CHÚ THÍCH:
Chính
đảng CSVN, với CÔNG HÀM bán Đất & Biển từ Hồ Chí Minh/ Phạm Văn
Đồng và với lệ thuộc Kinh tế của đảng CSVN thời nay vào Trung quốc cho
phép bá quyền Hán tộc đem quân vào xâm chiếm Việt Nam mà Quốc tế khó
lòng giải quyết.
Thực
vậy, về mặt xâm lăng Kinh tế, nhà nước CSVN, trong thế tụt dốc hiện nay
và với tham vọng cố thủ lấy quyền hành dưới sự bảo trợ của Trung quốc,
đã liều mình nhận nợ và dành 90% những Dự án cho Trung quốc, đồng thời
nhập siêu 100% từ Trung quốc.Trong Bài dưới đây, Ts. LÊ ĐĂNG DOANH đã
khẳng định:
Thực tế là nhập siêu của Trung Quốc chiếm trên 100% nhập
Lễ
ký kết Hợp đồng sau khi Công ty China Huadian Engineering (CHEC) Trung
Quốc trúng thầu EPC Dự án Nhà máy nhiệt điện Kiên Lương, tỉnh Kiên
Giang, hôm 30-06-2010.
Nhập
siêu của cả nước và chính phủ phải dùng số tiền xuất siêu ở các nơi
khác để bù vào số nhập siêu của Trung Quốc. Vì vậy giải quyết nhập siêu
từ thị trường Trung Quốc là một vấn đề sinh tử của nền kinh tế Việt Nam,
nếu không làm được việc đó thì không chỉ phụ thuộc vào thương mại mà
trong tương lai gần đây Trung Quốc sẽ yêu cầu thanh toán bằng đồng nhân
dân tệ và Việt nam không thể dùng đồng đô la Mỹ kiếm được ở thị trường
khác để trang trải và sẽ phải vay nợ đồng nhân dân tệ và lúc đó sẽ bị
phụ thuộc vào tài chính và nguy cơ sẽ còn tăng lên rất nhiều.
Khi
mà hoàn toàn nhập siêu từ Trung quốc và phải thanh toán bằng đồng Nhân
Dân tệ, thì Việt Nam trở thành như một Tỉnh tiêu tiền Trung quốc.
Đồng thới, từ cảnh nhận nợ ấy, Việt Nam còn phải chịu việc Trung quốc xuất cảng nhân công của họ sang Việt Nam để lập những khu tự trị Trung quốc trên lãnh thổ mình
Cách
đây 3 năm, đúng ngày 04.02.2009, dưới đầu đề TRÁNH BIỆN MINH QUỐC TẾ
CỦA TRUNG QUỐC KHI ĐEM QUÂN VÀO CHIẾM VIỆT NAM, chúng tôi đã viết về
việc Trung quốc đem quân vào chiếm Việt Nam như sau:
“Điều chúng ta ngại sợ hơn cả là chính quân đội và xe tăng Trung quốc tràn vào lãnh thổ Việt Nam để giết người Việt Nam.
Trong sự liên đới Đông Nam Á và Thế giới hiện nay, việc Trung quốc tự
nhiên cho quân và xe tăng đổ bộ xâm chiếm lãnh thổ Việt không phải là
điều dễ làm vì quốc tế kết án. Trung quốc phải tìm ra những cái cớ để
biện minh trước những nước trong vùng và trước Thế giới về việc họ xua
quân và xe tăng vào Việt Nam.
Việt Nam chắc chắn không mang quân đội và vũ khí sang tấn công lãnh thổ Trung quốc để Trung quốc lấy cớ tràn quân vào Việt Nam.
Những cái cớ mà Trung quốc sẽ lấy ra, đó là để đòi NỢ Việt Nam, để bảo
vệ sinh mạng NGƯỜI Trung quốc đang sống ở Việt Nam và để bảo tòan TÀI
SẢN của Trung quốc đặt để ở lãnh thổ Việt Nam.
1) Đòi NỢ Việt Nam
Trung
quốc cho Hoa kỳ vay nợ. Họ trở thành chủ nợ, nhưng đối với con nợ Hoa
kỳ, chính chủ nợ Trung quốc lại ngại sợ bởi vì Hoa kỳ có một lực lượng
quân đội mạnh có thể vận chuyển nhanh chóng khắp Thế giới. Trung quốc
chưa bao giờ viễn chinh và có thể bị tiêu diệt dễ dàng nếu muốn tấn công
Hoa kỳ để đòi nợ.
Trường hợp con nợ Việt Nam
thì khác. Việt Nam ở gần kề và bị bao vây mọi phía bởi Trung quốc: phía
Đông, Tầu đã giữ Biển Đông; phía Tây, Tầu tràn qua Lào và Cao Mên dễ
dàng; phía Bắc, Tầu đứng cạnh biên giới sẵn sàng tràn xuống như họ đã
làm trong Lịch sử. Trong tình trạng Kinh tế hiện nay, Trung quốc dư vốn
cho Việt Nam vay và khi cho Việt Nam vay thì họ không sợ mất vốn. Nhà Nước Việt Nam thiếu hụt ngân qũy và nhờ Trung quốc trợ giúp Tài chánh. Ngân Hàng dành riêng cho người Tầu đã họat động từ 4 năm nay tại Việt Nam. Phần lớn những Dự án ở Việt Nam hiện nay là do vốn Tầu cho vay và dân chúng Việt Nam phải trả góp. Trả nợ không xong, thì Tầu tràn vào đòi nợ.
2) Bảo vệ sinh mạng NGƯỜI TẦU sinh sống tại Việt Nam
Trung quốc cho vay nợ để thực hiện Dự án. Mỗi Dự án là mỗi xuất cảng công nhân Trung quốc sang Việt Nam. Những công nhân này không phải chỉ lấy vợ chồng tại Việt Nam mà ở lại, mà chính họ tìm mọi cách ở lại Việt Việt Nam để lập nghiệp. Những công nhân này sẽ mang gia đình họ từ Trung quốc sang sinh sống tại Việt Nam.
Họ sẽ thiết lập những làng, những khu thương mại, những khu kỹ nghệ
riêng cho họ. Khi người Tầu lập những China Towns khắp Thế giới, thì
việc tiến lên những khu riêng của họ tại Việt Nam, với thái độ sợ sệt
của CSVN lúc này, là việc rất dễ dàng và mau chóng. Khi đã sinh sống
thành làng, thành khu thương mại, kỹ nghệ rồi, thì khi có cuộc nổi dậy
tại Việt Nam, Trung quốc dễ dàng nại ra lý do bảo vệ sinh mạng người của họ để cho quân đội vào bảo vệ.
3) Bảo tòan TÀI SẢN Trung quốc đặt ở Việt Nam
Chúng tôi đã viết bài về chương trình tư nhân hóa hay Trung quốc hóa những Công ty quốc doanh Việt Nam.
Người Trung quốc trực tiếp hay qua trung gian những người Tầu sống tại
Việt Nam mua đa số cổ phần trong những Công ty này để nắm trọn Sản xuất
cũng như Thương mại tại Việt Nam. Việc Trung quốc hóa này nhắm chính yếu
vào Thương mại. Thực vậy, khi mà những cơ sở nhập cảng nằm trong tay
Trung quốc, thì việc nhập cảng hàng từ Trung quốc để phân phối cho 85
triệu người Việt trở thành tự động. Khi có nổi dậy, Trung quốc có thể
lấy lý do bảo tòan tài sản của họ mà cho quân tràn vào.
Tóm lại, Trung quốc không tự dưng tràn quân vào Việt Nam để bị Thế giới kết án. Nhưng họ sẽ nêu ra những lý do bảo vệ quyền lợi Kinh tế của họ mà cho quân vào Việt Nam.
Nguyễn Phúc Liên
Từ
rừng rú ra, CSVN hồ hởi vào WTO, mơ tưởng hốt bạc thiên hạ hay chính là
mở rộng cửa để hàng ngoại, nhất là từ TQ, vào diệt Kinh tế mình? Bên
cạnh gian manh Kinh tế Chệt mà Việt Cộng quỳ gối bái lậy việc bao che
cho quyền lực, CSVN dâng Đất Nước như một Tỉnh để tiêu thụ hàng TQ và
tái xuất hàng ứ đọng cho quan thầy !
Việt Nam phải đối diện với hai cuộc Xâm lăng đến từ Trung quốc: (i) Xâm lăng Đất và Biển; (ii) Xâm lăng Kinh tế.
Trong
những tháng gần đây, vấn đề Biển Đông, việc tranh chấp chủ quyền Hoàng
Sa/ Trường Sa làm cho quần chúng lưu ý đặc biệt và có thể vì đó mà chúng
ta quên một phần về cuộc Xâm lăng Kinh tế cực kỳ nguy hiểm vì nó biến
Việt Nam thành một Tỉnh tiêu thụ và tái xuất cảng cho hàng hóa Trung
quốc đang ứ đọng.
Vấn
đề Biển Đông có thể chuyển mình qua những đàm phán đa phương và như vậy
Việt Nam có thể đỡ một phần gánh nặng vì có cả khối ASEAN, Nhật, Nam
Hàn, Hoa kỳ và Ấn độ hỗ trợ, thì việc Xâm lăng Kinh tế từ Trung quốc,
Việt Nam phải chịu trận một mình. Quá lệ thuộc quyền hành vào Trung
quốc, CSVN đã theo lệnh của quan thầy để chấp nhận đàm phán song phương,
nghĩa là sang tận Bắc kinh để nhận chỉ thị, ngay cả chỉ thị về Việt Nam đàn áp tất cả những ai vì lòng yêu nước mà lên tiếng phản đối quan thầy Trung quốc.
Khi
mà CSVN còn cố níu lấy quyền hành do Trung quốc bảo trợ, thì cuộc Xâm
lăng Kinh tế, hiện nay đã lan tràn, sẽ tiến tới rất nhanh diệt hẳn Kinh
tế Việt Nam đang èo ọt tụt dốc.
Viết
bài này về Xâm lăng Kinh tế Trung quốc, chúng tôi muốn nói đến con
đường mà CSVN đang đưa Đất Nước đến tình trạng một Tỉnh tiêu thụ và tái
xuất cảng cho Trung quốc.
2006:Việt Nam vào WTO/OMC
với nguy hiểm bị xâm lăng Kinh tế
Trước khi Việt Nam
vào WTO, đài Phát Thanh RFI (Radio France Internationale) đã phỏng vấn
chúng tôi ngày 04.05.2005 nhân Liên Âu và Hoa ky đưa ra những biện pháp
ngăn chặn xâm lăng của Hàng May Dệt Trung quốc làm thiệt hại cho ngành
nghiệp này tại Liên Âu và Hoa kỳ.
Thực
vậy, Trung quốc vào WTO từ năm 2001, tuy nhiên Hoa kỳ và Liên Au vốn
giữ vấn đề Quotas đối với Trung Cộng. Nhưng sau khi vấn đề Quotas được
bỏ đi kể từ năm 2005, Trung Cộng đã xuất cảng ào ạt hàng May Dệt sang
Hoa kỳ và Liên Au. Vì quyền lợi của mình, Hoa kỳ và Liên Au đã phản ứng
để ngăn chặn Tsumani hàng May Dệt này ngay trong khuôn khổ của Tự do Mậu
dịch WTO/OMC. Đây là một trong những tỉ dụ mà người ta sẵn sàng vì
quyền lợi Quốc gia mà bỏ những điều đã ký kết. Từ tháng tư 2005, Hoa kỳ và Liên Au phải lấy những quyết định phản ứng mạnh để ngăn chặn Tsumani này từ Trung Cộng.
Ngành
May Dệt tại Hoa kỳ và Liên Âu đã có truyền thống lâu đời và đã trưởng
thành, nhưng trước Tsumani xâm lăng của Trung quốc, Hoa kỳ và Liên Âu
phải đưa ra những Biện pháp giá biểu quan thuế cũng như không giá biểu
để chống lại (Mesures Tarifaire et non-Tarifaire). Đây là cái quyền tự
vệ khi mà mình cảm thấy bị thiệt hại. Tự do Mậu dịch là một lý tưởng nếu
hai phía cùng có sức mạnh tương đương. Việc Bảo vệ Mậu dịch được phép,
nhất là cho những ngành nghiệp mới phát sinh và trên đà phát triển
(Protectionnisme des Industries naissantes).
Việt Nam
mới chập chững mở cửa để bắt đầu hội nhập với Mậu dịch Thế giới. Thất
bại về Kinh tế tập quyền chỉ huy (Economie centralisée et dirigiste),
Việt Nam gặp đói nghèo, đành phải mở cửa và chấp nhận Kinh tế gọi là “Tự
do Thị trường định hướng XHCH”, một thứ Kinh tế Tự do Thị trường tréo
cẳng ngỗng, nghĩa là nhà nước độc tài vẫn nắm “chụ đạo“ Kinh tế. Hệ
thống sản xuất và Thương mại vẫn nằm trong tay những Tập đoàn quốc doanh
do người của đảng nắm giữ. Sản xuất còn yếu kém, nhưng đảng CSVN vẫn mơ
mộng rằng vào WTO là đi hốt bạc ngay tức khắc.
Chính việc để tự do mậu dịch này trong tình trạng mình còn yếu sức sản xuất và cạnh tranh đã làm Việt Nam thành mồi ngon cho những hàng hóa nước ngoài tràn vào xâm chiếm. Vì còn là đầy tớ của Trung cộng nữa, nên hàng hóa, thương nhân và công nhân Trung quốc vào Việt Nam như chỗ không người để cạnh tranh.
2009: Từ huênh hoang Công nghệ hóa
đến chấp nhận Phân phối hàng Trung quốc
Chúng tôi đã viết bài về thảm cảnh này ngày 02.07.2009, nghĩa là 3 năm sau khi Việt Nam vào WTO.
Nhà Nước CSVN vẫn huênh hoang chương trình vĩ mô Công Nghệ hóa Kinh tế Việt Nam. Dưới chiêu bài này, những Dự án, những Khu chế xuất có quyền ưu tiên tịch thu đất trồng cấy khiến Nông nghiệp thiệt hại. Nhà Nước hy sinh Nông nghiệp, một căn bản sẵn có và truyền thống của đại đa số Dân Việt sinh sống.
Vì
quá lệ thuộc vào Trung quốc để bảo đảm quyền lực Chính trị, đảng CSVN
đang biến cái gọi là Công nghệ hóa thành thảm cảnh tổ chức phân phối cho
hàng hóa Trung quốc.
Thực
vậy, CSVN để tự do nhập nội hàng hóa Trung quốc. Tại Thị trường hàng
hóa, hai yêu tố cạnh tranh chủ yếu là GIÁ CẢ và PHẨM CHẤT (Prix et
Qualité) của món hàng.
Giá cả hàng Trung quốc rẻ hơn
Giá
bán tùy thuộc vào giá thành sản xuất. Hệ thống sản xuất công/ kỹ nghệ
ngày nay là hệ thống những linh kiện cấu thành món hàng cuối cùng. Đó là
hệ thống liên đới sản xuất những bộ phận cấu thành (système de
sous-traitance des pìeces détachées). Món hàng cuối củng sẵn sàng cho
tiêu thụ chỉ là việc ráp nối (assemblage) những bộ phận. Không một Công
ty nào sản xuất tòan bộ những bộ phận cấu thành món hàng cuối cùng. Đây
không phải là việc bất lực về khả năng, mà là vì giá thành của món hàng
cuối cùng sẽ tăng lên gấp bội.
Khi
món hàng cuối củng được chia ra thành những bộ phân riêng rẽ, thì những
bộ phận này sẽ do những xí nghiệp chuyên môn sản xuất trong hệ thống
liên đới. Vì chỉ sản xuất những bộ phận chuyên môn, nên những Xí nghiệp
này có thể tăng lượng sản xuất để triệt tiêu phí tổn trang bị máy móc
sản xuất (Installation des équipements).
Yếu tố khách quan làm cho những món hàng Trung quốc rẻ hơn hàng Việt Nam,
đó là Trung quốc có thể tăng rất lớn lượng sản xuất những linh kiện.
Trung quốc sản xuất từ A tới Z của một mặt hàng là như vậy.
Cùng sản xuất một mặt hàng như Trung quốc, nhưng Việt Nam phải mua lại từ Trung quốc những bộ phận cấu thành mặt hàng cuối cùng. Vì vậy mà mặt hàng Việt Nam bán ở Thị trường không thể nào rẻ hơn mặt hàng của Trung quốc.
Cũng chính vì điểm này, mà những Công ty Tây phương đặt mua linh kiện tại Trung quốc.
Phẩm chất của món hàng
Hệ
thống sản xuất liên đới những linh kiện (système de sous-traitance des
pìeces détachées) không phải chỉ làm giảm giá thành sản xuất, mà còn cho
phép những Công ty chuyên nghiệp có thời giờ và cô đọng khả năng vào
việc kiện tòan phẩm chất của từng bộ phận, từng linh kiện. Thực vậy,
những Công ty chuyên nghiệp này dành trọn thời giờ cho Nhóm Nghiên cứu
(Equipe de recherche) chuyên tâm vào một linh kiện, một bộ phận. Đây là
việc làm tăng phẩm chất chuyên môn cho sản phẩm. Vấn đề cạnh tranh trên
Thị trường không phải chỉ nguyên giá cả mà trở thành cạnh tranh về phẩm
chất chuyên môn, kiện tòan của từng linh kiện cấu thành. Nhất nghệ tinh,
nhất thân vinh được áp dụng triệt để ở hệ thống sản xuất linh kiện công
nghệ và kỹ nghệ hiện nay.
Trung
quốc có điều kiện phát triển hệ thống liên đới sản xuất từ A tới Z và
tất nhiên họ có điều kiện kiện tòan phẩm chất mặt hàng cuối cùng hơn
Việt Nam
Chúng tôi rất đau lòng đọc tin sau đây từ Quốc nội: “(TuanVietNam)-
Êm như mưa dầm, ồ ạt như lũ, hàng TQ đổ bộ vào VN, “quét” sạch hàng
nội, moi túi người tiêu dùng. Con số nhập siêu hơn 11 tỷ USD năm qua đủ
cho thấy các DN ta đang “thua trắng bụng”. Để không bị làn sóng này dìm
chết, không một ai – từ Chính phủ tới DN và người tiêu dùng – có thể
đứng ngoài cuộc.“
Cán cân Thương Mại giữa Trung quốc và Việt Nam cho thấy cuộc xâm lăng Kinh tế tại Việt Nam mỗi ngày một tăng mạnh: “10
năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam đã tăng 23,25
lần, đạt tới con số 15.652 tỷ USD vào năm ngoái. Cùng trong thời gian
đó, kim ngạch xuất khẩu của ta theo chiều ngược lại tăng vỏn vẹn 6,08
lần, chỉ đạt 4.536 tỷ USD năm 2008.“
Ong ĐÀO XUÂN ANH, chủ một Công ty sản xuất, đã kết luận:”Chi
phí nhập khẩu (tính cả mua hàng lẫn vận chuyển) rẻ hơn là tự sản xuất,
quy trình làm việc đơn giản và ít phải suy nghĩ hơn.“
Từ là Doanh nhân sản xuất công nghệ, Ong trở thành một Thương gia phân phối hàng Trung quốc !
2009:Truyền Thông & Doanh nhân VN
tuyên chiến với hàng TQ
(TuanVietNam)- "Dù
tất cả đã có nhưng lực lượng hải quan, lực lượng kiểm tra thị trường,
nói chính xác hơn là con người mà bị thủng thì phòng tuyến ngăn chặn
hàng giá rẻ, chất lượng thấp vào thị trường Việt Nam cũng sẽ bị
thủng..."- TS. Nguyễn Minh Phong nói.
Chất lượng công quyền
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Không
rõ có chính xác hay không, nhưng tôi cảm giác Nhà nước mình như một ông
chủ đội bóng, bỏ tiền ra mua đội bóng đó, đầu tư cho đội bóng nhưng lại
giữ chân huấn luyện viên. Theo tôi hiểu, huấn luyện viên là một chuyên
môn khác, đẳng cấp khác, còn việc của người quản lý đương nhiên là một
công việc khác hoàn toàn.
TS. Nguyễn Minh Phong: Xin
được quay trở lại câu chuyện còn đang dở, chúng ta vừa nói đến hàng may
mặc Trung Quốc, nhưng giờ chúng ta phải nói đến tất cả các hàng hóa có
xuất xứ từ Trung Quốc, bởi có những thứ kém chất lượng, độc hại mà cơ
quan kiểm định đã công bố, và thế giới cũng đều biết, đang có mặt nhan
nhản ở thị trường Việt Nam.
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Rõ
ràng, chúng ta có những phòng tuyến chặn cửa như hải quan, các cơ quan
kiểm thị trường, kiểm dịch, công an, quân đội và cả thuế vụ nữa… nhưng
tại sao hàng ngoại chất lượng thấp lưu hành trên thị trường tiêu dùng
vẫn không hề giảm đi, thậm chí có phần ồ ạt tiến vào vào thị trường Việt
Nam. Liệu có hay không phòng tuyến nào bị hổng, hay tất cả đều bị hổng,
thưa TS. Nguyễn Minh Phong?
TS. Nguyễn Minh Phong: Tôi
cho rằng có 3 điểm cần lưu ý. Thứ nhất, chúng ta phải học tập Nhật và
Trung Quốc, nghĩa là hàng tốt của Việt Nam phải bán cho người Việt Nam,
chứ không phải hàng tốt thì mang hết ra nước ngoài, còn hàng bán ở Việt
Nam toàn hàng xấu, tự nhiên người tiêu dùng trong nước bị ấn tượng hàng
Việt Nam là hàng xấu.
Thứ
hai, những chế tài và những quy định pháp lý, đặc biệt là những chế tài
quy định liên quan đến hàng rào kỹ thuật cần phải được tăng cường hơn.
Lâu nay, chúng ta sử dụng nặng công cụ thuế, còn công cụ hàng rào kỹ
thuật lại xem rất nhẹ, thậm chí còn không biết làm như thế nào vì tiêu
chuẩn chưa định hình, cái đã định hình thường thấp hơn rất nhiều so với
thế giới. Do vậy, những hàng rào kỹ thuật, những tiêu chuẩn hoá về kỹ
thuật cần sớm được quốc tế hoá, được xác lập và triển khai trên thực tế
một cách hiệu quả.
Thứ
ba, rất quan trọng. Dù tất cả những tiêu chuẩn đó đã có nhưng nếu lực
lượng hải quan, lực lượng kiểm tra, hay nói gọn hơn là con người mà bị
thủng thì phòng tuyến đương nhiên sẽ bị thủng... Cái thủng của con người
là cái thủng lớn nhất. Chúng ta đã có rất nhiều bài học như vụ án hàng
lậu Tân Thanh. Một khi quan chức liên tỉnh bắt tay dằng dây sẽ vô hiệu
hóa tất cả những hàng rào kĩ thuật khác.
Bà Phạm Chi Lan: Về lỗ thủng chất lượng đội ngũ tôi đồng ý với anh Phong. Nhưng chúng ta nhìn nó rộng ra hơn một chút là cơ chế có thể tạo nên những con người như vậy, muốn có đội ngũ công chức thật tốt như chúng ta mong muốn thì phải có hệ thống cơ chế
trong đó bao gồm cả thể chế cả chính sách, cả tiêu chuẩn cán bộ như thế
nào, cách để chọn vào ra như thế nào, tất cả đều phải nghiêm chứ đừng
chỉ đứng hô hào chung chung.
Bản
thân Nhà nước phải rất nghiêm với chính mình về hàng rào kĩ thuật này,
đã đặt ra phải xử lí, chỗ nào chưa có phải làm. Không phải bây giờ khi
cả xã hội kêu lên là hàng chất lượng thấp thì bộ nọ, bộ kia lại chưa có
căn cứ, chưa có tiêu chuẩn để kết luận đó là xấu, ngăn chặn không cho họ
vào hoặc phản ứng lại với họ. Đó là cách trả lời vô cùng thiếu trách
nhiệm. Lỗ thủng về trách nhiệm ở đây cũng là rất lớn, chứ không phải chỉ
là vấn đề về tư cách con người hay về tham nhũng không thôi.
Chiến lược thực tế
Bà Phạm Chi Lan: Đó
là điều rất đáng tiếc về phía chúng ta. Việc làm sao chống được sự xâm
lấn của hàng bên ngoài thì yếu tố quan trọng hàng đầu vẫn là sức mạnh
của chính mình.
Bệnh thành tích
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Những
điều mà bà Phạm Chi Lan nói về chiến lược xuất khẩu ô tô, hoặc chúng ta
sản xuất máy bay đã được thực tế chứng minh về tính khả thi. Dự án ô tô
Mê kông là một sự thất bại to lớn. Lịch sử đã chứng minh người Việt rất
cần cù, rất chịu khó, sáng tạo, khéo tay, quả cảm…, nhưng đôi khi chúng
ta cũng rất ảo tưởng.. Với chúng ta, tôi nghĩ rằng chúng ta đang hão
huyền sinh ra bệnh thành tích. Ngày xưa ông cha ta căn cơ, chính xác,
gọn ghẽ đâu ra đấy. Nhưng chủ nghĩa thành tích đã sinh ra sự hão huyền,
chạy theo thành tích sẽ thế này thế kia… chúng ta phải rời bỏ điều đó,
phải trở lại hiện thực và làm một bát phở thật ngon, hãy may một cái áo
thật đẹp…
Đã
đến lúc chúng ta phải bỏ qua tất cả những hình thức phù phiếm, tất cả
những khẩu hiệu sáo rỗng, bánh vẽ giá trị ảo để trở về cuộc sống thực
tế, giá trị thực để đáp ứng nhu cầu.
Giải pháp khả thi
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Thưa
bà Phạm Chi Lan cơn lũ hàng nhập ngoại xấu, kém chất lượng, độc hại
đang tràn vào Việt Nam đã lên đỉnh điểm chưa, hay sẽ tiếp tục, hoặc giảm
xuống?
Bà Phạm Chi Lan: Nó
như thế nào phụ thuộc vào thái độ của chính chúng ta. Nếu chúng ta bỏ
lơ, coi thường chuyện đó, các cơ quan Nhà nước vẫn cảm thấy dửng dưng
không ý thức ngăn chặn, bảo vệ cho đồng bào mình thì làm sao cơn lũ này
chấm dứt được.
Hoặc
truyền thông của chúng ta không dấy lên được tiếng nói mạnh mẽ để cổ
động cho hàng Việt Nam, biểu dương cho những doanh nghiệp hàng tốt như
May 10, và rất nhiều những doanh nghiệp khác, trân trọng người tiêu dùng
trong nước thì làm sao ngăn nổi cơn lũ này.
Nếu
không cùng nhau làm việc đó như một tính chất cả hệ thống thì cơn lũ đó
chưa tới đỉnh điểm đâu, sẽ tiếp tục đổ vào, tiếp tục tràn vào dữ dội
hơn. Người ta đã có hẳn một kế hoạch lớn, chiến lược lớn để làm điều đó,
họ sẽ không dừng lại trừ khi chúng ta biết tự vạch hướng đi cho mình,
tự bảo vệ cho mình, đẩy làn sóng đó ngược trở lại trả về phía bên họ.
Quả
thực tôi lo lắng cơn lũ này chưa đến đỉnh điểm, mà còn có thể tệ hại
hơn nữa bởi vì chúng ta vẫn chưa làm được gì nhiều để ngăn chặn.
Tôi
nói vui với các doanh nghiệp là bây giờ biên mậu đã diễn ra ở tận thành
phố Hồ Chí Minh chứ không phải biên mậu ở Lào Cai, Lạng Sơn nữa.
Thực
tế, người ta đã vào tận thành phố Hồ Chí Minh để làm rồi, gần như tất
cả các giao dịch diễn ra ngay tại đó. Chỉ cần nhấc một cú điện thoại lên
thôi là hàng hóa đâu vào đó. Không khó để bắt gặp từng đoàn xe mang
biển số của một quốc gia láng giềng có thể vào đất Việt Nam đàng hoàng,
thậm chí người nước họ cũng ra vào làm việc ở đây tự do. Nếu chúng ta
vẫn dễ dãi như vậy thì cơn lũ hàng giá rẻ, chất lượng thấp còn tiếp tục
dấn tới.
Tôi
vừa từ Lục Ngạn (Bắc Giang) về. Tôi đã chứng kiến một đoàn 65 thương
gia Trung Quốc đang ở đó, tại những cứ điểm để thu mua vải quả, và họ là
người quyết định giá cả.
Chúng
ta đã để đến mức như vậy thì việc không tự bảo vệ được mình là do chính
mình, mình vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân của việc đó. Mình không
biết tự mình bảo vệ mình thì nói được gì nữa. Nếu ta không có hành động
từ cao nhất, làm quyết liệt thì các doanh nghiệp phần nào phải bó tay.
Những
gì được đặt ra tại bàn tròn hôm nay đã phần nào động chạm tới những
điều cơ bản và chi tiết, chúng ta cũng đã nói ra tất cả những điều mang
tính hệ thống, chiến lược. Nếu biết lắng nghe, biết sửa mình thì mọi
chuyện sẽ tốt đẹp hơn, còn nếu vẫn chỉ là trách nhiệm, là lợi ích cá
nhân thì e rằng 50 năm nữa chúng ta lại ngồi lại đây, nói lại những điều
phiền muộn này. « (Tuần Việt Nam)
Được
báo động về việc Tuyên chiến này, Đại sứ quán Trung quốc tại Hà Nội,
vẫn trịch thượng là quan Thầy, nên đã cho Tùy viên Thương mại ra chỉ thị
cho Truyền Thông và Doanh nhân VN không được nói giọng tuyên chiến với
hàng hóa Trung quốc. Chỉ thị này giống như chỉ thị từ Bắc kinh ra lệnh
cho CSVN phải đàn áp những người yêu nước Biểu tình chống xâm lăng Hải
đảo và Biển ngày nay.
2011: Xâm lăng Kinh tế TQ
thành nguy ngập cho Việt Nam
Tình trạng Kinh tế tụt dốc của Việt Nam
có nghĩa là sức kháng cự trở thành hoàn toàn yếu kém trước xâm lăng của
Trung quốc. Những lý do sau đây khiến cuộc Xâm Kinh tế lúc này của
Trung quốc càng gia tăng trước sức chống đối hoàn toàn yếu kém của Kinh
tế Việt Nam:
Hoa
kỳ và Liên Âu, hai Thị trường lớn cho hàng xuất cảng từ Trung quốc,
hiện nay đang gặp Khủng hoảng về nợ công. Dân chúng thất nghiệp tăng
mạnh. Nợ công và Thất nghiệp tăng có nghĩa là hai Thị trường giảm Mãi
lực tiêu thụ. Nhưng việc sản xuất của Trung quốc vẫn phải giữ để bảo đảm
Độ tăng trưởng. Mãi lực nội địa Trung quốc không những không tăng mà
còn phải chịu cảnh Lạm phát lên cao. Thêm vào đó các Thành phố Trung
quốc, vì tham vọng Đô Thị hóa, nên hiện nay mang nợ chất chồng. Mãi lực
dân nội địa yếu kém, các Thành phố lại mang nợ nần, nên việc tiêu thụ
nội địa chắc chắn phải giảm xuống. Khi bí lối tiêu thụ hàng hóa nội địa
mà việc sản xuất vẫn phải giữ để tránh đóng cửa xí nghiệp, thì hàng hóa
thặng dư sẽ xì xuống Việt Nam.
Tác giả ANH VŨ, ngày 15.07.2011, đã viết về nợ nần của các Thành phố tại Trung quốc như sau:
“Cả
thế giới trong lúc này đâu cũng thấy người ta nói về chuyện nợ nần của
các quốc gia. Châu Âu, châu Mỹ đang hoảng loạn về công nợ lan truyền và
cả châu Á với những cường quốc mới nổi lên cũng không tránh được căn
bệnh của sự phát triển, đó là chi tiêu quá khả năng mình có.
Phụ
trang Le Figaro đăng các bài dịch từ tờ báo Mỹ New York Times hôm nay
15/7 có bài viết về chủ đề này với tiêu đề « Trung Quốc cũng mắc nợ ».
Người
ta vẫn nghĩ Trung Quốc là nước có nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ lên
tới 3.000 tỷ đô la thì không lo gì chuyện vay mượn hay vỡ nợ. Nhưng thực
tế bùng nổ kinh tế đang diễn ra ở Trung Quốc cho thấy nhiều dấu hiệu
nước này cũng khó tránh khỏi vòng nợ nần. “
Bài
báo đưa độc giả đến với Vũ Hán, thành phố lớn thứ chín của Trung Quốc.
Cả thành phố này là một công trường xây dựng đang chìm trong bụi mù.
Theo tác giả bài báo thì tại Vũ Hán, hiện có tới 5.700 công trình xây
dựng đang được triển khai. Trong đó phải kể đến các dự án đô thị hoá
khổng lồ như đường tàu điện ngầm dài hàng trăm kilômét, hai nhà ga sân
bay, trung tâm thương mại, văn hoá và vô số những tòa tháp cao ngất với
tổng kinh phí lên tới 120 tỷ đô la. Nhưng theo tác giả bài báo thì
trường hợp Vũ Hán không phải là cá biệt. Từ nhiều năm nay hàng chục
thành phố khác ở Trung Quốc cũng đang lao vào cuộc chạy đua các dự án
xây dựng đầy tham vọng. Kết quả là ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy
các chính quyền địa phương đang đang phải mắc nợ lớn để chi phí cho tham
vọng của mình.”
Tình
trạng thiếu vốn vì muốn thắt chặt Tín dụng lưu hành để chống Lạm phát
phi mã đang diệt doanh nghiệp VN và thả lỏng cho xí nghiệp Trung quốc
thắng thế. Phóng viên VŨ HOÀNG, RFA, ngày 15.07.2011, đã cho thấy cuộc
xâm lăng Kinh tế Trung quốc đang diễn ra như sau:
Doanh nghiệp VN bất lợi trên sân nhà
Lãi suất tiền vay trong nước quá cao đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam khi cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Trung Quốc ngay tại VN.
Thiếu vốn do lãi cao
Báo
chí trong nước mấy hôm nay liên tục đưa tin chuyện các doanh nghiệp
Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam thu mua các mặt hàng nông sản, thuỷ sản, cà
phê, hồ tiêu, trái cây, thịt heo… khiến giá các mặt hàng này tăng vọt,
trong khi các ngành hàng trong nước lại thiếu hụt nguyên liệu trầm
trọng. Và nguyên nhân của hiện tượng này được cho là do hậu quả của việc
lãi suất cho vay trong nước quá cao, gây bất lợi cho chính các doanh
nghiệp cần vay vốn.
Chuyện
lãi suất quá cao mà hiện tại các doanh nghiệp đang phải hứng chịu bắt
nguồn từ hậu quả của chính sách tài khoá thắt chặt, nhằm kiểm soát lượng
vốn tín dụng bơm vào nền kinh tế.
Trong một lần trao đổi với đài Á Châu Tự Do cách đây không lâu, T.S Lê Đăng Doanh đã từng nhận định:
"Hiện
nay doanh nghiệp rất thiếu vốn và vì thắt chặt tiền tệ thiếu vốn cho
nên các ngân hàng đã đẩy lãi suất tiền gởi tiết kiệm lên vượt trần của
Ngân hàng Nhà nước là 14% mà hiện nay đã lên tới 18%-19%. Vì vậy đã đẩy
lãi suất cho vay lên đến 28%-29% là một mức lãi suất quá sức chịu đựng
của doanh nghiệp."
Thực
ra vấn đề chi phí cho hoạt động kinh doanh bị đẩy cao, do lãi suất tăng
mạnh cũng đã được đề cập nhiều, nhưng điểm đặc biệt ở thời điểm này là
có thêm sự tranh mua nguyên nhiên liệu từ phía Trung Quốc do họ có lợi
thế hơn so với các doanh nghiệp Việt Nam về mặt vốn liếng và khả năng
tài chính, vì vậy khiến cho những doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong
lĩnh vực thu mua nguyên liệu gặp khó khăn hơn.
Theo
lời bà Trần Thị Miêng, Cục phó Cục chế biến Nông lâm thủy sản và nghề
muối (thuộc Bộ Nông nghiệp và PT Nông thôn) được báo VNmedia trích lại
cho biết việc Trung Quốc ồ ạt thu gom nông sản của Việt Nam đang là một
vấn đề nổi cộm và gây nhiều nhức nhối cho các doanh nghiệp, trong đó có
ngành chế biến nông lâm thủy sản.
Mặc
dù mới điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, nhưng hiện tại lãi suất cho vay
thời hạn một năm tại Trung Quốc cũng chỉ dừng lại ở mức 6,65%. Trong
khi đó, ở Việt Nam, lãi suất cho vay từ các ngân hàng thuơng mại đã lên đến trên 20%. Rõ ràng với chi phí cao như vậy, các doanh nghiệp kinh doanh thu mua nông sản, thủy sản của Việt Nam sẽ gặp bất lợi hơn rất nhiều so với các đối thủ khác từ phía Trung Quốc.
Về vấn đề này, ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam nhận xét:
"Với
lãi suất 20-21%/năm thì kinh doanh mà nói, khó lòng có một hiệu quả nào
mà giá trị hàng hoá cao như vậy. Trung Quốc khi họ có tiền ứng ra trước
thì đương nhiên họ hiệu quả hơn rồi, mình thì phải cộng lãi suất, còn
họ thì mang tiền đâu lấy hàng đó, đương nhiên là họ lợi thế hơn rồi.
Khách hàng Trung Quốc có lợi thế hơn. Về mặt suy luận thì khách hàng
Trung Quốc có lợi thế hơn. Xu hướng chung là các doanh nghiệp Việt Nam
thụt lùi và nhường chân cho họ rồi, họ có thể mua thẳng của người dân,
của những nhà cung ứng nhỏ, thì hiện nay họ đang có lợi thế ấy."
Theo
lời ông Trần Văn Lĩnh, tổng giám đốc công ty Cổ phần thuỷ sản Thuận
Phước ở Đà Nẵng, được báo Sài gòn Tiếp thị trích đăng cho rằng thương
nhân Trung Quốc tới tận ao mua tôm, tới tận cảng cá chờ tàu cập bến và
hình như lúc nào họ cũng mua cao hơn một vài giá so với doanh nghiệp
Việt Nam. Vì thế các doanh nghiệp thuỷ sản miền Trung bị thiếu nguyên
liệu trầm trọng do cạnh tranh không lại với thương nhân Trung Quốc.
Không
chỉ dừng lại cạnh tranh thu mua nguyên liệu nhờ lợi thế về giá cả, các
doanh nghiệp Trung Quốc còn tận thu cả nguyên liệu kém chất lượng như
tôm tạp chất, về lâu về dài sẽ khiến các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản
bị liên luỵ do nhiều sản phẩm thuỷ sản kém chất lượng như vậy lại có
nguồn gốc từ Việt Nam xuất ra khỏi biên giới.
Có
lẽ việc doanh nghiệp Trung Quốc tranh mua nguyên nhiên liệu của Việt
Nam chỉ là điểm khởi đầu, điều quan trọng là nằm ở chỗ trong tương lai,
người nông dân Việt Nam sẽ hoàn toàn bị lệ thuộc vào các thương nhân
Trung Quốc, khi họ đã chiếm lĩnh thị trường đầu ra cho các sản phẩm
nguyên nhiên liệu.
Một lần nữa, ông Đỗ Hoài Nam lên tiếng cảnh báo, đến lúc đó Việt Nam sẽ mất tính chủ động trong việc điều phối nguồn hàng trong tương lai:
"Trước
mắt, Trung Quốc họ có vốn thì họ hỗ trợ cho người nông dân bán được
hàng tốt hơn. Nhưng bất lợi là về lâu về dài, chúng ta sẽ quản lý như
thế nào, nếu không có người mua thì các doanh nghiệp Việt Nam hỗ trợ về
giá, nước ngoài họ ép giá, thì mình làm gì có gì để đối trọng, bằng cách
nào để hạn chế bán hay bắt buộc bán cho họ. Nguyên tắc của người nước
ngoài lợi nhuận là trên hết chứ không phải vì lợi ích của cộng đồng."
Nhưng
bất lợi là về lâu về dài, nước ngoài họ ép giá, thì mình làm gì có gì
để đối trọng. Nguyên tắc của người nước ngoài lợi nhuận là trên hết chứ
không phải vì lợi ích của cộng đồng.
Vì
tình trạng tụt dốc Kinh tế, cạn kiệt ngoại tệ (Đo-la), các Xí nghiệp VN
như bó buộc phải nhập hàng Trung quốc. Phóng viên NAM NGUYÊN, RFA, ngày
22.06.2011, đã nói lên khía cạnh Nhập siêu và lệ thuộc Trung quốc như
sau:
“Tình trạng nhập siêu gây mất ổn định cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt nhập siêu từ Trung Quốc. Nam Nguyên ghi nhận ý kiến chuyên gia về vấn đề này.
Sập bẫy nhập siêu từ Trung Quốc
TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập từ Hà Nội phân tích:
-
Vấn đề ở đây là cần phân biệt phần nhập siêu thuần túy thương mại và
nhập siêu có liên quan đến đầu tư. Hiện nay do nhiều lý do, Trung Quốc
đang tham dự vào việc đấu thầu và xây dựng theo thể thức EPC
(Engineering procurement and construction) là rất nhiều và Trung Quốc đã
nhập cả trang thiết bị, nguyên vật liệu thậm chí mang cả công nhân có
tính chất phổ thông sang để xây dựng. Phần này chiếm chủ yếu của các vật
tư, trang thiết bị mà Việt Nam nhập từ Trung Quốc và đây là vấn đề rất
đáng tranh cãi: tại sao lại phải nhập nhiều như thế từ Trung Quốc, giao
cho nhà thầu Trung Quốc những công trình có tính cách trọng yếu
Thêm
vào đó có một số công trình không có vốn nên đã vay từ Quĩ hỗ trợ xuất
khẩu của Trung Quốc. Vay từ Quĩ này, tự nhiên sẽ phải chấp nhận mua
trang thiết bị của Trung Quốc và để cho nhà thầu Trung Quốc xây dựng và
đấy là điều cần phải rút kinh nghiệm cho tương lai.”
Chuyên
gia Huỳnh Bửu Sơn, nguyên thành viên ban tư vấn cải cách kinh tế của
thủ tướng Võ Văn Kiệt vào thời kỳ đầu đổi mới thì nhìn nhận vấn đề theo
góc cạnh khác. Từ TP.HCM ông Sơn phát biểu:
-“Trong
quan hệ mua bán với Trung Quốc một trong những yếu tố khiến Việt nam
mua hàng Trung Quốc nhiều là vì hàng Trung Quốc giá rẻ hơn so với các
thị trường khác.
Nếu
không nhập từ Trung Quốc thì sẽ nhập từ các nước khác thôi, cho nên
giải quyết vấn đề nhập siêu của Việt nam là một vấn đề mang tính cấu
trúc của nền kinh tế, nghĩa là phải có cách nào như nhiều chuyên gia nói
rằng cần phải phát triển công nghiệp phụ trợ chẳng hạn thì nó mới làm
giảm bớt vấn đề phụ thuộc vào mua máy móc thiết bị phụ tùng hoặc nguyên
liệu phụ trợ.
Giảm nhập từ Trung Quốc vấn đề sinh tử
Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, TS Lê Đăng Doanh quan ngại khả năng bất ổn nhiều mặt cho nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ tình trạng nhập siêu quá lớn từ Trung Quốc. Ông nói:
-“Thực tế là nhập siêu của Trung Quốc chiếm trên 100% nhập
Lễ
ký kết Hợp đồng sau khi Công ty China Huadian Engineering (CHEC) Trung
Quốc trúng thầu EPC Dự án Nhà máy nhiệt điện Kiên Lương, tỉnh Kiên
Giang, hôm 30-06-2010.
Nhập
siêu của cả nước và chính phủ phải dùng số tiền xuất siêu ở các nơi
khác để bù vào số nhập siêu của Trung Quốc. Vì vậy giải quyết nhập siêu
từ thị trường Trung Quốc là một vấn đề sinh tử của nền kinh tế Việt Nam,
nếu không làm được việc đó thì không chỉ phụ thuộc vào thương mại mà
trong tương lai gần đây Trung Quốc sẽ yêu cầu thanh toán bằng đồng nhân
dân tệ và Việt nam không thể dùng đồng đô la Mỹ kiếm được ở thị trường
khác để trang trải và sẽ phải vay nợ đồng nhân dân tệ và lúc đó sẽ bị
phụ thuộc vào tài chính và nguy cơ sẽ còn tăng lên rất nhiều.”
Được
biết dệt may và da giày dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu 18 tỷ USD
trong năm nay nhưng là hai ngành phụ thuộc nguyên phụ liệu và thiết bị
máy móc nhập khẩu từ Trung Quốc. Ông Diệp Thành Kiệt Phó chủ tịch Hiệp
hội da giày Việt Nam đồng thời là Phó chủ tịch Hội dệt may thêu đan TP.HCM nhận định về khả năng Việt Nam và Trung Quốc sử dụng nhân dân tệ trong thanh toán.
-“Nếu
phải nhập bằng đồng nhân dân tệ rồi sau đó xuất khẩu bằng đồng đô la
thì chúng tôi sẽ bị thiệt hại ở chỗ phải mua giá cao hơn và bán ra giá
thấp hơn do tỷ giá hai đồng tiền.
Chúng tôi cho rằng lệ thuộc vào đồng tiền nước ngoài ngay cả đồng tiền chính là đô la thì cũng vẫn có mặt
Thí dụ đồng tiền Việt Nam mất giá so với đô la thì có lợi cho xuất khẩu nhưng khi nhập khẩu thì lại có vấn đề. Nếu
hai chính phủ thỏa thuận với nhau sử dụng nhân dân tệ trong thanh toán
giữa Việt Nam và Trung Quốc thì tôi nghĩ chính phủ Việt Nam sẽ có những
giải pháp để cân bằng cán cân thanh toán cân bằng giữa xuất và nhập khẩu
không để cho doanh nghiệp Việt Nam chịu thiệt hại lớn hơn là được lợi.”
Nếu
phải nhập bằng đồng nhân dân tệ rồi sau đó xuất khẩu bằng đồng đô la
thì chúng tôi sẽ bị thiệt hại ở chỗ phải mua giá cao hơn và bán ra giá
thấp hơn do tỷ giá hai đồng tiền.
Khi
mà hoàn toàn nhập siêu từ Trung quốc và phải thanh toán bằng đồng Nhân
Dân tệ, thì Việt Nam trở thành như một Tỉnh tiêu tiền Trung quốc.
Không những chỉ có việc xâm lăng Hàng hóa, rồi Tiền tệ, mà việc xâm lăng còn ở việc di Dân Trung quốc vào Việt Nam để thành lập những Khu Công nghệ và Thương mại Trung quốc chính trong nội địa Việt Nam. Thực vậy, theo Báo VN: “Thợ TQ Tràn Ngập VN, Trả Lương Gấp 3 Thợ Việt… “
Nhiều Phố Tàu dựng lên trên đất VN, bảng hiệu toàn tiếng Hoa ngữ
HAI PHONG (VB) -- Hiện đang có hàng chục Phố Tàu mọc lên tại Việt Nam, theo một bản tin từ báo Thanh Niên hôm 20-6-2011 cho biết.
Bản tin báo nàY đã nêu lên một cuộc chiến biển người kiểu mới tại VN: “Lao động nước ngoài tràn ngập Việt Nam: Tấp nập lao động phổ thông Trung Quốc.”
Điều
bi thảm là trong các Phố Tàu mới mọc lên tại VN, thí dụ như tại Hải
Phòng và Quảng Ninh, nhiều nơi chỉ dựng lên bảng tiếng Hoa, không sử
dụng tiếng Việt, làm người dân Việt tự cảm thấy thân phận mình y hệt như
dân Tây Tạng bị dân Hán tộc vào lấn ép, theo bản tin trên báo Thanh
Niên.
Chưa hết, báo này còn cho biết, nhiều công trường Trung Quốc trên đất VN sẵn sàng thuê thợ mộc, thợ hồ người Việt nhưng
trả lương chỉ bằng 1/3 lương thợ Trung Quốc, chỉ vì tuy cùng làm một
việc nhưng người kia biết nói tiếng Trung Hoa với các ông chủ mới trên
lãnh th Việt.
Báo Thanh Niên hôm 20-6-2011 viết:
“Luật
không cho phép các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động (LĐ)
phổ thông là người nước ngoài. Thế nhưng, tại nhiều địa phương hiện vẫn
tồn tại hàng ngàn LĐ phổ thông nước ngoài, dù từ năm 2009 Thủ tướng đã
yêu cầu các cơ quan chức năng rà soát xử lý số LĐ này...
Phố Trung Quốc bên hông công trường
Tại
Hải Phòng, Quảng Ninh, đi kèm một nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) do nhà thầu
Trung Quốc (TQ) đảm nhận là hàng trăm công nhân (CN) TQ đổ về. Cứ thế,
xung quanh NM những "phố Tàu" cũng xuất hiện, làm đảo lộn cuộc sống của
người dân địa phương.
Chạy
dọc con đường nối từ TP Hải Phòng ra bến phà Rừng, qua xã Ngũ Lão,
H.Thủy Nguyên, khách sẽ thấy bất ngờ bởi nơi đây mọc lên hàng loạt hàng
quán với biển hiệu chữ Tàu, đèn lồng treo đỏ rực. Một bà hàng nước chỉ
vào khu nhà dành cho CN TQ: “Hàng trăm CN người Hoa họ ở trong kia nên
ngoài này mới biến thành một góc phố Tàu thế chú ạ”.
Theo
số liệu từ Công an xã Ngũ Lão, hiện trên địa bàn xã có khoảng 300 người
TQ đang tạm trú, đại đa số là CN làm việc tại công trường NMNĐ Hải
Phòng II.
Đi
dọc con đường nhỏ từ Ngũ Lão hướng về xã Tam Hưng, những biển hiệu chữ
TQ màu đỏ vẫn liên tục mọc lên, từ hàng ăn, quán massage chân cho đến
dịch vụ cà phê, cắt tóc...
Cũng ghép cốt pha, buộc sắt...
Cách
những con "phố Tàu" ở Hải Phòng vài chục cây số, tại Đông Triều, Quảng
Ninh, hơn 700 CN nước ngoài đang làm xáo trộn cuộc sống của người dân
bản địa.
Chúng
tôi đến cổng NMNĐ Mạo Khê - Vinacomin (440 MW) tại xã Bình Khê, H.Đông
Triều khi trời đã chập choạng tối. Trên con đường nhỏ trước cổng NM, vài
tốp CN TQ cởi trần đi dàn hàng ngang chiếm nửa lề đường. Trong quán
bia, một nhóm khác oang oang tiếng xì xồ, vài người khạc nhổ bừa bãi.
Từ
đầu năm nay, khi công trường NM sôi động với lượng CN TQ về nhiều, cuộc
sống của dân cư quanh NM đã thay đổi đột biến. Khi trời tối, ánh đèn
điện của biển hiệu chữ Trung lập lòe chi chít, có những tấm biển đề song
ngữ như vịt quay, nhà hàng, có cả biển hiệu toàn chữ Trung khiến người
Việt nhìn vào đành... chào thua.
Hàng
trăm CN nước ngoài cũng tạo ra một số việc làm và thu nhập cho vài hộ
gia đình quanh NM qua việc cho thuê chỗ ở, bán quán..., nhưng họ lại
khiến nhiều người dân bản địa mất đi cơ hội có việc làm và nếu có việc
cũng phải chịu thiệt thòi vì không biết ngoại ngữ.
Anh Lê Văn Hưng, nhà ở Bình Khê, người làm tại công trường đã nửa năm, chỉ sang một người TQ bên cạnh: “Cậu
này cũng làm ghép cốt-pha, buộc sắt như chúng tôi, nhưng lương họ được
gấp 3 lần, khoảng 500.000-600.000 đồng/ngày. Anh ta hưởng lương cao vì
anh ta là người TQ, chủ nói gì là hiểu. Chúng tôi không có phiên dịch
nên chỉ làm việc theo bằng các động tác tay, chân ra hiệu”...”
Như
thế, có phải đây là một cuộc chiến đa diện: tàu chiến TQ lấn biển,
chiếm đảo... trong khi cả biển người TQ tràn sang VN dựng lên các Phố
Tàu?
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva 19.07.2011
Web: http://VietTUDAN.net
Thời kỳ ‘Bắc thuộc mới’
“16 chữ vàng khè”
Đầu
năm 1979 tại khu vực biên giới Việt-Trung đã nổ ra một cuộc xung đột
khốc liệt được nhà báo Mỹ Nayan Chanda gọi là «cuộc chiến tranh giữa
những người anh em thù địch». Nhưng chỉ 11 năm sau đó, vào tháng
10-1990, một bước ngoặt lớn đã được mở ra, đưa quan hệ Hà Nội-Bắc Kinh
chuyển hẳn sang thời kỳ liên minh thân thiết, tiêu biểu bởi «16 chữ
vàng» và phương châm «4 tốt».
Cái mốc chuyển từ kẻ thù truyền thống (như được ghi trong Hiến pháp Việt Nam) thành bạn thân thiết là cuộc gặp gỡ bí mật cấp cao Trung - Việt ở Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, vào 2 ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, theo sáng kiến của đại mưu sĩ Đặng Tiểu Bình. Đại diện cho phía Việt Nam tại cuộc gặp là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng, còn phía Trung Quốc là Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Có rất ít thông tin chính xác về nội dung thật sự của cuộc gặp này được tiết lộ, nhưng ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Bắc Kinh đến phó hội đối với tương lai của đất nước ta đã không che mắt được ai. Đến nỗi ngoại trưởng Việt Nam lúc bấy giờ, ông Nguyễn Cơ Thạch, người bị gạt ra ngoài rìa của cuộc họp lịch sử này, đã phải than thở: «Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!».(*)
Rất nhiều diễn biến và sự kiện đã chứng minh sự chính xác của nhận xét có tính tiên tri đó của người đứng đầu ngành ngoại giao Hà Nội. Tính đến nay, «cuộc Bắc thuộc mới» đã kéo dài được 22 năm, với biết bao thiệt thòi, tủi nhục cho đất nước và nhân dân ta trên tất cả các lĩnh vực - từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa, từ lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo đến tài nguyên và an ninh, chủ quyền. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam ta, mà những thành tựu kinh tế, đổi mới, xây dựng, phát triển khá cao vẫn không sao khỏa lấp được.
Đến nay, khi nhóm lãnh đạo ở Bắc Kinh đã khống chế được gần như hoàn toàn những người cầm quyền ở Hà Nội, họ liền trở mặt, gây sự ở vùng Biển Đông của ta, với thái độ trịch thượng kẻ cả dùng sức mạnh áp đảo cùng với những thủ đoạn vừa ăn cướp vừa la làng.
Hiện nay Bộ Chính trị Đảng CS Việt Nam đang bị kẹt cứng giữa 2 gọng kìm, một bên là sự chất vấn đầy phẫn nộ chính đáng và sự phản kháng của nhân dân, một bên là những hành động xâm lược cực kỳ ngang ngược của thế lực bành trướng hung hãn.
Nhóm lãnh đạo Bắc Kinh là những người chưa hề chùn tay trước một thủ đoạn thâm độc nào. Ai có thể độc ác hơn những kẻ dám đem đương kim Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ ra đấu tố hạ nhục trên đường phố? Ai có thể tàn bạo hơn những kẻ mang đương kim Nguyên soái Bành Đức Hoài ra hỏi tội, bắt đội mũ lừa, bắt liếm bát mỳ sợi trong chảo, hành hạ cho đến khi chết không có một người thân vuốt mắt? Ai có thể bất nhân, phản dân tộc hơn những kẻ vui mừng khi đặt 200 tên lửa, rồi nay là 600 tên lửa đạn đạo chĩa thẳng vào đồng bào ruột thịt của mình ở Đài Loan, dọa dẫm không chút hổ thẹn là sẵn sàng dìm trong biển máu cả 23 triệu dân mà họ từng leo lẻo là anh chị em chí thiết, còn là một nguồn đầu tư lớn cho lục địa.
Và mới đây ai ngang nhiên vu cáo ngược là «Việt Nam chiếm nhiều đảo nhất, tỏ ra hung hăng nhất, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu nhất trong vùng biển Trung Hoa thuộc chủ quyền không thể bàn cãi của Trung Quốc», «bọn Việt Nam giết ngư dân Trung Quốc», «cần dạy cho Việt Nam vô ân bạc nghĩa một bài học lớn hơn trước đây». Vậy mà báo chí chính thức trong nước vẫn im lặng, không cất lên được một tiếng nói dõng dạc nào để bác bỏ những luận điệu vu khống trắng trợn của thế lực bành trướng và bảo vệ thanh danh dân tộc.
Khi Tân Hoa xã đưa tin là «Hai bên đã thỏa thuận không để nước thứ ba ở bên ngoài can thiệp vào vùng biển Trung Hoa», ngụ ý gạt hẳn Hoa Kỳ ra ngoài, báo chí Việt Nam cũng không dám cải chính. Cho nên việc giới trí thức, giới truyền thông lề trái và công luận quốc tế hoài nghi dai dẳng là 2 bên đã đi đêm với nhau là hoàn toàn có cơ sở.
Mong rằng những người lãnh đạo Việt Nam sớm nhìn ra sự thật để chủ động thoát khỏi ách Bắc thuộc cực kỳ nguy hiểm đã kéo dài 22 năm, trước khi quá muộn. Mong rằng họ sớm tỉnh táo nhận ra sai lầm của lập luận cho rằng do vị trí địa lý và cũng vì cùng chung chế độ XHCN, Việt Nam buộc phải gắn bó keo sơn với nước láng giềng Trung Quốc (xem các Nghị quyết Đại Hội đảng từ khóa VII đến khoá XI).
Họ hãy tỏ ra tự tin hơn để thấy rằng nương tựa hoàn toàn vào Bắc Kinh không phải là một kế tồn tại lâu dài, bền vững, an toàn và đáng tin cậy cho chính bản thân họ, và lại càng không phải cho tiền đồ của tổ quốc và dân tộc ta. Họ chớ nên quên rằng, theo đánh giá của nhiều chuyên gia quốc tế, Trung Quốc hung hăng nhưng không mạnh, kỹ thuật quân sự lạc hậu đến 20 năm so với Hoa Kỳ, chính trị cực yếu do chà đạp nhân quyền, kinh tế tài chính tuy có dự trữ ngoại tệ lớn nhưng rất bấp bênh, có nguy cơ đổ vỡ, dựa vào họ như dựa vào cột mục.
Gắn bó với thế giới dân chủ rộng lớn, hùng mạnh, văn minh, với các nước châu Á khác ở quanh ta như Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, với các nước Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, và giữ quan hệ bình đẳng với Trung Quốc là đường lối đối ngoại sáng suốt duy nhất hiện nay.
Điều quan trọng nhất là những người lãnh đạo Việt Nam có đủ sáng suốt để nhìn ra bản chất độc ác của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán hay không.
(*) Ông Thạch lập tức bị gạt ra khỏi cương vị phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng, và mất luôn chiếc ghế ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Trung ương Đảng.
Cái mốc chuyển từ kẻ thù truyền thống (như được ghi trong Hiến pháp Việt Nam) thành bạn thân thiết là cuộc gặp gỡ bí mật cấp cao Trung - Việt ở Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, vào 2 ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, theo sáng kiến của đại mưu sĩ Đặng Tiểu Bình. Đại diện cho phía Việt Nam tại cuộc gặp là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng, còn phía Trung Quốc là Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Có rất ít thông tin chính xác về nội dung thật sự của cuộc gặp này được tiết lộ, nhưng ý đồ đen tối của những người lãnh đạo Bắc Kinh đến phó hội đối với tương lai của đất nước ta đã không che mắt được ai. Đến nỗi ngoại trưởng Việt Nam lúc bấy giờ, ông Nguyễn Cơ Thạch, người bị gạt ra ngoài rìa của cuộc họp lịch sử này, đã phải than thở: «Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!».(*)
Rất nhiều diễn biến và sự kiện đã chứng minh sự chính xác của nhận xét có tính tiên tri đó của người đứng đầu ngành ngoại giao Hà Nội. Tính đến nay, «cuộc Bắc thuộc mới» đã kéo dài được 22 năm, với biết bao thiệt thòi, tủi nhục cho đất nước và nhân dân ta trên tất cả các lĩnh vực - từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa, từ lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo đến tài nguyên và an ninh, chủ quyền. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam ta, mà những thành tựu kinh tế, đổi mới, xây dựng, phát triển khá cao vẫn không sao khỏa lấp được.
Đến nay, khi nhóm lãnh đạo ở Bắc Kinh đã khống chế được gần như hoàn toàn những người cầm quyền ở Hà Nội, họ liền trở mặt, gây sự ở vùng Biển Đông của ta, với thái độ trịch thượng kẻ cả dùng sức mạnh áp đảo cùng với những thủ đoạn vừa ăn cướp vừa la làng.
Hiện nay Bộ Chính trị Đảng CS Việt Nam đang bị kẹt cứng giữa 2 gọng kìm, một bên là sự chất vấn đầy phẫn nộ chính đáng và sự phản kháng của nhân dân, một bên là những hành động xâm lược cực kỳ ngang ngược của thế lực bành trướng hung hãn.
Nhóm lãnh đạo Bắc Kinh là những người chưa hề chùn tay trước một thủ đoạn thâm độc nào. Ai có thể độc ác hơn những kẻ dám đem đương kim Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ ra đấu tố hạ nhục trên đường phố? Ai có thể tàn bạo hơn những kẻ mang đương kim Nguyên soái Bành Đức Hoài ra hỏi tội, bắt đội mũ lừa, bắt liếm bát mỳ sợi trong chảo, hành hạ cho đến khi chết không có một người thân vuốt mắt? Ai có thể bất nhân, phản dân tộc hơn những kẻ vui mừng khi đặt 200 tên lửa, rồi nay là 600 tên lửa đạn đạo chĩa thẳng vào đồng bào ruột thịt của mình ở Đài Loan, dọa dẫm không chút hổ thẹn là sẵn sàng dìm trong biển máu cả 23 triệu dân mà họ từng leo lẻo là anh chị em chí thiết, còn là một nguồn đầu tư lớn cho lục địa.
Và mới đây ai ngang nhiên vu cáo ngược là «Việt Nam chiếm nhiều đảo nhất, tỏ ra hung hăng nhất, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu nhất trong vùng biển Trung Hoa thuộc chủ quyền không thể bàn cãi của Trung Quốc», «bọn Việt Nam giết ngư dân Trung Quốc», «cần dạy cho Việt Nam vô ân bạc nghĩa một bài học lớn hơn trước đây». Vậy mà báo chí chính thức trong nước vẫn im lặng, không cất lên được một tiếng nói dõng dạc nào để bác bỏ những luận điệu vu khống trắng trợn của thế lực bành trướng và bảo vệ thanh danh dân tộc.
Khi Tân Hoa xã đưa tin là «Hai bên đã thỏa thuận không để nước thứ ba ở bên ngoài can thiệp vào vùng biển Trung Hoa», ngụ ý gạt hẳn Hoa Kỳ ra ngoài, báo chí Việt Nam cũng không dám cải chính. Cho nên việc giới trí thức, giới truyền thông lề trái và công luận quốc tế hoài nghi dai dẳng là 2 bên đã đi đêm với nhau là hoàn toàn có cơ sở.
Mong rằng những người lãnh đạo Việt Nam sớm nhìn ra sự thật để chủ động thoát khỏi ách Bắc thuộc cực kỳ nguy hiểm đã kéo dài 22 năm, trước khi quá muộn. Mong rằng họ sớm tỉnh táo nhận ra sai lầm của lập luận cho rằng do vị trí địa lý và cũng vì cùng chung chế độ XHCN, Việt Nam buộc phải gắn bó keo sơn với nước láng giềng Trung Quốc (xem các Nghị quyết Đại Hội đảng từ khóa VII đến khoá XI).
Họ hãy tỏ ra tự tin hơn để thấy rằng nương tựa hoàn toàn vào Bắc Kinh không phải là một kế tồn tại lâu dài, bền vững, an toàn và đáng tin cậy cho chính bản thân họ, và lại càng không phải cho tiền đồ của tổ quốc và dân tộc ta. Họ chớ nên quên rằng, theo đánh giá của nhiều chuyên gia quốc tế, Trung Quốc hung hăng nhưng không mạnh, kỹ thuật quân sự lạc hậu đến 20 năm so với Hoa Kỳ, chính trị cực yếu do chà đạp nhân quyền, kinh tế tài chính tuy có dự trữ ngoại tệ lớn nhưng rất bấp bênh, có nguy cơ đổ vỡ, dựa vào họ như dựa vào cột mục.
Gắn bó với thế giới dân chủ rộng lớn, hùng mạnh, văn minh, với các nước châu Á khác ở quanh ta như Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, với các nước Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, và giữ quan hệ bình đẳng với Trung Quốc là đường lối đối ngoại sáng suốt duy nhất hiện nay.
Điều quan trọng nhất là những người lãnh đạo Việt Nam có đủ sáng suốt để nhìn ra bản chất độc ác của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán hay không.
(*) Ông Thạch lập tức bị gạt ra khỏi cương vị phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng, và mất luôn chiếc ghế ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Trung ương Đảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét