu như vậy thì tại sao những năm qua chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn mà cả thế giới thừa nhận, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao ? Nói thế nào cho khoa học, đúng mức, không nên tự bôi nhọ mình, để kẻ xấu lợi dụng. Nó đang muốn phá vỡ niềm tin, bôi xấu mình thì mình lại tự làm mất uy tín của mình, như thế thì có khác nào tiếp thêm đạn cho địch bắn.
Trung ương yêu cầu cần phải có phương pháp nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, biện chứng, khoa học, nhìn thẳng vào sự thật, bình tĩnh, không phiến diện, không tô hồng và cũng không bôi đen; chỉ ra cả mặt thành tựu và yếu kém; phân tích toàn diện cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Thực tế có đến đâu nói đến đấy, không nên thổi phồng, cường điệu một mặt nào.
Với những nguyên tắc phương pháp luận đó, Trung ương đã chỉ rõ, trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một Đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng… Trong thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững; niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hầu hết ý kiến đề nghị là phải khẳng định mạnh mẽ thành tựu, ưu điểm, bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng của Đảng ta. Phải khẳng định phần lớn cán bộ, đảng viên ta rất tốt; nếu không tốt thì làm gì có thành tựu như bây giờ. Thực tế lịch sử không thể phủ nhận được là, hơn 80 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình chính là bằng bản lĩnh, nghị lực; trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho dân tộc; bằng sự hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Tổ quốc ta, dân tộc ta chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay, chưa bao giờ có được vị thế trên trường quốc tế như hiện nay.
Tuy nhiên, Trung ương cũng thẳng thắn vạch ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trên cả 3 vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, chỉ ra tính chất, phạm vi, xu thế và hậu quả của những yếu kém, khuyết điểm đó. Phải nói, về tính chất, là nghiêm trọng, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục. Về phạm vi, là tương đối phổ biến, có ở các cấp, các ngành (“một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”). Về xu hướng, là diễn biến phức tạp, chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Về hậu quả, là làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; làm suy giảm vị trí, vai trò, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng; làm tổn hại tới uy tín, thanh danh của Đảng, Nhà nước. Những khuyết điểm đó nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ ta.
Trên vấn đề thứ nhất, Trung ương đã nghiêm khắc chỉ ra những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và suy thoái về đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị thể hiện ở chỗ : phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ : sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… Trong những biểu hiện đó, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm… ở một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, đương chức, hoặc thôi chức.
Trên vấn đề thứ hai, Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một số khuyết điểm trong công tác tổ chức, cán bộ. Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa xây dựng được quy hoạch ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
Trên vấn đề thứ ba, Trung ương chỉ ra tình trạng không rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị và mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho các việc làm tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Về nguyên nhân của yếu kém, khuyết điểm : Trung ương xem xét khá toàn diện, chỉ ra cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Các nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động lẫn nhau, xuyên thấm vào nhau rất phức tạp. Đáng chú ý là :
+ Nguyên nhân về sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; cán bộ lãnh đạo, quản lý không gương mẫu.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, không ít nơi có tình trạng dân chủ hình thức; tập thể là “bình phong” để hợp thức hoá ý kiến của thủ trưởng, mà thực chất là gia trưởng, độc đoán. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện rất kém, thiếu thẳng thắn, trung thực; xuê xoa, nể nang. Trong hội nghị thì nhất trí nhưng ra ngoài nói khác hoặc không thực hiện. Khi đương chức thì không nói hoặc nói kiểu này, khi nghỉ chức vụ hoặc về hưu lại nói kiểu khác. Khi còn phụ trách thì không được góp ý kiến nhưng khi nghỉ hưu, hoặc chuyển công tác thì có rất nhiều đơn, thư tố cáo. Mặt khác, lại có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật; kỷ cương không nghiêm. Có tình trạng vi phạm nguyên tắc sinh hoạt đảng, tán phát “tờ rơi”, thư nặc danh, đưa tin đồn để nói xấu, đả kích, làm mất uy tín nhau, gây nghi ngờ, chia rẽ nội bộ; thậm chí núp đằng sau xúi quần chúng đấu tranh.
+ Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên. Công tác nghiên cứu lý luận còn bất cập, lạc hậu, chưa giải đáp được nhiều vấn đề lý luận – thực tiễn còn vướng mắc hoặc ý kiến khác nhau. Tình trạng lười học tập hoặc học qua loa, đại khái, học đối phó, học cốt để lấy bằng còn xảy ra khá phổ biến.
+ Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc…
Từ sự phân tích trên đây, chúng ta có thể trả lời được câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao từ trước đến nay, Đảng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng, đã chỉ đạo nhiều cuộc vận động đổi mới, chỉnh đốn Đảng nhưng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta; do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân. Bác Hồ đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác, là giặc nội xâm, nó không mang gươm, mang súng nhưng vô cùng nguy hiểm, gian giảo, xảo quyệt; nó kéo người ta xuống dốc không phanh. Mọi thứ xấu xa, hư hỏng đều sinh ra từ căn bệnh này. Nếu không đánh bại, không quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì Đảng ta không thể trong sạch, vững mạnh được, không thể là một đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì dân được.
2- Về các nhiệm vụ và giải pháp
Trên cơ sở xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách như đã nêu trên, Trung ương chỉ ra các giải pháp bảo đảm đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách nhất. Có 4 nhóm giải pháp : (1) Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên. (2) Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng. (3) Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách. (4) Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Tinh thần toát lên trong các nhóm giải pháp đó là cần xác định những việc cần và có thể làm ngay và những việc cần phải có thời gian chuẩn bị, nhất là về xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, để xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện một cách kiên quyết, khả thi, hiệu quả.
Những việc cần và có thể làm ngay là : Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình, tự điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình; cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiến hành kiểm điểm, đánh giá, làm rõ trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đẩy mạnh chỉ đạo việc học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống. Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giải quyết từng vấn đề cấp bách, những việc cần làm ngay, xác định rõ về công việc, thời gian hoàn thành và người chịu trách nhiệm cụ thể. Nghiêm túc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý dứt điểm một số vụ việc mà dư luận quan tâm; cải tiến, nâng cao chất lượng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với những việc cần phải có thời gian chuẩn bị thì khẩn trương, nghiên cứu, tổng kết, đề xuất để đi đến quyết định và thực hiện. Ví dụ : Phải khẩn trương đổi mới công tác tổ chức cán bộ, chế độ sinh hoạt Đảng; kiểm tra, giám sát việc tự rèn luyện và giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhất là chính sách đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ cho phù hợp với điều kiện mới. Xây dựng quy định cụ thể về việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh thực hiện chất vấn trong Đảng. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, gắn với việc tổ chức thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; có cơ chế giám sát chặt chẽ của tổ chức đảng và nhân dân, kịp thời thay thế những người không hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, bảo đảm cho cán bộ, công chức có mức sống ổn định và có điều kiện để giữ liêm, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi.
Trong các nhóm giải pháp, có một số điểm mới là:
1- Các giải pháp bảo đảm tính đồng bộ, nhưng cũng rất tập trung, có lộ trình, kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, hướng vào giải quyết ba vấn đề bức xúc nhất, với mong muốn tạo được sự chuyển biến cụ thể, rõ rệt trong thực tế.
2- Nêu cao và rất nhấn mạnh sự tự phê bình và phê bình, sự gương mẫu của cấp trên, của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước hết là cấp trung ương và người đứng đầu các ngành, các cấp, các đơn vị. Nghị quyết nói rõ là : “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để cho các cấp noi theo”. “Các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí uỷ viên ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương Đảng, ban thường vụ các tỉnh uỷ, thành uỷ và cấp uỷ các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế”.
3- Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình được quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Nội dung chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết lần này gắn với việc thực hiện 19 điều đảng viên không được làm và việc giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm ở địa phương, đơn vị, ngành mình. Về cách làm thì từng đồng chí cấp uỷ, từng cán bộ, đảng viên phải chủ động, tự giác xem lại mình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, không chờ đến khi tổ chức hội nghị kiểm điểm. Trước khi mở hội nghị kiểm điểm phải chuẩn bị thật kỹ, phải tổ chức lấy ý kiến góp ý của cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội cùng cấp và các đồng chí nguyên là cấp uỷ viên cùng cấp. Uỷ ban kiểm tra chủ trì phối hợp với ban tổ chức, ban tuyên giáo, ban dân vận, văn phòng và các cơ quan liên quan kiến nghị với cấp uỷ (hoặc thường vụ cấp uỷ) nội dung gợi ý kiểm điểm cho tập thể, cá nhân ở những nơi cần thiết. Sau khi kiểm điểm, báo cáo kết quả với cấp trên và thông báo với cấp dưới và các cơ quan lấy ý kiến góp ý. Cấp uỷ, tổ chức đảng nào, cán bộ, đảng viên nào kiểm điểm tự phê bình và phê bình không đạt yêu cầu phải kiểm điểm lại; kiên quyết xử lý kỷ luật những cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không tự giác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, không tự nhận sai lầm, khuyết điểm, không khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm đã được nêu ra. Những trường hợp có vi phạm, tự giác kiểm điểm, tự phê bình nghiêm túc, tích cực sửa chữa, khắc phục, sẽ được xem xét giảm hoặc miễn xử lý kỷ luật. Sau đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương lần này sẽ duy trì nghiêm túc nền nếp, chế độ tự phê bình, phê bình hằng năm gắn với kiểm điểm theo chức trách, nhiệm vụ được giao và lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Định kỳ hằng năm, cấp uỷ, tổ chức đảng có hình thức thích hợp thông báo kết quả kiểm điểm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, đóng góp ý kiến. Định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội các cấp.
Làm tốt việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình sẽ có căn cứ để hiểu rõ thêm cán bộ, đánh giá, xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị và chuẩn bị quy hoạch cấp uỷ, các chức danh chủ chốt các cấp nhiệm kỳ tới. Quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Đồng thời kiến nghị với Quốc hội sớm có hướng dẫn để thực hiện quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
4- Xúc tiến việc xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 – 2020; tích cực tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý chủ trì cấp trên nói chung phải qua chức vụ lãnh đạo quản lý chủ trì ở cấp dưới.
5- Xây dựng và thực hiện một số quy chế bảo đảm phát huy hơn nữa dân chủ trong Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Triển khai thực hiện việc chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp uỷ các cấp. Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản theo quy định; kê khai phải trung thực và được công khai ở nơi công tác và nơi cư trú. Xử lý nghiêm người kê khai không đúng. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Ban hành quy chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; ban chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên ban thường vụ cấp uỷ cấp mình.
Uỷ ban kiểm tra các cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý trong việc chấp hành các quy định của Đảng và Nhà nước; hằng năm có báo cáo kết quả thực hiện của cán bộ thuộc cấp uỷ quản lý trong việc chấp hành quy định của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức. Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi.
6- Về công tác cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ, làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã, cấp huyện; gắn với xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực sự có hiệu quả, ngăn chặn sự lạm quyền, độc đoán. Sơ kết, rút kinh nghiệm để có chủ trương về việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu cấp uỷ có số dư. Thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Thí điểm việc giao quyền cho bí thư cấp uỷ lựa chọn, giới thiệu để bầu cử uỷ viên thường vụ cấp uỷ; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản lý; thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
7- Về cách triển khai thực hiện Nghị quyết, lần này nhấn mạnh vai trò của đồng chí bí thư cấp uỷ. Đồng chí bí thư cấp uỷ, tổ chức đảng phải trực tiếp nghiên cứu, phổ biến, quán triệt Nghị quyết và chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện Nghị quyết tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Phân công một số đồng chí thường trực chỉ đạo. Ở Trung ương gồm Tổng Bí thư, đồng chí Thường trực Ban Bí thư, các đồng chí Trưởng Ban Tổ chức, Kiểm tra, Tuyên giáo, Dân vận; ở cấp tỉnh, thành phố và các đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương cũng làm tương tự như vậy.
IV./.Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” là một nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt. Nghị quyết đã được toàn Đảng, toàn dân rất hoan nghênh và tán thành, coi như đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống chính trị của đất nước. Tuy nhiên, tâm lý chung hiện nay là đang chờ đợi, chờ đợi và hy vọng. Vấn đề quyết định bây giờ là khâu tổ chức thực hiện Nghị quyết. Tinh thần chung của Trung ương là quyết tâm thực hiện, khó mấy cũng phải thực hiện. Bộ Chính trị đã có Chỉ thị và sẽ có Kế hoạch triển khai thực hiện, nêu rõ các yêu cầu, công việc, lộ trình, thời gian, cách thức và các bước tiến hành cụ thể. Tôi chỉ xin lưu ý một số điểm chung sau đây :
- Phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm, thấy đầy đủ trách nhiệm của mình để gương mẫu, tự giác thực hiện và chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết trên mỗi cương vị công tác tại địa bàn, lĩnh vực do mình phụ trách.
- Ngay sau khi kết thúc Hội nghị cán bộ này, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo tiếp thu ý kiến của các đồng chí, hoàn chỉnh và ban hành sớm kế hoạch của Bộ Chính trị về việc thực hiện nghị quyết của Trung ương; chỉ đạo các ban đảng Trung ương tiếp thu ý kiến của Hội nghị để sớm ban hành các văn bản hướng dẫn phù hợp với từng mảng công việc. Căn cứ vào Nghị quyết của Trung ương, Chỉ thị và Kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo hướng dẫn của các ban đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp, các ngành phải xây dựng kế hoạch, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, ngành mình. Phải làm rất khẩn trương, nghiêm túc, thiết thực; có sự phân công trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, chặt chẽ.
- Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là người đứng đầu, người chủ trì phải tự giác, gương mẫu làm trước (ngay sau Hội nghị này, không phải chờ gì cả) tự kiểm điểm, soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình. Mọi đảng viên đều phải làm như vậy, chứ không phải chỉ đứng ngoài mà “phán”, hoặc “chờ xem”, coi như mình vô can.
- Phải thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp một cách đồng bộ, tổng hợp đồng thời có trọng tâm, trọng điểm; bao gồm cả việc thực hiện 8 nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, các quy định khác của Đảng và Nhà nước; kết hợp giữa “xây và chống”, “chống và xây”. Nêu gương những người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái; đấu tranh mạnh mẽ chống tham nhũng, hư hỏng, tiêu cực; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, cán bộ; công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán của các cơ quan chức năng; nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò giám sát của nhân dân, các đoàn thể, của báo chí, công luận.
- Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần được chuẩn bị thật chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận trọng; làm đến đâu chắc đến đó, đạt kết quả cụ thể, thực chất. Hết sức tránh làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang, thậm chí biến cuộc họp tự phê bình và phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; cũng như tình trạng lợi dụng dịp này để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình và vu cáo người khác. Kinh nghiệm cho thấy, muốn tự phê bình và phê bình có kết quả tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến phê bình đúng đắn. Những trường hợp sai phạm nghiêm trọng mà không thành khẩn, không tự giác, tập thể giúp đỡ mà không tiếp thu thì phải xử lý thích đáng. Thái độ nể nang, hữu khuynh, “ngậm miệng ăn tiền” hoặc thái độ cực đoan, muốn lợi dụng phê bình để đả kích người khác, gây rối nội bộ, đều là không đúng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi mỗi người phải có tinh thần tự giác rất cao, có tình thương yêu đồng chí thật sự và phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân tình. Đây cũng là dịp để hiểu thêm cán bộ, có cơ sở để đánh giá cán bộ, xem xét kết hợp chuẩn bị quy hoạch cán bộ cho thời gian tới.
- Phải đặt việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng trong tổng thể thực hiện các nghị quyết khác của Trung ương, của Quốc hội, của Chính phủ…, nói rộng ra là trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cả hệ thống chính trị, bảo đảm thúc đẩy việc hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh – quốc phòng, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại… chứ không phải “đóng cửa” để chỉnh đốn Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là để làm cho Đảng ta ngày càng mạnh hơn; cán bộ, đảng viên gương mẫu hơn; tổ chức đảng có sức chiến đấu cao hơn; đoàn kết nội bộ tốt hơn; gắn bó với nhân dân mật thiết hơn; thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt kết quả cao hơn; chứ không phải ngược lại.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người, đòi hỏi mỗi người phải tự phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không thật tự giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của người khác nhiều hơn mình. Vì vậy, thường rất khó, rất phức tạp. Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đảng ta đã làm, làm nhiều, làm thường xuyên và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nếu không làm thì không có được những thành quả như ngày nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, trước thực trạng một số yếu kém, khuyết điểm, hơn lúc nào hết, Đảng ta càng phải đặc biệt coi trọng hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng như Đại hội XI và Hội nghị Trung ương 4 đã chỉ ra, tạo bước chuyển thực sự trong công tác này. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là : tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại. Có những việc không thể chỉ làm một lần là xong. Ngược lại, phải làm rất kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục; làm đi làm lại nhiều lần như đánh răng, rửa mặt hằng ngày. Có khi giải quyết xong vấn đề này lại nảy sinh vấn đề khác, làm được việc này lại xuất hiện việc khác. Nếu không xác định như vậy thì mỗi khi thấy có sự việc tiêu cực trong Đảng dễ mất bình tĩnh, nảy sinh tư tưởng bi quan, hoài nghi, hoặc mất niềm tin, phủ nhận mọi sự cố gắng và kết quả chung.
Thưa các đồng chí,
Những nội dung trình Hội nghị cán bộ toàn quốc lần này là những vấn đề rất cơ bản và hệ trọng. Thời gian Hội nghị không nhiều, đề nghị các đồng chí nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung dành thời gian nghiên cứu, thảo luận, góp ý kiến để tạo thống nhất cao trong việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tin tưởng rằng, với truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng ta, với quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, lại được nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4, tạo bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi xin gửi đến các đồng chí lời chúc sức khoẻ, hạnh phúc, nhiều niềm tin mới, khí thế mới. Chúc hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.
VietNamNet
- Chắc không con à. Làm sao họ biết bố ra đây mà bắt.
- Con bảo này, bố mà trùm cái mũ lên đầu, công an không thấy được bố đâu.
- Con đừng nghĩ như thế, bố con mình ra đây đi chơi, làm gì mà bị bắt.
Đưa con vào Nguyễn Xí để Tí Hớn tự chọn sách, bố đứng ngoài hút thuốc nhìn quanh. Hà Nội thanh bình, xa xa bên cái nhà quái gì cổ kính góc xế bưu điện trông sang . Nhà gì tự nhiên không nhớ tến, Báo Thiên , Báo Ân hay Báo Oán gì đó mấy cô gái đang làm dáng cho các chàng trai chụp ảnh. Ồ Hồ Gươm thật yên bình, không có ” những tốp người đi hò hét làm mất đi vẻ bình yên” như lời mấy bọn hưu trí nói trên ti vi.
Hôm trước báo chí nói ngư dân lại bị tàu Trung Quốc bắn giết, cái tin ấy chìm nghỉm trong mớ những ngôi sao lộ hàng, sao lỡ lời, thậm chí là mẹ hay người yêu của sao cũng được nêu. Rồi những đại gia sắm siêu xe, những diên viên, ca sĩ, người mẫu sắm hàng hiệu chục nghìn usd. Cô em làm tờ báo lớn nói – tin thế mới nhiều viu anh à, mà bọn em làm gì thì cứ phải nhiều viu đã thì mới ăn tiền quảng cáo mà sống được. Em cũng chán cái nghề này lắm rồi.
Bỗng nghĩ không nên trách dân nghèo thờ ơ với chủ quyền đất nước. Làm sao mà họ thiết tha với chủ quyền khi còn nhọc nhằn kiếm miếng cơm , manh áo. Làm sao trong cảnh khốn khó ấy người dân nghèo chỉ thấy siêu sao, ca sĩ, đại gia tiêu hàng tỉ vào xe hơi vào cái cây cảnh, chúng ta đòi hỏi họ phải quan tâm đến đất nước. Vậy là đứa giàu thì chả cần quan tâm, vì quan tâm làm gì khiến chúng mất đi cảm hứng khi sắm cái cây, cái xe. Còn đứa nghèo thì càng chả cần quan tâm, tại sao họ phải quan tâm khi đang lê la trên đường phố kiếm bữa cơm, trong khi xã hội đầy đứa giàu có đang ăn tiêu xa xỉ, được báo chí ca ngợi như đó là ước mơ, là nỗi thèm thuồng của bao người.
Đến giờ vào chỗ ra mắt sách của cô em Tâm Phan. Buổi ra mắt sách khá đông người dự, các nhà văn đàn anh Thọ, Tiến, Trang Hạ lên phát biểu cảm tưởng. Anh Phạm Xuân Nguyên dẫn chương trình, độc giả thi nhau hỏi tác giả, giao lưu rất ấn tượng. Ngồi ôm con chạnh lòng nghĩ đến cuốn sách của mình. Cùng là một cuốn sách mà số phận khác nhau, như số phận con người vậy. Anh Nguyên đến vuốt má Tí Hớn hỏi – Thằng Tí Hớn đây à, rồi nói – Gió lên phát biểu vài câu nhé- Lắc đầu- Thôi anh ạ, em lên làm gì rồi phức tạp ra- Anh Nguyên bảo – Phát biểu về văn chương, có gì mà ngại. Vẫn lắc đầu- thôi em còn phải trông con.
Được nửa chừng buổi ra mắt sách hai bố con đi về, đi bộ dọc từ Tràng Tiền về đến đài Cảm Tử. Tí Hớn chỉ quán cà fe nói- quán kia có kem đấy, lần trước đi biểu tình bác H dẫn con vào đó ăn kem. Biết ý con nhắc khéo đòi ăn kem, dẫn con sang. Tí Hớn gọi kem rồi kể với cô bán hàng, cháu biết đây có kem vì lần trước cháu đi biểu tình được ăn ở đây đấy. Cô bán hàng cười nhăn mặt – Thế là cháu làm cô bị đóng cửa đấy, vì có biểu tình công an không cho bán hàng nữa. Tí Hớn nói não nề – Ai cũng sợ biểu tình bố ạ. Thôi bố đừng đi biểu tình nữa.
Điện thoại của một cô em làm phim gọi, cô đến ngay sau đó, cô ngồi than thở về kinh phí làm phim eo hẹp, chuyện diễn viên, chuyện kịch bản, đạo cụ..nhưng rồi thì cô em vẫn nói là viết kịch bản truyền hình ngon lắm, chịu khó viết mà viết thì tuần năm hay bảy triệu dễ ợt. Hay là em đưa cái khung sẵn, anh chỉ việc viết dựa trên khung đó nhé.
Rời khỏi quán cà fe, chia tay với cô em làm phim. Con nắm tay bố đi, bố chỉ cái gốc cây xa cừ nói – Hồi bố 8 tuổi, bà nội bán dép ở đây, bố thường mang cơm ra và trông hàng cho bà. Lúc đó ở đây không có những hàng giày dép kia đâu. Tí Hớn hỏi, thế mưa thì làm sao hả bố. Chỉ tay về khoảng tượng đài cảm tử nói. Hồi đó không có những bức tượng kia, gần đó có một cái nhà trống, chỉ có mái mà không có tường, mái dựng trên những chiếc cột. Mưa thì vào đó trú.
Về đến Phất Lộc thấy hàng bánh trôi, Tí Hớn sà vào ăn. Bà bán bánh trôi không lấy tiền lại còn đút cho Tí Hớn từng viên bánh tròn. Ăn xong Tí Hớn sang hàng kẹo ngắm nghía cái lọ kẹo. Bà bán kẹo mắng – Cha cái thằng Tí Hớn. Rồi bà lấy kẹo cho Tí Hớn, bố trả tiền bà không lấy. Tí Hớn vào nhà thì cô Thủy đưa nó tập vở bảo – Có ai mang cho Tí Hớn tập vở đây này. Tí Hớn xem vở rồi ồ lên thích thú nói-
Ôi vở này có chữ Hoàng Sa, Trường Sa này bố ơi. Sao ai cũng quý con thế nhỉ ?
Bố cầm tập vở trên tay, hình ảnh đầu tiên bố nghĩ là bác Hằng đứng ở Hồ Gươm hô vang
- Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam
Và hình ảnh bác ấy đi giữa hai người công an trong trại giáo dục, bác gầy và đen. Rồi bố nghĩ lúc hai bố con nhìn thấy Hồ Gươm, con nói – Công an thấy bố ra đây có bắt không ?
Bố định sẽ bảo con quên Hoàng Sa , Trường Sa khỏi đầu đi. Con hay học giỏi, kiếm nhiều tiền, mua xe hơi, mua nhà, sắm hàng hiệu…thế là con đã yêu nước rồi. Có ai mắng họ là không yêu nước đâu, chả ai mắng họ là mua sắm xa xỉ thế làm gì, không bỏ tiền ra mà giúp cho Hoàng Sa, Trường Sa cả. Vì tiêu những đồ xa xỉ như thế là phải đóng thuế nhiều, tiền thuế vào tay nhà nước. Thế là góp tiền đóng cho nhà nước nhiều thì là yêu nước. Chuyện yêu nước đơn giản có thế thôi. Và Hoàng Sa- Trường Sa thế nào thì sẽ có nhà nước lo. Chưa có kẻ tham nhũng, ăn tiêu xa hoa nào bị gọi là ” phản động” cả. Nhưng những người dân bình thường đã từng hô vang Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam thì bị gọi là phản động rất nhiều. Người ta hỏi ” hô thế có lấy được Hoàng Sa, Trường Sa không mà hô’. Câu này đáng ra phải nói là ” hô thế có đóng được đồng nào vào ngân sách nhà nước không, hay chỉ làm tốn ngân sách thêm khi nhà nước phải huy động dân phòng, công an, xe buýt đi giải
quyết tốn kém thêm ngân sách, mà đã không đóng lại còn làm tốn thêm ngân sách thì rõ là phản động rồi ”. Tóm lại hãy yêu nước theo những gì nhà nước này bảo, đừng yêu nước theo con tim mình bảo. Ngắn gọn chỉ có thế.
Nhưng khi đó, con trai của con sà vào hàng bánh trôi, vào hàng kẹo. Chưa chắc đã thốt lên – Ôi sao ai cũng quý con thế nhỉ ?. Cái giá đắt hay rẻ ở cuộc đời, không phải ở một bên là xe hơi , hàng hóa xa xỉ một bên là trại giáo dục. Giá phải trả đắt hay rẻ tùy theo quan niệm của mỗi người. Nhưng ở trong quan niệm một người bố, trả giá thế nào để con trai mình khi tiếp xúc với hàng xóm, người quen phải thốt lên rằng
- Ôi sao ai cũng quý con thế nhỉ ?
Đó cũng là một cái giá không xoàng xĩnh chút nào.
28.02.2012
Làm cách nào để đo lường nạn tham nhũng y tế? Nguyễn Tuấn Anh, một nhà nghiên cứu tại Đại học Y Dược Hà Nội, cho rằng việc chi trả không chính thức cho các bác sĩ là “yếu tố chủ yếu” trong việc tăng giá của những loại thuốc cũ hết hạn độc quyền vốn chiếm một thị phần lớn của ngành dược phẩm trong nhiều nền kinh tế đang phát triển.
Sau khi phỏng vấn những bác sĩ, các công ty dược, quan chức chính quyền và dược sĩ trong các bệnh viện công và tư, ông Tuấn kết luận trong một nghiên cứu vừa được xuất bản vào năm ngoái rằng khoảng 40% giá thuốc ở Việt Nam thường được dùng để hối lộ cho bác sĩ.
“Khi tôi nói với các đồng nghiệp tại vài quốc gia châu Á, họ nói tình hình của họ cũng tương tự,” ông cho Reuters biết.
Cuộc nghiên cứu của ông chia ra hai thành phần – hợp pháp và bất hợp pháp – đã góp phần vào giá cả dược phẩm ở Việt Nam, và phát hiện rằng từ 40 – 60% thành giá cuối cùng có thể đã được dùng để khuyến khích người kê toa sử dụng những loại thuốc cụ thể nào đấy, và để thuyết phục nhân viên thu mua trong các bệnh viện mua chúng. Phần lớn số tiền được chia cho các bác sĩ.
Nguyễn nói rằng vấn nạn này càng tồi tệ hơn đối với các loại thuốc hết hạn bản quyền (generic) do các công ty châu Á bán, mặc dù nghiên cứu của ông không nêu đích danh những công ty này. Ở Việt Nam giá cả những loại thuốc này đôi khi lại cao hơn cả thuốc gốc vì các công ty dược mua bán loại thuốc này phải bù đắp lại khoản tiền chi trả cho các bác sĩ.
Nhưng các công ty dược từ phương Tây cũng không thoát khỏi nạn này: đại diện các công ty dược đã cho Nguyễn biết rằng các bác sĩ thường đòi hỏi khoảng 15% tiền hoa hồng từ các nhà sản xuất thuốc châu Âu; tỉ lệ hoa hồng họ đòi hỏi từ các nhà sản xuất thuốc châu Á là 40%.
Nghiên cứu này, vốn đã được trình bày tại Hội thảo Phát triển Dược phẩm Quốc Tế tại Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng Mười năm ngoái, đã cho thấy các công ty đa quốc gia thường cấm đoán việc hối lộ, ít nhất là trên hình thức, mặc dù áp lực nhằm đạt được chỉ tiêu bán ra thường có nghĩa là các đại diện tảng lờ lệnh cấm này và đưa tiền hối lộ cho các bác sĩ.
Có lúc các công ty đa quốc gia lại chi trả cho những kỳ nghỉ sang trọng bậc nhất dù việc này vốn bị cấm đoán bởi luật chống lại quả của ngành bào chế thuốc ở Hoa Kỳ.
Các bác sĩ được thăm dò nói rằng họ lấy tiền hoặc hiện vật để bù đắp cho đồng lương thấp của mình, và tiền hoa hồng từ ngành bào chế dược phẩm thường trở thành nguồn thu nhập chính của một số bác sĩ, mặc kệ những bác sĩ uy tín kiên quyết giữ mình “trong sạch”.
Đây là tình trạng mà một nhà bán thuốc nước ngoài nói rằng đang làm đảo lộn cả hệ thống: “Giờ đây bác sĩ càng tồi lại càng có nhiều tiền. Thật quái gở.”
Dạo đó là khoảng đầu (hay giữa?) thập niên 1990, ông Mahathir và Paul Keating choảng nhau trên báo chí. Chuyện phát sinh khi ông Mahathir tẩy chay và không tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC. Thay vào đó, ông Mahathir vận động thành lập nhóm các nước Đông Á gọi là East Asia Economic Caucus, và ông đề nghị loại bỏ Úc khỏi khối này. Paul Keating là người thân Á châu, nên ông tức giận Mahathir lắm. Khi được phóng viên hỏi ông nghĩ gì về hành động và thái độ của Mahathir, ông Keating nói rằng APEC lớn hơn tất cả chúng ta, lớn hơn Úc, lớn hơn Mĩ, lớn hơn Mã Lai và Mahathir, và bất cứ những recalcitrant nào. Thế là chiến tranh ngoại giao bùng nổ quanh chữ recalcitrant.
Phải công nhận ông Paul Keating tuy ít học (chưa tốt nghiệp trung học) nhưng rất giỏi dùng chữ. Khi ông dùng chữ recalcitrant, giới phóng viên có người sững sờ. Có nhiều người không biết chữ đó có nghĩa gì. Trong số “nhiều người” đó có tôi. Tra từ điển thì thấy chữ này có nghĩa là kẻ cứng đầu, cứng cổ. À, thì ra ông Paul Keating muốn nói ông Mahathir là kẻ cứng đầu. Nói ai cứng đầu là trịch thượng. Do đó, không ngạc nhiên khi ông Mahathir đùng đùng nổi nóng. Ông đòi Keating phải xin lỗi. Keating “chân cứng đá mềm” không xin lỗi, vì ông nói ông dùng chữ recalcitrant là chỉ chung, chứ không đặt trước tên ông Mahathir. Ông cũng nói chữ đó chẳng có gì nặng nề cả.
Tôi còn nhớ các chuyên gia tiếng Anh viết bài bình luận trên báo chung quanh chữ recalcitrant và tôi có dịp học nhiều điều hay. Đại khái, các chuyên gia Úc cho rằng Keating dùng chữ recalcitrant là không thích hợp. Chính khách quốc tế không nên nói như thế, cho dù ông không có ý đề cập đến Mahathir. Thật ra, có hay không có ý đó thì chắc chỉ có Keating biết mà thôi. Cuộc tranh cãi và chiến tranh chữ nghĩa qua lạ giữa Úc và Mã Lai kéo dài cả nửa năm trời, làm ảnh hưởng quan hệ giữa hai nước. Một bên nhất định đòi xin lỗi, còn bên kia thì nhất định không xin lỗi. Sau cùng, không biết ai bày mưu chỉ kế, ông Keating trong một bài diễn văn về Á châu, ông dùng chữ “regret” vì đã dùng chữ thiếu ngoại giao. Nên nhớ là ông chỉ “ I regret” (lấy làm tiếc) chứ không phải “I am sorry” (tôi xin lỗi) nhé. Thế là đâu lại vào đấy, hai bên lại vui vẻ. Sau này, Mahathir ca ngợi Keating, nhưng ông nhắm vào đối tượng mới là thủ tướng John Howard người mà ông cho là kì thị chủng tộc.
Chuyện đó làm tôi liên tưởng đến chuyện ông bí thư Hải Phòng nói các bác lão thành là sai trong vụ Đoàn Văn Vươn. Trong một buổi nói chuyện với câu lạc bộ Bạch Đằng, có blogger nói ông dùng chữ thằng Vươn khi đề cập đến sự kiện Tiên Lãng, nhưng thật ra thì ông không có sử dụng chữ đó. Vài blogger nói oan cho ông.
Nhưng ở đây, tôi chỉ muốn bàn đến chữ thằng chung chung trong cách nói hàng ngày. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa thằng là “Từ dùng để chỉ từng cá nhân người đàn ông, con trai thuộc hàng dưới hoặc ngang hàng, với ý thân mật hoặc không tôn trọng.” Như vậy, chúng ta dùng chữ thằng để (a) biểu lộ sự thân mật với ai đó, hoặc (b) với ý nghĩa xem thường người ta.
Thật ra, người mình hay dùng chữ thằng. Thằng Tây, thằng Mĩ, thằng Tàu, v.v. Dùng nhiều đến nổi trở thành quán tính. Từ quán tính đến thốt thành lời nói trước công chúng cũng là một điều không khó hiểu. Tuy nhiên, bối cảnh và thời điểm sử dụng mới có vấn đề. Cố nhiên trước công chúng thì chắc chẳng ai đang vận áo veston, trịnh trọng đứng trước microphone mà dùng chữ thằng. Cũng như chẳng có chính khách nào lại đi dùng recalcitrant cho đồng nghiệp mình (ngoại trừ lở lời).
Ông Keating sau cùng thì cũng nhìn nhận, dù chỉ là gián tiếp, đã dùng chữ khiếm nhã và có lời xoa dịu. Tôi nghĩ ông bí thư gián tiếp nói về các bác lão thành là sai thì e rằng hơi nặng. Có thể ông làm như ông Paul Keating từng làm, tức là nói một lời xoa dịu dư luận, kiểu như “tôi lấy làm tiếc”, để bà con an lòng với vị thế lãnh đạo và xứng với cái danh xưng tiến sĩ của ông.
_________________________________________
(Dân Việt) – Trở thành tiến sĩ gốc Việt đầu tiên làm việc trong phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos (Mỹ), tiến sĩ Võ Tá Đức luôn nhắc về quãng đời đạp xích lô khi ông còn ở Việt Nam, như điều thần kỳ của cuộc sống.
Công việc hiện tại của tiến sĩ Đức là nghiên cứu sáng chế ra những máy móc, thiết bị dò tìm các nguyên tử đang được ứng dụng để ngăn ngừa các hình thức vận chuyển nguyên tử bất hợp pháp vào biên giới Mỹ.
Là con trưởng trong gia đình 11 anh chị em ở Phú Yên, năm lên 14
tuổi, cậu bé Võ Tá Đức đã trở thành lao động chính trong nhà vì gia cảnh
khó khăn. Hằng ngày, sau giờ tan học, Đức ăn vội cơm trưa rồi cuốc
chiếc xe xích lô rong ruổi khắp mọi đường phố ở Tuy Hòa để kiếm tiền phụ
cha mẹ nuôi 14 miệng ăn trong gia đình.
Đến năm 1981, ba Đức cố xoay xở tìm cách cho cậu theo một người bà con tìm đường sang Mỹ và được một gia đình ở bang Iowa nhận làm con nuôi. Thành tích học tập của chàng trai nghèo từ VN bắt đầu tỏa sáng sau 1 năm rưỡi ở trường trung học Mỹ.
Cậu bé đạp xích lô ở Tuy Hòa ấy suốt thời gian đại học và cao học ở Mỹ không phải trả bất kỳ khoản tiền học phí nào, nhờ vào thành tích lao động trí óc cần cù.
Năm học lớp 12, Đức đoạt giải nhất một kỳ thi khoa học cấp tiểu bang, mang lại cho cậu học bổng toàn phần cho suốt 4 năm học ở khoa Vật lý Trường Đại học Bắc Iowa. Tốt nghiệp đại học, anh đi thẳng vào chương trình tiến sĩ chuyên ngành vật lý nguyên tử, và trong suốt thời gian cao học, anh liên tục nhận được các nguồn học bổng dành cho nghiên cứu sinh.
Nói về thành công của mình, tiến sĩ Đức cho biết: “Một thông điệp tôi muốn nói với các bạn trẻ ở Việt Nam, nhất là các bạn nghèo, rằng nếu có ý chí sẽ vượt qua được những khó khăn”.
Hạ Anh (tổng hợp)
BÁ TÂN- Nguyễn Thông blog
1954, cờ đỏ sao vàng chiến thắng tung bay trên nóc hầm tướng De Castries . Chiến dịch Điện Biên Phủ là bản trường ca bất hủ. Lá cờ đỏ chiến thắng trên đỉnh hầm của tướng bại trận. Mốc son ấy mãi mãi sáng người cùng lịch sử dân tộc.
Quân ta chiến thắng với lá cờ đỏ thắm như dòng máu của triệu triệu người con đất Việt. Phía bại trận dương cờ trắng, màu trang phục y tế. Đầu hàng để được sống. Nghề thầy thuốc là giành lại sự sống từ tay thần chết. Màu trắng ấy đem lại sự sống. Thế giới chưa mất, sự sống vẫn còn. Giương cờ trắng để được sống. Đó là màu trắng trung thực, tránh cái chết, giành lấy sự sống. Làm tướng, ai cũng muốn đứng ở hàng đầu dưới cờ chiến thắng. Để bảo vệ tính mạng vô tội của ngàn vạn quân lính, lúc cần, tướng phải biết sử dụng cờ trắng. Bên cạnh cái mất là cái được. Thua một lúc, thậm chí thua nặng nề, nhưng giữ được cái mầm cho sự sống lâu dài. Làm người không chỉ có phận dương mà còn phải nghĩ tới phận âm- cái cho mình sau khi đã chết, cho cả con cháu mai sau. Thánh thần không phải của giới quan chức và nhà giàu. Thánh thần là (và phải là) của người tốt.
Nói chung mình không thắc mắc gì cả, cấm cũng tốt thôi chứ sao. Nhiều người bảo những cái cấm kia đều có trong pháp luật của Nhà nước rồi, Đảng cấm chi nữa, thừa? Nhiều người bảo bây giờ ít ai muốn vào Đảng, dụ dỗ mãi may ra có một đứa nó làm đơn, bây giờ cứ cấm nọ cấm kia thì còn ai dám vào Đảng?
Nhưng mình lại nghĩ khác. Đảng chả cần thêm số lượng, 3 triệu đảng viên mà làm gì, quí hồ tinh bất quí hồ đa, chỉ cần 500 ngàn là đẹp. Người nào sợ cấm không vào tức là kẻ đó vào Đảng không phải để hy sinh mà để kiếm lợi, tiếc làm gì?
Còn bảo những cái cấm kia có trong luật pháp rồi, Đảng cấm là thừa, cũng không đúng. Bây giờ mà căn cứ luật pháp để trị người ta khó lắm, dân thường trị đã khó, huống hồ mấy ông quan. Nhưng cứ nhè mấy điều cấm này để khai trừ ra khỏi Đảng là khỏe nhất. Như tụi mình thì chẳng sợ bị đuổi ra khỏi Đảng, ra khỏi Đảng càng khỏe xác, khỏi phải đi họp, khỏi làm báo cáo, khỏi nộp Đảng phí, khỏe re. Chứ mấy ông quan, thẻ Đảng là sự nghiệp của họ, cơm áo gạo tiền của họ, mất Đảng là mất sạch, không phải chuyện chơi. Các quan không thể không sợ. Trông cái việc cấm Đảng viên khơi khơi vậy chứ nó ghê lắm đó, nhiều quan tham nhất định sẽ khuynh gia bại sản, thân bại danh liệt chứ không phải chuyện chơi,
Rứa là mình nhất trí hoàn toàn cả 19 điều cấm, chỉ xin bổ sung thêm một điều cấm, gọi là điều 20. Blogger Người đưa tin đã viết hẳn ra điều cấm này như sau:
“20- Nghiêm cấm lợi dụng quyền hạn chức vụ, hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình lên những người có trách nhiệm nhằm mục đích để bố, mẹ, vợ (chồng), con (bao gồm cả dâu, rể), anh, chị, em ruột lên nắm các chức vụ trong cơ quan, đơn vị, địa phương do bản thân hiện tại hay trong quá khứ đã từng trực/gián tiếp phụ trách.”
Đây là điều cấm cực kì quan trọng, bởi vì nhờ đó Đảng ta mới tóm được thêm một lũ sâu nữa. Đặc biệt sâu bự, 19 điều kia không dễ tóm được đâu, duy nhất điều này là tóm được nhanh như chớp. Có đúng không bà con? He he
Muốn thiết lập một Thể Chế Tự Do Việt Nam cần một Hiến Pháp Dân Chủ điều này không cần phải bàn tới, nhưng có người vẫn tin rằng phải trở lại với Hiến Pháp 1946.
Trên diễn đàn BBC trước đây, người viết chứng minh rằng chính Hiến Pháp 1946 xây dựng nền tảng cho thể chế độc tài cộng sản. Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến Pháp này không được rõ ràng. Nghị Viện (Quốc Hội) chỉ có Một Viện duy nhất và cũng chính Viện này lại bầu lên một Chủ tịch nước. Quyền hạn của chủ tịch nước được liệt kê ở Điều thứ 49, cho phép chủ tịch nước các quyền hạn tuyệt đối không thua gì Tổng Thống Hoa Kỳ.
Nhưng đến Điều thứ 50 lại ghi rõ “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.” Khi ấy Hồ chí Minh là chủ tịch nước, Điều 50 đặt ông Hồ trên cả Hiến pháp và Luật pháp quốc gia.
Ông Hồ còn kiêm nhiệm chủ tịch đảng Cộng sản. Điều 50 như vậy sửa soạn cho cả một guồng máy chuyên chính cộng sản thần thánh hoá biến ông thành nhà độc tài trong một thể chế chuyên chính toàn trị. Vì thế ông Hồ đã tùy tiện xé bỏ Hiến Pháp 1946 để thay bằng các Cương Lĩnh Đảng 1959, 1980 và 1992. Thật ra dưới chế độ cộng sản Hiến Pháp chỉ là hình thức. Mọi quyết định đều từ các Nghị Quyết Đảng và không ít Nghị quyết hòan tòan vi hiến, thí dụ Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Công Thương Nghiệp hay Nhân Văn Giai Phẩm.
Học theo gương Hồ chí Minh đặt chủ tịch trên Hiến Pháp trên Luật Pháp Quốc Gia, các cháu ngoan của “Bác” đặt Điều 4 vào Hiến Pháp thôn tính tất cả quyền lực nhưng chẳng ai “phải chịu một trách nhiệm nào”. Trường hợp Đại tá Công an Đỗ Hữu Ca vi phạm Hiến Pháp và luật pháp tấn công lương dân nhưng lại trở thành người điều tra xét xử, trong khi gia đình Đòan văn Vươn vì tự vệ lại phải tù. Nhờ tiếng súng của gia đình Đòan văn Vươn mới biết Hiến Pháp 1992 không có điều lệ nào cho phép quân đội (và cả công an) tham gia cưỡng chế đất đai. Hai lực lượng này là để bảo vệ dân chứ không phải để tấn công dân. Còn “luật đất” thì có nhưng nhà nước cộng sản không áp dụng mà chỉ dùng “luật rừng”. Tình trạng lộng quyền đã nói lên tình trạng khủng hỏang Hiến Pháp, khủng hỏang luật pháp và phá sản của guồng máy cai trị tại Việt Nam.
Hồ chí Minh còn sợ bị người dân lật mặt nạ phản quốc. Con và cháu “Bác” ngày nay thì vượt “Bác” ở chỗ không sợ cả tội phản quốc công khai bán nước cho Tầu.
Nhưng khuyết điểm lớn nhất của Bản Hiến Pháp 1946 là thiếu vắng “con người Việt Nam”. Một Hiến Pháp đúng nghĩa cho Việt Nam cần gắn liền với làng xã với con người Việt Nam.
Hiến Pháp Hoa Kỳ
Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ đã xác nhận “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc“. Tư tưởng này là nền tảng cho Bản Hiến pháp Hoa Kỳ, nó đặt quyền người dân trên hết, còn quyền hạn của Chính phủ và Quốc Hội là những quyền do người dân ủy nhiệm.
Một mô hình tam quyền phân lập rõ ràng được đưa vào Hiến Pháp Hoa Kỳ. Quốc hội được trao quyền lập pháp, Tổng thống quyền hành pháp và Tòa án quyền tư pháp. Các quyền của mỗi nhánh lại được cân bằng và kiểm soát bởi các quyền của hai nhánh kia.
Hiến pháp Hoa Kỳ còn nêu rõ quyền hạn của các viên chức chính phủ. Các Nghị sỹ Dân Biểu chỉ được tiếp tục phục vụ nếu họ được tái bầu cử trong các cuộc bầu cử có định kỳ. Các viên chức bổ nhiệm phải được bổ nhiệm theo đúng Hiến Pháp. Nhờ Bản Hiến Pháp này Hoa Kỳ đã thiết lập một chính quyền Trung Ương Liên bang có thực quyền và thống nhất quyền lực đưa Hoa Kỳ từ những thuộc địa trở thành một cường quốc số một trên thế giới.
Cũng chính nhờ Bản Hiến pháp đặt quyền con người trên hết, dù xuất thân từ bất cứ nguồn gốc nào, mỗi người dân đều gắn bó với đất nước trong một niềm tự hào chung là công dân Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Và vì thế Hiến Pháp Hoa Kỳ đã trở thành một Hiến Pháp kiểu mẫu, một mô hình kiểu mẫu được nhiều quốc gia trên thế giới noi theo.
Hiến Pháp 1946 Thiếu Vắng Con Người Việt Nam
Trong bài “Viễn Tượng Việt Nam”, người viết có nhắc đến những người sọan ra Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945 đã sao chép những lời vàng ngọc trong Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ. Trước đó năm 1919 tại Hội Nghị Versailles, nhân Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tham dự và phát biểu về quyền tự quyết dân tộc, Nhóm Người Việt Yêu Nước Nguyễn ái Quốc đã gởi bản “Yêu sách của Nhân Dân Việt Nam” với yêu sách thứ bẩy mong người Pháp ban hành Hiến Pháp cho Việt Nam. Điều này cho thấy giới trí thức Việt Nam từ lâu đã hướng đến Hoa Kỳ như một quốc gia mẫu mực cho Việt Nam noi theo.
Hiến Pháp 1946 cũng được xây dựng dựa trên Hiến Pháp Hoa Kỳ như Điều 49 quyền hạn của Chủ tịch nước tương tự như quyền hạn của vị Tổng Thống Hoa Kỳ. Nhưng các điều khác trong Hiến Pháp này lại trái ngược như tam quyền không phân lập. Việc nghiên cứu tìm hiểu thêm về Hiến Pháp này sẽ giúp cho chúng ta nắm được một giai đọan lịch sử mà tòan dân vừa giành được độc lập đang hướng đến xây dựng một thể chế tự do theo khuôn mẫu Hoa Kỳ.
Điều cần nói Hiến Pháp Hoa Kỳ là mô hình xây dựng cho một quốc gia lớn gồm nhiều cựu thuộc địa và dân chúng xuất xứ từ nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng tất cả đều ham muốn tự do và quyết tâm khai phá miền đất mới Hoa Kỳ.
Trong khi ấy Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp nhỏ. Vào năm 1946 có đến 90 phần trăm dân Việt sống ở nông thôn và cơ cấu hạ tầng của Việt Nam là làng xã. Người Việt luôn gắn bó với làng xã quê hương. Cho dù phải sống xa quê hương người Việt luôn hướng về làng mạc nơi ông cha họ đã khai phá gầy dựng. Chương V của Hiến Pháp 1946 đề cập đến cơ cấu và trách nhiệm Hội Đồng Nhân Dân và Ủy Ban Hành Chánh. Nhưng Chương này nhằm mục đích duy nhất là để Trung Ương cai trị địa phương và địa phương cai trị người dân.
Hiến Pháp 1946 cùng chung mục đích với Hiến Pháp Hoa Kỳ ở chỗ nó hướng đến việc tập trung quyền lực về Trung Ương. Tòan Bản Hiến Pháp 1946 thiếu hẳn sự kết hợp và tham dự của người dân địa phương vào việc hình thành chính sách và chiến lược quốc gia.
Đất và Con Người trong Mô Hình Phát Triển Quốc Gia
Đất, tài nguyên, tiền vốn, kỹ thuật, nhân lực và tri thức là các yếu tố chính trong một nền kinh tế quốc gia. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp. Đến nay 70 phần trăm dân chúng vẫn sống tại thôn quê.
Theo Hiến Pháp hiện hành đất nông nghiệp không thuộc sở hữu nông dân mà thuộc sở hữu nhà nước. Nói cách khác người nông dân chỉ là những bần nông không ruộng không vườn. Dù họ đang sống trên mảnh đất do ông cha để lại, nhưng mảnh đất này đã bị đảng Cộng sản tước mất chủ quyền. Mất quyền sở hữu là mất động năng để người nông dân cần cù chăm sóc cho mảnh ruộng, mảnh vườn. Mất động năng làm việc người nông dân sẽ chỉ làm đủ sống qua ngày. Dân nghèo thì nước cũng nghèo.
Nhà nước giao đất cho nông dân và có quyền lấy lại đất bất cứ lúc nào. Quyền lấy lại đất lại bị các giới chức cầm quyền từ trung ương đến địa phương lạm dụng. Cũng như gia đình Đòan văn Vươn hằng triệu nông dân và gia đình đã, đang và sẽ lâm vào đường cùng. Trong khi đó giới chức cầm quyền càng ngày càng trở nên giàu có và quyền lực hơn.
Các phương cách thu hút vốn đầu tư hay phương cách phân chia vốn đầu tư quốc gia chủ yếu tập trung vào các thành phố các khu công nghệ càng làm cho nông thôn trở nên nghèo khó hơn. Người nông dân phải đóng thuế nhưng họ đóng thuế để phục vụ người giàu. Hậu quả là nông dân phải tha phương cầu thực hay sống nghèo đói tại quê nhà.
Một quốc gia mà phân cách giầu nghèo giữa thôn quê và thành thị càng ngày càng bị đào sâu thì dù giầu có cách mấy cũng không thể xem là một quốc gia phát triển. Đằng này Việt Nam lại là một nước nghèo và nông thôn Việt Nam ngày càng nghèo thêm.
Nói tóm lại cái nghèo của dân quê là do đảng Cộng sản tước bỏ tất cả các quyền mà tạo hóa đã ban cho con người. Muốn đất nước thóat khỏi cảnh nghèo vươn lên một Hiến Pháp mới phải gắn liền với làng xã Việt Nam, quyền của người nông dân phải được mang vào Hiến Pháp này.
Việt Nam Đất Nước của Làng Xã
Khi quân Nguyên xâm chiếm nước ta vua Trần cho vời các vị bô lão đại diện cho làng xã Việt Nam về kinh để xin ý kiến: Nên hòa hay nên chiến? Đây là bản sắc của dân tộc Việt Nam, là sự gắn bó dân chủ giữa trung ương và địa phương, là sự đòan kết giữa người cầm quyền chính danh và người dân từ khắp các thôn quê làng mạc.
Sự thất bại của chế độ cộng sản thúc đẩy chúng ta quay về tìm lại bản sắc dân tộc. Một trong những bản sắc nổi bật nhất chính là làng Việt truyền thống một tổ chức vô cùng đặc biệt. Trong bài viết mới đây tác giả Trần Trung Chính đã chỉ rõ làng là một tổ chức xã hội dân sự.
1. Mỗi làng đều có chợ, chùa, đình, văn từ văn chỉ, đền-miếu, công quán-điếm sở, giếng làng-ao làng, cổng làng, kho nghĩa sương, hệ thống đường làng, nghĩa trang làng và công điền-ruộng công. Nghĩa là mỗi làng đều có mọi phương tiện dịch vụ công cộng nhằm phục vụ cư dân trong làng trong xã.
2. Mỗi làng có pháp chế riêng (hệ thống hương ước), có tín ngưỡng của từng làng (thành hoàng làng)… Các hệ giá trị của làng được dân làng coi trọng như pháp luật nhà nước.
3. Người đứng đầu do các thành viên của làng bầu lên, được khởi đầu vào thời Lê đến thời Hậu Lê đã hoàn thiện và phổ biến áp dụng. Theo Đào Duy Anh việc quản trị hệ thống làng Việt Nam theo kiểu: “Công việc làng thường do dân làng bàn định, chứ nhà nước ít can thiệp đến, mà nhiều khi nhà nước có can thiệp cũng vô hiệu quả, cho nên ở nước ta có câu tục ngữ rằng: Phép vua thua lệ làng”.
Chính nhờ thế khi đất nước lâm nguy, khi quân Tầu xâm lược làng xã mới nối kết để giữ gìn từng tất đất do ông cha để lại.
Cuộc Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc mục tiêu chính là đánh vào cơ cấu hạ tầng dân tộc để đặt lên một guồng máy trung ương tập quyền nhằm kiểm sóat địa phương. Guồng máy này đang trong thời kỳ phá sản và một thể chế tự do sớm muộn gì cũng sẽ đến với Việt Nam.
Từ đầu thế kỷ thứ 20 đến nay người Việt chuộng khuynh hướng hướng ngọai tìm cái hay của ngọai quốc. Điều này rất tốt nhưng cái hay của người ngòai thường khi lại không thích hợp với đất nước với dân tộc Việt Nam. Thể chế tự do chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Để phục hồi xây dựng lại đất nước chúng ta chỉ còn một con đường là quay về gìn giữ những giá trị mà ông cha ta để lại trong đó có giá trị dân chủ trong tổ chức làng xã đã nói bên trên.
Hiến Pháp Thụy Sĩ
Trả lời với các hội viên Lions International, Giáo sư Victoria Curzon-Price của Đại học Genève, cho biết nền kinh tế chánh trị Thụy sĩ hoàn toàn trái ngược các quốc gia láng giềng phần đông đang bị khủng khoảng và đình trệ là nhờ họ có một Hiến Pháp dân chủ đặc biệt đang hình thành bởi hai sức ép: sự cạnh tranh giữa các “tỉnh –canton” và“quyền sáng kiến”. Về quyền sáng kiến thì “… Những người dân cử đều dưới quyền kiểm soát của công dân. Bất cứ lúc nào, một nhóm công dân đều có thể đưa ra một ý kiến một sáng tạo. (100 000 chữ ký cho một sáng kiến cấp Liên bang) chống một đạo luật, đề nghị một đạo luật, có khi cả một dự án luật, miễn là đừng đi ngược với Hiến Pháp. Dĩ nhiên với một sức ép như vậy, các vị dân cử khó có thể đề nghị tăng thuế hay tăng tiền xài …”
Không riêng gì Thụy sĩ, tại các quốc gia dân chủ người lãnh đạo luôn muốn lắng nghe quan điểm của công dân. Ngày 24-2-2012, Quốc Hội Liên Bang Úc mời Cộng Đồng Người Việt Tự Do, Khối 8406, Ủy Ban Bảo Trợ Người Lao Động và Qũy Tù Nhân Lương Tâm xin ý kiến nhằm hòan chỉnh diễn trình Đối thọai Nhân quyền giữa chính quyền Úc và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Tổng thống Barack Obama cũng đã chính thức muốn tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ để lắng nghe chúng ta trình bày các quan tâm đến tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Cuộc gặp đã được thu xếp và sẽ diễn ra tại Tòa Bạch Ốc vào trưa Thứ Hai, mùng 5 tháng Ba sắp tới. Cuộc gặp dự trù kéo dài 3 giờ đồng hồ giữa các giới chức Tòa Bạch Ốc và khoảng 100 người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ
Thế nhưng Hiến Pháp Úc, Hiến Pháp Hoa Kỳ lại không cho quyền người dân trực tiếp tham gia hình thành các chính sách quốc gia.
Hiến Pháp Gắn Liền Với Con Người Việt Nam
Ưu điểm của Hiến Pháp Thụy Sĩ là ghi nhận quyền sáng kiến để người dân có thể trực tiếp đề ra những chính sách hầu tối đa lợi ích quốc gia. Quyền sáng kiến đã thích hợp với Thụy Sĩ sao lại không thích hợp với Việt Nam ?
Vì thế quyền sáng kiến nên được đưa vào Hiến Pháp Mới của Việt Nam. Nhưng thay vì chữ ký của người dân nên thay bằng chữ ký của một tỷ lệ làng xã Việt Nam, cả thôn quê lẫn thành thị. Nó sẽ giúp người dân nhất là người nông dân được trực tiếp tham gia vào việc hình thành các chính sách quốc gia. Nó sẽ giúp cân bằng quyền lực giữa trung ương và địa phương và tạo nên sự công bằng giữa các địa phương. Một Hiến Pháp với sự liên tục tham gia trực tiếp giữa làng xã và chính quyền Trung Ương sẽ giúp Việt Nam thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Lần tới để tưởng nhớ Ngày Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thọ nạn người viết sẽ chia sẻ cùng bạn đọc tư tưởng tòan dân chính trị của Đức Thầy. Bạn đọc sẽ thấy được ý tưởng trong bài viết có thể thích hợp cho Việt Nam Thống Nhất từ Bắc xuống Nam. Mời bạn đón xem.
Melbourne, Úc Đại Lợi
22/2/2012.
© Nguyễn Quang Duy
© Đàn Chim Việt
—————————————-
Tài Liệu Tham Khảo
Nguyễn Quang Duy (10-2005), Hiến pháp đúng mực sẽ giúp người dân làm chủ,www.bbc.co.uk
Nguyễn Quang Duy (2-2012), Viễn Tượng Việt Nam: Tự Do, Tri Thức Và Phát Triển.
Phan Văn Song (1-2012), Sự thành công của Thụy sĩ: Chánh trị hay Kinh tế?
Trần Trung Chính (2-2012), Tổ chức xã hội dân sự – một di sản của Việt Nam
Một nhà văn đảng viên cộng sản đề nghị đảng trở lại tên Lao Động như một cách thuyết phục người dân về cố gắng chỉnh đốn nội bộ.
Ông Phạm Viết Đào, được biết đến qua Bấm một trang blog cá nhân, nói chuyện với BBC trong khi đang diễn ra hội nghị chỉnh đốn Đảng ở Hà Nội.
Ông cũng cho rằng bước đi “thiết thực” hiện nay là dân chủ hóa về thông tin, cho phép sự tồn tại chính thức của báo chí tư nhân.
Phạm Viết Đào: Chỉnh đốn Đảng rất cần thiết hiện nay. Nhưng trong dư luận nhân dân, người ta cảm thấy việc đó khó lòng đạt được hiệu quả mong muốn.
Nếu đã chỉnh đốn, phải có biện pháp mạnh hơn, phải dùng luật pháp, chứ nếu chỉ động viên nhau thì…
Trong lịch sử, có thời Cụ Hồ mỗi sáng mời các ông “có vấn đề” đến cùng ăn phở để cụ khuyên răn. Ông Tố Hữu kể tôi nghe chuyện này. Cụ Hồ uy tín rất lớn và tốn rất nhiều phở để mời các ông “có vấn đề”. Thời ấy kỷ cương còn nghiêm mà xem chừng cũng không có hiệu quả cao. Bây giờ phát động tự phê, thì cũng ủng hộ thôi. Nhưng nếu không tiến thêm bước mạnh hơn nữa, chắc khó đạt hiệu quả mong muốn.
BBC:Báo trong nước vừa qua đăng nhiều bài nói về việc lấy lại lòng tin của dân. Phải chăng lòng tin của người dân đã có phần lung lay?
Lòng tin của nhân dân lung lay nhiều rồi. Báo chí công khai đã nói, các ông trên cũng nhận thấy. Nhưng nếu chỉ kêu gọi thì đó là duy ý chí.
Đảng lại trở thành Nhà thờ, Nhà chùa, cứ đến đấy tu niệm rồi cải tà quy chính? Bây giờ đảng viên liên quan quyền lực, quyền lợi. Lại muốn dùng Kinh thánh thức tỉnh họ, thật khó.
BBC:Vậy hội nghị lần này có như nhiều người nói là chỉ hình thức và không hiệu quả, thưa ông?
Tôi không nghĩ là hình thức. Thực tâm các vị lãnh đạo cũng sốt ruột. Nhưng họ làm thế nào, đấy là vấn đề.
Trong nội bộ cấp cao, tôi nghĩ cũng nhiều vị có tấm lòng, tâm huyết. Nhưng họ có vượt qua được sức ỳ không? Nội bộ Đảng bây giờ cũng nhiều khuynh hướng. Vậy khuynh hướng tiến bộ có trở thành tiếng nói áp đảo không?
BBC:Có ý kiến cho rằng thay vì tự chỉnh đốn, Đảng nên chấp nhận dân chủ hóa. Ông nghĩ thế nào?
Khó trăm lần, dân liệu cũng xong, vậy phải dựa vào dân. Chừng mực nào đó phải để dân phát biểu và nghe dân. Không nên xem phản ứng của dân là của thế lực thù địch và dùng biện pháp cảnh sát quá mạnh.
Trong một hội thảo gần đây, tôi nói cần nới rộng biên độ thông tin. Hiện nay gần như thông tin một chiều. Dân chủ hóa trước hết phải là dân chủ hóa thông tin, thiết thực nhất trong bối cảnh hiện nay.
Rất cần những trang mạng tư nhân. Các trang web tư nhân hiện nay đều
nấp dưới danh hiệu các blog. Mà blog đều như các tờ báo chiến đấu cho
tiến bộ xã hội. Vụ Hải Phòng vừa rồi, nếu không có thế giới mạng, thì sẽ
còn tồi tệ đến mức nào?
Dùng công luận, dùng thông tin để điều chỉnh Đảng cũng là cách văn minh và đỡ xương máu nhất. Hiện nay luật pháp chưa cho phép. Các trang tin, blog vẫn nấp dưới danh nghĩa cá nhân. Nhưng thực ra mục tiêu của họ giống tôn chỉ các báo chính trị, chứ không còn là blog cá nhân nữa. Nhưng nó không được công khai, nên rất khó phát triển. Làm thì đến lúc cũng mỏi mòn vì không có động viên nào về mặt vật chất cả. Kỹ thuật thì rất nhom nhem.
Nếu Đảng thật sự muốn dân tham gia, thì phải cho dân tham gia trước tiên là lĩnh vực thông tin. Hiện nay xuất bản đã là tư nhân rồi, thì các trang báo tư nhân phải được công khai đi để họ chịu trách nhiệm trước pháp luật.
BBC:Ông có nghĩ Đảng đã suy thoái đến mức Đảng không chấp nhận nhân dân và dân cũng không chấp nhận Đảng?
Chưa đến nỗi như thế. Nước nào cũng cần một lực lượng lãnh đạo, tức là một đảng chính trị. Chứ bây giờ sụp đổ hoàn toàn, trí thức cũng không muốn dẫn đến ba bè bảy mối, nội chiến. Người dân chịu khổ chứ người có chức có tiền họ chạy ra nước ngoài, con cháu họ có chết đâu.
Những người có trách nhiệm cũng thấy Đảng cần phải thay đổi. Phải làm
gì để có thay đổi, chứ đánh sập nó đi để có mô hình mới lại chưa biết
thế nào.
Dân hiện nay thấy Đảng nhiều cái quá trớn. Nhưng cũng có những người có trách nhiệm thấy cần phải thay đổi.
Tôi cho rằng Đảng trước nhất cần thay đổi tên. Chứ bây giờ nói Đảng Cộng sản thì khó vào lòng dân chúng. Trong quá khứ Đảng rất nhiều công lao, nhưng khi ấy Đảng đứng tên đảng Lao Động đấy chứ.
Bây giờ có thể trở lại tên đảng Lao Động cũng được. Đổi tên khác thì khó, chứ trở lại tên Lao Động chả có gì sai. Chứ để tên Cộng sản, bản thân tôi là đảng viên cũng thấy không hợp giữa khẩu khí của thế giới hiện nay. Bước thứ hai là trở lại Hiến pháp 1946.
Đòi hỏi tách quân đội, công an ra khỏi Đảng, rất khó. Nhưng thiết thực nhất bây giờ là trở lại mô hình đảng Lao Động. Nếu góp ý cho Đảng, tôi sẽ góp ý như thế.
( Ông Vương lập Quân)-Xem thêm tin:
Lời đồn về cựu giám đốc công an TQ (BBC)
Ở đây chúng tôi cố gắng cung cấp cho độc giả một bối cảnhcần thiết để hiểu được nội tình chính trị ĐCSTQ.
Các nhà lãnh đạo cộng sản của Trung Quốc yêu cầu Hoa Kỳ giao trả lại các tài liệu trao cho bởi người dự tính đào ngũ, Wang Lijun, tại Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô vào ngày 6, theo báo cáo gần đây. vấn đề “tài liệu Wang” có vẻ là một vấn đề sống chết cho các phe phái khác nhau trong ĐCSTQ, tất cả những người sợ hãi những bí mật đen tối của họ bị lộ tẩy.
Theo một báo cáo ngày 20 Tháng 2 bởi Bill Gertz, thuộc cơ quan Free Washington Beacon, người đã tuyên bố có thông tin nội bộ, “một quan chức Mỹ cho biết, Wang, ngụy trang, đã lái xe 200 dặm từ Trùng Khánh đến Thành Đô, vào Lãnh sự quán Hoa Kỳ, và đã ở lại suốt đêm tại lãnh sự quán Mỹ chuyển giao một chồng tài liệu trong thời gian ở sứ quán10 giờ. Trung Quốc hiện nay đòi hỏi rằng các tài liệu được trả lại, mà có thể có tác động tai hại cho Wang. “
Nếu khiếu nại là đúng sự thật, các tài liệu có thể tác động tai hại cho nhiều người hơn là chỉ đối với Wang. Một lý do rất có thể muốn các tài liệu là Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) muốn giữ kín vụ việc Wang và giảm thiểu tác động phá hoại cho chính Đảng Cộng sản.
Wang là cựu giám đốc Cục Công an Trùng Khánh. Kể từ khi Wang trốn chạy đến Lãnh sự quán Hoa Kỳ để xin tị nạn, nội tình của ĐCSTQ rơi vào trong một tình trạng hỗn loạn, đến độ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng.
Làm thế nào ĐCSTQ xử lý Bạc Hy Lai, người đứng đầu đảng cộng sản ở Trùng Khánh, và Wang Lijun tay chân cũ của ông, là một vấn đề sống chết cho các phe phái khác nhau trong ĐCSTQ, tất cả những người ;o sợ những bí mật đen tối của họ bị vặch trần. Đấu đá nội bộ căng thẳng do vụ việc cũng có thể nhận chìm ĐCSTQ.
Các nhà lãnh đạo hiện tại, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, đang bị mắc kẹt trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Họ muốn hạ gục đối thủ chính trị BoXilai và ảnh hưởng ở đằng sau ông ta— Giang Trạch Dân và nhóm của ông. Họ cũng muốn xử lý vụ việc này một cách lặng lẽ không gây ra bất ổn trong ĐCSTQ, để việc chuyển đổi chính trị suốt thời gian Đại hội ĐCSTQ trong kỳ Đại hội Quốc gia lần thứ 18 sẽ diễn ra suôn sẻ.
Yêu cầu lấy các tài liệu Wang để lại tại lãnh sự quán Hoa Kỳ là một trong những tác động bởi ĐCSTQ nhằm đảm bảo nó sẽ lặng lẽ đối phó với sự cố Wang-Bo.
Yêu cầu lấy lại các tài liệu Wang giao cho lãnh sự quán Hoa Kỳ, ĐCSTQ có thể xử lý một cách lặng lẽ để đối phó với sự cố Wang-Bo và làm cho hậu quả của vụ Wang dự tính đào tẩu trông như nó chỉ đơn thuần là một cuộc đấu tranh trong Đảng, và để cho chế độ cộng sản tự nó không bị nguy hại.
Mỹ không chỉ không bị bắt buộc làm theo yêu cầu của ĐCSTQ, nhưng còn tiết lộ vụ việc với Bill Gertz. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không dự kiến được là nó đến từ phía Mỹ
.Điều này phải là một tình huống khó chịu cho Trung Cộng. Nó xác nhận rằng Wang đã giao thông tin, và cho thấy rằng Hoa Kỳ không phải là đồng tình với nó. Ngoài ra còn có vấn đề không có cách nào nội dung của các văn bản chỉ hạn chế và bé nhỏ như việc tham nhũng của Bo. Nó có thể có những bí mật mà có thể gây nguy hiểm cho chính chế độ nếu bị phổ biến công khai.
Với những tài liệu trong tay, Mỹ kiểm soát quyền hành xử làm thế nào vụ việc sẽ diễn ra, thời gian và bao nhiêu thông tin để công bố, tất cả đều là hoàn toàn hợp lý và hoàn toàn hợp pháp theo tiêu chuẩn của Mỹ.
Sự cố Wang là một cơ hội cho chính quyền Obama để đạt được những gì mà các vị cựu tổng thống Mỹ Kennedy và đặc biệt, Reagan, đã hết sức mình làm cho được, nhưng không thể làm được: dẹp tan thế giới độc tài cộng sản.
Trung Quốc điều tra cựu giám đốc công an Trùng Khánh (Tinmoi.vn)
Số phận bí ẩn cựu giám đốc công an Trung Quốc (Tinmoi)
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tạp chí “Các vấn đề chiến lược” (Ấn Độ) số ra gần đây đăng bài viết của bộ phận nghiên cứu khu Vực Nam Á về triển vọng thành lập liên minh Ấn Độ-Mỹ-Ôxtrâylia và cho rằng liên minh này có nhiều khả năng trở thành hiện thực.
Theo bài báo, mặc dù tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Ôxtrâylia Kevin Rudd về khả năng thiết lập cơ cấu đối thoại 3 bên giữa nước này với Mỹ và Ấn Độ đã bị Bộ Ngoại giao Ấn Độ bác bỏ mạnh mẽ hồi đầu tháng 12/2011, song các nhà chiến lược của ba nước đều ra sức ủng hộ một liên minh như vậy nhằm tăng cường và bảo vệ lợi ích chiến lược của ba nước.
Bộ Ngoại giao Ôxtrâylia cũng nhanh chóng hiểu được sự do dự của Ấn Độ và nói rằng tuyên bố của ông Kevin Rudd đã bị giải thích sai lạc. Tuy nhiên, cả hai nước sau đó đã rất nhiệt tình với quyết định tăng cường quan hệ đối tác quân sự mạnh mẽ giữa hai bên. Trước đó, Thủ tướng Ôxtrâylia Julia Gillard cũng đã tuyên bố xoá bỏ lệnh cấm xuất khẩu urani cho Ẩn Độ.
Bộ trưởng Quốc phòng Ôxtrâylia Stephen Smith đã thăm Ấn Độ ngày 8/12/2011 và giành được sự ủng hộ của Chính phủ nước chủ nhà đối với việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự giữa hai nước.
Ấn Độ vốn đã có chương trình trao đổi quân sự sâu sắc với Mỹ. Ba nước này hiện đã hợp tác trong lĩnh vực quân sự trên cơ sở song phương. Bởi vậy, giới phân tích chiến lược ở ba nước đều bày tỏ ý kiến về sự cần thiết tiến tới một cơ sở hợp tác chung.
Ý tưởng hợp tác ba bên nói trên được Ngoại trưởng Ôxtrâylia nêu ra tại Tôkyô cách đây 4 năm sau khi hải quân Ấn Độ,-Nhật Bản và Mỹ tập trận chung tại Thái Bình Dương, nhưng khi Trung Quốc phản ứng rất mạnh mẽ về đề nghị này thì Chính phủ Ôxtrâylia ngay lập tức đã rút lại ý tưởng đó.
Trên thực tế, Trung Quốc đã bộc lộ sự lo lăng về một liên minh như vậy vốn được xem là có thể kiềm chế sự hung hăng của Bắc Kinh. Ngày 27/5/2011, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã phản ứng đối với đề nghị này bằng cách công khai khuyên 4 nước trên “chớ chống lại xu hướng toàn cầu hoá và cần phải mở cửa và hòa nhập”.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương khi đó nói rằng Trung Quốc tin rằng việc tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau và mở rộn” hợp tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, nhu cầu mở cửa và sự hòa nhập là xu hướng toàn cầu.
Khả năng nối liền quan hệ 4 bên giữa 4 nền dân chủ trên thực tế đã được thảo luận trong giới phân tích chiến lược Trung Quốc vốn cho rằng việc thành lập một liên minh giữa 4 nước này sẽ chia rẽ châu Á. Trên thực tế, Bắc Kinh đã yêu cầu 4 nước trên giải thích lý do tiến hành cuộc gặp của các quan chức cấp cao 4 nước tại Manila ngày 24/5/2011. Cuộc gặp đầu tiên này được tiến hành bên lề hội nghị Diễn đàn khu vực ASEAN. Cả 4 nước khi đó quyết định sẽ tiến hành cuộc gặp tiếp theo, song cuộc gặp thử hai đã không được tổ chức.
Thực ra, không phải chỉ có Ôxtrâylia cảm thấy “lạnh chân” về đề xuất thành lập liên minh 4 bên, mà cả Ấn Độ cũng cảm thấy căng thẳng về đề xuất này. Trong bối cảnh quan hệ Ấn-Trung đang ở giai đoạn nhạy cảm liên quan đến vấn đề biên giới chưa được giải quyết và việc hai bên tiếp tục triển khai quân đội và các kho vũ khí dọc Tuyến kiểm soát thực tế có chiều dài hơn 4,000 km nên Ấn Độ cũng lùi bước.
Bởi vậy, khi Ngoại trưởng Ôxtrâylia một lần nữa nói về khả năng thành lập liên minh như vậy, Ấn Độ đã nhanh chóng bác bỏ đề nghị này. Tuy nhiên, giới phân tích chiến lược Ẩn Độ không e ngại về đối thoại song phương Ấn Độ-ôxtrâylia và đối thoại và quan hệ quân sự Ấn-Mỹ cũng như mức độ hợp tác cao giữa các nước này,
Từ năm 2007, đề nghị về thành lập liên minh 4 nước này vẫn “ngủ yên”. Song việc Trung Quốc có những hành động hung hăng mới tại Biển Đông đã gây ra lo ngại tại tất cả 4 nước này, các quan chức của 4 nước lại thảo luận về khả năng thành lập liên minh nhu vậy.
Ngày 19/12, 3 trong số 4 nước nói trên gồm Ấn Độ, Nhật Ban và Mỹ đã tiến hành cuộc đối thoại cấp cao chính thức tại Oasinhtơn. Các vấn đề được thảo luận trong cuộc đối thoại này bao gồm cả về ý định của Trung Quốc tại Biển Đông và việc cần phải phối hợp tập thể như thế nào để đối phó với Bắc Kinh.
Theo các chuyên gia chiến lược, hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông và sự suy giảm tương đối ảnh hưởng toàn diện cua Mỹ ở khu vực này rõ ràng đã thúc đẩy ba nước hợp tác với nhau.
Thực tế, tuyên bố của ông Kevin Rudd đề xuất thành lập liên minh ba nước được đưa ra dựa trên đề xuất chung của các học giả thuộc các viện nghiên cứu của ba nước gồm Lowry Institute của Ôxtrâylia, Americal Heritage Foundation (Mỹ) và Obsever Reseach Foundation (Ấn Độ).
Đề xuất chung nói trên mang tiêu đề: “Chia sẻ các mục tiêu, các lợi ích trùng hợp: kế hoạch hợp tác Mỹ-Ôxtrâylia-Ấn Độ tại Ẩn Độ Dương- Thái Bình Dương”.
Báo cáo trên đề nghị chính phủ 3 nước thiết lập quan hệ ba bên và hợp tác chặt chẽ hơn giữa ba nền dân chủ này nhằm tăng cường an ninh hàng hải, không phổ biến vũ khí hạt nhân, chống khủng bố và các mục tiêu quan trọng khác ở khu vực cùng với việc khuyến khích một trật tự ổn định hơn và dự báo được ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Theo các nhà quan sát chiến lược ở Ôxtrâylia, chính phủ nước này đã bác bó sự phàn nàn của Ấn Độ về việc duy trì lệnh cấm xuất khẩu uranium kéo dài và Chính phủ Mỹ đã ký một thoả thuận hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ.
Liên minh chiến lược
Đã tới lúc cả ba nước Ấn Độ, Mỹ và Ôxtrâylia hợp tác cùng nhau trên một nền tảng chung để bảo vệ các lợi ích chiến lược và kinh tế của mình. Đáng chú ý là Ôxtrâylia đã ký một thoả thuận cho phép lính thủy đánh bộ Mỹ triển khai trên vùng bờ biển nước này, động thái khiến Trung Quốc rất bực tức. Những diễn biến này là điềm xấu đối với Trung Quốc vốn đang tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình không phải chỉ ở châu Á, mà còn trên phạm vi toàn cầu.
Sau khi có thoả thuận về triển khai lính thủy đánh bộ giữa Mỹ và Ôxtrâylia, việc ký biên bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng giữa Ấn Độ và Ôxtrâylia là diễn biến đáng chú ý, đặt cơ sở cho một liên minh trong tương lai giữa ba nước này.
Trong thời gian diễn ra cuộc gặp của các bộ trưởng quốc phòng ba nước tại Niu Đêli, Ấn Độ và Ôxtrâylia đã quyết định tiến hành các cuộc tập trận hải quân đầy đủ trong tương lai. Thực ra, Ấn Độ đã mời Ôxtrâylia tham gia cuộc tập trận của hải quân 5 nước tại Malabar ở vịnh Bengan tháng 9/2007, đưa ra một thông điệp đối với cộng đồng quốc tế rằng Ấn Độ đang dần dần tham gia cấu trúc của phương Tây do Mỹ lãnh đạo.
5 nước tham gia tập trận hải quân tại Malabar gồm Ấn Độ, Ôxtrâylia, Mỹ, Nhật Ban và Xinhgapo. Điều thú vị là cả 4 nước còn lại đều là đồng minh của Mỹ. Cuộc tập trận hải quân Malabar diễn ra hàng năm giữa Mỹ và Ấn Độ trên cơ sở song phương đã dần được mở rộng với 5 nước tham gia, và việc đưa Ôxtrâylia tham gia là một quyết định có ý nghĩa chiến lược về lâu dài mà hiện nay dường như mới nổi lên.
Mặc dù không chính thức tuyên bố, song hai nước cũng đã thảo luận tình hình ở Biển Đông và các anh hưởng của những hành động cứng rắn của Trung Quốc ở khu vực trong thời gian diễn ra cuộc gặp của các bộ trưởng quốc phòng.
Để có được sự hiểu biết tốt hơn giữa hai nước về vấn đề an ninh cùng quan tâm và phương cách bảo vệ các lợi ích chung, các bộ trưởng quốc phòng của hai nước cũng đã quyết định thiết lập cơ cấu đối thoại 1.5 ở cấp ban chính phủ về các vấn đề quốc phòng giữa các thể chế thích hợp.
Theo các quan chức quốc phòng Ấn Độ, các bộ trưởng quốc phòng hai nước đã nhất trí rằng các thách thức trong lĩnh vực an ninh trên biển như cướp biển và tự do lưu thông hàng hải là các vấn đề quan trọng đòi hỏi cần có các nỗ lực cụ thể của cộng đồng thế giới.
Ấn Độ dường như tỏ ra dè dặt trước đề nghị của Ôxtrâylia về việc thành lập bất kỳ cơ chế đối thoại 3 bên nào để tiến tới một liên minh 3 nước.
Tất nhiên, cuộc khủng hoảng chính trị trong nước đã làm suy yếu đáng kể chính phủ của Liên minh tiến bộ thống nhất (UPA) do đảng Quốc đại lãnh đạo, điều buộc chính phủ phải tránh đưa ra quyết định về vấn đề gây chia rẽ như vậy trong chính sách đối ngoại.
Tuy nhiên, các chuyên gia chiến lược cho rằng với bối cảnh môi trường địa chính trị quốc tế thay đổi như hiện nay, Ấn Độ sẽ buộc phải tiến tới xây dựng các mối liên minh mới để có thể gửi một tín hiệu mạnh mẽ tới các đối thủ của mình./.
Diễn văn khai mạc hội nghị xây dựng Đảng của ông Nguyễn Phú Trọng nói rằng, đợt xây dựng chỉnh đốn Đảng lần này rất cấp bách bởi bốn lý do trong đó có hai lý do nhắc đến vấn đề bạn và thù.
Tuy không nói rõ ra trong bài phát biểu của mình, nhưng cách ông Trọng nhắc đến làm mọi người hiểu rằng ai là bạn của Đảng. Người bạn lớn đầu tiên ông nhắc đến là Đảng CS Liên Xô với 21 triệu đảng viên, dù bây giờ chỉ còn là hồn ma vất vưỡng nhưng sự tự sụp nhào trong chốc lát của bạn cũng rút ra bài học máu xương cho lần xây dựng chính đốn này của Đảng. Người bạn lớn thứ hai là đồng chí Trung Cộng. Ông Trọng nói rằng người bạn ấy ‘trong cải cách, mở cửa cũng luôn luôn khẳng định dứt khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản‘. Và ông thú nhận: Trong những lần trao đổi với chúng ta, bạn thường nhấn mạnh không để bị “Tây hóa”, “tha hóa”, “thoái hóa”.
Nghĩa là Đảng của Trung Cộng nhiều lần nhắc nhở Đảng VN không để bị “Tây hóa”. Điều nầy hơi lạ. Đảng Cộng Sản xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin là của phương Tây 100% mà bảo rằng đừng Tây hóa là sao? Cộng Sản không theo kiểu Tây nghĩa là Cộng sản theo kiểu phương Đông tức là cộng sản theo kiểu Mao – ít. À đúng rồi, bạn nhắc nhở ta phải bám cứng theo Mao, đừng có mà Tây hóa.
Một người bạn nữa được nhắc tới là Đảng CS Cuba, dù đang đổi mới vẫn kiên quyết khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng CS, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
Như vậy là Đảng xác định có ba bạn nhưng đã tiêu tùng một bạn nên bây giờ chỉ còn có hai bạn. Không thấy nhắc đến Bắc Triều Tiên và Lào. Có lẻ anh BTT nầy “chuyên chính” quá thành thật không một chút che đậy, tạo cớ cho thế giới bêu riếu làm xấu hổ lây cho cả khối cộng sản nên bị lờ đi không dám nhận là bạn chăng? Còn Lào thì quá nhỏ bé và mờ nhạt nên bị quên chăng?
Tóm lại trong thế giới rộng lớn nầy Đảng chỉ còn hai người bạn chí cốt mà thôi. Đó là Trung Cộng và Cuba
Còn kẻ thù?
Cả thế giới còn lại, dù độc tài hay dân chủ, dù Hồi Giáo hay không Hồi Giáo… thì cũng đều đi theo ý thức hệ tư bản hoàn toàn trái ngược với ý thức hệ của Đảng nên không thể là bạn được. Nhưng cũng không thể xem họ là thù, bởi họ không những không có ý định xấm lấn nước ta mà phần lớn trong số họ còn quan hệ làm ăn, cho ta vay vốn và giúp ta vươn lên văn minh thóat khỏi đói nghèo như ngày nay. Hiện nay trên thế giới chỉ còn một nước duy nhất đang xâm lấn một phần lãnh thổ của ta và đang đe dọa tiếp tục xấm lấn nữa, là Trung Cộng. Nhưng khổ nỗi, Đảng đã xác định nó là bạn rồi thì không thể xem nó là kẻ thù được nữa. Rất trớ trêu!
Do vậy cái việc xác định kẻ thù hiện nay là rất khó cho Đảng. Nhưng như ông Trọng nói có 4 lý do liên quan đến “sự tồn vong của Đảng và chế độ” (không phải là sự tồn vong của dân tộc và đất nước đâu nhé) thì trong ấy có một lý do là có kẻ thù chống phá Đảng, muốn tiêu diệt chủ nghĩa xã hội.
Vậy phải xác định cho ra kẻ thù ấy là ai chứ. Có rồi. Đó là các Thế lực thù địch, phản động.
Ông Trọng nói lý do thứ tư để chỉnh Đảng như sau: “Bốn là, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt. ‘Diễn biến hòa bình’ là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là ‘thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi’. Nhiều chuyên gia và chính khách phương Tây còn gọi đây là phương pháp ‘chuyển hóa hòa bình’, ‘biến đổi hòa bình’, ‘cách mạng hòa bình’ và gần đây là ‘cách mạng nhung’, ‘cách mạng màu’, ‘cách mạng đường phố’…“
Đọc kỹ đoạn văn đó chúng ta thấy rõ kẻ thù là các thế lực thù địch, phản động với những âm mưu cực kỳ xảo quyệt của chúng nhưng lại hoàn toàn không biết bọn chúng là ai, ở đâu, đe dọa đến sự an nguy của Đảng và chế độ từ phương trời nào?
Vì không xác định rõ chúng nó là ai và ở đâu nên có thể hiểu rằng chúng có thể bất kỳ là ai và ở bất cứ nơi đâu.
Mà trên thế giới, như đã phân tích ở trên, không có ai là kẻ thù của ta rồi, kể cả Trung Cộng. Vậy thì kẻ thù chỉ có thể ở ngay trong nước và ở ngay trong nhân dân mà thôi.
Như vậy thì nguy quá rồi.
Nguồn: Blog Huỳnh Ngọc Chênh
Được đăng bởi bauxitevn
Nguyễn Mạnh Tường – Talawas
Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất – Xây dựng quan điểm lãnh đạo
Thưa các quí vị,
Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy. Hôm nay tôi được đúc kết trước toàn thể Hội nghị các ý kiến mà trong mười ngày vừa qua tôi đã trình bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí thức không bao giờ quên trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử nước nhà.
Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được? Nếu chúng ta duy tâm và tin rằng linh hồn còn tồn tại thì một phần nào ta chuộc lại được tội lỗi của ta. Nhưng ta duy vật và các người ấy lúc chết cũng là duy vật. Do đó, cái nỗi khổ cực của họ ta biết rõ rằng bây giờ ta không thể nào thủ tiêu được nữa. Quyền hạn của ta không tới đó. Nhưng cái gì ta có thể làm được, ta cần làm, để như là đền bù một phần nào sự tổn thiệt của các người ấy, và chứng minh ta thấm thía nỗi đau khổ của họ khi họ từ trần là ta cương quyết rút bài học kinh nghiệm đau đớn và sửa chữa các sai lầm nghiêm trọng mà họ là nạn nhân.
Với tinh thần của một người trong quần chúng, của một người công dân đau khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội, tôi xin phép trình bày mấy ý kiến xây dựng. Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, nhưng theo ý tôi các sai lầm này chỉ là biểu hiện điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Đảng Lao động. Do đó tôi xin được góp ý kiến xây dựng quan điểm lãnh đạo của Đảng Lao động.
Tại sao tôi lại tin như vậy? Là vì, không những trong Cải cách Ruộng đất chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết thê thảm. Do đó, nếu chỉ cục bộ hóa các sai lầm, chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ khiếm khuyết với sự tín nhiệm của tất cả các đảng viên Đảng Lao động, với sự mong đợi của toàn dân. Chúng ta phải kiên quyết không cho các sai lầm ấy tái diễn và tác hại nữa. Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với các người đã chết oan.
Tình hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi quan không? Đó là vấn đề nhận định thôi. Nhưng cái chủ yếu là ta không nhìn tình hình ây với con mắt bi quan. Vậy sự thật khách quan như thế nào? Nhìn vào nông thôn, ta thấy hiện thời tình trạng thiếu đoàn kết rất phổ biến. Vì thi hành sai chính sách cải cách, ta đối lập các từng lớp trong giai cấp nông dân, cán bộ cũ và mới, chi bộ cũ và mới của Đảng. Trong khi đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người hoặc già cả hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu diệt. Ta chỉ cần đọc lại các bài giáo huấn cho đồng bào nông thôn trong báo Nhân Dân là ta đủ hiểu mặt mũi nông thôn hiện giờ ra sao. Nhìn vào các công xưởng, công trường, ta thấy gì? Cứ đọc báo Nhân Dân thôi, ta thấy Chính phủ gửi các phái đoàn đi thăm các anh chị em công nhân, ủy lạo họ, bắt buộc thi hành quy chế lao động mà Chính phủ đã ban ra. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là giai cấp công nhân đã phải lao động sản xuất hai năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức. Lắng nghe dư luận đồng bào Hà Nội thôi, ta được biết rằng có it ra một doanh nghiệp quốc gia lãng phí bao nhiêu triệu trong khi dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh nghiệp ấy mang lại cho thực dân đế quốc các số lãi khổng lồ.
Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch.
Về hộ khẩu thì cán bộ tỏ vẻ không phải là nhằm duy trì trật tự an ninh, phá vỡ cơ sở của địch, trái lại quấy nhiễu nhân dân, tạo ra một đời sống thành thị điêu đứng cho tất cả. Nếu các vị cần những dẫn chứng cụ thể, tôi chỉ xin nhắc lại hồ sơ mênh mông, thu lượm các thắc mắc cay đắng của đồng bào Thủ đô trong Đại hội lần thứ ba của nhân dân Hà Nội vừa họp cách đây hai tháng.
Nói về chính sách khôi phục kinh tế, ta thấy gì? Số vốn mà các nhà công thương mang ra kinh doanh chỉ là một phần ti tiểu, số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa lý gì. Trái lại ta thấy tất cả một phong trào các nhà tư bản thu hẹp hoạt động của họ, hoặc “chuyển hướng” bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước mía, hay dệt vài thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào vốn để khỏi đụng chạm đến Sở Lao động vì vấn đề công nhân, với Sở Công thương vì vấn đề đăng ký và nguyên liệu sản xuất, với Sở Tài chính vì thuế khoá đặc biệt. Thuế bổ sung đã đưa bao nhiêu người đến chỗ phá sản, có kẻ đến chỗ tự sát. Các người tiểu thương buôn thúng bán mẹt, đẩy chiếc xe hàng tiều tụy trong phố, cũng “được” nộp thuế, cũng như các người suốt ngày làm việc ở công sở hay công xưởng, tối về thức đêm dệt vài thước kiếm thêm tiền độ thân. Hàng trăm, hàng nghìn công chức cũ về hưu, với gia đình của họ, trước đây sống bằng lương hưu trí, hai năm nay không được ai chiếu cố đến, chết dần chết mòn, có người đâm đầu xuống sông tự tử, có người hai lần uống độc dược để quyên sinh.
Còn như các cán bộ thì ta có cần nói đến không? Ta cứ trông mặt mũi, quần áo họ, ta chỉ cần hỏi con số những người qua các phòng khám bệnh, các bệnh viện, ta liếc mắt nhìn họ ăn uống những gì trong bữa cơm, là ta đủ hiểu khổ cực của họ.
Ta quên thế nào được các đồng bào tập kết ra ngoài Bắc, số phận con cái họ ở Hà Nội, Hải Phòng, số phận chính của họ bi đát quá nỗi! Khổ cực nhất cho các anh chị em là không nương tưa đuợc vào một đời sống gia đình đề khuây khỏa trong lúc thảm sầu.
Các hiện tượng trên đây có đúng không, tôi chỉ yêu cầu các vị đọc báo Nhân Dân, nghiên cứu các hồ sơ chồng chất lên ở Mặt trận Thành Hà Nội sau Đại hội lần thứ 3 vừa rồi, nghe ngóng lời than phiền của quần chúng, nhìn nhận các quang cảnh diễn ra dưới mắt của các vị là các vị đủ hiểu rồi. Quả thực như ông Trường Chinh đã tuyên bố, uy tín của chính phủ, của Đảng bị tổn thiệt rất nhiều. Thế tại sao đồng bào chúng ta lại khổ cực? Phải chăng vì cán bộ của chúng ta non, hẹp hòi, chưa thấm nhuần lý luận cách mạng, không tôn trọng giá trị của con người, các nhu cầu và đòi hỏi chính đáng của nó? Phải chăng vì ta đang mắc trầm trọng bệnh ấu trĩ của cách mạng? Các điều đó là có, ta không hề chối và ta cũng không thể chối cãi được. Nhưng nhận định như vậy vẫn còn hời hợt. Ta phải đi sâu hơn nữa. Khi trong Cải cách Ruộng đất của ta, ta thấy bao nhiêu người bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân ưu tú đã từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời ở nông thôn vẫn có người bị đánh đập, ngược đãi, khi ta không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận định rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải cách Ruộng đất này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lãnh đạo của Đảng Lao động.
Do đó, tôi yêu cầu các vị cho phép tôi bắt đầu nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách đã rồi sau khi truy nguyên các sai lầm ấy, đề đạt mấy ý kiến về vấn đề lãnh đạo.
I. Vấn đề pháp lý trong Cải cách Ruộng đất
Ta đã sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách Ruộng đất, ta có thể tránh được sai lầm ấy mà vẫn bảo đảm được đường lối căn bản của cách mạng không? Tôi giả nhời cương quyết rằng có.
Đường lối cách mạng của ta đòi hỏi gì? Ruộng phải trở về người cày. Điều này rất đúng không ai có thể chối cãi được. Nông dân là đại đa số trong nhân dân, nông dân là quân đội chủ lực của cách mạng, nhất định cách mạng không thể nào thành công được nếu ta không thỏa mãn nhu cầu thiết yếu và cấp bách của nông dân. Không cần phải là một nhà chính trị cao, một nhà cách mạng thạo, cũng nhận thấy điều ấy. Chỉ cần nhìn lịch sử cách mạng từ thời kỳ cổ đại đến giờ là đủ hiểu rồi.
Như vậy về nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải cách Ruộng đất.
Về phương pháp, ta có nên ban ơn cho nông dân không? Nhất định là không. Nông dân ta trong bao nghìn năm đã khổ cực dưới chế độ bóc lột phong kiến và một trăm năm nay dưới chế độ bóc lột thực dân. Đồng bào nông thôn ta lầm than như vậy, đã mất hết khí thế con người. Ta cần khôi phục khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần chủ nhân ông trên đất nước. Do đó ta thấy cần thiết phải phát động tư tưởng của họ để họ nhận được phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng giậy nắm lấy quyền thế ở nông thôn.
Nhưng từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm. Sai lầm này, ông Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ: ta quên hẳn ta hiện thời nắm chính quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết sử dụng nó, khai thác nó một cách sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được bao tai họa làm ta đau khổ hiện thời.
Con đường ông Trường Chinh đã đi để tiến tới kết luận ấy là con đường chính trị. Các anh em tôi là những nhà luật học, chỉ là nhà chuyên môn và lý luận trên cơ sở chuyên môn thôi, đã trông thấy kết luận ấy ngay từ khi chính sách phát động và Cải cách được đề ra. Tại sao? Vì giải pháp chính quyền cụ thể là giải pháp pháp lý, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của cách mạng nếu ta biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng.
Ta muốn gì? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng công lý của cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế: kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì?
Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: “Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan”. Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không? Không, vì ta nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành công. Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm, nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ: không một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.
Làm thế nào thực hiện được khẩu hiệu ấy? Kinh nghiệm pháp lý của hàng nghìn năm lịch sử thế giới cho ta biết rằng ta có phương pháp để tìm đúng địch mà đánh, không đánh tràn lan, không đánh người vô tội. Tôi xin phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc căn bản mà pháp lý nêu lên để đạt mục đích ấy.
Một nguyên tắc đầu tiên là không hình phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Tại sao? Vì rằng vấn đề bằng chứng khó giải quyết được, tang vật đã mất, nhân chứng có người đã từ trần, có người không nhớ rõ các sự việc họ đã mục kích. Hơn nữa, sở dĩ hình luật phạt các tội, là vì các tội ấy đã xâm phạm vào trật tự xã hội: tác hại cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong quần chúng. Nhưng khi tội đã phạm quá lâu, trật tự xã hội hết bị xâm phạm rồi, nạn nhân không còn đau khổ, tác dụng xấu của tội cũng hết, thời gian đã hàn gắn các vết thương. Bây giờ lại vạch chuyện cũ thì không những khó thu thập được bằng chứng kết tội mà lại gây một sự náo động trong xã hội không cần thiết. Chính xã hội thấy “quên” lợi hơn là “nhớ”.
Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung của vợ con, của gia đình. Nêu trách nhiệm truớc hình luật của các người “có quan hệ” với phạm nhân không những là bất công mà lại còn gây các sự rung động vô ích trong xã hội. Hơn 400 năm nay không một nước Tây phương nào làm việc đó nữa. Trách nhiệm trước hình luật chỉ là một trách nhiệm cá nhân mà thôi. Không những thế, về phương diện nhân đạo, thì các phạm nhân quá già được miễn nghị, miễn tố và các vị thành niên được chiếu cố.
Môt nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn. Một nhân chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau mới được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp với nhau và trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được phải có tác dụng hợp lý, sát hợp với kết quả do cuộc điêù tra mang lại.
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, Tòa phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn điều tra ở trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm, buộc tội trước tòa, quyền lợi của công tố viện ngang với quyền lợi bị can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lý lẽ để minh oan. Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra, truy tố, xét xử giữa công tố viện và luật sư. Các vị thẩm phán ngồi xét xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai trong khi xét xử, chỉ biết xét xử theo lương tâm của mình và căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tội. Người thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình mà không sợ ai khiển trách hay gây khó khăn cho mình được. Khi điều tra thẩm vấn, tuyệt đối cấm không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ hắn. Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án thì còn quyền chống án lên tòa trên. Nếu bị kết án tử hình thì lại còn quyền xin ân giảm trước vị Chủ tịch Chính phủ. Con người của bị can, trong tất cả quá trình truy tố và xét xử phải được tôn trọng triệt để, khi bị can ra trước tòa thì không được xiềng xích họ và không lúc nào được dùng nhục hình đối xử với họ.
Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một người tác hại cho một người khác mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước hình luật. Tác hại cho ai thì chỉ nêu trách nhiệm về phương diện dân sự, nghĩa là bồi thường thôi — của người đã tác hại. Muốn truy tố người ấy để thi hành hình luật đối với hắn thì phải chứng minh rằng hắn phạm một tội, nghĩa là phạm vào một điều khoản nào qui định trong hình luật, và hình luật không bao giờ có tác dụng đối với quá khứ cả: nếu hành động của một người diễn ra trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là một tội thì người ấy không thể mang ra truy tố được. Không những bị can phải phạm một tội đã qui định rồi trong pháp luật, mà ta lại còn phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy bị can có ý thức, có ý chí phạm pháp hay không, hay là vô tình mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhau.
Lúc tôi nhắc lại các nguyên tắc này thì có vị cho rằng như thế là phiền phức, phức tạp. Dĩ nhiên rồi, nhưng tất cả vấn đề là: ta có muốn giết người vô tội không? Nếu không thì không thể nào làm khác được. Hơn nữa, muốn nhận định vấn đề cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một người hiện thời không dây dưa với pháp luật, một người ở một cương vị chính quyền. Ta phải đứng vào cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất sáng tỏ, không những ta đòi thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta còn cố gắng tìm hiểu thêm các nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị chết.
Nếu mang ra áp dụng các nguyên tắc ấy vào cuộc Cải cách ruộng đất của ta, ta sẽ làm thế nào? Thủ tục cải cách cứ diễn bài nhưng sự trừng trị bọn cường hào gian ác hay phản động, ta sẽ không giao cho một tòa án nhân dân, đặc biệt như ta đã làm với tất cả sự thiếu sót về phương diện pháp lý mà ta đã biết. Trái lại, sau khi phát động tư tưởng của nông dân, ta sẽ nghe lời họ tố cáo kẻ thù của họ. Ta sẽ ủy nhiệm toà án nhân dân thường lập các hồ sơ, để tòa án, với bộ máy và kinh nghiệm của nó, tiếp tục điều tra, kiểm tra, lấy cung chứng, truy tố, luận tội, xét xử. Ta đảm bảo triệt để cho bị tố nhân quyền bào chữa của họ, ta yêu cầu các luật sư làm tròn nhiệm vụ của họ, ta tôn trọng triệt để con người của bị tố nhân. Ta chỉ thù ghét và kết án, trừng phạt tội của nó đã phạm thôi. Ta tin tưởng ở tòa án, ta đảm bảo cho các vị thẩm phán làm việc ngoài sự điều khiển của chính quyền, một cách biệt lập, tôi nói biệt lập chứ không phải độc lập, theo lương tâm của các vị và căn cứ vào hồ sơ và kết quả của cuộc thẩm vấn.
Tống Văn Công – Boxitvn
Được đăng bởi bauxitevn
Được đăng bởi bauxitevn
Nguồn: Youth Box
http://www.facebook.com/pages/Youth-Box-Channel/249628838452027
Chỉnh đốn Đảng hay chọn Dân chủ?
Đoàn Viết Hoạt - Ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, gần đây có tuyên bố được mọi người chú ý, “Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là ‘chết cái đất nước này”. Tuyên
bố này nói lên một sự thực còn tồi tệ hơn: một nồi canh với một bầy sâu
thì chỉ còn là một nồi canh sâu? Mà đã là nồi canh sâu thì còn tiếc gì
nữa mà không đổ bỏ đi. Ai còn có thể ăn được, trừ khi quá nghèo khổ
không ăn thì chết.
Đảng đang kêu gọi chỉnh đốn để hy vọng trừ diệt bầy sâu, làm trong sạch đảng. Đảng nói thế chứ dân không tin thế.
Dân gian hiện nay có câu: “Đảng cứ nói, dân cứ làm”, và Đảng nói đường đảng, dân làm đường dân.
Dân cứ làm như thế nào? Tiêu cực thì dân cấy sâu vào nồi canh của
đảng. Dân nuôi các công an địa phương; hối lộ cảnh sát giao thông; móc
ngoặc với cán bộ thoái hóa.
‘Nồi canh đảng’ ngày càng có nhiều sâu, sâu ngày càng to và mập
hơn. Dân hoan hô nghị quyết, hoan hô đảng công khai trong các buổi họp
tổ dân phố, nhưng ‘chửi đảng’ thậm tệ nơi riêng tư, với nhau, trong gia
đình, ngoài đường phố, tại các quán nước, trên xích lô, trong taxi.
Sống hai mặt
Mọi người đều phải sống hai mặt, nói một đằng làm một nẻo, trước mặt nói tốt, làm tốt, vắng mặt nói xấu, làm xấu.
Dân phải làm như thế mới sống được, mới không bị đi tù, không bị
theo dõi, trù úm; mới hy vọng làm ăn, học hành, sinh sống yên ổn được.
Nhưng nếu dân cả nước cứ phải làm như thế thì than ôi, đất nước còn
gì, dân tộc còn gì; còn gì để tự hào dân tộc, còn đâu là tiêu chuẩn đạo
đức, là trật tự xã hội, là ‘Công bằng, Văn minh’?
Còn đâu Văn hiến chi bang, đạo thống Tiên Rồng? Tiền đồ dân tộc và
tương lai đất nước đi về đâu? Người Việt nào có lòng mà im lặng được
trước tình trạng băng hoại đạo đức, tinh thần toàn diện như thế?
Trong khi đó thì đảng nói gì và làm gì? Cần sửa sai và chỉnh đốn.
Chỉnh đốn đảng để đưa đất nước tiên lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng như câu
nói ngoài dân thể hiện thực tế: “càng chỉnh càng đốn”. Liệu còn chỉnh
đốn được không? Hay câu hỏi chính xác hơn là: thể chế chính trị cộng sản
có chỉnh đốn được không?
Nhiều cựu lãnh đạo cộng sản thế giới đã thú nhận chế độ cộng sản
không thể sửa sai được. Từ ông Gorbachev đến ông Yeltsin đều nói như
thế.
Ông Gorbachev giờ đây còn tỏ ra ân hận là mình vẫn cố sửa đổi để
mong cứu Đảng Cộng sản Liên Xô vào những tháng cuối cùng của chế độ cộng
sản. Ông tiếc là đã không bỏ đảng CS sớm hơn.
Yeltsin, Gorbachev là những lãnh tụ cộng sản quốc tế lừng danh. Họ
không phải là những người chống cộng. Họ phải biết rõ hơn bất kỳ nhà
lãnh đạo cộng sản nào ở Việt Nam về bản chất của hệ thống chính trị cộng
sản.
Họ đã can đảm mở đường cho Nga trước, Liên Xô sau, dứt bỏ chủ nghĩa
cộng sản và hệ thống chính trị cộng sản. Họ đã không vì quyền và lợi
riêng mà cố duy trì cho bằng được cái chủ nghĩa và hệ thống chính trị
cộng sản đã lỗi thời đó.
Đây là chủ nghĩa và hệ thống ngoại lai mà một người Việt, ông Lý
Đông A từ đầu thập niên 1940, đã khẳng định là thứ chủ nghĩa “lạc hậu
non 100 năm”, thất bại trong kiến thiết tại Liên Xô và sẽ hoàn toàn sụp
đổ trên toàn thế giới.
Không thể sửa sai một chủ nghĩa và một cơ chế chính trị đã sai lầm
từ bản chất, từ các quan điểm nền tảng. Chỉnh đốn đảng để thực hiện khẩu
hiệu trên, do đó, chỉ là công sức vô ích, dù thiện chí có thực đến thế
nào.
Di sản trên tường một nhà máy cũ từ thời cộng sản ở Krasnoyarsk, nước Nga
Đối với người dân Việt, giải pháp duy nhất tốt lúc này, cho chính
đảng cộng sản và cho đất nước, không phải là chỉnh đốn Đảng Cộng sản, mà
là trả lại quyền tự quyết cho toàn dân – là dân chủ, dân chủ chân chính
và toàn diện.
Dân chủ chân chính, để mọi thành phần dân chúng, cụ thể là hai
thành phần còn tin theo cộng sản và không tin theo cộng sản, đều được
quyền cùng tồn tại, cùng tự do hoạt động, cùng cạnh tranh lành mạnh, để
đưa ra và thực hiện các chương trình kiến thiết đất nước. Cạnh tranh
trong ôn hòa, công khai, minh bạch, trong sáng, để toàn dân cùng so sánh
và tự do chọn lựa.
Dân chủ toàn diện để người dân thực sự làm chủ được mọi hoạt động
của mình trong mọi lãnh vực, từ kinh tế thương mại, đến văn hóa, giáo
dục, thông tin, tôn giáo, tư tưởng và chính trị. Đất nước tiến được hay
không là do toàn dân có được môi trường và điều kiện để sinh họat tự do,
tích cực, có hiệu quả trong mọi lãnh vực hay không.
Pháp trị thay cho Đảng trị
Môi trường và điều kiện cần thiết đó chính là hệ thống chính trị Dân chủ Pháp trị, không phải độc tài Đảng trị hiện nay.
Hiến pháp và luật pháp phải có giá trị phán quyết tối cao, đứng
trên mọi đảng phái, không một cá nhân, một đảng phái nào, có thể đứng
ngoài và đứng trên Hiến pháp và luật pháp được, kể cả người đứng đầu
chính quyền và đảng cầm quyền. Dân chỉ thực sự làm chủ khi được tự do
sinh họat trong một xã hội như thế.
Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hãy chứng tỏ bản lãnh chính trị
và tầm nhìn thời đại để thay đổi triệt để và cỗi gốc, để từ bỏ độc tài
đảng trị và chấp nhận Dân chủ Pháp trị.
Việc đầu tiên là chấp nhận một lộ trình dân chủ hóa. Dù công bố hay
không, bước đầu tiên trong lộ trình này là thả tất cả những tù nhân
đang bị giam giữ hay quản chế vì lý do tư tưởng, chính trị và tôn giáo.
Bước tiếp theo là hủy bỏ các điều khoản trong Bộ Luật Hình sự và các
Luật khác mà từ trước đến nay vẫn được sử dụng để đàn áp, bắt giữ những
người bất đồng chính kiến.
Sau đó, ngưng bắt giữ những người phát biểu, một cách ôn hòa bất
bạo động, các ý kiến khác biệt với đảng và nhà nước cộng sản. Cuối cùng
là ban hành các đạo luật cho phép người dân thành lập các tổ chức chính
trị và dân sự, và được họat động công khai hợp pháp, như là tiếng nói
đối lập với Đảng Cộng sản đang cầm quyền.
Lộ trình dân chủ, với những bước đi tuần tự và cụ thể như thế, sẽ
tạo ra một bầu khí văn hóa chính trị mới, gây phấn chấn cho mọi người
Việt, khơi dậy sức sống và sức sáng tạo cho toàn dân trong mọi lãnh vực
họat động xã hội, nhất là trong những lãnh vực mà đến nay vẫn hết sức
nghèo nàn, sơ cứng vì bị đảng kiểm sóat chặt chẽ.
Việc đảng Đảng Cộng sản Việt Nam thực thi một lộ trình thay đổi
chính trị ôn hòa công khai như thế là điều mà những người Việt quan tâm
trong và ngoài nứơc hằng mong đợi, để đất nước và nhân dân sớm chuyển
mình sang giai đọan cất cánh. Nhưng cũng rất nhiều người không tin rằng
ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam muốn và dám làm như thế.
Không muốn vì nó có thể dẫn đến hậu quả là đảng mất quyền vì không
được đa số nhân dân tín nhiệm. Không dám vì để thực hiện được điều này
ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay phải vượt qua được chính
mình, được chính nỗi lo sợ mất những đặc quyền đặc lợi hiện đang chiếm
giữ.
Đảng chỉ dám chỉnh đốn đảng của mình. Nhưng chỉnh đốn chỉ là vô
hiệu bởi không thể vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa sản sinh ra sâu lại vừa
tự diệt sâu, lấy bầy sâu diệt từng con sâu.
Sâu được sản sinh ra và nuôi dưỡng bởi chính hệ thống độc quyền,
đặc quyền đặc lợi. Muốn trừ sâu cần chấm dứt độc quyền, cần để xuất hiện
những cơ cấu nằm ngoài và độc lập với các cơ cấu của Đảng và Nhà nước.
Các cơ cấu độc lập này phải được bảo vệ bằng luật pháp công minh
của hệ thống pháp trị. Thiếu những cơ cấu đó chỉnh đốn chỉ là biện pháp
xoa dầu cho người sắp chết, như chính ông Truơng Tấn Sang đã cảnh báo:
“Một bầy sâu là ‘chết’ cái đất nước này”.
Nhưng liệu ‘bầy sâu’ của Đảng Cộng sản có làm ‘chết’ cái đất nước này hay sẽ làm chết Đảng?
Một đất nước và một dân tộc đã không bị diệt vong, dù 1000 năm nô
lệ Tàu, dù 100 năm đô hộ Tây thì chắc chắn sẽ biết vươn mình đứng dậy,
rũ sạch mấy chục năm đảng trị, để phục sinh, tồn tại và tiến hóa, đến vô
cùng.
Như đã thế và tất nhiên phải thế. Vì đó là dân tộc Việt.
Đoàn Viết Hoạt
Ai hành ai?
Paulo Thành Nguyễn
– Đúng 14h tôi có mặt tại phòng Kiểm tra Văn hóa phẩm (VHP) của sở VHTT
nhưng không thấy ai, tôi gọi cho cô Hồng Ánh, người đã liên hệ tôi gửi
giấy mời thì được biết mọi người đang trên đường đến. Ba mươi phút sau
có hai người bên hải quan và hai người “vô danh” đến.
Trong khi hai cán bộ hải quan tìm người phụ trách phòng kiểm tra
thì hai người “vô danh” đến ngồi cạnh và sau lưng tôi, mắt nhìn quanh
không nói một lời.
Chị Như, phụ trách tiếp nhận hồ sơ, người trong khi chờ tôi có nói chuyện, tưởng là đi chung với tôi nên hỏi, nhưng tôi bảo không biết.
Chị Như, phụ trách tiếp nhận hồ sơ, người trong khi chờ tôi có nói chuyện, tưởng là đi chung với tôi nên hỏi, nhưng tôi bảo không biết.
Chị ta quay sang hỏi anh ngồi cạnh tôi: “Anh cần liên hệ gì?”
Anh ta ú ớ…Cô Như hỏi tiếp: “Anh bên công an ah?” Anh ta tiếp tục ú
ớ một lúc rồi chỉ theo hướng hai cán bộ hải quan nói “đi theo chị đó”.
Chị Như hỏi tiếp anh ngồi sau:
- “Còn anh cần liên hệ gì?”
- “Ờ… ừm…, tôi đi theo anh này” – anh ta vừa nói vừa chỉ anh ngồi cạnh tôi.
Chị Như không hỏi nữa và quay đi với nét mặt khó hiểu. Ngồi im lặng
chừng năm phút sau thì hai anh “vô danh” đó ra ngoài. Chị Như quay nhìn
tôi hỏi: “Anh lưu cái gì trong đó mà có vẻ nghiêm trọng vậy?”
Tôi cười và nói “Chỉ mấy cái hình chụp cảnh thôi, tại họ thích làm
nó nghiêm trọng đó mà”. Chị Như cười có vẻ hiểu ý và quay đi làm việc.
Tôi tiếp tục ngồi chờ thêm một tiếng đồng hồ cho phần bàn giao niêm
phong từ Hải Quan qua bộ phận kiểm tra văn hóa phẩm. Có lẽ vì trường
hợp tôi khác với các hàng hóa thông thường nên cách làm phối hợp hai bên
rất lúng túng và không có biên bản mẫu liên quan.
Đến 16h thì hai nhân viên hải quan hớn hở ra về với vẻ mặt tươi như
được “rảnh nợ”, sau khi hoàn tất bàn giao cho anh Sơn, bộ phận kiểm tra
VHP.
Theo nghiệp vụ kiểm tra thông thường để đảm bảo tính khách quan như
anh Sơn nói là chép từ USB và thẻ nhớ ra hai CD, mỗi bên giữ một cái
rồi niêm phong file gốc lại nếu cần sẽ đối chứng sau này. Trong khi chờ
anh Sơn đi kiếm cái đầu đọc thẻ nhớ tôi nói vu vơ với chị Như: “Phòng
giám định kiểu gì mà cái đầu đọc thẻ cũng hông có” . Chị ta cười nói:
“Tại hồi giờ ở đây chỉ thu đĩa thôi chứ đâu có thu USB hay thẻ nhớ đâu,
cái này chắc chuyển giám định nơi khác (?!)”
Hai mươi phút sau anh Sơn mang cái ổ đĩa về và mời tôi vào phòng
kiểm tra cùng với một anh “vô danh” ngồi cạnh lúc nãy, nhưng giờ được
anh Sơn giới thiệu là nhân viên kỹ thuật (?!)
Anh Sơn chép từ USB và thẻ nhớ ra hai thư mục trên máy tính, nhìn
vào chỉ toàn là hình ảnh cá nhân, phong cảnh và một file văn bản ghi
tiểu sử của những lãnh đạo lịch sử nước Mỹ mà tôi yêu thích.
- “Đó, anh thấy có gì đâu, toàn hình cá nhân mà anh chép làm gì?” – Tôi nói
- “Cái này vẫn phải coppy ra CD để đi giám định, kết quả sẽ báo lại sau” – Anh Sơn trả lời.
Sau một tiếng đồng hồ loay hoay, thay hết ổ ghi này đến ổ ghi khác
nhưng vẫn không coppy từ máy tính qua CD được. Đến 17h tôi yêu cầu lập
biên bản niêm phong lại để ra về vì không thể chờ thêm được.
Trước khi về tôi đã nói với anh Sơn là lần sau có mời tôi cũng
không lên nữa vì tôi đã bỏ hết công việc để hợp tác với phía cơ quan
nhưng tôi thấy điều đó quá lãng phí với kiểu cách làm việc tùy tiện như
vậy.
Thật tình tôi không hiểu nổi, hải quan (hay lực lượng an ninh??)
khi yêu cầu kiểm tra, giám định hình ảnh cá nhân tôi tại Sở Văn hóa,
viện dẫn Nghị định 88/2002/NĐ-CP họ suy nghĩ gì? Tôi là một công dân,
sẵn sàng hợp tác với cơ quan chức năng theo đúng nghĩa vụ của mình. Tuy
nhiên, việc xâm phạm quyền tự do công dân qua việc chép và sử dụng hình
ảnh cá nhân của tôi như trên là điều không thể chấp nhận. Và không ai
biết được, lực lượng an ninh sẽ sử dụng hình ảnh cá nhân ấy để làm gì.
Cán bộ làm việc trễ hơn 30p so với giấy mời.
Gần 4 tiếng làm việc chỉ thêm được một tờ niêm phong.
28-02-2012
Có hay không một Gorbachev ở Việt Nam ?
Trần Sơn (Danlambao)
– Vậy là sau gần một năm nhậm chức Tổng bí thư, ông Trọng cho nổ phát
súng đầu tiên vào đám thuộc hạ bằng chỉ thị 15 -CT/TƯ. Hôm qua ông triệu
tập tại Hà Nội hơn 1000 cán bộ cao cấp trong đảng của ông để ông lên
lớp với nội dung chỉ thị 15 này. Báo chí của nhà ông đưa tin 1000 cán
bộ, nhưng theo kinh nghiệm của dân làm báo hình , thì chỉ cần lướt qua
theo góc quay ống kính, con số chưa đầy 500, kể cả đám ngủ gật. Nhưng
thôi, 500 hay 1000 không thành vấn đề, chỉ biết rằng đây sẽ là những hạt
nhân của ông sẽ giúp ông làm một cuộc cách mạng trong đảng sắp tới –
Chí ít ông mong như vậy.
Trong bài lên lớp này, đặc biệt ông có nhắc đến nguyên nhân ông “anh cả” Sô-Viết tan rã là do: “thiếu chú trọng công tác xây dựng đảng… 21 triệu đảng viên, nhưng đảng không mạnh”.
À, hoá ra cha nào nhận xét mấy năm ngồi chức trưởng ban lý luận trung
uơng, đúng là toi cơm thiên hạ, cũng có lý. Putin, một KGB cộm cán còn
sống sờ sờ ra đấy, đừng nói ẩu, mà lỡ anh ấy cho ăn quả Vả. Chuyện gì
chứ chuyện xây dựng đảng, phải hỏi KGB.
Ông không nhắc đến Liên-Xô thì thôi, ông đã nhắc lại thì tiện đây
chúng tôi cũng xin nhắc để thiên hạ rõ. Và đồng thời cũng Vinh Danh ông
một cách thực sự theo đung nghĩa của từ này. Chúng tôi vinh danh ông như
một Gorbachev của Việt Nam.
Thoạt đầu, Gorbachev ra một cái lệnh, nghe tưởng vô thưởng vô phạt
là cấm rượu. Gorbachev đánh vào đám đàn ông thành niên, lực lượng hùng
hậu nhất của quốc gia. Gorbachev tạo nên bức xúc không cần thiết trong
xã hội. Tiếp đến Gorbachev perestroika. Mà perestroika là gì, là chỉnh
đốn đảng, là đổi mới về nhận thức sự lãnh đạo của đảng, về mở rộng dân
chủ trong đảng, về đấu tranh phê và tự phê… Nghĩa là hoàn toàn công tác
xây dựng đảng. Vậy là xong. Xong một cách chóng vánh. Xong một thể chế
vào thời kỳ ấy được gọi là hùng cường nhất nhì thế giới.
Chúng tôi Vinh Danh ông là một Gorbachev của Việt Nam thông qua chỉ thị 15 này. Chỉ cần đọc qua phần II- NỘI DUNG VÀ CÁCH LÀM có thể thấy rõ mục đích của ông:
Trích “Trước khi kiểm điểm, phải tổ chức lấy ý kiến góp ý của
cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị – xã hội cùng cấp và các đồng chí nguyên là cấp ủy viên cùng cấp. Ủy
ban kiểm tra chủ trì phối hợp với ban tổ chức, ban tuyên giáo, ban dân
vận, văn phòng và các cơ quan liên quan kiến nghị với cấp ủy (hoặc
thường vụ cấp ủy) nội dung gợi ý kiểm điểm cho tập thể, cá nhân ở những
nơi cần thiết…” Điều này cho thấy ông đang phát động cuộc thanh
trừng trên diện rộng với mọi thành phần, nhưng lại ở “Những nơi cần
thiết”. Mặc nhiên đám thuộc hạ của ông thừa đủ thông minh để biết nơi
nào là cần thiết để đánh, và đương nhiên nó sẽ đánh cả vào nơi không cần
thiết, nhưng nó thừa đủ lý do để cho là cần thiết. Chúng tôi biết, sẽ
là một cuộc nồi da xáo thịt theo chỉ thị này của ông. Mà mục đích không
phải để xây dựng đảng mà để tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng.
Để thực hiện ý đồ này, chỉ thị 15 của ông cho thuộc hạ một vũ khí khá sắc bén: “Cấp
ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên kiểm điểm tự phê bình và phê bình
không đạt yêu cầu phải kiểm điểm lại; kiên quyết xử lý kỷ luật những cấp
ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không tự giác kiểm điểm tự phê bình
và phê bình, không tự nhận được sai lầm, khuyết điểm, không khắc phục
được những hạn chế, khuyết điểm đã được nêu ra”. Thế nào là không
đạt yêu cầu, có giời mà biết. Ông để cái chỉ thị ra một cái mông lung
như vậy, để cho đám thuộc hạ giết nhau đến cạn tào ráo máng thì thôi.
Tất nhiên ông rắc thóc dụ gà vào chuồng: “Những trường hợp có
vi phạm, tự giác kiểm điểm, tự phê bình nghiêm túc, tích cực sửa chữa,
khắc phục sẽ được xem xét giảm hoặc miễn xử lý kỷ luật”. Nhưng chưa chắc có con gà nào chịu vào chuồng để bị làm thịt không, thì ông hãy cứ chờ.
Ông ngờ rằng chỉ thị 15 này chưa chắc đã đạt được ý muốn, mang lại hiệu quả tức thì, ông lo xa nên ông đề nghị câu thêm giờ:
“Kiểm điểm tự phê bình và phê bình là việc làm vừa cấp bách vừa lâu
dài, do đó các cấp ủy, tổ chức đảng, từng đảng viên phải thường xuyên tự
giác xem xét, nhìn lại mình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm,
không chờ đến khi tổ chức hội nghị kiểm điểm”. Cái này còn phải chờ, nhưng chưa chắc ông thịt được ai, ông đã bị thịt trước rồi.
Và đây mới là mục đích chính của ông, ông không giấu diếm: “Thực
hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức gắn với
đẩy nhanh cải cách, thực hiện sớm chế độ tiền lương, nhà ở, chống bình
quân, cào bằng; chống đặc quyền, đặc lợi. Hướng dẫn để cán bộ, đảng viên
thực hiện kê khai tài sản theo đúng quy định của Ðảng và Nhà nước; xử
lý nghiêm những người kê khai không đúng”. Ông thừa biết tài sản
của thuộc hạ của ông sau bao năm bòn rút thiền thuế của dân, tiền vay,
tiền viện trợ, tiền bán đất, đã giàu có kếch xù như thế nào. Bây giờ ông
chỉ thị cho đám thuộc hạ đánh vào tử huyệt lẫn nhau. Để đạp lẫn nhau
tranh giành quyền lực.
Nếu đám thuộc hạ của ông mà thực hiện cho đúng, cho nghiêm cái chỉ
thị 15 này thì quả đúng ông trở thành một Gorbachev thứ 2 thật. Nghĩa là
đảng của ông cũng tiêu vong luôn.
Nhưng chúng tôi nói thật, đám thuộc hạ của ông bao nhiêu năm được
đào tạo trong cái nôi của đảng, bọn họ thành tinh hết rồi. Bọn họ khôn
hơn ông vài cái đầu, Bọn họ biết mục đích chỉ thị 15 này cái gì, và phải
làm như thế nào để mỗi cá nhân có lợi nhất, với phương châm: Khôn sống,
mống chết.
Còn về khôi phục lòng tin của dân thì ông đừng hy vọng.
Chỉnh và đốn
*
Tám chục năm có lẻ
Còn bé nhỏ chi đâu,
Sao mỗi ngày mỗi tệ
Khiến muôn dân chán phèo!
Suốt đời lo chỉnh đốn
Càng chỉnh càng đốn thêm,
“Con cháu các cụ cả”
Chỉnh dân, đâu chỉnh quyền.
Chỉnh đứa ngoài ê kíp
Đốn mấy thằng trái kênh,
Chỉnh vài đứa ít lễ
Đốn mấy thằng tay không.
Cái cần đốn lại chỉnh
Cần chỉnh lại đốn luôn,
Cứ mượn gió làm bão
Hạ nhau cho đỡ buồn.
Tội có thằng chết chịu
Nếu cần đổ khách quan,
Cùng trong nội bộ cả
Phép vua thua lệ làng.
Con chó có chê cứt
Cộng sản mới chê quyền,
Chỉnh chi cho mỏi mệt
Tai này bõ thối thêm!
Ải Nam Quan để mất
Hoàng Sa nay chẳng còn,
Tội này ai chỉnh nhỉ
Phỉnh chi hoài mấy con?
Sài Gòn 26/2/2012
Thế lực thù địch đến từ đâu?
Khanh Sơn (Danlambao) - Đảng
viên chúng tôi đã mất hết hy vọng sau những gì ông Trọng phát biểu hôm
qua tại Hội nghị quán triệt chỉnh đốn đảng. Chúng tôi cũng vỡ mộng với
ông Sang vì ông đã thất bại không làm được cho xu thế tiến bộ thành
công. Chắc do tài hèn sức mọn nên giờ ông cũng bắt đầu chạy theo xu thế
của cái xấu. Dân chúng bắt đầu nghe ông nói nhiều đến thế lực thù địch
rồi, thay vì những mục tiêu cải cách tư pháp khá được ủng hộ trước đây.
Chỉ có ông Dũng là vẫn đủ sức mạnh để thao túng các ông thực hiện những
cuộc chơi như thế này nhằm chuyển hướng mũi dùi dư luận đang tập trung
vào ông ấy mà thôi…
*
”… Hai nước đang đứng trước nhiều vận hội mới để phát triển.
Song cũng đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách, nhất là sự chống phá
quyết liệt của các thế lực thù địch.” (báo Nhân Dân ngày 12/10/11).
Đoạn trên được trích từ nội dung hội đàm giữa ông Nguyễn Phú Trọng
và Hồ Cẩm Đào trong chuyến thăm Trung Quốc hôm 11/10/2011 vừa rồi của
đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam. Cụm từ ”các thế lực thù địch”
được đưa ra trong bối cảnh ở Việt Nam đang nổi lên ý kiến trong nhóm
lãnh đạo cấp cao rằng không nên sử dụng đến cụm từ này nữa.
Từ Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (4-10/07/2011) đến lần thứ 3
(6-10/11/2011) cụm từ trên đã dần bớt xuất hiện trong các phát biểu của
các ủy viên BCT. Và nó đã hoàn toàn biến mất trong các phát biểu khai
mạc, bế mạc lẫn thông báo chính thức của Hội nghị Trung ương lần thứ 3
kết thúc hôm 10/11/2011.
Trước đó, cụm từ ”các thế lực thù địch” và ”diễn biến hòa bình’‘
thường xuất hiện dầy đặc trong các phát biểu của lãnh đạo cũng như các
văn bản chính thức của các hội nghị Trung ương. Chúng được dùng để gán
thành những nguyên nhân làm mất ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của
Việt Nam, cũng như để khẳng định thành tích của lực lượng an ninh đã
ngăn chặn và đập tan được các âm mưu và thế lực chống đối.
Chúng cũng thường xuất hiện vào cuối các phát biểu, văn bản để được
mô tả như là những nguy cơ thách thức đe dọa sự ổn định chính trị và sự
tồn vong của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, cần phải tập trung sức lực
và ưu tiên để chống lại chúng.
Việc ”các thế lực thù địch’‘ không được xuất hiện trong
các văn bản khi kết thúc Hội nghị Trung ương lần 3 nói trên được đánh
giá là bước tiến của các lực lượng tiến bộ trong Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những người này cho rằng cụm từ này gây chia rẽ nên không tập hợp được
khối đại đoàn kết dân tộc.
Tuy nhiên, nó lại xuất hiện ngay sau đó, trong nội dung Hội đàm
giữa ông Trọng và ông Đào nói trên. Điều này cho thấy 1 phe nhóm trong
đảng không chịu ngồi yên trước nguy cơ bị mất đi công cụ quyền lực quan
trọng. Sức mạnh tập trung cho lực lượng an ninh được dùng không chỉ để
trấn áp đối kháng bên ngoài mà còn để tranh giành lợi thế bên trong nhóm
lãnh đạo cao cấp.
Khái niệm “thế lực thù địch” được xác định rất mơ hồ trong
các văn bản của Đảng Cộng sản nhưng lại được cho là một nguy cơ đe dọa
rất nghiêm trọng đến đảng và đến an ninh quốc gia. Tuy nhiên nó lại
không được xuất hiện và định nghĩa trong bất kỳ văn bản chính thức nào
của Nhà nước. Cách thức như vậy cho phép một số người, phe nhóm trong
đảng có thể qui cho bất kỳ sự nói ngược nào, hoặc chỉ là sự khác biệt
đối với họ là thế lực thù địch.
Gần đây, vào tháng 8 vừa rồi, lấy cớ là ”bị các thế lực thù địch lợi dụng” nên
thành phố Hà Nội đã cấm việc biểu tình phản đối Trung Quốc của người
dân. Nhưng chính quyền Hà Nội không thể viện dẫn được bất kỳ một điều
luật nào cho phép hạn chế hay cấm đoán biểu tình khi ”bị các thế lực thù địch lợi dụng” cả. Các thế lực này là ai cũng không hề được nói rõ.
Nhờ tính mơ hồ như vậy nên những quan điểm tiến bộ, dân chủ của một số đảng viên tiến bộ trong Đảng dễ dàng bị qui chụp là ”mơ hồ, mất cảnh giác trước các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; bị rơi vào bẫy, tự diễn biến, tự chuyển hóa, v.v…”.
Trước khi những người đưa ra những quan điểm dân chủ tích cực nói trên
kịp chứng minh là mình không mơ hồ, mất cảnh giác thì họ đã có thể bị
loại ra khỏi cơ cấu quyền lực.
Đó là lý do vì sao Việt Nam có bước tiến thụt lùi về dân chủ trong
nhiều năm qua, nhất là sau đại hội X (2006) trở đi. Mặc dù có nhiều đảng
viên mong muốn có đổi mới chính trị một cách dân chủ nhưng vì sợ bị qui
chụp là ”tự chuyển hóa, tự diễn biến” theo âm mưu của các ”thế lực thù địch’‘ nên những mong muốn trên của họ đã không trở thành những phát biểu chính thức trong các buổi sinh hoạt đảng.
Thay vào đó, họ trao đổi các mong muốn dân chủ với nhau khá thoải
mái bên ngoài các buổi sinh hoạt đảng, các hội nghị, hội thảo mang tính
chính thức của đảng. Điều này tạo ra những áp lực ngầm và nhờ đó các lực
lượng tiến bộ trong lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam thúc đẩy được những
xu thế dân chủ hơn gần đây.
Tuy nhiên, bước tiến của những xu thế này không hề dễ dàng, nhất là
khi có sự can thiệp của đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau chuyến thăm Trung
Quốc vừa rồi, ”các thế lực thù địch” đã trở lại nhiều hơn
trong các phát biểu của 1 vài ủy viên BCT. Các vị này còn nói với nhau
rằng phải đưa nó trở lại trong các văn bản chính thức của Hội nghị trung
ương lần thứ 4, dự kiến vào cuối tháng 12 năm nay hoặc đầu tháng 1 năm
sau.
Nếu ”các thế lực thù địch” còn xuất hiện phổ biến thì sự
cản trở và chống phá dân chủ sẽ càng ghê gớm ở Việt Nam. Ưu tiên về an
ninh ở Việt Nam cũng đã bị thay đổi. Sau Hội nghị trung ương lần 2 (kết
thúc ngày 10/7/11), Quốc phòng, an ninh đã thay thế hẳn cho An ninh,
quốc phòng luôn luôn xuất hiện trước đó trong các văn bản của Đảng lẫn
Nhà nước.
Tuy nhiên, với sự can thiệp mạnh từ đảng Cộng sản Trung Quốc hiện
nay, xu thế thay đổi tiến bộ đã bị chặn lại. Lý do là sự xác định ưu
tiên quốc phòng trước an ninh một mặt hàm ý hướng nguồn lực quốc gia vào
nguy cơ đe dọa chủ quyền đất nước mà ai cũng thấy rõ nó đến từ Trung
Quốc. Mặt khác, điều này sẽ cắt giảm nguồn lực cho lực lượng an ninh để
tập trung cho quốc phòng.
Tới hiện nay thì họ đã thành công. Hội nghị Trung ương 4 đã đưa “thế lực thù địch” và “diễn biến hòa bình”
vào trong nghị quyết như là nguyên nhân chính đã dẫn đến sự suy thoái
đạo đức chính trị tư tưởng của Đảng. Do vậy phải cần chỉnh đốn! Do vậy
phải càng chống các thế lực thù địch, tự diễn biến, tự chuyển hóa, âm
mưu thâm độc dùng Cộng sản diệt Cộng sản,… Nhưng chính điều này đã biến
hầu hết người dân trở thành thù địch thành đối lập đối nghịch với Đảng.
Đảng viên chúng tôi đã mất hết hy vọng sau những gì ông Trọng phát
biểu hôm qua tại Hội nghị quán triệt chỉnh đốn đảng. Chúng tôi cũng vỡ
mộng với ông Sang vì ông đã thất bại không làm được cho xu thế tiến bộ
thành công. Chắc do tài hèn sức mọn nên giờ ông cũng bắt đầu chạy theo
xu thế của cái xấu. Dân chúng bắt đầu nghe ông nói nhiều đến thế lực thù
địch rồi, thay vì những mục tiêu cải cách tư pháp khá được ủng hộ trước
đây. Chỉ có ông Dũng là vẫn đủ sức mạnh để thao túng các ông thực hiện
những cuộc chơi như thế này nhằm chuyển hướng mũi dùi dư luận đang tập
trung vào ông ấy mà thôi.
Rõ ràng là nếu những xu thế dân chủ chỉ được thúc đẩy bởi lực lượng
tiến bộ trong Đảng thì không thể thắng được sức chống đối của các phe
nhóm muốn duy trì ”thế lực thù địch”. Nếu các ông không tạo ra
sự tham gia tích cực từ quần chúng để đẩy mạnh các xu thế tiến bộ, dân
chủ thì càng chỉnh sẽ càng đốn thôi! Rồi sẽ mau chóng ngã gục!
Bỏ đảng sướng hơn!
Vũ Đông Hà (Danlambao)
- Viết hồi ký: đảng cũng không cho. Sự nghiệp vinh quang, quá trình
cách mạng sáng chói mà không viết lại để cho thế hệ mai sau xuýt xoa
khâm phục thì có phí của giời! Bởi vì thì là… hồi ký phải đúng sự thật thì còn gì vinh quang, còn gì sáng chói và còn gì… Trần Dân Tiên.
Quan liêu nhũng nhiễu đảng cũng không ừ. Vậy thì cái nhà họ bạc tỷ
ai xây cho hoành tráng? Con gái mần răng leo vào ghế chủ tịch HĐQT của 4
công ty? Đã là quan mà không liêu thì quan với ai?
Nhũng nhiễu đảng đã (mới) cấm tiệt thì làm răng có chuyện đe dọa,
trù dập, trả thù người tố cáo để mà cấm tiếp. Đảng cấm điều gì phải chắc
cú điều đấy chứ! Mà nhỡ (quần) chúng nó không cho đảng bộ ta cào bằng
chỗ ở của chúng để đảng ta phát triển tổ quốc dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ văn minh cho chúng, chúng xuống đường trương biểu ngữ
dân oan tố cáo công khai thì đảng ta tính toán sao đây với (quần) chúng
nó !?
Đảng cũng làm khó dễ cấm ngặt luôn cái màn can thiệp, tác động việc
bổ nhiệm cán bộ. Chuyện này bứt dây động rừng nghe đảng! Coi chừng anh
Ba Dờ ảnh nhột. Cái ghế Thứ trưởng Xây dựng của cậu ấm chưa nóng đít à
nghe. Đảng cấm đồng chí cha bổ nhiệm đồng chí con, đồng chí bổ nhiệm
đồng bọn, đồng bọn bổ nhiệm đồng hương, đồng hương bổ nhiệm đồng tiền,
đồng tiền bổ nhiệm đồng chí… mà tấm gương Dũng-Nghị, Mạnh-Tuấn còn sờ sờ
ra đó thì coi chừng các đảng viên ta tự diễn biến, đảo chánh nội bộ
không chừng.
Đảng cũng cấm chơi trò kê gian tài sản. Đến đây thì phải thành thật
thưa cùng đảng và xin lỗi đồng bào: éo mẹ đảng, có chó gì để mà khai
gian khai dối! Chứ không phải đảng ta là đại diện cho giai cấp vô sản
trên răng dưới lựu đạn, là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam anh hùng hay
sao!? Chứ không phải lương của các đồng chí Chủ tịch nước, Chủ tịch QH,
Thủ tướng chưa được 2000 u-ét-sờ đô 1 năm chăng? Vậy thì cán bộ cả đảng
ta, từ trên xuống dưới có mẹ gì để mà kê dối khai gian!?
Còn cái vụ cấm nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận
của Đảng thì coi bộ còn kẹt hơn giao thông Hà Nội giờ em tan trường về
bố tan sở ra. Mấy mươi năm nay, từ lúc Bác còn sống đến lúc Bác qua đời,
không chừng đến lúc Bác được đem chôn, có cái cương lĩnh dài trăm trang
vạn chữ nào được thực hiện cho ra hồn ra dáng đâu. Sao mà bày vẽ, mà
làm khó nhau thế, toàn là đồng chí ta cả mà!
Sang đến bảng cấm “Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc phản
ánh, góp ý kiến đối với Đảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét,
đánh giá tùy tiện đối với người khác.” Điều này thì chân thành đề
nghị đảng viết cho gọn: “cấm góp ý cho đảng dưới mọi hình thức” cho
khỏe. Xét cho cùng, đảng ta là đảng lãnh đạo quang vinh, duy nhất, muôn
năm, đời đời, kiếp kiếp, có chết cũng tái sinh lãnh đạo tiếp vì yêu dân
quá xá thì cần gì góp ý. Mọi góp ý cho đảng ta – đỉnh cao của trí tuệ
loài người – có khác gì chê đảng ta dỡ. Đã chê tức là chống chứ còn gì!.
Riêng điều cấm việc can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản
thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước
ngoài trái quy định thì không sao. Miễn sao đừng để (quần)
chúng nó và đảng viên ta nghĩ rằng đang có âm mưu xỉa xói đồng chí Thủ
tướng. Được vậy thì thoải mái. Cái gì chứ “theo quy định” thì không lo
bị trái. Quy cũng là ta mà định cũng là ta. Đảng ta có một rừng luật
toàn là luật rừng – không phải thế sao? Tương tự như cái điều “Đưa,
nhận, môi giới hối lộ; môi giới làm thủ tục hành chính hoặc lợi dụng vị
trí công tác để môi giới hưởng thù lao dưới mọi hình thức trái quy định.
Đưa, nhận hoa hồng hoặc môi giới đưa, nhận hoa hồng trái quy định.” Đảng yên tâm! Chúng tôi sẽ hoàn thành mọi sứ mạng cao cả trong lãnh vực này theo đúng “quy định”.
Còn cái vụ này thì thật là kẹt nè đảng: cấm không cho bố, mẹ, vợ
chồng, con, anh, chị, em ruột (con rơi, anh chị em rớt OK) thực hiện các
dự án, kinh doanh các ngành nghề thuộc lĩnh vực hoặc đơn vị do mình
trực tiếp phụ trách trái quy định. Dự án béo bở, mặt bằng ngon cơm không
cho mụ vợ thò tay vào, con gái rượu nhúng chân vô có mà điên chăng!?
Chẳng lẽ để cho đám dân đen ngoài đảng ta nhảy vào ôm gọn, để cho chúng
giàu, chúng có thế, có lực và phá nát gia cang đảng ta? Thôi thì cũng
nhờ ơn đảng, chúng ta bám vào cái “quy định” của chúng ta để mà lách cho
khỏi rách (việc). Lách không được thì chúng ta đổi “quy định” thì trái
cực kỳ cũng thành phải phải.
Từ chuyện cấm kẹt vợ kẹt con, phiền cha phiền mẹ (vợ) này đảng xoay
qua cấm luôn đủ thứ khác: Tổ chức việc cưới, việc tang, lễ, tết, sinh
nhật, kỷ niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp,
chuyển công tác xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi. Đồng chí vợ nó ơi,
cưới hỏi tang gia sinh nhật, mừng thọ… mà không được nhận quà của chúng
thì tổ chức làm đếch gì!? Bu nó cũng làm ơn dẹp giùm những đam mê thần
thánh đốt đồ mã, hành nghề đồng cốt, thầy cúng, thầy bói, lập đền, miếu,
nơi thờ tự của các tôn giáo trái phép; ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo
bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn giáo lập ra chưa được cấp có
thẩm quyền cho phép… Đảng ta nay đã cấm rồi. U nó cũng dẹp giùm
sòng bạc, phôn cho đồng chí bí thư lẫn đồng chí thanh tra trong UBTV
tỉnh từ nay hết còn “đứng nhìn” con bạc đỏ đen. Còn nữa! Đảng cũng
nghiêm luôn mấy cái màn bố, mẹ, vợ chồng, con cái ruột (không tính con
rơi), anh, chị, em ruột đi du lịch, tham quan, học tập, chữa bệnh ở
trong nước hoặc ngoài nước bằng nguồn tài trợ của tổ chức trong nước
hoặc nước ngoài khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền. Nhưng nói
nhỏ để đồng chí bu nó yên lòng – đi cũng là ta mà thẩm quyền cũng là ta.
Chung quy, đảng ta cấm ta ráo.
Mà sao kỳ vậy ta!?
Bộ hồi đó tới giờ mấy thứ này đảng không cấm, đấm không cản?
Mà cấm ráo trọi vậy thì lấy ai, còn ai vào đảng, còn ai bám trụ trung thành với đảng?
Cấm ráo trọi như chưa bao giờ được cấm kiểu vậy thì còn ai đàng
hoàng không bị “xử lý công minh, chính xác” để mà tiếp tục cống hiến
cuộc đời vô sản, lương dưới 2000 u ét sờ đô la 1 năm cho đảng?
……….
Hmmm…
Đồng chí tổng lú vừa mới tuyên bố: “Phải khẳng định phần lớn cán bộ, đảng viên ta rất tốt…”
Đồng chí tổng lú cũng tuyên bố luôn: “Thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sa vào chủ nghĩa cá nhân”
……….
Hmmm…
Đừng nghe những gì đảng nói mà phải “hiểu” những gì đảng làm.
………
Hmmm…
Bớ ông Trưởng thôn! Làm ơn sửa giùm cái tít “Bỏ đảng sướng hơn!” thành “Cấm thì cấm đảng vẫn ngon cơm!”.
*
Quy định mới những điều Đảng viên không được làm
(Dân trí) – Viết hồi ký không đúng sự
thật, trù dập người tố cáo, tổ chức biểu tình gây mất trật tự, quan liêu
nhũng nhiễu, can thiệp việc bổ nhiệm cán bộ, kê gian tài sản… là một số
trong nhiều điều cấm Đảng viên không được làm vừa được Ban Chấp hành TƯ
ban hành.
Dân trí trân trọng giới thiệu toàn văn Quy định số 47-QĐ/TW về
những điều đảng viên không được làm mà Ban Chấp hành TƯ vừa ban hành.
- Căn cứ Điều lệ Đảng;
- Căn cứ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khoá XI;
- Để tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và giữ gìn phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng,
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG QUY ĐỊNH
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội
tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt
Nam; cùng với việc gương mẫu chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các
quy định của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội mà mình là
thành viên, phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định cụ thể của Đảng
về những điều đảng viên không được làm.
Đảng viên tại Đại hội Đảng (Ảnh: Vietnamnet)
I- Những điều đảng viên không được làm
1- Nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; làm
những việc mà pháp luật không cho phép.
2- Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin,
tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công
bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên
truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá
những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3- Viết bài, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, vu cáo, bịa đặt
hoặc quy kết về tội danh, mức án trước khi xét xử, không đăng tải ý kiến
phản hồi, cải chính theo quy định. Sáng tác, sản xuất, tàng trữ, tán
phát các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành mạnh, mang
tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; tán phát bài viết, hồi ký
không đúng sự thật.
4- Tổ chức, xúi giục, tham gia các hoạt động bè phái, chia rẽ, cục
bộ gây mất đoàn kết nội bộ. Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc phản
ánh, góp ý kiến đối với Đảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét,
đánh giá tuỳ tiện đối với người khác. Đe doạ, trù dập, trả thù người tố
cáo, phê bình, góp ý.
5- Tố cáo mang tính bịa đặt; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên.
Cùng người khác tham gia viết, ký tên trong một đơn tố cáo. Tổ chức,
tham gia kích động, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại,
tố cáo.
Cố ý gửi hoặc tán phát đơn khiếu nại, tố cáo đến những nơi không có thẩm quyền giải quyết.
6- Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp luật; biểu tình, tập trung đông người gây mất an ninh, trật tự.
7- Đảng viên (kể cả cấp uỷ viên và đảng viên là cán bộ diện cấp uỷ,
ban thường vụ cấp uỷ quản lý) tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức
danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã
hội (theo quy định phải do tổ chức đảng giới thiệu) khi chưa được tổ
chức đảng có thẩm quyền cho phép.
8- Quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo sai sự thật, lạm quyền, nhũng nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ.
Thiếu trách nhiệm để cơ quan, đơn vị, địa phương do mình trực tiếp
phụ trách xảy ra tình trạng mất đoàn kết, tham nhũng, buôn lậu, lãng
phí, thất thoát tài sản và các tiêu cực khác.
Có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột thực hiện
các dự án, kinh doanh các ngành nghề thuộc lĩnh vực hoặc đơn vị do mình
trực tiếp phụ trách trái quy định.
Biết mà không báo cáo, phản ảnh, xử lý các hành vi tham nhũng; không thực hiện các quy định về bảo vệ người chống tham nhũng.
9- Làm trái quy định trong những việc : quản lý nhà, đất, tài sản,
vốn, tài chính của Đảng và Nhà nước; huy động vốn và cho vay vốn tín
dụng; thẩm định, phê duyệt, đấu thầu dự án; thực hiện chính sách an sinh
xã hội, cứu trợ, cứu nạn; công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, các
quy định trong hoạt động tố tụng.
10- Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người
khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định.
Lợi dụng chức vụ được giao để chiếm dụng, vay, mượn tiền, tài sản của đối tượng trực tiếp quản lý trái quy định.
Ép buộc, mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che, giảm tội cho người khác.
11- Chủ trì, tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành các văn bản trái
quy định. Tạo điều kiện hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh,
chị, em ruột lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi.
12- Đưa, nhận, môi giới hối lộ; môi giới làm thủ tục hành chính
hoặc lợi dụng vị trí công tác để môi giới hưởng thù lao dưới mọi hình
thức trái quy định. Đưa, nhận hoa hồng hoặc môi giới đưa, nhận hoa hồng
trái quy định.
13 – Báo cáo, lập hồ sơ, kê khai lý lịch, lịch sử bản thân không
trung thực; kê khai tài sản, thu nhập không đúng quy định; mở tài khoản ở
nước ngoài trái quy định; tham gia hoạt động rửa tiền.
14 – Tổ chức du lịch, tặng quà, giải trí để lợi dụng người có trách
nhiệm dẫn đến việc ban hành quyết định sai, có lợi riêng cho bản thân
hoặc tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp mà mình tham gia.
15- Dùng công quỹ để thăm viếng, tiếp khách, tặng quà, xây dựng
công trình, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, đi lại, thông
tin liên lạc vượt quá tiêu chuẩn, định mức hoặc trái quy định.
Chiếm giữ, cho thuê, cho mượn tài sản, cho vay quỹ của Nhà nước, cơ
quan, đơn vị, tổ chức được giao quản lý, sử dụng trái quy định.
16- Tự mình hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị,
em ruột đi du lịch, tham quan, học tập, chữa bệnh ở trong nước hoặc
ngoài nước bằng nguồn tài trợ của tổ chức trong nước hoặc tổ chức, cá
nhân nước ngoài khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền.
17- Tổ chức, tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức; cho vay trái quy
định của pháp luật; sử dụng các chất ma tuý; uống rượu, bia đến mức bê
tha và các tệ nạn xã hội khác.
Vi phạm đạo đức nghề nghiệp; có hành vi bạo lực trong gia đình, vi
phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, sống chung với người
khác như vợ chồng; bản thân hoặc để con kết hôn với người nước ngoài
trái quy định.
18- Mê tín, hoạt động mê tín (đốt đồ mã, hành nghề đồng cốt, thầy
cúng, thầy bói). Lập đền, miếu, nơi thờ tự của các tôn giáo trái phép;
ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn
giáo lập ra chưa được cấp có thẩm quyền cho phép.
Lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi.
19- Tổ chức việc cưới, việc tang, các ngày lễ, tết, sinh nhật, kỷ
niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp, chuyển công
tác xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi.
II- Tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm
1- Giao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn thực hiện Quy định này
và giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm tra,
giám sát việc thực hiện.
Các cấp uỷ đảng có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
Quy định và định kỳ hằng năm báo cáo với cấp uỷ cấp trên tình hình thực
hiện Quy định qua uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ cấp trên. Trong quá trình
thực hiện có vấn đề thấy cần bổ sung, sửa đổi thì báo cáo Ban Chấp hành
Trung ương xem xét, quyết định.
2- Đảng viên vi phạm Quy định này phải được xử lý công minh, chính
xác, kịp thời theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3- Quy định này thay thế Quy định số 115 – QĐ/TW, ngày 07-12-2007
của Bộ Chính trị (khoá X) về những điều đảng viên không được làm, có
hiệu lực từ ngày ký và phổ biến đến chi bộ để thực hiện.
TTXVN
Huỳnh ngọc chênh – GIẢI PHÁP TỐT NHẤT ĐỂ CHỈNH ĐẢNG
Huynhngocchenh
Thưa Đảng Cộng Sản Việt Nam!
Tôi không phải là người của quý vị nhưng quý vị đang cai trị đất nước, đang nắm vận mệnh của toàn dân, trong đó có tôi, nên dù quý vị không yêu cầu, không cần đến tôi nhưng tôi thấy cần thiết phải có đôi lời góp ý với quý vị về công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng đang rất là cấp bách hiện nay.
Nói gì thì nói, đất nước ta cũng đang ở trong tình trạng của chủ nghĩa đức trị như thời phong kiến lạc hậu. Nếu có khác chăng là chế độ phong kiến do một cá nhân là ông vua đứng ra cai trị còn bây giờ là môt tập thể tức là Đảng đứng ra cai trị. Nói là đảng nhưng thực chất chỉ là một nhóm nhỏ người đại diện. Tối cao thì có bộ chính trị. Ở các địa phương thì có thường vụ các cấp ủy. Giống như ông vua phong kiến, các nhóm nhỏ nầy đứng trên pháp luật để cai trị đất nước. Do vậy sự hưng vong của đất nước hoàn toàn may rủi lệ thuộc vào cái đức của kẻ trị vì.
Vì lẻ đó ngày xưa các ông vua phải cố gắng tự rèn, tự mài dũa, tự tu
tỉnh để trở thành một vị minh quân. Bây giờ cũng vậy, Đảng cũng thường
xuyên ra sức xây dựng và chỉnh đốn Đảng để làm cho Đảng thành một “bậc
minh quân”. Như ông Trọng nói Đảng luôn coi trọng công tác xây dựng nên
chỉ kể từ Đại hội VI đến nay đã có tới 14 nghị quyết về xây dựng Đảng.Tôi không phải là người của quý vị nhưng quý vị đang cai trị đất nước, đang nắm vận mệnh của toàn dân, trong đó có tôi, nên dù quý vị không yêu cầu, không cần đến tôi nhưng tôi thấy cần thiết phải có đôi lời góp ý với quý vị về công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng đang rất là cấp bách hiện nay.
Nói gì thì nói, đất nước ta cũng đang ở trong tình trạng của chủ nghĩa đức trị như thời phong kiến lạc hậu. Nếu có khác chăng là chế độ phong kiến do một cá nhân là ông vua đứng ra cai trị còn bây giờ là môt tập thể tức là Đảng đứng ra cai trị. Nói là đảng nhưng thực chất chỉ là một nhóm nhỏ người đại diện. Tối cao thì có bộ chính trị. Ở các địa phương thì có thường vụ các cấp ủy. Giống như ông vua phong kiến, các nhóm nhỏ nầy đứng trên pháp luật để cai trị đất nước. Do vậy sự hưng vong của đất nước hoàn toàn may rủi lệ thuộc vào cái đức của kẻ trị vì.
Tuy vậy, cũng theo ông Trọng chưa bao giờ nhiệm vụ xây dựng đảng lại cấp bách như hiện nay. Ông nêu ra ba vấn đề cấp bách và nhấn mạnh cấp bách nhất vẫn là: Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Ông nói: Đứng trên tổng thể mà xét, hiện nay cái làm cho quần chúng oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng.
Xem xét lại lịch sử, ông vua nào không muốn mình là bậc minh quân để thần dân được nhờ, để đất nước được thịnh trị, để bản thân được lưu danh hậu thế. Nhưng các biện pháp tự xây dựng, tự chỉnh đốn đều mang tính chủ quan duy ý chí nên hiệu quả bấp bênh. Có được mấy ông vua là minh quân trong một triều đại? Từ thời nhà Lý, qua nhà Trần, đến thời nhà Lê, nhà Nguyễn, mỗi thời chỉ được vài vị minh quân đầu triều còn sau đó là chấm hết. Chấm hết cho chế độ mà còn chấm hết cho vận mệnh của nước nhà.
Bây giờ các vị cũng đang tự xây dựng và chỉnh đốn với mục đích: “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng” tức là nâng cao đạo đức và năng lực cai trị của mình.
Giải pháp đưa ra là tự phê và phê. Giải pháp ấy không có gì mới mẻ vì là sự lặp lại những gì từ thời mồ ma Mao Trạch Đông đã dùng và tỏ ra không mấy hiệu quả. Chưa nói đó là công cụ bị Mao lợi dụng để thanh trừng nội bộ mỗi khi y mắc sai lầm nhằm tiếp tục củng cố ngôi vị cá nhân độc tôn của y. Các vị cũng liên tục sử dụng giải pháp nầy từ xa xưa đến nay trong mỗi lần xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhưng không lấy gì tỏ ra có hiệu quả bởi lẻ đến hôm nay lại báo động sự suy thoái đạo đức và lối sống của một bộ phận không nhỏ đảng viên đến mức nghiêm trọng, đến mức là chuyện sống còn của Đảng.
Vận mệnh đất nước tùy thuộc vào đạo đức của các vị, nhưng kết quả của việc xây dựng và chỉnh đốn đạo đức và lối sống của các vị lại không lấy gì đảm bảo qua các giải pháp đưa ra.
Các đảng phái chính trị uy tín có tuổi đời trên dưới trăm năm ở Âu, Mỹ như Đảng Lao Động, Đảng Bảo Thủ (Anh), Đảng Xã Hội (Pháp), Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ (Mỹ)… không hề thấy họ mở ra các cuộc chỉnh đốn rầm rộ tốn kém, đảng viên của họ không hề phải phê bình đấu tố lẫn nhau đến tang thương nhưng họ có bao giờ báo động về tình trạng suy thoái đạo đức và lối sống của cán bộ đảng viên của họ.
Ấy là do giải pháp gì?
Rất đơn giản: Các đảng đó tự đặt mình xuống dưới pháp luật. Pháp luật tự nó điều chỉnh đạo đức và lối sống của mỗi đảng viên như tất cả các công dân khác.
Vậy tại sao các vị không thử thực hiện giải pháp tốt đẹp và đơn giản nầy nhỉ?
Hãy đặt các tổ chức của Đảng CSVN vào trong khuôn khổ pháp luật và xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự, đó là giải pháp xây dựng và chỉnh đảng tốt nhất.
Rất mong thay.
Nguyễn Ngọc Già – Lời nhắn anh Vinh & anh Lập cùng ván bài cần lật ngửa qua vụ án Đoàn Văn Vươn
Nguyễn Ngọc Già
“Nói thêm cho rõ: – Trong lần rã băng ghi âm đầu tiền, Cu Vinh viết
ra lời có câu hùa về thằng Vươn luôn, sau đó nghe lại thấy chưa đúng,
lại nhờ một bạn đọc có thiết bị tốt nghe lại, tạm ghi ra là bắt đầu từ
đó luôn, nhưng ngay cả mấy chữ này cũng không thật rõ lắm, vì chỗ này
tiếng nghe rất khó nhưng tạm chấp nhận. Dùng bắt đầu từ đó luôn cũng có
nghĩa là từ cái vụ việc Đoàn Văn Vươn, ý nghĩa phê phán của Bí thư Thành
về cái gọi là ‘một chiều’ không thay đổi. Chỉ có một chữ thằng Vươn có
thể không đúng như lời nhân vật nói. Nếu thực sự Bí thư Thành không dùng
từ ‘thằng Vươn’ thì Cu Vinh xin lỗi Bí thư Thành”.(1)
I. Lời nhắn đến anh Vinh và anh Lập:
Sự đời không dễ vậy đâu, thưa nhà văn Nguyễn Quang Vinh và nhà văn Nguyễn Quang Lập. Xin thứ lỗi, vì tôi biết cả hai anh đều sinh sống và có ít thành đạt, tiếng tăm như ngày nay là từ chính thể này. Có thể cuộc đời các anh lăn lộn, từng trải và nhiều nổi trôi, tuy nhiên tư tưởng các anh vẫn còn tin tưởng nhiều vào sự tốt đẹp và có thể thay đổi được của chế độ Cộng sản. Xin hãy nhớ về câu chuyện của nhà báo Nguyễn Văn Hải và Nguyễn Việt Chiến vụ PMU18 (chưa dám nói về nhà báo Hoàng Khương, Hương Trà).Có thể anh Vinh và anh Lập là những nghệ sĩ, nhà văn với tâm hồn khoáng đạt, hào sảng, có sai thì nhận và xin lỗi. Nói thế cuộc đời này đã không có những oan trái ngút trời, thưa hai anh! Mong hai anh hãy suy nghĩ kỹ và rút lại lời xin lỗi đối với Nguyễn Văn Thành, bởi nếu đã công nhận sai thì nó trở thành mối đe dọa truyền kiếp mà hai anh phải trả (có thể trong tương lai không xa lắm, nếu nguyên bộ sậu Nguyễn Văn Thành tiếp tục tại vị).
Khổng Tử nói: “tiểu nhân nan dưỡng”.
Ngoài ra, với tư cách người viết tự do, không ràng buộc gì, tôi cam đoan với hai anh:
- Chắc chắn có chữ HÙA trong đoạn băng hình (hai anh có thể vào Dân Luận và nghe đoạn ghi âm này của một độc giả đã lọc bỏ bớt nhiều tiếng ồn). Chỉ riêng chữ “HÙA” này thôi, cũng đủ để kết luận Nguyễn Văn Thành đã xúc phạm các vị “nguyên”, “cựu” và “đương kim” nổi tiếng. Nếu chưa tin lắm, mời hai anh gõ vào google hai chữ: “chó hùa” sẽ thấy có 51.800 kết quả (2), điều này chứng tỏ cụm từ này khá phổ biến làm cho nhiều người tìm hiểu. Không biết ngoài Bắc và quê các anh ra sao, trong Nam khi dùng chữ “chó hùa” nghĩa là bu vào, xúm vào một cách hung tợn, hỗn ẩu và côn đồ, bất kể đúng sai, miễn làm sao áp đảo tấn công đối phương để giành chiến thắng cho phe mình trước đã. Chỉ riêng từ “HÙA” cũng đủ kết luận Nguyễn Văn Thành đã xúc phạm nghiêm trọng nhân dân Việt Nam mà không cần viện dẫn chữ “THẰNG” ở đây. Chính ra chữ “HÙA” quan trọng hơn nhiều so với chữ “thằng”.
- Không thể thay thế cụm từ “hùa vào thằng Vươn luôn” bằng cụm từ “bắt đầu từ đó luôn”, bởi cả hai cụm từ đều có 5 âm, nhưng cụm sau có hai âm “trắc”: chữ “bắt” và chữ “đó”, đặc biệt chữ “đó” không thể nuốt âm theo cách người miền Bắc (có đặc điểm nói nhanh). Các chữ nuốt âm được phải là âm “bằng” (có dấu “huyền” hoặc dấu “ngang”).
- Nếu hai anh nhận sai, có vẻ ngày hôm nay không có gì, nhưng khi mọi việc diễn ra theo ý muốn của “tập hợp” Nguyễn Văn Thành, thì hai anh là “cái cọc nhọn” đâm thẳng vào tim ác quỷ Dracula nó cần nhổ bỏ trước tiên, kéo theo những “cái gai” khác: các nhà báo tham gia thông tin vừa qua, các đảng viên tốt bụng giúp anh ghi âm, ghi hình lại, các cộng tác viên của hai anh và nhiều người khác. Lại xin lỗi hai anh để nhắc lại cụm từ của người cộng sản: “diệt từ trong TRỨNG NƯỚC” và “ĐÀO TẬN GỐC TRỐC TẬN RỄ” để cho tất cả những ai đang sống tại Việt Nam một lần nữa thấm thía hơn bản chất giới cầm quyền hiện nay là đa số thù dai và hẹp hòi, quyết không bỏ qua bất cứ việc gì, huống gì đây là một việc ảnh hưởng quá lớn đến cái gọi là “danh dự”, “uy tín” của họ.
- Trong trường hợp “tập hợp” Nguyễn Văn Thành cuốn gói, các “đệ tử”, “phe cánh” thuộc hàng “chân truyền” sẽ tiếp tục chĩa ống nhòm về phía hai anh để chộp bất cứ yếu tố có lợi cho chúng và sự rình mò này sẽ diễn ra đến hết cuộc đời. Các anh vẫn còn nhớ đồng nghiệp Lưu Quang Vũ, Dương Thu Hương, Đơn Dương v.v…? Nhắc điều này có vẻ phì cười trong thời đại a còng, tuy nhiên, rất tiếc đầu óc của bọn cặn bã vẫn là đầu óc bã đậu với cụm từ khỏi cãi “gu gồ chấm tiên lãng” để nhắc hai anh, bọn chúng tự phụ đến nỗi đần độn để không đánh giá đúng về sức mạnh kinh hoàng của internet, do đó chúng hầu như chỉ sử dụng những chiêu thức xưa cũ của mấy mươi năm về trước để trả thù. Không thể không nhắc lại chị Tạ Phong Tần ngồi trong nhà xí chúng còn tông cửa xông vào, anh Cù Huy Hà Vũ thì “xài hai bao cao su”, tên công an theo dõi anh Đỗ Nam Hải đã lấy ghế (cái mà người ta đặt mông để ngồi) che mặt (xin lỗi, có khác gì đội quần), cụ Hoàng Minh Chính còn bị ném phân vào nhà v.v…!
Mong anh Vinh và anh Lập bảo trọng.
II. Lật ngửa ván bài lên đi!
Sau khi gia đình anh Vươn nổ súng hoa cải vài hôm, ông Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nghiêm trị việc chống người thi hành công vụ, sau đó tiếp tục “chỉ đạo giải quyết nghiêm vụ việc (Đoàn Văn Vươn), các cơ quan chức năng nên nhanh chóng vào cuộc, càng để lâu càng không có lợi” (3). Tuy vậy, sau đó ông ta đã ra “kết luận” vụ việc sai trái thuộc chính quyền Tiên Lãng và đề nghị tòa địa phương xem xét giảm nhẹ tội trạng cho gia đình anh Vươn(!).Các tuyên bố, động thái cứ xoay như đèn cù. Đó cho thấy, chính ông Dũng đang khá bấn loạn, hoang mang vì không nắm được tình hình thực sự diễn biến như thế nào. “Bản lãnh chính trị” – cái rất quan trọng của một đương kim Thủ Tướng hoàn toàn rơi rụng! Sự sáng suốt, bình tĩnh trước biến cố quá đột ngột cũng vụt mất nhanh chóng, cho thấy ông Dũng quá non kém về điều hành. Người điều hành, quản lý đất nước tối cao như vậy là hỏng, khi nghĩ về một biến cố tồi tệ nghiêm trọng hơn rất nhiều, do đó chẳng lấy làm lạ khi nghĩ về việc ông Dũng chối tội trong vụ Vinashin (4).
Như “bức tranh vân cẩu” (5), nếu chúng ta lùi ra xa một chút và nhìn lại toàn cảnh vụ án anh Vươn. Thuở đời, có ông đương kim Thủ tướng nào lại đi đề nghị cấp dưới, đi “xin” tòa (tư pháp độc lập) chiếu cố “giảm tội” cho “phạm nhân”?! Quả là đời biến đổi khôn lường như “tranh vân cẩu” vậy! Hơn thế, ý đồ ông Dũng ban đầu khá rõ theo “phong cách truyền thống” – (tạm gọi) “dẹp loạn”. Hễ có gì lùm xùm là cứ dập tắt cho bằng được, mọi sai trái đều trút lên đầu người dân, quan là đúng!!! Khi dư luận phẫn nộ bởi những đợt sóng cuộn trào cao ngút trời xanh, lúc này ông Dũng biết rõ: hết còn cơ hội “dập từ trong trứng” và tất nhiên ông ta nghe theo lời các… “quân sư” là dễ hiểu, bởi ông vừa đưa được con trai út vào guồng máy quyền lực, có vẻ còn khá hả hê, viên mãn!
Ai tư vấn cái điều oái oăm này thế, ông Dũng? Lũ “Vưu Hồn”, “Bí Trọng” nó đang “gài” ông một vố đấy, ông Thủ tướng “xuất sắc nhất châu Á” ạ! Lũ nó hạ cái uy tín của ông thấp đến nỗi không còn chỗ nào thấp hơn. Ông đang mắt kẹt Vinashin và chúng nó “gài” ông “xin” tòa Hải phòng cân nhắc tội anh Vươn, nghĩa là ông đã nợ chúng một điểm trong ván cờ domino mà ông đang ở thế “triệt buộc”, ông đành phải lật hết các quân cờ và tính điểm với chúng sòng phẳng!
Giật mình đi, ông Dũng! Vinashin đang giao về cho tòa Hải Phòng xử án (6). Ai giao? Trương Hòa Bình _ Chánh án TANDTC – kẻ đã từng ra vẻ cun cút và chiều lụy ông khi tuyến bố “Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, xét xử 2 cấp nên nếu thấy quyết định trái pháp luật thì có quyền hủy, trừ quyết định của Thủ tướng” (7).
Các ý kiến ông Dũng rõ là phụ thuộc vào các “quân sư”, mà một trong các “quân sư” đó chính là Phạm Quý Ngọ – Trung tướng- Thứ trưởng Bộ công an, mà nhà văn Nguyễn Quang Vinh đã có cuộc trao đổi trực tiếp (8). Trong cuộc trao đổi này, với tư cách là Trung tướng – Thứ trưởng Bộ công an, va luôn tự mãn với “chiến công” “hiển hách” trong việc dập tắt vụ nông dân Thái Bình nổi dậy của 15 năm về trước, mà nhà văn Nguyễn Quang Vinh bình: “…với vụ Tiên Lãng, như duyên phận, Trung tướng Phạm Quý Ngọ lại thay mặt Bộ Công an chỉ huy toàn cục những xử lý pháp luật về vụ việc trái pháp luật tại địa phương này”. Không phải là “duyên phận”, đầy ngụ ý hơn nên gọi “nghiệp chướng”, nếu ai đó tin vào “Luật nhân quả”. Tại sao chỉ qua một đêm, suy nghĩ của Tướng Ngọ trở nên lật bàn tay để đi từ dân sai trở thành giới cầm quyền địa phương sai? Một Thứ trưởng Bộ công an với nhiều năm lăn lộn, thủ đoạn có thừa lại có thể bộp chộp thế chăng? Đáng ngờ!
E rằng, không “dễ thương” và “dịu dàng” như “cô gái Thái Bình” thuở nào, bởi “bà Tiên Lãng” đã quá khác:
1) Năm 2012 không phải là 1997 – khác quá xa về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, đạo đức, dân trí kể cả ngoại giao đang rất cô độc và tệ hại. Tất nhiên phải nói cả sự thỏa mãn và lòng tham vô đáy, và bởi từ “vũ khí tối thượng” – INTERNET – thứ mà nhiều người nghĩ rằng nếu nó xuất hiện từ 1997, vụ “dập” Thái Bình không dễ dàng thế! Hải Phòng hôm nay không phải là nơi đèo heo hút gió như… Mường Nhé – nơi còn khá hoang sơ, nói gì đến “web”!
2) Việt Nam chưa cần đi “năn nỉ” trong những chuyên công du quốc tế rằng: “hãy công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường” như mới đây Vũ Văn Ninh – Phó thủ tướng lại tiếp tục “năn nỉ” Mỹ việc này (9).
Khó lắm, khó lắm, không có dễ đâu! Mọi việc đâu dễ ém nhẹm êm xuôi như ngày xưa cho giới cầm quyền ăn ngon và ngủ yên trên chiếc gối êm – “Chủ nghĩa Mác- Lê” & tư tưởng HCM.
Đừng bám vào quá khứ “thành công” trong đàn áp nông dân của ngày xưa để mong đợi chủ quan một thành công ngày nay tương tự y vậy, Tướng Ngọ! Và cũng bởi: LOẠN HẾT RỒI! Một cuộc nội chiến mang dáng dấp “Trịnh – Nguyễn phân tranh” và còn hơn thế nữa, đang dần hiển hiện như nhiều nhận định vừa qua?
***Có thể lắm, bởi trong lúc “khói lửa can qua” tại Tiên Lãng, nơi cách Đà Nẵng cả ngàn cây số, nơi các đồng chí đang “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” để…bóp (cho bằng) nát, thì một “đồng chí” khác bỗng nhảy phắt từ trên ghế xuống, triệu tập mấy ngàn đảng viên, công chức để giáo huấn về “phận công bộc”, vâng! “đồng chí” Nguyễn Bá Thanh, đích y! Việc nhảy xổ ra lúc này để nói những lời đường mật, bỗng làm cho Nguyễn Bá Thanh như vị “cứu tinh đời em” trước quần hùng như rắn mất đầu, hoang mang cao độ bằng mấy vần thơ như xỉa xói vào cả Bộ chính trị ĐCSVN rằng:
Sinh ra vốn dĩ là dân
Phấn đấu dần dần cũng được thành quan
Hết quan rồi lại hoàn dân
Hoàn dân rồi lại dần dần vào quan.
Chắc chắn “vào quan” ở đây là vào quan tài!.
Nguyễn Bá Thanh quả tỏ ra nhạy bén và chớp cơ hội nhanh như cắt trong khi các đồng chí của ông ta đang phơi trần trụi bản chất tham tàn cùng một trình độ dốt nát. Hay! Hãy nghe Blogger Trương Duy Nhất “chê” Nguyễn Bá Thanh như sau (10):
Ông Thanh giống ông Sự ở cả cái khí chất, cách ăn nói lẫn sự… độc tài!
Để rồi bình tiếp:
Sự độc tài nhiều khi là đức tính cần có của quan chức đứng đầu. Nói
như tiến sĩ Phạm Ngọc Cương “quyền lực chỉ thông suốt trong hai trường
hợp: độc tài bao trùm hoặc dân chủ bài bản”. Một khi không, hoặc chưa có
được cái “dân chủ bài bản” thì độc tài là điều kiện cần. Dân chủ nửa
mùa trong trường hợp này là kìm hãm phát triển
Một lời bình rất khôn và rất ngoan, vừa là ý của Trương Duy Nhất “Sự
độc tài nhiều khi là đức tính cần có của quan chức đứng đầu” vừa “góp
gạo thổi cơm chung” với người bạn – ông Phạm Ngọc Cương để kết luận: “độc tài là điều kiện cần” bởi Việt Nam chỉ có “dân chủ nửa mùa”.
Vậy điều kiện đủ là chi? Phải chăng đó chính là: thâu tóm, cát cứ rồi
đi đến ly khai từ một vùng trọng điểm của miền Trung đang ngày càng hiện
rõ? (*)Bây giờ, có thể nói những ai lo lắng cho Trương Duy Nhất sau lời đe dọa từ Tom Cat đã có thể yên lòng, chẳng kẻ nào dám động đến cọng lông chân của anh Trương, một khi “vách đá” sừng sững Nguyễn Bá Thanh (cùng bộ sậu) còn đó, trừ phi một trận tsunami xuất hiện giật sập và cuốn trôi nó.
Cuộc thanh trừng hay cuộc nội chiến, nếu xảy ra chắc chắn nó không xuất phát từ Hà Nội hay Saigon mà có thể phần lớn từ Hải Phòng và Đà Nẵng để rồi lan tỏa. Do vậy, Trương Duy Nhất được khuyến khích hãy phát huy hơn nữa “nhằm thẳng quân mình mà đánh” để ngoài tả phù (công an& tòa án& viện kiểm sát địa phương), và hữu bật (quân đội & các cơ quan công quyền địa phương) còn có “chân giữa” (trọng tâm à nha!) của người phát ngôn “hãy đọc blog đừng đọc báo” nhằm giúp Nguyễn Bá Thanh mau chóng lên ngôi “Chúa” trong một ngày gần nhất. Chúc “tập hợp” Nguyễn Bá Thanh thành công!
III. Lời nhắn gởi đến đại gia đình anh Vươn cùng các nhà báo “lề phải”:
Chị Thương và chị Hiền thân mến! Muốn hay không, đại gia đình các chị đã trở nên nổi tiếng bất đắc dĩ. Nói không quá, biến cố gia đình chị đã trở thành cơ hội cho hàng triệu dân oan khắp nước suy nghĩ và hành động.Có lẽ đại gia đình anh Vươn trở thành điểm tựa vững chãi cho dân oan trong việc đi đòi công lý, vì thế hai chị và cả các anh đang bị tạm giam chắc chắn không quên sự cưu mang nghĩa tình, sự lên tiếng ủng hộ từ tinh thần đến vật chất của người Việt trong và ngoài nước, đặc biệt giới báo chí. Vậy đề nghị hai chị hãy làm chút gì đó để nâng đỡ tinh thần cho bà con đang bị oan ức, bởi chuyện đại gia đình chị đã trở thành “chuyện không của riêng ai”, hai chị cần có trách nhiệm hơn trong động thái và lời nói của mình. Tất nhiên tôi không dám đòi hỏi những gì quá tầm tay từ hai chị, chỉ mong:
- Thay vì hai chị dùng những câu (đại loại): cám ơn đảng, nhà nước, chính phủ v.v… mong hai chị hãy tỏ rõ tư thế người ngay thẳng, tính chính danh và còn nguyên vẹn quyền công dân bằng những câu (ví dụ):
+ Gia đình chúng tôi đánh giá cao kết luận của Thủ tướng.
+ Gia đình chúng tôi tạm ghi nhận việc hối lỗi của chính quyền địa phương và chờ những hành động phù hợp lời nói từ phía chính quyền.
+ Gia đình chúng tôi tin rằng công lý vẫn tồn tại và pháp luật phải được thực thi tại Việt Nam.
v.v…
Những phát biểu này chứng minh cho phía cầm quyền hiểu cái sai của họ, cũng như hai chị giúp họ giật mình mà tẩy xóa những phát ngôn mang chất ban ơn mưa móc, bởi họ là CÔNG BỘC của nhân dân Việt Nam, những gì họ đang hưởng từ lương cho đến “lậu” đều là của người dân, họ phải thực hiện trách nhiệm và bổn phận của họ.
- Tuyệt đối không tỏ ra nôn nóng hay buồn bã, thất vọng, bởi hàng trăm ngàn dân oan khác đang nhìn vào hình ảnh đại gia đình hai chị, do vậy hai chị không thể làm họ thất vọng.
Rất tiếc khi tôi đang viết bài này, biết thông tin hai chị đã có đơn xin khoan hồng (11) gửi tới chủ tịch nước, tôi cho đó là bước đi sai lầm. Bởi chỉ kẻ có tội mới xin khoan hồng, trong khi vụ việc đại gia đình hai chị vẫn chưa ngã ngũ. Hai chị đã tự đá vào lưới nhà!(**) Quá tiếc!
Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ “tình đồng chí” “đoàn kết thắm thiết” giữa anh Tư và anh Ba lại “hay”!
Sau cùng, cánh nhà báo “lề phải” thân mến, tôi đánh giá cao chuyên môn và đạo đức khi các quý vị tác nghiệp về vụ án Đoàn văn Vươn, các phóng sự, bản tin của quý vị đã làm sôi động bầu không khí “tự do báo chí lề phải” và tôi chung vui với quý vị khi một công ty phát hành sách báo cho biết, những ngày qua lượng báo phát hành ra tăng vọt gần gấp đôi trong tình hình kinh tế èo uột. Quý vị cũng thấy, cuối cùng chính độc giả, chính người dân nuôi quý vị thôi, chả có đảng điếc gì cả! Tuy vậy, mong quý vị hãy chừng mực và cẩn trọng hơn, đừng giật những cái title (ví dụ) “Vỡ òa niềm vui”, “thấu tình đạt lý”, bởi có thể quý vị có thể “vỡ mật”, khi “bức tranh vân cẩu” thay hình đổi dạng ngoạn mục.
Nguyễn Ngọc Già
_______________
http://nguyencuvinh.wordpress.com/2012/02/24/v%e1%bb%a5-tien-lang-k%e1%bb%b3-24-gi%e1%bb%9bi-thi%e1%bb%87u-video-clip-bi-th%c6%b0-thanh-noi-chuy%e1%bb%87n-v%e1%bb%9bi-clb-b%e1%ba%a1ch-d%e1%ba%b1ng/(1)
http://tintuchangngay.info/2012/02/28/hua-vao-th%e1%ba%b1ng-v%c6%b0%c6%a1n-luon-hay-b%e1%ba%aft-d%e1%ba%a7u-t%e1%bb%ab-do-luon-co-quan-tr%e1%bb%8dng-gi-hay-khong/ (1)
http://www.google.com.vn/#hl=vi&sclient=psy-ab&q=%22ch%C3%B3+h%C3%B9a%22&pbx=1&oq=%22ch%C3%B3+h%C3%B9a%22&aq=f&aqi=g1&aql=&gs_sm=3&gs_upl=765l765l17l4758l1l0l1l0l0l0l0l0ll1l0&bav=on.2,or.r_gc.r_pw.r_qf.,cf.osb&fp=c7a31bcb1dbdda2e&biw=1093&bih=444 (2)
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/58391/vu-cuong-che–dang-ra-soat-ai-pha-nha-dan.html (3)
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/51894/thu-tuong–vu-vinashin–toi-khong-ra-quyet-dinh-nao-sai.html (4)
http://vi.wiktionary.org/wiki/Tranh_V%C3%A2n_C%E1%BA%A9u (5)
http://tintuchangngay.info/2012/02/15/giao-tand-h%E1%BA%A3i-phong-xet-x%E1%BB%AD-v%E1%BB%A5-vinashin/ (6)
http://www.baomoi.com/Tan-thanh-su-tham-gia-cua-VKS-vao-cac-phien-toa-dan-su/58/5918151.epi (7)
http://nguyencuvinh.wordpress.com/2012/02/22/v%e1%bb%a5-tien-lang-k%e1%bb%b3-20-trung-t%c6%b0%e1%bb%9bng-th%e1%bb%a9-tr%c6%b0%e1%bb%9fng-b%e1%bb%99-cong-an-ph%e1%ba%a1m-quy-ng%e1%bb%8d-b%e1%bb%99-cong-an-d%e1%ba%b7c-bi%e1%bb%87t-quan-tam-v/ (8)
http://www.tinmoi.vn/pho-thu-tuong-vu-van-ninh-tham-va-lam-viec-tai-my-02757729.html (9)
http://truongduynhat.vn/?p=5589 (10)
http://www.vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/62039/gia-dinh-ong-vuon-gui-don-len-chu-tich-nuoc.html (11)
(*) Độc tài dù sáng suốt đi chăng nữa thì khi sự sáng suốt cắp nón ra đi, độc tài vẫn bám lại. Nguyễn Bá Thanh có phải là “độc tài sáng suốt” và vì dân không, khi nhớ lại vụ Cồn Dầu và vụ tự thiêu của Phạm Thanh Sơn cũng như vụ dân đập phá tan nát một công ty về BĐS?. Hình như Nguyễn Bá Thanh mơ màng nghĩ bản thân gần như một Park Chung Hee hay cao hơn một Lý Quang Diệu? E rằng Bá Thanh còn “đường xa vạn dặm” để vói tới những nhân cách lớn đấy!
(**) Không biết có phải các luật sư tư vấn? nếu quả vậy, thật đáng buồn!
Cuba: Những cái bóng của ngày hôm qua
Jens Glüsing
Phan Ba dịch từ Der Spiegel 08/2012
Lại có một thời kỳ băng hà thống trị giữa các chính phủ ở
Washington và Havanna. Một vụ điệp viên đã ngăn cản tất cả các cố gắng
làm giảm căng thẳng.
Bà mang cảm giác cô đơn nhiều nhất là vào ngày kỷ niệm ngày cưới. Vào ngày đấy, Adriana Pérez, 42 tuổi, rút vào trong căn hộ của mình ở Havanna và hôn bức ảnh chụp chồng bà Gerardo Hernández, 46 tuổi. Bà nhìn thấy ông lần cuối cùng trước đây 14 năm. Thỉnh thoảng, bà được phép gửi cho ông ấy một bức thư điện tử, ông thường nhận được những bức thư tình của bà sau nhiều tháng, cơ quan FBI cùng đọc thư.
Bà quen ông lúc 16 tuổi, ông ấy là mối tình đầu của bà. Họ cưới nhau từ 23 năm nay. Adriana là một người phụ nữ đẹp, có mái tóc đen dầy và mắt màu sẫm. Bà không biết có bao giờ được nhìn lại chồng mình hay không. Chính phủ Mỹ từ chối không cho phép bà nhập cảnh.
Pérez, vợ của Hernández: FBI đọc thư cùng. Ảnh: Sven Creutzmann / Der SpiegelHernández ngồi trong một nhà tù có mức an ninh cao tại California, cùng với những kẻ buôn thuốc phiện, giết người và những trọng phạm khác. Tội của ông ấy: lãnh đạo một mạng lưới điệp viên Cuba trong Hoa Kỳ. Nhận nhiệm vụ từ Fidel Castro, ông ấy thâm nhập vào trong các tổ chức cực đoan của những người Cuba lưu vong ở Florida vào đầu những năm 90.
Sau khi mạng điệp viên bị bại lộ năm 1998, năm điệp viên ở Miami, thành trì của những người chống Castro, bị mang ra xử.
Vụ án đấy giống như một cuộc săn lùng phù thủy: những người Cuba lưu vong cực đoan xô đẩy các thành viên của tư pháp, trong các hành lang của tòa án đã xảy ra những cuộc náo động. “Có những nhà báo được Bộ Ngoại giao trả tiền cho các tường thuật của họ về vụ án”, Richard Klugh quả quyết, luật sư người Mỹ của Hernández. “Vụ án này đã bị chính trị hóa hoàn toàn.”
Năm người đã lĩnh những bản án tù nặng vì “âm mưu làm gián điện”, Hernández nhận án tù chung thân hai lần, vì vị nữ chánh án cũng quy trách nhiệm về cho ông trong vụ bắn hạ hai chiếc máy bay của tổ chức chống Castro “Hermanos al Rescate” trong năm 1996.
Áp phích trong Havanna, tỏ tình đoàn kết với các điệp viên bị kết án tù: trận chiến tuyên truyền ác liệt. Ảnh: Sven Creutzmann / Der SpiegelTrong Cuba, năm người này được tôn sùng như những người anh hùng quốc gia. Khắp nơi trong nước, những tấm áp phích khổng lồ nhắc nhở đến “Gerardo, Ramón, Antonio, René và Fernando”. Có cơ hội là lãnh tụ cách mạng Fidel Castro đều nhắc đến số phận của các gián điệp của mình. Khi ông ấy giới thiệu phần đầu của hồi ký ông ấy ở Havanna trước đây hai tuần, ông ấy đã gọi điện thoại cho một trong năm người đấy trước camera đang quay.
Con người già nua đó đã tuyên bố rằng lần trở về của các điệp viên chính là việc của ông ấy. “Họ không được trả tự do thì không có bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ”, Ricardo Alarcón, chủ tịch Quốc Hội Cuba, nói với Spiegel. “Họ không hề tiết lộ bí mật quốc gia hay gây nguy hại đến an ninh của Hoa Kỳ.”
Tranh cãi quanh vụ việc đã cũ này là chướng ngại vật lớn nhất cho việc làm giảm thiểu căng thẳng trong quan hệ giữa hai láng giềng bất cân xứng này, việc lẽ ra đã phải được tiến hành từ lâu rồi. 22 năm sau khi Bức Tường Berlin sụp đổ, lại có một thời kỳ băng hà thống trị giữa Washington và Havanna. Lệnh cấm vận kinh tế, đã kéo dài chính xác nửa thế kỷ, sẽ không được nới lỏng trong thời gian sắp tới đây, ngược lại, những cải cách đang hết sức cần thiết cho nền kinh tế của Cuba chỉ được tiến hành một cách dè dặt hơn là chờ đợi, với lời nói bóng gió về mối nguy hiểm từ phương Bắc.
Cả cuộc chiến tranh tuyên truyền cũng lại được tăng cường: trong năm vừa rồi, người Cuba tuyên xử người Mỹ Alan Gross ở Havanna. Chuyên gia công nghệ thông tin này đã cố mang lậu thiết bị thông tin công nghệ cao vào trong đất nước này. Bên cạnh hàng chục chiếc điện thoại di động và máy tính xách tay, ông ấy còn có một cái chip để kết nối với vệ tinh, loại chỉ được mật vụ Mỹ sử dụng. Một tòa án đã tuyên xử 15 năm tù cho ông ấy vì gây nguy hiểm cho nhà nước.
Gross quả quyết rằng ông ấy đã làm theo lời yêu cầu của Cơ quan Phát
triển Hoa Kỳ USAID thuộc nhà nước, các thiết bị đấy là dành cho cộng
đồng người Do Thái ở Havanna. Cộng đồng người Do Thái phủ nhận điều này.
Hiện giờ, cuộc trao đổi người Mỹ để lấy năm điệp viên Cuba đang được phỏng đoán ở Hoa Kỳ, nhưng đầu tiên là Cuba phải trả tự do cho Gross. “Chúng tôi sẽ không đơn phương thực hiện việc làm nào trước cả”, chủ tịch Quốc Hội Alarcón xoa dịu.
Tổng thống Mỹ Obama có thể ân xá cho những người Cuba đang bị giam giữ. Một người tiền nhiệm của ông ấy, Jimmy Carter, năm vừa rồi đã ủng hộ để họ được trả tự do. Nguyên thủ tướng Anh Gordon Brown đã nói về đề tài này trong lần gặp gỡ Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton năm 2010, như đã lộ ra từ những bức điện ngoại giao được đưa cho WikiLeaks. Những nhóm tín ngưỡng trong Hoa Kỳ, sao Hollywood và nhiều người nhận Giải Nobel đã hoạt động cho lần trả tự do.
Người vợ Adriana của Hernández dẫn đầu chiến dịch đòi trả tự do cho năm người đấy, bà cũng đã đến nói chuyện trong Vatican. Bà ấy hy vọng Đức Giáo hoàng Benedikt XVI sẽ giúp sức cho một giải pháp nhân đạo khi ông ấy đến Cuba vào cuối tháng 3. “Nhà thờ Công giáo biết tốt về đề tài này”, Alarcón xác nhận.
Thế nhưng một nhóm cứng rắn của những người Cuba lưu vong đã ngăn cản không cho trả tự do cho tới nay. Đặc biệt là trong thời gian bầu cử, mặt trận dường như không thể nào mềm mỏng đi: mỗi một ứng cử viên tổng thống của người Cộng hòa đều phải tự giới thiệu mình tại giới lobby chống Castro ở Miami. Trong năm nay, hầu như tất cả các ứng viên đều ủng hộ việc tiếp tục cấm vận kinh tế hay còn đòi tăng cường nó thêm nữa.
Trong quyển sách “Những người lính cuối cùng của cuộc Chiến tranh Lạnh”, tác giả nổi tiếng người Brazil và là người am hiểu đất nước Cuba Fernando Morais đã mô tả cuộc chiến trong bóng tối giữa những người Cuba lưu vong và những người của Castro ở Maimi, cuộc chiến mà năm người Cuba và người Mỹ đấy là nạn nhân của nó. “Kịch bản cứ giống như là của John le Carré”, Morais nói. Đầy dẫy những điệp viên, người giả mạo danh tính, hành động phá hoại và nghi ngờ nhau.
Castro đã gửi các điệp viên của mình đến Florida để theo dõi các hoạt động của một nhóm người Cuba lưu vong quá khích quanh kẻ khủng bố Luis Posada Carriles. Người này đã liên can đến nhiều vụ mưu sát Fidel Castro và năm 1976 đã chuẩn bị cho vụ công kích một chiếc máy bay dân sự Cuba mà 73 người đã chết trong đó. Ngắn gọn: người này được những người chống Castro bằng vũ lực xem như là một huyền thoại.
Nhiệm vụ của các điệp viên bí mật đến mức ngay cả vợ của họ cũng không hề biết điều gì. “Tôi cứ nghĩ là Gerardo đi công tác ở Argentina”, Adriana kể lại. Hernández dùng một hộ chiếu của Puerto Rico dưới tên giả để đến Miami. Đồng nghiệp của ông ấy giả vờ chạy trốn khỏi Cuba.
Lúc đến được Miami, những người được cho là bỏ trốn đã được chào mừng như những anh hùng. Hai người trong số họ được nhận làm phi công trong tổ chức “Hermanos al Rescate” của người chống Castro José Basulto. Với những chiếc máy bay Cessna của mình, ông ấy đã nhiều lần bay đến Havanna và đã rải truyền đơn xuống thành phố, kêu gọi lật đổ Castro. Năm 1996, chiến đấu cơ MiG của Cuba đã bắn hạ hai chiếc Cessna của Basulto, cả bốn người ngồi trong máy bay đều chết. “Điệp viên của Castro đã phản bội chúng tôi”, Basulto nói ngày nay.
Hai năm sau đó, mạng lưới điệp viên này bị bại lộ. “Cảnh sát xông vào nhà chúng tôi vào lúc giữa đêm”, Margaret Becker nhớ lại, cô bạn gái của người Cuba Antonio Guerrero. Hai người sống ở Florida Keys, cách Havanna tròn 200 kilômét đường chim bay.
Nhưng không phải tất cả những người Cuba lưu vong đều chấp nhận các phương pháp của nhóm chống Castro bằng vũ lực. Còn ngược lại: trận đấu tuyên truyền trong cuộc chiến vì các điệp viên hiện giờ khiến cho người ta nhớ lại những thời mà một đa số của những người Cuba ở cả hai bên Eo biển Florida tưởng rằng đã qua đi.
Ramón Saúl Sánchez, người đã tham gia nhiều tổ chức khủng bố và trong những năm 80 đã từng ngồi tù, chỉ còn muốn biểu tình với các phương pháp hòa bình: ông ấy tổ chức một “hạm đội vì tự do” nhân dịp Giáo Hoàng đến thăm. Khi Benedikt cử hành lễ trong Havanna vào ngày 28 tháng 3, Sánchez và những người đồng chí hướng muốn dùng du thuyền tiến càng sát vào lãnh hải Cuba càng tốt và đốt pháo hoa, cái mà người ta có thể nhìn thấy từ bờ biển.
Người Cuba lưu vong Sánchez ở Miami: phản đối nhân dịp Giáo Hoàng đến thăm. Ảnh: Sven Creutzmann / Der Spiegel“Khi Đức Giáo Hoàng gặp anh em Castro thì những người chống chính quyền sẽ đốt nến và bật đèn pin”, Sánchez hy vọng. Ông đã tổ chức được trên 20 “hạm đội”, có lần, chiếc du thuyền “Dân Chủ” của ông đã bị thuyền của Hải quân Cuba lấn đẩy.
Nỗi lo ngại lớn nhất của Sánchez là các điệp viên Cuba: “Tôi tin chắc là điệp viên bí mật của Castro cũng đã thâm nhập vào trong tổ chức của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không để cho người khác khiêu khích chúng ta”, ông ấy cảnh báo những người theo mình. Vũ khí bị cấm trên tàu, mỗi một người tham gia đều phải tuyên bố trên văn bản rằng mình không dùng bạo lực.
Những người quá khích của cả hai bên sẽ rất thích có một vụ nổ súng trong thời gian Đức Giáo Hoàng đến thăm: địch thủ của Castro ở Miami sẽ nhận thêm được động lực cho chuyến thập tự chinh chống Chủ nghĩa Cộng sản, cả những người chống cải cách trên đảo cũng sẽ lại tin chắc rằng không thể nào mà dàn xếp được với Hoa Kỳ.
Ngược lại, một cuộc đối đầu mới sẽ là một tấn bi kịch cho những người thân của các điệp viên đang bị giam giữ: nó sẽ phá hỏng triển vọng trở về của năm người đấy.
Adriana Pérez, vợ của Gerardo, đã chuẩn bị tinh thần để đón nhận sự thất vọng: bà muốn hiện thực giấc mơ của hai người về một đứa con chung trong mọi trường hợp, ngay cả khi chồng bà không được trả tự do. Bà đã nộp đơn tại cơ quan quản lý nhà tù ở Mỹ để xin phép được thụ thai nhân tạo.
Jens Glüsing
Phan Ba dịch từ Der Spiegel 08/2012
Bà mang cảm giác cô đơn nhiều nhất là vào ngày kỷ niệm ngày cưới. Vào ngày đấy, Adriana Pérez, 42 tuổi, rút vào trong căn hộ của mình ở Havanna và hôn bức ảnh chụp chồng bà Gerardo Hernández, 46 tuổi. Bà nhìn thấy ông lần cuối cùng trước đây 14 năm. Thỉnh thoảng, bà được phép gửi cho ông ấy một bức thư điện tử, ông thường nhận được những bức thư tình của bà sau nhiều tháng, cơ quan FBI cùng đọc thư.
Bà quen ông lúc 16 tuổi, ông ấy là mối tình đầu của bà. Họ cưới nhau từ 23 năm nay. Adriana là một người phụ nữ đẹp, có mái tóc đen dầy và mắt màu sẫm. Bà không biết có bao giờ được nhìn lại chồng mình hay không. Chính phủ Mỹ từ chối không cho phép bà nhập cảnh.
Pérez, vợ của Hernández: FBI đọc thư cùng. Ảnh: Sven Creutzmann / Der SpiegelHernández ngồi trong một nhà tù có mức an ninh cao tại California, cùng với những kẻ buôn thuốc phiện, giết người và những trọng phạm khác. Tội của ông ấy: lãnh đạo một mạng lưới điệp viên Cuba trong Hoa Kỳ. Nhận nhiệm vụ từ Fidel Castro, ông ấy thâm nhập vào trong các tổ chức cực đoan của những người Cuba lưu vong ở Florida vào đầu những năm 90.
Sau khi mạng điệp viên bị bại lộ năm 1998, năm điệp viên ở Miami, thành trì của những người chống Castro, bị mang ra xử.
Vụ án đấy giống như một cuộc săn lùng phù thủy: những người Cuba lưu vong cực đoan xô đẩy các thành viên của tư pháp, trong các hành lang của tòa án đã xảy ra những cuộc náo động. “Có những nhà báo được Bộ Ngoại giao trả tiền cho các tường thuật của họ về vụ án”, Richard Klugh quả quyết, luật sư người Mỹ của Hernández. “Vụ án này đã bị chính trị hóa hoàn toàn.”
Năm người đã lĩnh những bản án tù nặng vì “âm mưu làm gián điện”, Hernández nhận án tù chung thân hai lần, vì vị nữ chánh án cũng quy trách nhiệm về cho ông trong vụ bắn hạ hai chiếc máy bay của tổ chức chống Castro “Hermanos al Rescate” trong năm 1996.
Áp phích trong Havanna, tỏ tình đoàn kết với các điệp viên bị kết án tù: trận chiến tuyên truyền ác liệt. Ảnh: Sven Creutzmann / Der SpiegelTrong Cuba, năm người này được tôn sùng như những người anh hùng quốc gia. Khắp nơi trong nước, những tấm áp phích khổng lồ nhắc nhở đến “Gerardo, Ramón, Antonio, René và Fernando”. Có cơ hội là lãnh tụ cách mạng Fidel Castro đều nhắc đến số phận của các gián điệp của mình. Khi ông ấy giới thiệu phần đầu của hồi ký ông ấy ở Havanna trước đây hai tuần, ông ấy đã gọi điện thoại cho một trong năm người đấy trước camera đang quay.
Con người già nua đó đã tuyên bố rằng lần trở về của các điệp viên chính là việc của ông ấy. “Họ không được trả tự do thì không có bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ”, Ricardo Alarcón, chủ tịch Quốc Hội Cuba, nói với Spiegel. “Họ không hề tiết lộ bí mật quốc gia hay gây nguy hại đến an ninh của Hoa Kỳ.”
Tranh cãi quanh vụ việc đã cũ này là chướng ngại vật lớn nhất cho việc làm giảm thiểu căng thẳng trong quan hệ giữa hai láng giềng bất cân xứng này, việc lẽ ra đã phải được tiến hành từ lâu rồi. 22 năm sau khi Bức Tường Berlin sụp đổ, lại có một thời kỳ băng hà thống trị giữa Washington và Havanna. Lệnh cấm vận kinh tế, đã kéo dài chính xác nửa thế kỷ, sẽ không được nới lỏng trong thời gian sắp tới đây, ngược lại, những cải cách đang hết sức cần thiết cho nền kinh tế của Cuba chỉ được tiến hành một cách dè dặt hơn là chờ đợi, với lời nói bóng gió về mối nguy hiểm từ phương Bắc.
Cả cuộc chiến tranh tuyên truyền cũng lại được tăng cường: trong năm vừa rồi, người Cuba tuyên xử người Mỹ Alan Gross ở Havanna. Chuyên gia công nghệ thông tin này đã cố mang lậu thiết bị thông tin công nghệ cao vào trong đất nước này. Bên cạnh hàng chục chiếc điện thoại di động và máy tính xách tay, ông ấy còn có một cái chip để kết nối với vệ tinh, loại chỉ được mật vụ Mỹ sử dụng. Một tòa án đã tuyên xử 15 năm tù cho ông ấy vì gây nguy hiểm cho nhà nước.
Chuyên gia IT Gross và vợ: con tin trong cuộc Chiến Tranh Lạnh? Ảnh: DAPD
Hiện giờ, cuộc trao đổi người Mỹ để lấy năm điệp viên Cuba đang được phỏng đoán ở Hoa Kỳ, nhưng đầu tiên là Cuba phải trả tự do cho Gross. “Chúng tôi sẽ không đơn phương thực hiện việc làm nào trước cả”, chủ tịch Quốc Hội Alarcón xoa dịu.
Tổng thống Mỹ Obama có thể ân xá cho những người Cuba đang bị giam giữ. Một người tiền nhiệm của ông ấy, Jimmy Carter, năm vừa rồi đã ủng hộ để họ được trả tự do. Nguyên thủ tướng Anh Gordon Brown đã nói về đề tài này trong lần gặp gỡ Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton năm 2010, như đã lộ ra từ những bức điện ngoại giao được đưa cho WikiLeaks. Những nhóm tín ngưỡng trong Hoa Kỳ, sao Hollywood và nhiều người nhận Giải Nobel đã hoạt động cho lần trả tự do.
Người vợ Adriana của Hernández dẫn đầu chiến dịch đòi trả tự do cho năm người đấy, bà cũng đã đến nói chuyện trong Vatican. Bà ấy hy vọng Đức Giáo hoàng Benedikt XVI sẽ giúp sức cho một giải pháp nhân đạo khi ông ấy đến Cuba vào cuối tháng 3. “Nhà thờ Công giáo biết tốt về đề tài này”, Alarcón xác nhận.
Thế nhưng một nhóm cứng rắn của những người Cuba lưu vong đã ngăn cản không cho trả tự do cho tới nay. Đặc biệt là trong thời gian bầu cử, mặt trận dường như không thể nào mềm mỏng đi: mỗi một ứng cử viên tổng thống của người Cộng hòa đều phải tự giới thiệu mình tại giới lobby chống Castro ở Miami. Trong năm nay, hầu như tất cả các ứng viên đều ủng hộ việc tiếp tục cấm vận kinh tế hay còn đòi tăng cường nó thêm nữa.
Trong quyển sách “Những người lính cuối cùng của cuộc Chiến tranh Lạnh”, tác giả nổi tiếng người Brazil và là người am hiểu đất nước Cuba Fernando Morais đã mô tả cuộc chiến trong bóng tối giữa những người Cuba lưu vong và những người của Castro ở Maimi, cuộc chiến mà năm người Cuba và người Mỹ đấy là nạn nhân của nó. “Kịch bản cứ giống như là của John le Carré”, Morais nói. Đầy dẫy những điệp viên, người giả mạo danh tính, hành động phá hoại và nghi ngờ nhau.
Castro đã gửi các điệp viên của mình đến Florida để theo dõi các hoạt động của một nhóm người Cuba lưu vong quá khích quanh kẻ khủng bố Luis Posada Carriles. Người này đã liên can đến nhiều vụ mưu sát Fidel Castro và năm 1976 đã chuẩn bị cho vụ công kích một chiếc máy bay dân sự Cuba mà 73 người đã chết trong đó. Ngắn gọn: người này được những người chống Castro bằng vũ lực xem như là một huyền thoại.
Nhiệm vụ của các điệp viên bí mật đến mức ngay cả vợ của họ cũng không hề biết điều gì. “Tôi cứ nghĩ là Gerardo đi công tác ở Argentina”, Adriana kể lại. Hernández dùng một hộ chiếu của Puerto Rico dưới tên giả để đến Miami. Đồng nghiệp của ông ấy giả vờ chạy trốn khỏi Cuba.
Lúc đến được Miami, những người được cho là bỏ trốn đã được chào mừng như những anh hùng. Hai người trong số họ được nhận làm phi công trong tổ chức “Hermanos al Rescate” của người chống Castro José Basulto. Với những chiếc máy bay Cessna của mình, ông ấy đã nhiều lần bay đến Havanna và đã rải truyền đơn xuống thành phố, kêu gọi lật đổ Castro. Năm 1996, chiến đấu cơ MiG của Cuba đã bắn hạ hai chiếc Cessna của Basulto, cả bốn người ngồi trong máy bay đều chết. “Điệp viên của Castro đã phản bội chúng tôi”, Basulto nói ngày nay.
Hai năm sau đó, mạng lưới điệp viên này bị bại lộ. “Cảnh sát xông vào nhà chúng tôi vào lúc giữa đêm”, Margaret Becker nhớ lại, cô bạn gái của người Cuba Antonio Guerrero. Hai người sống ở Florida Keys, cách Havanna tròn 200 kilômét đường chim bay.
Nhưng không phải tất cả những người Cuba lưu vong đều chấp nhận các phương pháp của nhóm chống Castro bằng vũ lực. Còn ngược lại: trận đấu tuyên truyền trong cuộc chiến vì các điệp viên hiện giờ khiến cho người ta nhớ lại những thời mà một đa số của những người Cuba ở cả hai bên Eo biển Florida tưởng rằng đã qua đi.
Ramón Saúl Sánchez, người đã tham gia nhiều tổ chức khủng bố và trong những năm 80 đã từng ngồi tù, chỉ còn muốn biểu tình với các phương pháp hòa bình: ông ấy tổ chức một “hạm đội vì tự do” nhân dịp Giáo Hoàng đến thăm. Khi Benedikt cử hành lễ trong Havanna vào ngày 28 tháng 3, Sánchez và những người đồng chí hướng muốn dùng du thuyền tiến càng sát vào lãnh hải Cuba càng tốt và đốt pháo hoa, cái mà người ta có thể nhìn thấy từ bờ biển.
Người Cuba lưu vong Sánchez ở Miami: phản đối nhân dịp Giáo Hoàng đến thăm. Ảnh: Sven Creutzmann / Der Spiegel“Khi Đức Giáo Hoàng gặp anh em Castro thì những người chống chính quyền sẽ đốt nến và bật đèn pin”, Sánchez hy vọng. Ông đã tổ chức được trên 20 “hạm đội”, có lần, chiếc du thuyền “Dân Chủ” của ông đã bị thuyền của Hải quân Cuba lấn đẩy.
Nỗi lo ngại lớn nhất của Sánchez là các điệp viên Cuba: “Tôi tin chắc là điệp viên bí mật của Castro cũng đã thâm nhập vào trong tổ chức của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không để cho người khác khiêu khích chúng ta”, ông ấy cảnh báo những người theo mình. Vũ khí bị cấm trên tàu, mỗi một người tham gia đều phải tuyên bố trên văn bản rằng mình không dùng bạo lực.
Những người quá khích của cả hai bên sẽ rất thích có một vụ nổ súng trong thời gian Đức Giáo Hoàng đến thăm: địch thủ của Castro ở Miami sẽ nhận thêm được động lực cho chuyến thập tự chinh chống Chủ nghĩa Cộng sản, cả những người chống cải cách trên đảo cũng sẽ lại tin chắc rằng không thể nào mà dàn xếp được với Hoa Kỳ.
Ngược lại, một cuộc đối đầu mới sẽ là một tấn bi kịch cho những người thân của các điệp viên đang bị giam giữ: nó sẽ phá hỏng triển vọng trở về của năm người đấy.
Adriana Pérez, vợ của Gerardo, đã chuẩn bị tinh thần để đón nhận sự thất vọng: bà muốn hiện thực giấc mơ của hai người về một đứa con chung trong mọi trường hợp, ngay cả khi chồng bà không được trả tự do. Bà đã nộp đơn tại cơ quan quản lý nhà tù ở Mỹ để xin phép được thụ thai nhân tạo.
Jens Glüsing
Phan Ba dịch từ Der Spiegel 08/2012
Toàn văn phát biểu của Ông Nguyễn phú Trọng trên Vietnamnet
4 lý do để TƯ ra Nghị quyết về xây dựng Đảng Đã có nhiều Nghị quyết về xây dựng Đảng như vậy, tại sao lần này Trung ương lại phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng nữa?VietNamNet giới thiệu toàn văn phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại nội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng khai mạc ngày 27/2.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) đã bàn và thống nhất ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là một Nghị quyết rất quan trọng, được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm; quan tâm từ trong quá trình diễn ra Hội nghị đến khi kết thúc Hội nghị. Ngay sau khi ban hành, Nghị quyết đã được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đón nhận với một tình cảm hồ hởi, vui mừng, đồng tình, nhất trí cao, cho rằng Nghị quyết đã lựa chọn đúng vấn đề, đánh giá đúng thực trạng và đề ra đúng các giải pháp để tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân. Đã có hàng trăm bài báo, hàng trăm bức thư, hàng nghìn ý kiến tâm huyết gửi về Trung ương bày tỏ tình cảm và sự tâm đắc, phấn khởi, kỳ vọng của mình. Tuy nhiên, dư luận cũng đang chờ đợi và có phần băn khoăn, lo rằng liệu Nghị quyết lần này có được tổ chức thực hiện hiệu quả không hay lại rơi vào tình trạng “không đạt yêu cầu” như nhiều lần trước. Tâm trạng đó là chính đáng và cũng là điều day dứt, trăn trở chung của tất cả chúng ta.
Ý thức sâu sắc được vấn đề này, ngay tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 4, Ban Chấp hành Trung ương đã yêu cầu phải lãnh đạo, chỉ đạo thật tốt việc tổ chức thực hiện, coi đây là vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa quyết định để đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Sau một thời gian ngắn tích cực và khẩn trương chuẩn bị, hôm nay, Bộ Chính trị triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc để phổ biến, quán triệt nội dung của Nghị quyết Trung ương, Chỉ thị và Kế hoạch triển khai của Bộ Chính trị. Sự có mặt đông đủ của tất cả các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và sự tham gia của toàn thể cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành trong cả nước đã nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Hội nghị này và thể hiện tinh thần nghiêm túc, quyết tâm cao của Đảng ta ngay từ khâu mở đầu trong toàn bộ kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết. Có lẽ đây cũng là Hội nghị lớn nhất về phổ biến một Nghị quyết chuyên đề của Trung ương từ trước đến nay.
Mục đích của Hội nghị này là thông qua việc giới thiệu, phổ biến các nội dung Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch, giúp các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý nghĩa, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những kiến thức cần thiết, những tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó, tạo sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm, thấy đầy đủ trách nhiệm của mình để gương mẫu, tự giác thực hiện và chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết có hiệu quả trên mỗi cương vị công tác tại địa bàn, lĩnh vực thuộc trách nhiệm lãnh đạo của mình. Ban Tổ chức Hội nghị đã phổ biến, báo cáo với các đồng chí chương trình, nội dung, cách thức tiến hành Hội nghị. Tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm là, Hội nghị của chúng ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Các đồng chí cần nêu cao ý thức trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và đất nước, tập trung cao độ cho việc học tập, nghiên cứu, thảo luận, để thu được kết quả tốt. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có quyết tâm rất lớn và thống nhất rất cao. Mong toàn thể các đồng chí cũng thống nhất rất cao và quyết tâm rất lớn, ngay trong việc học tập Nghị quyết này.
Vừa qua, các đồng chí đã được nghe thông báo nhanh kết quả và các nội dung chính của Hội nghị Trung ương 4 qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc tại các hội nghị phổ biến, quán triệt Nghị quyết do cấp uỷ tổ chức. Nghị quyết của Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị viết rất ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, các đồng chí cần nghiên cứu trực tiếp. Sau đây, để giúp các đồng chí hiểu sâu hơn, tôi xin nói thêm một số vấn đề, chủ yếu là cung cấp thông tin hoặc nói rõ hơn một số nội dung được đề cập trong Nghị quyết của Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị.
Tập trung vào 4 phần lớn : (1) Vì sao lúc này Trung ương phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng. (2) Mục đích, yêu cầu, quá trình chuẩn bị và phạm vi của Nghị quyết. (3) Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương và Chỉ thị của Bộ Chính trị. (4) Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Toàn cảnh hội nghị |
Từ trước đến nay, Đảng ta luôn luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Đã có không ít các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng Đảng. Các Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đều có đề cập đến công tác xây dựng Đảng; có đại hội có báo cáo riêng về xây dựng Đảng. Chỉ tính từ Đại hội VI đến nay, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành 8 nghị quyết, Bộ Chính trị ban hành 6 nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Ban Bí thư khoá VII đã chỉ đạo tiến hành tổng kết 20 năm xây dựng Đảng thời kỳ 1975 – 1995; Ban Bí thư khoá IX chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới (1986 – 2006), trong đó có phần về xây dựng Đảng.
Đã có nhiều Nghị quyết về xây dựng Đảng như vậy, tại sao lần này Trung ương lại phải bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng nữa?
Theo tôi có 4 lý do :
Một là, vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng luôn luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là bài học lớn, là kết luận sâu sắc được rút ra qua suốt quá trình hơn 80 năm hoạt động của Đảng ta, đồng thời cũng là lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng, nhiều nước trên thế giới. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Trước kia đã như vậy, hiện nay đang như vậy, và sau này cũng sẽ vẫn như vậy. Các đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã coi sự lãnh đạo của đảng cộng sản là vấn đề có tính nguyên tắc, có tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bác Hồ cũng đã từng nói, Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Sự tan rã của Liên Xô là do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân rất cơ bản chính là vì Đảng Cộng sản lúc đó đã suy thoái, biến chất do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi; một số người lãnh đạo cấp cao của Đảng rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội hữu khuynh, mắc sai lầm về đường lối, thậm chí phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đảng đông (21 triệu đảng viên) nhưng không mạnh, mất sức chiến đấu nên khi tình hình xấu xảy ra đã tan rã. Có thể nói, đây là bài học vô cùng sâu sắc và đắt giá mà mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta cần phải thấm thía, luôn luôn khắc sâu, ghi nhớ, đừng để đi vào “vết xe đổ” đau xót đó. Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cải cách, mở cửa cũng luôn luôn khẳng định dứt khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, và trong những lần trao đổi với chúng ta, bạn thường nhấn mạnh không để bị “Tây hoá”, “tha hoá”, “thoái hoá”. Đảng Cộng sản Cu-ba đang đổi mới từng bước theo đường lối “cập nhật hoá mô hình phát triển kinh tế – xã hội”, cũng kiên quyết khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Mới đây, Đảng Cộng sản Cu-ba vừa tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc về xây dựng Đảng. Trong thời đại ngày nay có lẽ không có nước nào trên thế giới lại không có đảng (dù một đảng hay nhiều đảng) hoặc một tổ chức chính trị tương tự như đảng lãnh đạo.
Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng và coi trọng công tác xây dựng Đảng; đây là nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, nền độc lập tự chủ của Tổ quốc ta. Vào thời điểm này, chúng ta càng cần phải khẳng định mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng và ý nghĩa quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Vừa qua, cũng có nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác chưa phải đã nhận thức một cách sâu sắc vấn đề này. Hoặc là chỉ nặng về công tác chuyên môn, chưa quan tâm đầy đủ đến công tác xây dựng Đảng; hoặc là có ý nào đó xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng, coi nhẹ công tác Đảng. Đây đó có người cho rằng phát triển kinh tế thị trường, nhiều thành phần, mở cửa, hội nhập quốc tế, liên doanh, liên kết với nước ngoài thì cần gì phải có sự lãnh đạo của Đảng. Thậm chí có ý kiến cho rằng hình như sự lãnh đạo của tổ chức đảng chỉ gây rắc rối thêm, ngáng trở sự phát triển của kinh tế (?).
Hai là, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay rất to lớn, nặng nề, khó khăn, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo lên cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh hơn nữa. Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng vừa thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây thật sự là một cuộc vận động cách mạng toàn diện, sâu sắc và cao cả.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hoá, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế… Phải xử lý, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa… So với trước đây, chưa bao giờ đất nước ta lại triển khai xây dựng, phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế với quy mô rộng lớn như hiện nay. Có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải được giải đáp và giải quyết, cả về lý luận và thực tiễn; có những vấn đề tưởng chừng như mâu thuẫn, nghịch lý.
Tình hình thế giới lại đang có những diễn biến hết sức mau lẹ, phức tạp, khó dự báo, do có sự tranh chấp giữa các nước lớn, giữa các lực lượng; sự mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các quốc gia, các giai cấp, các dân tộc, các khu vực; sự biến đổi khí hậu toàn cầu; sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái mới, rất quyết liệt. Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế của hệ thống tư bản chủ nghĩa những năm 2008 – 2009 chưa giải quyết xong thì lại đến cuộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ và nhiều nước Tây Âu lan tràn từ Ai-len, Hy Lạp đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, I-ta-li-a… Phong trào “Chiếm phố Uôn” từ Niu-oóc đã lan khắp các thành phố ở Mỹ, sang cả nhiều nước Tây Âu, Nhật Bản… Cuộc khủng hoảng nợ công này được coi là biểu hiện của “lỗi hệ thống”, phản ánh sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản, có thể dẫn đến cuộc suy thoái mới của chủ nghĩa tư bản, theo như nhận định và dự báo của nhiều chuyên gia quốc tế. Tình hình Biển Đông, tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng đang có những diễn biến phức tạp mới…
Trong tình hình ấy, chúng ta chủ trương thực hiện một đường lối đối ngoại độc lập, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá, hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế; phải xử lý các mối quan hệ sao cho vừa kiên định về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, khôn khéo về phương pháp, sách lược; vừa giữ vững độc lập chủ quyền của quốc gia, bảo vệ được chế độ chính trị, thành quả cách mạng, vừa tạo được môi trường hoà bình, ổn định để phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước, tránh được sơ hở, tránh bị mắc bẫy, thêm được bạn, bớt được thù, quả thật là không đơn giản. Trong quá trình chuyển đổi phương thức quản lý kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, có nhiều việc chúng ta phải vừa làm, vừa học, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm và chịu tác động mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập. Có không ít vấn đề tác động trực tiếp đến nước ta, vào cả tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của cán bộ, đảng viên, nhân dân ta.
Ba là, bản thân Đảng, bên cạnh mặt tích cực, bản chất và truyền thống tốt đẹp được phát huy cũng đang đứng trước nhiều yêu cầu mới và có những hiện tượng tiêu cực, phức tạp mới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ;… đất nước lại phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế tác động vào Đảng. Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hoá giàu – nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không ? Nhà triết học cổ điển Đức L.Foiơ Băc đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai ? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không ? Thực tế đã có bộ phận suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Có người công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người “sám hối”, “trở cờ”; tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị vi phạm. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền, như Lê-nin và Bác Hồ đã từng cảnh báo. Chúng ta đã tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta ngày càng tiến bộ, trưởng thành; song vẫn còn nhiều hạn chế. Các mặt khuyết điểm, yếu kém chưa khắc phục được bao nhiêu, có mặt còn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tác động tiêu cực vào sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây thực sự là những cảnh báo không thể xem thường.
Bốn là, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt. “Diễn biến hoà bình” là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là “thủ đoạn hoà bình để giành thắng lợi”. Nhiều chuyên gia và chính khách phương Tây còn gọi đây là phương pháp “chuyển hoá hoà bình”, “biến đổi hoà bình”, “cách mạng hoà bình” và gần đây là “cách mạng nhung”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”… Trong chiến lược này, hoạt động tư tưởng – văn hoá được họ coi là “mũi đột phá”, là “cây cầu dẫn vào trận địa”, là lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xoá bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã tổng kết : “Có những việc 100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi, nhưng chỉ cần 10 sứ giả lại có thể hoàn thành”; “một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước”. Ngày nay “làn sóng điện đang thay thế thanh gươm; cây bút là phương tiện đi vào trái tim khối óc con người”; “một đô la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5 đô la chi cho quốc phòng”; “kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo là bốn đòn đột phá khẩu, bốn mũi xung kích để chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị”.
Thời gian gần đây, các làn sóng chống đối ta về mặt tư tưởng chính trị lại rộ lên, có lúc dồn dập. Có thể là do tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến mới; tình hình kinh tế – xã hội nước ta bên cạnh thành tựu lớn cũng xuất hiện những khó khăn và thách thức mới, các tệ nạn xã hội như tham nhũng, hối lộ, ma tuý, mại dâm… tiếp tục gia tăng, sự phân hoá giàu nghèo phát triển. Tình trạng quan liêu, mất dân chủ làm dân bất bình dẫn đến khiếu kiện đông người ở một số nơi phức tạp. Các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chắc mẩm đây là cơ hội để họ dấn tới tác động, làm chuyển hoá tình hình, thay đổi đường lối ở nước ta, cho nên họ hoạt động rất điên cuồng với nhiều thủ đoạn và sách lược mới; vừa dùng các lực lượng, phương tiện từ bên ngoài, vừa tận dụng phát triển lực lượng ở trong nước ta để tạo ra sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, chống đối từ nội bộ Đảng ta, xã hội ta, hòng phá ta từ bên trong phá ra, làm cho “cộng sản tự diệt cộng sản”, “cộng sản con diệt cộng sản bố”. Họ đang cố tìm ra và dựng lên những “ngọn cờ” để chống ta. Một số người cơ hội chính trị, bất mãn cũng lợi dụng các diễn đàn, các mối quan hệ để truyền bá những quan điểm sai trái của mình, liên tiếp viết đơn thư, tài liệu vu cáo, đả kích chế độ ta, tác động vào nhân dân, nhất là thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ, trí thức…
Nội dung các quan điểm của họ vẫn là những luận điệu lâu nay các nhà tư tưởng chống cộng đã từng nói và đã từng nhiều lần bị chúng ta phê phán, bác bỏ. Đại thể vẫn là phủ nhận thành tựu của cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, tồn tại của chúng ta, bôi đen hiện thực, gieo rắc hoài nghi, phá rã niềm tin của nhân dân và cán bộ, quy kết là do đường lối sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước. Phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định con đường xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán, đổ lỗi cho Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng. Kích động chia rẽ nội bộ, tung ra những luận điệu trong Đảng, trong Trung ương, Bộ Chính trị có phe này, phái kia; bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, kể cả Bác Hồ, tìm mọi cách “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”… Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị nói trên tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Trong bối cảnh tình hình nêu trên, nếu Đảng ta không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy mà Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Và đó cũng chính là những lý do giải thích vì sao lần này Ban Chấp hành Trung ương phải tiếp tục bàn và ra Nghị quyết về xây dựng Đảng.
II./. Mục đích, yêu cầu, quá trình chuẩn bị và phạm vi của Nghị quyết Trung ương 4.
1- Mục đích, yêu cầu
Đại hội XI của Đảng đã xác định chủ đề và cũng là tư tưởng chỉ đạo cho những năm tới là phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và đề ra yêu cầu phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo… tập trung vào 8 nhiệm vụ cơ bản có tính hệ thống, toàn diện. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, phải tiến hành thường xuyên, lâu dài. Trước mắt, cần lựa chọn một số vấn đề cấp bách nhất cần tập trung làm ngay để tạo ra được những chuyển biến cụ thể, rõ rệt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn và góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hội nghị Trung ương 4 bàn và ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chính là để đáp ứng yêu cầu đó, nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XI của Đảng phần nói về xây dựng Đảng, thực hiện Chương trình toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI.
2- Quá trình và cách thức chuẩn bị Hội nghị Trung ương 4
Nhận thức rõ vị trí và ý nghĩa quan trọng của Hội nghị Trung ương lần này, Bộ Chính trị đã tập trung chỉ đạo công việc chuẩn bị một cách rất khẩn trương, nghiêm túc và có bước đổi mới với yêu cầu phải rất cụ thể, thiết thực, khả thi, làm sao chọn đúng vấn đề, xác định đúng trọng tâm, đề ra được những biện pháp tích cực mang tính đột phá để tạo được chuyển biến rõ rệt trong thực tế. Bộ Chính trị đã thành lập Ban Chỉ đạo chuẩn bị xây dựng Đề án, gồm một số đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và đại diện lãnh đạo các ban đảng ở Trung ương do đồng chí Thường trực Ban Bí thư làm Trưởng ban. Ban Chỉ đạo đã thành lập Tổ Biên tập khẩn trương tổ chức nghiên cứu, xây dựng Đề án. Dự thảo Đề án đã được gửi lấy ý kiến đóng góp của các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương và một số cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương. Đã tổ chức 4 hội nghị lấy ý kiến của đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, bí thư, phó bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Thường trực Ban Chỉ đạo trực tiếp làm việc, nghe ý kiến đóng góp của nhiều đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao, lão thành cách mạng và nhiều đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Trung ương Đảng có kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng. Bộ Chính trị đã dành 2 phiên họp để nghe Ban Chỉ đạo báo cáo và thảo luận những nội dung quan trọng của Đề án để trình Trung ương.
Tại Hội nghị Trung ương 4, các đồng chí Uỷ viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào các đề án, báo cáo của Bộ Chính trị. Đã có 202 lượt ý kiến phát biểu ở tổ và Hội trường; nhiều đồng chí gửi ý kiến bằng văn bản hoặc sửa trực tiếp vào dự thảo Nghị quyết. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua nội dung Nghị quyết và ngày 16-01-2012, Nghị quyết đã được ban hành. Tinh thần chung và sự thống nhất rất cao của Trung ương là quyết tâm tạo ra những bước chuyển biến rõ rệt, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng vì sự nghiệp của đất nước, của dân tộc và của Đảng. Như vậy, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 thực sự là sản phẩm của trí tuệ tập thể.
3- Về phạm vi của Nghị quyết
Lần này, Trung ương không bàn toàn diện mà chỉ chọn một số vấn đề cấp bách nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay để tập trung chỉ đạo thực hiện với mong muốn khắc phục những cách làm dàn trải trước đây, tạo ra bước chuyển biến cụ thể, thiết thực trong thực tế. Đó là 3 vấn đề : (1) Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. (3) Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, trong mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong 3 vấn đề trên, khi thảo luận có ý kiến hỏi vấn đề nào là trọng tâm, là quan trọng nhất, cấp bách nhất ? Có ý kiến cho rằng, bây giờ vấn đề tư tưởng chính trị là quan trọng nhất, vì nó liên quan đến sinh mệnh chính trị của Đảng, đến Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng – tức là vấn đề rất cốt tử. Ý kiến khác lại nói vấn đề ấy là ở trên Trung ương, ở tầm cao, tầm chiến lược, chứ còn ở địa phương, ở cơ sở thì điều nhức nhối là vấn đề suy thoái đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, vấn đề này quần chúng dễ nhìn thấy. Quần chúng ở cơ sở không mất lòng tin vào Đảng, vào đường lối, mà mất lòng tin vào con người cán bộ cụ thể ở cơ sở, mất lòng tin qua một số hiện tượng như tham nhũng, tiêu cực, suy thoái phẩm chất đạo đức, cho nên phải coi vấn đề đạo đức, lối sống là vấn đề cấp bách nhất. Lại có ý kiến cho rằng, bây giờ nguyên nhân của mọi nguyên nhân vẫn là vấn đề cán bộ; con người là quyết định hết thảy. Chúng ta nói mãi mà tổ chức cứ phình ra, bộ máy thì chồng chéo, biên chế thì tăng lên, lương thì bất hợp lý cho nên phải gỡ từ công tác tổ chức, cán bộ. Cũng có ý kiến cho rằng, hiện nay thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân xác định không rõ, nên nhiều vụ việc không xử lý được vì không ai chịu trách nhiệm; có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, thành tích thì nhận của cá nhân, còn khuyết điểm thì đổ cho tập thể; vì vậy vấn đề phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân là vấn đề cấp bách nhất. Mỗi ý kiến đều có khía cạnh hợp lý, đều quan trọng và cấp bách cả, không thể coi nhẹ vấn đề nào. Tuy nhiên, đứng trên tổng thể mà xét, hiện nay cái làm cho quần chúng oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng. Cho nên, 3 vấn đề đã nêu đều quan trọng và có liên quan mật thiết với nhau, nhưng Trung ương thống nhất xác định vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất. Đây chính là khâu đột phá trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng hiện nay, là “mắt xích” chủ yếu mà chúng ta cần nắm lấy, song trong chỉ đạo không được coi nhẹ 2 vấn đề kia.
III./. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết
Như trên đã nói, lần này Trung ương đổi mới cách ra Nghị quyết. Bản Nghị quyết được viết ngắn gọn, nhưng chứa đựng nhiều nội dung cơ bản và quan trọng, có nhiều điểm mới, chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề cấp bách đã được xác định. Trên cơ sở đó, đi thẳng vào đánh giá tình hình, phân tích nguyên nhân, chỉ rõ mục tiêu, phương châm, các giải pháp tiến hành và cách tổ chức thực hiện. Đề nghị các đồng chí đọc, nghiên cứu trực tiếp. Tôi chỉ nhấn mạnh thêm một số điểm :
1- Về đánh giá tình hình và nguyên nhân
Việc đánh giá tình hình thường rất khó, vì nó tuỳ thuộc vào chỗ đứng, góc nhìn, cách nhìn, lượng thông tin có được của mỗi người. Thực tế khi thảo luận ở Hội nghị Trung ương và xin ý kiến đóng góp của một số tập thể và cá nhân, có một số ý kiến cho rằng, Đề án chưa thể hiện tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, còn né tránh, chưa thấy hết mức nghiêm trọng của những yếu kém, khuyết điểm, tình hình nghiêm trọng hơn nhiều. Một số ý kiến khác lại cho rằng, Đề án nêu phần khuyết điểm quá nặng nề, đen tối, tình hình Đảng không đến mức như vậy; nếu xấu như vậy thì tại sao những năm qua chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn mà cả thế giới thừa nhận, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao ? Nói thế nào cho khoa học, đúng mức, không nên tự bôi nhọ mình, để kẻ xấu lợi dụng. Nó đang muốn phá vỡ niềm tin, bôi xấu mình thì mình lại tự làm mất uy tín của mình, như thế thì có khác nào tiếp thêm đạn cho địch bắn.
Trung ương yêu cầu cần phải có phương pháp nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, biện chứng, khoa học, nhìn thẳng vào sự thật, bình tĩnh, không phiến diện, không tô hồng và cũng không bôi đen; chỉ ra cả mặt thành tựu và yếu kém; phân tích toàn diện cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Thực tế có đến đâu nói đến đấy, không nên thổi phồng, cường điệu một mặt nào.
Với những nguyên tắc phương pháp luận đó, Trung ương đã chỉ rõ, trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một Đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng… Trong thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững; niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hầu hết ý kiến đề nghị là phải khẳng định mạnh mẽ thành tựu, ưu điểm, bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng của Đảng ta. Phải khẳng định phần lớn cán bộ, đảng viên ta rất tốt; nếu không tốt thì làm gì có thành tựu như bây giờ. Thực tế lịch sử không thể phủ nhận được là, hơn 80 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình chính là bằng bản lĩnh, nghị lực; trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho dân tộc; bằng sự hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Tổ quốc ta, dân tộc ta chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay, chưa bao giờ có được vị thế trên trường quốc tế như hiện nay.
Tuy nhiên, Trung ương cũng thẳng thắn vạch ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trên cả 3 vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, chỉ ra tính chất, phạm vi, xu thế và hậu quả của những yếu kém, khuyết điểm đó. Phải nói, về tính chất, là nghiêm trọng, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục. Về phạm vi, là tương đối phổ biến, có ở các cấp, các ngành (“một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”). Về xu hướng, là diễn biến phức tạp, chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Về hậu quả, là làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; làm suy giảm vị trí, vai trò, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng; làm tổn hại tới uy tín, thanh danh của Đảng, Nhà nước. Những khuyết điểm đó nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ ta.
Trên vấn đề thứ nhất, Trung ương đã nghiêm khắc chỉ ra những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và suy thoái về đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị thể hiện ở chỗ : phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ : sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… Trong những biểu hiện đó, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm… ở một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, đương chức, hoặc thôi chức.
Trên vấn đề thứ hai, Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một số khuyết điểm trong công tác tổ chức, cán bộ. Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa xây dựng được quy hoạch ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
Trên vấn đề thứ ba, Trung ương chỉ ra tình trạng không rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị và mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị, ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho các việc làm tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Về nguyên nhân của yếu kém, khuyết điểm : Trung ương xem xét khá toàn diện, chỉ ra cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Các nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động lẫn nhau, xuyên thấm vào nhau rất phức tạp. Đáng chú ý là :
+ Nguyên nhân về sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; cán bộ lãnh đạo, quản lý không gương mẫu.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, không ít nơi có tình trạng dân chủ hình thức; tập thể là “bình phong” để hợp thức hoá ý kiến của thủ trưởng, mà thực chất là gia trưởng, độc đoán. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện rất kém, thiếu thẳng thắn, trung thực; xuê xoa, nể nang. Trong hội nghị thì nhất trí nhưng ra ngoài nói khác hoặc không thực hiện. Khi đương chức thì không nói hoặc nói kiểu này, khi nghỉ chức vụ hoặc về hưu lại nói kiểu khác. Khi còn phụ trách thì không được góp ý kiến nhưng khi nghỉ hưu, hoặc chuyển công tác thì có rất nhiều đơn, thư tố cáo. Mặt khác, lại có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật; kỷ cương không nghiêm. Có tình trạng vi phạm nguyên tắc sinh hoạt đảng, tán phát “tờ rơi”, thư nặc danh, đưa tin đồn để nói xấu, đả kích, làm mất uy tín nhau, gây nghi ngờ, chia rẽ nội bộ; thậm chí núp đằng sau xúi quần chúng đấu tranh.
+ Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên. Công tác nghiên cứu lý luận còn bất cập, lạc hậu, chưa giải đáp được nhiều vấn đề lý luận – thực tiễn còn vướng mắc hoặc ý kiến khác nhau. Tình trạng lười học tập hoặc học qua loa, đại khái, học đối phó, học cốt để lấy bằng còn xảy ra khá phổ biến.
+ Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc…
Từ sự phân tích trên đây, chúng ta có thể trả lời được câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao từ trước đến nay, Đảng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng, đã chỉ đạo nhiều cuộc vận động đổi mới, chỉnh đốn Đảng nhưng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta; do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân. Bác Hồ đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác, là giặc nội xâm, nó không mang gươm, mang súng nhưng vô cùng nguy hiểm, gian giảo, xảo quyệt; nó kéo người ta xuống dốc không phanh. Mọi thứ xấu xa, hư hỏng đều sinh ra từ căn bệnh này. Nếu không đánh bại, không quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì Đảng ta không thể trong sạch, vững mạnh được, không thể là một đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì dân được.
2- Về các nhiệm vụ và giải pháp
Trên cơ sở xác định 3 nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách như đã nêu trên, Trung ương chỉ ra các giải pháp bảo đảm đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách nhất. Có 4 nhóm giải pháp : (1) Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên. (2) Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng. (3) Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách. (4) Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Tinh thần toát lên trong các nhóm giải pháp đó là cần xác định những việc cần và có thể làm ngay và những việc cần phải có thời gian chuẩn bị, nhất là về xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, để xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện một cách kiên quyết, khả thi, hiệu quả.
Những việc cần và có thể làm ngay là : Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là từng đồng chí Uỷ viên Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình, tự điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình; cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiến hành kiểm điểm, đánh giá, làm rõ trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đẩy mạnh chỉ đạo việc học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống. Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giải quyết từng vấn đề cấp bách, những việc cần làm ngay, xác định rõ về công việc, thời gian hoàn thành và người chịu trách nhiệm cụ thể. Nghiêm túc thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý dứt điểm một số vụ việc mà dư luận quan tâm; cải tiến, nâng cao chất lượng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với những việc cần phải có thời gian chuẩn bị thì khẩn trương, nghiên cứu, tổng kết, đề xuất để đi đến quyết định và thực hiện. Ví dụ : Phải khẩn trương đổi mới công tác tổ chức cán bộ, chế độ sinh hoạt Đảng; kiểm tra, giám sát việc tự rèn luyện và giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhất là chính sách đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ cho phù hợp với điều kiện mới. Xây dựng quy định cụ thể về việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh thực hiện chất vấn trong Đảng. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, gắn với việc tổ chức thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; có cơ chế giám sát chặt chẽ của tổ chức đảng và nhân dân, kịp thời thay thế những người không hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, bảo đảm cho cán bộ, công chức có mức sống ổn định và có điều kiện để giữ liêm, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi.
Trong các nhóm giải pháp, có một số điểm mới là:
1- Các giải pháp bảo đảm tính đồng bộ, nhưng cũng rất tập trung, có lộ trình, kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, hướng vào giải quyết ba vấn đề bức xúc nhất, với mong muốn tạo được sự chuyển biến cụ thể, rõ rệt trong thực tế.
2- Nêu cao và rất nhấn mạnh sự tự phê bình và phê bình, sự gương mẫu của cấp trên, của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trước hết là cấp trung ương và người đứng đầu các ngành, các cấp, các đơn vị. Nghị quyết nói rõ là : “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để cho các cấp noi theo”. “Các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí uỷ viên ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương Đảng, ban thường vụ các tỉnh uỷ, thành uỷ và cấp uỷ các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế”.
3- Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình được quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Nội dung chủ yếu tập trung vào 3 vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết lần này gắn với việc thực hiện 19 điều đảng viên không được làm và việc giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm ở địa phương, đơn vị, ngành mình. Về cách làm thì từng đồng chí cấp uỷ, từng cán bộ, đảng viên phải chủ động, tự giác xem lại mình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, không chờ đến khi tổ chức hội nghị kiểm điểm. Trước khi mở hội nghị kiểm điểm phải chuẩn bị thật kỹ, phải tổ chức lấy ý kiến góp ý của cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội cùng cấp và các đồng chí nguyên là cấp uỷ viên cùng cấp. Uỷ ban kiểm tra chủ trì phối hợp với ban tổ chức, ban tuyên giáo, ban dân vận, văn phòng và các cơ quan liên quan kiến nghị với cấp uỷ (hoặc thường vụ cấp uỷ) nội dung gợi ý kiểm điểm cho tập thể, cá nhân ở những nơi cần thiết. Sau khi kiểm điểm, báo cáo kết quả với cấp trên và thông báo với cấp dưới và các cơ quan lấy ý kiến góp ý. Cấp uỷ, tổ chức đảng nào, cán bộ, đảng viên nào kiểm điểm tự phê bình và phê bình không đạt yêu cầu phải kiểm điểm lại; kiên quyết xử lý kỷ luật những cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không tự giác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, không tự nhận sai lầm, khuyết điểm, không khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm đã được nêu ra. Những trường hợp có vi phạm, tự giác kiểm điểm, tự phê bình nghiêm túc, tích cực sửa chữa, khắc phục, sẽ được xem xét giảm hoặc miễn xử lý kỷ luật. Sau đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương lần này sẽ duy trì nghiêm túc nền nếp, chế độ tự phê bình, phê bình hằng năm gắn với kiểm điểm theo chức trách, nhiệm vụ được giao và lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Định kỳ hằng năm, cấp uỷ, tổ chức đảng có hình thức thích hợp thông báo kết quả kiểm điểm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, đóng góp ý kiến. Định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội các cấp.
Làm tốt việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình sẽ có căn cứ để hiểu rõ thêm cán bộ, đánh giá, xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị và chuẩn bị quy hoạch cấp uỷ, các chức danh chủ chốt các cấp nhiệm kỳ tới. Quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Đồng thời kiến nghị với Quốc hội sớm có hướng dẫn để thực hiện quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
4- Xúc tiến việc xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 – 2020; tích cực tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý chủ trì cấp trên nói chung phải qua chức vụ lãnh đạo quản lý chủ trì ở cấp dưới.
5- Xây dựng và thực hiện một số quy chế bảo đảm phát huy hơn nữa dân chủ trong Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Triển khai thực hiện việc chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp uỷ các cấp. Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản theo quy định; kê khai phải trung thực và được công khai ở nơi công tác và nơi cư trú. Xử lý nghiêm người kê khai không đúng. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Ban hành quy chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; ban chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên ban thường vụ cấp uỷ cấp mình.
Uỷ ban kiểm tra các cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý trong việc chấp hành các quy định của Đảng và Nhà nước; hằng năm có báo cáo kết quả thực hiện của cán bộ thuộc cấp uỷ quản lý trong việc chấp hành quy định của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức. Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi.
6- Về công tác cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ, làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã, cấp huyện; gắn với xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực sự có hiệu quả, ngăn chặn sự lạm quyền, độc đoán. Sơ kết, rút kinh nghiệm để có chủ trương về việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu cấp uỷ có số dư. Thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Thí điểm việc giao quyền cho bí thư cấp uỷ lựa chọn, giới thiệu để bầu cử uỷ viên thường vụ cấp uỷ; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản lý; thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
7- Về cách triển khai thực hiện Nghị quyết, lần này nhấn mạnh vai trò của đồng chí bí thư cấp uỷ. Đồng chí bí thư cấp uỷ, tổ chức đảng phải trực tiếp nghiên cứu, phổ biến, quán triệt Nghị quyết và chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện Nghị quyết tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Phân công một số đồng chí thường trực chỉ đạo. Ở Trung ương gồm Tổng Bí thư, đồng chí Thường trực Ban Bí thư, các đồng chí Trưởng Ban Tổ chức, Kiểm tra, Tuyên giáo, Dân vận; ở cấp tỉnh, thành phố và các đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương cũng làm tương tự như vậy.
IV./.Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” là một nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt. Nghị quyết đã được toàn Đảng, toàn dân rất hoan nghênh và tán thành, coi như đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống chính trị của đất nước. Tuy nhiên, tâm lý chung hiện nay là đang chờ đợi, chờ đợi và hy vọng. Vấn đề quyết định bây giờ là khâu tổ chức thực hiện Nghị quyết. Tinh thần chung của Trung ương là quyết tâm thực hiện, khó mấy cũng phải thực hiện. Bộ Chính trị đã có Chỉ thị và sẽ có Kế hoạch triển khai thực hiện, nêu rõ các yêu cầu, công việc, lộ trình, thời gian, cách thức và các bước tiến hành cụ thể. Tôi chỉ xin lưu ý một số điểm chung sau đây :
- Phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm, trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm, thấy đầy đủ trách nhiệm của mình để gương mẫu, tự giác thực hiện và chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết trên mỗi cương vị công tác tại địa bàn, lĩnh vực do mình phụ trách.
- Ngay sau khi kết thúc Hội nghị cán bộ này, Bộ Chính trị sẽ chỉ đạo tiếp thu ý kiến của các đồng chí, hoàn chỉnh và ban hành sớm kế hoạch của Bộ Chính trị về việc thực hiện nghị quyết của Trung ương; chỉ đạo các ban đảng Trung ương tiếp thu ý kiến của Hội nghị để sớm ban hành các văn bản hướng dẫn phù hợp với từng mảng công việc. Căn cứ vào Nghị quyết của Trung ương, Chỉ thị và Kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo hướng dẫn của các ban đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp, các ngành phải xây dựng kế hoạch, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, ngành mình. Phải làm rất khẩn trương, nghiêm túc, thiết thực; có sự phân công trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, chặt chẽ.
- Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là người đứng đầu, người chủ trì phải tự giác, gương mẫu làm trước (ngay sau Hội nghị này, không phải chờ gì cả) tự kiểm điểm, soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình. Mọi đảng viên đều phải làm như vậy, chứ không phải chỉ đứng ngoài mà “phán”, hoặc “chờ xem”, coi như mình vô can.
- Phải thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp một cách đồng bộ, tổng hợp đồng thời có trọng tâm, trọng điểm; bao gồm cả việc thực hiện 8 nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, các quy định khác của Đảng và Nhà nước; kết hợp giữa “xây và chống”, “chống và xây”. Nêu gương những người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái; đấu tranh mạnh mẽ chống tham nhũng, hư hỏng, tiêu cực; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, cán bộ; công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán của các cơ quan chức năng; nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò giám sát của nhân dân, các đoàn thể, của báo chí, công luận.
- Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần được chuẩn bị thật chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận trọng; làm đến đâu chắc đến đó, đạt kết quả cụ thể, thực chất. Hết sức tránh làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang, thậm chí biến cuộc họp tự phê bình và phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; cũng như tình trạng lợi dụng dịp này để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình và vu cáo người khác. Kinh nghiệm cho thấy, muốn tự phê bình và phê bình có kết quả tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến phê bình đúng đắn. Những trường hợp sai phạm nghiêm trọng mà không thành khẩn, không tự giác, tập thể giúp đỡ mà không tiếp thu thì phải xử lý thích đáng. Thái độ nể nang, hữu khuynh, “ngậm miệng ăn tiền” hoặc thái độ cực đoan, muốn lợi dụng phê bình để đả kích người khác, gây rối nội bộ, đều là không đúng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi mỗi người phải có tinh thần tự giác rất cao, có tình thương yêu đồng chí thật sự và phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân tình. Đây cũng là dịp để hiểu thêm cán bộ, có cơ sở để đánh giá cán bộ, xem xét kết hợp chuẩn bị quy hoạch cán bộ cho thời gian tới.
- Phải đặt việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng trong tổng thể thực hiện các nghị quyết khác của Trung ương, của Quốc hội, của Chính phủ…, nói rộng ra là trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cả hệ thống chính trị, bảo đảm thúc đẩy việc hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh – quốc phòng, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại… chứ không phải “đóng cửa” để chỉnh đốn Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là để làm cho Đảng ta ngày càng mạnh hơn; cán bộ, đảng viên gương mẫu hơn; tổ chức đảng có sức chiến đấu cao hơn; đoàn kết nội bộ tốt hơn; gắn bó với nhân dân mật thiết hơn; thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt kết quả cao hơn; chứ không phải ngược lại.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người, đòi hỏi mỗi người phải tự phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không thật tự giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của người khác nhiều hơn mình. Vì vậy, thường rất khó, rất phức tạp. Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đảng ta đã làm, làm nhiều, làm thường xuyên và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nếu không làm thì không có được những thành quả như ngày nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, trước thực trạng một số yếu kém, khuyết điểm, hơn lúc nào hết, Đảng ta càng phải đặc biệt coi trọng hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng như Đại hội XI và Hội nghị Trung ương 4 đã chỉ ra, tạo bước chuyển thực sự trong công tác này. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là : tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại. Có những việc không thể chỉ làm một lần là xong. Ngược lại, phải làm rất kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục; làm đi làm lại nhiều lần như đánh răng, rửa mặt hằng ngày. Có khi giải quyết xong vấn đề này lại nảy sinh vấn đề khác, làm được việc này lại xuất hiện việc khác. Nếu không xác định như vậy thì mỗi khi thấy có sự việc tiêu cực trong Đảng dễ mất bình tĩnh, nảy sinh tư tưởng bi quan, hoài nghi, hoặc mất niềm tin, phủ nhận mọi sự cố gắng và kết quả chung.
Thưa các đồng chí,
Những nội dung trình Hội nghị cán bộ toàn quốc lần này là những vấn đề rất cơ bản và hệ trọng. Thời gian Hội nghị không nhiều, đề nghị các đồng chí nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung dành thời gian nghiên cứu, thảo luận, góp ý kiến để tạo thống nhất cao trong việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tin tưởng rằng, với truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng ta, với quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, lại được nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4, tạo bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi xin gửi đến các đồng chí lời chúc sức khoẻ, hạnh phúc, nhiều niềm tin mới, khí thế mới. Chúc hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.
VietNamNet
Nguoibuongio – Dạy con thế nào ?
Nguoibuongio -Một sáng thứ bảy, lâu lắm rồi mới ra Hồ Gươm. Nhìn thấy Hồ Gươm câu đâu tiên Tí Hớn hỏi bố. - Bố ơi ! Bố đi ra Hồ Gươm công an nhìn thấy bố có bắt không.?- Chắc không con à. Làm sao họ biết bố ra đây mà bắt.
- Con bảo này, bố mà trùm cái mũ lên đầu, công an không thấy được bố đâu.
- Con đừng nghĩ như thế, bố con mình ra đây đi chơi, làm gì mà bị bắt.
Đưa con vào Nguyễn Xí để Tí Hớn tự chọn sách, bố đứng ngoài hút thuốc nhìn quanh. Hà Nội thanh bình, xa xa bên cái nhà quái gì cổ kính góc xế bưu điện trông sang . Nhà gì tự nhiên không nhớ tến, Báo Thiên , Báo Ân hay Báo Oán gì đó mấy cô gái đang làm dáng cho các chàng trai chụp ảnh. Ồ Hồ Gươm thật yên bình, không có ” những tốp người đi hò hét làm mất đi vẻ bình yên” như lời mấy bọn hưu trí nói trên ti vi.
Hôm trước báo chí nói ngư dân lại bị tàu Trung Quốc bắn giết, cái tin ấy chìm nghỉm trong mớ những ngôi sao lộ hàng, sao lỡ lời, thậm chí là mẹ hay người yêu của sao cũng được nêu. Rồi những đại gia sắm siêu xe, những diên viên, ca sĩ, người mẫu sắm hàng hiệu chục nghìn usd. Cô em làm tờ báo lớn nói – tin thế mới nhiều viu anh à, mà bọn em làm gì thì cứ phải nhiều viu đã thì mới ăn tiền quảng cáo mà sống được. Em cũng chán cái nghề này lắm rồi.
Bỗng nghĩ không nên trách dân nghèo thờ ơ với chủ quyền đất nước. Làm sao mà họ thiết tha với chủ quyền khi còn nhọc nhằn kiếm miếng cơm , manh áo. Làm sao trong cảnh khốn khó ấy người dân nghèo chỉ thấy siêu sao, ca sĩ, đại gia tiêu hàng tỉ vào xe hơi vào cái cây cảnh, chúng ta đòi hỏi họ phải quan tâm đến đất nước. Vậy là đứa giàu thì chả cần quan tâm, vì quan tâm làm gì khiến chúng mất đi cảm hứng khi sắm cái cây, cái xe. Còn đứa nghèo thì càng chả cần quan tâm, tại sao họ phải quan tâm khi đang lê la trên đường phố kiếm bữa cơm, trong khi xã hội đầy đứa giàu có đang ăn tiêu xa xỉ, được báo chí ca ngợi như đó là ước mơ, là nỗi thèm thuồng của bao người.
Đến giờ vào chỗ ra mắt sách của cô em Tâm Phan. Buổi ra mắt sách khá đông người dự, các nhà văn đàn anh Thọ, Tiến, Trang Hạ lên phát biểu cảm tưởng. Anh Phạm Xuân Nguyên dẫn chương trình, độc giả thi nhau hỏi tác giả, giao lưu rất ấn tượng. Ngồi ôm con chạnh lòng nghĩ đến cuốn sách của mình. Cùng là một cuốn sách mà số phận khác nhau, như số phận con người vậy. Anh Nguyên đến vuốt má Tí Hớn hỏi – Thằng Tí Hớn đây à, rồi nói – Gió lên phát biểu vài câu nhé- Lắc đầu- Thôi anh ạ, em lên làm gì rồi phức tạp ra- Anh Nguyên bảo – Phát biểu về văn chương, có gì mà ngại. Vẫn lắc đầu- thôi em còn phải trông con.
Được nửa chừng buổi ra mắt sách hai bố con đi về, đi bộ dọc từ Tràng Tiền về đến đài Cảm Tử. Tí Hớn chỉ quán cà fe nói- quán kia có kem đấy, lần trước đi biểu tình bác H dẫn con vào đó ăn kem. Biết ý con nhắc khéo đòi ăn kem, dẫn con sang. Tí Hớn gọi kem rồi kể với cô bán hàng, cháu biết đây có kem vì lần trước cháu đi biểu tình được ăn ở đây đấy. Cô bán hàng cười nhăn mặt – Thế là cháu làm cô bị đóng cửa đấy, vì có biểu tình công an không cho bán hàng nữa. Tí Hớn nói não nề – Ai cũng sợ biểu tình bố ạ. Thôi bố đừng đi biểu tình nữa.
Điện thoại của một cô em làm phim gọi, cô đến ngay sau đó, cô ngồi than thở về kinh phí làm phim eo hẹp, chuyện diễn viên, chuyện kịch bản, đạo cụ..nhưng rồi thì cô em vẫn nói là viết kịch bản truyền hình ngon lắm, chịu khó viết mà viết thì tuần năm hay bảy triệu dễ ợt. Hay là em đưa cái khung sẵn, anh chỉ việc viết dựa trên khung đó nhé.
Rời khỏi quán cà fe, chia tay với cô em làm phim. Con nắm tay bố đi, bố chỉ cái gốc cây xa cừ nói – Hồi bố 8 tuổi, bà nội bán dép ở đây, bố thường mang cơm ra và trông hàng cho bà. Lúc đó ở đây không có những hàng giày dép kia đâu. Tí Hớn hỏi, thế mưa thì làm sao hả bố. Chỉ tay về khoảng tượng đài cảm tử nói. Hồi đó không có những bức tượng kia, gần đó có một cái nhà trống, chỉ có mái mà không có tường, mái dựng trên những chiếc cột. Mưa thì vào đó trú.
Về đến Phất Lộc thấy hàng bánh trôi, Tí Hớn sà vào ăn. Bà bán bánh trôi không lấy tiền lại còn đút cho Tí Hớn từng viên bánh tròn. Ăn xong Tí Hớn sang hàng kẹo ngắm nghía cái lọ kẹo. Bà bán kẹo mắng – Cha cái thằng Tí Hớn. Rồi bà lấy kẹo cho Tí Hớn, bố trả tiền bà không lấy. Tí Hớn vào nhà thì cô Thủy đưa nó tập vở bảo – Có ai mang cho Tí Hớn tập vở đây này. Tí Hớn xem vở rồi ồ lên thích thú nói-
Ôi vở này có chữ Hoàng Sa, Trường Sa này bố ơi. Sao ai cũng quý con thế nhỉ ?
Bố cầm tập vở trên tay, hình ảnh đầu tiên bố nghĩ là bác Hằng đứng ở Hồ Gươm hô vang
- Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam
Và hình ảnh bác ấy đi giữa hai người công an trong trại giáo dục, bác gầy và đen. Rồi bố nghĩ lúc hai bố con nhìn thấy Hồ Gươm, con nói – Công an thấy bố ra đây có bắt không ?
Bố định sẽ bảo con quên Hoàng Sa , Trường Sa khỏi đầu đi. Con hay học giỏi, kiếm nhiều tiền, mua xe hơi, mua nhà, sắm hàng hiệu…thế là con đã yêu nước rồi. Có ai mắng họ là không yêu nước đâu, chả ai mắng họ là mua sắm xa xỉ thế làm gì, không bỏ tiền ra mà giúp cho Hoàng Sa, Trường Sa cả. Vì tiêu những đồ xa xỉ như thế là phải đóng thuế nhiều, tiền thuế vào tay nhà nước. Thế là góp tiền đóng cho nhà nước nhiều thì là yêu nước. Chuyện yêu nước đơn giản có thế thôi. Và Hoàng Sa- Trường Sa thế nào thì sẽ có nhà nước lo. Chưa có kẻ tham nhũng, ăn tiêu xa hoa nào bị gọi là ” phản động” cả. Nhưng những người dân bình thường đã từng hô vang Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam thì bị gọi là phản động rất nhiều. Người ta hỏi ” hô thế có lấy được Hoàng Sa, Trường Sa không mà hô’. Câu này đáng ra phải nói là ” hô thế có đóng được đồng nào vào ngân sách nhà nước không, hay chỉ làm tốn ngân sách thêm khi nhà nước phải huy động dân phòng, công an, xe buýt đi giải
quyết tốn kém thêm ngân sách, mà đã không đóng lại còn làm tốn thêm ngân sách thì rõ là phản động rồi ”. Tóm lại hãy yêu nước theo những gì nhà nước này bảo, đừng yêu nước theo con tim mình bảo. Ngắn gọn chỉ có thế.
Nhưng khi đó, con trai của con sà vào hàng bánh trôi, vào hàng kẹo. Chưa chắc đã thốt lên – Ôi sao ai cũng quý con thế nhỉ ?. Cái giá đắt hay rẻ ở cuộc đời, không phải ở một bên là xe hơi , hàng hóa xa xỉ một bên là trại giáo dục. Giá phải trả đắt hay rẻ tùy theo quan niệm của mỗi người. Nhưng ở trong quan niệm một người bố, trả giá thế nào để con trai mình khi tiếp xúc với hàng xóm, người quen phải thốt lên rằng
- Ôi sao ai cũng quý con thế nhỉ ?
Đó cũng là một cái giá không xoàng xĩnh chút nào.
Kiểm tra bác Tổng
Biếm hoạ PHO (Danlambao)
Tự do tôn giáo theo kiểu của Việt Nam
Vũ Nhật Khuê (Danlambao) - Chỉ
có những đất nước không có tự do tôn giáo mới có công an chuyên trách
về tôn giáo. Như kiểu Hồi Giáo Iran thì bắt những ai không theo đạo Hồi.
Còn nhà nước Việt Nam thì không từ một tôn giáo nào. Hễ chức sắc tôn
giáo nào không làm theo ý họ là bắt giam. Ngay cả dàn dựng những hành vi
bỉ ổi để vu khống nhằm bắt giam các chức sắc tôn giao thì không có trò
gì mà cộng sản Việt Nam không gớm tay. Nhiều chức sắc tôn giáo đến tỵ
nạn ở Phương Tây hiện nay là những nhân chứng sống về chính sách bắt bớ
tôn giáo ở Việt Nam…
Ngày 28.2.2012 tại Hà Nội có hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện chỉ
thị 01/2005/ CT-TTg và 3 năm chỉ thị 1940/CT-TTg của thủ tướng chính
phủ. Hội nghị này liên quan đến tôn giáo và với mục tiêu: “Ngăn chặn lợi dụng tôn giáo làm tổn hại đến quốc gia”.
Chỉ thị 01/2005/ CT-TTg do thủ tướng Phan Văn Khải ký năm 2005 nhằm
cởi trói cho đạo Tin Lành sau khi có nhiều cáo buộc bắt bớ đạo Tin Lành
ở Tây Nguyên và Tây bắc Việt Nam. Nhờ cái chỉ thị này mà Việt Nam thoát
khỏi danh sách những nước đặc biệt quan ngại về tôn giáo (CPC) của Bộ
ngoại giao Hoa Kỳ.
Chỉ thị 1940/2008/CT-TTg do thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký năm 2008 về quản lý nhà đất của các cơ sở Tôn Giáo.
Hội nghị ngày 28.2.2012 ngay sau khi một tướng công an được bổ
nhiệm làm trưởng ban tôn giáo chính phủ gây ồn ào dư luận. Hiện nay Ban
tôn giáo chính phủ thuộc Bộ Nội Vụ. Trước đây Ban tôn giáo chính phủ có
trụ sở 55 Tràng Thi- Hà Nội là một cơ quan ngang bộ.
Trung tướng Phạm Dũng, Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương,
Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh II, Bộ Công an,
được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ.
Chỉ đạo Hội nghị về tôn giáo ngày 28.2.2012 là Phó thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc, ông Phúc hiện là ủy viên cao cấp của Bộ Chính Trị. Ông Phúc
là dân Quảng Nam có mối quan hệ với người vợ thứ 3 của ông Lê Đức Anh
tại huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.
Các hội nghị tổng kết của nhà nước Việt Nam về một chính sách nào bao giờ cũng “thành công tốt đẹp” kế hoạch được giao.
Tại sao chỉ có Chỉ thị của Thủ tướng về Đạo Tin lành mà không có
chỉ thị về Đạo Phật, Đạo Cao Đài hay các tôn giáo đang bị khủng bố hiện
nay như là Hòa Hảo, Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất? Lyw do là để đối phó
với những cáo buộc của Phương Tây về bắt bớ Đạo Tin lành. Sau chỉ thị
01/2005 thì các tín hữu Tin lành ở Tây Bắc và Tây Nguyên vẫn bị bắt bớ.
Nhiều người Tin lành vẫn chạy trốn đến tận Bangkok để xin tỵ nạn tôn
giáo. Lần này có nguy cơ trở lại danh sách CPC nên chính phủ cộng sản
Việt Nam vội vã triệu tập các chức sắc tôn giáo về Hà Nội để tổ chức Hội
Nghị này nhằm biểu diễn cho thế giới biết tự do tôn giáo kiểu Việt Nam.
Chỉ thị 1940/2008 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về quản lý đất đai
tôn giáo nhưng 3 năm nay hết Thái Hà, Vinh, Quảng Bình, La Vang người
Công Giáo đứng lên đòi đất luôn bị phớt lờ. Người Tin Lành đòi gần 270
cơ sở tôn giáo bị nhà cầm quyền cộng sản chiếm từ năm 1975 đến nay thì
nhà nước Việt nam im re chưa có phản hồi nầo. Nhiều chùa chiền bị biến
thành trụ sở ủy ban, nhiều cơ sở tôn giáo bị biến thành tài sản của các
quan chức mặc cho các tôn giáo kêu gào cộng sản Việt Nam luôn im lặng.
Hội nghị tôn giáo ngày 28.2.2012 tại Hà Nội nhằm mục tiêu: “nhiệm
vụ trọng tâm là quán triệt, triển khai các chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước về tôn giáo cũng như tham mưu hoàn thiện chính sách pháp
luật về tôn giáo. Đồng thời, phát huy hơn nữa trách nhiệm, tập trung
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công tác này để ngăn chặn tình trạng
lợi dụng tôn giáo vào mục đích xấu, làm tổn hại đến an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội “. Các tôn giáo nào cũng chủ trương làm lành
lánh dữ, họ có tôn chỉ, đường hướng, mục tiêu hoạt động rõ ràng họ đâu
rãnh để tối ngày đi đấu tranh hay ra Hà Nội kêu gào nhà cầm quyền trả
lại tài sản và trả tự do cho các chức sắc tôn giáo bị bắt bớ. Nếu lợi
dụng tôn giáo thì chỉ có nhà nước cộng sản hiện nay lợi dụng các tôn
giáo để làm món hàng, làm con tin để đòi Phương Tây đáp ứng nhu cầu xảo
quyệt nào đó mà thôi.
Chỉ có những đất nước không có tự do tôn giáo mới có công an chuyên
trách về tôn giáo. Như kiểu Hồi Giáo Iran thì bắt những ai không theo
đạo Hồi. Còn nhà nước Việt Nam thì không từ một tôn giáo nào. Hễ chức
sắc tôn giáo nào không làm theo ý họ là bắt giam. Ngay cả dàn dựng những
hành vi bỉ ổi để vu khống nhằm bắt giam các chức sắc tôn giao thì không
có trò gì mà cộng sản Việt Nam không gớm tay. Nhiều chức sắc tôn giáo
đến tỵ nạn ở Phương Tây hiện nay là những nhân chứng sống về chính sách
bắt bớ tôn giáo ở Việt Nam.
Và hôm nay trước ngày bộ ngoại giao Hoa Kỳ ra báo cáo về tự do tôn giáo thì ở Việt Nam, tại Hà Nội có một hội nghị biểu diễn “tự do tôn giáo theo kiểu Việt Nam” .
Nhằm mùa bầu cử ở Hoa Kỳ thì chắc những ý định của cộng sản Việt Nam
muốn đem các tôn giáo trong tay họ ra làm món hàng trao đổi liệu có
thành công?
Thế giới tự do chắc chắn không chấp nhận kiểu ký hiệp ước một đường
nhưng thực hiện thì một nẻo. Việt Nam cộng sản cũng hiểu cho là một khi
họ đem anh ra khỏi danh sách CPC thì họ cũng có thể đem anh trở về danh
sách đen này.
*
Tin liên quan:
Ngăn chặn lợi dụng tôn giáo làm tổn hại đến quốc gia
4:32 PM, 28/02/2012
(Chinhphu.vn) – Ngày 28/2, Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức hội nghị tổng kết công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2011,
5 năm thực hiện Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và sơ
kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 1940/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao tinh thần
vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ của ngành quản lý nhà nước
về tôn giáo, những đóng góp của đồng bào có đạo đối với sự phát triển
của đất nước. – Ảnh: Chinhphu.vn
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự và chỉ đạo Hội nghị.
Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, công tác quản lý nhà nước
về tôn giáo năm 2011 đã tập trung quán triệt, triển khai các chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham mưu hoàn thiện chính sách, pháp
luật về tôn giáo. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo được đẩy mạnh; việc phối hợp đấu tranh chống lợi dụng
tôn giáo, bảo vệ và đấu tranh nhân quyền, đối ngoại tôn giáo đạt nhiều
thành quả.
Các hoạt động trên đã tạo được sự đồng thuận trong chức sắc tôn
giáo, tín đồ các tôn giáo đối với chủ trương, chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước.
Các đại biểu dự hội nghị. – Ảnh: Chinhphu.vn
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, năm 2012, ngành quản lý Nhà
nước về tôn giáo các cấp cần xác định các nhiệm vụ trọng tâm là quán
triệt, triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về tôn
giáo cũng như tham mưu hoàn thiện chính sách pháp luật về tôn giáo. Đồng
thời, phát huy hơn nữa trách nhiệm, tập trung tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về công tác này để ngăn chặn tình trạng lợi dụng tôn giáo vào
mục đích xấu, làm tổn hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội…
Phó Thủ tướng cũng đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cần quan tâm
tạo điều kiện về cơ sở vật chất, tổ chức bộ máy, tiền lương cho cán bộ
làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo; đội ngũ cán bộ ngành quản lý
Nhà nước về tôn giáo cần tăng cường trao đổi thông tin với các cơ quan
hữu quan, lắng nghe nhu cầu của người có đạo để làm tốt công tác quản lý
nhà nước về vấn đề này.
Lê Sơn
Thư gửi giới chức Mỹ nhằm tìm tự do cho Tù nhân Chính trị Việt Nam
29 tháng 2 năm 2012
Kính gửi: Dân Làm Báo
Tôi là Trần Văn Huỳnh, cha của tù nhân chính trị Trần Huỳnh Duy Thức – người đã tranh đấu vì quyền con người cho Việt Nam để đất nước có thể trở nên dân chủ và thịnh vượng.
Hôm 26 tháng 2 vừa rồi tôi đã gửi đến bà Ngoại trưởng Hoa Kỳ và một số quan chức lập pháp và hành pháp của nước này nhằm kêu gọi sự hỗ trợ cần thiết cho việc trả tự do cho tất cả tù nhân chính trị tại Việt Nam.
Tôi xin được chuyển bức thư này đến Dân Làm Báo, đề nghị Dân Làm
Báo giúp phổ biến để nó có thể nhanh chóng đến được với những người quan
tâm vì đất nước với hy vọng mong ước trên của chúng ta sớm thành hiện
thực.
Xin cảm ơn Dân Làm Báo và kính chào.
Trần Văn Huỳnh
*
Bản tiếng Anh – English version here
*
Việt Nam, ngày 26 tháng 2 năm 2012
Kính gửi: Quý bà Hillary Rodham Clinton
Ngoại trưởng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ
Đồng kính gửi: Các tổ chức Bảo vệ Nhân quyền Quốc tế
V/v: “Cần trả tự do cho mọi tù nhân chính trị ở mọi nơi”
Thưa bà Clinton,
Tôi là Trần Văn Huỳnh, một công dân Việt Nam 75 tuổi, cha của Trần Huỳnh Duy Thức – một tù nhân chính trị đã bị kết án 16 năm tù cùng với luật sư Lê Công Định, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, kỹ sư và doanh nhân Lê Thăng Long và đại tá Trần Anh Kim trong một vụ án “lật đổ chính quyền nhân dân”
vào năm 2010. Vụ án này đã bị lên án gay gắt bởi bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
và nhiều chính phủ khác cùng với các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế.
Trước hết, tôi viết thư này thay mặt cho con trai tôi, Trần Huỳnh
Duy Thức để nêu lên quan ngại gửi đến bà và các tổ chức quốc tế khác về
những nguy cơ đe dọa hòa bình thế giới. Trong những lần thăm con tại nhà
tù trong 6 tháng qua, Thức nhiều lần đề nghị tôi cần làm gì đó để cộng
đồng quốc tế nhận ra một chiến lược hiệu quả có thể đảm bảo hòa bình cho
thế giới vốn đang ngày càng bị đe dọa bởi những tranh chấp trên biển
Đông của Việt Nam. Thức đã thấy trước sự xung đột này nhiều năm trước
khi nó dẫn đến sự căng thẳng cao độ kéo theo 11 cuộc tuần hành của những
nhà yêu nước từ hồi giữa năm ngoái. Thức hoan nghênh “Thế kỷ Thái bình dương của Mỹ”
mà bà đã giới thiệu và sự hiện đại hóa hiện diện quốc phòng của Mỹ
Xuyên Châu Á Thái Bình Dương. Nhưng Thức cho rằng, nếu không có đủ những
nỗ lực cần thiết và tập trung được đưa vào đúng chỗ và đúng lúc để biến
Việt Nam nhanh chóng trở nên dân chủ và thịnh vượng thì đất nước chúng
tôi sẽ dễ trở thành một điểm lan xung đột có thể kích hoạt những cuộc
chiến thảm họa cho thế giới. Do vậy, Thức tin rằng một Việt Nam dân chủ
thực sự sẽ là một căn cứ chiến lược cho hòa bình thế giới.
Bà có thể đọc ý tưởng này của Thức ở một bài báo đính kèm “Kỷ sửu và vận hội mới cho Việt Nam” được
Thức viết cách đây 3 năm, và rất phổ biến trên Internet vào lúc đó,
đồng thời nhận được nhiều ý kiến hoan nghênh từ công chúng. Tôi đọc thấy
từ bài báo này nhiều quan điểm được chia sẻ và ủng hộ bởi Tổng thống
Obama. Điển hình như ngài tổng thống đã nói rằng “Châu Á sẽ quyết định
chủ yếu rằng liệu thế kỷ phía trước sẽ là xung đột hay hợp tác, thống
khổ không cần thiết hay tiến bộ của nhân loại” khi phát biểu trước nghị
viện Úc vào tháng 11 năm ngoái. Tôi muốn ngài tổng thống biết rằng có
rất nhiều người Việt Nam tin vào thiện chí của ngài và đánh giá cao các
chiến lược của ngài cho khu vực. Do vậy tôi càng thấy rõ hơn nguy cơ mà
Thức cảnh báo. Và chính bởi những nguy cơ đó, bất chấp rủi ro cho riêng
mình, Thức và những người bạn là Định, Long và Trung đã dốc hết nỗ lực
để truyền bá về các quyền con người, nhà nước pháp quyền và sự tự tin
cho người dân chúng tôi. Vui lòng tham khảo những trích đoạn đính kèm từ
2 quyển sách: “Hành trình vào dân chủ và thịnh vượng“ và “Con đường Việt Nam“ về những gì mà họ đã cố gắng làm cho người dân chúng tôi hiểu rõ.
Nhiều người Việt Nam và tôi bây giờ thấy những nguy cơ đe dọa hòa
bình như vậy rõ ràng hơn bao giờ hết khi mà tình trạng ngặt nghèo kinh
tế hiện nay ở Việt Nam rất đúng như những gì Thức đã không tiếc sức
trong nhiều năm để cảnh tỉnh đất nước. Nhưng thật bất hạnh, những cảnh
báo đó đã không chỉ bị bỏ qua một cách thiếu trách nhiệm mà còn đã dẫn
tới cáo buộc Thức và những người bạn xâm phạm an ninh quốc gia một cách
mơ hồ. Tuy nhiên, tôi càng bị thuyết phục hơn bởi quan ngại của Thức và
thực sự tin vào điều đó. Tôi nghĩ rất nhiều người khác cũng vậy. Chính
thực tế này đã khiến tôi quyết định gửi đến Tổng thống Obama một bức thư
vào tháng 12 năm ngoái để ngài tổng thống chú ý đến quan ngại của Thức
cho Việt Nam và cho hòa bình thế giới. Và cũng chính vì tình hình đang
xấu đi hiện nay ở Việt Nam đã thúc giục tôi gửi bức thư này đến bà thay
con tôi để đề nghị sự quan tâm hơn nữa của bà đối với sự bảo vệ các
quyền phổ quát của con người cho Việt Nam. Tôi biết đây là vấn đề nhận
được cả sự quan tâm lẫn quan ngại của bà, và bà đã nói rất rõ với chính
phủ của chúng tôi rằng “Việt Nam phải làm hơn nữa để tôn trọng và bảo vệ các quyền cho công dân của mình”.
Bà cũng đã trực diện với Việt Nam về nhân quyền trong cả hai chuyến
công du của bà đến nước tôi trong năm 2010 và đã nhận được sự phản hồi
đại loại rằng “nhân quyền không nên bị áp đặt từ bên ngoài”.
Thứ hai, đó là vì sao tôi viết thư này cho bà để lên tiếng từ bên
trong nhằm bày tỏ khát vọng của chúng tôi đối với các quyền phổ quát của
mỗi con người và yêu cầu của chúng tôi được bảo vệ các quyền này để làm
sao những quyền đó thực sự là như nhau ở mọi nơi để chúng tôi được tận
hưởng các quyền vốn có tự nhiên này một cách công bằng ở Việt Nam. Chúng
tôi không chỉ muốn không phải thiếu thốn mà còn không phải bị sợ hãi,
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do tôn giáo
và tự do của công dân được lựa chọn người lãnh đạo của mình. Tôi chắc
rằng những khát vọng đó không chỉ của riêng tôi mà còn là của hàng chục
triệu người Việt Nam, những người sẵn sàng nói lên các yêu cầu
này nếu có được tự do tương tự như những gì mà đồng bào của chúng tôi ở
Hoa Kỳ đã sử dụng để yêu cầu chính phủ Obama gây sức ép để trả tự do
cho tất cả tù nhân chính trị ở Việt Nam từ hôm 8 tháng 2 đến nay.
Và chúng tôi lấy làm vui vì đây cũng là những yêu cầu mà bà ủng hộ vì bà đã nói: “Chúng
tôi tin rằng cần trả tự do cho mọi tù nhân chính trị ở mọi nơi. Chỉ một
người tù chính trị thôi thì đối với chúng tôi đã là quá mức”
tại chuyến viếng thăm của bà đến Myanmar hồi tháng 12 năm ngoái. Xin bà
hiểu rằng nhiều người Việt Nam và tôi đã cảm kích đến nhường nào đối
với những nỗ lực lớn lao đó của bà đã dẫn đến việc phóng thích hàng trăm
tù chính trị ở Myanmar ngay sau chuyến thăm này.
Thưa bà ngoại trưởng,
Gia đình tôi và tôi và nhiều người Việt Nam khác thực sự hy vọng
rằng bà sẽ dành những nỗ lực tương tự cho Việt Nam chúng tôi để nhanh
chóng trả tự do cho tất cả mọi tù nhân chính trị ở Việt Nam và dỡ bỏ mọi
hạn chế đối với cựu tù chính trị ở đây, trong số họ bao gồm – Các nhà
hoạt động tôn giáo Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lý; các nhà hoạt động dân chủ và quyền con người: doanh nhân và kinh tế gia Trần Huỳnh Duy Thức, luật sư Lê Công Định, doanh nhân và nhà hoạt động xã hội Lê Thăng Long, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, đại tá Trần Anh Kim, tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ; các nhà hoạt động vì công nhân: anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, cô Đỗ Thị Minh Hạnh, anh Đoàn Huy Chương; nhạc sĩ yêu nước Việt Khang (Võ Minh Trí); những người biểu tình yêu nước: cô Phạm Thanh Nghiên, ông Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), bà Bùi Thị Minh Hằng; nhà báo chống tham nhũng Hoàng Khương (Nguyễn Văn Khương);
v.v… Vui lòng làm cho chính phủ của chúng tôi hiểu rằng chỉ khi đó thì
đất nước chúng tôi mới vượt qua được tình trạng khủng hoảng nhờ sự hòa
hợp lòng dân và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân – chính là nguồn cội
căn bản của sức mạnh và sự chính danh của một chính phủ, và rằng chính
phủ không nên sợ nguyện vọng của nhân dân mình hơn sức mạnh của bất kỳ
nước nào khác.
Tôi đã cố gắng và dốc hết sức cho tất cả mọi nỗ lực trong nước của
tôi, nhưng không thể làm cho chính quyền nhân dân của chúng tôi hiểu
được như vậy và lắng nghe những nguyện vọng của chúng tôi. Tôi nhận được
sự im lặng vô cảm ngay từ chính những đại biểu quốc hội mà tôi bầu nên.
Tôi và gia đình tôi vô cùng đau khổ trước những gì đã và đang xảy ra.
Tôi chắc rằng nhiều gia đình khác, đặc biệt là của những tù nhân lương
tâm ở Việt Nam cũng có cùng cảm giác như vậy. Do đó, tôi hy vọng và tin
rằng những nỗ lực quốc tế của tôi sẽ nhận được những sự hỗ trợ hữu ích
từ bà và cộng đồng quốc tế để “mỗi người sẽ hoạt động theo những quy luật phát triển giống nhau” , như Tổng thống Obama
nhấn mạnh khi nói với lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình hôm 14 tháng 2
tại Washington. Tôi tin rằng chỉ lúc đó thì thế giới của chúng ta mới có
thể phát triển đến thịnh vượng trong hòa bình cho mọi công dân của
mình. Trần Huỳnh Duy Thức và những người bạn của mình và hầu hết mọi tù
nhân chính trị ở Việt Nam cũng tin như thế. Đó là lý do vì sao và vì
điều gì mà họ tranh đấu.
Tôi rất cảm ơn sự quan tâm của bà và trông đợi được sớm nghe từ bà.
Trân trọng
TM cho tôi và con tôi
Trần Văn Huỳnh
*
TB: Vui lòng xem các tài liệu đính kèm là những tác phẩm của Thức và những người bạn của mình, cũng như bài báo “Ngôi sao bị nhốt” của T.S Nguyễn Thanh Giang viết về Thức. TS Giang là một nhà hoạt động dân chủ có tiếng ở Việt Nam.
Các bức thư với nội dung tương tự đã được gửi đến cho 13 quan chức cấp cao khác. Bấm vào đây để xem danh sách đã gửi và các địa chỉ cần thiết.
*
Thực chất của đợt Chỉnh đốn đảng lần này
Nguyễn Nghĩa VN (Danlambao)
- Khi đang còn là một đảng cầm quyền, lãnh đạo cả một quốc gia thì
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG không chỉ là công việc nội bộ của cái đảng đó mà nó phải
lấy mục tiêu PHỤC VỤ ĐẤT NƯỚC, PHỤC VỤ NHÂN DÂN làm mục tiêu trọng tâm
hàng đầu để thực hiện. Phải đạt được kết quả này thì mới có thể coi
Chỉnh đốn đảng là thành công. Không đạt được kết quả đó thì có chỉnh đốn
gì, đảng cũng đánh mất vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo đất nước
của mình.
Không nói đâu xa, Miến Điện đang tiến hành những cải cách hết sức
quan trọng và bước đi đầu tiên của Miến Điện là thực hiện ý nguyện của
nhân dân, “Nâng thuyền cũng là dân, mà lật thuyền cũng là dân”, tiến hành thả những người bất đồng chính kiến
(còn gọi là tù nhân chính trị hay tù nhân lương tâm). Việc làm này
chứng tỏ Nhà cầm quyền biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người dân,
không tiếp tục đối đầu mà muốn đoàn kết giữa Nhà nước với Nhân dân
thành một khối. Thực tế chứng minh, khi tiến hành thả những người bất
đồng chính kiến, Chính quyền không chịu thêm bất kỳ mối đe dọa nào mà
chỉ làm tăng thêm uy tín của mình trong mắt người dân và bạn bè Quốc tế.
Bước tiếp theo của Miến Điện sẽ là tổ chức bầu cử dân chủ,
có các đảng đối lập tham gia tranh cử. Việc còn lại là sự lựa chọn của
người dân, đảng nào làm tốt, có uy tín sẽ được người dân lựa chọn. Đây
là một sức ép rất lớn để đảng phải thật sự trong sạch vững mạnh, phải là
một lực lượng ưu tú nhất của XH mới có thể tiếp tục giữ vai trò lãnh
đạo, ngược lại một đảng ưu tú hơn sẽ thay thế. Làm như vậy lãnh đạo Đất
nước luôn được bảo đảm là những người có đầy đủ năng lực và phẩm chất
tốt nhất để đưa Đất nước đi lên. Những gì diễn ra ở Miến Điện hiện nay
cho thấy những người đang nắm quyền điều hành đất nước sẵn sàng hy sinh
quyền lợi cá nhân, quyền lợi của đảng cầm quyền cho một mục đích cao cả
hơn, đó là sự phát triển của cả đất nước Miến Điện trong tương lai. Tổ
quốc và Nhân dân luôn phải đứng trên mọi đảng phái trong XH. Bất kỳ đảng
cầm quyền nào muốn tồn tại thì lợi ích của Đất nước phải luôn được đặt
lên hàng đầu, điều này luôn luôn đúng trong mọi hoàn cảnh.
Điều này những người CS Việt Nam có dám làm không? Câu trả lời hiện
nay là không. Nếu đảng quyết tâm chỉnh đốn thực sự, việc làm đầu tiên
là hãy thả tất cả những người tù Lương tâm, những người bất đồng chính
kiến. Nếu tiếp tục chọn đối đầu với Nhân dân, hy sinh quyền lợi của Đất
nước để bảo vệ cho sự cai trị của đảng thì CHỈNH ĐỐN chỉ là trò hề và sẽ
thất bại. Thực tế cần nhận rõ việc CHỈNH ĐỐN mà đảng cố làm hiện nay
chỉ để tiếp tục lừa dối nhân dân, bảo vệ cho sự thống trị của đảng. Điều
này thể hiện rất rõ trong cách phát biểu của ông Trọng, trong bài viết
của An Dân gần đây về các thế lực mơ hồ có tên gọi “thế lực thù địch,
diễn biến hào bình”, nhưng lại hết sức cụ thể khi dùng nó chụp lên đầu,
bỏ tù người dân, hay chính những đảng viên của đảng dám nói ra sự thực.
Vậy thực chất của đợt Chỉnh đốn lần này sẽ là thanh trừng
những người bất đồng chính kiến trong đảng, tăng cường hơn nữa đàn áp
nhân dân, kết hợp với chiêu bài mỵ dân một cách không khéo hơn. Quyền lợi của Đất nước và nhân dân vẫn tiếp tục phải hy sinh cho Tập đoàn Tư bản đỏ thống trị hiện nay.
Nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy nạn hối lộ lũng đoạn giá cả dược phẩm
Nguồn: Ben Hirschler – Reuters -Diên Vỹ, X-Cafe chuyển ngữ28.02.2012
Làm cách nào để đo lường nạn tham nhũng y tế? Nguyễn Tuấn Anh, một nhà nghiên cứu tại Đại học Y Dược Hà Nội, cho rằng việc chi trả không chính thức cho các bác sĩ là “yếu tố chủ yếu” trong việc tăng giá của những loại thuốc cũ hết hạn độc quyền vốn chiếm một thị phần lớn của ngành dược phẩm trong nhiều nền kinh tế đang phát triển.
Sau khi phỏng vấn những bác sĩ, các công ty dược, quan chức chính quyền và dược sĩ trong các bệnh viện công và tư, ông Tuấn kết luận trong một nghiên cứu vừa được xuất bản vào năm ngoái rằng khoảng 40% giá thuốc ở Việt Nam thường được dùng để hối lộ cho bác sĩ.
“Khi tôi nói với các đồng nghiệp tại vài quốc gia châu Á, họ nói tình hình của họ cũng tương tự,” ông cho Reuters biết.
Cuộc nghiên cứu của ông chia ra hai thành phần – hợp pháp và bất hợp pháp – đã góp phần vào giá cả dược phẩm ở Việt Nam, và phát hiện rằng từ 40 – 60% thành giá cuối cùng có thể đã được dùng để khuyến khích người kê toa sử dụng những loại thuốc cụ thể nào đấy, và để thuyết phục nhân viên thu mua trong các bệnh viện mua chúng. Phần lớn số tiền được chia cho các bác sĩ.
Nguyễn nói rằng vấn nạn này càng tồi tệ hơn đối với các loại thuốc hết hạn bản quyền (generic) do các công ty châu Á bán, mặc dù nghiên cứu của ông không nêu đích danh những công ty này. Ở Việt Nam giá cả những loại thuốc này đôi khi lại cao hơn cả thuốc gốc vì các công ty dược mua bán loại thuốc này phải bù đắp lại khoản tiền chi trả cho các bác sĩ.
Nhưng các công ty dược từ phương Tây cũng không thoát khỏi nạn này: đại diện các công ty dược đã cho Nguyễn biết rằng các bác sĩ thường đòi hỏi khoảng 15% tiền hoa hồng từ các nhà sản xuất thuốc châu Âu; tỉ lệ hoa hồng họ đòi hỏi từ các nhà sản xuất thuốc châu Á là 40%.
Nghiên cứu này, vốn đã được trình bày tại Hội thảo Phát triển Dược phẩm Quốc Tế tại Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng Mười năm ngoái, đã cho thấy các công ty đa quốc gia thường cấm đoán việc hối lộ, ít nhất là trên hình thức, mặc dù áp lực nhằm đạt được chỉ tiêu bán ra thường có nghĩa là các đại diện tảng lờ lệnh cấm này và đưa tiền hối lộ cho các bác sĩ.
Có lúc các công ty đa quốc gia lại chi trả cho những kỳ nghỉ sang trọng bậc nhất dù việc này vốn bị cấm đoán bởi luật chống lại quả của ngành bào chế thuốc ở Hoa Kỳ.
Các bác sĩ được thăm dò nói rằng họ lấy tiền hoặc hiện vật để bù đắp cho đồng lương thấp của mình, và tiền hoa hồng từ ngành bào chế dược phẩm thường trở thành nguồn thu nhập chính của một số bác sĩ, mặc kệ những bác sĩ uy tín kiên quyết giữ mình “trong sạch”.
Đây là tình trạng mà một nhà bán thuốc nước ngoài nói rằng đang làm đảo lộn cả hệ thống: “Giờ đây bác sĩ càng tồi lại càng có nhiều tiền. Thật quái gở.”
Thư gửi bạn mình – là đảng viên
Mẹ Nấm - Thực
chất của những quy định này với mình, nó không ngoài ý định thanh trừng
nội bộ đảng, thắt chặt việc quản lý tư tưởng và phát ngôn của đảng
viên, nhằm kiểm soát những đảng viên muốn góp ý xây dựng đảng thực
sự… Mỗi lần chỉnh đốn là thêm một lần lộ rõ những bất nhất, hóa ra, từ
bấy lâu nay, các đảng viên vẫn thoải mái làm những điều mà quy định số
47 cấm hay sao?…
*
Bạn thân mến,
Mình vẫn còn nhớ lần nói chuyện cuối cùng của chúng ta về việc “Có
hay không những đảng viên lý tưởng thời nay?”, và mình còn nợ bạn một
câu xin lỗi khi đẩy vấn đề đi xa hơn tranh luận khi đột ngột đề nghị bạn
xét lại “động cơ vào đảng” của bản thân bạn và đồng nghiệp bạn.
Bạn còn nhớ không, mình đã lấy luôn ví dụ, ngay trước mắt tụi mình,
việc một bà mẹ vận động hành lang để con được đi học lớp cảm tình đảng –
khối doanh nghiệp nhà nước, mà lý do thì cả bạn và mình đều thừa nhận,
là để có vị trí vững chắc hơn tại nơi bạn này đang làm.
“Muốn cơ cấu thì phải vào đảng” – chính bạn nói như vậy, và mình đã
làm bạn giận, khi đưa ra kết luận “Vậy lý tưởng của bạn nằm ở chỗ cơ
cấu kia, chứ đâu phải nằm ở đảng”.
Bạn còn nhớ không, lúc tụi mình trao đổi về những bài học xây dựng –
chỉnh đốn đảng mà bạn được học, mình có nói: “Đâu phải đến bây giờ
người ta mới chỉnh đốn đảng? Họ đã làm điều đó từ thời ông Hồ Chí Minh
kia, và kết quả đi đến đâu?”
Bạn nói: “Mấy điều đó chỉ dành cho những người lãnh đạo, chứ đảng viên quèn như tui chú ý làm gì?”
Bạn quên rằng, bạn và những người đó cùng đứng chung dưới một tên gọi đó là “đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam”.
Mình lại làm bạn giận, khi nói rằng: “Dưới sự lãnh đạo của đảng,
hoàn toàn không có đảng viên xấu, bởi mỗi khi đảng viên phạm lỗi (tội)
thì việc đầu tiên là bị khai trừ khỏi đảng, để trả lại sự trong sạch –
vững mạnh cho đảng, còn những gì xấu xa, tội lỗi kia lại thuộc về nhân
dân”.
Bạn thân mến,
Bạn có nhớ quyển “Sửa đổi cách làm việc” mà tụi mình tìm
mua ở hiệu sách cũ không? Trong đó ông Hồ Chí Minh viết rất rõ những sai
lầm và khuyết điểm mà các đảng viên dễ mắc phải, nếu thực tâm muốn
chỉnh đốn đảng như đang hô hào, thì tại sao 82 năm rồi, cái gốc cần
chỉnh đốn ngày càng hư nát?
Và một lần nữa, mình lại làm bạn giận khi cho rằng đảng thật ma
lanh khi trục lợi trên cái bóng của ông Hồ, để xây dựng hình ảnh cho
mình lúc cần thiết đối với toàn dân tộc đã và đang bị ru ngủ, và cố tình
bỏ qua những lời ông ấy viết, nhằm bao biện cho sự suy đồi của các đảng
viên.
Bạn ơi,
Bạn có nhớ những dòng này: “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng….. Ngoài lợi ích của dân
tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác.” (*)
Bạn thân mến,
Không biết bạn đã đọc qua Quy định số 47-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm hay chưa, trong đó có đến 19 điều lận, và khi mình đọc được thì điều đầu tiên mình thốt lên rằng “Đôi khi, làm nhân dân thật sung sướng”.
Thực chất của những quy định này với mình, nó không ngoài ý
định thanh trừng nội bộ đảng, thắt chặt việc quản lý tư tưởng và phát
ngôn của đảng viên, nhằm kiểm soát những đảng viên muốn góp ý xây dựng
đảng thực sự.
“Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc phản ánh, góp ý kiến
đối với Đảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh giá tùy tiện
đối với người khác.” (Điều 4, Quy định số 47-QĐ/TW).
Nó hoàn toàn trái ngược với khẳng định này: “Đảng không
che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận
khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và
đảng viên.” (*)
Mỗi lần chỉnh đốn là thêm một lần lộ rõ những bất nhất, hóa ra, từ bấy lâu nay, các đảng viên vẫn thoải mái làm những điều mà quy định số 47 cấm hay sao?
Bạn thân mến,
Có một câu hỏi mà bạn chưa bao giờ trả lời mình đó là: “Tại sao người ta không còn làm theo những gì mà ông Hồ Chí Minh viết nữa?”
Phải chăng, các đồng chí của ông biết rõ sự khác nhau giữa lời nói, hành động và bản chất con người?
Và ở thời buổi này, tìm kiếm sự thật không phải là quá khó với sự trợ giúp kĩ thuật số?
Người ta e ngại sự thật, vì sợ phải thừa nhận sự sai lầm mang ý thức hệ chăng??
Hay sợ phải đối diện với chính mình cùng quá khứ của một thời sung mãn?
Và để khỏa lấp sự sợ hãi ở bên trong lẫn bên ngoài ấy, thì dối trá lại tiếp tục lên ngôi bằng những lời hoa mỹ??
Nếu quả như thế, thì khó lòng mà chỉnh đốn những gì được xây dựng dựa trên sự dối trá.
Bạn thân mến,
Tụi mình rồi sẽ có thêm những cuộc tranh luận dài dài, và cả những
lần giận dỗi, vì bất đồng ý kiến, nhưng thực tâm mình tin, cả bạn và
mình rồi sẽ rút ra được cho mình những bài học có ích.
Mình nghĩ, cách chỉnh đốn duy nhất hiện nay là dũng cảm thừa nhận
mình đã sai lầm và thực tâm khắc phục những sai lầm đó từ gốc rễ thì mới
có hy vọng cứu vãn được.
Bài học từ Myanmar, hẳn không quá xa vời phải không?
Và mình tin rằng, bạn mình – là một đảng viên dũng cảm, yêu tự do.
Ngày an lành và nhiều niềm vui nhé bạn!
NQ
___________________
P/S: Tất cả những dòng in nghiêng đậm mà mình trích, đều lấy từ
quyển “Sửa đổi lối làm việc” của Hồ Chí Minh mà ra, hôm nào bạn đọc lại
thật chậm và thật kỹ nhé!
Nguyễn văn Tuấn – Chuyện chữ nghĩa và lãnh đạo
Nguyenvantuan - Câu chuyện anh Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng xem ra càng ngày càng … hấp dẫn. Và, gay cấn. Đọc báo lề phải và lề trái thấy thông tin quá phong phú, mình chỉ biết đọc và ghi nhận. Nhưng chuyện sensationalmới nhất là một lãnh đạo TP Hải Phòng có vài lời phát biểu khi ông đề cập đến anh Đoàn Văn Vươn. Chuyện này làm tôi nhớ đến chuyện xưa bên Úc … Chuyện có liên quan đến ông cựu thủ tướng Mã Lai là Bác sĩ M. Mahathir và ông cựu thủ tướng Úc là ông Paul Keating. Ông Mahathir nổi tiếng là một người không ưa nước Úc, và đặc biệt là chính khách Úc. Ông hay tìm dịp để châm chọc chính khách Úc. Đại khái quan điểm của ông là Úc là nước nhỏ, chỉ dựa vào Mĩ, mà … láu cá. Láu cá với các nước Đông Nam Á. Nào là dạy đời về nhân quyền, về môi trường, về cách hành xử quốc tế. Thói quen của chính khách Úc là đụng chút là lên lớp dạy đời, làm như là bậc thầy người ta không bằng! Vì thế, ông Mahathir nhắc nhở rằng Úc chỉ có lịch sử 200 năm, chỉ là “đứa bé” so với các nước Đông Nam Á có lịch sử lâu đời (nhưng ông chưa dùng chữ “ông cụ” cho các nước này!) Một trong những đòn tấn công của ông Mahathir là nhắc nhở rằng cái sân sau của Úc vẫn chưa sạch (ý nói Úc đối xử tệ với người thổ dân) mà đòi đi dạy người ta về đạo đức và nhân quyền. Thật ra, theo tôi, nhiều phê phán của ông Mahathir có phần cảm tính, nhưng cũng có vài phê phán nếu chịu khó nhìn lại thì thấy ông nói cũng không quá sai.Dạo đó là khoảng đầu (hay giữa?) thập niên 1990, ông Mahathir và Paul Keating choảng nhau trên báo chí. Chuyện phát sinh khi ông Mahathir tẩy chay và không tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC. Thay vào đó, ông Mahathir vận động thành lập nhóm các nước Đông Á gọi là East Asia Economic Caucus, và ông đề nghị loại bỏ Úc khỏi khối này. Paul Keating là người thân Á châu, nên ông tức giận Mahathir lắm. Khi được phóng viên hỏi ông nghĩ gì về hành động và thái độ của Mahathir, ông Keating nói rằng APEC lớn hơn tất cả chúng ta, lớn hơn Úc, lớn hơn Mĩ, lớn hơn Mã Lai và Mahathir, và bất cứ những recalcitrant nào. Thế là chiến tranh ngoại giao bùng nổ quanh chữ recalcitrant.
Phải công nhận ông Paul Keating tuy ít học (chưa tốt nghiệp trung học) nhưng rất giỏi dùng chữ. Khi ông dùng chữ recalcitrant, giới phóng viên có người sững sờ. Có nhiều người không biết chữ đó có nghĩa gì. Trong số “nhiều người” đó có tôi. Tra từ điển thì thấy chữ này có nghĩa là kẻ cứng đầu, cứng cổ. À, thì ra ông Paul Keating muốn nói ông Mahathir là kẻ cứng đầu. Nói ai cứng đầu là trịch thượng. Do đó, không ngạc nhiên khi ông Mahathir đùng đùng nổi nóng. Ông đòi Keating phải xin lỗi. Keating “chân cứng đá mềm” không xin lỗi, vì ông nói ông dùng chữ recalcitrant là chỉ chung, chứ không đặt trước tên ông Mahathir. Ông cũng nói chữ đó chẳng có gì nặng nề cả.
Tôi còn nhớ các chuyên gia tiếng Anh viết bài bình luận trên báo chung quanh chữ recalcitrant và tôi có dịp học nhiều điều hay. Đại khái, các chuyên gia Úc cho rằng Keating dùng chữ recalcitrant là không thích hợp. Chính khách quốc tế không nên nói như thế, cho dù ông không có ý đề cập đến Mahathir. Thật ra, có hay không có ý đó thì chắc chỉ có Keating biết mà thôi. Cuộc tranh cãi và chiến tranh chữ nghĩa qua lạ giữa Úc và Mã Lai kéo dài cả nửa năm trời, làm ảnh hưởng quan hệ giữa hai nước. Một bên nhất định đòi xin lỗi, còn bên kia thì nhất định không xin lỗi. Sau cùng, không biết ai bày mưu chỉ kế, ông Keating trong một bài diễn văn về Á châu, ông dùng chữ “regret” vì đã dùng chữ thiếu ngoại giao. Nên nhớ là ông chỉ “ I regret” (lấy làm tiếc) chứ không phải “I am sorry” (tôi xin lỗi) nhé. Thế là đâu lại vào đấy, hai bên lại vui vẻ. Sau này, Mahathir ca ngợi Keating, nhưng ông nhắm vào đối tượng mới là thủ tướng John Howard người mà ông cho là kì thị chủng tộc.
Chuyện đó làm tôi liên tưởng đến chuyện ông bí thư Hải Phòng nói các bác lão thành là sai trong vụ Đoàn Văn Vươn. Trong một buổi nói chuyện với câu lạc bộ Bạch Đằng, có blogger nói ông dùng chữ thằng Vươn khi đề cập đến sự kiện Tiên Lãng, nhưng thật ra thì ông không có sử dụng chữ đó. Vài blogger nói oan cho ông.
Nhưng ở đây, tôi chỉ muốn bàn đến chữ thằng chung chung trong cách nói hàng ngày. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa thằng là “Từ dùng để chỉ từng cá nhân người đàn ông, con trai thuộc hàng dưới hoặc ngang hàng, với ý thân mật hoặc không tôn trọng.” Như vậy, chúng ta dùng chữ thằng để (a) biểu lộ sự thân mật với ai đó, hoặc (b) với ý nghĩa xem thường người ta.
Thật ra, người mình hay dùng chữ thằng. Thằng Tây, thằng Mĩ, thằng Tàu, v.v. Dùng nhiều đến nổi trở thành quán tính. Từ quán tính đến thốt thành lời nói trước công chúng cũng là một điều không khó hiểu. Tuy nhiên, bối cảnh và thời điểm sử dụng mới có vấn đề. Cố nhiên trước công chúng thì chắc chẳng ai đang vận áo veston, trịnh trọng đứng trước microphone mà dùng chữ thằng. Cũng như chẳng có chính khách nào lại đi dùng recalcitrant cho đồng nghiệp mình (ngoại trừ lở lời).
Ông Keating sau cùng thì cũng nhìn nhận, dù chỉ là gián tiếp, đã dùng chữ khiếm nhã và có lời xoa dịu. Tôi nghĩ ông bí thư gián tiếp nói về các bác lão thành là sai thì e rằng hơi nặng. Có thể ông làm như ông Paul Keating từng làm, tức là nói một lời xoa dịu dư luận, kiểu như “tôi lấy làm tiếc”, để bà con an lòng với vị thế lãnh đạo và xứng với cái danh xưng tiến sĩ của ông.
Nhà khoa học nguyên tử Mỹ từng đạp xích lô ở Việt Nam
Ông Đức à,từ đạp xích lô….ông mới “chạy” qua Mỹ ,giờ thì từ “ăn kiểu Mỹ,học trường Mỹ….” ông mới trở thành “nhà khoa học Mỹ” và chắc Ông mang quốc tịch Mỹ?- Ông về Việt Nam với 2 bàn tay không….để “nghèo mà có ý chí thì…vượt qua” thử xem???_________________________________________
(Dân Việt) – Trở thành tiến sĩ gốc Việt đầu tiên làm việc trong phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos (Mỹ), tiến sĩ Võ Tá Đức luôn nhắc về quãng đời đạp xích lô khi ông còn ở Việt Nam, như điều thần kỳ của cuộc sống.
Công việc hiện tại của tiến sĩ Đức là nghiên cứu sáng chế ra những máy móc, thiết bị dò tìm các nguyên tử đang được ứng dụng để ngăn ngừa các hình thức vận chuyển nguyên tử bất hợp pháp vào biên giới Mỹ.
TS Đức hồi còn nhỏ tại Việt Nam.
|
Đến năm 1981, ba Đức cố xoay xở tìm cách cho cậu theo một người bà con tìm đường sang Mỹ và được một gia đình ở bang Iowa nhận làm con nuôi. Thành tích học tập của chàng trai nghèo từ VN bắt đầu tỏa sáng sau 1 năm rưỡi ở trường trung học Mỹ.
Cậu bé đạp xích lô ở Tuy Hòa ấy suốt thời gian đại học và cao học ở Mỹ không phải trả bất kỳ khoản tiền học phí nào, nhờ vào thành tích lao động trí óc cần cù.
Năm học lớp 12, Đức đoạt giải nhất một kỳ thi khoa học cấp tiểu bang, mang lại cho cậu học bổng toàn phần cho suốt 4 năm học ở khoa Vật lý Trường Đại học Bắc Iowa. Tốt nghiệp đại học, anh đi thẳng vào chương trình tiến sĩ chuyên ngành vật lý nguyên tử, và trong suốt thời gian cao học, anh liên tục nhận được các nguồn học bổng dành cho nghiên cứu sinh.
Nói về thành công của mình, tiến sĩ Đức cho biết: “Một thông điệp tôi muốn nói với các bạn trẻ ở Việt Nam, nhất là các bạn nghèo, rằng nếu có ý chí sẽ vượt qua được những khó khăn”.
Hạ Anh (tổng hợp)
Những lá cờ
Treo cờ tổ quốc là cử chỉ thể hiện lòng yêu nước của dân ta. Những
ngày đại lễ, cờ tổ quốc rợp trời ở khắp nơi. Riêng gia đình tôi, treo cờ
tổ quốc thường xuyên vượt chỉ tiêu kế hoạch. Khi tôi ngồi viết bài này,
phía ngoài cửa sổ gác 3, cờ tổ quốc phần phật trong khí trời rét buốt.
Thời tiết năm nay dữ dằn quá. Thiếu ăn thiếu ấm, người nghèo càng trở
nên tê tái trong các đợt rét dài, rét đậm. Ăn ngon, ở ấm là giấc mơ đi
suốt cuộc đời. Cái đích ấy đang ở phía chân trời với hàng triệu người
dân. Thế mà có những người cứ ra rả nói về ăn ngon, mặc đẹp cho dân. Họ
cứ tưởng vẽ ra hôm nay, ngày mai sẽ có. Chính khách mà lại lập ngôn
theo kiểu nhà văn viễn tưởng. Nghe họ huyên thuyên trên diễn đàn, cái
lạnh trong lòng dân càng thêm tê tái.
Lại có cuộc vui, Xuân Ba gọi điện triệu tập đột xuất. Tôi từ chối,
khiến hắn bớt vui. Đồ nhắm ngon không thay được bạn hiền. Thiếu bạn,
niềm vui bị vơi nhưng không méo mó. Giữa đêm khuya lạnh giá, trái tim
Xuân Ba thổn thức nồng ấm khi biết bạn bè đồng nghiệp có thêm những đứa
con tinh thần sống được trong lòng dân.
Nhà nhà có cờ tổ quốc. Các cơ quan, đơn vị có thể thu nhập thấp,
thậm chí nợ tiền lương của người lao động nhưng không thể thiếu cờ tổ
quốc. Cả nước có hàng chục triệu lá quốc kỳ. Kết cấu và màu sắc dĩ nhiên
không thể khác nhau. Theo tôi, về ý nghĩa, từ 1954 đến nay có ba lá cờ
tổ quốc để lại dấu ấn đặc biệt.
1954, cờ đỏ sao vàng chiến thắng tung bay trên nóc hầm tướng De Castries . Chiến dịch Điện Biên Phủ là bản trường ca bất hủ. Lá cờ đỏ chiến thắng trên đỉnh hầm của tướng bại trận. Mốc son ấy mãi mãi sáng người cùng lịch sử dân tộc.
Quân ta chiến thắng với lá cờ đỏ thắm như dòng máu của triệu triệu người con đất Việt. Phía bại trận dương cờ trắng, màu trang phục y tế. Đầu hàng để được sống. Nghề thầy thuốc là giành lại sự sống từ tay thần chết. Màu trắng ấy đem lại sự sống. Thế giới chưa mất, sự sống vẫn còn. Giương cờ trắng để được sống. Đó là màu trắng trung thực, tránh cái chết, giành lấy sự sống. Làm tướng, ai cũng muốn đứng ở hàng đầu dưới cờ chiến thắng. Để bảo vệ tính mạng vô tội của ngàn vạn quân lính, lúc cần, tướng phải biết sử dụng cờ trắng. Bên cạnh cái mất là cái được. Thua một lúc, thậm chí thua nặng nề, nhưng giữ được cái mầm cho sự sống lâu dài. Làm người không chỉ có phận dương mà còn phải nghĩ tới phận âm- cái cho mình sau khi đã chết, cho cả con cháu mai sau. Thánh thần không phải của giới quan chức và nhà giàu. Thánh thần là (và phải là) của người tốt.
Ngày 30.4.1975, cờ đỏ chiến thắng lần đầu tiên ngự trên đỉnh cao nhất
của dinh Độc lập Sài Gòn. Chế độ cũ sụp đổ. Nước nhà thống nhất. Giàu và
giỏi đứng đầu thế giới, Mỹ chẳng bao giờ nghĩ sẽ có ngày quốc kỳ Việt
Nam dân chủ cộng hòa lại tung bay trên trời Sài Gòn. Cờ tổ quốc cắm lên
dinh Độc lập cũng là thời điểm kết thúc cuộc chiến. Miền Nam không còn
là chiến trường. Con em hai miền Nam – Bắc không còn nã đạn vào nhau. Đã
gần 40 năm, ngày cũng như đêm, cờ tổ quốc luôn tung bay trên dinh Thống
nhất( tên gọi mới của dinh Độc lập) Để có ngày chiến thắng, phải trả
giá quá đắt. Hàng vạn người trở thành mồi của bom đạn. Chiến tranh đã
lùi xa, nhiều di họa đau thương vẫn còn hiện hữu. Âm vang chiến thắng
giảm dần, trong khi tiếng rên vết đau vẫn kéo dài.
Năm 2012 lại xuất hiện lá cờ rất đặc biệt. Nó tung bay trên khu đầm Đoàn
Văn Vươn, Tiên Lãng, địa danh đi vào lịch sử hiện đại Việt Nam. Một sự
trùng lặp mang tính quy luật: cờ đỏ tung bay báo hiệu cuộc chiến kết
thúc. Hai lần trước, có ta và địch. Lần này, ở Tiên Lãng, không có địch,
chỉ có dân với “đầy tớ của dân”. Không có địch nhưng vẫn có kẻ thua
người thắng. Kẻ thua, không phải địch, chịu cái mất lớn hơn cái thua của
địch. Mất chức. Mất quyền. Mất bổng lộc. Mất danh dự. Mất lòng dân… Làm
tướng lúc cần phải biết thua. Làm đầy tớ của dân càng phải nhưng vậy.
Biết thua dân để cho xã hội được yên lành, chế độ không bị bôi bẩn. Nếu
quan huyện Tiên Lãng biết thua dân, làm gì xảy ra chuyện Đoàn Văn Vươn.
Dân ta cực kì độ lượng. Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại.
Đó là đạo làm người muôn đời của dân ta. Đã ngu dốt cộng với tham lam,
lại còn trâng tráo chổng lưng thách đố dân, thứ quan ấy phải trị cho
tiệt nòi. Biết thắng biết thua. Biết tiến biết lùi. Biết đủ biết thừa.
Con người hơn con vật là vì những cái biết như vậy. Nhìn vào những cái
biết ấy, phân biệt được người với vật. Chức to, quyền lớn nhưng thiếu
những cái biết đấy thì chưa phải là người. Không cần các nhà triết học
trợ giúp. Chỉ cần biết làm người là có được những cái cần biết không thể
thiếu.
Cuộc chiến của người dân Tiên Lãng kết thúc gắn liền cờ đỏ sao vàng tung
bay trên đầm Vươn. Xảy ra ở Tiên Lãng nhưng hậu phương là mọi miền quê
trong cả nước. Đoàn Văn Vươn không có lời hiệu triệu nhưng làn sóng ủng
hộ được khơi nguồn từ hàng triệu trái tim. Chỉ có kẻ thù của nhân dân
mới vu oan cho những người là đồng minh với người hùng Đoàn Văn Vươn.
Chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như sự kiện 30.4.1975 đã lùi vào quá
khứ. Sự kiện Đoàn Văn Vươn rồi cũng đi qua nhưng bài học cho thời hiện
đại sẽ còn mãi mãi. Ba sự kiện, ba thời điểm, kết thúc gắn liền cờ tổ
quốc. Quốc ca định thay nhưng bất thành. Quốc kỳ, gắn liền với những sự
kiện đặc biệt như thế, cho dù xảy ra “dịch bệnh loạn dự án” cũng không
thể có loại dự án thay cờ tổ quốc.
28.2.2012
Bá Tân
Bá Tân
Nguyễn quang Lập – Cần thêm một điều cấm nữa
NGUYỄN QUANG LẬP – Quechoa……Đây là điều cấm cực kì quan trọng, bởi vì nhờ đó Đảng ta mới tóm được thêm một lũ sâu nữa. Đặc biệt sâu bự, 19 điều kia không dễ tóm được đâu, duy nhất điều này là tóm được nhanh như chớp. Có đúng không bà con? He he./. Sáng nay đọc Những điều đảng viên không được làm ( tại đây!), thấy vui. Vui là vì từ khi vào Đảng đến giờ mình chưa đọc hết một chỉ thị nào của Đảng, họp chi bộ người ta đọc ra rả mình cũng không để ý. Chỉ thị của Đảng cái mô nỏ giống cái mô, na ná nhau cả thôi chỉ cần liếc qua cái đầu đề là biết Đảng nói chi rồi. Mình cứ làm tốt vai trò công dân, vai trò cán bộ công nhân viên thì tự khắc đạt được Đảng viên 4 tốt, dễ không à. Rứa thôi, nghe đọc làm chi cho mệt. Đến khi mình nghỉ sinh họat Đảng, sắp xuống lỗ rồi bỗng nhiên dở hơi đọc đi đọc lại cả 19 điều Đảng cấm, thấy vui hung, hi hi.Nói chung mình không thắc mắc gì cả, cấm cũng tốt thôi chứ sao. Nhiều người bảo những cái cấm kia đều có trong pháp luật của Nhà nước rồi, Đảng cấm chi nữa, thừa? Nhiều người bảo bây giờ ít ai muốn vào Đảng, dụ dỗ mãi may ra có một đứa nó làm đơn, bây giờ cứ cấm nọ cấm kia thì còn ai dám vào Đảng?
Nhưng mình lại nghĩ khác. Đảng chả cần thêm số lượng, 3 triệu đảng viên mà làm gì, quí hồ tinh bất quí hồ đa, chỉ cần 500 ngàn là đẹp. Người nào sợ cấm không vào tức là kẻ đó vào Đảng không phải để hy sinh mà để kiếm lợi, tiếc làm gì?
Còn bảo những cái cấm kia có trong luật pháp rồi, Đảng cấm là thừa, cũng không đúng. Bây giờ mà căn cứ luật pháp để trị người ta khó lắm, dân thường trị đã khó, huống hồ mấy ông quan. Nhưng cứ nhè mấy điều cấm này để khai trừ ra khỏi Đảng là khỏe nhất. Như tụi mình thì chẳng sợ bị đuổi ra khỏi Đảng, ra khỏi Đảng càng khỏe xác, khỏi phải đi họp, khỏi làm báo cáo, khỏi nộp Đảng phí, khỏe re. Chứ mấy ông quan, thẻ Đảng là sự nghiệp của họ, cơm áo gạo tiền của họ, mất Đảng là mất sạch, không phải chuyện chơi. Các quan không thể không sợ. Trông cái việc cấm Đảng viên khơi khơi vậy chứ nó ghê lắm đó, nhiều quan tham nhất định sẽ khuynh gia bại sản, thân bại danh liệt chứ không phải chuyện chơi,
Rứa là mình nhất trí hoàn toàn cả 19 điều cấm, chỉ xin bổ sung thêm một điều cấm, gọi là điều 20. Blogger Người đưa tin đã viết hẳn ra điều cấm này như sau:
“20- Nghiêm cấm lợi dụng quyền hạn chức vụ, hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình lên những người có trách nhiệm nhằm mục đích để bố, mẹ, vợ (chồng), con (bao gồm cả dâu, rể), anh, chị, em ruột lên nắm các chức vụ trong cơ quan, đơn vị, địa phương do bản thân hiện tại hay trong quá khứ đã từng trực/gián tiếp phụ trách.”
Đây là điều cấm cực kì quan trọng, bởi vì nhờ đó Đảng ta mới tóm được thêm một lũ sâu nữa. Đặc biệt sâu bự, 19 điều kia không dễ tóm được đâu, duy nhất điều này là tóm được nhanh như chớp. Có đúng không bà con? He he
Thêm một trường hợp “Ô Khảm” khác xuất hiện tại Trung Quốc
Tín Phong : một trong bốn ngôi làng Trung Quốc được so sánh với Ô Khảm (weibo.sina)
Mai Vân – RFI
Noi gương làng Ô Khảm, ở tỉnh Quảng Đông, người dân một số làng khác
tại Trung Quốc đã vùng lên phản đối chính quyền, đòi trả lại đất đai bị
trưng thu, và nhất là đòi tổ chức bầu cử địa phương minh bạch, để thay
đổi các quan chức lãnh đạo tham nhũng.
Trên nguyên tắc dân làng có quyền bầu trực tiếp trưởng thôn và những
đại biểu cấp huyện, nhưng cuộc bầu cử này luôn bị hoãn lại, như trường
hợp của làng Tín Phong thuộc tỉnh Cát Lâm, miền Đông bắc Trung Quốc.
Người dân tại chỗ vào hôm qua 28/02/2012 đã đưa kiến nghị đòi tổ chức
của bầu cử bị hoãn lại từ năm 2010, trong khi những người ra ứng cử thì
bị những ‘tai nạn’ khó hiểu. Thông tín viên Stéphane Lagarde tại Bắc
Kinh tường thuật sự vụ :
“Đây là câu chuyện về một cuộc bầu cử bị “vận xấu”, và đồng thời cũng có thể là một trong những biểu tượng rõ nhất về sự vận hành lệch lạc của hệ thống bầu trực tiếp 3 năm một lần lãnh đạo điạ phương ở vùng nông thôn Trung Quốc. Từ tháng 6 năm 2010, người dân làng Tín Phong vẫn không nguôi giận. Phòng phiếu của họ đã bị đóng từ lúc đó đến nay. Và mỗi khi bầu đại biểu, thì những tai nạn khó hiểu lại xẩy ra.
Lần đầu tiên là sự kiện 3 cuộc bỏ phiếu bị ủy ban bầu cử xem là bất hợp lệ. Cuộc bầu cử đã bị hủy bỏ, và từ đấy, tình hình ngày trở nên nghiêm trọng hơn, và chính những ứng cử viên là nạn nhân của những sự cố. Theo lời kể người dân tại chỗ, cứ mỗi lần một người nào ra ứng cử là họ bị những tai nạn rất kỳ lạ : những đám cháy khó hiểu bùng lên gần nhà ở, đồng ruộng bị nhiễm độc với các chất trừ sâu, nơi trồng rau cải bị phá hoại.
Đối với người dân, những sự cố đó không phải ngẫu nhiên, mà là nhằm cản trở cuộc bầu cử của họ. Và đến giờ, họ vẫn chưa được biết lúc nào có thể tổ chức bầu cử, sau khi lại đưa kiến nghị vào hôm qua lên chính quyền tỉnh. Đây là kiến nghị lần thứ 30 của dân làng.
Nhưng không chỉ có trường hợp làng Tín Phong. Các làng Hải Môn, Hoàng Cương, Phán Hà, cùng với Tín Phong, đã được ví như là “Bốn làng Ô Khảm”, vì cũng như tại Ô Khảm, người dân đã tố cáo chính quyền tham nhũng, biểu tình đòi trả lại đất bị trưng thu.
Có điều là cho đến nay thì dân chúng tại các nơi đó có dấu hiệu bị thua cuộc. Chỉ có Ô Khảm là ngoại lệ, vì ngày mồng 03/03 tới đây, họ sẽ bầu lại trưởng thôn, cũng như đại biểu tại ủy ban huyện”.
“Đây là câu chuyện về một cuộc bầu cử bị “vận xấu”, và đồng thời cũng có thể là một trong những biểu tượng rõ nhất về sự vận hành lệch lạc của hệ thống bầu trực tiếp 3 năm một lần lãnh đạo điạ phương ở vùng nông thôn Trung Quốc. Từ tháng 6 năm 2010, người dân làng Tín Phong vẫn không nguôi giận. Phòng phiếu của họ đã bị đóng từ lúc đó đến nay. Và mỗi khi bầu đại biểu, thì những tai nạn khó hiểu lại xẩy ra.
Lần đầu tiên là sự kiện 3 cuộc bỏ phiếu bị ủy ban bầu cử xem là bất hợp lệ. Cuộc bầu cử đã bị hủy bỏ, và từ đấy, tình hình ngày trở nên nghiêm trọng hơn, và chính những ứng cử viên là nạn nhân của những sự cố. Theo lời kể người dân tại chỗ, cứ mỗi lần một người nào ra ứng cử là họ bị những tai nạn rất kỳ lạ : những đám cháy khó hiểu bùng lên gần nhà ở, đồng ruộng bị nhiễm độc với các chất trừ sâu, nơi trồng rau cải bị phá hoại.
Đối với người dân, những sự cố đó không phải ngẫu nhiên, mà là nhằm cản trở cuộc bầu cử của họ. Và đến giờ, họ vẫn chưa được biết lúc nào có thể tổ chức bầu cử, sau khi lại đưa kiến nghị vào hôm qua lên chính quyền tỉnh. Đây là kiến nghị lần thứ 30 của dân làng.
Nhưng không chỉ có trường hợp làng Tín Phong. Các làng Hải Môn, Hoàng Cương, Phán Hà, cùng với Tín Phong, đã được ví như là “Bốn làng Ô Khảm”, vì cũng như tại Ô Khảm, người dân đã tố cáo chính quyền tham nhũng, biểu tình đòi trả lại đất bị trưng thu.
Có điều là cho đến nay thì dân chúng tại các nơi đó có dấu hiệu bị thua cuộc. Chỉ có Ô Khảm là ngoại lệ, vì ngày mồng 03/03 tới đây, họ sẽ bầu lại trưởng thôn, cũng như đại biểu tại ủy ban huyện”.
Đô đốc Mỹ R.Willard: Trung Quốc giảm bớt các đối đầu tại Biển Đông
Đô đốc Robert Willard (trái) trên chiến hạm USS Blue Ridge (U.S. Navy)
Đức Tâm – FI
Hôm qua, 28/02/2012, trong cuộc điều trần tại Ủy ban Quân vụ Thượng
viện Hoa Kỳ, đô đốc Robert Willard, lãnh đạo bộ Chỉ huy Thái Bình Dương
của Mỹ nhận định rằng Trung Quốc đang bước vào giai đoạn giảm bớt đối
đầu tại Biển Đông. Đây là kết quả của chính sách cứng rắn từ phía Mỹ và
các đồng minh châu Á, đồng thời, Bắc Kinh cũng thay đổi tư duy, cách
tiếp cận vấn đề trong hồ sơ này.
Vào lúc Washington có kế hoạch cắt giảm ngân sách quốc phòng, nhưng
chính quyền của tổng thống Barack Obama đã chuyển hướng chú ý sang châu
Á, đẩy mạnh quan hệ thương mại với khu vực này và bố trí lại lực lượng
nhằm tăng cường sự hiện diện quân sự tại đây.
Đố đốc Willard nói, « Chúng tôi nhận thấy ít các vụ đối đầu hơn trong năm 2012 so với các năm trước » và có thể coi 2010 là năm đánh dấu, để so sánh các vụ xung đột ở Biển Đông. Tuy nhiên, theo vị tướng này, Trung Quốc không ngừng tăng ngân sách quốc phòng trong nhiều năm qua, vẫn liên tiếp có những hành vi nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền, điều động tàu bè đến hoạt động ở những khu vực đang có tranh chấp.
Mặt khác, đô đốc Willard cho rằng « những thông điệp mạnh mẽ » của Ngoại trưởng Hillary Clinton, của cựu bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates, cũng như từ phía Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN đã gây ấn tượng đối với Trung Quốc. Theo các bình luận chung, thì điều này đã làm Trung Quốc ngạc nhiên và buộc họ phải xem xét lại cách tiếp cận vấn đề cụ thể trong việc đưa ra những yêu sách chủ quyền tại Biển Đông.
Tháng 07/2010, khi tham dự Diễn đàn an ninh khu vực ARF tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tuyên bố rằng « tự do lưu thông » ở Biển Đông là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ. Đồng thời, Washington đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam và Philippines. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ có kế hoạch lập căn cứ thủy quân lục chiến tại Úc.
Trong lĩnh vực thương mại, Hoa Kỳ không ngừng gây áp lực đối với Trung Quốc. Hôm qua, chính quyền của tổng thống Obama đã lập một cơ quan chuyên theo dõi, xử lý việc bán phá giá hàng nhập khẩu vào Mỹ.
Trước các động thái này, Trung Quốc đã tố cáo Hoa Kỳ can thiệp vào công việc của khu vực. Tháng trước, báo chí của Nhà nước Trung Quốc còn kêu gọi Bắc Kinh nên trừng phạt Manila, nếu Philippines cho phép tăng số lính Mỹ hiện diện trên lãnh thổ nước này.
Khi nhận định là chính sách cứng rắn của Mỹ đã góp phần làm cho Trung Quốc bớt hung hăng ở Biển Đông, tư lệnh bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cũng thừa nhận là cho dù có các tranh chấp về chủ quyền trên biển, các nước Đông Nam Á vẫn mong muốn có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc, cũng như bang giao giữa Bắc Kinh và Washington tốt đẹp.
Do vậy, tư lệnh Willard nhấn mạnh, khi đánh giá ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á, không nên chỉ dừng lại ở chỗ nhận định xem sự trỗi dậy của Trung Quốc đặt ra những thách thức gì, mà còn cần phải chú ý đến các khía cạnh khác. Ông nói : « Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có lợi cho toàn khu vực và chắc chắn có lợi cho Hoa Kỳ và các quan hệ kinh tế của chúng ta với Trung Quốc ».
Vẫn theo đô đốc Willard, sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông có vai trò cực kỳ quan trọng. Trao đổi mậu dịch giữa Mỹ và khu vực này lên tới 5,3 nghìn tỷ đô la mỗi năm, tương đương 1/5 tổng kim ngạch thương mại của Hoa Kỳ. Ông nói rõ : « Bộ máy quân sự Mỹ phải hiện diện ở đây để bảo đảm an ninh cho các tuyến lưu thông trên biển có tầm quan trọng về kinh tế thương mại đối với Hoa Kỳ và các đồng minh, đối tác của chúng ta trong khu vực ».
Đố đốc Willard nói, « Chúng tôi nhận thấy ít các vụ đối đầu hơn trong năm 2012 so với các năm trước » và có thể coi 2010 là năm đánh dấu, để so sánh các vụ xung đột ở Biển Đông. Tuy nhiên, theo vị tướng này, Trung Quốc không ngừng tăng ngân sách quốc phòng trong nhiều năm qua, vẫn liên tiếp có những hành vi nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền, điều động tàu bè đến hoạt động ở những khu vực đang có tranh chấp.
Mặt khác, đô đốc Willard cho rằng « những thông điệp mạnh mẽ » của Ngoại trưởng Hillary Clinton, của cựu bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates, cũng như từ phía Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN đã gây ấn tượng đối với Trung Quốc. Theo các bình luận chung, thì điều này đã làm Trung Quốc ngạc nhiên và buộc họ phải xem xét lại cách tiếp cận vấn đề cụ thể trong việc đưa ra những yêu sách chủ quyền tại Biển Đông.
Tháng 07/2010, khi tham dự Diễn đàn an ninh khu vực ARF tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tuyên bố rằng « tự do lưu thông » ở Biển Đông là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ. Đồng thời, Washington đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam và Philippines. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ có kế hoạch lập căn cứ thủy quân lục chiến tại Úc.
Trong lĩnh vực thương mại, Hoa Kỳ không ngừng gây áp lực đối với Trung Quốc. Hôm qua, chính quyền của tổng thống Obama đã lập một cơ quan chuyên theo dõi, xử lý việc bán phá giá hàng nhập khẩu vào Mỹ.
Trước các động thái này, Trung Quốc đã tố cáo Hoa Kỳ can thiệp vào công việc của khu vực. Tháng trước, báo chí của Nhà nước Trung Quốc còn kêu gọi Bắc Kinh nên trừng phạt Manila, nếu Philippines cho phép tăng số lính Mỹ hiện diện trên lãnh thổ nước này.
Khi nhận định là chính sách cứng rắn của Mỹ đã góp phần làm cho Trung Quốc bớt hung hăng ở Biển Đông, tư lệnh bộ Chỉ huy Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cũng thừa nhận là cho dù có các tranh chấp về chủ quyền trên biển, các nước Đông Nam Á vẫn mong muốn có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc, cũng như bang giao giữa Bắc Kinh và Washington tốt đẹp.
Do vậy, tư lệnh Willard nhấn mạnh, khi đánh giá ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á, không nên chỉ dừng lại ở chỗ nhận định xem sự trỗi dậy của Trung Quốc đặt ra những thách thức gì, mà còn cần phải chú ý đến các khía cạnh khác. Ông nói : « Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có lợi cho toàn khu vực và chắc chắn có lợi cho Hoa Kỳ và các quan hệ kinh tế của chúng ta với Trung Quốc ».
Vẫn theo đô đốc Willard, sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông có vai trò cực kỳ quan trọng. Trao đổi mậu dịch giữa Mỹ và khu vực này lên tới 5,3 nghìn tỷ đô la mỗi năm, tương đương 1/5 tổng kim ngạch thương mại của Hoa Kỳ. Ông nói rõ : « Bộ máy quân sự Mỹ phải hiện diện ở đây để bảo đảm an ninh cho các tuyến lưu thông trên biển có tầm quan trọng về kinh tế thương mại đối với Hoa Kỳ và các đồng minh, đối tác của chúng ta trong khu vực ».
Philippines kiên quyết mở rộng hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông
Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario (Reuters)
Trọng Nghĩa -RFI
Hôm nay 29/02/2012, chính quyền Manila tuyên bố kiên quyết mở rộng
hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông và phớt lờ lời cảnh cáo đến từ
Trung Quốc. Philippines cho biết nước này có toàn quyền mời công ty nước
ngoài đến thăm dò dầu khí trong vùng biển nằm giữa bờ biển phía tây của
mình và Biển Đông.
Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã xác định như trên vào
hôm nay, 29/02/2012, trong một tuyên bố ngắn gọn nhằm bác bỏ lời cáo
buộc vừa được Bắc Kinh lập lại, theo đó Manila đã vi phạm chủ quyền của
Trung Quốc với kế hoạch cho đấu thầu 15 lô thăm dò dầu khí ngoài khơi
Philippines.
Theo Ngoại trưởng Philippines, vùng biển được nước này mở ra cho các nhà đầu tư ngoại quốc hoàn toàn nằm trong khu vực « thuộc chủ quyền » của Manila, dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Tranh cãi đã nổ ra sau khi Philippines xác nhận việc chuẩn bị cấp giấy phép cho các hãng dầu khí nước ngoài vào thăm dò và khai thác dầu khí tại 15 lô ngoài khơi Philippines, trong đó có các lô tại khu vực phía tây bắc tỉnh Palawan, nằm hẳn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của dặm kinh tế của Philippines.
Khi được hỏi về kế hoạch của Philippines, vào hôm qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho rằng khu vực ngoài khơi đó là của Trung Quốc. Theo ông Hồng Lỗi, Bắc Kinh coi là « bất hợp pháp hành động của bất kỳ quốc gia, chính phủ hay công ty nào nhằm khai thác dầu khí trong các vùng biển thuộc thẩm quyền của Trung Quốc mà không được phép của Trung Quốc ».
Qua tuyên bố của mình, như vậy là Ngoại trưởng Philippines đã phản bác lập luận của Bắc Kinh. Quan điểm của Manila cũng được Thứ trưởng Năng lượng Philippines James Layug nhấn mạnh.
Phát biểu với một số nhà báo vào hôm nay, ông James Layug xác nhận là chính quyền Manila đang chuẩn bị cấp giấy phép thăm dò cho 15 lô ngoại khơi, trong đó có ba lô nằm ở Biển Đông. Đối với ông Layug, Trung Quốc không có quyền hợp pháp nào đối với ba khu vực mà họ đòi chủ quyền, vì lẽ các khu này nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, không có nước nào khác tranh chấp ngoại trừ Trung Quốc.
Thứ trưởng Năng lượng Philippines nói rõ là 3 lô khai thác bị Trung Quốc tranh chấp chỉ nằm cách bờ biển Palawan 72 và 80 hải lý, trong khoảng cách với bờ biển Trung Quốc lên đến 575 hải lý.
Ông Layug còn xác định là có đến 36 công ty tham gia cuộc đấu thầu 15 lô thăm dò dầu khí, trong đó các các tập đoàn quốc tế cỡ lớn như Total, Esso,và Mitra.
Theo Ngoại trưởng Philippines, vùng biển được nước này mở ra cho các nhà đầu tư ngoại quốc hoàn toàn nằm trong khu vực « thuộc chủ quyền » của Manila, dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Tranh cãi đã nổ ra sau khi Philippines xác nhận việc chuẩn bị cấp giấy phép cho các hãng dầu khí nước ngoài vào thăm dò và khai thác dầu khí tại 15 lô ngoài khơi Philippines, trong đó có các lô tại khu vực phía tây bắc tỉnh Palawan, nằm hẳn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của dặm kinh tế của Philippines.
Khi được hỏi về kế hoạch của Philippines, vào hôm qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho rằng khu vực ngoài khơi đó là của Trung Quốc. Theo ông Hồng Lỗi, Bắc Kinh coi là « bất hợp pháp hành động của bất kỳ quốc gia, chính phủ hay công ty nào nhằm khai thác dầu khí trong các vùng biển thuộc thẩm quyền của Trung Quốc mà không được phép của Trung Quốc ».
Qua tuyên bố của mình, như vậy là Ngoại trưởng Philippines đã phản bác lập luận của Bắc Kinh. Quan điểm của Manila cũng được Thứ trưởng Năng lượng Philippines James Layug nhấn mạnh.
Phát biểu với một số nhà báo vào hôm nay, ông James Layug xác nhận là chính quyền Manila đang chuẩn bị cấp giấy phép thăm dò cho 15 lô ngoại khơi, trong đó có ba lô nằm ở Biển Đông. Đối với ông Layug, Trung Quốc không có quyền hợp pháp nào đối với ba khu vực mà họ đòi chủ quyền, vì lẽ các khu này nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, không có nước nào khác tranh chấp ngoại trừ Trung Quốc.
Thứ trưởng Năng lượng Philippines nói rõ là 3 lô khai thác bị Trung Quốc tranh chấp chỉ nằm cách bờ biển Palawan 72 và 80 hải lý, trong khoảng cách với bờ biển Trung Quốc lên đến 575 hải lý.
Ông Layug còn xác định là có đến 36 công ty tham gia cuộc đấu thầu 15 lô thăm dò dầu khí, trong đó các các tập đoàn quốc tế cỡ lớn như Total, Esso,và Mitra.
Ls. Trần Lâm – Việt Nam phải thay đổi! Thời gian không thể chờ đợi!
Trần Lâm (Danlambao) -
Việt Nam đang vô cùng bức bối trước sự o ép của Trung Quốc. Mỹ trở lại
Châu Á, một chút hy vọng nhen nhóm. Tình hình khu vực mỗi ngày một thay
đổi, hy vọng lớn dần. Bản thân Việt Nam dù chậm chạp nhưng phong trào
cũng đã nhích dần. Các thay đổi dù nhỏ nhưng ngày ngày vẫn tăng. Đã đến
lúc cần xem lại mọi vấn đề một cách rộng rãi hơn trong việc đoán định
tương lai, con đường đi lên, tiến tới độc lập tự cường và ứng phó kịp
thời trước mọi khó khăn. Tình hình khu vực, quốc tế đã xuất hiện nhiều
yếu tố mới đòi hỏi phải có sự xem xét thấu đáo.
BÀI HỌC MYANMA
Myanma quằn quại dưới ách thống trị của giới quân sự cầm quyền. Trung
Quốc là người đỡ đầu giới cầm quyền này. Thật bất ngờ, Tổng Thống Thein
Sein ra lệnh ngừng xây dựng đập thuỷ điện 4 tỉ USD của Trung Quốc trong
khi Trung Quốc viện trợ cho Myanma 14 tỉ USD, ông tuyên bố xanh rờn
“làm theo ý dân”. Trong năm qua ông còn ra quyết định theo hướng dân
chủ: Thả tù chính trị, để phe đối lập tham gia ứng cử, bầu cử. Bà San
Sun Kyi, lãnh tụ phe đối lập, con gái nhà yêu nước Aungsan, giải thưởng
Nobel hoà bình đã bị giam lỏng hơn 10 năm đã tham gia tranh cử với tư
cách đại diện của phe đối lập. Bà thừa nhận các thay đổi này là từ thực
lòng của giới cầm quyền.
Có dư luận là Tổng Thống tiền nhiệm là ông Than Shwe đã dàn dựng sự
thay đổi, đưa ông Tổng Thống đương nhiệm lên cầm quyền để thực thi
đường lối này. Ông Than Shwe được mệnh danh là “Chuyên gia chiến tranh
tâm lý” từ lâu. Cũng còn dư luận, giới quân sự im lặng là để tình hình
diễn biến êm đẹp, vì đã chứng kiến quá nhiều đau thương, tang tóc do
mình gây ra, nay ý thức được mình đã già, muốn được thanh thản, an bình.
Người dân thì vui mừng vì cùng một lúc thấy thoát được 2 cái nạn:
Phương Tây cấm vận, Trung Quốc o ép. Mỹ ký kết hiệp ước nhiều mặt với
Myanma. Trung Quốc thì tuyên bố: Myanma thay đổi là tốt, không có ảnh
hưởng tiêu cực nào tới Trung Quốc. Thực ra, Trung Quốc mất rất nhiều,
thời cuộc nay đã thay đổi, nên đành phải “ngậm bồ hòn làm ngọt”.
Tác giả – Luật sư Trần Lâm (trái) chụp ảnh cùng Nguyễn Tiến
Trung (phải). Luật sư Trần Lâm sinh năm 1925, nguyên là Thẩm phán Tòa án
Nhân dân Tối cao, Vụ phó Ủy Ban Kế Hoạch Nhà nước. LS Trần Lâm cũng là
người tham gia bào chữa trong rất nhiều vụ án chính trị nổi tiếng
TRUNG QUỐC KHÔNG MẠNH NHƯ TA TƯỞNG
Lâu nay vì sao mà Trung Quốc hống hách đến như vậy? Trung quốc vì
sao lại có thể buộc Việt Nam phải lệ thuộc chặt chẽ vào mình như vậy?
Việt Nam sao lại có thể như thế được?
Phải
chăng Trung Quốc là một kẻ đại bịp khi lấy tăng trưởng kinh tế làm con
bài hù doạ: Tăng trưởng thần kỳ là sức mạnh vô biên ! Trung Quốc chỉ nay
mai sẽ bá chủ thế giới! Vậy mà năm qua, két bạc Trung Quốc đã thụt mất
20 %. Bao nhiêu của cải rải khắp nơi đều đình đốn, vỡ vụn, nợ của các
Tỉnh bằng số tiền Mỹ nợ Trung Quốc. Người ta đói mà người ta lại vui vẻ
vỗ tay “Hoan hô Mỹ ở lại Châu Á!”. Mình khoẻ mà sao mình lại rầu rĩ,
xuống thang, trở nên nhu mì, hiền hậu bất ngờ. Sẽ chờ xem bao giờ thì
“Gió Tây thổi bạt Gió Đông”.
Chiêu thứ 2 của Trung Quốc là phát triển ồ ạt lực lượng quân sự,
lấy việc đó để hù doạ thế giới : “Trung Quốc đánh đâu được đấy!”, “Trung
Quốc sẽ thống trị thế giới!”. Hai năm qua, sự thể không phải như vậy.
Cái tầu sân bay cũ sửa mãi không ra hồn. Vũ khí trộm được, mua được…cứ
thế mà nhái, mà nhại theo. Một tướng Mỹ bình luận: “Có vũ khí là một
chuyên, dùng được vũ khí lại là một chuyện khác, phải mất rất nhiều
thời gian. Có một cái lại phải có bao nhiêu cái phối hợp…!”.
Cái bất ngờ lớn của Trung Quốc là Mỹ trở lại, Mỹ như đang rà soát
lại quan hệ với các đồng minh Châu Á, bổ xung, tăng cường chuyển giao kỹ
thuật, tầu bè… cho các đồng minh. Mỹ sắp ký kết với Myanma, việc còn
lại là ký với Việt Nam, chỉ là vấn đề thời gian. Mỹ thắt chặt quan hệ
với Ấn Độ, không rời bỏ Đài Loan, triển khai quân đội đến Australia… cái
vòng xích xiết chặt Trung Quốc như chỉ còn thiếu Việt Nam. Biên giới
Trung – Ấn gập ghềnh, xa vời làm xong đường xá phải mất hàng chục năm.
Trung Quốc đang bị vây tứ phía, phải lúc chiến tranh, các con đường bị
khép lại, hết dầu, hết nguyên liệu, hết nơi tiêu thụ… Trung Quốc sẽ ra
sao đây?
Đặc khu Tam Sa với các tầu ngầm nguyên tử, với tầu sân bay đang
hoàn thiện, với 80 tầu kiểm ngư ngày đêm ngược xuôi Biển Đông, dàn khoan
khổng lồ sẽ hút cạn khô dầu Biển Đông… đâu rồi? Một đạo quân mấy triệu
người chưa từng ngửi khói súng của chiến tranh với mớ lý luận xuông, lý
thuyết chiến trận là chắp vá, rất huyênh hoang mà nay đang thờ thẫn và
im re!? Có người đặt câu hỏi: Một khi chiến tranh Châu Á Thái Bình Dương
nổ ra, đồng minh của Trung Quốc là ai nhỉ? Câu trả lời lúc này là: Chỉ
có Việt Nam “Môi Hở Răng Lạnh” với “16 chữ vàng” và “4 tốt”… ngoài ra
còn gì nữa? Việt Nam đang chán ngấy và đang muốn nói lời chia tay…
Còn có thể nhìn nhận, Trung Quốc còn bao nhiêu khó khăn và hạn chế khác nữa.
Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam, rõ ràng Trung Quốc là cái
“Phanh”, cái “Khoá” đối với sự tiến bộ và sự thay đổi của Việt Nam. Cái
“Phanh” nay đã rão, không lâu nữa cái chốt sẽ phải mở, đó là lúc Việt
Nam “Tháo Cũi Sổ Lồng”… xem ra truyện này không còn xa vời.
Đã đến lúc không sợ Trung Quốc như trước, không để cho “Người ta mạnh vì ta quỳ gối”. Một nền ngoại giao bình đẳng sòng phẳng Việt Trung là cái đích mà chúng ta hướng tới. Phải chăng chúng ta không phải chờ lâu.
III. BIỂN ĐÔNG VÀ LỐI THOÁT
Việc Biển Đông nay như mới bắt đầu. Việc giải quyết không biết bao giờ mới xong:
1. Đầu tiên Việt Nam kiên quyết: Biển Đông là của Viêt Nam, không
có đàm phán song phương. Rồi lại đến lúc có mối quan hệ không tuyên bố
giữa Việt Nam và Trung Quốc như là Việt Nam chấp nhận đàm phán song
phương, sau đó lại im bặt. Indonesia, Philippinse tăng cường quân sự như
muốn thế chân Việt Nam đối đầu với Trung Quốc. Phải chăng ban lãnh đạo
Việt Nam đã bắt đầu phân liệt, nửa theo Tây, nửa theo Đông ! Rồi việc Mỹ
lại mời Việt Nam ký kết hiệp ước như kiểu Mỹ đã ký với Philippinse. Bây
giờ lại thấy im hơi lặng tiếng. Có người nói: Chẳng bao giờ có “song
phương”, ai dám đơn phương ngồi bàn riêng với Trung quốc chỉ có 2 bên để
rồi Trung Quốc chiếm hết, rồi nhân dân ta nguyền rủa muôn đời là kẻ bán
nước. Trung Quốc dùng lá bài song phương để mê hoặc Việt Nam để độc
chiếm Biển Đông… kế hoạch này nay có nguy cơ phá sản.
2. Điểm thứ 2 là về mặt pháp luật: Không có vụ việc tranh chấp nào
vừa kiện vừa điều đình như vụ việc Biển Đông. Việc đăng ký thềm lục địa
là chính thức, bó buộc phải được giữ nguyên. Việc điều đình song phương,
đa phương có thể tự nguyện làm sau việc đăng ký thềm lục địa xét xử
xong. Như trên đã nói, đàm phán song phương có nhiều nghi vấn: Trung
Quốc và Việt Nam đều là toàn trị, không có đảng đối lập, không có trưng
cầu dân ý, Liên Hợp Quốc cần phải làm tròn trách nhiệm bảo vệ dân chủ,
bảo vệ hoà bình của tổ chức lớn nhất thế giới này. Những động thái gần
đây của các bên cho ta thấy, Trung Quốc đã tỉnh ra nhiều, đã thấy việc
mình làm có nhiều điều trái ngược. Lúc này Liên Hợp Quốc ra tay là đúng
lúc, Trung Quốc phải chịu, thế giới vừa lòng.
3. Để ổn định tình hình thiết nghĩ cần thúc đẩy quyết định về ứng
xử ở Biển Đông mà các nơi đang làm, chuẩn bị tích cực việc xét duyệt
việc đăng ký thềm lục địa đối với các nước liên quan đến Hoàng Sa –
Trường Sa.
Tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa, vấn đề Biển Đông trước đây như đầy
khó khăn, hôm nay sự việc như dần sáng tỏ. Con đường giải quyết không
còn quá mờ mịt nữa… Trách nhiệm của Liên Hợp Quốc trong việc xét đăng ký
thềm thục địa là hết sức quan trọng. Ứng xử của Liên Hợp Quốc trong vấn
đề này sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với khu vực và uy tín của cơ quan
tối cao trong việc duy trì hòa bình và ổn định cho toàn thế giới. Vì
vậy, phải chăng lúc này là lúc Liên Hợp Quốc phải ra tay bằng cách xét
duyệt việc đăng ký thềm lục địa. Thiển nghĩ Liên Hợp Quốc mà dám phủ
nhận đường lưỡi bò đầy sai trái của Trung Quốc thì những tranh chấp vụn
vặt trong vùng biển đó sẽ tự tan biến.
IV. CHUYỂN ĐỔI HAY LÀ CHẾT
Họp Đại Hội Đảng có một cương lĩnh, trong đó không có 2 chữ Trung
Quốc. Một người nói: Lúc này không nói đến Trung Quốc tức là không nói
gì. Rồi lại có một văn bản nêu những điều cấm kỵ đối với Đảng Viên.
Nhiều người đọc xong chép miệng: “Đảng Viên không có quyền công dân, phải chăng không còn Đảng, chỉ còn tập đoàn cầm quyền”(!?)
Về chính trị, tập đoàn cầm quyền chịu sự chi phối của nước ngoài .
Trong bang giao, chỉ dám phản ứng bằng hậm hực hoặc cúi đầu…như thế độc
lập là cũng không còn nữa.
Về kinh tế, làm nhiều nhưng hiệu quả thấp, được 1 thì mất đến 10.
Dân chúng hiện nay bị nhìn nhận như những những người bị bóc lột.
Về văn hoá xã hội, xây dựng cơ bản thì làm nhiều lắm, nhưng làm gì
cũng hỏng… Hà Nội và Sài gòn, cuộc sống của người dân nếu không được nằm
trong “Nhóm Lợi Ích”, nhóm quan tham thì đói khổ hơn bao giờ hết.
Về đạo đức, các mặt đều sa sút, sự sa sút lại khởi đầu từ những
người cầm quyền. Hàng ngày cầm tờ báo, ai cũng sửng sốt vì số vụ giết
người quá nhiều. Các vụ án kinh tế như Vinashin, vụ Hà Giang, vụ in tiền
polyme Việt Nam ở Úc… hình như chào thua các vụ đang xẩy ra ở mức độ
nghiêm trọng, mức độ thiệt hại… càng thao gỡ càng mệt nhoài trong vô
vọng. Hiện tượng sụp đổ như báo trước. Nếu không thay đổi thì xã hội
Việt Nam sẽ phải đối diện với những bất ổn, những thảm họa do những
người cùng quẫn “Chết không có gì để mất – Sống không có gì để hy vọng” có thể gây ra.
Hiện tại, việc thoát Việt Nam thoát khỏi bàn tay Trung Quốc như đã
có hy vọng, chuyển đổi đường lối như đã nhen nhóm. Cuộc cách mạng dành
độc lập, xây dựng dân chủ đã khởi đầu. Cũng là bó buộc nếu không muốn
mất nước vì giặc ngoài thù trong. Thay đổi hay là chết không phải là lời
kêu gọi rỗng tuyếch của một não trạng không bình thường.
V. VIỆT NAM CHUYỂN ĐỔI NHƯ THẾ NÀO?
Quốc Hội vừa ban bố lệnh sửa đổi Hiến Pháp, một việc làm khó khăn,
cam go đến mức sống còn. Sửa đổi Hiến Pháp là phải sửa đổi từ gốc. Việt
Nam hiện nay là độc Đảng, toàn trị, Hiến Pháp hiện hành nói thì dài
dòng, nhưng thực ra chỉ có điều 4 nói lên tất cả. Bỏ điều 4 là không còn
chế độ hiện hành. Vẫn cứ giữ điều 4 thì việc sửa đổi Hiến Pháp thành ra
trò mị dân, như một trò đùa gây phẫn nộ cho dân mà lòng dân đang sôi
sục. Cuộc chơi với lửa đã bắt đầu, đây là sự “Phản Tỉnh” của giới cầm
quyền như Myanma, hay chỉ là sự vụng suy của giới cầm quyền! Hãy chờ
xem!
Kinh nghiệm của sự chuyển đổi đã có từ mấy trăm năm. Vua Loui 14
của Pháp vỗ ngực “Quốc gia là ai? Quốc gia là ta!” mà cách mạng tư sản
Pháp vẫn bùng nổ, chế độ dân chủ ra đời cách đây đã mấy trăm năm. Việt
Nam hiện nay chưa có một người kiệt xuất như San Suu Kyi đưa đường chỉ
lối, chúng ta phải chờ đợi. Sự chờ đợi chắc không lâu.
Giai đoạn này đang nổi lên 2 vấn đề rất cần tìm hiểu: Thái độ của
Trung quốc và những việc làm cụ thể của ta trong việc thay đổi Hiến
Pháp. Xin hãy chờ xem… Nếu giới cầm quyền thực lòng muốn chuyển đổi như
Myanma, thì cần có những tiền đề, những việc cần làm ngay để cho việc
chuyển đổi được tốt nhất.
Hiện nay ta không có Đảng đối lập, chỉ có phong trào quần chúng…
nên chuyển đổi ngay là không khả thi, phải chủ động tạo ra đối lập, vì
có đối lập là có mâu thuẫn, mà mâu thuẫn là động lực của phát triển. Xin
lưu ý: Khái niệm Đối Lập ở đây không có nghĩa là đối đầu, đối kháng. Vì
thế, ngay lúc này cần có các nới lỏng về dân chủ, về nhân quyền… tạo
điều kiện cho các phong trào quần chúng, các Hội Đoàn, các Đảng phái
chính trị mới ra đời. Có phong trào, có tổ chức, những người đại diện
cho quần chúng xuất hiện, lực lượng dân chúng hình thành. Các cuộc tiếp
xúc, các Hội Nghị bàn tròn sẽ được tổ chức. Tiền thân của các Đảng đối
lập và nền dân chủ đa nguyên được hình thành. Những khởi đầu này là bắt
buộc.
Ai sẽ là những người tham dự các Hội Nghị bàn tròn? Tất nhiên một
bên là những người đang cầm quyền, chấp nhận Đa Nguyên, Đa Đảng, một
lòng vì sự sống còn của đất nước. Một bên là những người của dân, họ là
những người trước đây hay hiện nay vẫn mang danh Cộng Sản, kết hợp với
họ là những người tiêu biểu của các lão thành, các người trong giới tinh
hoa trong nước, ngoài nước. Tóm lại, họ có thể là những người “Cộng Sản
Tử Tế”, những người cộng sản phản tỉnh, những nhân sĩ không đảng phái
có nhiều kinh nghiệm. Họ có thể vẫn còn khác nhau nhưng cùng chung một ý
nghĩ: “Thay đổi hay là chết!”
Tháng 2 – 2012Báo cáo đồng chí TBT về một vi phạm 19 điều cấm tiệt đảng viên: Chia ruộng cho quan
Quy định mới những điều Đảng viên không được làm: Lợi
dụng chức vụ được giao để chiếm dụng, vay, mượn tiền, tài sản của đối
tượng trực tiếp quản lý trái quy định; Làm trái quy định trong những
việc : quản lý nhà, đất, tài sản, vốn, tài chính của Đảng và Nhà nước…
Vậy xin mời đồng chí Tổng bí thư nhảy lên xe đò về Kiên Giang, Tứ Giác Long Xuyên thăm… quan cho biết sự tình để chỉnh và đốn.
Nhân đây Danlambao kêu gọi các bạn trong thôn “cố gắng quán triệt” 19 Quy định mới “những điều Đảng viên không được làm” của đảng ta và thông tin cho bà con trong thôn những “sự cố vi phạm” để dân ta xem các đồng chí đầy tớ “nói và làm” ra sao.
*
Chia ruộng cho quan
Trúc Lê (Petrotimes)
– Câu hỏi đặt ra là liệu có bất ổn không khi mà những ông cán bộ vừa
làm chủ đất, vừa phát canh thu tô, vừa hưởng lương ngân sách do chính
những tá điền của mình nai lưng ra đóng thuế?
Hiện hàng nghìn hécta đất của vùng Tứ giác Long Xuyên đã
được cấp cho cán bộ tỉnh Kiên Giang. Đối tượng được cấp là cán bộ tỉnh,
huyện đến các ngành. Việc cấp đất cho cán bộ là một chủ trương mà tỉnh
Kiên Giang đã thực hiện trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, nhiều
người sau khi được cấp đất đã bỏ hoang. Trong khi đó hàng vạn nông dân
Đồng bằng sông Cửu Long lại đang đi thuê đất mưu sinh. Hiện có nhiều
người từ Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long… đến Tứ giác Long Xuyên để thuê
đất sản xuất, chủ yếu là trồng lúa. Vì không phải đất của họ, không có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lúa nước nên người nông dân thuê đất
không được thế chấp vay vốn ngân hàng, họ thường phải vay ngoài với lãi
suất cao, nên mãi không thoát được nghèo. Câu hỏi đặt ra là liệu có bất
ổn không khi mà những ông cán bộ vừa làm chủ đất, vừa phát canh thu tô,
vừa hưởng lương ngân sách do chính những tá điền của mình nai lưng ra
đóng thuế?
Có lẽ đến bây giờ chẳng mấy ai dám nghĩ cán bộ là đầy tớ của dân.
Cán bộ công chức không nghĩ thế đã đành, người dân lại càng không dám
nghĩ thế. Song về nguyên tắc, khi anh cán bộ công chức hưởng lương từ
ngân sách, tức là từ tiền thuế của nhân dân đóng góp và từ tiền bán tài
nguyên của đất nước do nhân dân làm chủ thì họ vẫn là công bộc của nhân
dân. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, hằng ngày đang có hàng vạn nông dân mưu
sinh trên những cánh đồng thẳng cánh cò bay, những cánh đồng được coi là
công thổ quốc gia nhưng họ đang đóng vai tá điền, đang quần quật làm
việc để phần lớn thành quả được dành để “nộp tô” cho chủ đất. Oái oăm
thay chủ đất bây giờ không phải địa chủ trong cải cách ruộng đất sau hòa
bình lập lại năm 1954 ở miền Bắc mà là những cán bộ công chức.
Chủ trương cấp ruộng cho cán bộ công chức tỉnh Kiên Giang đang tạo
điều kiện cho một đội ngũ cán bộ công chức tỉnh này làm giàu trên mồ hôi
nước mắt của nông dân. Có thể chủ trương này là một giải pháp nhằm cải
thiện đời sống cho đội ngũ cán bộ công chức đang gặp khó khăn vì đồng
lương công chức eo hẹp. Có thể khi đề ra chủ trương này, chính quyền
tỉnh Kiên Giang không hình dung ra hậu quả là sẽ biến đội ngũ cán bộ của
mình thành “giai cấp địa chủ mới”.
Nhưng điều đó đã xảy ra và những công bộc của nhân dân giờ đây đang
đồng thời đóng cả hai vai trên sân khấu đời. Ở công sở, họ là cán bộ
công chức, là người đề ra, thực thi và phổ biến những chính sách nhằm
phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Trên cánh đồng của mình, trong vai chủ
đất, họ thực thi những biện pháp để thu lợi nhiều nhất từ lao động của
người dân đang làm thuê cho mình. Vừa là ông chủ, vừa là người làm công
cho cùng một đối tượng, thật khó để có thể đóng tròn cả hai vai diễn đối
lập nhau như thế. Và cũng thật khó để yên tâm rằng, những ông chủ đất
trong vai cán bộ công chức sẽ nhìn nhận các tá điền của mình như một đối
tượng mà họ cần tận tâm phục vụ.
Câu chuyện chia đất ruộng cho cán bộ công chức ở Kiên Giang có thể
chưa gây ra những hậu quả trực tiếp. Song rõ ràng đây là một chỉ dấu cho
thấy sự mâu thuẫn giữa tư tưởng và hành động ở một bộ phận cán bộ lãnh
đạo địa phương. Khi những cán bộ cơ sở, những người trực tiếp thực thi
các chính sách kinh tế xã hội thừa hành pháp luật ở địa phương đứng sai
vị trí, nhầm lẫn vai trò của mình trong cuộc sống thì hậu quả của nó là
sự biến dạng các chính sách là mầm mống của sự bất ổn xã hội. Khi nguồn
tài nguyên quan trọng nhất của đất nước trở thành công cụ để đẩy nhanh
quá trình phân hóa giàu nghèo trong xã hội thì những người nắm giữ nguồn
tài nguyên đó, những ông địa chủ hiện đại chắc chắn sẽ không nhìn nhận
mình là đầy tớ, là công bộc của chính những tá điền trên cánh đồng của
ông ta. Và khi đó họ sẽ không thể ý thức được rằng vai trò công chức của
họ là để phục vụ cho lợi ích của người dân.
Hiến pháp phải gắn liền với con người Việt Nam.
Tác giả: Nguyễn Quang Duy – ĐCV
Muốn thiết lập một Thể Chế Tự Do Việt Nam cần một Hiến Pháp Dân Chủ điều này không cần phải bàn tới, nhưng có người vẫn tin rằng phải trở lại với Hiến Pháp 1946.
Trên diễn đàn BBC trước đây, người viết chứng minh rằng chính Hiến Pháp 1946 xây dựng nền tảng cho thể chế độc tài cộng sản. Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến Pháp này không được rõ ràng. Nghị Viện (Quốc Hội) chỉ có Một Viện duy nhất và cũng chính Viện này lại bầu lên một Chủ tịch nước. Quyền hạn của chủ tịch nước được liệt kê ở Điều thứ 49, cho phép chủ tịch nước các quyền hạn tuyệt đối không thua gì Tổng Thống Hoa Kỳ.
Nhưng đến Điều thứ 50 lại ghi rõ “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.” Khi ấy Hồ chí Minh là chủ tịch nước, Điều 50 đặt ông Hồ trên cả Hiến pháp và Luật pháp quốc gia.
Ông Hồ còn kiêm nhiệm chủ tịch đảng Cộng sản. Điều 50 như vậy sửa soạn cho cả một guồng máy chuyên chính cộng sản thần thánh hoá biến ông thành nhà độc tài trong một thể chế chuyên chính toàn trị. Vì thế ông Hồ đã tùy tiện xé bỏ Hiến Pháp 1946 để thay bằng các Cương Lĩnh Đảng 1959, 1980 và 1992. Thật ra dưới chế độ cộng sản Hiến Pháp chỉ là hình thức. Mọi quyết định đều từ các Nghị Quyết Đảng và không ít Nghị quyết hòan tòan vi hiến, thí dụ Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Công Thương Nghiệp hay Nhân Văn Giai Phẩm.
Học theo gương Hồ chí Minh đặt chủ tịch trên Hiến Pháp trên Luật Pháp Quốc Gia, các cháu ngoan của “Bác” đặt Điều 4 vào Hiến Pháp thôn tính tất cả quyền lực nhưng chẳng ai “phải chịu một trách nhiệm nào”. Trường hợp Đại tá Công an Đỗ Hữu Ca vi phạm Hiến Pháp và luật pháp tấn công lương dân nhưng lại trở thành người điều tra xét xử, trong khi gia đình Đòan văn Vươn vì tự vệ lại phải tù. Nhờ tiếng súng của gia đình Đòan văn Vươn mới biết Hiến Pháp 1992 không có điều lệ nào cho phép quân đội (và cả công an) tham gia cưỡng chế đất đai. Hai lực lượng này là để bảo vệ dân chứ không phải để tấn công dân. Còn “luật đất” thì có nhưng nhà nước cộng sản không áp dụng mà chỉ dùng “luật rừng”. Tình trạng lộng quyền đã nói lên tình trạng khủng hỏang Hiến Pháp, khủng hỏang luật pháp và phá sản của guồng máy cai trị tại Việt Nam.
Hồ chí Minh còn sợ bị người dân lật mặt nạ phản quốc. Con và cháu “Bác” ngày nay thì vượt “Bác” ở chỗ không sợ cả tội phản quốc công khai bán nước cho Tầu.
Nhưng khuyết điểm lớn nhất của Bản Hiến Pháp 1946 là thiếu vắng “con người Việt Nam”. Một Hiến Pháp đúng nghĩa cho Việt Nam cần gắn liền với làng xã với con người Việt Nam.
Hiến Pháp Hoa Kỳ
Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ đã xác nhận “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc“. Tư tưởng này là nền tảng cho Bản Hiến pháp Hoa Kỳ, nó đặt quyền người dân trên hết, còn quyền hạn của Chính phủ và Quốc Hội là những quyền do người dân ủy nhiệm.
Một mô hình tam quyền phân lập rõ ràng được đưa vào Hiến Pháp Hoa Kỳ. Quốc hội được trao quyền lập pháp, Tổng thống quyền hành pháp và Tòa án quyền tư pháp. Các quyền của mỗi nhánh lại được cân bằng và kiểm soát bởi các quyền của hai nhánh kia.
Hiến pháp Hoa Kỳ còn nêu rõ quyền hạn của các viên chức chính phủ. Các Nghị sỹ Dân Biểu chỉ được tiếp tục phục vụ nếu họ được tái bầu cử trong các cuộc bầu cử có định kỳ. Các viên chức bổ nhiệm phải được bổ nhiệm theo đúng Hiến Pháp. Nhờ Bản Hiến Pháp này Hoa Kỳ đã thiết lập một chính quyền Trung Ương Liên bang có thực quyền và thống nhất quyền lực đưa Hoa Kỳ từ những thuộc địa trở thành một cường quốc số một trên thế giới.
Cũng chính nhờ Bản Hiến pháp đặt quyền con người trên hết, dù xuất thân từ bất cứ nguồn gốc nào, mỗi người dân đều gắn bó với đất nước trong một niềm tự hào chung là công dân Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Và vì thế Hiến Pháp Hoa Kỳ đã trở thành một Hiến Pháp kiểu mẫu, một mô hình kiểu mẫu được nhiều quốc gia trên thế giới noi theo.
Hiến Pháp 1946 Thiếu Vắng Con Người Việt Nam
Trong bài “Viễn Tượng Việt Nam”, người viết có nhắc đến những người sọan ra Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945 đã sao chép những lời vàng ngọc trong Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ. Trước đó năm 1919 tại Hội Nghị Versailles, nhân Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tham dự và phát biểu về quyền tự quyết dân tộc, Nhóm Người Việt Yêu Nước Nguyễn ái Quốc đã gởi bản “Yêu sách của Nhân Dân Việt Nam” với yêu sách thứ bẩy mong người Pháp ban hành Hiến Pháp cho Việt Nam. Điều này cho thấy giới trí thức Việt Nam từ lâu đã hướng đến Hoa Kỳ như một quốc gia mẫu mực cho Việt Nam noi theo.
Hiến Pháp 1946 cũng được xây dựng dựa trên Hiến Pháp Hoa Kỳ như Điều 49 quyền hạn của Chủ tịch nước tương tự như quyền hạn của vị Tổng Thống Hoa Kỳ. Nhưng các điều khác trong Hiến Pháp này lại trái ngược như tam quyền không phân lập. Việc nghiên cứu tìm hiểu thêm về Hiến Pháp này sẽ giúp cho chúng ta nắm được một giai đọan lịch sử mà tòan dân vừa giành được độc lập đang hướng đến xây dựng một thể chế tự do theo khuôn mẫu Hoa Kỳ.
Điều cần nói Hiến Pháp Hoa Kỳ là mô hình xây dựng cho một quốc gia lớn gồm nhiều cựu thuộc địa và dân chúng xuất xứ từ nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng tất cả đều ham muốn tự do và quyết tâm khai phá miền đất mới Hoa Kỳ.
Trong khi ấy Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp nhỏ. Vào năm 1946 có đến 90 phần trăm dân Việt sống ở nông thôn và cơ cấu hạ tầng của Việt Nam là làng xã. Người Việt luôn gắn bó với làng xã quê hương. Cho dù phải sống xa quê hương người Việt luôn hướng về làng mạc nơi ông cha họ đã khai phá gầy dựng. Chương V của Hiến Pháp 1946 đề cập đến cơ cấu và trách nhiệm Hội Đồng Nhân Dân và Ủy Ban Hành Chánh. Nhưng Chương này nhằm mục đích duy nhất là để Trung Ương cai trị địa phương và địa phương cai trị người dân.
Hiến Pháp 1946 cùng chung mục đích với Hiến Pháp Hoa Kỳ ở chỗ nó hướng đến việc tập trung quyền lực về Trung Ương. Tòan Bản Hiến Pháp 1946 thiếu hẳn sự kết hợp và tham dự của người dân địa phương vào việc hình thành chính sách và chiến lược quốc gia.
Đất và Con Người trong Mô Hình Phát Triển Quốc Gia
Đất, tài nguyên, tiền vốn, kỹ thuật, nhân lực và tri thức là các yếu tố chính trong một nền kinh tế quốc gia. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp. Đến nay 70 phần trăm dân chúng vẫn sống tại thôn quê.
Theo Hiến Pháp hiện hành đất nông nghiệp không thuộc sở hữu nông dân mà thuộc sở hữu nhà nước. Nói cách khác người nông dân chỉ là những bần nông không ruộng không vườn. Dù họ đang sống trên mảnh đất do ông cha để lại, nhưng mảnh đất này đã bị đảng Cộng sản tước mất chủ quyền. Mất quyền sở hữu là mất động năng để người nông dân cần cù chăm sóc cho mảnh ruộng, mảnh vườn. Mất động năng làm việc người nông dân sẽ chỉ làm đủ sống qua ngày. Dân nghèo thì nước cũng nghèo.
Nhà nước giao đất cho nông dân và có quyền lấy lại đất bất cứ lúc nào. Quyền lấy lại đất lại bị các giới chức cầm quyền từ trung ương đến địa phương lạm dụng. Cũng như gia đình Đòan văn Vươn hằng triệu nông dân và gia đình đã, đang và sẽ lâm vào đường cùng. Trong khi đó giới chức cầm quyền càng ngày càng trở nên giàu có và quyền lực hơn.
Các phương cách thu hút vốn đầu tư hay phương cách phân chia vốn đầu tư quốc gia chủ yếu tập trung vào các thành phố các khu công nghệ càng làm cho nông thôn trở nên nghèo khó hơn. Người nông dân phải đóng thuế nhưng họ đóng thuế để phục vụ người giàu. Hậu quả là nông dân phải tha phương cầu thực hay sống nghèo đói tại quê nhà.
Một quốc gia mà phân cách giầu nghèo giữa thôn quê và thành thị càng ngày càng bị đào sâu thì dù giầu có cách mấy cũng không thể xem là một quốc gia phát triển. Đằng này Việt Nam lại là một nước nghèo và nông thôn Việt Nam ngày càng nghèo thêm.
Nói tóm lại cái nghèo của dân quê là do đảng Cộng sản tước bỏ tất cả các quyền mà tạo hóa đã ban cho con người. Muốn đất nước thóat khỏi cảnh nghèo vươn lên một Hiến Pháp mới phải gắn liền với làng xã Việt Nam, quyền của người nông dân phải được mang vào Hiến Pháp này.
Việt Nam Đất Nước của Làng Xã
Khi quân Nguyên xâm chiếm nước ta vua Trần cho vời các vị bô lão đại diện cho làng xã Việt Nam về kinh để xin ý kiến: Nên hòa hay nên chiến? Đây là bản sắc của dân tộc Việt Nam, là sự gắn bó dân chủ giữa trung ương và địa phương, là sự đòan kết giữa người cầm quyền chính danh và người dân từ khắp các thôn quê làng mạc.
Sự thất bại của chế độ cộng sản thúc đẩy chúng ta quay về tìm lại bản sắc dân tộc. Một trong những bản sắc nổi bật nhất chính là làng Việt truyền thống một tổ chức vô cùng đặc biệt. Trong bài viết mới đây tác giả Trần Trung Chính đã chỉ rõ làng là một tổ chức xã hội dân sự.
1. Mỗi làng đều có chợ, chùa, đình, văn từ văn chỉ, đền-miếu, công quán-điếm sở, giếng làng-ao làng, cổng làng, kho nghĩa sương, hệ thống đường làng, nghĩa trang làng và công điền-ruộng công. Nghĩa là mỗi làng đều có mọi phương tiện dịch vụ công cộng nhằm phục vụ cư dân trong làng trong xã.
2. Mỗi làng có pháp chế riêng (hệ thống hương ước), có tín ngưỡng của từng làng (thành hoàng làng)… Các hệ giá trị của làng được dân làng coi trọng như pháp luật nhà nước.
3. Người đứng đầu do các thành viên của làng bầu lên, được khởi đầu vào thời Lê đến thời Hậu Lê đã hoàn thiện và phổ biến áp dụng. Theo Đào Duy Anh việc quản trị hệ thống làng Việt Nam theo kiểu: “Công việc làng thường do dân làng bàn định, chứ nhà nước ít can thiệp đến, mà nhiều khi nhà nước có can thiệp cũng vô hiệu quả, cho nên ở nước ta có câu tục ngữ rằng: Phép vua thua lệ làng”.
Chính nhờ thế khi đất nước lâm nguy, khi quân Tầu xâm lược làng xã mới nối kết để giữ gìn từng tất đất do ông cha để lại.
Cuộc Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc mục tiêu chính là đánh vào cơ cấu hạ tầng dân tộc để đặt lên một guồng máy trung ương tập quyền nhằm kiểm sóat địa phương. Guồng máy này đang trong thời kỳ phá sản và một thể chế tự do sớm muộn gì cũng sẽ đến với Việt Nam.
Từ đầu thế kỷ thứ 20 đến nay người Việt chuộng khuynh hướng hướng ngọai tìm cái hay của ngọai quốc. Điều này rất tốt nhưng cái hay của người ngòai thường khi lại không thích hợp với đất nước với dân tộc Việt Nam. Thể chế tự do chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Để phục hồi xây dựng lại đất nước chúng ta chỉ còn một con đường là quay về gìn giữ những giá trị mà ông cha ta để lại trong đó có giá trị dân chủ trong tổ chức làng xã đã nói bên trên.
Hiến Pháp Thụy Sĩ
Trả lời với các hội viên Lions International, Giáo sư Victoria Curzon-Price của Đại học Genève, cho biết nền kinh tế chánh trị Thụy sĩ hoàn toàn trái ngược các quốc gia láng giềng phần đông đang bị khủng khoảng và đình trệ là nhờ họ có một Hiến Pháp dân chủ đặc biệt đang hình thành bởi hai sức ép: sự cạnh tranh giữa các “tỉnh –canton” và“quyền sáng kiến”. Về quyền sáng kiến thì “… Những người dân cử đều dưới quyền kiểm soát của công dân. Bất cứ lúc nào, một nhóm công dân đều có thể đưa ra một ý kiến một sáng tạo. (100 000 chữ ký cho một sáng kiến cấp Liên bang) chống một đạo luật, đề nghị một đạo luật, có khi cả một dự án luật, miễn là đừng đi ngược với Hiến Pháp. Dĩ nhiên với một sức ép như vậy, các vị dân cử khó có thể đề nghị tăng thuế hay tăng tiền xài …”
Không riêng gì Thụy sĩ, tại các quốc gia dân chủ người lãnh đạo luôn muốn lắng nghe quan điểm của công dân. Ngày 24-2-2012, Quốc Hội Liên Bang Úc mời Cộng Đồng Người Việt Tự Do, Khối 8406, Ủy Ban Bảo Trợ Người Lao Động và Qũy Tù Nhân Lương Tâm xin ý kiến nhằm hòan chỉnh diễn trình Đối thọai Nhân quyền giữa chính quyền Úc và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Tổng thống Barack Obama cũng đã chính thức muốn tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ để lắng nghe chúng ta trình bày các quan tâm đến tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Cuộc gặp đã được thu xếp và sẽ diễn ra tại Tòa Bạch Ốc vào trưa Thứ Hai, mùng 5 tháng Ba sắp tới. Cuộc gặp dự trù kéo dài 3 giờ đồng hồ giữa các giới chức Tòa Bạch Ốc và khoảng 100 người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ
Thế nhưng Hiến Pháp Úc, Hiến Pháp Hoa Kỳ lại không cho quyền người dân trực tiếp tham gia hình thành các chính sách quốc gia.
Hiến Pháp Gắn Liền Với Con Người Việt Nam
Ưu điểm của Hiến Pháp Thụy Sĩ là ghi nhận quyền sáng kiến để người dân có thể trực tiếp đề ra những chính sách hầu tối đa lợi ích quốc gia. Quyền sáng kiến đã thích hợp với Thụy Sĩ sao lại không thích hợp với Việt Nam ?
Vì thế quyền sáng kiến nên được đưa vào Hiến Pháp Mới của Việt Nam. Nhưng thay vì chữ ký của người dân nên thay bằng chữ ký của một tỷ lệ làng xã Việt Nam, cả thôn quê lẫn thành thị. Nó sẽ giúp người dân nhất là người nông dân được trực tiếp tham gia vào việc hình thành các chính sách quốc gia. Nó sẽ giúp cân bằng quyền lực giữa trung ương và địa phương và tạo nên sự công bằng giữa các địa phương. Một Hiến Pháp với sự liên tục tham gia trực tiếp giữa làng xã và chính quyền Trung Ương sẽ giúp Việt Nam thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Lần tới để tưởng nhớ Ngày Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thọ nạn người viết sẽ chia sẻ cùng bạn đọc tư tưởng tòan dân chính trị của Đức Thầy. Bạn đọc sẽ thấy được ý tưởng trong bài viết có thể thích hợp cho Việt Nam Thống Nhất từ Bắc xuống Nam. Mời bạn đón xem.
Melbourne, Úc Đại Lợi
22/2/2012.
© Nguyễn Quang Duy
© Đàn Chim Việt
—————————————-
Tài Liệu Tham Khảo
Nguyễn Quang Duy (10-2005), Hiến pháp đúng mực sẽ giúp người dân làm chủ,www.bbc.co.uk
Nguyễn Quang Duy (2-2012), Viễn Tượng Việt Nam: Tự Do, Tri Thức Và Phát Triển.
Phan Văn Song (1-2012), Sự thành công của Thụy sĩ: Chánh trị hay Kinh tế?
Trần Trung Chính (2-2012), Tổ chức xã hội dân sự – một di sản của Việt Nam
Theo chân bà Aung San Suu Kyi trên đường vận động tranh cử
Vào lúc cuộc vận động tranh cử đang trở nên sôi nổi hơn, đảng của khôi nguyên giải Nobel hòa bình Aung San Suu Kyi là khuôn mặt nổi bật của phe đối lập chính trị. Từ Rangoon, thông tín viên VOA Danielle Bernstein ghi nhận về sự phấn khởi và căng thẳng đối với cuộc vận động tranh cử của chính trị gia nổi tiếng nhất Miến Điện. Danielle Bernstein | Rangoon – VOA
Hình: AP
Các ủng hộ viên mang hoa tặng lãnh tụ dân chủ Miến Ðiện Aung San
Suu Kyi trên đường đi vận động tranh cử tại thị trấn Thone-Gwa ở Yangon,
ngày 26/2/2012
Những đám đông ủng hộ viên ngưỡng mộ bà Aung San Suu Kyi đã tụ tập trên khắp nước tại các cuộc tập họp để được nhìn thấy bà.
Tuy bà Suu Kyi thu hút sự chú ý nhiều nhất, nhưng các ứng cử viên khác trong Liên minh Toàn quốc Đấu tranh cho Dân chủ của bà, như nhà hoạt động về bệnh AIDS Phyu Phyu Thin, cũng được chú ý phần nào.
Bài hát tập hợp nói rằng đảng của bà Aung San Suu Kyi phải trở lại để phục vụ nhân dân và ông Phyu Phyu Thin cũng sẽ làm như thế.
Liên minh Toàn quốc Đấu tranh cho Dân chủ, tức NLD, đã vắng mặt một cách đáng chú ý trên các lá phiếu và các cuộc vận động trong cuộc bầu cử năm 2010 và sự trở lại của đảng này đã đem lại sự vui mừng thấy rõ trong các cuộc tập hợp sôi nổi trên đường phố.
Cô Kyi Kyi Win là một trong những người tham dự cuộc tập họp đã vẽ dán lên mặt và quần áo đầy các nhãn vận động. Vừa phất cờ mang huy hiệu con công của đảng NLD, cô vừa nói chính cô đang tính trở thành một thành viên của NLD – một quyết định có thể coi như cực kỳ nguy hiểm cách đây một năm.
Cô nói cô nghĩ rằng bà Aung San Suu Kyi có thể thắng với khoảng cách biệt làm cô hài lòng. Cô nói cô không bao giờ nghĩ rằng sẽ có thể có được một sự cởi mở chính trị như thế.
Không phải ai cũng vui mừng trước sự trở về của bà Aung San Suu Kyi. Các đảng đối lập khác không có được cái hào quang và sự tài trợ giống như NLD.
Ông Tae Yi là người phải đương đầu với công tác không ai muốn làm là ra tranh cử với bà Suu Kyi ở Kawhmu. Ông đã theo đuổi một vụ kiện nêu nghi vấn về tính hợp pháp của việc bà ra tranh cử, cho đến khi một phán quyết trong tuần này bác bỏ lời thách thức của ông và đưa tên bà lên lá phiếu.
Ông Tae Yi nói ông không có tị hiềm cá nhân nào với ba Aung San Suu Kyi và ông rất vui được ra tranh cử với bà.
Ứng cử viên 80 tuổi này nói cương lĩnh của ông bao gồm việc giải quyết các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Mặc dù phán quyết của tòa bác bỏ việc ông chống bà Suu Kyi, đảng Thống nhất và Hòa bình của ông nói đảng vẫn còn chống đối tính hợp pháp của bà.
Chính trị gia đương nhiệm tại tỉnh Kawhmu là một đại diện của đảng Liên đoàn Đoàn kết và Phát triển USDP, một đảng thay mặt cho chính phủ cũ đã chiếm thế đa số ápđảo trong quốc hội. Ưùng cử viên của USDP chưa nộp đơn khiếu nại chống lại bà Aung San Suu Kyi.
Cuộc bầu cử ngày 1 tháng 4 sắp tới sẽ chỉ lấp đầy 48 ghế còn trống tại Quốc hội, là con số thua xa con số cần thiết để thách đố quyền lực lập pháp của đảng cầm quyền. Nhưng một tháng trước ngày bầu cử, sự biểu dương mạnh mẽ ủng hộ cho Liên minh Toàn Quốc Đấu tranh cho Dân chủ và nhà lãnh đạo nổi tiếng của đảng này đã chứng tỏ rằng, bất kể 20 năm bị gạt ra ngoài lề chính sự, đảng này vẫn còn nắm được sự ủng hộ của một số người đáng kể.
Tuy bà Suu Kyi thu hút sự chú ý nhiều nhất, nhưng các ứng cử viên khác trong Liên minh Toàn quốc Đấu tranh cho Dân chủ của bà, như nhà hoạt động về bệnh AIDS Phyu Phyu Thin, cũng được chú ý phần nào.
Bài hát tập hợp nói rằng đảng của bà Aung San Suu Kyi phải trở lại để phục vụ nhân dân và ông Phyu Phyu Thin cũng sẽ làm như thế.
Liên minh Toàn quốc Đấu tranh cho Dân chủ, tức NLD, đã vắng mặt một cách đáng chú ý trên các lá phiếu và các cuộc vận động trong cuộc bầu cử năm 2010 và sự trở lại của đảng này đã đem lại sự vui mừng thấy rõ trong các cuộc tập hợp sôi nổi trên đường phố.
Cô Kyi Kyi Win là một trong những người tham dự cuộc tập họp đã vẽ dán lên mặt và quần áo đầy các nhãn vận động. Vừa phất cờ mang huy hiệu con công của đảng NLD, cô vừa nói chính cô đang tính trở thành một thành viên của NLD – một quyết định có thể coi như cực kỳ nguy hiểm cách đây một năm.
Cô nói cô nghĩ rằng bà Aung San Suu Kyi có thể thắng với khoảng cách biệt làm cô hài lòng. Cô nói cô không bao giờ nghĩ rằng sẽ có thể có được một sự cởi mở chính trị như thế.
Không phải ai cũng vui mừng trước sự trở về của bà Aung San Suu Kyi. Các đảng đối lập khác không có được cái hào quang và sự tài trợ giống như NLD.
Ông Tae Yi là người phải đương đầu với công tác không ai muốn làm là ra tranh cử với bà Suu Kyi ở Kawhmu. Ông đã theo đuổi một vụ kiện nêu nghi vấn về tính hợp pháp của việc bà ra tranh cử, cho đến khi một phán quyết trong tuần này bác bỏ lời thách thức của ông và đưa tên bà lên lá phiếu.
Ông Tae Yi nói ông không có tị hiềm cá nhân nào với ba Aung San Suu Kyi và ông rất vui được ra tranh cử với bà.
Ứng cử viên 80 tuổi này nói cương lĩnh của ông bao gồm việc giải quyết các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Mặc dù phán quyết của tòa bác bỏ việc ông chống bà Suu Kyi, đảng Thống nhất và Hòa bình của ông nói đảng vẫn còn chống đối tính hợp pháp của bà.
Chính trị gia đương nhiệm tại tỉnh Kawhmu là một đại diện của đảng Liên đoàn Đoàn kết và Phát triển USDP, một đảng thay mặt cho chính phủ cũ đã chiếm thế đa số ápđảo trong quốc hội. Ưùng cử viên của USDP chưa nộp đơn khiếu nại chống lại bà Aung San Suu Kyi.
Cuộc bầu cử ngày 1 tháng 4 sắp tới sẽ chỉ lấp đầy 48 ghế còn trống tại Quốc hội, là con số thua xa con số cần thiết để thách đố quyền lực lập pháp của đảng cầm quyền. Nhưng một tháng trước ngày bầu cử, sự biểu dương mạnh mẽ ủng hộ cho Liên minh Toàn Quốc Đấu tranh cho Dân chủ và nhà lãnh đạo nổi tiếng của đảng này đã chứng tỏ rằng, bất kể 20 năm bị gạt ra ngoài lề chính sự, đảng này vẫn còn nắm được sự ủng hộ của một số người đáng kể.
‘Dùng thông tin để điều chỉnh Đảng’
- thứ tư, 29 tháng 2, 2012- BBC
Ông Phạm Viết Đào cho rằng dân chủ hóa về thông tin là bước đi khả dĩ hiện nay
Ông Phạm Viết Đào, được biết đến qua Bấm một trang blog cá nhân, nói chuyện với BBC trong khi đang diễn ra hội nghị chỉnh đốn Đảng ở Hà Nội.
Ông cũng cho rằng bước đi “thiết thực” hiện nay là dân chủ hóa về thông tin, cho phép sự tồn tại chính thức của báo chí tư nhân.
Phạm Viết Đào: Chỉnh đốn Đảng rất cần thiết hiện nay. Nhưng trong dư luận nhân dân, người ta cảm thấy việc đó khó lòng đạt được hiệu quả mong muốn.
Nếu đã chỉnh đốn, phải có biện pháp mạnh hơn, phải dùng luật pháp, chứ nếu chỉ động viên nhau thì…
Trong lịch sử, có thời Cụ Hồ mỗi sáng mời các ông “có vấn đề” đến cùng ăn phở để cụ khuyên răn. Ông Tố Hữu kể tôi nghe chuyện này. Cụ Hồ uy tín rất lớn và tốn rất nhiều phở để mời các ông “có vấn đề”. Thời ấy kỷ cương còn nghiêm mà xem chừng cũng không có hiệu quả cao. Bây giờ phát động tự phê, thì cũng ủng hộ thôi. Nhưng nếu không tiến thêm bước mạnh hơn nữa, chắc khó đạt hiệu quả mong muốn.
BBC:Báo trong nước vừa qua đăng nhiều bài nói về việc lấy lại lòng tin của dân. Phải chăng lòng tin của người dân đã có phần lung lay?
Lòng tin của nhân dân lung lay nhiều rồi. Báo chí công khai đã nói, các ông trên cũng nhận thấy. Nhưng nếu chỉ kêu gọi thì đó là duy ý chí.
Đảng lại trở thành Nhà thờ, Nhà chùa, cứ đến đấy tu niệm rồi cải tà quy chính? Bây giờ đảng viên liên quan quyền lực, quyền lợi. Lại muốn dùng Kinh thánh thức tỉnh họ, thật khó.
BBC:Vậy hội nghị lần này có như nhiều người nói là chỉ hình thức và không hiệu quả, thưa ông?
Tôi không nghĩ là hình thức. Thực tâm các vị lãnh đạo cũng sốt ruột. Nhưng họ làm thế nào, đấy là vấn đề.
Trong nội bộ cấp cao, tôi nghĩ cũng nhiều vị có tấm lòng, tâm huyết. Nhưng họ có vượt qua được sức ỳ không? Nội bộ Đảng bây giờ cũng nhiều khuynh hướng. Vậy khuynh hướng tiến bộ có trở thành tiếng nói áp đảo không?
BBC:Có ý kiến cho rằng thay vì tự chỉnh đốn, Đảng nên chấp nhận dân chủ hóa. Ông nghĩ thế nào?
Khó trăm lần, dân liệu cũng xong, vậy phải dựa vào dân. Chừng mực nào đó phải để dân phát biểu và nghe dân. Không nên xem phản ứng của dân là của thế lực thù địch và dùng biện pháp cảnh sát quá mạnh.
Trong một hội thảo gần đây, tôi nói cần nới rộng biên độ thông tin. Hiện nay gần như thông tin một chiều. Dân chủ hóa trước hết phải là dân chủ hóa thông tin, thiết thực nhất trong bối cảnh hiện nay.
“Dùng công luận, dùng thông tin để điều chỉnh Đảng cũng là cách văn minh và đỡ xương máu nhất. Hiện nay luật pháp chưa cho phép. Các trang tin, blog vẫn nấp dưới danh nghĩa cá nhân. “
Dùng công luận, dùng thông tin để điều chỉnh Đảng cũng là cách văn minh và đỡ xương máu nhất. Hiện nay luật pháp chưa cho phép. Các trang tin, blog vẫn nấp dưới danh nghĩa cá nhân. Nhưng thực ra mục tiêu của họ giống tôn chỉ các báo chính trị, chứ không còn là blog cá nhân nữa. Nhưng nó không được công khai, nên rất khó phát triển. Làm thì đến lúc cũng mỏi mòn vì không có động viên nào về mặt vật chất cả. Kỹ thuật thì rất nhom nhem.
Nếu Đảng thật sự muốn dân tham gia, thì phải cho dân tham gia trước tiên là lĩnh vực thông tin. Hiện nay xuất bản đã là tư nhân rồi, thì các trang báo tư nhân phải được công khai đi để họ chịu trách nhiệm trước pháp luật.
BBC:Ông có nghĩ Đảng đã suy thoái đến mức Đảng không chấp nhận nhân dân và dân cũng không chấp nhận Đảng?
Chưa đến nỗi như thế. Nước nào cũng cần một lực lượng lãnh đạo, tức là một đảng chính trị. Chứ bây giờ sụp đổ hoàn toàn, trí thức cũng không muốn dẫn đến ba bè bảy mối, nội chiến. Người dân chịu khổ chứ người có chức có tiền họ chạy ra nước ngoài, con cháu họ có chết đâu.
“Đổi tên khác thì khó, chứ trở lại tên Lao Động chả có gì sai. Chứ để tên Cộng sản, bản thân tôi là đảng viên cũng thấy không hợp giữa khẩu khí của thế giới hiện nay.”
Dân hiện nay thấy Đảng nhiều cái quá trớn. Nhưng cũng có những người có trách nhiệm thấy cần phải thay đổi.
Tôi cho rằng Đảng trước nhất cần thay đổi tên. Chứ bây giờ nói Đảng Cộng sản thì khó vào lòng dân chúng. Trong quá khứ Đảng rất nhiều công lao, nhưng khi ấy Đảng đứng tên đảng Lao Động đấy chứ.
Bây giờ có thể trở lại tên đảng Lao Động cũng được. Đổi tên khác thì khó, chứ trở lại tên Lao Động chả có gì sai. Chứ để tên Cộng sản, bản thân tôi là đảng viên cũng thấy không hợp giữa khẩu khí của thế giới hiện nay. Bước thứ hai là trở lại Hiến pháp 1946.
Đòi hỏi tách quân đội, công an ra khỏi Đảng, rất khó. Nhưng thiết thực nhất bây giờ là trở lại mô hình đảng Lao Động. Nếu góp ý cho Đảng, tôi sẽ góp ý như thế.
Trung Quốc yêu cầu Hoa Kỳ giao trả lại các tài liệu chuyển giao bởi người đào ngũ Wang Lijun
Tác giả: Xia Xiaoqiang- Đại kỷ Nguyên -Thứ ba, 28 Tháng 2 2012 Wang Lijun, cựu Giám đốc Công an Trùng Khánh, tham dự một cuộc họp chính trị tháng 3 năm 2011. (Feng Li / Getty Images) -( Ông Vương lập Quân)-Xem thêm tin:
Lời đồn về cựu giám đốc công an TQ (BBC)
Ở đây chúng tôi cố gắng cung cấp cho độc giả một bối cảnhcần thiết để hiểu được nội tình chính trị ĐCSTQ.
Các nhà lãnh đạo cộng sản của Trung Quốc yêu cầu Hoa Kỳ giao trả lại các tài liệu trao cho bởi người dự tính đào ngũ, Wang Lijun, tại Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô vào ngày 6, theo báo cáo gần đây. vấn đề “tài liệu Wang” có vẻ là một vấn đề sống chết cho các phe phái khác nhau trong ĐCSTQ, tất cả những người sợ hãi những bí mật đen tối của họ bị lộ tẩy.
Theo một báo cáo ngày 20 Tháng 2 bởi Bill Gertz, thuộc cơ quan Free Washington Beacon, người đã tuyên bố có thông tin nội bộ, “một quan chức Mỹ cho biết, Wang, ngụy trang, đã lái xe 200 dặm từ Trùng Khánh đến Thành Đô, vào Lãnh sự quán Hoa Kỳ, và đã ở lại suốt đêm tại lãnh sự quán Mỹ chuyển giao một chồng tài liệu trong thời gian ở sứ quán10 giờ. Trung Quốc hiện nay đòi hỏi rằng các tài liệu được trả lại, mà có thể có tác động tai hại cho Wang. “
Nếu khiếu nại là đúng sự thật, các tài liệu có thể tác động tai hại cho nhiều người hơn là chỉ đối với Wang. Một lý do rất có thể muốn các tài liệu là Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) muốn giữ kín vụ việc Wang và giảm thiểu tác động phá hoại cho chính Đảng Cộng sản.
Wang là cựu giám đốc Cục Công an Trùng Khánh. Kể từ khi Wang trốn chạy đến Lãnh sự quán Hoa Kỳ để xin tị nạn, nội tình của ĐCSTQ rơi vào trong một tình trạng hỗn loạn, đến độ phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng.
Làm thế nào ĐCSTQ xử lý Bạc Hy Lai, người đứng đầu đảng cộng sản ở Trùng Khánh, và Wang Lijun tay chân cũ của ông, là một vấn đề sống chết cho các phe phái khác nhau trong ĐCSTQ, tất cả những người ;o sợ những bí mật đen tối của họ bị vặch trần. Đấu đá nội bộ căng thẳng do vụ việc cũng có thể nhận chìm ĐCSTQ.
Các nhà lãnh đạo hiện tại, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, đang bị mắc kẹt trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Họ muốn hạ gục đối thủ chính trị BoXilai và ảnh hưởng ở đằng sau ông ta— Giang Trạch Dân và nhóm của ông. Họ cũng muốn xử lý vụ việc này một cách lặng lẽ không gây ra bất ổn trong ĐCSTQ, để việc chuyển đổi chính trị suốt thời gian Đại hội ĐCSTQ trong kỳ Đại hội Quốc gia lần thứ 18 sẽ diễn ra suôn sẻ.
Yêu cầu lấy các tài liệu Wang để lại tại lãnh sự quán Hoa Kỳ là một trong những tác động bởi ĐCSTQ nhằm đảm bảo nó sẽ lặng lẽ đối phó với sự cố Wang-Bo.
Yêu cầu lấy lại các tài liệu Wang giao cho lãnh sự quán Hoa Kỳ, ĐCSTQ có thể xử lý một cách lặng lẽ để đối phó với sự cố Wang-Bo và làm cho hậu quả của vụ Wang dự tính đào tẩu trông như nó chỉ đơn thuần là một cuộc đấu tranh trong Đảng, và để cho chế độ cộng sản tự nó không bị nguy hại.
Mỹ không chỉ không bị bắt buộc làm theo yêu cầu của ĐCSTQ, nhưng còn tiết lộ vụ việc với Bill Gertz. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không dự kiến được là nó đến từ phía Mỹ
.Điều này phải là một tình huống khó chịu cho Trung Cộng. Nó xác nhận rằng Wang đã giao thông tin, và cho thấy rằng Hoa Kỳ không phải là đồng tình với nó. Ngoài ra còn có vấn đề không có cách nào nội dung của các văn bản chỉ hạn chế và bé nhỏ như việc tham nhũng của Bo. Nó có thể có những bí mật mà có thể gây nguy hiểm cho chính chế độ nếu bị phổ biến công khai.
Với những tài liệu trong tay, Mỹ kiểm soát quyền hành xử làm thế nào vụ việc sẽ diễn ra, thời gian và bao nhiêu thông tin để công bố, tất cả đều là hoàn toàn hợp lý và hoàn toàn hợp pháp theo tiêu chuẩn của Mỹ.
Sự cố Wang là một cơ hội cho chính quyền Obama để đạt được những gì mà các vị cựu tổng thống Mỹ Kennedy và đặc biệt, Reagan, đã hết sức mình làm cho được, nhưng không thể làm được: dẹp tan thế giới độc tài cộng sản.
Các nhà lãnh đạo hiện tại, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo,
đang bị mắc kẹt trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Họ muốn hạ gục đối
thủ chính trị Bo Xilai và ảnh hưởng đằng sau ông ta— Giang Trạch Dân và
nhóm của ông. Họ cũng muốn xử lý vụ việc này một cách lặng lẽ không gây
ra bất ổn trong ĐCSTQ, để việc chuyển đổi chính trị suốt thời gian Đại
hội ĐCSTQ trong kỳ Đại hội Quốc gia lần thứ 18 sẽ diễn ra suôn sẻ.
Với những tài liệu trong tay, Mỹ kiểm soát quyền hành
làm thế nào vụ việc sẽ diễn ra, thời gian và bao nhiêu thông tin để công
bố, tất cả đều là hoàn toàn hợp lý và hoàn toàn hợp pháp theo tiêu
chuẩn Mỹ.
Sự cố Wang là một cơ hội cho chính quyền Obama để đạt
được những gì mà cựu tổng thống Mỹ Kennedy và đặc biệt, Reagan, đã hết
sức mình làm cho được, nhưng không được: dẹp tan thế giới cộng sản độc
tài.
Định mệnh đã cống hiến cho Mỹ một cơ hội để trực tiếp
nhúng tay vào kết quả của cuộc đấu tranh quyền lực trong giới lảnh đạo
cao cấp của ĐCSTQ và để mở ra một trang mới lịch sử. Làm thế nào chính
quyền Obama sử dụng đuợc cơ hội này là một thử nghiệm của sự khôn ngoan
chính trị và đức tính đạo đức.
Ông Vương Lập Quân khi chưa ‘đi nghỉ’ trong một hình chụp cùng Bí thư Bạc Hy Lai (trái)-Hình của BBC
Ông Vương Lập Quân được biết đến nhiều qua vai trò chống các băng đảng tội phạm – Hình của BBC
Đằng sau những tin đồn về Giám đốc Công an Trùng Khánh (Petrotimes)Trung Quốc điều tra cựu giám đốc công an Trùng Khánh (Tinmoi.vn)
Số phận bí ẩn cựu giám đốc công an Trung Quốc (Tinmoi)
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
TRIỂN VỌNG THÀNH LẬP LIÊN MINH ẤN ĐỘ-MỸ-ÔXTRÂYLIA
Tài liệu tham khảo đặc biệt -Thứ ba, ngày 28/2/2012 -TTXVN (Niu Đêli 20/2)Tạp chí “Các vấn đề chiến lược” (Ấn Độ) số ra gần đây đăng bài viết của bộ phận nghiên cứu khu Vực Nam Á về triển vọng thành lập liên minh Ấn Độ-Mỹ-Ôxtrâylia và cho rằng liên minh này có nhiều khả năng trở thành hiện thực.
Theo bài báo, mặc dù tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Ôxtrâylia Kevin Rudd về khả năng thiết lập cơ cấu đối thoại 3 bên giữa nước này với Mỹ và Ấn Độ đã bị Bộ Ngoại giao Ấn Độ bác bỏ mạnh mẽ hồi đầu tháng 12/2011, song các nhà chiến lược của ba nước đều ra sức ủng hộ một liên minh như vậy nhằm tăng cường và bảo vệ lợi ích chiến lược của ba nước.
Bộ Ngoại giao Ôxtrâylia cũng nhanh chóng hiểu được sự do dự của Ấn Độ và nói rằng tuyên bố của ông Kevin Rudd đã bị giải thích sai lạc. Tuy nhiên, cả hai nước sau đó đã rất nhiệt tình với quyết định tăng cường quan hệ đối tác quân sự mạnh mẽ giữa hai bên. Trước đó, Thủ tướng Ôxtrâylia Julia Gillard cũng đã tuyên bố xoá bỏ lệnh cấm xuất khẩu urani cho Ẩn Độ.
Bộ trưởng Quốc phòng Ôxtrâylia Stephen Smith đã thăm Ấn Độ ngày 8/12/2011 và giành được sự ủng hộ của Chính phủ nước chủ nhà đối với việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự giữa hai nước.
Ấn Độ vốn đã có chương trình trao đổi quân sự sâu sắc với Mỹ. Ba nước này hiện đã hợp tác trong lĩnh vực quân sự trên cơ sở song phương. Bởi vậy, giới phân tích chiến lược ở ba nước đều bày tỏ ý kiến về sự cần thiết tiến tới một cơ sở hợp tác chung.
Ý tưởng hợp tác ba bên nói trên được Ngoại trưởng Ôxtrâylia nêu ra tại Tôkyô cách đây 4 năm sau khi hải quân Ấn Độ,-Nhật Bản và Mỹ tập trận chung tại Thái Bình Dương, nhưng khi Trung Quốc phản ứng rất mạnh mẽ về đề nghị này thì Chính phủ Ôxtrâylia ngay lập tức đã rút lại ý tưởng đó.
Trên thực tế, Trung Quốc đã bộc lộ sự lo lăng về một liên minh như vậy vốn được xem là có thể kiềm chế sự hung hăng của Bắc Kinh. Ngày 27/5/2011, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã phản ứng đối với đề nghị này bằng cách công khai khuyên 4 nước trên “chớ chống lại xu hướng toàn cầu hoá và cần phải mở cửa và hòa nhập”.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương khi đó nói rằng Trung Quốc tin rằng việc tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau và mở rộn” hợp tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, nhu cầu mở cửa và sự hòa nhập là xu hướng toàn cầu.
Khả năng nối liền quan hệ 4 bên giữa 4 nền dân chủ trên thực tế đã được thảo luận trong giới phân tích chiến lược Trung Quốc vốn cho rằng việc thành lập một liên minh giữa 4 nước này sẽ chia rẽ châu Á. Trên thực tế, Bắc Kinh đã yêu cầu 4 nước trên giải thích lý do tiến hành cuộc gặp của các quan chức cấp cao 4 nước tại Manila ngày 24/5/2011. Cuộc gặp đầu tiên này được tiến hành bên lề hội nghị Diễn đàn khu vực ASEAN. Cả 4 nước khi đó quyết định sẽ tiến hành cuộc gặp tiếp theo, song cuộc gặp thử hai đã không được tổ chức.
Thực ra, không phải chỉ có Ôxtrâylia cảm thấy “lạnh chân” về đề xuất thành lập liên minh 4 bên, mà cả Ấn Độ cũng cảm thấy căng thẳng về đề xuất này. Trong bối cảnh quan hệ Ấn-Trung đang ở giai đoạn nhạy cảm liên quan đến vấn đề biên giới chưa được giải quyết và việc hai bên tiếp tục triển khai quân đội và các kho vũ khí dọc Tuyến kiểm soát thực tế có chiều dài hơn 4,000 km nên Ấn Độ cũng lùi bước.
Bởi vậy, khi Ngoại trưởng Ôxtrâylia một lần nữa nói về khả năng thành lập liên minh như vậy, Ấn Độ đã nhanh chóng bác bỏ đề nghị này. Tuy nhiên, giới phân tích chiến lược Ẩn Độ không e ngại về đối thoại song phương Ấn Độ-ôxtrâylia và đối thoại và quan hệ quân sự Ấn-Mỹ cũng như mức độ hợp tác cao giữa các nước này,
Từ năm 2007, đề nghị về thành lập liên minh 4 nước này vẫn “ngủ yên”. Song việc Trung Quốc có những hành động hung hăng mới tại Biển Đông đã gây ra lo ngại tại tất cả 4 nước này, các quan chức của 4 nước lại thảo luận về khả năng thành lập liên minh nhu vậy.
Ngày 19/12, 3 trong số 4 nước nói trên gồm Ấn Độ, Nhật Ban và Mỹ đã tiến hành cuộc đối thoại cấp cao chính thức tại Oasinhtơn. Các vấn đề được thảo luận trong cuộc đối thoại này bao gồm cả về ý định của Trung Quốc tại Biển Đông và việc cần phải phối hợp tập thể như thế nào để đối phó với Bắc Kinh.
Theo các chuyên gia chiến lược, hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông và sự suy giảm tương đối ảnh hưởng toàn diện cua Mỹ ở khu vực này rõ ràng đã thúc đẩy ba nước hợp tác với nhau.
Thực tế, tuyên bố của ông Kevin Rudd đề xuất thành lập liên minh ba nước được đưa ra dựa trên đề xuất chung của các học giả thuộc các viện nghiên cứu của ba nước gồm Lowry Institute của Ôxtrâylia, Americal Heritage Foundation (Mỹ) và Obsever Reseach Foundation (Ấn Độ).
Đề xuất chung nói trên mang tiêu đề: “Chia sẻ các mục tiêu, các lợi ích trùng hợp: kế hoạch hợp tác Mỹ-Ôxtrâylia-Ấn Độ tại Ẩn Độ Dương- Thái Bình Dương”.
Báo cáo trên đề nghị chính phủ 3 nước thiết lập quan hệ ba bên và hợp tác chặt chẽ hơn giữa ba nền dân chủ này nhằm tăng cường an ninh hàng hải, không phổ biến vũ khí hạt nhân, chống khủng bố và các mục tiêu quan trọng khác ở khu vực cùng với việc khuyến khích một trật tự ổn định hơn và dự báo được ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Theo các nhà quan sát chiến lược ở Ôxtrâylia, chính phủ nước này đã bác bó sự phàn nàn của Ấn Độ về việc duy trì lệnh cấm xuất khẩu uranium kéo dài và Chính phủ Mỹ đã ký một thoả thuận hợp tác hạt nhân dân sự với Ấn Độ.
Liên minh chiến lược
Đã tới lúc cả ba nước Ấn Độ, Mỹ và Ôxtrâylia hợp tác cùng nhau trên một nền tảng chung để bảo vệ các lợi ích chiến lược và kinh tế của mình. Đáng chú ý là Ôxtrâylia đã ký một thoả thuận cho phép lính thủy đánh bộ Mỹ triển khai trên vùng bờ biển nước này, động thái khiến Trung Quốc rất bực tức. Những diễn biến này là điềm xấu đối với Trung Quốc vốn đang tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình không phải chỉ ở châu Á, mà còn trên phạm vi toàn cầu.
Sau khi có thoả thuận về triển khai lính thủy đánh bộ giữa Mỹ và Ôxtrâylia, việc ký biên bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng giữa Ấn Độ và Ôxtrâylia là diễn biến đáng chú ý, đặt cơ sở cho một liên minh trong tương lai giữa ba nước này.
Trong thời gian diễn ra cuộc gặp của các bộ trưởng quốc phòng ba nước tại Niu Đêli, Ấn Độ và Ôxtrâylia đã quyết định tiến hành các cuộc tập trận hải quân đầy đủ trong tương lai. Thực ra, Ấn Độ đã mời Ôxtrâylia tham gia cuộc tập trận của hải quân 5 nước tại Malabar ở vịnh Bengan tháng 9/2007, đưa ra một thông điệp đối với cộng đồng quốc tế rằng Ấn Độ đang dần dần tham gia cấu trúc của phương Tây do Mỹ lãnh đạo.
5 nước tham gia tập trận hải quân tại Malabar gồm Ấn Độ, Ôxtrâylia, Mỹ, Nhật Ban và Xinhgapo. Điều thú vị là cả 4 nước còn lại đều là đồng minh của Mỹ. Cuộc tập trận hải quân Malabar diễn ra hàng năm giữa Mỹ và Ấn Độ trên cơ sở song phương đã dần được mở rộng với 5 nước tham gia, và việc đưa Ôxtrâylia tham gia là một quyết định có ý nghĩa chiến lược về lâu dài mà hiện nay dường như mới nổi lên.
Mặc dù không chính thức tuyên bố, song hai nước cũng đã thảo luận tình hình ở Biển Đông và các anh hưởng của những hành động cứng rắn của Trung Quốc ở khu vực trong thời gian diễn ra cuộc gặp của các bộ trưởng quốc phòng.
Để có được sự hiểu biết tốt hơn giữa hai nước về vấn đề an ninh cùng quan tâm và phương cách bảo vệ các lợi ích chung, các bộ trưởng quốc phòng của hai nước cũng đã quyết định thiết lập cơ cấu đối thoại 1.5 ở cấp ban chính phủ về các vấn đề quốc phòng giữa các thể chế thích hợp.
Theo các quan chức quốc phòng Ấn Độ, các bộ trưởng quốc phòng hai nước đã nhất trí rằng các thách thức trong lĩnh vực an ninh trên biển như cướp biển và tự do lưu thông hàng hải là các vấn đề quan trọng đòi hỏi cần có các nỗ lực cụ thể của cộng đồng thế giới.
Ấn Độ dường như tỏ ra dè dặt trước đề nghị của Ôxtrâylia về việc thành lập bất kỳ cơ chế đối thoại 3 bên nào để tiến tới một liên minh 3 nước.
Tất nhiên, cuộc khủng hoảng chính trị trong nước đã làm suy yếu đáng kể chính phủ của Liên minh tiến bộ thống nhất (UPA) do đảng Quốc đại lãnh đạo, điều buộc chính phủ phải tránh đưa ra quyết định về vấn đề gây chia rẽ như vậy trong chính sách đối ngoại.
Tuy nhiên, các chuyên gia chiến lược cho rằng với bối cảnh môi trường địa chính trị quốc tế thay đổi như hiện nay, Ấn Độ sẽ buộc phải tiến tới xây dựng các mối liên minh mới để có thể gửi một tín hiệu mạnh mẽ tới các đối thủ của mình./.
AI LÀ BẠN, AI LÀ THÙ CỦA ĐẢNG?
Huỳnh Ngọc Chênh -29-02-2012Diễn văn khai mạc hội nghị xây dựng Đảng của ông Nguyễn Phú Trọng nói rằng, đợt xây dựng chỉnh đốn Đảng lần này rất cấp bách bởi bốn lý do trong đó có hai lý do nhắc đến vấn đề bạn và thù.
Tuy không nói rõ ra trong bài phát biểu của mình, nhưng cách ông Trọng nhắc đến làm mọi người hiểu rằng ai là bạn của Đảng. Người bạn lớn đầu tiên ông nhắc đến là Đảng CS Liên Xô với 21 triệu đảng viên, dù bây giờ chỉ còn là hồn ma vất vưỡng nhưng sự tự sụp nhào trong chốc lát của bạn cũng rút ra bài học máu xương cho lần xây dựng chính đốn này của Đảng. Người bạn lớn thứ hai là đồng chí Trung Cộng. Ông Trọng nói rằng người bạn ấy ‘trong cải cách, mở cửa cũng luôn luôn khẳng định dứt khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản‘. Và ông thú nhận: Trong những lần trao đổi với chúng ta, bạn thường nhấn mạnh không để bị “Tây hóa”, “tha hóa”, “thoái hóa”.
Nghĩa là Đảng của Trung Cộng nhiều lần nhắc nhở Đảng VN không để bị “Tây hóa”. Điều nầy hơi lạ. Đảng Cộng Sản xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin là của phương Tây 100% mà bảo rằng đừng Tây hóa là sao? Cộng Sản không theo kiểu Tây nghĩa là Cộng sản theo kiểu phương Đông tức là cộng sản theo kiểu Mao – ít. À đúng rồi, bạn nhắc nhở ta phải bám cứng theo Mao, đừng có mà Tây hóa.
Một người bạn nữa được nhắc tới là Đảng CS Cuba, dù đang đổi mới vẫn kiên quyết khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng CS, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
Như vậy là Đảng xác định có ba bạn nhưng đã tiêu tùng một bạn nên bây giờ chỉ còn có hai bạn. Không thấy nhắc đến Bắc Triều Tiên và Lào. Có lẻ anh BTT nầy “chuyên chính” quá thành thật không một chút che đậy, tạo cớ cho thế giới bêu riếu làm xấu hổ lây cho cả khối cộng sản nên bị lờ đi không dám nhận là bạn chăng? Còn Lào thì quá nhỏ bé và mờ nhạt nên bị quên chăng?
Tóm lại trong thế giới rộng lớn nầy Đảng chỉ còn hai người bạn chí cốt mà thôi. Đó là Trung Cộng và Cuba
Còn kẻ thù?
Cả thế giới còn lại, dù độc tài hay dân chủ, dù Hồi Giáo hay không Hồi Giáo… thì cũng đều đi theo ý thức hệ tư bản hoàn toàn trái ngược với ý thức hệ của Đảng nên không thể là bạn được. Nhưng cũng không thể xem họ là thù, bởi họ không những không có ý định xấm lấn nước ta mà phần lớn trong số họ còn quan hệ làm ăn, cho ta vay vốn và giúp ta vươn lên văn minh thóat khỏi đói nghèo như ngày nay. Hiện nay trên thế giới chỉ còn một nước duy nhất đang xâm lấn một phần lãnh thổ của ta và đang đe dọa tiếp tục xấm lấn nữa, là Trung Cộng. Nhưng khổ nỗi, Đảng đã xác định nó là bạn rồi thì không thể xem nó là kẻ thù được nữa. Rất trớ trêu!
Do vậy cái việc xác định kẻ thù hiện nay là rất khó cho Đảng. Nhưng như ông Trọng nói có 4 lý do liên quan đến “sự tồn vong của Đảng và chế độ” (không phải là sự tồn vong của dân tộc và đất nước đâu nhé) thì trong ấy có một lý do là có kẻ thù chống phá Đảng, muốn tiêu diệt chủ nghĩa xã hội.
Vậy phải xác định cho ra kẻ thù ấy là ai chứ. Có rồi. Đó là các Thế lực thù địch, phản động.
Ông Trọng nói lý do thứ tư để chỉnh Đảng như sau: “Bốn là, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt. ‘Diễn biến hòa bình’ là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là ‘thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi’. Nhiều chuyên gia và chính khách phương Tây còn gọi đây là phương pháp ‘chuyển hóa hòa bình’, ‘biến đổi hòa bình’, ‘cách mạng hòa bình’ và gần đây là ‘cách mạng nhung’, ‘cách mạng màu’, ‘cách mạng đường phố’…“
Đọc kỹ đoạn văn đó chúng ta thấy rõ kẻ thù là các thế lực thù địch, phản động với những âm mưu cực kỳ xảo quyệt của chúng nhưng lại hoàn toàn không biết bọn chúng là ai, ở đâu, đe dọa đến sự an nguy của Đảng và chế độ từ phương trời nào?
Vì không xác định rõ chúng nó là ai và ở đâu nên có thể hiểu rằng chúng có thể bất kỳ là ai và ở bất cứ nơi đâu.
Mà trên thế giới, như đã phân tích ở trên, không có ai là kẻ thù của ta rồi, kể cả Trung Cộng. Vậy thì kẻ thù chỉ có thể ở ngay trong nước và ở ngay trong nhân dân mà thôi.
Như vậy thì nguy quá rồi.
Nguồn: Blog Huỳnh Ngọc Chênh
Tiên Lãng và Nguyễn Mạnh Tường
Phạm Hồng Sơn – Boxitvn
Muốn chữa bệnh phải tìm
được “bệnh căn”. Trong vụ án Đoàn Văn Vươn, điều đáng mừng là dư luận đã
không nhìn đây như một vụ việc đơn độc mà gắn nó vào một tình trạng phổ
biến, có thể gọi không ngoa là một quốc nạn, và tìm thấy gốc là ở Luật
đất đai và Hiến pháp, và đề cập đến biện pháp mạnh là phải huỷ bỏ chế độ
“sở hữu toàn dân… trá hình”!
Song như vậy đã phải là
truy tìm được tới nguồn gốc chưa? Tác giả Phạm Hồng Sơn đã viện dẫn khá
chi tiết bài diễn văn lịch sử của nhà Luật học yêu nước kiệt xuất Nguyễn
Mạnh Tường cách đây 55 năm, nhân vụ sửa sai nửa vời về Cải cách ruộng
đất, để giúp ta khẳng định câu trả lời: Chưa, Luật đất đai vẫn chưa phải
nguồn gốc của quốc nạn mà cả nước hiện nay đang đề cập!
Gốc ở đâu? Bác sĩ Phạm
Hồng Sơn đã tìm thấy sự tương đồng của quốc nạn về đất đai hiện nay, mà
nông dân là nạn nhân chính, với quốc nạn cũng về nông dân trong quá khứ
là Cải cách ruộng đất, cả hai đều có cùng nguồn gốc. Tư duy Pháp trị của
Nguyễn Mạnh Tường dẫn ta đến kết luận không thể khác: “cả
hai đều cùng chung một cái nền sinh ra chất độc. Lớp trên của cái nền đó
là chính sách (luật) về đất đai, còn lớp dưới cùng là HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ PHI DÂN CHỦ […]” (PHS)
Kết luận sáng tỏ ấy cũng
chẳng phải điều gì ghê gớm đối với tư duy khoa học, nhưng phần đông
chúng ta thấy sợ nên cứ tự kiểm duyệt mình thôi. Nhưng cách đây nửa thế
kỷ, người Trí thức ưu tú Nguyễn Mạnh Tường, giữa lúc đang được trọng
dụng đã dám dấn thân cất lên tiếng nói của Trí tuệ và của lòng yêu nước
để cam chịu làm kẻ bị rút phép thông công (Excommunicated) đến tận cuối
đời, hẳn ông đặt hy vọng vào lớp hậu bối như chúng ta, ngày nay hoàn
cảnh thế giới đã vượt lên rất xa, há ta lại đem sự hèn của mình để cam
tâm phụ lòng người đi trước?
Ngoài thu hoạch để tìm
ra căn nguyên một vấn nạn xã hội, thiết tưởng tấm gương Nguyễn Mạnh
Tường chính là ví dụ thật bổ ích cho cuộc luận bàn về Trí thức hôm nay.
Bauxite Việt Nam
|
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1996), trong một phiên họp của Mặt trận Tổ quốc tại Hà Nội vào ngày 30/10/1956, đã có bài diễn văn phê bình Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) và chính sách xử lý, sửa sai CCRĐ của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN, lúc đó có tên là Đảng Lao động Việt Nam).
Đề cập cụ thể tới biến cố CCRĐ, nhưng Nguyễn Mạnh
Tường không sa vào các chi tiết, vấn đề cục bộ. Ngay từ đầu, không hề úp
mở, Nguyễn Mạnh Tường đã chẩn đoán xác định trách nhiệm cao nhất về
CCRĐ nằm ở sự lãnh đạo của ĐCSVN, ông nói:
“Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai
lầm trong Cải cách Ruộng đất, nhưng theo ý tôi các sai lầm này chỉ là
biểu hiện điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lãnh đạo
của Đảng Lao động…
Tại sao tôi lại tin như vậy? Là vì, không những
trong Cải cách Ruộng đất chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả
trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa
một số người trong quần chúng đến cái chết thê thảm. Do đó, nếu chỉ cục
bộ hóa các sai lầm, chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm.”
Có thể do hiểu được tâm lý e ngại của cử tọa khi động chạm tới ĐCSVN, ông lại mạnh mẽ nêu rõ trách nhiệm đó một lần nữa: “các
sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải cách Ruộng đất này chỉ là những biểu
hiện cực độ của các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như
tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lãnh đạo
của Đảng Lao động.”
Sau khi xác định rõ trách nhiệm cao nhất về CCRĐ phải
thuộc giới lãnh đạo của ĐCSVN, Nguyễn Mạnh Tường đề cập tới các sai lầm
có tính kỹ thuật trong CCRĐ, đó là vấn đề pháp lý, đúng hơn là sự bất
chấp pháp lý, coi khinh pháp luật của những người thực hiện CCRĐ. Với
một sự chân thành tha thiết Nguyễn Mạnh Tường như muốn dốc hết những
kiến thức cơ bản về pháp luật để thuyết phục cử tọa:
“Tôi xin phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc căn bản mà pháp lý nêu lên để đạt mục đích ấy.
…Một nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người
phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích
sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn. Một nhân
chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp
với nhau mới được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn
khớp với nhau và trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được phải có
tác dụng hợp lý, sát hợp với kết quả do cuộc điều tra mang lại.
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử
phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư
bào chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một
trọng tội, Tòa phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả,
giai đoạn điều tra ở trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm,
buộc tội trước tòa, quyền lợi của công tố viện ngang với quyền lợi bị
can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị can đưa hết
lý lẽ để minh oan. Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra,
truy tố, xét xử giữa công tố viện và luật sư. Các vị thẩm phán ngồi xét
xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý diễn ra dưới mắt
mình. Như thế mới nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không
chịu lệnh của ai trong khi xét xử, chỉ biết xét xử theo lương tâm của
mình và căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông
buộc tội và gỡ tội. Người thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ
của mình mà không sợ ai khiển trách hay gây khó khăn cho mình được. Khi
điều tra thẩm vấn, tuyệt đối cấm không được dùng phương pháp tra khảo,
đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ hắn.
Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án thì
còn quyền chống án lên tòa trên. Nếu bị kết án tử hình thì lại còn quyền
xin ân giảm trước vị Chủ tịch Chính phủ. Con người của bị can, trong
tất cả quá trình truy tố và xét xử phải được tôn trọng triệt để, khi bị
can ra trước tòa thì không được xiềng xích họ và không lúc nào được dùng
nhục hình đối xử với họ.
Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một
người tác hại cho một người khác mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước
hình luật. Tác hại cho ai thì chỉ nêu trách nhiệm về phương diện dân
sự, nghĩa là bồi thường thôi — của người đã tác hại. Muốn truy tố người
ấy để thi hành hình luật đối với hắn thì phải chứng minh rằng hắn phạm
một tội, nghĩa là phạm vào một điều khoản nào qui định trong hình luật,
và hình luật không bao giờ có tác dụng đối với quá khứ cả: nếu hành động
của một người diễn ra trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là một
tội thì người ấy không thể mang ra truy tố được. Không những bị can phải
phạm một tội đã qui định rồi trong pháp luật, mà ta lại còn phải xét
xem rằng lúc phạm tội ấy bị can có ý thức, có ý chí phạm pháp hay không,
hay là vô tình mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác
nhau…”
Không dừng lại ở những sai phạm kỹ thuật pháp lý,
điều mà có thể nhiều lãnh đạo cao cấp của ĐCSVN lúc đó không phải không
biết, Nguyễn Mạnh Tường đã chỉ thẳng vào sai phạm cốt lõi của hệ thống
chính trị là tính chất phi dân chủ hay dân chủ giả hiệu. Với con mắt của
nhà luật học từ quê hương của Montesquieu, Nguyễn Mạnh Tường đã điểm
từng bộ phận giả trong hai nhánh hành pháp, lập pháp của chính thể “dân
chủ cộng hòa” giả hiệu, đồng thời kèm theo những lý lẽ chặn trước những
bao biện có thể:
“Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã
từng biết. Vai trò của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng như thế nào,
các vị đó làm được những gì trong Hội đồng chính phủ, trong các ngành
chuyên môn mà các vị ấy phụ trách, ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần
liếc mắt nhìn qua công việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than
phiền của các cán bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu. Ta
cũng biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng
trong thực tế công tác, mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ
trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như
không phải là quan trọng cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta lầm đấy.
Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao có “dư luận” không ai chối cãi được. Do
đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như vậy thì ít ra Đảng cũng mang
trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng
ta thấy tồn tại từ thời kỳ kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc
chắn không ai chối cãi được, là các vị Bộ hay Thứ trưởng không có trách
nhiệm gì trước Quốc hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước Chính
phủ mà thôi. Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ truởng nào bị lật đổ cả. Phải
đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong Cải cách mới thấy hai vị
Thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng Chính phủ. Các hiện tượng ấy
chứng tỏ rằng Chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủ trong khi lập Hội
đồng Chính phủ, vì các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất,
ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rõ hơn nữa. Mười năm
Quốc hội đã thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý
nguyện của quần chúng không, quần chúng có tín nhiệm ở Quốc hội nữa
không, đó là một vấn đề. Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi
nữa, có một điều chắc chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà vẫn tồn
tại ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự lựa chọn của quần chúng, chứng
minh rằng quần chúng 10 năm nay đã bị truất quyền cử đại biểu của mình
rồi. Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là một điều
không làm được. Và hiện thời, Nam-Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại
toàn thể Quốc hội cũng là khó khăn. Nhưng dù sao riêng ở các miền giải
phóng này, nếu ta chú ý đến quyền người dân cử đại biểu của họ thì nhất
định ta phải cho phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi hòa bình trở lại, 2
năm đã qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân
chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân và bổ sung Quốc hội.
Nào có thế thôi đâu? Ngay cái Quốc hội ta đang có
hiện thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là không.
Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy
Chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng, hay các
chính sách để Quốc hội tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc
hội ở đâu? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao,
quyền nêu trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên
trong Hội đồng Chính phủ, bấy nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng
không? Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua
các chính sách mà thôi. Còn như các sắc lệnh hay đạo luật thì thường
thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban Thường trực của Quốc hội. Nếu
Quốc hội là tổ chức cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng,
thì ta phải khách quan nhận thấy rằng, với vai trò vô cùng yếu ớt của
Quốc hội hiện thời, quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.”
Về Mặt trận Tổ quốc, theo ngôn ngữ ngày nay, là một
tổ chức dân sự mẹ của mọi tổ chức dân sự khác, Nguyễn Mạnh Tường đã vạch
thẳng ra ý đồ của ĐCSVN chỉ muốn cái tổ chức dân sự đó đóng vai trò làm
fan, làm đẹp cho Đảng:
“Ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ —chỉ thỏ thẻ
thôi— những lời làm ta một phút chốc tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta trong
cấp lãnh đạo đang say sưa. Vì vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến
khích nó phụ họa ta, tán đồng ta với thái độ của đứa con khen hay khi
mẹ nó hát.”
Là một trí thức đầy uy tín về cả chuyên môn lẫn tư
cách, lại đang được ĐCSVN rất quan tâm, dành cho nhiều ưu ái, nhưng
không vì thế mà Nguyễn Mạnh Tường im lặng trước thực trạng giới trí
thức bị hắt hủi, bị biến thành nô lệ, thành công cụ cho quyền lực của
ĐCSVN. Chân tình và chua xót, ông giãi bày:
“Đại đa số các anh em trí thức nói chung, không
mơ ước các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho
các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha đòi hỏi được mang khả
năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ
chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự
do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí
thức mà thôi. Họ đã từng nghe thấy Đảng tuyên bố: Người trí thức là vốn
quí của dân tộc. Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quí quá đến nỗi phải cất nó đi
thật kỹ, giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu. Nếu có
ai cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị người ấy quay mặt nhìn
chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của ta. Có một chỗ
nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền không? Tác dụng
“hiếu hỉ” hay “cười gật” thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương
vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách
nhiệm gì không, có quyền nói gì làm gì không, quần chúng đã biết và miễn
tôi giả nhời.”
Các biện pháp sửa sai CCRĐ có tính đối phó, mỵ dân,
trốn tội có thể làm hài lòng, thậm chí nức lòng nhiều người nhưng đối
với một người yêu nước nồng nàn lại am tường chính trị thì không thể.
Nhẹ nhàng nhưng dứt khoát, Nguyễn Mạnh Tường yêu cầu phải sửa lại toàn
bộ tinh thần và qui trình sửa sai:
“Đảng Lao động và chính phủ có nhận thấy cần
thiết, trong chính sách sửa chữa các sai lầm trong Cải cách, phải “tăng
cường chế độ pháp trị” của ta. Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự
nhận thức về vấn đề pháp trị chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi
pháp luật như một “bà con nghèo”. Chữ “tăng cường” là một chứng minh.
Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ,
nhưng chế độ pháp trị hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu
sâu sắc hơn khi nào tôi trình bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ
pháp trị chân chính. Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà
là xây dựng.
Một chứng minh khác trong chính sách Sửa sai
trong Cải cách này, tôi vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết bức
thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt trận
Trung ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Trong cuộc mạn đàm
với các vị đại biểu đến họp hội nghị này, tôi nhận thấy không ai “thông”
về ý kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng trình bày cả. Riêng về phần
tôi là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của
ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng
trên tinh thần pháp lý, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để qui
định trách nhiệm của người ấy. Trong Cải cách, khi những đảng viên ưu tú
bị đoàn Cải cách gán cho là phản động, ra trước nhân dân, có người cũng
nhận tội trong khi biết là mình oan. Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua,
sửa sai không phải là phạm các sai lầm khác.
Do đó, đứng trên một lập trường pháp trị chân
chính, tôi đề nghị phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc
hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao
cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận
định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính
sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc
cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách
nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội
biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước
các tòa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc
điều tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa.”
Rất hệ thống, hàn lâm và quyết liệt trong việc truy
nguyên sai phạm nhưng khi đề cập tới giải pháp, Nguyễn Mạnh Tường lại
rất thực tế, dung dị, nhưng vẫn nền tảng, chỉ nêu ra ba vấn đề cấp thiết
nhằm thực hiện một “yêu cầu thiết tha nhất hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý nguyện của mình”. Một trong ba vấn đề cấp thiết đó là “Một chế độ tự do ngôn luận, xuất bản báo chí.” Đó là lối tiếp cận giải quyết, nói theo Fareed Zakaria,
có tính Dân chủ Tự do (liberal democracy), vừa kinh điển kiểu Thomas
Jefferson, vừa dân tộc kiểu Phan Chu Trinh và lại rất toàn cầu hóa.
Bài diễn văn kết thúc với những ngôn từ thường có ở một nhân cách lớn: “Các
ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ thành khẩn đề đạt lên các vị,
gọi là để góp phần vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng chan chứa một
niềm hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước.”
Người đọc diễn văn sau đó đã bị cầm cố cho đến tận
cuối đời. Và hơn 55 năm sau khi bài diễn văn vang lên ở Hà Nội, một biến
cố về đất đai lại xảy ra ở Tiên Lãng.
Biến cố Tiên Lãng so với Cải cách Ruộng đất –“cách
mạng long trời lở đất” (chữ của Hồ Chí Minh) – chỉ như một giọt nước độc
trong một hồ nước độc. Nhưng cả hai đều cùng chung một cái nền sinh ra
chất độc. Lớp trên của cái nền đó là chính sách (luật) về đất đai, còn
lớp dưới cùng là hệ thống chính trị phi dân chủ do ĐCSVN nắm giữ. Để
thay hay sửa cái nền đó không thể là việc đơn giản hay không nguy hiểm.
Nhưng nếu muốn nước sạch thì không thể vì sự phức tạp hay nguy hiểm mà
lại cho rằng không có hay quên đi cái nền độc tính đó.
P. H. S.
Nguyễn mạnh Tường – Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất – Xây dựng quan điểm lãnh đạo (I)
Nguyễn Mạnh Tường – Talawas
Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất – Xây dựng quan điểm lãnh đạo
1 2
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1996), năm 23 tuổi đă đậu hai bằng
Tiến sĩ Văn khoa và Luật khoa ở Đại học Montpellier, Pháp. Sau khi về
nước, ông dạy học tại trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat).
Bất mãn vì chính sách kỳ thị của Pháp, ông bỏ nghề dạy ra mở văn phòng
luật sư. Năm 1946, ông tham dự Hội nghị Việt-Pháp tại Đà Lạt nhưng không
được cử đi dự Hội nghị Fontainebleau. Ông theo chính phủ Hồ Chí Minh
kháng chiến chống Pháp tới ngày ký Hiệp định Genève 1954 thì trở về Hà
Nội dạy học ở trường Đại học Văn khoa. Với tư cách thành viên của Mặt
trận Tổ quốc, L.S. Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn này trong một
phiên họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, ngày 30 tháng Mười, 1956. Cũng
nên nhắc lại rằng bài diễn văn này được đọc sau khi Trung ương Đảng hạ
lệnh chấm dứt chiến dịch Cải cách Ruộng đất ngày 20.7.1956 và sau đó ban
hành các biện pháp sửa sai. Vì bài diễn văn này, ông Tường bị tước hết
mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp và phải sống một cuộc đời vô cùng
thiếu thốn. Năm 1991, nhân dịp được phép sang Pháp ông đưa cho nhà xuất
bản Quê Mẹ ở Paris in và phát hành cuốn sách tự thuật L’excommunié (Kẻ bị khai trừ) năm 1992. Ông trở về Hà Nội và mất năm 1996, thọ 87 tuổi.Thưa các quí vị,
Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy. Hôm nay tôi được đúc kết trước toàn thể Hội nghị các ý kiến mà trong mười ngày vừa qua tôi đã trình bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí thức không bao giờ quên trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử nước nhà.
Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được? Nếu chúng ta duy tâm và tin rằng linh hồn còn tồn tại thì một phần nào ta chuộc lại được tội lỗi của ta. Nhưng ta duy vật và các người ấy lúc chết cũng là duy vật. Do đó, cái nỗi khổ cực của họ ta biết rõ rằng bây giờ ta không thể nào thủ tiêu được nữa. Quyền hạn của ta không tới đó. Nhưng cái gì ta có thể làm được, ta cần làm, để như là đền bù một phần nào sự tổn thiệt của các người ấy, và chứng minh ta thấm thía nỗi đau khổ của họ khi họ từ trần là ta cương quyết rút bài học kinh nghiệm đau đớn và sửa chữa các sai lầm nghiêm trọng mà họ là nạn nhân.
Với tinh thần của một người trong quần chúng, của một người công dân đau khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội, tôi xin phép trình bày mấy ý kiến xây dựng. Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, nhưng theo ý tôi các sai lầm này chỉ là biểu hiện điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Đảng Lao động. Do đó tôi xin được góp ý kiến xây dựng quan điểm lãnh đạo của Đảng Lao động.
Tại sao tôi lại tin như vậy? Là vì, không những trong Cải cách Ruộng đất chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết thê thảm. Do đó, nếu chỉ cục bộ hóa các sai lầm, chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ khiếm khuyết với sự tín nhiệm của tất cả các đảng viên Đảng Lao động, với sự mong đợi của toàn dân. Chúng ta phải kiên quyết không cho các sai lầm ấy tái diễn và tác hại nữa. Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với các người đã chết oan.
Tình hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi quan không? Đó là vấn đề nhận định thôi. Nhưng cái chủ yếu là ta không nhìn tình hình ây với con mắt bi quan. Vậy sự thật khách quan như thế nào? Nhìn vào nông thôn, ta thấy hiện thời tình trạng thiếu đoàn kết rất phổ biến. Vì thi hành sai chính sách cải cách, ta đối lập các từng lớp trong giai cấp nông dân, cán bộ cũ và mới, chi bộ cũ và mới của Đảng. Trong khi đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người hoặc già cả hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu diệt. Ta chỉ cần đọc lại các bài giáo huấn cho đồng bào nông thôn trong báo Nhân Dân là ta đủ hiểu mặt mũi nông thôn hiện giờ ra sao. Nhìn vào các công xưởng, công trường, ta thấy gì? Cứ đọc báo Nhân Dân thôi, ta thấy Chính phủ gửi các phái đoàn đi thăm các anh chị em công nhân, ủy lạo họ, bắt buộc thi hành quy chế lao động mà Chính phủ đã ban ra. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là giai cấp công nhân đã phải lao động sản xuất hai năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức. Lắng nghe dư luận đồng bào Hà Nội thôi, ta được biết rằng có it ra một doanh nghiệp quốc gia lãng phí bao nhiêu triệu trong khi dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh nghiệp ấy mang lại cho thực dân đế quốc các số lãi khổng lồ.
Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch.
Về hộ khẩu thì cán bộ tỏ vẻ không phải là nhằm duy trì trật tự an ninh, phá vỡ cơ sở của địch, trái lại quấy nhiễu nhân dân, tạo ra một đời sống thành thị điêu đứng cho tất cả. Nếu các vị cần những dẫn chứng cụ thể, tôi chỉ xin nhắc lại hồ sơ mênh mông, thu lượm các thắc mắc cay đắng của đồng bào Thủ đô trong Đại hội lần thứ ba của nhân dân Hà Nội vừa họp cách đây hai tháng.
Nói về chính sách khôi phục kinh tế, ta thấy gì? Số vốn mà các nhà công thương mang ra kinh doanh chỉ là một phần ti tiểu, số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa lý gì. Trái lại ta thấy tất cả một phong trào các nhà tư bản thu hẹp hoạt động của họ, hoặc “chuyển hướng” bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước mía, hay dệt vài thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào vốn để khỏi đụng chạm đến Sở Lao động vì vấn đề công nhân, với Sở Công thương vì vấn đề đăng ký và nguyên liệu sản xuất, với Sở Tài chính vì thuế khoá đặc biệt. Thuế bổ sung đã đưa bao nhiêu người đến chỗ phá sản, có kẻ đến chỗ tự sát. Các người tiểu thương buôn thúng bán mẹt, đẩy chiếc xe hàng tiều tụy trong phố, cũng “được” nộp thuế, cũng như các người suốt ngày làm việc ở công sở hay công xưởng, tối về thức đêm dệt vài thước kiếm thêm tiền độ thân. Hàng trăm, hàng nghìn công chức cũ về hưu, với gia đình của họ, trước đây sống bằng lương hưu trí, hai năm nay không được ai chiếu cố đến, chết dần chết mòn, có người đâm đầu xuống sông tự tử, có người hai lần uống độc dược để quyên sinh.
Còn như các cán bộ thì ta có cần nói đến không? Ta cứ trông mặt mũi, quần áo họ, ta chỉ cần hỏi con số những người qua các phòng khám bệnh, các bệnh viện, ta liếc mắt nhìn họ ăn uống những gì trong bữa cơm, là ta đủ hiểu khổ cực của họ.
Ta quên thế nào được các đồng bào tập kết ra ngoài Bắc, số phận con cái họ ở Hà Nội, Hải Phòng, số phận chính của họ bi đát quá nỗi! Khổ cực nhất cho các anh chị em là không nương tưa đuợc vào một đời sống gia đình đề khuây khỏa trong lúc thảm sầu.
Các hiện tượng trên đây có đúng không, tôi chỉ yêu cầu các vị đọc báo Nhân Dân, nghiên cứu các hồ sơ chồng chất lên ở Mặt trận Thành Hà Nội sau Đại hội lần thứ 3 vừa rồi, nghe ngóng lời than phiền của quần chúng, nhìn nhận các quang cảnh diễn ra dưới mắt của các vị là các vị đủ hiểu rồi. Quả thực như ông Trường Chinh đã tuyên bố, uy tín của chính phủ, của Đảng bị tổn thiệt rất nhiều. Thế tại sao đồng bào chúng ta lại khổ cực? Phải chăng vì cán bộ của chúng ta non, hẹp hòi, chưa thấm nhuần lý luận cách mạng, không tôn trọng giá trị của con người, các nhu cầu và đòi hỏi chính đáng của nó? Phải chăng vì ta đang mắc trầm trọng bệnh ấu trĩ của cách mạng? Các điều đó là có, ta không hề chối và ta cũng không thể chối cãi được. Nhưng nhận định như vậy vẫn còn hời hợt. Ta phải đi sâu hơn nữa. Khi trong Cải cách Ruộng đất của ta, ta thấy bao nhiêu người bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân ưu tú đã từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời ở nông thôn vẫn có người bị đánh đập, ngược đãi, khi ta không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận định rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải cách Ruộng đất này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lãnh đạo của Đảng Lao động.
Do đó, tôi yêu cầu các vị cho phép tôi bắt đầu nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách đã rồi sau khi truy nguyên các sai lầm ấy, đề đạt mấy ý kiến về vấn đề lãnh đạo.
I. Vấn đề pháp lý trong Cải cách Ruộng đất
Ta đã sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách Ruộng đất, ta có thể tránh được sai lầm ấy mà vẫn bảo đảm được đường lối căn bản của cách mạng không? Tôi giả nhời cương quyết rằng có.
Đường lối cách mạng của ta đòi hỏi gì? Ruộng phải trở về người cày. Điều này rất đúng không ai có thể chối cãi được. Nông dân là đại đa số trong nhân dân, nông dân là quân đội chủ lực của cách mạng, nhất định cách mạng không thể nào thành công được nếu ta không thỏa mãn nhu cầu thiết yếu và cấp bách của nông dân. Không cần phải là một nhà chính trị cao, một nhà cách mạng thạo, cũng nhận thấy điều ấy. Chỉ cần nhìn lịch sử cách mạng từ thời kỳ cổ đại đến giờ là đủ hiểu rồi.
Như vậy về nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải cách Ruộng đất.
Về phương pháp, ta có nên ban ơn cho nông dân không? Nhất định là không. Nông dân ta trong bao nghìn năm đã khổ cực dưới chế độ bóc lột phong kiến và một trăm năm nay dưới chế độ bóc lột thực dân. Đồng bào nông thôn ta lầm than như vậy, đã mất hết khí thế con người. Ta cần khôi phục khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần chủ nhân ông trên đất nước. Do đó ta thấy cần thiết phải phát động tư tưởng của họ để họ nhận được phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng giậy nắm lấy quyền thế ở nông thôn.
Nhưng từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm. Sai lầm này, ông Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ: ta quên hẳn ta hiện thời nắm chính quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết sử dụng nó, khai thác nó một cách sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được bao tai họa làm ta đau khổ hiện thời.
Con đường ông Trường Chinh đã đi để tiến tới kết luận ấy là con đường chính trị. Các anh em tôi là những nhà luật học, chỉ là nhà chuyên môn và lý luận trên cơ sở chuyên môn thôi, đã trông thấy kết luận ấy ngay từ khi chính sách phát động và Cải cách được đề ra. Tại sao? Vì giải pháp chính quyền cụ thể là giải pháp pháp lý, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của cách mạng nếu ta biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng.
Ta muốn gì? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng công lý của cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế: kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì?
Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: “Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan”. Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không? Không, vì ta nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành công. Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm, nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ: không một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.
Làm thế nào thực hiện được khẩu hiệu ấy? Kinh nghiệm pháp lý của hàng nghìn năm lịch sử thế giới cho ta biết rằng ta có phương pháp để tìm đúng địch mà đánh, không đánh tràn lan, không đánh người vô tội. Tôi xin phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc căn bản mà pháp lý nêu lên để đạt mục đích ấy.
Một nguyên tắc đầu tiên là không hình phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Tại sao? Vì rằng vấn đề bằng chứng khó giải quyết được, tang vật đã mất, nhân chứng có người đã từ trần, có người không nhớ rõ các sự việc họ đã mục kích. Hơn nữa, sở dĩ hình luật phạt các tội, là vì các tội ấy đã xâm phạm vào trật tự xã hội: tác hại cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong quần chúng. Nhưng khi tội đã phạm quá lâu, trật tự xã hội hết bị xâm phạm rồi, nạn nhân không còn đau khổ, tác dụng xấu của tội cũng hết, thời gian đã hàn gắn các vết thương. Bây giờ lại vạch chuyện cũ thì không những khó thu thập được bằng chứng kết tội mà lại gây một sự náo động trong xã hội không cần thiết. Chính xã hội thấy “quên” lợi hơn là “nhớ”.
Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung của vợ con, của gia đình. Nêu trách nhiệm truớc hình luật của các người “có quan hệ” với phạm nhân không những là bất công mà lại còn gây các sự rung động vô ích trong xã hội. Hơn 400 năm nay không một nước Tây phương nào làm việc đó nữa. Trách nhiệm trước hình luật chỉ là một trách nhiệm cá nhân mà thôi. Không những thế, về phương diện nhân đạo, thì các phạm nhân quá già được miễn nghị, miễn tố và các vị thành niên được chiếu cố.
Môt nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn. Một nhân chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau mới được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp với nhau và trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được phải có tác dụng hợp lý, sát hợp với kết quả do cuộc điêù tra mang lại.
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, Tòa phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn điều tra ở trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm, buộc tội trước tòa, quyền lợi của công tố viện ngang với quyền lợi bị can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lý lẽ để minh oan. Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra, truy tố, xét xử giữa công tố viện và luật sư. Các vị thẩm phán ngồi xét xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai trong khi xét xử, chỉ biết xét xử theo lương tâm của mình và căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tội. Người thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình mà không sợ ai khiển trách hay gây khó khăn cho mình được. Khi điều tra thẩm vấn, tuyệt đối cấm không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ hắn. Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án thì còn quyền chống án lên tòa trên. Nếu bị kết án tử hình thì lại còn quyền xin ân giảm trước vị Chủ tịch Chính phủ. Con người của bị can, trong tất cả quá trình truy tố và xét xử phải được tôn trọng triệt để, khi bị can ra trước tòa thì không được xiềng xích họ và không lúc nào được dùng nhục hình đối xử với họ.
Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một người tác hại cho một người khác mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước hình luật. Tác hại cho ai thì chỉ nêu trách nhiệm về phương diện dân sự, nghĩa là bồi thường thôi — của người đã tác hại. Muốn truy tố người ấy để thi hành hình luật đối với hắn thì phải chứng minh rằng hắn phạm một tội, nghĩa là phạm vào một điều khoản nào qui định trong hình luật, và hình luật không bao giờ có tác dụng đối với quá khứ cả: nếu hành động của một người diễn ra trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là một tội thì người ấy không thể mang ra truy tố được. Không những bị can phải phạm một tội đã qui định rồi trong pháp luật, mà ta lại còn phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy bị can có ý thức, có ý chí phạm pháp hay không, hay là vô tình mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhau.
Lúc tôi nhắc lại các nguyên tắc này thì có vị cho rằng như thế là phiền phức, phức tạp. Dĩ nhiên rồi, nhưng tất cả vấn đề là: ta có muốn giết người vô tội không? Nếu không thì không thể nào làm khác được. Hơn nữa, muốn nhận định vấn đề cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một người hiện thời không dây dưa với pháp luật, một người ở một cương vị chính quyền. Ta phải đứng vào cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất sáng tỏ, không những ta đòi thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta còn cố gắng tìm hiểu thêm các nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị chết.
Nếu mang ra áp dụng các nguyên tắc ấy vào cuộc Cải cách ruộng đất của ta, ta sẽ làm thế nào? Thủ tục cải cách cứ diễn bài nhưng sự trừng trị bọn cường hào gian ác hay phản động, ta sẽ không giao cho một tòa án nhân dân, đặc biệt như ta đã làm với tất cả sự thiếu sót về phương diện pháp lý mà ta đã biết. Trái lại, sau khi phát động tư tưởng của nông dân, ta sẽ nghe lời họ tố cáo kẻ thù của họ. Ta sẽ ủy nhiệm toà án nhân dân thường lập các hồ sơ, để tòa án, với bộ máy và kinh nghiệm của nó, tiếp tục điều tra, kiểm tra, lấy cung chứng, truy tố, luận tội, xét xử. Ta đảm bảo triệt để cho bị tố nhân quyền bào chữa của họ, ta yêu cầu các luật sư làm tròn nhiệm vụ của họ, ta tôn trọng triệt để con người của bị tố nhân. Ta chỉ thù ghét và kết án, trừng phạt tội của nó đã phạm thôi. Ta tin tưởng ở tòa án, ta đảm bảo cho các vị thẩm phán làm việc ngoài sự điều khiển của chính quyền, một cách biệt lập, tôi nói biệt lập chứ không phải độc lập, theo lương tâm của các vị và căn cứ vào hồ sơ và kết quả của cuộc thẩm vấn.
II. Các nguyên nhân sai lầmTheo như tôi nhận
định, với chủ quan của tôi, các nguyên nhân sai lầm thuộc hai loại, có
loại trực tiếp, nhưng nếu ta phân tích loại này thì ta sẽ đi tới một
loại thứ hai mà theo tôi là những nguyên nhân chính, ta cần chú ý.
Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngay. Sở dĩ khi nghiên cứu
chính sách cải cách, ta không nghĩ đến giải pháp pháp lý đưa ra để điều
hòa với giải pháp chính trị, phải chăng là vì ta không biết giải pháp
pháp lý? Nếu không thì là sự thiếu sót nghiêm trọng của cấp lãnh đạo.
Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu. Sở dĩ ta không để ý đến giải
pháp pháp lý là vì ba lý do:
Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy những điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa. Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người ấy được khôi phục công quyền, đảng tịch, cương vị, người nào bị kết án tử hình rồi thì được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà Tổ quốc ghi tên muôn đời.
Trong nước ta, qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến (ở ngoại thành Hà Nội) bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình. Ấy là không nói đến các người trong quần chúng bị hi sinh oan. Đối với các nạn nhân này, ta có thể một phần nào hiểu các sai lầm đã phạm, vì họ thiếu hay không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các đảng viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đã biết, thì ta tự hỏi trong đầu óc của những người xử họ có cái gì mà ta gọi là lý tính không? Ngay một thường dân, không phải là một nhà chính trị hay văn hóa, chỉ sử dụng cái lẽ phải của mình thôi, cũng không thể nào hỗn hợp người xấu với kẻ tốt như vậy được. Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ trên xuống dưới, tham gia Cải cách Ruộng đất, không phải là người điên cuồng, cũng không phải là người chủ mưu, dụng tâm phá hoại. Nếu như thế thì ta sẽ gửi họ đến bác sĩ chuyên môn chữa bệnh thần kinh, hay đến công tố viện của các tòa án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậy. Do đó, kết luận mà ta tiến tới, dù muốn hay không, là các các cán bộ ấy có một quan điểm rất mơ hồ về ta-thù, bạn-địch.
Còn gì đau đớn hơn là câu ta được nghe “ta đánh cả ta nữa”. Nếu như vậy thì ta cần phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc lại các bài gần đây đăng trong báo Nhân Dân của các đồng chí bị xử trí oan, hoặc các đồng chín ấy nói, hoặc không nói, nhưng ta đều hiểu các đồng chí ấy nghi ngờ những người kết án các đồng chí, không phân biệt được bạn và thù. Vì vậy nên đánh cả bạn, giết cả bạn.
Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu? Phải chăng ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến nỗi mù quáng, ở một tả khuynh mà ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng? Đây không phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấy. Chủ yếu là ta nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất mơ hồ. Nếu ta không kịp sửa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm thù bạn, một ngày kia ta sẽ lại phải khóc trên kỷ niệm của những vị có công nhất với cách mạng, với nhân dân. Ta cương quyết không thể nào để tình trạng ấy tái diễn ra được.
Bất chấp pháp luật — Giáo sư Ba Lan Mahelli nói chuyện ở Bộ Tư pháp, cho ta biết rằng bên Ba Lan, khi cách mạng thành công, các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm nhận các cương vị lãnh đạo trong ngành tư pháp, để bó buộc tư pháp phục vụ triệt để chính trị mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của pháp lý. Kết quả là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp sộc sệch, không những không củng cố được chính thể cách mạng, ngược lại, tác hại quá nhiều gây bao nhiêu khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy đuợc uốn nắn kịp thời: hoàn cảnh khách quan đã dạy một bài học cho chủ quan các nhà chính trị, để lãnh đạo chuyên môn phải nhập trường học tập, trước non 2 năm, sau 5 năm, để qua pháp lý, phục vụ chính trị và cách mạng.
Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên. Trong giai đoạn đầu tiên, chính trị say sưa với các thắng lợi đã thu —và dĩ nhiên các thắng lợi ấy vĩ đại— lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện.
Nhưng quản trị một nước, đặc biệt một nước đang xây dựng chính quyền cách mạng, nghĩa là một cái gì vô cùng mới mẻ và khó khăn — không giống như là đề ra đường lối và khẩu hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng. Hai khu vực hoạt động ấy tuy quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mỗi ngành hoạt động có kỹ thuật và quy luật của nó. Lúc nhà chính trị bao biện, bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử, thì chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện thời làm chúng ta đau xót. Trên con đường bao biện và tự mãn ấy, các nhà chính trị đã bị thúc đẩy bởi những thành kiến đối với pháp lý và tin rằng pháp lý là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng, trái lại, chính pháp lý giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là chính trị tự đặt mình lên trên pháp luật. Ngay trong trường hợp chính trị sau khi đặt mình lên trên pháp luật, còn giữ vững thái độ chân chính, cũng đã gây ra bao khó khăn rồi. Pháp luật chủ yếu đề ra những cái gì có thể làm được, cái gì không được phép làm, do đó nhân dân vững tâm biết rõ đường mà đi. Nhưng tâm hồn quần chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng biết rõ rằng cái gì bó buộc mình cũng đồng thời bó buộc nhà cầm quyền. Trái lại, khi pháp luật chỉ gò bó quần chúng mà không gò bó nhà cầm quyền thì nhà cầm quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà quần chúng chưa từng biết. Vì vậy quần chúng hoang mang: cái gì hôm qua làm được, ngày mai với sự độc đoán của nhà cầm quyền có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái độ này của nhà cầm quyền không những ảnh hưởng đến tương lai, mà là ảnh hưởng cả về quá khứ nữa. Đó là trường hợp nhà cầm quyền, lúc tự đặt mình lên trên pháp luật, giữ thái độ chân chính đúng mực, huống hồ là khi nhà cầm quyền sử dụng quyền thế của mình một cách lộng quyền, như ông Trường Chinh đã nhận định. Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp: đó chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Nếu mà các người sử dụng quyền ấy lại không sử dụng với tinh thần chính sách của lãnh đạo, sử dụng một cách lộng quyền thì kết quả thế nào, hiện thời ta đã trông thấy rõ.
Bất chấp chuyên môn — Các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn và cho phép các nhà chuyên môn đề đạt ý kiến thì các nhà chuyên môn cũng sẽ yêu cầu các nhà chính trị nên chú ý đến pháp luật, và dùng pháp luật phục vụ cách mạng.
Nhưng tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ. Nếu được dùng một hình ảnh “duy tâm”, tôi ví lập trường như cái oan hồn ngày đêm theo đuổi kẻ nào đã hãm hại người chủ của nó. Có một điều lạ, là các anh em công nông, các vị lãnh tụ không bao giờ nói đến lập trường trong sinh hoạt hàng ngày. Trái lại, các cán bộ và đảng viên tiểu tư sản không lo ngại gì bằng sự mất lập trường. Vì vậy, để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồi. Đó là tinh thần tự ti của một giai cấp mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ cách mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đã xẩy ra những sự việc như sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở: khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh mình có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra).
Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý. Chân lý cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được cho chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nếu như vậy thì ít ra chính trị cũng hỏi ý của chuyên môn mới là phải. Nhưng không. Chính trị nghi ngờ chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc thì cho rằng chuyên môn là do văn hoá và khoa học tư sản đế quốc xây dựng, là vô dụng (đó là một sai lầm nghiêm trọng các người tin như vậy chưa đọc Lenin). Lúc thì cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất hiện ở tầng lớp cơ bản, công hay nông, thì không có đảm bảo vì thái độ lừng chừng, lập trường lỏng lẻo, dù là 10 năm nay họ đã bước chân vào đường cách mạng và chứng minh nhiệt tình của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, kiến thiết quốc gia.
Theo ý tôi, đây là một vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng Đảng Lao động thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao nhiêu hi sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng vẫn chưa tin ở họ. Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu? Họ có đòi làm Bộ trưởng hay Đại sứ đâu? Không. Đại đa số các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức mà thôi. Họ đã từng nghe thấy Đảng tuyên bố: Người trí thức là vốn quí của dân tộc. Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quí quá đến nỗi phải cất nó đi thật kỹ, giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu. Nếu có ai cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị người ấy quay mặt nhìn chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của ta. Có một chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền không? Tác dụng “hiếu hỉ” hay “cười gật” thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm gì không, có quyền nói gì làm gì không, quần chúng đã biết và miễn tôi giả nhời.
Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào, xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ vì chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của mình. Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ vì các chính trị viên đưa vào các bệnh viện đã đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến. Đó không phải là chủ trương của Đảng Lao Động. Nhưng có một điều làm ta suy nghĩ: sao mãi bây giờ sau 10 năm Đảng mới nghiên cứu một chính sách cho trí thức? Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công, ta chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó, làm thế nào khai thác được tất cả khả năng của người trí thức để họ mang chuyên môn ra phục vụ nhân dân?
Trên đây, tôi nói về người trí thức từ chiến khu trở về. Đối với người trí thức vẫn ở trong Thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy lại còn trầm trọng hơn nữa. Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em ấy phàn nàn bị coi như là kẻ thù, mặc dầu các anh em vì yêu nước đã khắc phục mọi lo sợ do tuyên truyền của địch gây ra và ở lại với chúng ta. Ta để cho cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không tìm cách nào sửa chữa sai lầm ta đã phạm đối với anh em. Ở các công sở tình trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đã đưa đến cái danh từ bi đát làm cho ta đau lòng: “họ Lưu, họ Kháng”. Không đoàn kết được các anh em, ta lại còn có thái độ úp mở, nhùng nhằng (ta tưởng như vậy là thượng sách), thậm chí ta lại còn nghi ngờ các anh em. Ta không hiểu rằng làm như vậy, ta bất công với các anh em, ta không tôn trọng lời đã hứa qua chính sách tiếp quản và cương lĩnh Mặt Trận, ta đẩy các anh em xa rời ta, ta vô tình ném xuống bể tiêu cực cái vốn chuyên môn của các anh em trí thức trong Thủ đô.
Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa, ta thấy rằng sở dĩ có những hiện tượng như ta vừa phân tách trên đây, chẳng qua chỉ vì sự lãnh đạo của ta thiếu dân chủ, xa lìa quần chúng.
Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng biết. Vai trò của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng như thế nào, các vị đó làm được những gì trong Hội đồng chính phủ, trong các ngành chuyên môn mà các vị ấy phụ trách, ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than phiền của các cán bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu. Ta cũng biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng trong thực tế công tác, mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như không phải là quan trọng cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta lầm đấy. Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao có “dư luận” không ai chối cãi được. Do đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như vậy thì ít ra Đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại từ thời kỳ kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc chắn không ai chối cãi được, là các vị Bộ hay Thứ trưởng không có trách nhiệm gì trước Quốc hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước Chính phủ mà thôi. Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ truởng nào bị lật đổ cả. Phải đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong Cải cách mới thấy hai vị Thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng Chính phủ. Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng Chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủtrong khi lập Hội đồng Chính phủ, vì các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất, ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rõ hơn nữa. Mười năm Quốc hội đã thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý nguyện của quần chúng không, quần chúng có tín nhiệm ở Quốc hội nữa không, đó là một vấn đề. Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi nữa, có một điều chắc chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà vẫn tồn tại ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay đã bị truất quyền cử đại biểu của mình rồi. Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là một điều không làm được. Và hiện thời, Nam-Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội cũng là khó khăn. Nhưng dù sao riêng ở các miền giải phóng này, nếu ta chú ý đến quyền người dân cử đại biểu của họ thì nhất định ta phải cho phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi hòa bình trở lại, 2 năm đã qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân và bổ sung Quốc hội.
Nào có thế thôi đâu? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là không. Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng, hay các chính sách để Quốc hội tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên trong Hội đồng Chính phủ, bấy nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng không? Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi. Còn như các sắc lệnh hay đạo luật thì thường thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban Thường trực của Quốc hội. Nếu Quốc hội là tổ chức cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải khách quan nhận thấy rằng, với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện thời, quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.
Nói đến Mặt trận thì tình hình cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là tổ chức quần chúng có lẽ sát tình hình quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta có để nó đóng vai trò của nó không? Không. Tác dụng của nó là động viên quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về phương diện này, nó làm tròn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín nhiệm của Đảng và Chính phủ. Nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một chiều thôi. Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất của nó. Nó có thể là liên lạc “hai chiều” giữa quần chúng và Đảng, Chính phủ. Một mặt như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ. Nhưng mặt khác, nó có thể là cơ quan phản ảnh lên Đảng và Chính phủ các ý kiến, thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiếng nói của quần chúng, cung cấp tài liệu nguồn gốc ở quần chúng, tích cực giúp đỡ cấp lãnh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa cấp lãnh đạo và quần chúng. Nhưng muốn để cho nó đóng vai trò ấy, ta phải “dân chủ” đối với nó, nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó, để nó mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng, dù là các ý kiến trái ngược với nhận định của cấp lãnh đạo. Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậy. Ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ —chỉ thỏ thẻ thôi— những lời làm ta một phút chốc tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta trong cấp lãnh đạo đang say sưa. Vì vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ họa ta, tán đồng ta với thái độ của đứa con khen hay khi mẹ nó hát. Tóm lại, ta không dân chủ với nó. Do đó, ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích gì cho cấp lãnh đạo.
Thiếu dân chủ là gì? Là xa rời quần chúng, là giam hãm mình vào ngục thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể phạm sai lầm nghiêm trọng như vậy được?
Trước đây, ta không trả lời được. Những người kính yêu cách mạng rất ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi tìm tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lén sang phía tư bản. Ngay trong thủ đô ta hiện thời, qua Đại hội lần thứ 3 của Mặt trận Thành, ta thấy phản ảnh ý muốn của bao nhiêu đồng bào muốn đi Nam. Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước mắt mà trở về Hà-nội. Nếu cách mạng mang lại cho họ ánh sáng và hạnh phúc, sao lại có người lo ngại trước cách mạng, đau đớn vì cách mạng. Các người ấy không phải thuộc thành phần kẻ thù của cách mạng, trái lại thuộc thành phần cơ bản trong nhân dân, như nông dân, công nhân. Thế thì đâu là chân lý? Đó là một vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không giải quyết được.
Bây giờ sau Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, sau các cuộc bạo động ở Berlin, Poznan, bên Tiệp, bên Hung, ta hiểu rõ vấn đề, ta giải quyết được nó. Chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho dân tộc, sở dĩ vẫn có người xa lánh cách mạng, chẳng qua là vì chính thể cách mạng mắc trầm trọng bệnh xa lìa quần chúng, thiếu dân chủ, do đó đi càng ngày càng sâu vào tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, duy trì một thái độ lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, có khi độc tài. Thái độ một chiều không muốn, không cho phép ai nói cái gì trái ngược ít nhiều với ý kiến nhận định, thành kiến của mình. Mình tự phụ, tự hào mình có độc quyền tìm thấy và gìn giữ chân lý. Đó là tật tự cao tự đại của nhà cách mạng. Ta bay bổng lên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở ta. Trong tư tưởng, ta không khinh quần chúng, nhưng trong hành động, quả thật con mắt khách quan nhận thấy ta bất chấp quần chúng. Thậm chí, khi ta nghe thấy một tiếng nào từ quần chúng nói lên rằng ta nhầm, ta làm như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay đó là tiếng của địch. Sở dĩ quan điểm bạn thù của ta mơ hồ, và đâu ta cũng trông thấy địch, chẳng qua là vì ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi. Bây giờ ta biết rõ là nếu bệnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời thì trách nhiệm chính là Stalin phải chịu. Vì tự cao, tự đại, tự phụ, tự mãn, Stalin không cho phép ai dân chủ với mình, đâu cũng trông thấy địch. Kết quả thế nào ta đã biết: khẩu hiệu nêu lên, thét lên, gào lên là: đề cao cảnh giác. Và lợi dụng tình thế ấy, ta biết Béria đã làm những gì, phạm tội ác như thế nào.
Nếu không có quyết nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, nếu không có những sai lầm cực kỳ tai hại trong Cải cách, ta chưa mở mắt được, ta sẽ còn thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối thành sông, bao nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau sót rời bỏ cách mạng. Tuy ta phải trả một giá quá cao, nhưng bây giờ ta biết rõ nguyên do của các đau khổ của ta: ta thiếu dân chủ.
III. Phương hướng sửa chữa các sai lầm
Qua lịch sử tranh đấu của quần chúng hai nghìn năm nay, ta thấy cái gì mà nhân bản của loài người đòi hỏi thiết tha nhất, đó là một đời sống vật chất tương đối đầy đủ êm ấm, đó là một đời sống tinh thần tương đối ổn định, có đảm bảo và tự do. Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản. Từ cuộc Cách mạng tư sản Hoa Kỳ cuối thế kỷ 18, Cách mạng tư sản Pháp 1789, tới cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa của Nga, quần chúng nổi giậy, mang xương máu để giành kỳ được chế độ dân chủ. Sau cuộc đại chiến lần thứ hai, Hiến chương Liên hiệp quốc đúc kết những thành quả của các phong trào lịch sử tranh đấu cho dân chủ và đặt các nước văn minh trước trách nhiệm của họ để thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc dân chủ. Đối với các nước tư bản ta không ngạc nhiên thấy chế độ dân chủ thực hiện với những thiếu sót quan trọng. Nhưng ta có quyền ngạc nhiên khi ta thấy các thiếu sót ấy cũng xuất hiện trong các nước đã hoàn thành cuộc Cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ 6 của Hội Quốc tế các luật gia dân chủ họp trong tháng 5 vừa rồi tại Bruxelles đã lấy làm tiếc mà nhận thấy rằng trong tất cả các nước, dù tư bản hay xã hội chủ nghĩa, mặc dầu các Hiến pháp, các bộ luật tuyên bố trịnh trọng, tôn trọng thực hiện, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc dân chủ, tuy nhiên các nguyên tắc này vẫn bị dày xéo. Vì vậy trong tất cả các nước, quần chúng tranh đấu kịch liệt.
Ở nước ta, trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố. Nhưng qua phong trào phát huy dân chủ mà Chính phủ chủ trương, qua đại hội nhân dân thủ đô lần thứ 3, các Đại hội Mặt trận Trung ương, Mặt trận Thành, qua thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động, của Chính phủ v.v., nhân dân nhận thấy, và Đảng cũng như Chính phủ xác nhận rằng ta thiếu sót về dân chủ khá nhiều. Vì các thiếu sót ấy, ta phạm các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất như tôi đã trình bày trên đây. Nguyên nhân sâu sắc của các sai lầm ấy, ta có thể quy kết được. Sở dĩ đời sống tinh thần của ta không được ổn định, lúc nào ta cũng nơm nớp lo sợ các hành động “lộng quyền” của nhà đương cục, là vì ta thiếu một chế độ pháp trị phân minh, không đề ra nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người, đồng thời cả của cấp lãnh đạo nữa. Sở dĩ cấp lãnh đạo có thể phạm được các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách Ruộng đất, tổn thất cho xương máu, mồ hôi nước mắt của đồng bào, cho uy tín của Đảng và Chính phủ, là vì người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ.
Do đó, phương hướng sửa chữa các sai lầm là một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.
Một chế độ pháp trị chân chính — Ở đây, chưa phải lúc và chỗ để tôi trình bày ý kiến về vấn đề pháp trị. Ta sẽ có dịp khác. Ở đây, tôi chỉ muốn trình các quí vị một nhận xét.
Đảng Lao động và chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong chính sách sửa chữa các sai lầm trong Cải cách, phải “tăng cường chế độ pháp trị” của ta. Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp trị chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như một “bà con nghèo”. Chữ “tăng cường” là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi trìng bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính. Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà là xây dựng.
Một chứng minh khác trong chính sách Sửa sai trong Cải cách này, tôi vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến họp hội nghị này, tôi nhận thấy không ai “thông” về ý kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng trình bày cả. Riêng về phần tôi là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lý, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để qui định trách nhiệm của người ấy. Trong Cải cách, khi những đảng viên ưu tú bị đoàn Cải cách gán cho là phản động, ra trước nhân dân, có người cũng nhận tội trong khi biết là mình oan. Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua, sửa sai không phải là phạm các sai lầm khác. Do đó, đứng trên một lập trường pháp trị chân chính, tôi đề nghị phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các tòa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa.
Có người hỏi làm thế để làm gỉ? Tôi xin phép trả lời. Làm thế để rút kinh nghiệm. Tôi cảm thấy ngay hiện thời ta chưa rút được kinh nghiệm đâu. Chính trị không những lãnh đạo pháp lý —đó là đúng— nhưng vẫn lấn át pháp lý, thay thế cho pháp lý, như trong trường hợp ông Hồ Viết Thắng, như thế là ta vẫn mở cửa cho các sai lầm mới còn nguy hại hơn nữa. Không những thế, ta biết rằng nhu cầu công lý thuộc nhân bản con người văn minh. Từ người bị xử trí oan cho đến các người chỉ chịu thiệt gián tiếp vì các sai lầm, có thể nói được rằng toàn dân đợi chờ công lý. Một biện pháp chính trị xuề xoà không thỏa mãn được ai. Bằng chứng ở nông thôn, ta được biết tình hình “căng thẳng”. Phong trào trả thù, tự xử diễn ra khắp mọi nơi, kéo chúng ta trở về quá khứ của lịch sử. Còn như các đảng viên bị xử trí sai, tâm hồn các anh em như thế nào, ta chỉ cần đọc lại báo Nhân Dân. Tuy rằng các anh em kết thúc các bài tường thuật lại đau khổ của mình bằng những lời phấn khởi, nhưng các lời này không làm ta quên được các lời phẫn uất, chua xót, cay đắng mà các anh em nói lại với ta từ đầu bài. Nhưng bi đát hơn hết là các chiếc khăn trắng chít trên đầu họ hàng thân thích của những anh em bị xử tử, những bàn thờ vẫn dựng trong nhà, các thổn thức phá vỡ im lặng của các đêm hiu quạnh, các ngày cúng giỗ nhắc lại hàng năm bi kịch thê thảm đã diễn ra trong gia đình vì cuộc Cải cách. Nhân dân đòi hỏi các người có công được thưởng và các người có tội phải đền tội. Trách nhiệm của tất cả mọi người từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, phải được qui định rõ ràng, dứt khoát. Như thế mới yên được lòng dân, như thế mới thu phục được nhân tâm. Kinh nghiệm lịch sử dạy ta điều ấy. Trong chính sách sửa chữa sai lầm, ta không thể quên được bài học lịch sử. Quần chúng im lặng đợi chờ công lý.
Chúng ta thiết tha mong ước ở chính trị một nhận định đúng về vai trò của pháp luật phục vụ cách mạng. Kinh nghiệm đau đớn vừa qua bó buộc ta phải xây dựng lại quan điểm “địch” trên cơ sở pháp lý và pháp trị. Các sai lầm nghiêm trọng ta đã phạm bắt nguồn ở một quan điểm chính trị về địch. Quan điểm ấy linh động quá, “biện chứng” quá, nên ta không biết phân tách địch và ta, do đó ta đánh cả ta nữa. Muốn tránh các sai lầm hôm qua đừng tái diễn ngày mai, ta cần xác định theo hình luật thế nào là địch. Lúc đó ta mới đánh đúng địch, và có đánh đúng địch ta mới củng cố được ta, ổn định được nhân tâm, duy trì lại trật tự và an ninh ở thôn quê, kiến thiết lại đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân ở thôn quê cũng như ở thành thị, đảm bảo cho quần chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi sự đe dọa của “lộng quyền”, bênh vực các quyền căn bản và thiết yếu của con người.
Tóm lại, nếu chính trị giác ngộ, vui lòng tôn trọng pháp lý, thiết lập một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lãnh đạo pháp lý, nhưng đồng thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lý và pháp trị thì nhất định chính trị khôi phục đuợc uy tín và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ.
Một chế độ thực sự dân chủ — Thế nào là một chế độ thực sự dân chủ? Đó là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa. Đây không phải là lúc, là chỗ, mà ta đi sâu vào vấn đề. Ta chỉ cần nhận thấy rằng trong giai đoạn hiện thời, quần chúng có đòi hỏi cái gì quá đáng đâu, chỉ yêu cầu có một điều thôi, là được đàm thoại với cấp lãnh đạo, được đề đạt lên cấp lãnh đạo, ý kiến về các chính sách do cấp lãnh đạo xây dựng. Các vị lãnh tụ đã bao lần khen dân ta tốt. Mà dân ta tốt thật. Bằng chứng là điều tôi vừa nhắc lại đây. Trong khi quần chúng có quyền đòi hỏi ở một chính thể cách mạng rất nhiều, nhân dân ta chỉ có một yêu cầu mà ai cũng phải nhận là chính đáng. Tại sao nhân dân chỉ có cái yêu cầu nhũn nhặn ấy mà thôi? Là vì nhân dân thông cảm với cấp lãnh đạo phải đương đầu với bao khó khăn. Nhưng nếu nhân dân chỉ đề ra có một yêu cầu, yêu cầu ấy thiết yếu. Tôi tin rằng cấp lãnh đạo cũng nhận thấy như vậy. Tôi không quên lời của ông Trường Chinh đọc bản tự phê của Đảng Lao động tại Hội nghị này. Ta nghe thấy cấp lãnh đạo thú nhận trước Hội nghị rằng Trung ương Đảng đã phạm sai lầm là xa quần chúng, chỉ tiếp xúc với quần chúng qua báo cáo của các cán bộ đảng viên mà thôi. Ta phải nhận định rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng. Do đó, cuộc Cải cách Ruộng đất của ta đã gặp các thất bại cay đắng. Trái với lời ta thường nói, ta đã thiếu dân chủ với nhân dân.
Nhân dân nhất định không để tình trạng tai hại ấy kéo dài nữa. Tôi xin phép Hội nghị góp một số ý kiến để chấm dứt tình trạng đó. Tôi không đặt vấn đề dân chủ nói chung. Tôi chỉ chú ý đến yêu cầu thiết tha nhất hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý nguyện của mình. Theo ý tôi, để thực hiện và đảm bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần ba giải pháp.
Thưa các quý vị,
Tôi nói đã quá lâu, nhưng tôi tin các vị cũng tha thứ cho, vì biết rằng tôi là một người thiết tha đến sự nghiệp của cách mạng và tiền đồ của dân tộc. Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ thành khẩn đề đạt lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng chan chứa một niềm hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước.
Hà-nội, ngày 30.10.1956
- Quan điểm ta-địch, thù-bạn của ta rất mơ hồ
- Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý
- Ta bất chấp chuyên môn
Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy những điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa. Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người ấy được khôi phục công quyền, đảng tịch, cương vị, người nào bị kết án tử hình rồi thì được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà Tổ quốc ghi tên muôn đời.
Trong nước ta, qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến (ở ngoại thành Hà Nội) bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình. Ấy là không nói đến các người trong quần chúng bị hi sinh oan. Đối với các nạn nhân này, ta có thể một phần nào hiểu các sai lầm đã phạm, vì họ thiếu hay không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các đảng viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đã biết, thì ta tự hỏi trong đầu óc của những người xử họ có cái gì mà ta gọi là lý tính không? Ngay một thường dân, không phải là một nhà chính trị hay văn hóa, chỉ sử dụng cái lẽ phải của mình thôi, cũng không thể nào hỗn hợp người xấu với kẻ tốt như vậy được. Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ trên xuống dưới, tham gia Cải cách Ruộng đất, không phải là người điên cuồng, cũng không phải là người chủ mưu, dụng tâm phá hoại. Nếu như thế thì ta sẽ gửi họ đến bác sĩ chuyên môn chữa bệnh thần kinh, hay đến công tố viện của các tòa án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậy. Do đó, kết luận mà ta tiến tới, dù muốn hay không, là các các cán bộ ấy có một quan điểm rất mơ hồ về ta-thù, bạn-địch.
Còn gì đau đớn hơn là câu ta được nghe “ta đánh cả ta nữa”. Nếu như vậy thì ta cần phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc lại các bài gần đây đăng trong báo Nhân Dân của các đồng chí bị xử trí oan, hoặc các đồng chín ấy nói, hoặc không nói, nhưng ta đều hiểu các đồng chí ấy nghi ngờ những người kết án các đồng chí, không phân biệt được bạn và thù. Vì vậy nên đánh cả bạn, giết cả bạn.
Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu? Phải chăng ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến nỗi mù quáng, ở một tả khuynh mà ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng? Đây không phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấy. Chủ yếu là ta nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất mơ hồ. Nếu ta không kịp sửa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm thù bạn, một ngày kia ta sẽ lại phải khóc trên kỷ niệm của những vị có công nhất với cách mạng, với nhân dân. Ta cương quyết không thể nào để tình trạng ấy tái diễn ra được.
Bất chấp pháp luật — Giáo sư Ba Lan Mahelli nói chuyện ở Bộ Tư pháp, cho ta biết rằng bên Ba Lan, khi cách mạng thành công, các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm nhận các cương vị lãnh đạo trong ngành tư pháp, để bó buộc tư pháp phục vụ triệt để chính trị mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của pháp lý. Kết quả là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp sộc sệch, không những không củng cố được chính thể cách mạng, ngược lại, tác hại quá nhiều gây bao nhiêu khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy đuợc uốn nắn kịp thời: hoàn cảnh khách quan đã dạy một bài học cho chủ quan các nhà chính trị, để lãnh đạo chuyên môn phải nhập trường học tập, trước non 2 năm, sau 5 năm, để qua pháp lý, phục vụ chính trị và cách mạng.
Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên. Trong giai đoạn đầu tiên, chính trị say sưa với các thắng lợi đã thu —và dĩ nhiên các thắng lợi ấy vĩ đại— lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện.
Nhưng quản trị một nước, đặc biệt một nước đang xây dựng chính quyền cách mạng, nghĩa là một cái gì vô cùng mới mẻ và khó khăn — không giống như là đề ra đường lối và khẩu hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng. Hai khu vực hoạt động ấy tuy quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mỗi ngành hoạt động có kỹ thuật và quy luật của nó. Lúc nhà chính trị bao biện, bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử, thì chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện thời làm chúng ta đau xót. Trên con đường bao biện và tự mãn ấy, các nhà chính trị đã bị thúc đẩy bởi những thành kiến đối với pháp lý và tin rằng pháp lý là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng, trái lại, chính pháp lý giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là chính trị tự đặt mình lên trên pháp luật. Ngay trong trường hợp chính trị sau khi đặt mình lên trên pháp luật, còn giữ vững thái độ chân chính, cũng đã gây ra bao khó khăn rồi. Pháp luật chủ yếu đề ra những cái gì có thể làm được, cái gì không được phép làm, do đó nhân dân vững tâm biết rõ đường mà đi. Nhưng tâm hồn quần chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng biết rõ rằng cái gì bó buộc mình cũng đồng thời bó buộc nhà cầm quyền. Trái lại, khi pháp luật chỉ gò bó quần chúng mà không gò bó nhà cầm quyền thì nhà cầm quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà quần chúng chưa từng biết. Vì vậy quần chúng hoang mang: cái gì hôm qua làm được, ngày mai với sự độc đoán của nhà cầm quyền có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái độ này của nhà cầm quyền không những ảnh hưởng đến tương lai, mà là ảnh hưởng cả về quá khứ nữa. Đó là trường hợp nhà cầm quyền, lúc tự đặt mình lên trên pháp luật, giữ thái độ chân chính đúng mực, huống hồ là khi nhà cầm quyền sử dụng quyền thế của mình một cách lộng quyền, như ông Trường Chinh đã nhận định. Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp: đó chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Nếu mà các người sử dụng quyền ấy lại không sử dụng với tinh thần chính sách của lãnh đạo, sử dụng một cách lộng quyền thì kết quả thế nào, hiện thời ta đã trông thấy rõ.
Bất chấp chuyên môn — Các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn và cho phép các nhà chuyên môn đề đạt ý kiến thì các nhà chuyên môn cũng sẽ yêu cầu các nhà chính trị nên chú ý đến pháp luật, và dùng pháp luật phục vụ cách mạng.
Nhưng tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ. Nếu được dùng một hình ảnh “duy tâm”, tôi ví lập trường như cái oan hồn ngày đêm theo đuổi kẻ nào đã hãm hại người chủ của nó. Có một điều lạ, là các anh em công nông, các vị lãnh tụ không bao giờ nói đến lập trường trong sinh hoạt hàng ngày. Trái lại, các cán bộ và đảng viên tiểu tư sản không lo ngại gì bằng sự mất lập trường. Vì vậy, để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồi. Đó là tinh thần tự ti của một giai cấp mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ cách mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đã xẩy ra những sự việc như sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở: khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh mình có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra).
Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý. Chân lý cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được cho chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nếu như vậy thì ít ra chính trị cũng hỏi ý của chuyên môn mới là phải. Nhưng không. Chính trị nghi ngờ chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc thì cho rằng chuyên môn là do văn hoá và khoa học tư sản đế quốc xây dựng, là vô dụng (đó là một sai lầm nghiêm trọng các người tin như vậy chưa đọc Lenin). Lúc thì cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất hiện ở tầng lớp cơ bản, công hay nông, thì không có đảm bảo vì thái độ lừng chừng, lập trường lỏng lẻo, dù là 10 năm nay họ đã bước chân vào đường cách mạng và chứng minh nhiệt tình của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, kiến thiết quốc gia.
Theo ý tôi, đây là một vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng Đảng Lao động thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao nhiêu hi sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng vẫn chưa tin ở họ. Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu? Họ có đòi làm Bộ trưởng hay Đại sứ đâu? Không. Đại đa số các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức mà thôi. Họ đã từng nghe thấy Đảng tuyên bố: Người trí thức là vốn quí của dân tộc. Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quí quá đến nỗi phải cất nó đi thật kỹ, giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu. Nếu có ai cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị người ấy quay mặt nhìn chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của ta. Có một chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền không? Tác dụng “hiếu hỉ” hay “cười gật” thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm gì không, có quyền nói gì làm gì không, quần chúng đã biết và miễn tôi giả nhời.
Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào, xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ vì chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của mình. Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ vì các chính trị viên đưa vào các bệnh viện đã đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến. Đó không phải là chủ trương của Đảng Lao Động. Nhưng có một điều làm ta suy nghĩ: sao mãi bây giờ sau 10 năm Đảng mới nghiên cứu một chính sách cho trí thức? Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công, ta chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó, làm thế nào khai thác được tất cả khả năng của người trí thức để họ mang chuyên môn ra phục vụ nhân dân?
Trên đây, tôi nói về người trí thức từ chiến khu trở về. Đối với người trí thức vẫn ở trong Thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy lại còn trầm trọng hơn nữa. Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em ấy phàn nàn bị coi như là kẻ thù, mặc dầu các anh em vì yêu nước đã khắc phục mọi lo sợ do tuyên truyền của địch gây ra và ở lại với chúng ta. Ta để cho cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không tìm cách nào sửa chữa sai lầm ta đã phạm đối với anh em. Ở các công sở tình trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đã đưa đến cái danh từ bi đát làm cho ta đau lòng: “họ Lưu, họ Kháng”. Không đoàn kết được các anh em, ta lại còn có thái độ úp mở, nhùng nhằng (ta tưởng như vậy là thượng sách), thậm chí ta lại còn nghi ngờ các anh em. Ta không hiểu rằng làm như vậy, ta bất công với các anh em, ta không tôn trọng lời đã hứa qua chính sách tiếp quản và cương lĩnh Mặt Trận, ta đẩy các anh em xa rời ta, ta vô tình ném xuống bể tiêu cực cái vốn chuyên môn của các anh em trí thức trong Thủ đô.
Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa, ta thấy rằng sở dĩ có những hiện tượng như ta vừa phân tách trên đây, chẳng qua chỉ vì sự lãnh đạo của ta thiếu dân chủ, xa lìa quần chúng.
Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng biết. Vai trò của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng như thế nào, các vị đó làm được những gì trong Hội đồng chính phủ, trong các ngành chuyên môn mà các vị ấy phụ trách, ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than phiền của các cán bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu. Ta cũng biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng trong thực tế công tác, mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như không phải là quan trọng cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta lầm đấy. Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao có “dư luận” không ai chối cãi được. Do đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như vậy thì ít ra Đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại từ thời kỳ kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc chắn không ai chối cãi được, là các vị Bộ hay Thứ trưởng không có trách nhiệm gì trước Quốc hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước Chính phủ mà thôi. Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ truởng nào bị lật đổ cả. Phải đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong Cải cách mới thấy hai vị Thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng Chính phủ. Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng Chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủtrong khi lập Hội đồng Chính phủ, vì các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất, ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rõ hơn nữa. Mười năm Quốc hội đã thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý nguyện của quần chúng không, quần chúng có tín nhiệm ở Quốc hội nữa không, đó là một vấn đề. Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi nữa, có một điều chắc chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà vẫn tồn tại ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay đã bị truất quyền cử đại biểu của mình rồi. Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là một điều không làm được. Và hiện thời, Nam-Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội cũng là khó khăn. Nhưng dù sao riêng ở các miền giải phóng này, nếu ta chú ý đến quyền người dân cử đại biểu của họ thì nhất định ta phải cho phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi hòa bình trở lại, 2 năm đã qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân và bổ sung Quốc hội.
Nào có thế thôi đâu? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là không. Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng, hay các chính sách để Quốc hội tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên trong Hội đồng Chính phủ, bấy nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng không? Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi. Còn như các sắc lệnh hay đạo luật thì thường thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban Thường trực của Quốc hội. Nếu Quốc hội là tổ chức cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải khách quan nhận thấy rằng, với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện thời, quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.
Nói đến Mặt trận thì tình hình cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là tổ chức quần chúng có lẽ sát tình hình quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta có để nó đóng vai trò của nó không? Không. Tác dụng của nó là động viên quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về phương diện này, nó làm tròn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín nhiệm của Đảng và Chính phủ. Nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một chiều thôi. Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất của nó. Nó có thể là liên lạc “hai chiều” giữa quần chúng và Đảng, Chính phủ. Một mặt như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ. Nhưng mặt khác, nó có thể là cơ quan phản ảnh lên Đảng và Chính phủ các ý kiến, thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiếng nói của quần chúng, cung cấp tài liệu nguồn gốc ở quần chúng, tích cực giúp đỡ cấp lãnh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa cấp lãnh đạo và quần chúng. Nhưng muốn để cho nó đóng vai trò ấy, ta phải “dân chủ” đối với nó, nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó, để nó mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng, dù là các ý kiến trái ngược với nhận định của cấp lãnh đạo. Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậy. Ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ —chỉ thỏ thẻ thôi— những lời làm ta một phút chốc tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta trong cấp lãnh đạo đang say sưa. Vì vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ họa ta, tán đồng ta với thái độ của đứa con khen hay khi mẹ nó hát. Tóm lại, ta không dân chủ với nó. Do đó, ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích gì cho cấp lãnh đạo.
Thiếu dân chủ là gì? Là xa rời quần chúng, là giam hãm mình vào ngục thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể phạm sai lầm nghiêm trọng như vậy được?
Trước đây, ta không trả lời được. Những người kính yêu cách mạng rất ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi tìm tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lén sang phía tư bản. Ngay trong thủ đô ta hiện thời, qua Đại hội lần thứ 3 của Mặt trận Thành, ta thấy phản ảnh ý muốn của bao nhiêu đồng bào muốn đi Nam. Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước mắt mà trở về Hà-nội. Nếu cách mạng mang lại cho họ ánh sáng và hạnh phúc, sao lại có người lo ngại trước cách mạng, đau đớn vì cách mạng. Các người ấy không phải thuộc thành phần kẻ thù của cách mạng, trái lại thuộc thành phần cơ bản trong nhân dân, như nông dân, công nhân. Thế thì đâu là chân lý? Đó là một vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không giải quyết được.
Bây giờ sau Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, sau các cuộc bạo động ở Berlin, Poznan, bên Tiệp, bên Hung, ta hiểu rõ vấn đề, ta giải quyết được nó. Chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho dân tộc, sở dĩ vẫn có người xa lánh cách mạng, chẳng qua là vì chính thể cách mạng mắc trầm trọng bệnh xa lìa quần chúng, thiếu dân chủ, do đó đi càng ngày càng sâu vào tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, duy trì một thái độ lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, có khi độc tài. Thái độ một chiều không muốn, không cho phép ai nói cái gì trái ngược ít nhiều với ý kiến nhận định, thành kiến của mình. Mình tự phụ, tự hào mình có độc quyền tìm thấy và gìn giữ chân lý. Đó là tật tự cao tự đại của nhà cách mạng. Ta bay bổng lên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở ta. Trong tư tưởng, ta không khinh quần chúng, nhưng trong hành động, quả thật con mắt khách quan nhận thấy ta bất chấp quần chúng. Thậm chí, khi ta nghe thấy một tiếng nào từ quần chúng nói lên rằng ta nhầm, ta làm như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay đó là tiếng của địch. Sở dĩ quan điểm bạn thù của ta mơ hồ, và đâu ta cũng trông thấy địch, chẳng qua là vì ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi. Bây giờ ta biết rõ là nếu bệnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời thì trách nhiệm chính là Stalin phải chịu. Vì tự cao, tự đại, tự phụ, tự mãn, Stalin không cho phép ai dân chủ với mình, đâu cũng trông thấy địch. Kết quả thế nào ta đã biết: khẩu hiệu nêu lên, thét lên, gào lên là: đề cao cảnh giác. Và lợi dụng tình thế ấy, ta biết Béria đã làm những gì, phạm tội ác như thế nào.
Nếu không có quyết nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, nếu không có những sai lầm cực kỳ tai hại trong Cải cách, ta chưa mở mắt được, ta sẽ còn thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối thành sông, bao nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau sót rời bỏ cách mạng. Tuy ta phải trả một giá quá cao, nhưng bây giờ ta biết rõ nguyên do của các đau khổ của ta: ta thiếu dân chủ.
III. Phương hướng sửa chữa các sai lầm
Qua lịch sử tranh đấu của quần chúng hai nghìn năm nay, ta thấy cái gì mà nhân bản của loài người đòi hỏi thiết tha nhất, đó là một đời sống vật chất tương đối đầy đủ êm ấm, đó là một đời sống tinh thần tương đối ổn định, có đảm bảo và tự do. Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản. Từ cuộc Cách mạng tư sản Hoa Kỳ cuối thế kỷ 18, Cách mạng tư sản Pháp 1789, tới cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa của Nga, quần chúng nổi giậy, mang xương máu để giành kỳ được chế độ dân chủ. Sau cuộc đại chiến lần thứ hai, Hiến chương Liên hiệp quốc đúc kết những thành quả của các phong trào lịch sử tranh đấu cho dân chủ và đặt các nước văn minh trước trách nhiệm của họ để thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc dân chủ. Đối với các nước tư bản ta không ngạc nhiên thấy chế độ dân chủ thực hiện với những thiếu sót quan trọng. Nhưng ta có quyền ngạc nhiên khi ta thấy các thiếu sót ấy cũng xuất hiện trong các nước đã hoàn thành cuộc Cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ 6 của Hội Quốc tế các luật gia dân chủ họp trong tháng 5 vừa rồi tại Bruxelles đã lấy làm tiếc mà nhận thấy rằng trong tất cả các nước, dù tư bản hay xã hội chủ nghĩa, mặc dầu các Hiến pháp, các bộ luật tuyên bố trịnh trọng, tôn trọng thực hiện, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc dân chủ, tuy nhiên các nguyên tắc này vẫn bị dày xéo. Vì vậy trong tất cả các nước, quần chúng tranh đấu kịch liệt.
Ở nước ta, trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố. Nhưng qua phong trào phát huy dân chủ mà Chính phủ chủ trương, qua đại hội nhân dân thủ đô lần thứ 3, các Đại hội Mặt trận Trung ương, Mặt trận Thành, qua thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động, của Chính phủ v.v., nhân dân nhận thấy, và Đảng cũng như Chính phủ xác nhận rằng ta thiếu sót về dân chủ khá nhiều. Vì các thiếu sót ấy, ta phạm các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất như tôi đã trình bày trên đây. Nguyên nhân sâu sắc của các sai lầm ấy, ta có thể quy kết được. Sở dĩ đời sống tinh thần của ta không được ổn định, lúc nào ta cũng nơm nớp lo sợ các hành động “lộng quyền” của nhà đương cục, là vì ta thiếu một chế độ pháp trị phân minh, không đề ra nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người, đồng thời cả của cấp lãnh đạo nữa. Sở dĩ cấp lãnh đạo có thể phạm được các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách Ruộng đất, tổn thất cho xương máu, mồ hôi nước mắt của đồng bào, cho uy tín của Đảng và Chính phủ, là vì người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ.
Do đó, phương hướng sửa chữa các sai lầm là một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.
Một chế độ pháp trị chân chính — Ở đây, chưa phải lúc và chỗ để tôi trình bày ý kiến về vấn đề pháp trị. Ta sẽ có dịp khác. Ở đây, tôi chỉ muốn trình các quí vị một nhận xét.
Đảng Lao động và chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong chính sách sửa chữa các sai lầm trong Cải cách, phải “tăng cường chế độ pháp trị” của ta. Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp trị chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như một “bà con nghèo”. Chữ “tăng cường” là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi trìng bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính. Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà là xây dựng.
Một chứng minh khác trong chính sách Sửa sai trong Cải cách này, tôi vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến họp hội nghị này, tôi nhận thấy không ai “thông” về ý kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng trình bày cả. Riêng về phần tôi là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lý, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để qui định trách nhiệm của người ấy. Trong Cải cách, khi những đảng viên ưu tú bị đoàn Cải cách gán cho là phản động, ra trước nhân dân, có người cũng nhận tội trong khi biết là mình oan. Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua, sửa sai không phải là phạm các sai lầm khác. Do đó, đứng trên một lập trường pháp trị chân chính, tôi đề nghị phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các tòa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa.
Có người hỏi làm thế để làm gỉ? Tôi xin phép trả lời. Làm thế để rút kinh nghiệm. Tôi cảm thấy ngay hiện thời ta chưa rút được kinh nghiệm đâu. Chính trị không những lãnh đạo pháp lý —đó là đúng— nhưng vẫn lấn át pháp lý, thay thế cho pháp lý, như trong trường hợp ông Hồ Viết Thắng, như thế là ta vẫn mở cửa cho các sai lầm mới còn nguy hại hơn nữa. Không những thế, ta biết rằng nhu cầu công lý thuộc nhân bản con người văn minh. Từ người bị xử trí oan cho đến các người chỉ chịu thiệt gián tiếp vì các sai lầm, có thể nói được rằng toàn dân đợi chờ công lý. Một biện pháp chính trị xuề xoà không thỏa mãn được ai. Bằng chứng ở nông thôn, ta được biết tình hình “căng thẳng”. Phong trào trả thù, tự xử diễn ra khắp mọi nơi, kéo chúng ta trở về quá khứ của lịch sử. Còn như các đảng viên bị xử trí sai, tâm hồn các anh em như thế nào, ta chỉ cần đọc lại báo Nhân Dân. Tuy rằng các anh em kết thúc các bài tường thuật lại đau khổ của mình bằng những lời phấn khởi, nhưng các lời này không làm ta quên được các lời phẫn uất, chua xót, cay đắng mà các anh em nói lại với ta từ đầu bài. Nhưng bi đát hơn hết là các chiếc khăn trắng chít trên đầu họ hàng thân thích của những anh em bị xử tử, những bàn thờ vẫn dựng trong nhà, các thổn thức phá vỡ im lặng của các đêm hiu quạnh, các ngày cúng giỗ nhắc lại hàng năm bi kịch thê thảm đã diễn ra trong gia đình vì cuộc Cải cách. Nhân dân đòi hỏi các người có công được thưởng và các người có tội phải đền tội. Trách nhiệm của tất cả mọi người từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, phải được qui định rõ ràng, dứt khoát. Như thế mới yên được lòng dân, như thế mới thu phục được nhân tâm. Kinh nghiệm lịch sử dạy ta điều ấy. Trong chính sách sửa chữa sai lầm, ta không thể quên được bài học lịch sử. Quần chúng im lặng đợi chờ công lý.
Chúng ta thiết tha mong ước ở chính trị một nhận định đúng về vai trò của pháp luật phục vụ cách mạng. Kinh nghiệm đau đớn vừa qua bó buộc ta phải xây dựng lại quan điểm “địch” trên cơ sở pháp lý và pháp trị. Các sai lầm nghiêm trọng ta đã phạm bắt nguồn ở một quan điểm chính trị về địch. Quan điểm ấy linh động quá, “biện chứng” quá, nên ta không biết phân tách địch và ta, do đó ta đánh cả ta nữa. Muốn tránh các sai lầm hôm qua đừng tái diễn ngày mai, ta cần xác định theo hình luật thế nào là địch. Lúc đó ta mới đánh đúng địch, và có đánh đúng địch ta mới củng cố được ta, ổn định được nhân tâm, duy trì lại trật tự và an ninh ở thôn quê, kiến thiết lại đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân ở thôn quê cũng như ở thành thị, đảm bảo cho quần chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi sự đe dọa của “lộng quyền”, bênh vực các quyền căn bản và thiết yếu của con người.
Tóm lại, nếu chính trị giác ngộ, vui lòng tôn trọng pháp lý, thiết lập một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lãnh đạo pháp lý, nhưng đồng thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lý và pháp trị thì nhất định chính trị khôi phục đuợc uy tín và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ.
Một chế độ thực sự dân chủ — Thế nào là một chế độ thực sự dân chủ? Đó là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa. Đây không phải là lúc, là chỗ, mà ta đi sâu vào vấn đề. Ta chỉ cần nhận thấy rằng trong giai đoạn hiện thời, quần chúng có đòi hỏi cái gì quá đáng đâu, chỉ yêu cầu có một điều thôi, là được đàm thoại với cấp lãnh đạo, được đề đạt lên cấp lãnh đạo, ý kiến về các chính sách do cấp lãnh đạo xây dựng. Các vị lãnh tụ đã bao lần khen dân ta tốt. Mà dân ta tốt thật. Bằng chứng là điều tôi vừa nhắc lại đây. Trong khi quần chúng có quyền đòi hỏi ở một chính thể cách mạng rất nhiều, nhân dân ta chỉ có một yêu cầu mà ai cũng phải nhận là chính đáng. Tại sao nhân dân chỉ có cái yêu cầu nhũn nhặn ấy mà thôi? Là vì nhân dân thông cảm với cấp lãnh đạo phải đương đầu với bao khó khăn. Nhưng nếu nhân dân chỉ đề ra có một yêu cầu, yêu cầu ấy thiết yếu. Tôi tin rằng cấp lãnh đạo cũng nhận thấy như vậy. Tôi không quên lời của ông Trường Chinh đọc bản tự phê của Đảng Lao động tại Hội nghị này. Ta nghe thấy cấp lãnh đạo thú nhận trước Hội nghị rằng Trung ương Đảng đã phạm sai lầm là xa quần chúng, chỉ tiếp xúc với quần chúng qua báo cáo của các cán bộ đảng viên mà thôi. Ta phải nhận định rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng. Do đó, cuộc Cải cách Ruộng đất của ta đã gặp các thất bại cay đắng. Trái với lời ta thường nói, ta đã thiếu dân chủ với nhân dân.
Nhân dân nhất định không để tình trạng tai hại ấy kéo dài nữa. Tôi xin phép Hội nghị góp một số ý kiến để chấm dứt tình trạng đó. Tôi không đặt vấn đề dân chủ nói chung. Tôi chỉ chú ý đến yêu cầu thiết tha nhất hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý nguyện của mình. Theo ý tôi, để thực hiện và đảm bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần ba giải pháp.
- Một chế độ báo cáo của cán bộ. Đảng tín nhiệm ở cán bộ. Đúng! Không tài nào khác được. Vậy phải đặt các cán bộ có nhiệm vụ báo cáo trước trách nhiệm của họ. Một báo cáo không phản ảnh trung thành sự thực với các khía cạnh của nó, với các ưu và khuyết điểm của nó, rất tai hại. Cấp lãnh đạo cần đề cao cảnh giác với các con số thống kê, các động cơ bất chính của cán bộ muốn thi đua thành tích, vưà mị dưới, vừa lừa trên, do đó đưa ra một hình ảnh quá hẹp của thực tế. Ta phải tiến tới giải pháp nhận định rằng người nào hữu ý xuyên tạc sự thật vì động cơ bất chính, có thể bị truy tố về tội giả mạo được.
- Một chế độ cho các đoàn thể nhân dân được quyền mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng mà họ tập hợp. Từ trước tới nay, ta có thể ví Đảng Lao động như một cây rất to, lá ruờm rà che hết ánh sáng của mặt trời, khiến ngay một ngọn cỏ cũng không mọc dưới chân nó được. Vì vậy, Quốc hội cũng như Mặt trận không thể đóng được vai trò của mình. Ở đây, tôi chỉ xin phép nói về Mặt trận của ta thôi. Các vị đã thấy rằng từ khi thành lập Mặt trận Liên Việt cho đến Mặt trận Tổ quốc, chúng ta chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng thi hành chính sách mà thôi. Đó là một nhiệm vụ. Nhưng dù sao chỉ có một chiều. Ta là giây liên lạc giữa các cấp lãnh đạo và quần chúng. Nếu ngược lại, ta có quyền liên lạc giữa quần chúng và cấp lãnh đạo, nghĩa là phản ảnh lên Đảng và Chính phủ ý kiến thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, công tác của ta thế nào cũng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Ta gắn liền lãnh đạo và quần chúng, do đó lãnh đạo sát hợp với thực tế hơn. Tôi xin phép đặt mỗi vị ủy viên trước trách nhiệm của mình. Chúng ta ủng hộ Chính phủ, nhưng chúng ta cũng là đại biểu của nhân dân. Công tác của chúng ta có hai mặt, chúng ta không thể chỉ lệch về một bên được. Quần chúng không cho phép chúng ta làm như vậy, muốn theo rõi công việc ta làm vì chúng ta làm đại biểu của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Quần chúng giao quyền cho chúng ta, chúng ta phải xứng đáng với sự ủy quyền ấy. Ta sử dụng quyền ấy thế nào, quần chúng đòi kiểm soát ta.Để đạt mục đích này, tôi xin phép đề nghị: một là mỗi ủy viên phải có nhiệm vụ phản ánh lên Mặt trận ý kiến của quần chúng. Mặt trận phải có nhiệm vụ đề đạt lên cấp lãnh đạo những phản ảnh của các ủy viên và báo cho các vị ấy thái độ của cấp lãnh đạo giải quyết vấn đề ra sao, sử dụng các phản ảnh ấy như thế nào. Khi Mặt trận họp hội nghị, phải cho phép quần chúng đến bàng thính: để quần chúng kiểm soát công việc của Mặt trận làm và thái độ của các ủy viên. Dĩ nhiên các người bàng thính ấy không có quyền tham gia thảo luận, chỉ được nhập hội trường cho tới khi hết số ghế dành cho quần chúng, và phải tôn trọng kỷ luật của hội nghị. Ngoài ra, báo chí, đặc biệt báo chí của Mặt trận như tờ Cứu Quốc, phải phản ảnh trung thành nội dung của các cuộc thảo luận và đăng các tham luận của các vị ủy viên.
- Một chế độ tự do ngôn luận, xuất bản báo chí — Ta phải đề phòng trường hợp các cán bộ không báo cáo, các ủy viên Mặt trận không phản ảnh ý kiến của quần chúng. Do đó, ta thấy cần thiết phải cho phép quần chúng nói lên tiếng nói của mình qua báo chí. Có người lo ngại rằng tự do ngôn luận này mà ai cũng thấy cần thiết có thể bị sử dụng một cách bừa bãi. Về điều này ta phải suy nghĩ. Mối lo ngại trên đây xuất phát từ động cơ nào? Nếu là động cơ tốt —nghĩa là do một nhiệt tình đối với cách mạng gây ra— ta hoan nghênh. Nhưng ta cũng sẽ trả lời rằng trong một chính thể dân chủ muốn sử dụng tự do nào, dĩ nhiên phải nêu trách nhiệm của người sử dụng tự do ấy trước pháp luật. Nếu sử dụng với tinh thần trách nhiệm hợp pháp, ta không có quyền kêu ca gì, trái lại, ta hoan nghênh. Nếu lạm dụng một cách vô trách nhiệm, ta đã có tòa án để nghiêm trị. Vậy ta không lo ngại. Nhưng nếu mối lo ngại xuất phát từ một động cơ bất chính, nhắm mục đích thủ tiêu các tự do dân chủ, thì tôi chỉ cần khuyên nhủ người lo ngại như vậy nên đọc lại lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay. Họ sẽ nhận thấy rằng chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đòi các tự do dân chủ.Không những ta công nhận các tự do dân chủ, ta lại còn cung cấp phương tiện để thực hiện các tự do ấy. Thí dụ tự do ngôn luận. Ta có các báo của Chính phủ, của Đảng, của Mặt trận, ta lại có các báo của tư nhân, ta giúp đỡ cho các báo ấy giấy và mực in đầy đủ, ta lại còn quảng cáo cho các báo ấy là đàng khác nữa. Các cơ quan tuyên truyền, báo chí của ta không bao giờ tìm khó dễ cho các báo ấy, và khi nào các báo đó được hàng vạn độc giả hoan nghênh, ta rất lấy làm sung sướng vì trong thâm tâm ta, ta là những người dân chủ.
Thưa các quý vị,
Tôi nói đã quá lâu, nhưng tôi tin các vị cũng tha thứ cho, vì biết rằng tôi là một người thiết tha đến sự nghiệp của cách mạng và tiền đồ của dân tộc. Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ thành khẩn đề đạt lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng chan chứa một niềm hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước.
Hà-nội, ngày 30.10.1956
Nguồn: Phụ lục C trong tác phẩm Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, tị nạn và bài học lịch sử của Giáo sư Lê Xuân Khoa, Tiên Rồng xuất bản, 2004
Để thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 phải làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ, QUAN LIÊU LÀ DÂN CHỦ”!
Tống Văn Công – Boxitvn
I- LẤY ĐÁ GHÈ CHÂN AI ?
Năm 1996, Nghị quyết Đại hội VIII nhận định: “Nạn
tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp đe dọa đến sự sống còn của hệ
thống chính trị”. Năm 2012, Nghị quyết Trung. ương 4 nhận định: “Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai
nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy
theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa, địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí,
tùy tiện, vô nguyên tắc”. Nghị quyết nhấn
mạnh: “Nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo
của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong
bài phát biểu đầy tâm huyết đã đặt câu hỏi: “Vì sao công tác xây dựng
Đảng được Trung ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị rất
đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả không đạt yêu
cầu? Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, tệ
tham nhũng, lãng phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí có chiều hướng
nghiêm trọng hơn làm xói mòn niềm tin đối với Đảng?”.
Sau bài nói của Tổng Bí thư, các nhà lý luận đã nhiệt
thành phân tích, mổ xẻ, góp ý kiến nhằm thực hiện tốt Nghị quyết Trung
ương 4. Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Bộ Công an, Thiếu
tướng Lê Văn Cương cho rằng “Có thể nói, Liên Xô trước tan rã là một xã
hội mất dân chủ, không chấp nhận nói ngược”; và “Các nét lớn trong
phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước giữa Việt Nam và Liên Xô cũ
có nhiều điểm tương đồng”. Do đó ông cho rằng: “Đúng là nếu ngay sau khi
Liên Xô sụp đổ, ta chỉnh đốn Đảng ngay trên cơ sở bài học Liên Xô thì
có lẽ tình hình đã không trầm trọng như hiện nay”. Tướng Lê Văn Cương và
nhiều người khác cho rằng sự tha hóa trong Đảng là do quyền lực không
được giám sát. Có ý kiến cho rằng điều khó khăn nhất là để chỉnh đốn
Đảng là “không ai lấy đá tự ghè vào chân mình”. Tôi không đồng ý với ý
kiến này vì nó đồng nhất Đảng với kẻ thoái hóa. Kẻ thoái hóa chỉ là ung
nhọt trên cơ thể Đảng! Tất cả đảng viên chân chính đều đồng lòng tìm mọi
cách dù đau đớn nhất để loại bỏ nó khỏi cơ thể Đảng.
Chỉnh đốn xây dựng Đảng thành công chính là khôi phục
tượng đài: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó làm
tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào
sung sướng” (Hồ Chí Minh, Sửa đổi lối làm việc, viết năm 1947).
Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những đã rất sớm dự báo nguy cơ tha hóa của
Đảng mà còn đề ra giải pháp căn bản để ngăn chặn, bài trừ nguy cơ đó.
Người nói “Chống tham ô, lãng phí quan liêu là dân chủ” (Toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1986, tập 6, trang 271). Người lại nói “Muốn chống tham ô, lãng phí, chống quan liêu thì phải dân chủ” (Toàn tập,
tập 6, Nhà xuất bản Sự thật, 1986, trang 285). Tình trạng tham ô, lãng
phí, quan liệu tràn lan hiện nay chính là vì xao lãng bài học dân chủ
của Hồ Chí Minh như nguyên Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc nhận xét: “Mệnh đề
chung của mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Từ dân chủ mới được đưa vào mệnh đề này mươi năm nay thôi” (Tuần
Việt Nam, 2-9- 2010). Do đó, để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung
ương 4, chúng tôi cho rằng phải thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh: Dân chủ!
II- THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG
Xin nêu ra mấy điểm quan trọng nhất từ bài học sự sụp
đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô mà chúng ta cần nghiên cứu để khắc phục
ngay. Những khuyết tật này có thể nhìn thấy trong sự kiện Tiên Lãng, Hải
Phòng vừa qua cũng như ở nhiều vụ việc khác.
1- Đảng bao biện công việc của Nhà nước là tình trạng
kéo dài suốt 70 năm của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhiều văn kiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng đã nêu tình trạng này và coi đó là một khuyết
điểm cần phải sửa. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về các
văn kiện Đại hội XI trong phần xây dựng Đảng có đoạn: “Khắc phục tình
trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo của Đảng với các cơ
quan Nhà nước”. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy trong thực tế Đảng và Nhà
nước như thống nhất làm một, cho nên mọi người quen nói: “Đảng, Nhà nước
ta…”. Nhiều trường hợp Đảng quyết định từ chủ trương đến cách vận hành,
Nhà nước chỉ theo đó mà thực hiện. Sự thống nhất như vậy không đem lại
sức mạnh cho cả Đảng và Nhà nước mà tạo ra kẽ hở, khoảng trống và sự
chồng chéo quyền lực. Sự “bao biện làm thay” này đã mở đường cho giặc
tham nhũng, quan liêu, độc đoán tấn công vào Đảng, biến Đảng từ một tổ
chức đấu tranh cho dân chủ trở thành một Đảng độc đoán, trong chế độ
đảng trị.
Chúng ta phải khắc phục tình trạng này theo Di chúc
của Hồ Chủ tịch: “Đảng ta là Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm chính
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Làm đúng
như văn kiện Đại hội XI: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vân động tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên”. Chúng ta có thể nghiên cứu vận dụng kinh
nghiệm về mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước của các Đảng cầm quyền ở
các nước phát triển.
2- Văn kiện Đại Hội XI viết: “Nhiều cấp ủy, tổ chức
Đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng,
chất lựợng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao” (Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, trang 175). Đây cũng là một bài học đắt giá về những vi
phạm nguyên tắc xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô mà “vấn đề căn
bản là cơ quan giám sát không thể giám sát cơ quan lãnh đạo và các cơ
quan lãnh đạo cùng cấp”. Tình trạng này dẫn đến hậu quả là nhiều đoàn
kiểm tra, giám sát qua nhiều đợt hoạt động dài ngày vẫn không phát hiện
hoặc kết luận được những vụ tham nhũng lớn! Tướng Lê Văn Cương cho rằng
để nâng cao vị thế của công tác kiểm tra giám sát nên sửa đổi để Đại hội
Đảng bầu Ủy ban Kiểm tra thay vì Ban Chấp hành Trung ương. Vấn đề này,
trong thư gửi đại biểu Đại hội XI ngày 23-11-2010 tôi đã viết: “Để khắc
phục tình trạng nguy hiểm này, Ủy ban Kiểm tra Trung ương nên do Đại hội
bầu ra, khắc phục được nhược điểm hiện nay là không kiểm tra giám sát
được lãnh đạo cùng cấp và quyền chỉ đạo thanh tra độc lập, quyền kiểm
tra cả Bộ Chính trị”.
Trong khi chờ đợi sự quyết định của Đại hội Đảng lần
thứ XII, thiết nghĩ chúng ta có thể tạm thay đổi bằng cách Ban Kiểm tra
từ Trung ương đến các cấp dưới trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và các Ban Chấp hành Đảng bộ, không chịu sự chỉ đạo của Bộ chính trị và
các ủy Đảng cùng cấp.
3- Tự do tư tưởng, tự do phát biểu ý kiến. Trong Đảng
ta có quy định các đảng viên nói và làm theo Nghị quyết. Điều ấy đúng,
đã tạo nên sự nhất trí, sức mạnh hành động của toàn Đảng. Tuy nhiên,
trong lịch sử của Đảng cũng cho thấy nhiều cá nhân đảng viên có ý kiến
khác với nghị quyết, nhưng thực tế chứng minh là đúng đắn, đó là ý kiến
khoán trong nông nghiệp của đồng chí Kim Ngọc, ý kiến không nên cải tạo
công thương nghiệp và nông nghiệp ở Miền Nam của đồng chí Nguyễn văn
Linh… Chính Lênin khi nói về tự do phát biểu ý kiến, cũng cho rằng để
phát huy dân chủ trong Đảng, cần có sự “bảo vệ quyền lợi cho bất kỳ
thiểu số nào” (có cụm từ là cho “được bảo lưu” ý kiến). Hiện nay quyền
tự do tư tưởng, tự do phát biểu đã được rông rãi hơn trước rất nhiều.
Tuy nhiên, việc xử lý rộng hay hẹp còn do trình độ và quan điểm (có khi
là do thân quen, vị thế) của cấp ủy địa phương, chứ chưa phải là quan
điểm chung của Đảng.
III – “TRĂM ĐIỀU PHẢI CÓ THẦN LINH PHÁP QUYỀN”
Nghị quyết Trung ương 4 đề ra 4 nhóm giải pháp để
chỉnh đốn, xây dựng Đảng là rất đúng đắn. Tuy nhiên, những kẻ tham
nhũng, ức hiếp quần chúng, theo Hồ Chí Minh là “giặc nội xâm”, là những
kẻ phạm pháp, chúng phải bị trừng trị theo pháp luật. Hồ Chí Minh nói:
“Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm bất kỳ kẻ ấy ở địa
vị nào, làm nghề nghiệp gì” (Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Sự thật, trang 245).
Ngay từ năm 1919, trong bản yêu sách gửi Hội nghị
Versailles, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đòi cho nhân dân ta được
sống trong pháp luật, để chống lại sự tùy tiện áp chế của thực dân Pháp.
Năm 1922, người diễn nội dung đó ra thơ lục bát trong Việt Nam yêu cầu ca:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành; Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chủ tịch ban hành ngay Sắc lệnh tổ chức tòa
án độc lập với hệ thống chính quyền với yêu cầu “Pháp luật là phép của
dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho dân, bảo vệ lợi ích của
đại đa số nhân dân.”. Người chủ trì soạn thảo Hiến pháp, trong đó có
quyền tư pháp độc lập. Luật gia Vũ Đình Hòe gọi tư tưởng pháp quyền Hồ
Chí Minh là pháp quyền nhân nghĩa. Đó là nhân nghĩa đối với nhân dân,
nhưng nghiêm trị đối với kẻ xâm phạm lợi ích của nhân dân. Chúng ta đều
biết chuyện Hồ Chủ tịch đau lòng thức trắng cả đêm, nhưng cuối cùng đã
thuận theo bản án tử hình của Tòa hình sự đối với nguyên Cục trưởng Cục
Quân nhu Trần Dụ Châu, một đảng viên đã có rất nhiều đóng góp cho cách
mạng.
Nhìn lại hệ thống tòa án của chúng ta, mặc dù Đảng đã
đề ra việc khận trương cải cách tư pháp, nhưng sự tiến triển rất chậm
chạp. Cách đây 15 năm, trong số báo Lao động ra ngày 16-11-1993, Bộ
trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc cho rằng:”Phải cấp bách cải cách tư pháp
để chấm dứt nạn thư tay gửi tòa án, gây ra tệ nạn những “bản án bỏ túi. ”
Nhưng tệ nạn thư tay gửi tòa án chẳng những không dứt, mà còn ngang
nhiên hơn là có những công văn của các cấp ủy Đảng chỉ đạo việc khởi tố
và xét xử các vụ án. Mấy năm qua dư luận bất bình đối với các vụ tòa án
tỉnh Cần Thơ xử Bà Ba Sương theo chỉ đạo của Thành ủy Cần Thơ hòng cưỡng
chiếm đất đai; tòa án tỉnh Hà Giang mua dâm trẻ em, đã tha bổng bọn
quan chức cưỡng ép mua dâm và buộc tội các học sinh vị thành niên bị
cưỡng bức bán dâm. Mới đây, là các tòa án huyện Tiên Lãng, tòa án thành
phố Hải Phòng xét xử sai trái vụ kiên thu hồi đầm nuôi tôm cá của Đoàn
Văn Vươn… Tất cả bộc lộ sự yếu kém của hệ thống tư pháp, không đủ sức
đảm đương trọng trách “thần linh pháp quyền”, thực hiện một cuộc sống
“thượng tôn pháp luật”.
Cương lĩnh của Đảng ghi rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Để tình trạng hành xử
không theo luật pháp như trên là làm trái với Cương lĩnh, vô hình trung
làm suy yếu và mất uy tín Đảng. Nhà nước pháp quyền là nhà nước vận hành
trong khuôn khổ của pháp luật, hoặc có thể nói là Nhà nước đặt ở dưới
pháp luật.
Trong khi chờ sửa đổi Hiến pháp, để kịp khắc phục
tình trạng trên, nên chăng có quy định ngay: hệ thống tư pháp độc lập
với hệ thống hành pháp như sắc lệnh của Hồ Chí Minh năm 1945. Cũng tức
là hệ thống tòa án không chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng cùng cấp. Phụ
trách Tòa án nhân dân tối cao và tòa án các cấp nên chăng là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Thường vụ cấp ủy các địa phương để không bị quá yếu
thế như hiện nay. (Có thể là do Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra các cấp phụ
trách).
III- “DÂN CHỦ LÀ ĐỂ CHO NHÂN DÂN ĐƯỢC MỞ MỒM RA NÓI”
Trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành độc
lập trước kia và chống giặc “nội xâm”, tham nhũng, quan liêu, làm trong
sạch hệ thống chính trị, bảo vệ quyền lợi nhân dân, báo chí cách mạng
đóng vai trò rất to lớn.
Những năm đầu đổi mới tất cả các báo từ trung ương
đến địa phương đã có phong trào đấu tranh chống tiêu cực hết sức rầm rộ,
đạt hiệu quả cao, góp phần vun đắp niềm tin của nhân dân đối với chế
độ. Năm 1986, báo Lao động có loạt bài (54 tin, bài in thành tập sách Cây cao su kêu cứu)
chống tham nhũng, trù dập công nhân ở Tổng cục Cao su Việt Nam mà đối
tượng là Tổng cục trưởng, Ủy viên Trung ương Đảng. Ông này phản ứng rất
dữ dội, yêu cầu Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động phải ra lệnh báo Lao
Động im tiếng, không được tiếp tục đăng bài. Chủ tịch Phạm Thế Duyệt
không chấp nhận áp lực phi lý đó, ông đề nghị báo Lao động cứ tiếp tục
đấu tranh từ những sự thật không thể chối cãi. Lần đầu tiên, cuộc đấu
tranh chống tham nhũng của một tờ báo được Ban Bí thư Trung ương Đảng ra
Thông báo số 18, kết luận báo Lao động đã viết đúng sự thật và thi hành
kỷ luật, cho nghỉ hưu Tổng cục trưởng Tổng cục Cao su. Đó là sự quan
tâm và ủng hộ báo chí chống tham nhũng, quan liêu mà làng báo Việt Nam
hiện nay vẫn mong đợi.
Mới đây, trong vụ Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, báo chí
cả nước (trừ Hải Phòng) đã có đóng góp rất lớn làm rõ hành động phi pháp
của một hệ thống tiêu cực thoái hóa ở Tiên Lãng và Hải Phòng. Tình hình
trên cho thấy trình độ nghiệp vụ và ý thức chính trị của cán bộ, phóng
viên báo chí chúng ta ở cả nước đã trưởng thành, không cần phải nhất
nhất được cầm tay chỉ việc.
Xin có một so sánh: Năm 1986, báo Cao su Việt Nam,
không chấp nhận sự chỉ đạo của Tổng cục Cao su Việt Nam, không chịu bẻ
cong ngòi bút, mà quyết cùng với báo Lao động phanh phui ra sự thật.
Nhưng 25 năm sau, năm 2011, tất cả các báo và Đài phát thanh truyền hình
của Hải Phòng đã bẻ cong ngòi bút, nói theo sự chỉ đạo sai trái của
lãnh đạo Thành ủy. Điều đó đặt ra cho Đảng Cộng sản Việt Nam vấn đề rất
đáng quan tâm: Cần phải có chế độ quản lý như thế nào để báo chí cả nước
trong bất cứ tình huống nào cũng không chịu bẻ queo ngòi bút, luôn luôn
thượng tôn sự thật, chân lý và luật pháp? Chỉ có như thế thì báo chí
mới góp phần đắc lực cho việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng, giúp Đảng loại
trừ những phần tử thoái hóa biến chất.
Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cứu nước, Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh đã hết sức coi trọng và đòi hỏi quyền tự do báo chí
cho nhân dân Việt Nam ngay trong bản yêu sách gửi Hội nghị Versailles.
Các bài viết của Người từ đó cho tới ngày cách mạng thành công, đều có
đề cập đến tình hình báo chí ở Việt Nam. Trong Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương
năm 1926 có đoạn: “Mãi cho tới bây giờ chưa có một người Việt Nam nào
được phép xuất bản một tờ báo. Tôi gọi báo là một tờ báo về chính trị,
về kinh tế, hay văn học như đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác
chứ không phải một tờ báo do chính quyền thành lập” (Hồ Chủ tịch với báo chí, Hội Nhà báo TP HCM xuất bản năm1980, trang 9). Trong báo cáo Tình hình chính trị ở Đông Dương từ 1936-1938,
Nguyễn Ái Quốc ghi nhận có 12 tờ báo “tán thành và đòi ân xá chính trị
phạm”. Đặc biệt, ông ca ngợi tờ báo Dân chúng của Đảng, ra báo không cần
xin phép nhà cầm quyền, đi đầu giành quyền tự do báo chí ở Đông Dương.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông chỉ đạo đưa quyền tự do báo chí vào Hiến
pháp. Ngày 21-3-1946, Phó Chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng ban hành sắc lệnh tự
do báo chí, đưa tư tưởng Hồ Chí Minh thành hiện thực: “Dân chủ là để
cho người dân được mở mồm ra nói”. Qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh cách
mạng, tiếng nói của nhân dân ta ngày nay đã có cùng một tầm trí tuệ và
cùng một ý chí: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.”
Đảng cần tạo điều kiện ngày càng tốt hơn để: “Đối với
mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lý” mà chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn (Toàn tập, tập
57, Nhà xuất bản Sự thật, 1987, trang 482). Đáp lại, nếu báo chí, có sức
mạnh như “quyền lực thứ tư” thì sẽ góp phần đắc lực giúp Đảng soi mình,
tự chỉnh đốn.
T. V. C.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Sở hữu toàn dân và vấn đề ủy quyền, phân quyền
T.S Phạm Gia Minh – Boxitvn
Trong lịch sử nhân loại không có điều gì lại gắn bó
máu thịt với con người bằng khái niệm sở hữu và do vậy cái quyền thiết
thân và thiêng liêng này phải được thể hiện trong cuộc sống một cách cụ
thể, không chút mơ hồ.
Khẩu hiệu “người cày có ruộng” đã tập hợp hàng triệu
nông dân đi theo Cách mạng tháng 8 /1945 để xóa bỏ chế độ thực dân,
phong kiến. Một lời kêu gọi đáp ứng được tâm nguyện ngàn đời của người
dân đã thực sự khơi dậy nguồn động lực mạnh như vũ bão. Và cũng chính
nguồn động lực đó đã lụi tàn, héo hắt khi ruộng đất và các tư liệu sản
xuất khác bị đưa vào quản lý theo lối “cha chung không ai khóc” của mô
hình kinh tế kế hoạch hóa thời bao cấp.
Những cải cách theo hướng phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN mà nét đặc trưng là kết hợp giữa nhiều hình thức
sở hữu tư nhân, tập thể với sở hữu toàn dân là chủ đạo, sử dụng đòn bẩy
thị trường dưới sự quản lý của nhà nước trong hơn 20 năm qua đã gặt hái
những thành công bước đầu. Tuy nhiên hiện nay nó cũng đã và đang đặt xã
hội trước những thách thức to lớn mà nguyên nhân sâu xa vẫn là vấn đề sở
hữu chưa được giải quyết thấu đáo.
Phần lớn tư liệu sản xuất, cơ hội kinh doanh và đất
đai hiện nay thuộc hình thức sở hữu toàn dân nhưng được đặt dưới sự quản
lý của nhà nước. Nhà nước XHCN của chúng ta về nguyên tắc là do dân bầu
ra và hoạt động vì dân, chịu sự giám sát của nhân dân, cho nên về thực
chất, nhân dân đã ủy quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền sở
hữu của mình.
Để quản lý hiệu quả khối tài sản toàn dân đó, trên lý
thuyết, nhà nước phải phân quyền cho các cấp địa phương, các tổng công
ty và doanh nghiệp nhà nước trực tiếp kinh doanh nhằm đạt các mục tiêu
phát triển kinh tế – xã hội đồng thời đáp ứng những quy luật của nền
kinh tế thị trường.
Đối với mọi sự ủy quyền, người ủy quyền bao giờ cũng
muốn “chọn mặt mà gửi vàng” cho người nhận ủy quyền, bởi vậy việc bầu
những đại biểu nhân dân vào các cơ quan nhà nước càng minh bạch, công
khai và dân chủ để chọn ra được những người được dân tín nhiệm cao thì
càng củng cố lòng tin của quần chúng – những “người chủ thực sự khối tài
sản xã hội” dưới chế độ XHCN. Sự thiếu vắng lòng tin vào những người
“tuy không được chọn mặt mà vẫn giữ vàng” sẽ dẫn tới phản ứng tâm lý
tiêu cực là người dân có xu hướng xà xẻo, thậm chí xâm phạm tài sản công
một cách tràn lan.
Cũng phù hợp với luận điểm nhân dân là người chủ sở
hữu đích thực khối tài sản công và đất đai hiện nay thì cần có cơ chế để
trưng cầu dân ý trước những quyết định có tầm quan trọng lớn và lâu dài
đối với quốc gia, dân tộc liên quan tới việc khai thác các nguồn tài
nguyên vật lực và đất đai thuộc sở hữu toàn dân vô cùng thiêng liêng và
quý giá đó.
Một trong những nguyên tắc hàng đầu của qui trình
phân quyền là người được giao quyền phải có đủ năng lực chuyên môn và
phẩm chất đạo đức đồng thời chịu sự giám sát khách quan, độc lập của một
bên thứ ba và phải định kỳ báo cáo công khai, minh bạch trước công
luận. Điều này trên thực tế đã bộc lộ những bất cập nghiêm trọng làm suy
giảm hiệu quả của nền kinh tế, lòng tin của nhân dân và sự ổn định xã
hội. Không phải ngẫu nhiên mà hơn 70% các vụ khiếu kiện trên cả nước
trong thời gian qua đều liên quan tới đất đai. Khái niệm sở hữu toàn dân
về đất đai được quy định trong Luật đất đai hiện nay, với người dân
trong nhiều trường hợp đã trở nên mơ hồ và rối rắm, kết cục là các chính
quyền địa phương, với chức năng được phân định mới thực sự là các chủ
nhân ông của các quỹ đất. Nhiều quan chức địa phương đã trở nên cực giàu
trong một thời gian ngắn cũng vì nhờ lỗ hổng hiện nay của Luật đất đai.
Vụ cưỡng chế đầm tôm của anh Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng và
những hệ lụy kèm theo chỉ là phần nổi của tảng băng chìm lớn hơn rất
nhiều, lừng lững trôi và đe dọa đâm thủng con tàu kinh tế Việt Nam đang
tăng tốc. Việc sửa Luật đất đai để người dân yên tâm đầu tư phát triển
kinh tế lâu dài đã trở nên bức thiết, thế nhưng việc xây dựng và củng cố
những thiết chế xã hội nhằm giám sát hiệu quả hoạt động của các cấp
chính quyền và các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời bảo vệ quyền sở hữu
của những người chủ thực sự là nhân dân cũng phải được đặt ra không kém
phần cấp bách.
Việc Điều lệ Đảng cho phép đảng viên được làm kinh tế
tư nhân không hạn chế quy mô đã góp phần giải phóng năng lực nội tại
của nền kinh tế, mặt khác những người được nhân dân ủy quyền và nhà nước
phân cấp giao quyền quản lý nguồn vật lực và đất đai của toàn dân hiện
nay phần lớn đều là đảng viên. Một khi cơ chế giám sát, kiểm tra có vấn
đề hoặc phẩm chất đạo đức suy thoái thì khó tránh khỏi xu hướng các đảng
viên có chức quyền sẽ lạm dụng vị trí công tác để biến của công thành
của riêng một cách trót lọt. Hậu quả nhỡn tiền là nạn tham nhũng có cơ
hội bùng phát, nhưng về lâu dài, xu hướng này sẽ tạo nên một nền kinh tế
“gần giống thị trường” chủ yếu dựa trên quyền lực, quan hệ thân quen,
phe nhóm lợi ích. Trong nền kinh tế kiểu này các chuẩn mực phân phối thu
nhập sẽ bị bóp méo, những người giàu nhất sẽ không phải là những người
làm việc có năng suất, hiệu quả, sáng tạo và chăm chỉ nhất mà là những
ai có cơ may được tiếp cận với những trung tâm quyền lực. Rốt cuộc,
trong xã hội hành vi đưa và nhận hối lộ để có các mối quan hệ “cánh hẩu”
sẽ phổ biến hơn các hoạt động sáng tạo nhằm phát triển năng lực sản
xuất và kinh doanh thực thụ. Trước áp lực phải nhanh chóng nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế để hội nhập và toàn cầu hóa thì tình trạng
này quả là đáng lo ngại.
Đã có nhiều ý kiến cho rằng cơ chế giám sát hành
chính hiện tại được kế thừa từ thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu bao cấp sau hơn 20 năm Đổi mới vẫn chưa kịp thích ứng với những
biến chuyển nhanh chóng của kinh tế thị trường và kỷ nguyên thông tin kỹ
thuật số nên đã trở nên kém hiệu quả và máy móc, xơ cứng.
Mặt khác việc không tách rời chính quyền với việc
quản lý các doanh nghiệp đã không cho chính quyền đóng vai trò khách
quan để đạt được các mục tiêu quản trị độc lập của mình.
Để khắc phục những nhược điểm nêu trên, không thể
không nghiêm túc cải cách cơ chế ủy quyền và phân quyền quản lý sở hữu
toàn dân. Chúng ta cần áp dụng có chọn lọc và sáng tạo các chuẩn mực
quản trị doanh nghiệp mà thế giới đã gặt hái thành công, tiến hành cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước một cách minh bạch bằng cách công
khai thông tin trên sàn giao dịch chứng khoán và sớm thông qua những quy
định pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức quần chúng – xã hội
được tham gia giám sát hoạt động và phản biện thực sự hoạt động của các
cấp chính quyền và doanh nghiệp nhà nước.
Và để tất cả những mong muốn trên trở thành hiện thực
chúng ta không thể không dựa vào quyền lực thứ 4 đó là truyền thông –
báo chí hay sức mạnh của trí tuệ và muôn triệu lòng dân. Một nền báo chí
trung thực, phán ánh đúng, đủ và kịp thời sự thật sẽ là một yếu tố liên
kết xã hội, giúp thiện thắng tà và bảo vệ người ngay trước kẻ gian
tham.
Không thể chỉ hô khẩu hiệu về kinh tế thị trường định
hướng XHCN mà lại quên đi cái quyền sở hữu toàn dân vốn rất thiêng
liêng, rất cụ thể và không bao giờ được chung chung, mơ hồ để đến nỗi bị
xâm phạm.
Thăng Long – Hà Nội 28/2/2012
P. G. M.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét