BTV: Lâu nay quý độc giả đã đọc qua các bài viết mô
tả trận Hải chiến Hoàng Sa do những người lính Việt Nam Cộng hòa đã từng
tham gia trận đánh này kể lại, hiếm khi có dịp đọc tài liệu từ phía
Trung Quốc nói về trận chiến này. Dưới đây là trận Hải chiến Hoàng Sa đã
được tái hiện qua ngòi bút của phía “bạn”, mô tả lại việc họ đã sử dụng
vũ lực để cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam như thế nào. Bài
viết này còn cho thấy, việc cưỡng chiếm Quần đảo Hoàng Sa đã được phía
Trung Quốc tính toán và lên kế hoạch rất kỹ. Trận đánh này nằm trong kế
hoạch chiến lược lớn hơn của Trung Quốc, không như ý kiến của một số
người cho rằng, do phía VNCH không khéo xử sự, để bị rơi vào tình trạng
khiêu khích, tạo cơ hội cho Trung Quốc “ra tay”, như bài viết của ông
Nguyễn Hữu Hạnh: LỘ DIỆN KẺ ĐÁNH MẤT HOÀNG SA SAU 33 NĂM, mà nhiều người đã đọc qua.
Trong bài có nói đến hộ tống hạm Nhật Tảo, chiếc HQ-10, mà phía Trung Quốc gọi là “Sóng Dữ”,
chúng tôi xin giữ nguyên văn cụm từ này, cùng các cụm từ khác như: Tây
Sa (tức Hoàng Sa), Nam Sa (tức Trường Sa), Nam Hải (tức biển Đông), Đông
Hải (tức biển Hoa Đông), Nam Việt (tức Việt Nam Cộng hòa)… cho đúng
khẩu khí của người viết. Thêm một điểm cần lưu ý, trong bài tiếng Trung
có nhiều chỗ đánh dấu bằng hai dấu hoa thị (**), người dịch không hiểu
là gì nên đã để nguyên như vậy. Những chỗ đánh dấu như thế trong bài đa
số là tên của các loại vũ khí, nên BTV cho rằng, có thể đó là những chữ
đã bị kiểm duyệt, do một số thông tin phía Trung Quốc vẫn còn bảo mật.
————
Tái hiện tin mật về xung đột Trung – Việt trong trận hải chiến Tây Sa năm 1974
07-11-2011
Quốc Trung dịch
Hải chiến Tây Sa là trận hải chiến xảy
ra giữa nước ta với Nam Việt trong tranh chấp quần đảo Tây Sa cách nay
đã mấy chục năm, hiện có một số bài viết đưa lên gọi là giải mật về Tây
Sa, chẳng thấy có chút gì là “giải mật” mà chỉ là đăng lại, dựa theo
những bài viết công khai mà thôi, vì thế khi cho đăng tư liệu mình thu
thập được, hy vọng xin được sự chỉ giáo từ chư vị.
Chương I: Ôn lại trận chiến
Tân Hoa Xã ngày 19 tháng 1 năm1974 đưa
tin, từ 11 tháng 1 năm 1974 đến nay, Bộ Ngoại giao nước ta đã nhiều lần
ra tuyên bố và cảnh cáo, nhưng Nam Việt vẫn chưa hề rút lại hành vi xâm
lược của mình, mà trái lại còn đưa hải quân và không quân xâm nhập quần
đảo Vĩnh Lạc trong quần đảo Tây Sa của ta. Chúng ta không thể chịu đựng
thêm được nữa, đã tiến hành đánh trả tự vệ anh dũng, đem lại sự trừng
phạt cần có cho quân xâm lược.
Nam Việt: “Hải quân Trung cộng đã điều tàu loại Komar, có trang bị tên lửa Styx. Trận chiến ác liệt chưa từng có…”
Mỹ: Đệ thật Hạm đội
Hải quân Mỹ hoạt động tại vịnh Bắc Bộ đã từ chối các cuộc gọi của hải
quân Nam Việt, yêu cầu sự can thiệp của Mỹ, thậm chí còn từ chối cả việc
cử tàu đến cứu những người bị chết đuối.
• Canh bạc lúc tàn hơi
Quần đảo Vĩnh Lạc là một bộ phận của
quần đảo Tây Sa, quần đảo này được tạo thành từ các đảo san hô là: San
Hô, Cam Tuyền, Kim Ngân, Thâm Hàng, Tấn Khanh và Quảng Kim…, từ xa xưa
là lãnh thổ của nước ta, nhưng từ thế kỷ 19, một phần các đảo bị nước
Pháp là thực dân Đông Nam Á chiếm giữ. Năm 1954, Pháp bị đuổi đi, đảo
San Hô bị Pháp chiếm giữ rơi vào tay Nam Việt. Tháng 1 năm 1973, Mỹ rút
quân khỏi Việt Nam, đồng thời giao một lượng lớn tàu chiến cho Nam Việt.
Từ tháng 8 năm 1973, Nam Việt liên tiếp đưa tàu quân sự xâm phạm lãnh
hải của nước ta. Ngày 11 tháng 1 năm sau, lại càng trắng trợn hơn khi
cho công bố bản đồ, quy Tây Sa vào bản đồ của họ. Khi ấy nước ta liên
tục nảy sinh các vấn đề nội bộ và bên ngoài, trong nước rơi vào trạng
thái hỗn loạn của cuộc “Đại cách mạng văn hóa”, rồi quan hệ Trung-Xô
căng thẳng, không còn sức để ngó ngàng đến phía nam. Vì thế hành động
của Nam Việt mỗi lúc một mạnh, ngày 15 tháng 1, phiên hiệu “Lý Thường
Kiệt” (HQ-16) của hải quân Nam Việt xâm nhập đầu tiên, nổ súng uy hiếp
vào hai tàu cá 402 và 407 đang tác nghiệp ở gần đảo Cam Tuyền. Trưa ngày
17, quân địch đổ bộ lên đảo Kim Ngân, đến chiều còn cưỡng chiếm cả đảo
Cam Tuyền.
• Cuộc đối đầu trên biển
Đối mặt trước sự xâm nhập ấy, hạm đội
Nam Hải đã theo lệnh đưa hai con tàu 271 và 274 thuộc Đại đội tàu Chống
ngầm 73 ở căn cứ Du Lâm, do Ngụy Minh Sâm, Phó Tư lệnh Quân 38002 và Đại
Đội trưởng Vương Khắc Cường chỉ huy, hợp thành Biên đội 271, thực thi
nhiệm vụ bảo vệ cá và vận chuyển cung cấp cho quân dân trên đảo. Biên
đội này tới quần đảo Vĩnh Lạc vào đêm ngày 18, đưa 4 trung đội dân binh
có vũ trang thuộc Quân khu Nam Hải đến 3 đảo Tấn Khanh, Thâm Hàng, Quảng
Kim.
Trưa ngày 18, các tàu quân sự Nam Việt
phiên hiệu “Trần Khánh Dư” và phiên hiệu “Lý Thường Kiệt” tiến đến gần
tàu cá số 407, nhấn chìm, hăm dọa để buộc phải dời đi. Thuyền trưởng tàu
407, Dương Quý Hào không chịu khuất phục, tàu “Lý Thường Kiệt” đột ngột
chuyển bánh lái, đâm thủng mạn trái tàu cá. Chính giữa lúc các ngư dân
đang cầm xỉa cá giơ lên quyết tử chiến, thì các tàu 271 và 274 của ta
lao đến, phát tín hiệu cảnh báo. Khi thấy hải quân ta tới, tàu Việt đã
treo cờ tín hiệu “Tàu mất lái”, rồi vội vàng rời khỏi hiện trường.
Tối hôm đó, đại tá quân địch Hà Văn Ngạc đã đưa tàu phiên hiệu “Trần Bình Trọng” (HQ-5) cùng tàu phiên hiệu “Sóng Dữ” (1)
(HQ-10) đi kèm tới tận nơi. Dù số lượng tàu của hai bên là 4-4, song
xét cả về trọng tải lẫn hỏa lực, quân Việt đều chiếm ưu thế áp đảo. Tổng
trọng tải các tàu bên quân ta còn chưa bằng một tàu của bên quân Việt!
Hơn nữa, tàu bên quân Việt đều được trang bị hệ thống điều khiển tự
động, còn tàu bên quân ta về cơ bản vẫn là thao tác bằng sức người, sự
chênh lệch về tương quan thực lực giữa hai bên là quá rõ ràng.
Sáng sớm ngày 19, bên quân Việt phát
hiện thấy bên quân ta chỉ có 4 con tàu nhỏ, liền cho rằng có thể tận
dụng ưu thế binh lực để tiêu diệt quân ta, tàu Việt bố trận lại từ đầu,
chia làm hai cánh chiếm đường ngoài lợi thế, triển khai đội hình chiến
đấu, tàu phiên hiệu “Trần Bình Trọng” dẫn tàu phiên hiệu “Trần Khánh Dư”
từ ngoài khơi phía nam đảo Kim Ngân, rạn san hô Linh Dương tiếp cận hai
đảo Thâm Hàng, Quảng Kim, các tàu phiên hiệu “Sóng Dữ” và phiên hiệu
“Lý Thường Kiệt” từ tây bắc đảo Quảng Kim tiếp cận chiến hạm của ta.
Đồng thời, Tổng bộ hải quân Nam Việt hạ lệnh cho đại tá Hà Văn Ngạc nổ
súng.
• Kịch chiến trên biển
Theo sự dàn trận của Quân khu Quảng
Châu, biên đội 396 tiến vào phía tây bắc đảo Kim Quảng để đánh chặn các
tàu phiên hiệu “Lý Thường Kiệt” và tàu phiên hiệu “Sóng Dữ”, biên đội
271 tiến vào mặt biển đông nam đảo Kim Quảng để giám sát các tàu phiên
hiệu “Trần Khánh Dư”, phiên hiệu “Trần Bình Trọng”. Các pháp thủ bên
quân ta bám chặt trận địa chờ đợi khi vừa phát hiện thấy nòng pháp bên
tàu địch lóe lên, là liền lập tức đạp cò, đạn pháo của chúng ta cũng ra
khỏi nòng. Thời khắc ấy là 10 giờ 25 phút trưa ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Toàn bộ trận hải chiến là tương quan
2-2. Biên đội 271 và các tàu phiên hiệu “Lý Thường Kiệt”, “Trần Khánh
Dư” ở phía đông nam đảo Quảng Kim là chủ lực của hai bên, cho nên không
hẹn mà cùng đều áp dụng chiến thuật “Đánh rắn phải đánh giập đầu”. Thế
nhưng cả hai bên đều xuất hiện phán đoán sai lầm. Theo hồ sơ được phía
Việt Nam công bố mấy năm gần đây, do khi Hà Văn Ngạc tới, quân Việt đổi
tàu đô đốc từ phiên hiệu “Trần Khánh Dư” thành phiên hiệu “Trần Bình
Trọng”, bên ta không biết, tất cả hỏa lực đều dồn vào tàu “Trần Khánh
Dư; còn bên Việt thì cho rằng tàu 274 đi sau phía ta là tàu chỉ huy, vì
thế hỏa pháo của trung đội 1 đã nhằm vào đài chỉ huy trên đó để quét,
Chính ủy Phùng Tùng Bá chẳng may trúng đạn hy sinh. Tuy nhiên, bên địch
đã phạm phải một sai lầm chiến lược nghiêm trọng: Chúng đã sử dụng đạn
xuyên thép với tàu chống ngầm không bọc thép, như vậy ngay cả đạn pháo
có bắn trúng thì cũng thường xuyên qua thân tàu mà rơi xuống biển, thậm
chí còn có rất nhiều đạn xịt; nếu sử dụng đạn nổ mạnh thì thắng thua là
điều khó nói. Còn hai tàu bên quân ta thì đã tận dụng các đặc điểm mục
tiêu nhỏ, chạy nhanh để dũng cảm đánh tiếp cận. Pháo bắn nhanh cỡ nhỏ
bên quân ta liên tục nhả đạn về phía tàu địch, tàu “Trần Khánh Dư” không
bọc thép bị bốc cháy rất nhanh, cự li bắn giữa hai bên từ 1.000m rút
lại còn 300m. Lúc này, bánh lái điện của tàu 274 bất ngờ phát sinh sự
cố, tận mắt nhìn thấy con tàu nhỏ mất lái đâm vào lưới lửa chằng chịt
của tàu “Trần Khánh Dư” và tàu “Trần Bình Trọng”. Trong thế ngàn cân
treo sợi tóc, thuyền trưởng tàu Lý Phúc Tường bình tĩnh ra lệnh chuyển
sang người lái, đồng thời từ đài chỉ huy nhảy lên sàn tàu, đứng ở cửa
cabin lớn tiếng ra lệnh quay đầu thật nhanh, rồi dùng khẩu lệnh và tay
chỉ huy tác chiến. Đồng thời, tiểu đội trưởng chủ pháo Vương Tuấn Dân đã
chỉ huy hỏa pháo bắn dữ dội về phía tàu “Trần Khánh Dư” đang lao tới
trước mặt, tàu địch chống đỡ không nổi, quay đầu tháo chạy. Tàu 274 lại
quay pháo bắn liên tiếp vào tàu “Trần Bình Trọng” đang chạy tới chi
viện. Người nạp đạn Lý Như Ý nạp bắn một lèo tới hơn 180 quả đạn pháo,
làm câm bặt chủ pháo ở sau tàu “Trần Bình Trọng”.
• Tử chiến ở hồ đá ngầm
Trận chém giết lẫn nhau bên trong hồ đá
ngầm lại còn oanh liệt hơn, tác chiến trong một phạm vi nhỏ hẹp đầy
những rạn san hô, không có khoảng chừa cho tác chiến cơ động, ai là kẻ
dũng cảm sẽ chiến thắng, thế là hai tàu 396 và 389 dồn hỏa lực công kích
vào tàu “Lý Thường Kiệt”. Tại đó, quân Nam Việt ở vào thế bất lợi, tàu
“Sóng Dữ” nguyên là một chiếc tàu dò mìn, tốc độ cao nhất cũng chỉ có
14, có lòng mà giữ được hiệp đồng với tàu “Lý Thường Kiệt”. Cho nên, hai
bên vừa bắn nhau, tàu “Sóng Dữ” chỉ có thể tạm thời bắn trước về phía
đảo Quảng Kim, rồi chỉ còn cách đứng nhìn tàu “Lý Thường Kiệt” bị quân
ta tập trung công kích mà chẳng có cách gì đi vào chi viện. Khi ấy, hỏa
lực mạn bên lớn nhất của quân Việt là 1 khẩu pháo 127 ly, 3 khẩu pháo 40
ly, một khẩu pháo 20 ly và 2 khẩu súng máy, còn bên quân ta thì vũ khí
dùng được là 1 khẩu pháo 85 ly, 6 khẩu pháo 37 ly, 4 khẩu pháo 25 ly và 4
khẩu súng máy. Chỉ cần tiếp cận được hoàn toàn vào tàu địch, không để
cho khẩu pháo 127 ly này phát huy uy lực, thì ở chiến trường cục bộ này,
bên quân ta vẫn có thể giành được ưu thế hỏa lực tương đối.
Hai tàu 396 và 389 một bên ép sát, một
bên nhả đạn pháo lên tàu “Lý Thường Kiệt”. Lúc này, 1 phát đạn pháo 127
ly từ dưới nước vọt trúng tàu “Lý Thường Kiệt”, xuyên thủng khoang máy,
nhưng không nổ. Thì ra vì cự ly chiến đấu giữa hai bên quá gần, nên đạn
pháo chi viện cho tàu bạn từ tàu “Trần Bình Trọng” đã bắn nhầm phải
người mình. Khi đó, tàu “Sóng Dữ” lao tới, bắn thọc đằng sau lưng biên
đội của ta. Thế cục thay đổi trong nháy mắt, khiến cho tàu 389 bị quân
địch tấn công từ hai phía bốc cháy nhiều chỗ. Mặc dù đã trúng đạn đầy
mình, nhưng tàu 389 vẫn ép sát tàu địch, các chiến sĩ trong tình thế
nguy cấp đã ôm luôn cả bệ phóng rocket, xách luôn cả súng tiểu liên, tay
cầm lựu đạn, đúng là một trận đánh dũng mãnh, đã xảy ra một trận “đấu
lưỡi lê trên biển” hiếm thấy trong lịch sử các cuộc hải chiến, quả là
một trận xáp mạn tàu khiếp vía kinh hồn! Thuyền trưởng tàu “Sóng Dữ”,
thiếu tá họ Ngụy [Văn Thà] đã mất mạng trong trận chiến trần trụi bằng
lưỡi lê trên biển này.
Lúc này, tàu “Lý Thường Kiệt” quay về hồ
đá ngầm, chuẩn bị cầu cứu tàu “Sóng dữ”. Đạn pháo trên tàu 389 đã bắn
hết sạch, thuyền trưởng tàu Tiêu Đức Vạn hạ lệnh nạp bom chống tàu ngầm,
quyết cùng chết với tàu địch. Còn thượng úy (2) họ Nguyễn (tức Nguyễn Thành Trí: BTV)
chỉ huy thay thế tàu “Sóng dữ” thì muốn cố sức đâm chí mạng vào tàu
389. Chính trong thời khắc nguy cấp ấy, tàu 396 đã chuyển hướng đón chặn
trước mặt tàu “Lý Thường Kiệt”, yểm trợ cho tàu 389 thoát hiểm. Tàu “Lý
Thường Kiệt” vừa kịp hoàn hồn, không ngờ lại bị một đòn đau, chỉ còn
cách rút lui về hướng tây bắc.
• Thắng lợi và ý nghĩa của nó
11 giờ 49 phút, đại đội 74 tàu chống
ngầm sinh lực quân của bên ta lao vào chiến trường. Hạm đội Nam Việt cho
là đại quân (trong Hồi ký của trung tá họ Vũ [Hữu San], hạm trưởng tàu
“Trần Khánh Dư” cho rằng Trung Quốc đã điều 42 tàu quân sự và 2 tàu
ngầm) đã quay đầu rút lui vào lúc 12 giờ. Bản thân tàu “Sóng dữ” tốc độ
chậm, lại bị thương tích, nên đã không thể đuổi theo kịp đồng bọn đang
tháo chạy. 12 giờ 12 phút, đại đội 74 vừa tới nơi đã tiếp nhận mệnh lệnh
tấn công, tàu 281 lao lên hết tốc lực, bắn dữ dội vào tàu “Sóng dữ”,
làm nó bị đánh chìm ở phía nam bãi đá ngầm Linh Dương vào lúc 14 giờ 52
phút.
Sau khi quân ta đã phải trả giá với 18
người tử trận, 67 người bị thương, trận hải chiến Tây Sa đã kết thúc
bằng thắng lợi về phía quân ta. Sau đó quân ta thừa thắng xuất kích, thu
hồi hoàn toàn Tây Sa. Chiến thắng này làm cho quân ta hiểu được rằng ở
nơi Nam Hải “nước xanh” mênh mông rộng lớn này còn có được chủ quyền và
lợi ích không dễ gì xâm phạm chính bởi trận hải chiến này, mà việc thiết
lập lòng tin về sự tác chiến của hải quân ta ở nơi cách xa đại lục đã
dần dần được điều chỉnh, sau cuộc chiến ấy, căn cứ Du Lâm lập tức được
tăng viện 2 tàu hộ tống. Có thể nói, kể từ khi ấy, Nam Hải mới đi vào
tầm ngắm của sự phát triển chiến lược của hải quân ta. Cho nên, xét từ ý
nghĩa này, trận hải chiến Tây Sa chính là bước khởi đầu cho hải quân ta
tiến ra “biển xanh”.
Chương II: Bối cảnh quốc tế
Trận phản kích tự vệ Tây Sa tuy là một
trận chiến quy mô nhỏ, nhưng bối cảnh của nó lại rộng lớn, phức tạp.
Liên quan đến chiến lược toàn cầu của 3 nước lớn Trung Quốc, Mỹ và Liên
Xô khi ấy còn có cả Việt Nam và khu vực Đài Loan. Muốn nói về trận phản
kích tự vệ Tây Sa, còn phải được bắt đầu bằng việc Nixon dến thăm Trung
Quốc mở cửa cho quan hệ Trung-Mỹ.
Vào đầu thập niên 70, mối quan hệ
Trung-Xô xấu đi nhanh chóng, Liên Xô cho bố trí hàng trăm vạn quân ở
biên giới phía bắc Trung Quốc. Đặc biệt là sau trận phản kích tự vệ ở
đảo Trân Bảo vào năm 1969, trung Quốc đã phải chịu sự uy hiếp chiến
tranh to lớn từ Liên Xô. Mỹ và Liên Xô trong cuộc đối đầu chiến tranh
lạnh cũng trở nên hết sức bị động. Vào cuối thập niên 60, lực lượng
chiến lược Liên Xô có xu hướng hòa hoãn với Mỹ, nước Mỹ khi phải đối mặt
với sự uy hiếp chiến lược của Liên Xô đang leo thang nghiêm trọng, đã
yêu cầu được liên hợp với Trung Quốc để cùng nhau áp chế Liên Xô. Đồng
thời, chính phủ Mỹ vội vã rút quân khỏi Việt Nam, cũng yêu cầu có sự
phối hợp chiến lược của Trung Quốc. Chính trong tình hình ấy, Mao Trạch
Đông và Nixon, xuất phát từ con mắt chiến lược sâu rộng, đã mở cửa cho
mối quan hệ Trung-Mỹ. Việc thu hồi Tây Sa có thể nói là một sản phẩm ăn theo của quyết sách chiến lược này.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, rất
nhiều hòn đảo của Tây Sa đã bị Nam Việt chiếm giữ dưới sự hậu thuẫn của
Mỹ, chứ không phải Bắc Việt **. Những hòn đảo này của Tây Sa đã bị Bắc
Việt chiếm giữ khi nước Mỹ không muốn rút quân, bởi vì giao Tây Sa cho
Bắc Việt thì chẳng khác nào giao cho Liên Xô. Chuyện này có một dẫn
chứng quan trọng: Căn cứ quân sự trọng yếu của quân Mỹ trong Chiến tranh
Việt Nam là vịnh Cam Ranh, sau Chiến tranh Việt Nam, Liên Xô nhanh
chóng thuê lại vịnh Cam Ranh làm căn cứ quân sự cho họ, cho đến tận bây
giờ (năm 2004 hết hạn) (3). Cho nên, chúng ta có thể
phân tích thế này, về vấn đề Trung Quốc thu hồi Tây Sa, Đệ thất Hạm đội
hải quân Mỹ đã từ chối lời yêu cầu hải quân Mỹ can thiệp, thậm chí còn
từ chối cả việc đưa tàu tới ứng cứu những người bị chết đuối, chứng tỏ Trung Quốc đã có thỏa thuận ngầm với Mỹ. Điều
này không hề xuất phát từ chuyện Mỹ tốt với Trung Quốc đến đâu, lại
càng không phải là ban ơn, mà hoàn toàn là xuất phát từ lợi ích tự thân
của nước Mỹ. Chính trong bối cảnh toàn cục ấy, trong thời khắc then chốt ấy, Trung Quốc đã chớp lấy thời cơ để thu hồi Tây Sa.
Khi Trung Quốc thu hồi Tây Sa, binh lực
của Hạm đội Nam Hải rất thiếu, đòi hỏi phải có sự chi viện từ Hạm đội
Đông Hải. Đảo Đài Loan nằm ở giữa Nam Hải và Đông Hải, việc điều động
hạm đội trước đây đều đi vòng từ ngoài khơi đảo Đài Loan, để tránh đi
vào đường nhạy cảm trong eo biển Đài Loan. Thời gian hành động của hạm
đội lần này quá gấp gáp, quy mô lại hết sức lớn, liệu có thể đi qua eo
biển Đài Loan nổi không? Nixon đến thăm Trung Quốc, đụng chạm vào chính
phủ Tưởng Giới Thạch có thể nói là thảm họa. Điều động hạm đội quy mô
lớn đi qua eo biển Đài Loan vào lúc này, Tưởng Giới Thạch sẽ có phản ứng
gì? Lãnh dạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã liên hệ được với Tưởng Giới
Thạch thông qua kênh bí mật, Tưởng Giới Thạch cân nhắc từ đại nghĩa dân
tộc, đã để cho hạm đội được đi qua eo biển Đài Loan một cách suôn sẻ,
giành được thời cơ cho cuộc chiến. Đài Loan từng nhiều lần thả hải quân
Trung Quốc đại lục trong trận hải chiến với Trung Quốc đại lục, chưa hề
có mối quan hệ mật thiết nào dưới sự chỉ đạo đằng sau của Mỹ.
Trận phản kích tự vệ Tây Sa không hề
được coi là trận hải chiến quy mô lớn. Khi trận chiến kết thúc, Bắc Việt
** lập tức ra tuyên bố, “cảm ơn chính phủ Trung Quốc đã giúp đỡ họ giải phóng Tây Sa từ tay Nam Việt”.
Điều này đồng nghĩa với việc đề xuất với Trung Quốc yêu cầu về lãnh thổ
Tây Sa. Chính phủ Trung Quốc không đếm xỉa gì đến chuyện này, gọi trận
chiến đó là “trận phản kích tự vệ”, nhấn mạnh Tây Sa từ xa xưa đã là
lãnh thổ của Trung Quốc. Trung Quốc thu hồi lại lãnh thổ của mình từ tay
“ngụy quân Nam Việt” từ sự hỗ trợ của Mỹ. Chính nước cờ hay tuyệt diệu
này đã khiến cho Trung Quốc giành được thế chủ động trong tương lai về
vấn đề Nam Hải. Và cũng chính điểm này, sau khi Nam – Bắc Việt Nam thống
nhất, đã trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến Việt
Nam dựa vào Liên Xô, thù địch với Trung Quốc.
Chương III Bối cảnh khi xảy ra trận chiến
Nguyên nhân xảy ra trận hải chiến Tây Sa
là do sau khi Bắc Việt ký Hiệp định đình chiến, chính phủ Nam Việt đã
nhân cơ hội đó để ổn định lại cục diện chiến đấu trên bộ, tích cực triển
khai hoạt động trên các yếu điểm chiến lược Nam Việt đã chiếm đoạt. Bắt
đầu từ tháng 8 năm 1973, tàu quân sự Nam Việt liên tục xua đuổi và bắt
giữ ngư dân Trung Quốc trong vùng biển Tây Sa, chiếm giữ đảo, mưu đồ đẩy
Trung Quốc ra khỏi khu vực này, tiến vào độc chiếm quần đảo Tây Sa, khi
ấy Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên chiếm giữ một vài hòn đảo, tương tự
như với quần đảo Nam Sa. Công bằng mà nói, động thái này của chính phủ
Nam Việt quả thực rất có tầm nhìn chiến lược, đồng thời không loại trừ
có người Mỹ đứng đằng sau khi trù mưu tính kế.
Trung Quốc khi ấy lại đang sa vào vũng
lầy của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa. Tầm nhìn của Trung ương và Quân ủy
đều tập trung vào 3 khu vực phía bắc tiếp giáp với Liên Xô. Khi ấy Liên
Xô đang tập kết tới bốn mươi mấy sư đoàn đã được cơ giới hóa ở toàn bộ
phía Đông, cộng thêm quân đội hàng không và quân đội dự bị chiến lược,
tổng binh lực lên tới gần 1 triệu quân! Trận chiến trên đảo Trân Bảo
nguy cấp nhất, tuy binh lực của cả hai bên không vượt quá quy mô tiểu
đoàn, song bày trận ở đằng sau mỗi bên là binh lực với quy mô tập đoàn
quân! Trong thời khắc nguy cấp ấy, phía Liên Xô còn tổ chức diễn tập
quân sự quy mô lớn (với quy mô mười mấy sư đoàn) ngay trước mắt chúng
ta. Phản ứng của phía ta là chỉ trong vòng 2 tháng đã cho nổ 2 quả bom
hạt nhân! Không hề đưa một chữ nào trong phần tin tức. Sự kiện một phân
đội đi tuần tra biên giới phía bắc sau đó đã khiến cho Trung ương hạ
quyết tâm nhanh chóng cải thiện mối quan hệ với Mỹ nhằm giảm bớt áp lực
của Liên Xô đối với chúng ta. Không thể lơ lỏng dù chỉ một khắc cuộc đối
đầu quân sự với Liên Xô ở phía bắc. Đại bản doanh nguồn lực quốc phòng
đã bị liên lụy về phía ấy, còn với khu vực Nam Hải thì nói chung là áp
dụng thái độ bỏ mặc, trong khi sự khiêu khích của chính phủ Nam Việt thì
lại càng ngày càng mạnh.
Đến tháng 1 năm 1974, chính phủ Nam Việt
tuyên bố phải khai thác dầu ở khu vực Tây Sa, buộc Bộ Ngoại giao Trung
Quốc phải ra tuyên bố, nhắc lại chủ quyền của mình đối với Tây Sa và Nam
Sa. Nhưng hành động của hải quân Nam Việt lại leo thang ngay tiếp sau
đó, 4 ngày sau, biên đội chiến hạm chiến đấu của họ tiến đến vùng biển
Tây sa, khiêu chiến với Trung Quốc bằng vũ lực. Phía Trung Quốc khi ấy
về cơ bản chưa chuẩn bị cho việc đánh, trong lúc nguy cấp đã vội vã điều
2 tàu dò mìn (phiên hiệu 396 và 389), 2 tàu chống ngầm (phiên hiệu 271
và 274) đến Tây Sa vào ngày 17 tháng 1. Tàu dò mìn 389 trong số đó vừa
được xuất xưởng sửa chữa, chưa hề lái thử, đã phải xuất phát đến vùng
chiến địa. Có thể thấy được sự thảm hại của phía quân Trung Quốc khi ấy.
Hơn 1 ngày sau, phía quân Trung Quốc lại vội điều 2 tàu chống ngầm
(phiên hiệu 281 và 282) đến tăng viện cho Tây Sa. Sau này đã thấy: Chính
2 chiếc tàu này đã bảo đảm cho sự thắng lợi cuối cùng của quân Trung
Quốc trong trận Tây Sa.
Những người am hiểu sẽ nhìn ra được
những chiếc tàu này không phải được dùng cho các trận hải chiến đích
thực. Chứng tỏ phía Trung Quốc khi ấy cơ bản là không muốn đánh, mà chỉ
muốn chứng minh sự tồn tại vũ lực của mình ở vùng biển Tây Sa, nhìn mấy
chiến tàu nhỏ bên quân Trung Quốc điều đến mà đã tạo nên dũng khí để làm
nên chuyện, thì e rằng cũng đã nằm ngoài dự liệu của các nhà quyết sách
quân sự khi ấy.
Ngày 18 tháng 1, tàu Trung Quốc đến vùng
biển Tây Sa, gặp phải tàu của hải quân Nam Việt ở đó, tổng cộng có 1
tàu khu trục (số ghi ở thân tàu là 04), 2 tàu hộ tống (số ghi ở thân tàu
là 05 và 16) và 1 tàu tuần tra (số ghi ở thân tàu là 10). Bốn tàu của
hải quân Nam Việt, với tổng trọng tải hơn 6.000 tấn, hơn 50 khẩu hỏa
pháo, lại được trang bị hệ thống điều khiển bắn tự động điện tử tiên
tiến nhất hồi bấy giờ; còn 4 chiếc tàu bên quân ta gộp lại tổng cộng mới
được hơn 1.700 tấn, 16 khẩu hỏa pháo, trọng tải tàu tối đa không bằng
trọng tải con tàu nhỏ nhất của quân Nam Việt. Tương quan thực lực giữa
hai bên đối trận chênh nhau như vậy cũng là điều hiếm gặp trong lịch sử
các trận chiến hải quân trên thế giới. Vì thế, hải quân Nam Việt phán
đoán máy bay chiến đấu của Trung Quốc do hành trình xa nên không thể tới
chi viện cho Tây Sa được, cảm thấy vẫn có thể đánh được biên đội hải
quân nhỏ ấy của Trung Quốc. Cũng có nghĩa là vào sớm ngày hôm đó, sĩ
quan chỉ huy tàu Nam Việt khi đã liên lạc được với tổng thống của họ là
có thể được trao quyền khai hỏa vào tàu Trung Quốc.
Song hải quân Trung Quốc khi ấy, mặc dù
về mặt trang bị và sẵn sàng tác chiến không bằng được Việt Nam, nhưng
lòng quả cảm và sĩ khí thì lại ở hàng đầu, là quân đội được trang bị
bằng tư tưởng Mao Trạch Đông, đã không hề run sợ trước hải quân Nam Việt
với ưu thế áp đảo. Còn hải quân Việt Nam khi gặp phải biên đội tàu
Trung Quốc tiến tới bất ngờ, tuy coi thường, nhưng vì cũng không biết
được nội tình bên quân Trung Quốc nên cũng không dám manh động, hai bên
lại đối đầu trong đêm tối, thế là cả hai bên cùng thu quân. Ngày hôm
sau, 19 tháng 1, tàu Nam Việt nhìn thấy bên quân ta không hề có tăng
viện, chỉ vẻn vẹn có 4 chiếc tàu nhỏ, thế là can đảm hẳn lên. Tàu hộ
tống 5 cậy mình thừa đủ trọng tải mã lực đã va vào trước đánh chặn 2 tàu
dò mìn 396 và 389 của bên quân ta, tàu dò mìn 396 của ta bị hư hỏng
nhẹ, dùng mấy chiếc xuồng máy đưa khoảng 1 trung đội lính đánh bộ lên 2
hòn đảo Trân Hàng, Quảng Kim, đã bị bên quân ta khống chế (2 hòn đảo này
có 1 đại đội dân binh của ta đóng trên đó), đối đầu với dân binh Trung
Quốc trên đảo. Tàu bên quân ta nhằm hỏa pháo vào quân Nam Việt đang đổ
bộ lên đảo, hiệp trợ dân binh trên đảo, còn tàu quân sự lớn của Nam Việt
do ở quá gần đảo, nên chủ pháo ** đã bị rơi vào góc chết, chẳng trợ
giúp gì được. Trong tình huống có cảnh cáo cũng vô hiệu ấy, dân binh
Trung Quốc đã nổ súng trước, giết chết 1 tên địch, làm bị thương 3 tên,
buộc quân Nam Việt phải quay đầu rút chạy thảm hại.
Khi thấy không dễ gì chiếm được đảo, tàu
quân sự Nam Việt đã thu hồi quân đổ bộ lên đảo, lượn một vòng ra ngoài
khơi (khiến cho tàu bên quân ta bị nằm vào tầm bắn của hỏa pháo ** bên
họ), triển khai đội hình chiến đấu. Biên đội tàu Trung Quốc không những
không lui về, mà còn dốc hết mã lực cũng triển khai đội hình chiến đấu
để đón đầu tàu quân sự Nam Việt (bởi nếu như bị chúng giãn cách cự ly,
thì bên quân ta chỉ còn cách chịu đòn). Hai bên đối trận lúc này, pháo
chĩa vào nhau, lưỡi lê đã tuốt, khoảng cách ngày một thu hẹp, căng thẳng
tột độ. Cuối cùng tàu quân sự Nam Việt không nén nổi, các tàu cùng nổ
súng về phía quân Trung Quốc, ngay chính trong khoảnh khắc lửa pháo lóe
lên, pháo thủ bên quân ta cũng ấn nút điện, trận hải chiến Tây Sa chính
thức bắt đầu!
Chương IV: Giải mật tư liệu
Về chuyện ai nổ súng trước, có một loạt
quan điểm cho rằng, tàu quân Nam Việt lúc ấy nổ súng trước là khi lui về
phía sau để giãn cách cự li, cho hỏa pháo ** ở vào vị trí lợi thế, thì
tàu quân Trung Quốc đã truy kích để thu hẹp cự ly, thực ra không phải
như vậy. Trước hết, nếu đúng là như vậy, thì tàu quân Nam Việt chắc chắn
đã đối mặt với quân Trung Quốc bằng pháo đuôi chứ không phải bằng chủ
pháo, không phải ở vị trí đắc địa; thứ hai, khi đối đầu, tàu của hai bên
ở cách nhau rất gần, dùng theo cách nói của người Nam Việt là “trong
tầm cự ly bắn của **”, thì tàu bên quân ta lại chạy nhanh hơn tàu quân
Nam Việt (bên Trung Quốc tốc độ 25, bên Nam Việt tốc độ 20), nên chẳng
cần phải đợi đến khi tàu quân Nam Việt chạy xa rồi mới đuổi theo; thứ
ba, các văn bản chính thức của phía Trung Quốc cũng nói khi ấy hai bên
chĩa súng vào nhau, quân Nam Việt nổ súng trước. Cho nên, tình huống khi
ấy nên hiểu là khi hai bên tiếp cận chính diện với nhau, đối với quân
Nam Việt, nếu quân Trung Quốc tiến gần vào nữa là sẽ bị rơi vào góc chết
của chủ pháo ** hạm đội Nam Việt, sẽ bất lợi cho họ, nên họ phải nổ
súng trước.
Khẩu pháo ** số 1 của tàu quân Nam Việt
là đài chỉ huy của tàu bên quân ta, do ** rất lâu, nên đạn pháo đã bắn
rất chuẩn. Một loạt đạn pháo bắn ra, mấy thuyền trưởng và chính ủy bên
quân ta khi ấy đã có thương vong. Nhưng tàu bên quân ta tiếp tục áp sát
địch hết tốc lực, phát huy ưu thế cự ly gần của pháo bắn tốc độ **, nên
đã áp chế được tàu quân Nam Việt. Còn tàu quân Nam Việt lúc này do tốc
độ bắn của hỏa pháo ** chậm, tàu của bên quân ta lại nhỏ, chiều cao chỉ
có 2 m, cự ly lại quá gần, rơi vào góc chết của pháo rất khó điều chỉnh,
không phát huy được ưu thế hỏa lực, nên đã bị tàu Trung Quốc bắn trả
điên cuồng. Để thoát khỏi thế bị động, tàu quân Nam Việt có ý đồ giãn
cách cự ly, còn tàu bên quân ta thì truy đuổi đến cùng, áp sát tàu quân
địch. Tập trung hỏa lực bắn vào các tàu khu trục 04, tàu hộ tống 16.
Quân ta dũng mãnh tấn công tàu khu trục 4 và tàu hộ tống 16 của Nam
Việt, vì những con tàu ấy lần lượt ở vào vị trí tàu chỉ huy trong các
tàu quân sự Nam Việt. Còn cho đến sau trận hải chiến ấy, phía Trung Quốc
đều cho rằng tàu khu trục 04 là kỳ hạm của cả hạm đội Nam Việt. Thực
tế, tin của tình báo Trung Quốc rất chuẩn xác, cho đến ngày 18, tàu khu
trục 04 luôn là kỳ hạm của Nam Việt, nhưng vào sớm ngày 19, do sự thay
đổi về chỉ huy hạm đội Nam Việt, tàu hộ tống 05 đã biến thành kỳ hạm,
đây là điều bên quân Trung Quốc không ngờ tới. Hỏa lực từ các tàu chống
ngầm 271 và 274 của bên quân ta đã chuyển hướng bắn về phía chủ pháo
cùng hệ thống điều khiển bắn, thông tin và chỉ huy của tàu hộ tống 04
Nam Việt.
Mặc dù có sự cứu viện của tàu hộ tống
05, tàu này vẫn bị đánh tới mức làm gián đoạn thông tin, chỉ huy vô hiệu
lực, tàu bị cháy khói um lên. Cùng lúc ấy, các tàu quân sự của Nam Việt
cũng cố sức bắn trả về phía quân Trung Quốc, pháo ** bắn tàu Trung Quốc
ở gần không được liền bắn tới tàu Trung Quốc ở xa, để chi viện cho đồng
đội. Do tàu quân ta và quân địch đánh nhau ở cự ly gần, nên không ít **
lực của Nam Việt đã bị đánh gục trên tàu của mình, các tàu của Nam Việt
đều bị xơi phải đạn pháo của người mình.
Tàu tuần tiễu số 10 của hải quân Nam
Việt đã lao tới và nhả đạn điên cuồng vào tàu dò mìn 389 của ta, để tìm
hiểu cứu vãn tàu hộ tống 16 đang bị 2 tàu dò mìn 396 và 389 của quân ta
vây đánh. Tàu dò mìn 389 của ta đang chịu tấn công từ hai phía đã bị
trúng đạn nhiều chỗ, 6 sĩ quan và lính tử trận, trên tàu bốc cháy, nhưng
vẫn dũng cảm chiến đấu, cùng với tàu 396 quay họng pháo bắn trả xối xả
về phía tàu tuần tiễu số 10 của đối phương, rồi quay đầu lao tới tàu
này. Tàu tuần tiễu số 10 của hải quân Nam Việt bị bắn trúng phải kho đạn
đã phát nổ bốc cháy. Tàu dò mìn 389 của ta lúc này đạn pháo cũng đã hết
sạch, nhưng vẫn dũng cảm lao lên, xông thẳng tới chỗ cách tàu số 10 mấy
chục mét, hải quân Trung Quốc xách cả bệ phóng rocket, súng tiểu liên,
bắn xối xả về sàn tàu số 10 (số vũ khí này vốn là vận chuyển cho dân
binh của ta đóng trên đảo, nhưng do đêm 18 [tháng 1-1974] sóng quá lớn,
nên không thể đưa lên đảo được). Thuyền trưởng tàu tuần tiễu số 10 của
Nam Việt đã bị bắn chết trong trận chiến (4).
Tàu hộ tống số 16 của Nam Việt muốn tiến
tới cứu tàu tuần tiễu số 10, nhưng đã bị tàu dò mìn 396 của ta đánh
chặn. Tàu hộ tống số 16 của Nam Việt đã bị trúng phải một phát đạn pháo
từ tàu hộ tống số 5 của họ (may mà quả đạn pháo này không nổ, nếu không
thì quân Nam Việt đã đánh đắm mất con tàu của họ trước), sau đó lại bị 2
tàu của quân ta tấn công, lúc này các hệ thống thông tin, điều khiển và
cung cấp điện đều bị mất hiệu lực hoàn toàn, tàu bị nghiêng 20º (khi về
đến cảng quân sự Nam Việt bị nghiêng tới 40º, chỉ còn lại phần máy
chính là còn có thể vận hành), không thể tiếp tục tác chiến, thế là quay
đầu tháo chạy ra ngoài khơi.
Nhìn thấy tàu số 16 rút chạy, chính ngay
lúc đó, 2 tàu chống ngầm 281 và 282 của quân ta đã đuổi đến vùng biển
chiến trận (hai con tàu này đã đến địa điểm được chỉ định sớm hơn một
chút, đêm 18 gặp phải sóng lớn, đã vội chạy với tốc độ tối đa cao hơn so
với thiết kế của tàu, cuối cùng được phía Trung Quốc kịp thời đưa về
sinh lực quân, khiến cho cán cân chiến thắng của trận hải chiến Tây Sa
cuối cùng đã nghiêng về phía Trung Quốc). Tàu tuần tiễu 04, tàu hộ tống
05 của Nam Việt không còn lòng dạ nào để chiến đấu tiếp, bỏ lại tàu số
10 đã bị đánh cho tơi tả, cũng quay đầu tháo chạy ra ngoài khơi. Kể từ
lúc tàu Nam Việt nổ súng cho đến khi tàu của chúng bị đánh cho tơi tả,
chỉ vẻn vẹn trong vòng có mười mấy phút. Theo kiểm nghiệm của hải quân
Nam Việt sau trận chiến, ngoại trừ tàu tuần tiễu số 10 bị ta đánh chìm
ra, 16 chiếc tàu hộ tống đã bị trúng 820 phát đạn, 2 chiếc tàu còn lại
đều bị trúng trên cả ngàn phát đạn, có thể thấy được độ ác liệt của trận
chiến và sự anh dũng trong tác chiến của hải quân Trung Quốc.
Mặc dù hạm đội của Nam Việt đã bị đánh
tơi bời, tàu bên quân ta lúc này cũng ở trong tình trạng không hay: Tàu
389 cháy mãi không tắt, thân tàu bị nghiêng lệch nặng, buộc phải đưa
vào bãi cạn với sự hiệp trợ của các tàu bên ta để khỏi bị chìm. Ba tàu
còn lại cũng bị thương tổn, đạn dược lại còn ít, nên chẳng biết làm gì
với tầu tuần tiễu số 10 đã không còn đủ năng lực tự vệ của Nam Việt.
Cuối cùng phải để cho 2 tàu chống ngầm 281 và 282 của quân ta đưa tàu
tuần tiễu số 10 của bên quân địch nhấn chìm xuống biển.
Trận hải chiến Tây Sa cùng hậu quả của
nó đã khiến cho Trung Quốc và chính phủ Nam Việt cùng cảm thấy kinh
hoàng và bất ngờ. Trung Quốc là bên yếu thế về hải quân đã giành được
thắng lợi không hề có sự chuẩn bị ở Tây Sa đã lập tức bắt đầu tổng động
viên chiến tranh, với ý đồ mở rộng chiến quả, ra tay giải quyết luôn vấn
đề Tây Sa. Phía Trung Quốc khẩn cấp trưng dụng 500 lính đánh bộ và dân
binh, đưa các tàu quân sự và tàu cá ra vùng chiến địa vào ngày 20, ngoài
việc điều các tàu của hạm đội Nam Hải khẩn cấp ra chi viện Tây Sa, 2
tàu khu trục đạn đạo của hạm đội Đông Hải cũng từ phía nam eo biển Đài
Loan tới tăng viện. Về không quân, nghe nói khi ấy đã điều máy bảy chiến
đấu F-7 vừa mới được nghiên cứu chế tạo (có tính năng ngang với
Mic-25), mặc dù thời gian đậu lại giữa không gian trên vùng biển Tây Sa
của loại máy bay chiến đấu này chưa đầy 10 phút, nhưng sự xuất hiện của
nó vẫn gây sự phấn chấn lớn lao. Ngày 20 tháng 1, bộ đội tinh nhuệ của
Trung Quốc đã đến Tây Sa, dưới sự yểm trợ của hỏa lực pháo hạm, đã chiếm
gọn cả 3 hòn đảo từng bị hải quân Nam Việt chiếm giữ từ năm 1956, bắt
sống 48 tên địch, trong đó có 1 sĩ quan liên lạc Mỹ.
Tuy Bắc Việt đang đánh nhau với Nam
Việt, nhưng khi chúng ta trừng phạt Nam Việt, trong lòng Bắc Việt chưa
hẳn đã hài lòng. Với trận hải chiến Tây Sa, hải quân Nam Việt vốn đã có
sự chuẩn bị, với ý chí quyết giành bằng được, không ngờ lại bị ăn một
đòn trời giáng, đột nhiên trở nên hoảng loạn. Khi viên chỉ huy trận hải
chiến đến gặp Tổng thống Nam Việt để báo cáo, không dám nói là trận hải
chiến đã bị thất bại, mà chỉ một mực trách không quân không đến chi
viện. Đến chiều ngày 20 tháng 1, Nam Việt mới đưa tàu quân sự Kỳ lân chở
1 tiểu đoàn lính đánh bộ, với ý đồ tăng viện cho quân đóng ở Tây Sa
(nửa đường đã quay về), ngoài ra còn cho tập kết lính hải, không quân
rải khắp làm khung sườn tái chiếm, nhưng sau khi đối mặt với sự tăng
viện lớn của bên quân ta, lính hải quân Tây Sa bám trận địa chờ thời từ
trước, đã không hề dám manh động, cuối cùng phải rút về.
Trong trận chiến ở Tây Sa, các tàu quân
sự của phía Nam Việt đã bị đánh chìm, bị đánh trọng thương, bị thương
nhẹ mỗi loại 1 chiếc, lính tử trận hơn 100 người, bị bắt sống 18 người,
số bị thương không rõ. Các tàu phía Trung Quốc bị đánh trọng thương 1
chiếc, bị thương nhẹ 3 chiếc, lính tử trận 18 người, bị thương 67 người.
Mặc dù phía Trung Quốc đã không lường trước được hết quyết tâm khai
chiến của Nam Việt, binh lực điều động hết sức yếu ớt, nhưng sĩ quan
binh lính hải quân Trung Quốc tham gia chiến trận đã chiến đấu dũng cảm,
chiến thuật vận dụng cũng hết sức thành công, nên cuối cùng đã giành
được thắng lợi. Khi xem xét đến sự chênh lệch về tương quan lực lượng
giữa hai bên, sẽ thấy chiến quả như vậy là hiếm gặp trong lịch sử hải
quân thế giới. Còn ý nghĩa thực sự của trận chiến ở Tây Sa, nằm ở chỗ đã
tiêu diệt được quân đội Nam Việt chiếm cứ ở đó từ năm 1956, là đã đánh
đuổi sạch thế lực Nam Việt. Nếu không, đợi đến hơn một năm nữa thôi,
Việt Nam sau khi thống nhất sẽ tiếp quản luôn cả mấy hòn đảo ở đó, thì
nỗi rầy rà của phía Trung Quốc sẽ còn lớn hơn.
1) Số lượng tàu tham chiến
Con số thực và loại hình tàu tham chiến
của phía Trung Quốc: 2 tàu chống ngầm, 2 tàu dò mìn, 2 tàu hộ tống cao
tốc; trong đó có 4 tàu khai chiến trước, 2 tàu đuổi theo sau, và chính 2
chiếc tàu đuổi theo sau này đã khiến hải quân Nam Việt cho là còn có
một loạt tàu tăng viện nữa đang đuổi tới, gây khiếp đảm, làm quân Nam
Việt phải bỏ chạy, ở bước ngoặt quyết định cuối cùng đã làm cho cán cân
thắng lợi nghiêng về phía quân ta.
2) Ai là người nổ phát súng đầu tiên?
Thật tình là hiện giờ cũng không thể nói
rõ được ai là người nổ phát súng đầu tiên. Theo những người tham chiến
nói, khi ấy bên quân ta chắc chắn không ra lệnh nổ súng, nhưng trước khi
nổ súng, bên quân Nam Việt đã bắn 1 phát đạn pháo về phía quân ta bằng
pháo **, (đương nhiên là không có trong lệnh), do hỏa pháo chủ yếu của
các tàu bên quân Nam Việt đều được điều khiển tự động bằng rađa, cho nên
phát đạn pháo này bên quân ta phán đoán là để hiệu chỉnh hệ thống điều
khiển bắn tự động, đồng thời sau khi tàu bên quân Nam Việt lui lại với ý
đồ giãn cách cự ly (điều này buộc phải làm về mặt chiến thuật khi tàu
lớn khai chiến với tàu nhỏ), chỉ huy bên quân ta phải ra lệnh cho 2 biên
đội bám sát, đồng thời cảnh báo: Chú ý, quân địch sắp nổ súng! Vào lúc
ấy, trận hải chiến đã nổ ra. Khi người bên quân ta phát hiện thấy nòng
pháo bên quân địch tóe lửa một cái là liền lập tức đạp cò! Cho nên gần
như cùng lúc với bên quân địch nổ súng, đạn pháo bên quân ta cũng nhả
luôn! Nhưng do phía quân ta pháo nhỏ, vận tốc cao, thế nên loạt dạn pháo
đầu tiên của bên quân ta đạp cò sau, nhưng lại rơi xuống đầu hải quân
Nam Việt trước (quả có chút nực cười). Lúc này, chỉ huy bên quân ta quả
thực không ra lệnh nổ súng, bắn trả hoàn toàn là sự phản ứng tự động của
các chiến sĩ (sự phản ứng tự động này tương đối quan trọng, nếu như đợi
đến khi chỉ huy ra lệnh mới bắn trả, thì rất có thể lịch sử về trận hải
chiến Tây Sa sẽ phải viết lại). Viết đến đây, đã có thể rõ được ai là
người nổ súng trước rồi.
3) Trận hải chiến đã liều ném luôn cả lựu đạn?
Không phải là bên quân ta đã có chiến
pháp liều ném lựu đạn trong trận hải chiến, mà là một chiếc tàu khi ấy
do bị thương, mất lái, tốc độ chạy quá nhanh, đâm thẳng vào giữa 2 chiếc
tàu bên quân Nam Việt, nên đã bị tấn công bằng hỏa lực chằng chịt rồi
bốc cháy, tổn hại nghiêm trọng, chiếc tàu phía sau của quân ta nhìn
không rõ (khi ấy cho là khói do tự mình tuôn ra) sợ đánh bị thương nhầm
tàu mình, lại không thể chi viện được, nên kết quả là chiếc tàu này lái
luôn cả khói lửa đâm thẳng vào tàu số 10 của địch, thuyền trưởng hoa
mắt: Lắp tên lửa chống tàu ngầm! Chuẩn bị sống chết với quân địch. Thế
là tàu số 10 quay lái sạt qua tàu của ta, nguy hiểm tới cực điểm. Lúc
này hỏa pháo của hai bên đều không thể dùng được, thuyền trưởng gặp nguy
ứng biến: Ném lựu đạn! Khi ấy bên quân ta cơ bản chưa chuẩn bị đánh
trận hải chiến, trên tàu này có mấy hòm lựu đạn chuyển cho dân binh đóng
trên đảo, vào lúc này đã được điều dùng cho trận chiến. Thế là mọi
người tranh nhau vớ lấy lựu đạn ném sang tàu số 10 của Nam Việt, có
người còn ôm luôn cả bệ phóng tên lửa chống tăng của bộ binh bắn về phía
tàu Nam Việt! Đây chính là xuất xứ của chuyện quân Trung cộng đã sử
dụng lựu đạn mà Nam Việt đã thông tin cho giới truyền thông sau này,
nhân lúc quân địch hoảng loạn chuyển hướng, quân ta đã ngoặt tàu chạy
hết tốc độ, đẩy lui được cuộc tấn công của Nam Việt, sau đó lao tới tự
cứu lại được bãi đá ngầm.
4) Được mất về chiến thuật của trận hải chiến
Về kết quả của trận hải chiến mọi người
đều đã rõ: Bên quân Nam Việt: 1 chiếc tàu hộ tống nhỏ nhất (phiên hiệu
“Sóng dữ”, 650T) bị chìm, 3 chiếc tàu khu trục còn lại bị thương (rất
nhẹ). Bên quân ta: 1 chiếc tàu dò mìn gần như bị chìm (đưa lên bãi cạn
thành công, tất nhiên, nếu đưa lên bãi cạn không kịp thì chắc chắn sẽ
chìm), bị thương 1 chiếc, 2 chiếc còn lại cũng bị thương nhẹ, nhưng 2
chiếc thêm vào sau đó lại không hề bị sứt mẻ gì.
a) Khi khai chiến, cả hai bên đều theo
quan điểm đã đánh phải đánh cho giập đầu, tấn công vào tàu chỉ huy của
đối phương, song đều phán đoán nhầm: Trong số 2 biên đội bên quân ta, 1
chiếc tàu xông lên trước nhất là tàu chỉ huy, mà bên quân địch tấn công
lại là 2 chiếc tàu ở đằng sau 2 biên đội bên quân ta, phán đoán sai (nếu
như quân địch khi ấy đọc được báo chí Trung Quốc thì sẽ không bị sai).
Bên quân ta phán đoán quân địch sợ chết, cho nên viên chỉ huy sẽ nấp ở
đằng sau, vì thế cũng tấn công 2 tàu ở đằng sau, và cũng phán đoán sai!
Xác minh sau trận chiến cho thấy, tàu chỉ huy bên quân địch là tàu đầu ở
biên đội số 2!
b) Bên quân Nam Việt đã sai lầm về vận
dụng chiến thuật: Hải quân Nam Việt cho rằng tàu của ta đại pháo lớn,
dùng đạn xuyên thép làm thủng cho mấy lỗ là tàu nhỏ của mày chìm ngay,
cho nên trong lúc bắn nhau bên quân Nam Việt đã sử dụng đạn xuyên thép
(tất nhiên, không thể nói là không đúng, nhưng nếu như một tàu dùng đạn
xuyên thép, một tàu dùng đạn bộc phá thì rất có thể bên quân ta sẽ phải
chịu kết cục thảm hại, bởi dẫu sao thì tàu của ta cũng quá nhỏ).
Bên quân ta cho rằng, mặc dù mày là hỏa
lực tự động, nhưng có phải lúc nào cũng có người đến thao tác đâu? Tao
đánh cho mày bò lê bò càng hết cả ra, thì mày có tự động hóa thì cũng
chẳng có ai đến ấn nút được cả! Cho nên tình hình bên quân ta sử dụng
đạn bộc phá (người viết cho rằng đây là chiến thuật khi ấy không có biện
pháp để đề xuất) trong giao chiến là: Hai bên vừa bắn nhau, toàn bộ
hải quân trên tàu quân sự Nam Việt đều chui hết cả xuống dưới boong tàu,
còn hỏa pháo tự động hóa cũng bị mất hiệu lực khi bị quân ta tấn công
trọng điểm vào hệ thống điều khiển tự động bằng rađa, người điều khiển
pháo đương nhiên là không bắn được chúng ta nữa rồi. Sau khi bên quân ta
bị bắn đạn xuyên thép, phần tàu chìm dưới nước bị thủng mấy lỗ lớn, mà
những miếng nút chúng ta chuẩn bị sẵn thì lại không đủ, may mà có các
chiến sĩ xả thân bịt lại thì mới bảo vệ được tàu. Từng có tin là có
chiến sĩ đã hi sinh vì dùng thân mình bịt tàu, thế nhưng quân lính hiện
giờ đã được điều đi xa rồi, lát nữa người viết kể cho mọi người nghe về
trận hải chiến Xích Qua Tiêu (tức Bãi đá Gạc Ma – ND) thì sẽ biết.
Lời cuối: Nghe nói sau
khi Trung Quốc thu hồi Tây Sa, Bắc Việt là đồng chí và anh em với chúng
ta khi ấy, đã gửi điện cảm ơn chính phủ Trung Quốc: Cảm ơn anh em Trung Quốc đã thay chúng tôi thu hồi lại được quần đảo Tây Sa từ tay quân tay sai Nam Việt!
Chính phủ Trung Quốc đã từ chối bức “Điện cảm ơn” này, đây cũng là sự
khởi đầu cho việc từ chỗ thừa nhận đến chỗ trở mặt về chủ quyền đối với
Nam Sa của Trung Quốc từ phía Việt Nam.
Trong trận hải chiến oai hùng thề chết
bảo vệ quần đảo Tây Sa của quân dân Trung Quốc, hải quân Trung Quân ở
vào thế yếu về trang bị, tổng cộng đã bắn chìm một tàu hộ tống, bắn bị
thương ba tàu khu trục, tiêu diệt thuyền trưởng tàu “Sóng dữ” cùng hơn
100 quân dưới quyền bên quân Nam Việt; trong khi đổ bộ thu hồi ba hòn
đảo Cam Tuyền, đảo San Hô và đảo Kim Ngân, bộ đội và dân binh Trung
Quốc đã bắt sống được thiếu tá Phạm Văn Hồng cùng 48 quân dưới quyền
bên quân Nam Việt, viên sĩ quan liên lạc Kirsch thuộc Lãnh sự quán Mỹ
thường trú tại Đà Nẵng cũng đã thành tù nhân của quân dân Trung Quốc.
Tất nhiên, trong trận chiến đấu bảo vệ quần đảo Tây Sa, quân dân Trung
Quốc cũng đã phải trả những cái giá nhất định. Chính ủy tàu 274 của hải
quân Trung Quốc, Phùng Tùng Bá cùng 18 sĩ quan binh lính khác đã anh
dũng hy sinh, 67 chiến sĩ tham chiến bị thương, tàu 389 của ta bị bắn
hỏng.
Biên đội trên biển, bộ đội tàu chống ngầm của hải quân ta
Trong trận chiến, tàu tham chiến của
quân ta đã cố sức áp dụng thủ pháp cận chiến, cự ly bắn giữa hai bên từ
1.000 m đến 300 m, pháo bắn nhanh khẩu độ nhỏ của quân ta liên tục rót
đạn về phía tàu địch, buộc địch không còn dám ở lại trên tầng cao của
tàu quân sự.
Trong ảnh là tàu của hải quân Nam Việt
chuẩn bị xâm phạm vùng biển Tây Sa đang được kiểm tra sửa chữa ở cảng
Đà Nẵng, đồng thời đậu ở bên ngoài là tàu cờ tham chiếnn của hai quân
Nam Việt phiên hiệu “Trần Bình Trọng” (số ghi bên mạn tàu là “5″).
Bản đồ hiển thị tác chiến của trận hải chiến Tây Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Sau thắng lợi của trận hải chiến Tây
Sa, quân ta thừa thế thu hồi lại tất cả những hòn đảo đã bị Nam Việt xâm
chiếm, bắt sống hơn 40 sĩ quan binh lính Nam Việt, trong đó có cả 1 cố
vấn Mỹ.
————
Ghi chú của BTV:
(1) Chiếc HQ-10 mà phía Trung Quốc gọi là “Sóng Dữ” (怒涛), Việt Nam
gọi là Nhật Tảo, do ông Ngụy Văn Thà làm thuyền trưởng lúc đó .
(2) Ông Nguyễn Thành Trí lúc đó giữ chức đại úy.
(3) Có lẽ bài gốc được viết trước năm 2004.
(4) Tức thiếu tá Ngụy Văn Thà, sau khi mất, ông được truy phong hàm Trung tá Hải quân.
Nguồn: Canglang.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét