Đổi tiền, tin đồn hay sự thật?
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam - RFA |
Đổi tiền theo kiểu CHXHCNVN
Tính cho tới nay Việt Nam đã có tổng cộng 5 lần đổi tiền, hai lần tại
miền Bắc và ba lần tại miền Nam. Tại miền Bắc qua hai lần đổi tiền hầu
như không có một cú sốc mạnh mẽ nào trong xã hội vì tình trạng phôi thai
của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dẫn tới việc thành lập Ngân hàng
Nhà nước năm 1951. Đồng tiền mới này thay thế cho giấy bạc tài chánh
trước đó với tỷ giá 1 đồng năm 1951 bằng 100 đồng của năm 1946.
Lần đổi tiền thứ hai xảy ra vào năm 1959, lần này tỷ giá tăng gấp 10
lần. 1 đồng của năm 1959 bằng 1.000 của năm 1951. Hai cuộc đổi tiền này
cho thấy sự xuống giá của đồng bạc năm 1946 chỉ trong vòng 13 năm đã bị
NHNN làm mất giá trị hoán đổi 1.000 lần.
Cho tới năm 1975 thì cuộc đổi tiền theo một mục đích khác: Thủ tiêu đồng
tiền miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên đồng tiền mới lại có tình trạng phân
chia vị trí địa lý rất khó hiểu. Khi Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất
nhưng từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào, tờ 500 đồng miền Nam có tỷ giá
bằng 1 đồng tiền giải phóng trong khi đó từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở ra
Bắc thì 1.000 đồng tiền miền Nam lại chỉ bằng 3 đồng tiền giải phóng.
Tiền thời Việt Nam CH (1966). RFA file |
Có lẽ mục đích phân chia địa lý này nhằm mở đường cho lần đổi tiền thứ 3
vào ba năm sau nhằm mục tiêu tấn công tư sản mà danh xưng chính thức là
“cải tạo công thương nghiệp” ở miền Nam. Lần đổi tiền thứ hai đã đảo
lộn toàn xã hội, không biết bao nhiêu gia đình tan nát bởi lần đổi tiền
này để đến khi cuộc đổi tiền lần thứ ba xảy ra vào năm 1985 thì mọi sự
không còn lạ lùng với người dân nữa.
Rất nhiều gia đình không còn nhiều tiền để mà đổi vì hai lần trước hạn
mức số tiền được đổi đã cào bằng tài sản tiền mặt của mọi người gần như
bằng nhau. Kinh nghiệm đã buộc người dân mua vàng để dành khi cần đến.
Đồng tiền do vậy không còn lưu hành nhiều trong nền kinh tế để nhiều năm
sau đó cả nước chìm vào khủng hoảng kinh tế dẫn đến việc đổi mới để
sống còn.
Bây giờ là năm 2013, hai mươi tám năm sau lần đồi tiền thứ ba tại Miền
Nam lại rộ lên tin đổi tiền và tin đồn ấy râm ran lúc mạnh lúc yếu nhưng
không hề tắt.
Bà Phạm Chi Lan một chuyên gia kinh tế từng làm cố vấn cho văn phòng Thủ
tướng Phan Văn Khải cho biết nhận xét của bà qua những tin đồn đổi tiền
lần này:
Riêng về tin đồn đổi tiền thì tôi cho rằng nó xảy ra trong bối cảnh
trước hết là từ ý kiến cho là Việt Nam nên đổi tên nước, lấy lại tên cũ
ban đầu là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa riêng điều đó có thể bật lên trong
đầu người ta cho rằng phải đổi rất nhiều thứ kèm theo trong đó có đồng
tiền. Thứ hai nữa quan trọng hơn là về kinh tế, người ta cảm nhận được
khó khăn của kinh tế hiện nay đặc biệt các vấn đề của hệ thống ngân hàng
đang còn có rất nhiều vấn đề nghiêm trọng cộng với ý kiến đổi tên nước
khiến người ta suy nghĩ đến tin đồn có thể có cơ sở.
người ta cảm nhận được khó khăn của kinh tế hiện nay đặc biệt các vấn đề của hệ thống ngân hàng đang còn có rất nhiều vấn đề nghiêm trọng cộng với ý kiến đổi tên nước khiến người ta suy nghĩ đến tin đồn có thể có cơ sở
Bà Phạm Chi Lan
Tiền đồng của Việt Nam thời nay |
Đổi tiền hay không thì chỉ có dân là thiệt
Ngân hàng Nhà nước đã vội vã lên tiếng. Ông Nguyễn Chí Thành – Cục
trưởng Cục Phát hành và Kho quỹ Ngân hàng Nhà nước xác định với báo chí
rằng sẽ không có việc đổi tiền vì nhiều nguyên do, trong đó theo ông
Thành cho biết Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ tiền mặt trong lưu thông
rất cao, để in được lượng tiền mặt như thế thì phải mất vài năm. Chi phí
cho thực hiện kế hoạch đổi tiền như thế là vô cùng lớn. Do đó không
thực hiện dễ như nhiều người suy diễn.
Câu trả lời này khiến cho người dân thêm nghi ngờ. Đồng tiền Việt Nam
đang lưu hành dù có nhiều bao nhiêu đi nữa nhưng nếu nhà nước lại hạn
mức như những lần đổi tiền trước thì số tiền đổi cho dân chúng sẽ không
phải là vấn đề quá lớn như ông Thành đưa ra. Nếu 1 đồng ăn 1.000 thậm
chí 10.000 như thời gian đổi tiền năm 1959 thì NHNN sẽ dư sức có tiền
mới để chuyển đổi.
Chính sách bán vàng đồng loạt hiện nay nhằm bình ổn thị trường vàng như
NHNN trấn an dư luận thật ra đang gặp nhiều ý kiến chống đối của các
chuyên gia kinh tế cũng góp phần vào sự nghi ngờ của người dân. Thị
trường bất động sản đóng băng, nợ xấu tràn ngập các ngân hàng là những
tiền đề khác làm người dân bất an, và tâm lý bất an này dẫn đến tin đồn
tràn ngập việc đổi tiền là điều dễ hiểu.
Về mặt kinh tế cũng như về mặt các nguyên nhân khác thì không có cơ sở nào cho vấn đề đó cả. Ở Việt Nam thỉnh thoảng có những tin đồn thì cũng bình thường thôi
TS Nguyễn Minh Phong
TS Nguyễn Minh Phong trưởng phòng Nghiên Cứu viện Nghiên cứu khoa học xã hội Hà Nội cho biết nhận xét của ông:
Không phải vấn đề vàng mà phải đổi tiền và cũng không bao giờ có chuyện
đổi tiền cả. Đó chỉ là tin đồn mang tính chất thất thiệt, một cái hàm ý
nào đó nó không có thiện chí. Về mặt kinh tế cũng như về mặt các nguyên
nhân khác thì không có cơ sở nào cho vấn đề đó cả. Ở Việt Nam thỉnh
thoảng có những tin đồn thì cũng bình thường thôi nhưng không có sự liên
hệ giữa hai việc quản lý vàng và tin đồn đổi tiền.
Dưới mắt các nhà kinh tế, nhìn các nguyên tắc điều hành kinh tế vĩ mô
hiện nay thì việc đổi tiền là hoàn toàn không thể. Bà Phạm Chi Lan nhận
xét:
Tôi không tin là nhà nước Việt Nam sẽ tiến hành đổi tiền bởi vì lần đổi
tiền cuối cùng ở Việt Nam xảy ra trong cơ chế cũ kinh tế tập trung vào
giữa thập kỷ 80 trong bối cảnh kinh tế hết sức khó khan, theo cách điều
hành cũ dẫn tới điều hành giá lương tiền nó làm cho kinh tế thực sự rơi
vào khủng hoảng.
Một lượng lớn vàng đang còn nằm kín đáo trong tư gia của các nhân
vật cộm cán nhà nước. Vàng tỏ ra an toàn để cất vì không ai dại dột cất
tài sản hối lộ do tham nhũng bằng tiền đồng VN. Nếu tiền được đổi một
lần nữa thì vẫn không chạm được tới gia sản khổng lồ của họ
...một lượng lớn vàng đang còn nằm kín đáo trong tư gia của các nhân vật
cộm cán nhà nước. Vàng tỏ ra an toàn để cất vì không ai dại dột cất tài
sản hối lộ do tham nhũng bằng tiền đồng VN. Nếu tiền được đổi một lần
nữa thì vẫn không chạm được tới gia sản khổng lồ của họ khi đã chuyển
thành vàng khối.
Bài học đổi tiền lúc đó gây ra họa lớn cho kinh tế như thế nào đến bây
giờ vẫn còn nhiều người chưa quên và đối với những người lãnh đạo hiện
nay thì tôi tin là họ cũng hiểu những bài học cũ vẫn còn đó và đặc biệt
là trong cơ chế kinh tế thị trường đã hình thành ở Việt Nam không thể
thay đổi được thì không thể dùng biện pháp đổi tiền.
Trong khi NHNN tiếp tục tiến hành đấu giá vàng cho các ngân hàng thương
mại thì nhiều người nhận xét rằng, một lượng lớn vàng đang còn nằm kín
đáo trong tư gia của các nhân vật cộm cán nhà nước. Vàng tỏ ra an toàn
để cất vì không ai dại dột cất tài sản hối lộ do tham nhũng bằng tiền
đồng VN. Nếu tiền được đổi một lần nữa thì vẫn không chạm được tới gia
sản khổng lồ của họ khi đã chuyển thành vàng khối.
Kinh tế Việt Nam đang trượt dài trong nhiều quý và điều này dù muốn hay
không cũng tấn công lòng tin của người có tiền. Những đồng tiền lương
thiện sẽ được đem ra mua vàng là điều hiển nhiên trong lúc này. Người
dân cho rằng nhà nước có nói gì thì cũng không cản được sự mất tin tưởng
của họ vì họ nhớ rất rõ, những lần đổi tiền sau năm 1975 không lần nào
mà nhà nước không tuyên bố đó là tin đồn thất thiệt nhằm gây hoang mang
trong dân chúng.
Những lời trấn an đè bẹp sự thật ấy đã làm mất niềm tin của dân chúng vì
vậy không thể nói tại sao họ không tin lần này sẽ không có đổi tiền.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2013-05-01
Nước ta chưa có phong trào dân chủ
Trong một bài trước, tôi có viết rằng mình chỉ dám bàn về "phong trào
đối lập" thôi, chứ chưa dám nhắc đến "phong trào Dân chủ", vì Việt Nam
ta chưa có thứ này.
Theo tôi, nước ta có ít người đối lập đã đành, mà nếu xét cho công tâm, thì người Dân chủ Đa nguyên thì lại càng hiếm.
Nhưng thế nào là "người đối lập"? Họ là bất cứ ai dám lên tiếng phản
đối một quyền lực chính trị đang chiếm thế độc tôn. Trong hầu hết các
trường hợp, "người đối lập" nhân danh các giá trị phổ cập của nhân loại
- như Tự do, Bình Đẳng, Công lý và Hòa bình... Họ tố cáo chính quyền
bóp nghẹt những giá trị tiến bộ nêu trên bằng các hành xử bạo ngược và
gian dối. Xét theo tiêu chuẩn này, thì mọi người Dân chủ Việt Nam đều
đang là người đối lập. Tuy vậy, không phải mọi người đối lập đều Dân
chủ, bởi kẻ chống lại điều sai trái chưa chắc đã nắm lẽ phải trong tay.
Đừng quên trong giai đoạn "tiền khởi nghĩa", các đảng Cộng sản Việt
Nam, Liên Xô và Trung Quốc đều từng giương cao ngọn cờ tự do, bình đẳng
để hô hào quần chúng vùng dậy chống phong kiến, tư bản, đế quốc, tiến
tới một thiên đường no ấm cho mọi người. Tuy đối lập một cách gay gắt
với các nhà cầm quyền đương thời, và còn luôn miệng hô khẩu hiệu Tự Do,
họ còn cách nền Dân chủ Đa nguyên một chặng đường "tự phê" dài lắm.
Để trở thành một người Dân chủ Việt Nam, bạn cần nhiều điều hơn, ngoài lòng căm phẫn trước thực trạng xã hội.
Vậy điều gì làm nên một người Dân chủ, và khiến hắn khác hẳn những con người cũ kĩ xung quanh?
Theo tôi, ta nên định nghĩa "người Dân chủ" dựa trên một tiêu chí quan
trọng nhất: biết sống dân chủ với mọi người. Hắn tôn trọng quyền Tự do
của tha nhân cũng nhiều như quyền Tự do của chính hắn. Hắn day dứt
không yên khi Tự do của mình, hoặc của người khác bị xâm hại. Hắn tự
coi là nghĩa vụ, việc bảo vệ cái quyền vùng vẫy mà tạo hóa đã ban tặng
cho mọi người, và cho từng con người nhỏ bé giữa nhân gian. Trong mắt
hắn, quyền lợi vị kỉ của mọi cá nhân, tập thể và thiết chế đều kém quí
hóa hơn Quyền Con Người. Hắn trân trọng phẩm giá của anh thợ cày, cô
thợ dệt, bác ngư dân cũng nhiều như phẩm giá của các ông lãnh tụ tự
phong thánh. "Tổ quốc không trên hết!", và "Tất cả không vì sự nghiệp
Cách mạng vĩ đại!". Hắn cứ hô vậy, bất kể màu của các đám đông. Đâu là
công dụng của Cách mạng và Tổ quốc, ngoài việc dệt ước mơ và hạnh phúc
cho mỗi Công dân bình thường?
Ở mọi thời và mọi nơi, mọi nền Dân chủ đều được dựng trên những con người như thế.
Nhưng ta khoan hẵng bàn rộng. Quay lại chủ đề cũ: sao nước ta hiếm
người đối lập, mà người Dân chủ lại càng hiếm, tới nỗi chưa có phong
trào Dân chủ Việt Nam?
Tôi nghĩ chúng ta nên thành thực thừa nhận một sự thật đáng buồn: đa số
những người đối lập Việt Nam, tuy vẫn hô khẩu hiệu đòi dân chủ, nhân
quyền, nhưng chưa biết sống dân chủ với những người xung quanh, và chưa
tôn trọng quyền tự do của người khác.
Tôi có quen nhiều người đối lập rất lạ. Chẳng hạn, xin kể giai thoại
ngộ nghĩnh về blogger A. Trong làng đối lập Việt Nam, anh A là một cây
bút khá nổi tiếng và từng được vinh danh bởi một giải thưởng cổ vũ nhân
quyền. Tôi gặp đôi lần, và nhanh chóng cảm mến anh trong mùa hè biểu
tình chống Trung Quốc. Tròn một năm sau, tôi thân với B, cô cháu gái
đang trọ học ở nhà anh, cũng nhờ gặp nhau trong các cuộc xuống đường vì
biển đảo. Qua lời B kể, tôi được biết một anh A thứ hai.
Anh A này - A của những cư xử thường nhật trong cuộc sống, lại hoàn
toàn khác với nhà dân chủ đạo mạo mà độc giả mường tượng qua những
trang viết bênh vực nhân quyền. Anh A đời thường, trong lời kể của bạn
bè và người thân, là cả một nhà độc tài gương mẫu. Cũng hách dịch, cũng
bất dung, và cũng bạo lực như một lãnh tụ Cộng sản chính hiệu. Đó là
anh A chi phối mọi lựa chọn trong cuộc đời cô cháu gái, anh A siêng
đánh vợ qua lời kể của đồng nghiệp nạn nhân, anh A độc quyền lẽ phải
trong các mối quan hệ bạn bè... Anh A thực, mà tôi mới khai quật lên,
là một anh A cần dân chủ hóa khẩn cấp.
Ít lâu sau, tôi nghe tin cô B lâm nạn. Sau một vụ cứng đầu trái ý, B bị
anh A nọc ra đánh bằng dây điện và gậy tre. Sự việc nghiêm trọng tới
mức trong lúc hoảng sợ, một người thân của đương sự tức tốc gọi điện
thoại để cầu cứu những người bạn của gia đình. Trận đòn chỉ tạm ngưng
khi có sự can thiệp của một vị giáo chức. Dầu vậy, sau hôm đó, B vẫn
phải sống chung với những lời mạt sát đầy ngôn từ xúc phạm nhân phẩm.
Vụ việc này được truyền miệng rộng khắp, tới mức trong một cuộc chuyện
sau đó vài tháng, tôi vẫn được một người bạn nhờ chuyển lời hỏi thăm
tới cô B.
Sao có thể trở thành người đại diện xứng đáng cho một cuộc tranh đấu vì
các giá trị tiến bộ, khi anh không tôn trọng quyền và phẩm giá của
những người phụ nữ trong gia đình?
Quá trình tiếp xúc và làm việc chung còn cho tôi biết thêm nhiều anh A
khác. Đáng buồn, khi những người đối lập biết sống dân chủ với bạn bè
và người thân chỉ là vài ngoại lệ hiếm gặp. Phần còn lại, trong tuyệt
đại đa số, còn hành xử phi dân chủ dân chủ trong chính việc đấu tranh.
Trong một nhóm phản kháng mà tôi biết, người ta sẵn sàng hùa nhau mạt
sát, bằng ngôn từ chợ búa, những thiếu số phát biểu ý kiến đặc biệt
trái chiều. Ở một hội khác mà tôi từng tham gia, người ta tôn sùng và
dành tiếng nói độc tôn cho các bậc "trưởng lão". Và từng ngày từng giờ,
trong các cuộc "thảo luận chính trị" trên Facebook hoặc blog cá nhân,
người ta tuôn xối xả những lời miệt thị và nguyền rủa độc địa nhất vào
mặt kẻ đối thoại khác ý thức hệ. Người ta vừa phê bình các vụ bắt
người bất hợp pháp, vừa đòi "treo cổ hết bọn quỷ Cộng nô". Người ta vừa
ủng hộ nhiệt liệt vụ xịt hơi cay của Lí Tống, vừa viết bài cổ vũ Nhân
quyền. Người ta vừa đả kích đảng Cộng sản Việt Nam, vừa giành giật cho
bản thân cái độc quyền lẽ phải và độc quyền yêu nước.
Vậy nên trong mắt quần chúng, quốc tế, và cả chính chế độ, người đối
lập Việt Nam hiện diện như một bầy sư sãi thích "đậu phụ chùa". Chính
quyền đã đánh mất niềm tin của nhân dân, nhưng phong trào đối lập Việt
Nam cũng thế.
Tình trạng chán chường này ẩn chứa nhiều nguy hại. Nếu thiếu một phong
trào Dân chủ đích thực, lực lượng chính trị nào sẽ tiếp quản đất nước
sau cuộc sụp đổ đột ngột của chế độ hiện nay? Các đảng tài phiệt đầy
rẫy nội gián Tàu? "Quân đội Nhân dân", với quyền lực phụt ra từ nòng
súng? Một đảng cực đoan chống Cộng? Hay hỗn hợp từ sự xung đột và chia
chác của những con cá mập nói trên?
Nhất định phải xây dựng, trong thời gian sớm nhất, một phong trào Dân
chủ ra hồn. Nếu không muốn quê hương có thêm một chuỗi ngày trả thù báo
oán. Nếu không muốn người Việt Nam tiến từ ách nô lệ này lên ách nô lệ
kia, y như con ngựa đổi chủ.
Và như thế, có hai việc chúng ta cần khẩn cấp làm cùng nhau.
Trước tiên, là tự Dân chủ hóa chính mình. Chừng nào chưa tự thay đổi
bản thân, chúng ta không thể thay đổi đất nước. Cần khiêm tốn mà thừa
nhận rằng trong suốt 4000 năm lịch sử Việt Nam, nước ta mới chỉ có
những thể chế phi dân chủ. Vì vậy, chúng ta bị nô lệ hóa từ tận gốc rễ
tư duy. Chúng ta rỗng kiến thức về thể chế Tự do, và lại càng thiếu cơ
hội để thực hành những hiểu biết này. Tôi tin rằng nếu mỗi người yêu
nước chịu đọc nhiều sách hơn, và tập tôn trọng Tự do của những người
sống quanh mình, thì chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, phong trào Dân
chủ sẽ đơm hoa kết trái.
Một việc nữa, quan trọng không kém phần, là kết nghĩa một cách mạnh
dạn. Chúng ta đang thiếu, một cách rất trầm trọng, những người dân chủ
có đủ trình độ và bản lĩnh để hướng dẫn cuộc đổi thay. Số người ít ỏi
này sẽ bất lực trước mọi chuyển biến nếu tiếp tục phân bố tản mát trong
một phong trào đối lập ô hợp, thay vì đoàn kết trong một khối người
tinh nhuệ để cùng làm và cùng nói với đồng bào.
Đã đến lúc họ tìm kiếm nhau thật hăng say, như đi tìm những kho tàng ẩn chứa sức mạnh để chuyển dời vận mệnh đất nước.
F.K. (Thông Luận)
Trục xoay nhân sự theo "vần ê"
Từ những biểu hiện trên thực tế, người ta thấy từ Trung ương đến địa
phương, ở các cấp, các ngành ngày càng gia tăng những hiện tượng vi
phạm các nguyên tắc, quy định về công tác cán bộ của Đảng. Dư luận xã
hội hiện nay đã nêu khá phổ biến hiện tượng, đặt vấn đề trên các phương
tiện thông tin đại chúng về việc bổ nhiệm, đề bạt, cất nhắc cán bộ đang
tồn tại theo công thức để có cái kết trong cái trục xoay theo “vần Ê”
theo thứ tự ưu tiên trước-sau là:HẬU DUỆ, TIỀN TỆ, CÙNG HỆ, HỢP
LỆrồi sau cùng mới đếnTRÍ TUỆ. Đây được gọi là sự sắp đặt sẵn của “Ngũ
kế vần Ê trong công tác cán bộ”.
Trong bất kỳ thể chế chính trị nào, người nắm quyền (từ thấp đến cao) đều giữ vai trò trọng yếu, mang tính quyết định. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” (HCM).Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ phương hướng về công tác cán bộ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ…Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài…Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa…Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương”.
Trong phương hướng nhiệm kỳ 2011-2015, Nghị quyết Đại hội XI nhấn mạnh cần phải: “Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi”. Và mới đây nhất, Nghị quyết Hội nghị T.Ư 4 cùng chỉ ra: “Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước”. Trong 19 điều quy định Đảng viên không được làm, có điều thứ 10 quy định đảng viên không được “Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định”…
Báo cáo tại đại hội như thế, nghị quyết “bung ra” như thế. Nếu chỉ đọc các nghị quyết thấy đúng, đủ, hay, sát thực tế, nêu thực trạng, chỉ rõ việc cần làm. Vậy mà, khi đi vào cuộc sống, vẫn là “Nói dzậy, mà hổng phải dzậy”. Cán bộ quyết định hết thảy mọi việc, vì vậy công tác cán bộ phải đi đúng đường lối, đúng nghị quyết, điều lệ của Đảng. Trong chế độ ta, cán bộ là người nhận trách nhiệm trước Đảng, chính quyền để phục vụ nhân dân, “là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, phải thật sự là công bộc của dân. Mục tiêu của công tác cán bộ phải thường xuyên coi trọng bảo đảm dân chủ, khách quan, khoa học, đáp ứng nhu cầu lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội, sản xuất kinh doanh thực sự có chất lượng, hiệu quả, thúc đẩy kinh tế -xã hội phát triển. Cho nên, việc đào tạo, thử thách, tạo nguồn, chọn lọc đội ngũ, phân công bổ nhiệm, cất nhắc, giao nhiệm vụ, chức trách cho cán bộ phải thật sự dân chủ, chuẩn xác, trung thực, khách quan. Thế nhưng, từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng đã bộc lộ những yếu kém trong lãnh đạo, thực thi công tác cán bộ.
Công tác quy hoạch nêu ra rất nhiều, nghị quyết, chỉ thị, thông tri cũng không thiếu như đã đề cập ở trên, vậy mà trong thực tế hầu như chỉ nằm trên giấy, vẫn như một sự nhắc nhở, kêu gọi, chưa đem lại nhiều hiệu quả trong thực tiễn đời sống xã hội. Nhìn lại,có thể thấy hầu như việc xây dựng quy hoạch công tác cán bộ chưa thực sự đi vào nền nếp, chưa có tính khoa học, còn tùy tiện và không thường xuyên, mới tập trung thực hiện ởcấpđảng ủy cơ sở,chưa xây dựng được quy hoạch ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ thật đúng người, đúng việc.Hơn thế nữa, như Nghị quyết Đại hội XI và Hội nghị T.Ư 4 đã đánh giá rất thẳng thắn và khách quan: Có không íttrường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, bố trí không đúng sở trường, năng lực,mà còn nặng về “quan hệ thân, quen”, chạy chọt,ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước. Trong việc đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộvẫncòn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém. Vì thế, công tác cán bộ còn thiếu và mất dân chủ, không thực sự công bằng,còn biểu hiện bè phái, thiếu trong sáng, không minh bạch, thiếu khách quan, toàn diện và sai nhiều nguyên tắc trong công tác cán bộ…
Cũng từ những biểu hiện trên thực tế, người ta thấy từ Trung ương đến địa phương, ở các cấp, các ngành ngày càng gia tăng những hiện tượng vi phạm các nguyên tắc, quy định về công tác cán bộ của Đảng. Dư luận xã hội hiện nay đã nêu khá phổ biến hiện tượng, đặt vấn đề trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc bổ nhiệm, đề bạt, cất nhắc cán bộ đang tồn tại theo công thức để có cái kết trong cái trục xoay theo “vần Ê” theo thứ tự ưu tiên trước-sau là: HẬU DUỆ, TIỀN TỆ, CÙNG HỆ, HỢP LỆ rồi sau cùng mới đến TRÍ TUỆ. Đây được gọi là sự sắp đặt của “Ngũ kế vần Ê trong công tác cán bộ”.
VềHẬU DUỆ: Trước hết phải quan tâm ưu tiên đề bạt, cất nhắc, bố trí, sắp xếp để có ghế “ngon” cho con, em những vị lãnh đạo đương chức, đương quyền. Trong một vài nhiệm kỳ, họ đều phải nghĩ kế, tìm cách làm sao sắp xếp, chọn ghế“tốt”cho con, em và nhiều khi cả cháu trong gia đình, dòng tộc nội, ngoại. Thế nên, người ta mới đúc kết công thức nhân sự 20C là:“Con cháu các cụ cả, cần chăm chút, coi cơ cấu, chọn chỗ cho chúng có cái chức chủ chốt”.Những nhân sự trong diện này mà được bậc trưởng thượng đã có ý định rõ ràng, có chủ đích “cắm chỗ”, được chú ý quan tâm thì chắc chắn là hưởng lộc chính trị ngon lành, “bỏ cối không trật”. Đây được coi là hạng Nhất, chất lượng tiêu chuẩn Vàng.
Kế đến là, ưu tiên thứ nhì phải là tiêu chuẩnTIỀN TỆ,tức là tình trạng mua chức, mua quyền. Không ít trường hợp ông A, bà B bỗng chốc xuất hiện chức danh này, vị trí kia mà thiên hạ thấy lạ hoắc, như dưới đất chui lên trên trời rơi xuống. Học hành chưa đâu vào đâu, bằng cấp thì mánh lới chạy chọt, phải mua mới có, công lao, thành tích, năng lực chẳng có bao nhiêu, không thấy đưa ra “hỏi ý đồng bào”, không được dân bầu, dân cử, nhưng bỗng nhiên thây lù lù cái quyết định bổ nhiệm sáng rỡ. Tiêu chuẩn Quốc tế mang tên ISO là chuyên xét để công nhận tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm trong sản xuất, thương mại và thông tin. Nhưng nếu xét về tiêu chuẩn cán bộ mà tạm gọi cũng ISO – 1001 (có 1001 chuyện về công tác cán bộ, kể hoài không hết), vì đồng tiền vòng vèo trăm nẻo, đi lối nào có trời mà biết. Đây là chất lượng tiêu chuẩn Bạc.
Thứ ba là CÙNG HỆ: (Thường là Nhóm lợi ích) Phải là có phe cánh, ê kíp, cùng nhóm lợi ích với nhau. Trong tiêu chuẩn cùng hệ này phải quan tâm chọn lọc, bồi dưỡng, cất nhắc, bổ nhiệm trong số những người vốn có mối quan hệ thân quen, mối làm ăn từ trước và nhất là hiện tại, có ngang tầm về chính trị, tư tưởng, quan điểm, nhận thức; lại phải có đạo đức, lối sống, tác phong, tính cách hợp nhau, phải biết cùng ăn cùng chịu, cùng hưởng, cùng chia, chấp nhận và biết cáchvào hùa chung hụi. Cái tiêu chuẩn cùng hệ này có kiểu dáng na ná như “môn đăng hộ đối”, cùng cảnh (về mức sống, khả năng kinh tế) với nhau. Mọi việc, kể cả việc làm sai trái cũng phải biết “đồng thanh tương ứng, đồng khí tường cầu”, khi gặp những tình huống cần thiết phải biết “ứng hiệp” cho nhau, bảo vệ nhau. Nhưng trước hết của sự đồng ứng cùng hệ phải có vốn, đất đai, trang trại, xe cộ, nhà cửa phải tương đương nhau, thì mới “dễ chơi”, dám và biết chịu chơi. Nếu bầu bán mà cùng hệ, dù là hệ gì chăng nữa, trong chi bộ có số đông cùng hệ thì chắc chắn số phiếubầu sẽ cao. Cái này không gọi là dân chủ được, mà coi như một dạng “hiệp chủ”. CÙNG HỆđược xếp ở hàng tiêu chuẩn Đồng.
Thứ tư là HỢP LỆ:Là muốn sắp xếp ông A, bà B, cậu ấm C, cô chiêu D vào các chức danh, có ghế đàng hoàng, phải tìm cách hợp thức hóa hồ sơ, thủ tục, phải qua ý kiến đề xuất của Hội đồng nhân dân hẳnhoi, có khi chỉ cần vài văn bản đề xuất của Mặt trận, công đoàn, đoàn thanh niên, miễn là phải được phết lên một thứ nước sơn “dân chủ” để hợp thức hóa việc bổ nhiệm. Cái tiêu chuẩn hợp lệ này bắt nguồn từ những mối quan hệ cá nhân, những cách nhìn nhận, xem xét tùy tiện, lối làm việc vô trách nhiệm, cảm tình và cảm tính vượt lên mọi quy trình, quy hoạch, quy định, nguyên tắc.
Cuối cùng, áp chót, mới đến tiêu chuẩn TRÍ TUỆ.Những người thông minh, được đào tạo chính quy, học hành bài bản, bằng cấp nghiêm chỉnh, thực sự tỏ ra có năng lực, được quần chúng tín nhiệm, tin phục, kỳ vọng thì lại ít được quan tâm, và cũng không còn chỗ, vì các tiêu chuẩn trên đã choán mất gần hếtghế rồi. Những người này phần lớn thuộc thành phần con em lao động, không quyền thế, không thân thích, ít có mối quan hệ, lại không biết chạy cửa này cửa kia, thì khó có điều kiện được đưa vào nguồn hoặc được sắp chỗ để phấn đấu, cống hiến. Tất nhiên cũng không loại trừ có những người thuộc diện này có số được ăn may mưa móc, tức là được cơ quan tổ chức Đảng, ngành nội vụ phát hiện, đạt được sự khách quan, công minh, xuất phát từ nhu cầu nhiệm vụ một cách vô tư.Nhưng hầu như ít lắm, “ăn may” nhằm vào lúc đơn vị tiếp nhận cân “cân đối” cán bộ để tránh tiếng thôi!
Hệ lụy cuối cùng của “Ngũ kết vần Ê” trong công tác cán bộ là phải gặt về vần Ê tương xứng, và đói trọng, là bị xã hội PHÊ, CHÊ. Chắc chắn hậu quả để lại là công việc bị TRẦM BÊ, TRÌ TRỆ, không còn đáp ứng được mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ-công bằng-văn minh, như ta vẫn đọc thấy phần kết luận ở các nghị quyết bất kỳ đại hội nào, như lời hô hào nghe sang sảng trên nghị trường, trên bục phát biểu hội nghị. Mà đã như vậy, biết bao giờ mới đạt được mục tiêu đưa ra rất hợp lòng người với tiêu chí đã thành khẩu hiệu quá quen: “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”!?
Bùi Văn Bồng
Theo Bùi Văn Bồng
Trong bất kỳ thể chế chính trị nào, người nắm quyền (từ thấp đến cao) đều giữ vai trò trọng yếu, mang tính quyết định. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” (HCM).Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ phương hướng về công tác cán bộ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ…Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài…Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa…Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương”.
Trong phương hướng nhiệm kỳ 2011-2015, Nghị quyết Đại hội XI nhấn mạnh cần phải: “Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi”. Và mới đây nhất, Nghị quyết Hội nghị T.Ư 4 cùng chỉ ra: “Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước”. Trong 19 điều quy định Đảng viên không được làm, có điều thứ 10 quy định đảng viên không được “Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định”…
Báo cáo tại đại hội như thế, nghị quyết “bung ra” như thế. Nếu chỉ đọc các nghị quyết thấy đúng, đủ, hay, sát thực tế, nêu thực trạng, chỉ rõ việc cần làm. Vậy mà, khi đi vào cuộc sống, vẫn là “Nói dzậy, mà hổng phải dzậy”. Cán bộ quyết định hết thảy mọi việc, vì vậy công tác cán bộ phải đi đúng đường lối, đúng nghị quyết, điều lệ của Đảng. Trong chế độ ta, cán bộ là người nhận trách nhiệm trước Đảng, chính quyền để phục vụ nhân dân, “là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, phải thật sự là công bộc của dân. Mục tiêu của công tác cán bộ phải thường xuyên coi trọng bảo đảm dân chủ, khách quan, khoa học, đáp ứng nhu cầu lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội, sản xuất kinh doanh thực sự có chất lượng, hiệu quả, thúc đẩy kinh tế -xã hội phát triển. Cho nên, việc đào tạo, thử thách, tạo nguồn, chọn lọc đội ngũ, phân công bổ nhiệm, cất nhắc, giao nhiệm vụ, chức trách cho cán bộ phải thật sự dân chủ, chuẩn xác, trung thực, khách quan. Thế nhưng, từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng đã bộc lộ những yếu kém trong lãnh đạo, thực thi công tác cán bộ.
Công tác quy hoạch nêu ra rất nhiều, nghị quyết, chỉ thị, thông tri cũng không thiếu như đã đề cập ở trên, vậy mà trong thực tế hầu như chỉ nằm trên giấy, vẫn như một sự nhắc nhở, kêu gọi, chưa đem lại nhiều hiệu quả trong thực tiễn đời sống xã hội. Nhìn lại,có thể thấy hầu như việc xây dựng quy hoạch công tác cán bộ chưa thực sự đi vào nền nếp, chưa có tính khoa học, còn tùy tiện và không thường xuyên, mới tập trung thực hiện ởcấpđảng ủy cơ sở,chưa xây dựng được quy hoạch ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ thật đúng người, đúng việc.Hơn thế nữa, như Nghị quyết Đại hội XI và Hội nghị T.Ư 4 đã đánh giá rất thẳng thắn và khách quan: Có không íttrường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, bố trí không đúng sở trường, năng lực,mà còn nặng về “quan hệ thân, quen”, chạy chọt,ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước. Trong việc đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộvẫncòn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém. Vì thế, công tác cán bộ còn thiếu và mất dân chủ, không thực sự công bằng,còn biểu hiện bè phái, thiếu trong sáng, không minh bạch, thiếu khách quan, toàn diện và sai nhiều nguyên tắc trong công tác cán bộ…
Cũng từ những biểu hiện trên thực tế, người ta thấy từ Trung ương đến địa phương, ở các cấp, các ngành ngày càng gia tăng những hiện tượng vi phạm các nguyên tắc, quy định về công tác cán bộ của Đảng. Dư luận xã hội hiện nay đã nêu khá phổ biến hiện tượng, đặt vấn đề trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc bổ nhiệm, đề bạt, cất nhắc cán bộ đang tồn tại theo công thức để có cái kết trong cái trục xoay theo “vần Ê” theo thứ tự ưu tiên trước-sau là: HẬU DUỆ, TIỀN TỆ, CÙNG HỆ, HỢP LỆ rồi sau cùng mới đến TRÍ TUỆ. Đây được gọi là sự sắp đặt của “Ngũ kế vần Ê trong công tác cán bộ”.
VềHẬU DUỆ: Trước hết phải quan tâm ưu tiên đề bạt, cất nhắc, bố trí, sắp xếp để có ghế “ngon” cho con, em những vị lãnh đạo đương chức, đương quyền. Trong một vài nhiệm kỳ, họ đều phải nghĩ kế, tìm cách làm sao sắp xếp, chọn ghế“tốt”cho con, em và nhiều khi cả cháu trong gia đình, dòng tộc nội, ngoại. Thế nên, người ta mới đúc kết công thức nhân sự 20C là:“Con cháu các cụ cả, cần chăm chút, coi cơ cấu, chọn chỗ cho chúng có cái chức chủ chốt”.Những nhân sự trong diện này mà được bậc trưởng thượng đã có ý định rõ ràng, có chủ đích “cắm chỗ”, được chú ý quan tâm thì chắc chắn là hưởng lộc chính trị ngon lành, “bỏ cối không trật”. Đây được coi là hạng Nhất, chất lượng tiêu chuẩn Vàng.
Kế đến là, ưu tiên thứ nhì phải là tiêu chuẩnTIỀN TỆ,tức là tình trạng mua chức, mua quyền. Không ít trường hợp ông A, bà B bỗng chốc xuất hiện chức danh này, vị trí kia mà thiên hạ thấy lạ hoắc, như dưới đất chui lên trên trời rơi xuống. Học hành chưa đâu vào đâu, bằng cấp thì mánh lới chạy chọt, phải mua mới có, công lao, thành tích, năng lực chẳng có bao nhiêu, không thấy đưa ra “hỏi ý đồng bào”, không được dân bầu, dân cử, nhưng bỗng nhiên thây lù lù cái quyết định bổ nhiệm sáng rỡ. Tiêu chuẩn Quốc tế mang tên ISO là chuyên xét để công nhận tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm trong sản xuất, thương mại và thông tin. Nhưng nếu xét về tiêu chuẩn cán bộ mà tạm gọi cũng ISO – 1001 (có 1001 chuyện về công tác cán bộ, kể hoài không hết), vì đồng tiền vòng vèo trăm nẻo, đi lối nào có trời mà biết. Đây là chất lượng tiêu chuẩn Bạc.
Thứ ba là CÙNG HỆ: (Thường là Nhóm lợi ích) Phải là có phe cánh, ê kíp, cùng nhóm lợi ích với nhau. Trong tiêu chuẩn cùng hệ này phải quan tâm chọn lọc, bồi dưỡng, cất nhắc, bổ nhiệm trong số những người vốn có mối quan hệ thân quen, mối làm ăn từ trước và nhất là hiện tại, có ngang tầm về chính trị, tư tưởng, quan điểm, nhận thức; lại phải có đạo đức, lối sống, tác phong, tính cách hợp nhau, phải biết cùng ăn cùng chịu, cùng hưởng, cùng chia, chấp nhận và biết cáchvào hùa chung hụi. Cái tiêu chuẩn cùng hệ này có kiểu dáng na ná như “môn đăng hộ đối”, cùng cảnh (về mức sống, khả năng kinh tế) với nhau. Mọi việc, kể cả việc làm sai trái cũng phải biết “đồng thanh tương ứng, đồng khí tường cầu”, khi gặp những tình huống cần thiết phải biết “ứng hiệp” cho nhau, bảo vệ nhau. Nhưng trước hết của sự đồng ứng cùng hệ phải có vốn, đất đai, trang trại, xe cộ, nhà cửa phải tương đương nhau, thì mới “dễ chơi”, dám và biết chịu chơi. Nếu bầu bán mà cùng hệ, dù là hệ gì chăng nữa, trong chi bộ có số đông cùng hệ thì chắc chắn số phiếubầu sẽ cao. Cái này không gọi là dân chủ được, mà coi như một dạng “hiệp chủ”. CÙNG HỆđược xếp ở hàng tiêu chuẩn Đồng.
Thứ tư là HỢP LỆ:Là muốn sắp xếp ông A, bà B, cậu ấm C, cô chiêu D vào các chức danh, có ghế đàng hoàng, phải tìm cách hợp thức hóa hồ sơ, thủ tục, phải qua ý kiến đề xuất của Hội đồng nhân dân hẳnhoi, có khi chỉ cần vài văn bản đề xuất của Mặt trận, công đoàn, đoàn thanh niên, miễn là phải được phết lên một thứ nước sơn “dân chủ” để hợp thức hóa việc bổ nhiệm. Cái tiêu chuẩn hợp lệ này bắt nguồn từ những mối quan hệ cá nhân, những cách nhìn nhận, xem xét tùy tiện, lối làm việc vô trách nhiệm, cảm tình và cảm tính vượt lên mọi quy trình, quy hoạch, quy định, nguyên tắc.
Cuối cùng, áp chót, mới đến tiêu chuẩn TRÍ TUỆ.Những người thông minh, được đào tạo chính quy, học hành bài bản, bằng cấp nghiêm chỉnh, thực sự tỏ ra có năng lực, được quần chúng tín nhiệm, tin phục, kỳ vọng thì lại ít được quan tâm, và cũng không còn chỗ, vì các tiêu chuẩn trên đã choán mất gần hếtghế rồi. Những người này phần lớn thuộc thành phần con em lao động, không quyền thế, không thân thích, ít có mối quan hệ, lại không biết chạy cửa này cửa kia, thì khó có điều kiện được đưa vào nguồn hoặc được sắp chỗ để phấn đấu, cống hiến. Tất nhiên cũng không loại trừ có những người thuộc diện này có số được ăn may mưa móc, tức là được cơ quan tổ chức Đảng, ngành nội vụ phát hiện, đạt được sự khách quan, công minh, xuất phát từ nhu cầu nhiệm vụ một cách vô tư.Nhưng hầu như ít lắm, “ăn may” nhằm vào lúc đơn vị tiếp nhận cân “cân đối” cán bộ để tránh tiếng thôi!
Hệ lụy cuối cùng của “Ngũ kết vần Ê” trong công tác cán bộ là phải gặt về vần Ê tương xứng, và đói trọng, là bị xã hội PHÊ, CHÊ. Chắc chắn hậu quả để lại là công việc bị TRẦM BÊ, TRÌ TRỆ, không còn đáp ứng được mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ-công bằng-văn minh, như ta vẫn đọc thấy phần kết luận ở các nghị quyết bất kỳ đại hội nào, như lời hô hào nghe sang sảng trên nghị trường, trên bục phát biểu hội nghị. Mà đã như vậy, biết bao giờ mới đạt được mục tiêu đưa ra rất hợp lòng người với tiêu chí đã thành khẩu hiệu quá quen: “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”!?
Bùi Văn Bồng
Theo Bùi Văn Bồng
"Thái tử đảng" ở Việt Nam: Hai bí thư trẻ tên Hiếu ở TP.HCM
(TTHN) - Một người là con trai của Lê Thanh Hải, rể của Huỳnh Ngọc Sĩ
Ở TP.HCM, người ta hay nhắc tới hai bí thư cấp cơ sở, cùng tên Hiếu,
đang nổi lên như điển hình thế hệ cán bộ trẻ, được đào tạo bài bản, dám
nghĩ, dám làm, có những lý tưởng đóng góp cho diện mạo phát triển ngày
càng rực rỡ hơn của thành phố mang tên Bác.
Lê Trương Hải Hiếu - Bí thư phường 8x nhiều sáng kiến
Suốt
2012, báo chí đã không ngớt rộn ràng trước một điểm sáng về cải cách
thủ tục hành chính ở TP.HCM: áp dụng phần mềm điện tử quản lý dân cư
bằng dấu vân tay ở phường Bến Thành (quận 1). Những công
dân sống trên địa bàn phường này đang được hưởng một hệ thống thủ tục
hành chính hiện đại, văn minh trong mơ, đúng tinh thần "dân là thượng
đế".
Ít ai có thể ngờ được, tác giả của đề án này là một cán bộ rất trẻ, sinh năm 1981. Anh là Lê Trương Hải Hiếu - Bí thư kiêm Chủ tịch UBND phường Bến Thành - một trong những phường trọng điểm của thành phố.
Bí thư kiêm Chủ tịch UBND phường Bến Thành, quận 1, TP.HCMLê Trương Hải Hiếu. Ảnh: SGGP |
Những
người dân “khó tính” phường Bến Thành đã hoàn toàn bị thuyết phục, thậm
chí trở nên "yêu mến" hệ thống dịch vụ công sử dụng dấu vân tay. Nhờ
đó, đến nay, phường Bến Thành đã quản lý số hóa được 18.000 dân, 5.000
hộ gia đình và thực hiện trên 16 phân hệ như nhà đất, việc làm, nhân
khẩu, y tế...
“Cơ quan công quyền là để phục vụ dân.
Vậy thì phải luôn nghĩ làm sao để phục vụ dân tốt hơn. Thủ tục hành
chính giản tiện sẽ tiết kiệm cho dân. Tôi sẵn sàng làm dù tiết kiệm cho
dân 1 giây. Có tính hiệu quả người dân sẽ ủng hộ”, Hiếu chia sẻ với
VietNamNet.
Từng theo học khoa Luật thương mại (ĐH Luật TP.HCM), 4 năm liền tham gia chiến dịch tình nguyện Mùa hè xanh với vai trò thủ
lĩnh, Hiếu luôn nổ lực không ngừng, lúc thì sống cùng bà con sông nước
miền Tây, khi lại bước chân lên Tây Nguyên cùng già làng trưởng bản.
Những sinh viên học cùng anh đánh giá Hiếu là chàng trai rất chịu khó và
“chịu chơi” khi sẵn sàng lao xuống ao đầm lầy để cùng anh em làm việc.
Những lúc mệt mỏi, anh cũng biết quan tâm bằng những ổ bánh mì nóng hổi.
Từ
2005 đến 2007, Hiếu được thành phố cử đi học cao học ngành Quản trị
kinh doanh ở Mỹ, từ một chương trình đào tạo 300 tiến sĩ, thạc sĩ của
Thành ủy. Ngay sau khi tốt nghiệp, về nước, Hiếu công tác tại Thành đoàn
TP.HCM, sau đó làm Bí thư Quận đoàn 1. Từ 2/2010 đến nay, Lê Trương Hải Hiếu là Bí thư phường Bến Thành.
Cha là Bí thư Thành ủy TP.HCM, mẹ là Hiệu trưởng Trường Cán bộ TP, Hải Hiếu luôn nghĩ có thuận lợi nhưng khó khăn nhiều hơn. Anh chia sẻ,
lúc đầu mới về phường không hẳn dễ thuyết phục mọi người tin tưởng,
nhất là khi Bến Thành là một trong những phường trọng điểm của thành
phố.
Không chỉ là bí thư phường 8x năng động, Lê Trương Hải Hiếu hiện còn
là đại biểu HĐND TP. Đại biểu trẻ này từng "thử thách" không ít lãnh
đạo thành phố trong những phiên chất vấn bằng những câu hỏi hóc búa,
đụng chạm những vấn đề nhạy cảm ít ai muốn nói. “Có hay không tình trạng
‘giấu án’ để chạy thành tích?”, đại biểu Lê Trương Hải Hiếu từng thẳng
thắn hỏi Thiếu tướng Phan Anh Minh - Phó giám đốc Công an TP.HCM trong một phiên chất vấn về nạn cướp giật.
Nguyễn Văn Hiếu - Kỳ vọng làn gió mới
Trong định hướng phát triển TP.HCM đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, quận 2 có vai trò quan trọng. Đặc biệt, khu đô thị mới Thủ Thiêm (737 ha) cùng với khu vực hiện hữu quận 1, 3, một phần quận 4 và quận Bình Thạnh sẽ trở thành khu đô thị trung tâm của TP, nơi người ta kỳ vọng sẽ trở thành “Thượng Hải tương lai”.
Mặc
dù được kỳ vọng là khu đô thị đẹp nhất Đông Nam Á, nhưng hiện nay khu
đô thị mới Thủ Thiêm vẫn chưa hình thành, nơi đây vẫn còn là một vùng
đầm lầy, dừa nước. Làm thế nào để kỳ vọng này không trở nên xa vời,
không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn có yếu tố con người.
Bí thư quận 2, TP.HCM Nguyễn Văn Hiếu. Ảnh: Tuổi Trẻ |
Trở thành Bí thư quận
2 khi mới 36 tuổi, Nguyễn Văn Hiếu là cán bộ trẻ, được người dân kỳ
vọng sẽ đem lại làn gió mới thúc đẩy sự phát triển của quận, cũng như
định hướng phát triển của TP. Một đô thị hiện đại trong mơ không còn xa.
Ngay
khi ứng cử đại biểu HĐND TP, trong chương trình hành động của mình, anh
Hiếu đã hứa sẽ “tăng cường kiến nghị với chính quyền TP đẩy mạnh thực
hiện các giải pháp để phát triển kinh tế TP nhanh và bền vững” và “đề
xuất giải pháp để TP đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình phát
triển giao thông, hạ tầng kỹ thuật phục vụ dân sinh”…
Trên cương vị đại biểu HĐND TP.HCM, Bí thư trẻ tuổi quan tâm đến vấn đề phát huy vai trò của tri thức trẻ, cán bộ trẻ. Nguyễn Văn Hiếu
khẳng định, sẽ đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, quan tâm đầu
tư xây dựng và phát triển các thiết chế văn hóa, giáo dục nhằm phục vụ
tốt nhất cho nhân dân quận 2, nhất là thế hệ trẻ, tạo cơ sở để họ hình
thành đầy đủ phẩm chất về lòng yêu nước, tự hào dân tộc,có trình độ
chuyên môn cao.
Tá Lâm
(VNN)
Bốn ông họ Lê (Phần 4)
Trong khi các cánh quân đang buộc phải rút lui khỏi Huế trong Mậu Thân
68 thì Trung đoàn 9 chủ lực do Lê Khả Phiêu làm Chính ủy lại được tăng
cường vào chiến trường. Gạo hết, tất cả đều rất khó khăn, dựa vào dân
cũng có hạn, vì dân đâu có nhiều gạo mà san sẻ cho bộ đội. Theo tự
truyện của nhà sử học Nguyễn Đắc Xuân, ông Trần Anh Liên, Chính ủy cánh
Bắc ra lệnh cho Đội công tác thanh niên đi quyên góp lương thực cung cấp
cho Trung đoàn 9. Có người kêu lên:
- Trời ơi, người ta đã rút ra rồi mà các ông còn vào chiến trường nữa, khổ đến thế này!
Vẫn theo tự truyện nêu trên, năm 1997, ông Nguyễn Đắc Xuân đến giúp ông
Trần Anh Liên biên tập cuốn hồi ký, nhân xem truyền hình, được biết Hội
nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) vừa bầu Lê Khả
Phiêu làm Tổng bí thư.
Ông Trần Anh Liên hỏi ông Nguyễn Đắc Xuân:
- Anh có nhớ Trung đoàn 9 vào chiến trường nhằm lúc có lệnh rút lui,
không chiến đấu được lại thiếu gạo nhờ anh em mình chạy gạo cho họ hồi
Tết Mậu Thân không?
- Dạ nhớ chứ! Em bị các bạn thanh niên Huế thắc mắc vì sao đơn vị đang thiếu gạo mà lại đem gạo chia cho bộ đội chủ lực.
Ông Liên cười khặc khặc:
- Đúng rồi, đúng rồi. Ông Chính ủy đơn vị thiếu gạo ấy là Lê Khả Phiêu
vừa được bầu làm Tổng bí thư đấy. Ông ta tiến bộ nhanh thật.
Trước đó, tháng 1.1994, Lê Khả Phiêu được bầu vào Bộ chính trị. Như vậy,
việc ông ta vào Bộ chính trị hay lên Tổng bí thư đều không phải diễn ra
trong Đại hội Đảng toàn quốc, mà là Đại hội giữa nhiệm kỳ và Hội nghị
Trung ương.
Rời Cambodia, ông Lê Đức Anh trở về nước năm 1986, làm Tổng tham mưu
trưởng rồi Bộ trưởng Quốc phòng. Sau khi quân VN rút khỏi Cambodia, ông
Lê Khả Phiêu cũng trở về nước với chức vụ Phó Chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị. Con đường thăng tiến đến đỉnh cao quyền lực của ông
Phiêu diễn ra khá nhanh chóng.
Cũng là gặp Giang Trạch Dân, nhưng hai ông họ Lê mỗi người có một cách
ứng xử khác nhau. Ta biết, TQ luôn luôn tìm mọi cách tác động vào nội bộ
VN và họ sử dụng rất nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc. Để bình thường
hóa quan hệ Việt – Trung, tháng 8.1991, với tư cách “đặc phái viên của
Bộ chính trị”, ông Lê Đức Anh sang thăm nội bộ TQ. Trước khi vào hội
đàm, có ít phút trò chuyện, Giang nói với Lê Đức Anh: “Tôi ở địa phương
mới lên làm Tổng bí thư. Trước chưa biết, nhưng nay nghiên cứu lịch sử
mới biết Trường Sa là của TQ”. Ông Lê Đức Anh đáp: “Tôi cũng giống như
đồng chí, tôi ở chiến trường mới về. Khi về Trung ương có dịp nghiên cứu
về lịch sử, địa lý và pháp lý thì thấy rõ, Hoàng Sa và Trường Sa là
thuộc lãnh thổ VN”. Nghe vậy, Giang không nói gì nữa, chỉ cười. Rõ ràng,
đây là một cú nắn gân của Giang.
Ông Lê Khả Phiêu |
Khi Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư, Giang lại đề nghị cuộc gặp với ông
Phiêu để bàn về biên giới và biển Đông. Đáng chú ý là trong những người
cùng đi có Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Chánh Văn phòng Trung
ương Đảng Trần Đình Hoan bị phía TQ ngăn lại, không cho vào hội đàm. Sự
việc này đã gây nên nhiều phiền phức cho Lê Khả Phiêu sau này. Vào ngày
cuối cùng của năm 1999, truyền hình đột ngột loan tin về việc ký Hiệp
ước biên giới trên đất liền giữa VN và TQ – một Hiệp ước có rất nhiều
tranh cãi cho đến nay.
Dường như Lê Khả Phiêu muốn tạo ra một sự khác biệt so với những người
tiền nhiệm và có vẻ ông đã làm được điều đó, chí ít là ở bề nổi. Cuộc
họp báo quốc tế do Tổng bí thư chủ trì sau khi nhận chức không lâu với
gần 200 phóng viên trong nước và quốc tế tham dự quả là một sự kiện đặc
biệt. Ngồi “rỉ tai, mách nước” bên cạnh Lê Khả Phiêu là Nguyễn Mạnh Cầm,
Bộ trưởng Ngoại giao. Cũng có đôi câu hỏi tương đối khó từ phóng viên
phương Tây, nhưng ông ta trả lời khá trôi chảy. Các ngài đổi mới, chấp
nhận kinh tế thị trường, vậy tại sao Thủ tướng Phan Văn Khải mới đây lại
tuyên bố không đi theo chủ nghĩa tư bản? Ngài xuất thân từ quân đội,
liệu ngài có hiểu biết về kinh tế hay không? Theo ông Phiêu, Phan Văn
Khải trả lời như vậy là đúng. Còn nói tôi xuất thân từ quân đội, thì
nhiều người tiền nhiệm của tôi như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười cũng vậy. Dĩ
nhiên, chúng tôi nắm vững các vấn đề về kinh tế…
Về lĩnh vực chống tham nhũng, ông Lê Khả Phiêu cũng nổi lên rất ấn
tượng, mà đầu tiên là vụ cắt chức Ngô Xuân Lộc, Phó Thủ tướng. Sau khi
thôi chức Tổng bí thư, phát biểu của ông về xây dựng, chính đốn Đảng, về
chống tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân ngày càng mạnh mẽ.
“Cống ở xã tôi cũng bị xơi một nửa” – câu nói rất hay của ông Lê Khả Phiêu nhân trả lời phỏng vấn tờ Tuổi trẻ năm 2005:
“Ngay ở xã tôi, làm cái cống cũng bị xơi hơn một nửa. Tôi về thì bà con
bảo: hai trăm triệu mà xơi tới trăm hai, còn có tám chục. Đấy mới chỉ là
công trình nhỏ thôi đấy”. Ở đây, “xơi” là một từ được ông dùng rất
“đắt”.
Đó là chuyện ở xã ông Lê Khả Phiêu. Còn với bản thân ông thì sao?
- “Tôi nói thật có chuyện họ đến biếu tiền, năm nghìn, mười nghìn chứ không ít đâu”.
- “Năm, mười nghìn đô?”.
- “Đô chứ. Lúc tôi còn thường trực Bộ Chính trị đã có rồi, lúc làm Tổng bí thư càng có”.
Thật khó mà tin được một ông Tổng bí thư bộc lộ vấn đề chống tham nhũng
một cách thẳng thắn đến thế. Năm 2009, trang mạng BBC có loan truyền
hình ảnh đến thăm nhà cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Người ta thấy, trong
nhà ông có từ cặp ngà voi đến một chiếc lư được bảo quản cận thận trong
hộp kính, chiếc trống đồng, còn trên sân thượng là vườn sau rạch –
những hình ảnh chẳng biết hư thực ra sao.
Thời gian gần đây, người ta ít khi thấy ông Lê Khả Phiêu lên tiếng, kể
cả việc triển khai Nghị quyết 4 về phê bình và tự phê bình mới đây,
trong khi ông đi thăm đây đó lại khá nhiều. Cũng có ý kiến cho rằng,
việc ông thường xuất hiện với một ông “quan to” Chính phủ gây nên sự
“phản cảm” – vì uy tín ông “quan to” ấy rất thấp và ngày càng xuống
thấp. Nhưng, trong chính trị, người ta hiểu rằng, thông điệp mà ông phát
ra, có lẽ, chính là ở sự “sát cánh” ấy.
Bốn ông họ Lê – thực ra chỉ có ba ông họ Lê thôi, còn một ông họ Phan
(Phan Đình Khải – Lê Đức Thọ). Những chức danh quan trọng nhất trong
thiết chế chính trị VN, bốn ông họ Lê đều đã từng nắm giữ: Tổng bí thư,
Bí thư thứ nhất, Chủ tịch nước, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Bí thư
Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ
nhiệm Tổng cục chính trị, Thượng tướng, Đại tướng…
Có những sự trùng hợp kỳ lạ: Lê Duẩn và Lê Đức Thọ là một “cặp bài
trùng” nổi tiếng, cộng tác chặt chẽ với nhau từ những ngày chống Pháp,
ấy thế mà thời gian cuối đời hai ông lại có những ngã rẽ đáng kinh ngạc.
Còn ông Lê Đức Anh và Lê Khả Phiêu, có thể nói điều gì tương tự? Việc
ông Lê Khả Phiêu lên Tổng bí thư, tất nhiên ảnh hưởng của ông Lê Đức Anh
rất lớn; ngược lại, cũng từ ảnh hưởng của ông Lê Đức Anh và hai ông có
vấn khác mà ông Phiêu bị hạ bệ. Thời tiết chính trị, thật chẳng bao giờ
có thể dự đoán chính xác được.
Bốn ông họ Lê đều nổi danh trong lịch sử VN hiện đại và chúng ta tin rằng rồi đây lịch sử sẽ dành cho họ những hàng chữ nét đậm.
Lê Mai(Blog )
Cựu Tổng BT Lê Khả Phiêu: Đảng và Nhà nước cần tự xem lại mình
Cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu nhìn nhận nạn tham nhũng đang làm mục nát
chế độ, Đảng Cộng Sản và Nhà Nứơc VN cần tự xem lại mình. Hôm nay chúng
tôi chọn điểm 3 bài báo chủ yếu, liên quan tới quan điểm của nhân vật
từng lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ 1997-2001.
Sau bài phỏng vấn cựu thủ tứơng Võ Văn Kiệt nhân dịp kết thúc chiến
tranh VN, nay tới lượt một người cùng thời với ông Kiệt là tổng bí thư
Lê Khả Phiêu lên tiếng trên báo chí bật mí nhiều sự kiện mang tính chấn
động.
Cán bộ tha hóa, dân mất niềm tin vào Đảng
Sở dĩ chúng tôi dùng hai từ này là vì ông Phiêu và ông Kiệt là hai nhân
vật ở chức vụ cao nhất mà khi cầm quyền lại gần như không có đủ quyền
lực, trong một hệ thống chính trị một đảng, mà như lời ông Phiêu nói là
tham nhũng từ trên xúông dưới, và từ dứơi lên trên.
Tờ Tiền Phong đưa lên mạng ngày 21/5 bài phỏng vấn cựu tổng bí thư Lê
Khả Phiêu. Bài báo mang tựa ‘Phát huy được dân chủ là nguồn lực vô tận’,
khi trả lời nhà báo ông Phiêu hàm ý rằng đảng cộng sản VN đã bị mất
niềm tin của nhân dân.
Ông Phiêu đưa ra giải pháp ba điểm để lấy lại lòng tin của dân, thứ nhất
ông Phiêu cho rằng đảng đang chia rẽ trầm trọng cần thống nhất lại về
quan điểm chính trị và tư tưởng.
Điều thứ hai theo ông Phiêu cán bộ đảng viên nay bị tha hoá, không có
phẩm chất đạo đức, đảng cần chỉnh đốn. Còn điểm thứ ba mà ông đặt nặng
là đảng phải tập trung chỉ đạo chống tham nhũng, lãng phí quan liêu.
Tham nhũng làm mục nát chế độ
Tham nhũng như khối u ung thư, người ta không dám cắt bỏ mà chấp nhận
sống chung với nó. Chống tham nhũng không thành công là vì cán bộ phần
lớn bị há miệng mắc quai, hoặc do chính họ dựa vào nhau để vơ vét.
Sau tờ Tiền Phong 4 ngày, hôm 25 và 26-5 báo Tuổi Trẻ đưa lên mạng bài
phỏng vấn cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu, được thực hiện trong hai bài
liên tiếp. Tờ Tuổi trẻ tập trung vào chủ đề chống tham nhũng, và ông cựu
tổng bí thư trả lời thẳng vào vấn đề. Phát biểu của ông Lê Khả Phiêu
làm dư luận ngạc nhiên.
Ông Lê Khả Phiêu nhìn nhận quốc nạn tham nhũng ngày một thêm trầm trọng
hơn. Tham nhũng hiện nay không còn mang tính cá nhân, chuyện của một vài
người, theo lời ông Phiêu tham nhũng đã trở thành đường dây từ dứơi lên
trên, từ trên xúông dứơi.
Ông Phiêu ví von tham nhũng như khối u ung thư, người ta không dám cắt
bỏ mà chấp nhận sống chung với nó. Theo ông, chống tham nhũng không
thành công là vì cán bộ phần lớn bị há miệng mắc quai, hoặc do chính họ
dựa vào nhau để vơ vét.
Theo lời ông Lê Khả Phiêu, người có chức gắn với người có tiền, có tiền
dựa vào quyền để sinh ra nhiều tiền hơn, thậm chí còn tạo ra quyền lực.
Và đến một lúc nào đó người có tiền sẽ chi phối quyền lực.
Cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. AFP PHOTO |
Lãnh đạo bất lực
Ông Lê Khả Phiêu nhìn nhận một sự thực, mà theo chúng tôi, từ trứơc tới
nay chưa có một nhân vật lãnh đạo nào của đảng và nhà nứơc dám nói. Ông
xác nhận là trong thời gian còn làm tổng bí thư, có những vụ tham nhũng
mà bản thân ông và ông Võ Văn Kiệt thủ tướng chính phủ lúc ấy, đã đành
bất lực không thể làm gì.
Tham nhũng đã thành dây che chắn cho nhau, thậm chí được che chắn từ nứơc ngoài nữa.
Ông Phiêu giải thích là tham nhũng thành dây che chắn cho nhau, thậm chí
được che chắn từ nứơc ngoài nữa. Đáng tiếc là nhà báo Đà Trang không
yêu cầu ông Lê Khả Phiêu nói rõ về điều đó, chẳng lẽ trong một chế độ mà
hai ông quyền lực nhất là tổng bí thư đảng và thủ tứơng lại không chống
nổi những mạng lưới đường dây che chắn cho nhau.
Chúng tôi có trao đổi với một số người am hiểu tình hình trong nước thì
được giải thích rằng, trong nội bộ đảng và trong chính quyền có những
thế lực liên kết che chắn cho nhau, khiến cho hai ông chóp bu là tổng bí
thư và thủ tướng cũng chẳng làm gì được.
Còn che chắn từ nứơc ngoài, thì được hiểu rằng từ các đảng và nhà nứơc
cộng sản anh em. Không hiểu là những luận cứ theo kiểu suy diễn như vừa
nói, có phải là những điều ông Lê Khả Phiêu chưa nói hết hay không.
Phải tự xem lại mình
Muốn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống tham nhũng thì Đảng phải tự xem lại mình, Nhà Nứơc phải tự xem lại mình.
Một phát biểu của ông Lê Khả Phiêu trên báo Tuổi Trẻ ngày 25/5 được xem
là gây sốc với chế độ, cựu tổng bí thư nhận định rằng, muốn giành thắng
lợi trong cuộc chiến chống tham nhũng thì Đảng phải tự xem lại mình, Nhà
Nứơc phải tự xem lại mình.
Ngày 26/5, Tuổi trẻ Online đăng tiếp bài phỏng vấn cựu tổng bí thư lê
Khả Phiêu, nhân vật quyền lực nhất ở Việt nam giai đoạn 1997-2001. Trong
bài này, ông Lê Khả Phiêu kể lại những kinh nghiệm của bản thân trong
lúc còn tại chức.
Theo lời ông Phiêu, lúc đó nhiều người tìm cách hối lộ ông, tới nhà thăm
để lại bó hoa kèm gói tiền, trong đó thường là tiền đô khoảng năm, mười
nghìn. Khi ông Phiêu sai chánh văn phòng Trần Đình Hoan hoặc thư ký
trung ương đảng Nguyễn Giáp Dần đi tìm hiểu sự việc và trả lại tiền hối
lộ, thì nhân vật đưa hối lộ còn phát biểu rằng, tổng bí thư không nhận
thì họ xin biếu cho ông Hoan ông Dần.
Bây giờ vẫn thế
Ông Phiêu kể lại những chuyện vừa nói và cho biết đã chỉ cảnh cáo người
đưa hối lộ thôi, vì ông muốn giáo dục mà không muốn làm to chuyện. Những
độc giả của báo Tuổi Trẻ có đọc bài báo chắc phải mỉm cười, cán bộ nhỏ
tham ô vài chục triệu ở tù rục xương, cán bộ lớn đưa hối lộ 10 ngàn đô
la chỉ bị cảnh cáo giáo dục.
Bạn nghĩ gì về vấn đề này? Xin email về Vietnamese@www.rfa.org
Không hiểu đây có phải là câu chuyện sống chung với khối u tham nhũng, trừng phạt thì sẽ bứt dây động rừng hay không.
Trở lại câu chuyện của ông Lê Khả Phiêu trên báo Tuổi trẻ. Những điều
cựu tổng bí thư bật mí, chứng tỏ tham nhũng trong guồng máy chính trị
công quyền ở nứơc Việt Nam XHCN đã bám rễ từ lâu, chuyện bì thư hối lộ
là chuyện thường tình, và thường tình đến tận cấp cao nhất là ở vị trí
tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam.
Ông Lê Khả Phiêu còn nói với nhà báo rằng, chuyện bì thư hối lộ bây giờ chắc vẫn như thế.
Nam Nguyên
© Radio Free Asia
‘Văn Minh Sông Hồng’ có nhiều bất trắc cho du khách
Năm nay - 2013, được quảng bá là “Năm Du Lịch Quốc Gia” - nhằm giới
thiệu “Văn Minh Sông Hồng” và Tổng Cục Du Lịch của chính quyền CSVN loan
báo đã chọn Hà Nội, Hải Phòng để tổ chức các hoạt động chính, giới
thiệu “Văn Minh Sông Hồng.”
Chưa rõ những thông tin mà Tổng Cục Du Lịch của chính quyền CSVN cung
cấp cho du khách về “Văn Minh Sông Hồng” có tạo được ấn tượng tốt đẹp
nào trong họ hay không. Trên thực tế, “Văn Minh Sông Hồng” đang làm
thiên hạ phát hoảng.
Riêng tuần qua, trong vòng năm ngày, từ 25 đến 28 Tháng Tư, có tới ba vụ
lừa đảo, bắt chẹt du khách, xảy ra tại Hà Nội - nơi được xem là cái nôi
của “Văn Minh Sông Hồng.”
Vụ đầu tiên xảy ra hôm 23 Tháng Tư với bà Schultz Ilona Jane. Bà Jane đưa hai con từ Úc sang Việt Nam chơi.
Ba du khách người Pháp bị hăm đánh và dọa giết sau khi thắc mắc tại sao công ty du lịch, khách sạn lại câu kết với nhau để gạt họ. (Hình: Ðất Việt) |
Tại Hà Nội, bà thuê một chiếc xích lô để đưa con đi xem múa rối nước.
Mức thù lao mà bà Jane thỏa thuận với người đạp xích lô là 70,000 đồng.
Thay vì đưa cả ba mẹ con đến nơi họ cần tới (cách đó chưa đầy một cây
số), người đạp xích lô đã đưa họ đi một vòng, kéo dài quãng đường vận
chuyển thành năm cây số, rồi dừng lại tại một đoạn đường vắng, bắt bà
Jane phải trả 1 triệu 300 ngàn đồng. Lấy tiền xong, người đạp xích lô bỏ
đi, để cả ba mẹ con bà Jane ở giữa đường. Xui cho người đạp xích lô là
trước khi sang Việt Nam, bà Jane đã được vài người bạn từng đến Việt Nam
chia sẻ một số kinh nghiệm, nên lúc thuê xích lô, bà Jane đã kín đáo
chụp ảnh anh ta. Thành ra sau khi vừa bị gạt, vừa bị tống tiền, bà Jane
cầm hình ảnh người đạp xích lô đến gặp công an, yêu cầu can thiệp. Ngày
hôm sau, công an tìm ra người đạp xích lô, thu lại khoản tiền mà anh ta
đã cưỡng đoạt. Hôm sau nữa, tổng cục trưởng Tổng Cục Du Lịch Việt Nam,
tìm gặp bà Jane. Ông ta xin lỗi, trả lại tiền, tặng bà Jane một món quà,
kèm tuyên bố, chuyện lừa đảo, tống tiền du khách là cá biệt. Việt Nam
luôn giám sát chặt chẽ, xử lý kịp thời những vụ bắt chẹt du khách...
Ngay vào ngày ông tổng cục trưởng Tổng Cục Du Lịch Việt Nam tuyên bố như
vừa kể, có thêm ba du khách người Pháp bị lừa. Lúc trả tiền cho tour du
lịch tới Hà Nội, ba du khách này đã chọn một khách sạn nằm trong khu
phố cổ. Ðến phi trường Nội Bài, họ được một taxi đón và chở tới một
khách sạn ở khu vực khác. Sau khi phát giác mình bị lừa, ba du khách
người Pháp quyết định trả phòng, đổi khách sạn. Thay vì xin lỗi vì đã
câu kết với nhau để gạt người khác, nhân viên khách sạn đòi hành hung và
dọa giết cả ba nạn nhân...
Vụ lừa đảo, đòi đánh và dọa giết ba du khách Pháp chưa kịp lắng xuống
trong giới du khách thăm Việt Nam, tìm hiểu về “Văn Minh Sông Hồng” thì
lại có thêm chuyện. Một cặp vợ chồng người Úc, thuê taxi đi thăm bảo
tàng, lúc đến nơi, trong khi đồng hồ tính cước xác định số tiền là
98,000 đồng thì người lái xe taxi, viết hóa đơn, buộc cặp vợ chồng này
phải trả... 980.000 đồng. Giống như bà Jane, cặp vợ chồng này đã được
vài người bạn từng đến Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm nên trước khi rời
khỏi xe, họ kín đáo chụp ảnh cả tài xế, đồng hồ tính cước, lẫn số xe để
có bằng chứng đòi chính quyền phải can thiệp...
Không phải tự nhiên mà các nạn nhân trong ba vụ vừa kể thủ sẵn máy ảnh,
máy ghi âm để “thu thập, củng cố chứng cứ” về chuyện bị lường gạt, bắt
chẹt khi đến Hà Nội tìm hiểu về “Văn Minh Sông Hồng.” Chuyện lường gạt,
bắt chẹt du khách là một thực trạng đã tồn tại hàng chục năm và đã từng
làm nhiều du khách “ngậm đắng, nuốt cay.” Tiếng dữ đồn xa, những du
khách đến sau không ngu ngơ nữa.
Ðồng bằng sông Hồng vốn là cái nôi của người Việt. Ở đó có một nền văn
minh cách nay hàng ngàn năm. Chỉ có điều “Văn Minh Sông Hồng” đã bị thủ
tiêu cách nay 59 năm. Không thể ghép môi trường, khung cảnh xã hội ở Hà
Nội từ 1954 đến nay vào “Văn Minh Sông Hồng.” Ghép như thế là “ngoa
ngôn.” Sự “ngoa ngôn” làm tiền nhân đau lòng và người Việt hổ thẹn...
Quảng bá 2013 như “Năm Du Lịch Quốc Gia,” để giới thiệu “Văn Minh Sông
Hồng,” trong khi Hà Nội hỗn tạp như thế có thể là lý do khiến du khách
nước ngoài sợ cả Hà Nội lẫn Việt Nam. Theo các số liệu do Tổng Cục Thống
Kê của Việt Nam công bố, trong bốn tháng đầu năm nay, chỉ có 2 triệu
400 ngàn lượt du khách nước ngoài đến Việt Nam, giảm 5.3 % so với cùng
kỳ năm ngoái.
(Người Việt)
Lê Minh Hà - Giữa năm 1972 và 1975
Hà nội xưa (Hình minh họa) |
Giữa năm 1972 và 1975, tôi có một khoảng thời gian hết sức yên ổn và
sung sướng. Sau này nghĩ lại, có vẻ như đó là những tháng ngày sống dễ
nhất trong tuổi thiếu thời và tuổi con gái của tôi. Trọn một năm trời:
từ tháng 9. 1973 tới tháng 9. 1974. Hết chiến tranh đánh phá. Được trở
lại Hà Nội, với những hàng cây cao bóng cả, hương mùa, phố hiền, kem que
và đèn điện. Và không phải đi học.
Mẹ tận dụng sự tôi đi học quá sớm, thấy con nắng mưa cò cử rút ruột rút
gan, bắt tôi bỏ học lần nữa, đi nằm viện. Từ Việt Nam - Cu Ba, trở về
trường được hai ngày, tôi lò dò sang Nguyễn Bỉnh Khiêm viện Đông Y, khi
đó toàn khu điều trị nội trú bệnh nhân nhi bây giờ vẫn còn là những dãy
nhà một tầng đẹp đẽ, hành lang rộng, cửa trước cửa sau đâm thẳng ra mấy
cái hầm công cộng to thù lù chưa phá, rất tiện cho đứa nào còn đủ sức
leo trèo và đứa nào có cơ ngoẻo ngồi ngắm cỏ hoa dưới nắng. (Ấy, có hẳn
một năm nằm viện lúc nhỏ, cộng với những lần đi cấp cứu ở A9 Bạch Mai mà
tôi chưa bao giờ mất lòng tin vào tình yêu người của các thầy thuốc
Việt Nam, ngay cả khi sếp đầu ngành của họ là… như hiện giờ.)
Bệnh nhân hen và thấp khớp cùng độ tuổi chung nhau một phòng rất rộng,
thoáng đãng, được các hộ lý chăm chút sạch bóng. Cái Lan da đen đen hơn
tôi một tuổi nhà mạn thành Sơn, bị thấp khớp chạy vào tim vì dầm nước
chăn vịt năm này qua năm khác, đi đâu cũng phải xỏ tay vào hai cái ghế
con bố nó đóng thêm cái quai làm từ lốp xe ô tô mà lết. Nó chỉ đứng lên
được chốc lát sau khi châm cứu, mặt mũi sáng bừng lảo đảo lần từ phòng
bác sĩ ra để mình rơi vào tay chúng tôi tụ tập chờ tới lượt mình, nhân
thể xem như xem phù thủy làm phép. Thằng Minh bằng tuổi cái Lan, bệnh cò
cử, rất đẹp trai, mắt màu chì, lúc ngồi một mình dõi ra cái nóc hầm
nắng cỏ mắt nó y như có khói dâng dâng. Cái Lan thì xởi lởi bô lô ba la,
thằng Minh kín đáo. Cứ mỗi lần trở trời, mà cái xứ Bắc giời đất sao mà
nghiệt, lũ chúng tôi đứa nào cũng khổ. Cái Lan da đen, mặt xám lại vì
đau, nằm trên giường đầu gối lồi lên một cục không co lại nổi, mím hàm
răng hơi vẩu vẩu bình thường rất duyên, nuốt liên tục cái gì nằm giường
bên này cứ nghe ực ực, rồi đột nhiên nó hờ „ u ơi là u ơi“. Thằng Minh
giường chênh chếch thì đúng một tư thế như tôi, hay tay chống xuống
chiếu, ngửa mặt hớp không khí. Phòng bệnh về đêm toàn tiếng ran rít của
bọn hen, chốc chốc thêm tiếng hờ của bọn thấp khớp. Từng lúc các cô y tá
vào, đứa này phải tiêm, đứa kia châm cứu dứt cơn. Ngoài kia gió đông
xốc lá trên nóc hầm bỏ không xào xạc. Chẳng biết buồn. Chỉ thấy khổ quá
là khổ.
Tôi với thằng Minh nặng nhất, nhiều lần lên cơn ngồi suốt cả đêm. Mồ hôi
vã. Vai, ngực, bụng đau rút. Tai đầy tiếng thở của chính mình. Gió động
lá ngoài kia, không khí nhiều như thế, mà không thở được. Hai đứa cứ
nhìn trần nhà mà hớp khí như cá ngáp, mặt tôi đầy nước mắt, thì bỗng:
"Má ơi".
Thằng Minh khóc. Đến cái ngày trời đất đổi, cả lũ đồng loạt dứt cơn, lò
dò đẩy nhau trèo lên nóc hầm sưởi nắng, thằng Minh không biết sao ra
ngồi với tôi, tự kể. Giọng nó đãi ra rất mềm, hồi đó tôi chẳng hiểu
giọng miền nào. Hóa ra má nó đẻ nó ở Hà Nội. Nhà nó Hàng Bồ. Nhưng bây
giờ…
Má Minh mất khi ba Minh còn trong chiến trường. Anh chị em còn nhỏ, ba
má người Nam tập kết nên mấy anh chị em được chia ra gửi về trường con
em miền Nam. „Minh ở T64 dưới Hải Phòng. Ngày chị Cam chưa đi thiếu sinh
quân bên Ba Lan, chị lớn nhất thỉnh thoảng còn được đi thăm các em. Giờ
thì… Minh ốm, trường cho đi chữa bệnh thế này, viết thư cho chị không
biết có ai gửi đi giùm không? Ba chắc cũng không biết…”
Có một ngày chủ nhật trời đất đẹp với bệnh của bọn tôi, thằng Minh biến
mất cả hai bữa trưa chiều. Tối về, nó buồn xo. Lại phải chờ hôm sau tôi
mới biết. Minh xin y tá về thăm nhà ở Hàng Bồ. Nhà không người khóa để
đó. Nó ngồi trước cửa nhà một lúc rồi đứng lên đi lang thang, không muốn
hàng xóm nhận ra. Nó từng học ở Hà Nội, có điều, mới hơn mười tuổi, bạn
bè xa đi đâu có biết và dám đến tìm nhau. Minh đi lang thang suốt một
ngày.
Một cuối tuần, buổi trưa Minh có khách. Lúc cô Mão hộ lý không chồng mặt
rỗ hoa suốt ngày lảu bảu nhưng thương bọn tôi cực kì dẫn một bác chột
mắt người xương xương trong bộ quân phục nom tàu tàu vào phòng, thằng
Minh đứng mớm đít thành giường như sợ thẳng người lên là đổ. Nó nhìn
người khách, mắt lại như dâng đầy khói y như lúc có một mình, môi mấp
máy. Đấy là ba nó, bác Huy.
Bác Huy là bác sĩ quân y bị thương mới từ chiến trường ra. Thế hệ chúng
tôi búp măng non lớn lên trong lò Cách mạng ba tuổi hát bé bé bằng bông
trên đường đi sơ tán lần thứ nhất, quen sống xa cha mẹ và vì thế không
quen lắm với sự ôm ấp, nên tôi, lúc đó chưa biết bác chột mắt là ba
thằng Minh, hết sức kinh ngạc ngó từ xa cảnh ba con nó ôm nhau. Thằng
Minh khóc tôi biết rồi. Nhưng gặp ba mà nó lại kêu “Má ơi”. Còn ba nó...
Nước mắt trào ra từ con mắt còn lại của người đàn ông đầu bạc có một
cái gì đó thật đáng sợ.
Nó mất mẹ, xa cha từ khi bé, có khi những ngày đó là nó được gần ba nó
nhiều nhất. Bác Huy cuối tuần đến thăm con, ba con nó ngồi với nhau, rù
rì những gì chẳng biết, nhưng chưa bao giờ tôi nghe tiếng bác Huy với
thằng Minh cười to. Tháng chín mùa thu, năm học mới tới, qua khai giảng
rồi mẹ nghĩ thế nào cho tôi về đi học lại. Thằng Minh cũng về trường nó,
trường con em miền Nam T64 tận Hải Phòng. Không bao giờ tôi gặp lại nó.
Nhưng tôi vẫn nhớ nó rất đẹp trai, mắt màu khói, có một anh và một chị,
chị nó tên Cam
Nhớ giọng nó, giọng Hà Nội pha Nam hay giọng Nam pha Hà Nội. “Minh ở Tê Sáo Tư”, lần đầu nghe tôi đực mặt không hiểu gì.
Tôi cũng nhớ như vừa gặp hôm qua bác Huy ba nó, dáng gầy gầy, khuôn mặt
đường nét thanh thoát y như mặt thằng Minh, nhưng chỉ còn có một mắt.
Tôi nhớ những đêm chúng tôi khổ chung nỗi khổ vì không thở được, thằng
Minh kêu “Má ơi”. Khi đó, tôi đâu biết rằng chẳng bao lâu đâu mình sẽ
phải vật vã với không chỉ mưa phùn gió bấc Hà Nội, còn cơm áo nữa, rồi
có lúc sống không bằng chết cũng buột miệng kêu “Mẹ ơi”. Một mình.
Khi đó, tôi chưa biết rằng với số đông, hết chiến tranh, sống qua thời
hậu chiến rồi mới hiểu chiến tranh là thế nào: Khủng khiếp.
PS: M,
nếu đọc được những dòng này thì tìm cách liên lạc với tớ. nhé.
Ngày đó, nhiều năm qua phố cũ nhà M, tớ cứ thầm hỏi không biết M. ở số
nhà nào. Không biết có khi nào M. và các anh chị về lại đó.
Sau 30.4, nhiều khi ốm, ngồi một mình nhớ cái ngày chúng mình ngồi qua
đêm trong phòng bệnh, tớ lại nghĩ chắc nhà M. về Nam hết rồi, chắc M.
khỏi rồi.
Tớ cũng mất mẹ lâu rồi. M. còn nhớ mẹ tớ vẫn đến viện hàng ngày thăm tớ không? Mẹ tớ đi chỉ một năm sau ngày chiến thắng.
Gửi lời thăm bác Huy nhé, nếu ba M…
Berlin 30.4.2013
Lê Minh Hà
(Diễn Đàn)
Quyền Phúc Quyết và Trưng Cầu Dân Ý
Ba năm trước đây, ông Nguyễn Văn An – nguyên ủy viên Bộ Chính Trị (hai khóa 8 và 9), cựu Chủ Tịch Quốc Hội (2001-2006), đã lên tiếng đề nghị Đảng Cộng Sản Việt Nam cho “Dân được quyền phúc quyết Hiến Pháp và sửa đổi Hiến Pháp để đúng nghĩa là người chủ đất nước”. Ý kiến này đã dấy lên cả một làn sóng tuyên truyền trong giới trí thức để đòi thực hiện “quyền phúc quyết”. Tin tức mới nhất trong những ngày gần đây cho thấy Chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến tán thành đề nghị này.
Câu hỏi đặt ra là: nếu Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng chính thức tán thành đề nghị của Chính Phủ thì dấu hiệu đó có mở đường cho một chế độ dân chủ thật sự tại Việt Nam như mong ước của rất nhiều người hay không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xem xét lại vấn đề từ cội rễ: quyền phúc quyết có phải là cốt tủy của quyền lập hiến hay không?
Quyền Phúc Quyết và Trưng Cầu Dân Ý:
Tác giả Mai Thái Lĩnh |
Khái niệm “quyền phúc quyết” có nguồn gốc từ Hiến Pháp 1946 của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Điều 21 của bản hiến pháp này ghi:
“Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến Pháp và những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và 70.”
Xét về mặt ý nghĩa, từ “phúc” 覆 trong tiếng Hán-Việt” có nghĩa là “xét kỹ” (vd: phúc khảo, phúc thẩm). “Phúc Quyết”
tức là xét kỹ, là xem xét lại quyết định đã có trước. Như vậy, quyền
phúc quyết có thể được hiểu là quyền của người dân được xem xét lại hiến
pháp, các sửa đổi hiến pháp, hoặc các luật, các quyết định đã được Nghị
viện hay Quốc hội thông qua trước đó. Kết quả của phúc quyết sẽ là kết
quả cuối cùng.
Điều thứ 32 của Hiến Pháp 1946 ghi: “Những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số
nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật định.” Điều thứ 70
ghi: “Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây: a) Do hai phần ba
tổng số nghị viên yêu cầu. b) Nghị Viện bầu ra một ban dự thảo những
điều thay đổi. c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn
thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.” Đối chiếu với các hình thức thực hành dân chủ đã được áp dụng trên thế giới, “quyền phúc quyết những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”
(điều 32) là một loại trưng cầu dân ý có tính nhiệm ý (optional
referendum) - có nghĩa là không nhất thiết diễn ra, chỉ diễn ra khi có
yêu cầu của Nghị viện hay từ phía Chính Phủ, v.v… Còn “quyền phúc quyết hiến pháp”
(điều 70) chính là một loại trưng cầu dân ý có tính bắt buộc (mandatory
referendum) – nghĩa là chính quyền nhất thiết phải thực hiện mỗi khi
muốn sửa đổi hay viết lại hiến pháp.
Kết quả của trưng cầu dân ý nhiệm ý có thể là ràng buộc (binding:
phải thực hiện theo đúng kết quả của trưng cầu dân ý) hoặc không ràng
buộc (non-binding: kết quả của trưng cầu dân ý chỉ dùng để tham khảo,
không buộc phải tuân theo). Nhưng kết quả của trưng cầu dân ý bắt buộc
thì luôn luôn có tính ràng buộc.
Tóm lại, “quyền phúc quyết hiến pháp” là quyền tham gia vào
một cuộc trưng cầu dân ý có tính bắt buộc (mandatory referendum) để bỏ
phiếu tán thành hay không tán thành một bản hiến pháp hoặc một dự án sửa
đổi hiến pháp đã được Nghị Viện hay Quốc Hội thông qua. Kết quả của
cuộc trưng cầu dân ý đó có tính ràng buộc (binding), nghĩa là hiến pháp
hay sửa đổi hiến pháp chỉ có giá trị dựa trên kết quả của cuộc bỏ phiếu
toàn dân đó.
Sự khác nhau giữa “quyền lập hiến” và “quyền phúc quyết”:
Trước hết, chúng ta cần phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền phúc quyết.
Khi nói đến quyền lập hiến, chúng ta phải hiểu “quyền” là “quyền lực”
(power, pouvoir), tương tự như từ “quyền” trong các cụm từ: quyền lập
pháp (legislative power), quyền hành pháp (executive power), quyền tư
pháp (judiciary power). Quyền lực lập hiến (constituent power, pouvoir
constituant) là quyền lực thuộc về nhân dân – hiểu như một toàn thể.
Quyền lực ấy không thể bị phân tán, xé lẻ để chia đều cho mỗi người dân.
Trong một chế độ dân chủ, quyền lực ấy có thể được ủy nhiệm cho một cơ
quan (vd: Quốc Hội thông thường hay Quốc Hội lập hiến) nhưng cơ quan đó
phải do người dân thật sự bầu ra theo đúng những nguyên tắc của bầu cử
dân chủ. Ngược lại, khi nói đến “quyền phúc quyết”, chúng ta phải hiểu đó là “quyền của mỗi công dân được tham gia bỏ phiếu để tán thành hay bác bỏ một bản hiến pháp, một dự án sửa đổi hiến pháp”. Từ “quyền” ở đây được hiểu là “điều mà một công dân được phép làm dựa theo luật pháp” (right trong tiếng Anh, droit trong tiếng Pháp). Vd: quyền hội họp (right to assemble), quyền bầu cử (right to vote), v.v…
Chính vì lẫn lộn giữa hai khái niệm đó (quyền lực và quyền) cho nên mới có lập luận như sau của Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Phương: “Còn
đã gọi là “Hiến pháp” thì phải do người dân phúc quyết, vốn chỉ họ mới
có quyền lập hiến, xuất phát từ nguyên lý: Hiến pháp của dân phải do dân
quyết, giống như chính quyền của dân thì phải do dân bầu.”
Trong mệnh đề nói trên, nhà luật học đã lầm lẫn giữa “quyền lực” với “quyền của công dân”. Mặc dù một chính quyền dân chủ là “chính quyền của dân”, nhưng điều đó không có nghĩa là “mọi người dân đều làm Tổng Thống hay Thủ Tướng”, cũng không có nghĩa là “tất cả mọi công dân đều là nghị sĩ hay đại biểu Quốc Hội”. Tương tự như thế, khi nói “quyền lập hiến thuộc về nhân dân” thì điều đó không có nghĩa là “mỗi người dân đều trực tiếp làm ra hiến pháp”.
Để thực hiện quyền lực lập hiến – vốn là một công việc phức tạp và mang
tính chuyên môn cao, người dân có thể ủy quyền cho một tổ chức nào đó
(vd: Quốc hội lập hiến hay Quốc hội lập pháp) để thiết lập hoặc sửa đổi
hiến pháp.
Trên thế giới, phương thức làm hiến pháp và sửa đổi hiến pháp của các
quốc gia cho đến nay vẫn không hoàn toàn giống nhau. Có nước sử dụng
phương thức trưng cầu dân ý như một biện pháp nhằm tăng cường tính chính
đáng của hiến pháp, nhưng rất nhiều nước lại không áp dụng phương thức
đó, như chúng ta sẽ thấy trong phần sau.
Nhân dân thực hiện “quyền lập hiến” bằng cách nào?
Để hiểu rõ về quyền lập hiến, chúng ta có thể đối chiếu, so sánh các
phương thức thực hiện quyền lập hiến trên thế giới. Các quy định về
quyền lập hiến phái sinh (tức quyền sửa đổi hiến pháp) thường được ghi
trong các bản hiến pháp hoặc các đạo luật có tính lập hiến
(constitutional laws). Trong thực tế, các điều khoản này đã được thực
hiện nhiều lần và được thay đổi, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn
của từng quốc gia, từng giai đoạn lịch sử. Kho kinh nghiệm phong phú này
có thể giúp chúng ta nắm vững hơn về cách hành xử quyền lập hiến trong
các chế độ dân chủ hiện đại.
Mặt khác, vì số lượng các quốc gia chọn thể chế dân chủ trên thế giới
là khá lớn, cho nên cũng cần chọn một nhóm quốc gia có thể được coi là
tiêu biểu nhất làm đối tượng nghiên cứu. Nhà chính trị học nổi tiếng của
Hoa Kỳ là Robert Alan Dahl đã chia các quốc gia dân chủ thành ba nhóm:
(1) nhóm “các nền dân chủ lâu đời hơn” (older democracies), tức là “các nước dân chủ bền vững kể từ năm 1950” (countries steadily democratic since 1950); (2) nhóm “các nền dân chủ mới hơn” (newer democracies) - tức là các quốc gia có nền dân chủ ổn định liên tục từ năm 1980; và (3) nhóm “các nền dân chủ mới nhất” (newest democracies) - tức là các quốc gia mà chế độ dân chủ chỉ mới thiết lập vững chắc từ năm 1981 trở về sau.
Nhóm có thể được coi là tiêu biểu chính là nhóm thứ nhất (các nền dân
chủ lâu đời), bao gồm 21 nước: Úc (Australia), Áo (Austria), Bỉ
(Belgium), Canada, Đan Mạch (Denmark), Phần Lan (Finland), Pháp
(France), Đức (Germany), Iceland, Ái Nhĩ Lan (Ireland), Israel, Ý
(Italy), Nhật Bản (Japan), Luxembourg, Hà Lan (Netherlands), Tân Tây Lan
(New Zealand), Na Uy (Norway), Thụy Điển (Sweden), Thụy Sĩ
(Switzerland), Vương quốc Anh (United Kingdom) và Hoa Kỳ (United
States). Ngoài 21 nước này, Dahl cũng đề nghị xếp thêm Costa Rica là một
quốc gia có nền dân chủ ổn định chỉ sau đó vài năm.
Căn cứ vào thủ tục sửa đổi hiến pháp của các quốc gia này, chúng ta thấy có một số phương thức lập hiến như sau:
(1) Quyền lập hiến được giao cho Nghị viện (hay Quốc hội):
Tại một số quốc gia, việc sửa đổi Hiến Pháp được giao hẳn cho Nghị
viện (hay Quốc hội). Nói cách khác, vì Nghị Viện hay Quốc Hội là cơ quan
đại diện thật sự của nhân dân, nhân dân ủy nhiệm quyền sửa đổi hiến
pháp cho cơ quan này. Nghị Viện hay Quốc Hội – vốn là cơ quan lập pháp,
đồng thời đảm nhiệm luôn việc thực hiện quyền lập hiến.
Có hai trường hợp khác nhau:
a) Đối với các quốc gia có hiến pháp mềm dẻo (hiến pháp nhu tính, flexible constitution, constitution souple)
- như Vương quốc Anh (United Kingdom), Tân Tây Lan (New Zealand) hay
Israel, việc sửa đổi hiến pháp không khác gì công tác lập pháp thông
thường. Điều đó có nghĩa là Nghị viện có thể thay đổi Hiến Pháp bất cứ
lúc nào và thủ tục thông qua các đạo luật có tính lập hiến cũng là thủ
tục lập pháp thông thường. Tại Vương Quốc Anh, các luật mang tính lập
hiến như Đạo luật cải cách hiến pháp 2005 (Constitutional Reform Act 2005) nhằm thay đổi cấu trúc của hệ thống tư pháp hay Đạo luật về Viện Quý tộc năm 1999 (House of Lords Act 1999) hủy bỏ quy chế “thượng nghị sĩ thừa kế”
(hereditary peers) nhằm tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tính chất “quý tộc”
của Thượng viện, v.v… đều được tiến hành theo thủ tục lập pháp thông
thường.
Nói như thế không có nghĩa là việc sửa đổi hiến pháp ở các nước này
là dễ dãi hoặc tùy tiện. Nghị Viện của Vương Quốc Anh vốn là nghị viện
thuộc loại lâu đời nhất, là khuôn mẫu của nhiều nghị viện khác trên thế
giới. Thủ tục lập pháp với ba lần thông qua (thường được gọi là ba lần
đọc – three readings) là một thủ tục rất chặt chẽ. Hệ thống đảng chính
trị với đảng đối lập mạnh, báo chí được tự do, xã hội dân sự vững chắc,
hệ thống tư pháp độc lập, trình độ dân trí cao, … là những yếu tố khiến
cho việc sửa đổi hiến pháp khó hơn rất nhiều so với các quốc gia độc tài
toàn trị hoặc dân chủ giả hiệu – là những nước mà việc thiết lập và sửa
đổi hiến pháp hoàn toàn nằm trong tầm tay của đảng cầm quyền. Một dẫn
chứng khác là New Zealand. Để thông qua Đạo Luật Nhân Quyền New Zealand (New Zealand Bill of Rights Act 1990),
Nghị Viện đã trải qua 4 năm tranh luận. Và mặc dù không có quy định
chính thức nào buộc phải trưng cầu dân ý để thông qua các luật lập hiến,
Nghị Viện New Zealand đã tổ chức hai cuộc trưng cầu dân ý trước khi
thông qua Đạo luật bầu cử năm 1993 (Electoral Act 1993) làm thay đổi hoàn toàn hệ thống bầu cử tại nước này.
b) Đối với các quốc gia có hiến pháp cứng rắn (hiến pháp cương tính, rigid constitution, constitution rigide):
Việc thông qua các đạo luật có tính lập hiến phải dựa theo những thủ
tục đặc biệt với những điều kiện khó khăn hơn so với các luật thông
thường.
Vd: Tại Cộng hòa Liên bang Đức, trong khi thủ tục lập pháp thông
thường chỉ đòi hỏi một đa số tương đối (quá bán) tính trên số phiếu đã
bầu thì việc sửa đổi Luật cơ bản (Basic Law, tức Hiến Pháp) đặt ra yêu
cầu cao hơn. Theo quy định của điều 79 Luật cơ bản, một luật sửa đổi
hiến pháp phải được thông qua bởi 2/3 số thành viên của Quốc hội
(Bundestag, tức Hạ Viện) và 2/3 số phiếu bầu của Hội đồng Liên bang
(Bundesrat, tức Thượng Viện). Cần lưu ý một điều: tại Đức, Hội Đồng Liên
Bang (Bundesrat) là một cơ quan đại diện cho các bang, nhưng số đại
biểu của các bang tại Hội đồng này không phải do dân hay do cơ quan lập
pháp của bang bầu ra mà do chính phủ của các bang chỉ định. Mỗi bang có
từ 3 đến 6 phiếu bầu tại Hội đồng này. Các phiếu bầu của mỗi bang thường
được bỏ phiếu “trọn gói”, nghĩa là theo một hướng duy nhất.
Ở Costa Rica, ngoài thủ tục đặc biệt được quy định để thông qua các
tu chính án, Hiến pháp còn nói rõ: muốn sửa đổi toàn diện hiến pháp,
Quốc Hội Lập Pháp phải biểu quyết một luật (với ít nhất 2/3 tổng số
thành viên của Quốc Hội) nhằm triệu tập một Quốc hội Lập hiến
(Constituent Assembly) để sửa đổi hiến pháp; luật đó không cần có sự phê
chuẩn của nhánh hành pháp (điều 196).
(2) Quyền lập hiến được giao cho Nghị viện hay Quốc Hội nhưng phải được cơ quan lập pháp cấp dưới phê chuẩn:
Quy định này thường được áp dụng tại các quốc gia theo chế độ liên
bang. Vd: tại Hoa Kỳ, sau khi dự luật sửa đổi hiến pháp được thông qua
tại hai viện của Quốc hội (với đa số 2/3), dự luật này sẽ phải chuyển về
cho các tiểu bang phê duyệt. Nếu được cơ quan lập pháp tại 3 phần 4 số
tiểu bang phê duyệt, dự luật sửa đổi sẽ được Tổng thống ban hành như một
tu chính án chính thức (amendment). Thủ tục sửa đổi hiến pháp tại Hoa
Kỳ được đánh giá là “rất cứng”, bởi vì các dự luật sửa đổi rất
khó được thông qua. Trải qua lịch sử hơn hai thế kỷ, trong số hơn 10
ngàn đề nghị sửa đổi hiến pháp, chỉ có 33 đề nghị được hai viện của Quốc
hội thông qua, và trong số đó chỉ có 27 đề nghị trở thành tu chính án
chính thức. Riêng tu chính án 27 (quy định về lương của các nghị sĩ) đã
phải mất hơn 200 năm mới được thông qua (1789-1992).
Tại Canada – cũng là một quốc gia liên bang, Hiến pháp quy định 4
phương thức sửa đổi hiến pháp ở cấp liên bang. Trong đó, công thức chung
là dự luật sửa đổi phải được thông qua bởi Hạ viện, Thượng viện và ít
nhất 2/3 số cơ quan lập pháp ở tỉnh đại diện cho ít nhất 50% dân số
(section 38, Constitution Act 1982). Ngoài công thức chung này, còn có
công thức khó hơn (Thủ tục nhất trí, Unanimity Procedure: việc sửa đổi
phải được thông qua bởi Hạ Viện, Thượng Viện và tất cả các cơ quan lập
pháp cấp tỉnh) hoặc dễ hơn (vd: chỉ cần thông qua tại hai viện của Nghị
Viện Liên Bang – Federal Parliament Alone).
(3) Quyền lập hiến được giao cho hai Nghị viện liên tiếp, với một kỳ tổng tuyển cử xen giữa:
Thủ tục này thường được áp dụng tại các quốc gia Bắc Âu (Thụy Điển,
Iceland, Phần Lan, Đan Mạch). Vd: Tại Iceland, dựa theo điều 79 của Hiến
pháp, một sự sửa đổi hiến pháp phải được chấp nhận bởi hai Nghị viện kế
tiếp nhau, với một kỳ tổng tuyển cử xen giữa. Mặt khác, luật sửa đổi
hiến pháp được thông qua hai lần với nội dung giống hệt nhau về ngôn ngữ
diễn đạt. Như vậy, theo thủ tục này, nhân dân giao quyền lập hiến cho
cơ quan lập pháp (Nghị viện), nhưng không giao cho một Nghị viện mà giao
cho hai Nghị viện thuộc hai nhiệm kỳ kế tiếp nhau, với một kỳ tổng tuyển cử xen giữa.
Phương thức này tạo điều kiện cho nhân dân có thể dùng lá phiếu của
mình để thay đổi thành phần của Nghị viện, và do đó có thể phủ quyết một
dự án sửa đổi hiến pháp (vd: bầu cho một hay nhiều đảng đối lập chủ
trương bác bỏ dự luật sửa đổi hiến pháp).
Một phiên bản khác của phương thức đó được áp dụng tại Na Uy. Tại
quốc gia này, việc sửa đổi Hiến pháp phải trải qua Nghị Viện thuộc hai
nhiệm kỳ khác nhau, với một kỳ tổng tuyển cử xen giữa. Thế nhưng Nghị
Viện thuộc nhiệm kỳ trước chỉ ghi nhận đề nghị sửa đổi, còn việc sửa đổi
hiến pháp được giao hoàn toàn cho Nghị Viện thuộc nhiệm kỳ kế tiếp. Hai
kỳ họp để sửa đổi hiến pháp phải cách nhau ít nhất là một năm.
(4) Bầu lại Nghị viện để sửa đổi Hiến pháp:
Tại Bỉ, hiến pháp có thể được sửa đổi bởi quyền lực lập pháp của liên
bang – bao gồm Nhà Vua (trong thực tế là Chính Phủ Liên Bang) và Nghị
Viện Liên Bang. Trước hết phải bắt đầu bằng hai bản Tuyên Bố sửa đổi
Hiến Pháp (Declarations of Revision of the Constitution) - một do Hạ
viện và Thượng viện thông qua, một do Nhà vua và Chính Phủ Liên Bang ký.
Tiếp theo sau tuyên bố này, Nghị Viện Liên Bang tự động giải tán và một
cuộc bầu cử liên bang phải diễn ra. Điều này khiến cho việc sửa đổi
Hiến Pháp không thể xảy ra nếu không có một cuộc bầu cử xen vào giữa.
Tiếp theo sau cuộc bầu cử, Nghị Viện mới sẽ sửa đổi các điều khoản đã
được tuyên bố là có thể sửa đổi. Không một Viện nào có thể xem xét các
sửa đổi Hiến Pháp trừ khi có ít nhất 2/3 số thành viên hiện diện và Hiến
pháp chỉ có thể được sửa đổi nếu có ít nhất 2/3 số phiếu bầu ủng hộ
việc sửa đổi.
Phương thức tương tự cũng được áp dụng tại Hà Lan và Luxemburg.
(5) Áp dụng trưng cầu dân ý có tính bắt buộc (mandatory refrendum):
Trong danh sách 22 quốc gia nói trên, có 6 nước quy định trưng cầu
dân ý như một biện pháp bắt buộc đối với mọi sửa đổi hiến pháp (sau khi
đã được Nghị viện thông qua); đó là: Úc (Australia), Đan Mạch, Ái Nhĩ
Lan (Ireland), Nhật Bản, Thụy Sĩ và Pháp.
Có thể lấy nước Úc (Australia) làm ví dụ. Theo quy định của Hiến pháp
Úc (1900), các sửa đổi hiến pháp sau khi đã thông qua tại Nghị viện (cả
hai viện hoặc ít nhất là Hạ viện) phải được đưa ra trưng cầu dân ý. Một
tu chính hiến pháp muốn thành công phải đạt được một đa số kép (double
majority) trong cuộc trưng cầu dân ý: đa số cử tri trên toàn quốc và đa
số phiếu tại đa số bang (tức là 4 trên 6 bang). Hiến Pháp Úc được xem là
hiến pháp khá cứng, nhất là do quy định về trưng cầu dân ý. Trong tổng
số 44 dự luật sửa đổi được đưa ra trưng cầu dân ý, chỉ có 8 dự luật trở
thành tu chính án chính thức.
Trong số 6 nước nêu trên, Pháp là một trường hợp ngoại lệ: trưng cầu
dân ý chỉ là một trong hai giải pháp để chọn lựa. Theo quy định của điều
89 Hiến pháp 1958, các đề nghị hay dự án sửa đổi hiến pháp sau khi đã
được hai viện của Nghị Viện thông qua, phải được đưa ra trưng cầu dân ý.
Tuy nhiên, nếu dự án sửa đổi xuất phát từ phía Chính Phủ, thay vì đưa
ra trưng cầu dân ý, Tổng Thống Pháp có quyền chọn giải pháp khác: đệ
trình dự án này trước Nghị Viện được triệu tập dưới hình thức Đại hội (Congrès, tức là hai viện họp chung); trong trường hợp này, dự án sửa đổi phải đạt 3 phần 5 số phiếu đã bầu.
(6) Áp dụng phương thức trưng cầu dân ý như một phương thức bổ sung:
Ngoài 5 quốc gia áp dụng trưng cầu dân ý như một giải pháp bắt buộc
để thông qua sửa đổi hiến pháp, có một số quốc gia chỉ sử dụng phương
thức này như một giải pháp nhiệm ý (optional) hoặc chỉ bắt buộc trong
những trường hợp đặc biệt (như sửa đổi toàn diện, làm hiến pháp mới):
- Tại Áo (Austria), mọi sự sửa đổi hiến pháp đều được thực hiện tại
Nghị viện – chủ yếu là tại Hạ viện, hình thức trưng cầu dân ý chỉ được
áp dụng khi có đề nghị của Nghị Viện (1/3 số thành viên của Hạ viện hay
1/3 số thành viên của Thượng Viện). Tuy nhiên, trong trường hợp phải sửa
đổi toàn diện (total revision), hoặc để làm ra một hiến pháp mới thì
trưng cầu dân ý là biện pháp bắt buộc.
- Tại Ý (Italy), theo quy định của điều 138 Hiến Pháp Ý, các luật sửa
đổi Hiến pháp và các luật lập hiến phải được thông qua bởi cả hai viện
của Nghị viện bằng hai lần thảo luận liên tiếp cách nhau một khoảng thời
gian tối thiểu là 3 tháng. Trong vòng ba tháng kể từ khi được công bố,
nếu có yêu cầu của 1 phần 5 số thành viên của một trong hai viện (hay
500 ngàn cử tri, hoặc 5 Hội đồng Vùng) thì dự luật sửa đổi sẽ được đưa
ra trưng cầu dân ý. Nhưng nếu dự luật sửa đổi được thông qua ở vòng thứ
hai của cuộc bỏ phiếu của mỗi viện với đa số tuyệt đối (2 phần 3 số
thành viên của mỗi viện) thì cuộc trưng cầu dân ý sẽ không được tiến
hành;
- Tại Thụy Điển - giống như các nước Bắc Âu khác, một dự án sửa đổi
hiến pháp phải được thông qua hai lần bởi hai Nghị viện kế tiếp nhau,
xen giữa là một kỳ tổng tuyển cử. Tuy nhiên, sau khi dự án sửa đổi đã
được thông qua lần thứ nhất, nếu có đề nghị của 1 phần 10 số thành viên
Nghị viện và nếu đề nghị này được 1 phần 3 số thành viên Nghị Viện ủng
hộ thì dự luật sửa đổi phải được đưa ra trưng cầu dân ý. Cuộc trưng cầu
dân ý này được thực hiện cùng lúc với cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc.
Nếu trong cuộc trưng cầu dân ý này, số phiếu chống vượt quá một nửa
tổng số phiếu bầu hợp lệ, đề nghị sửa đổi hiến pháp sẽ bị bác bỏ.
Như vậy, trong tổng số 22 quốc gia được coi là tiêu biểu của nền dân
chủ hiện đại trên thế giới, chỉ có 6 nước áp dụng trưng cầu dân ý để
thực hiện quyền lập hiến theo đúng nghĩa của khái niệm “quyền phúc quyết”,
nhưng riêng tại nước Pháp giải pháp trưng cầu dân ý có thể được thay
bằng con đường nghị viện. Số còn lại (16/22 quốc gia) chỉ áp dụng trưng
cầu dân ý như một giải pháp bổ sung (Áo, Ý, Thụy Điển) hoặc không áp
dụng trưng cầu dân ý bắt buộc (mandatory referendum) để biểu quyết thông
qua hiến pháp (13 nước). Vì thế không thể suy luận một cách vô căn cứ
rằng: quốc gia nào không áp dụng phương thức trưng cầu dân ý (tức phúc
quyết) để làm ra hoặc sửa đổi hiến pháp đều “tước đoạt quyền lập hiến của nhân dân”.
Mặt khác, tất cả 22 quốc gia nói trên đều giống nhau ở một điểm: “Quốc hội hay Nghị viện thật sự do dân bầu”.
Các quốc gia áp dụng trưng cầu dân ý để thực hiện quyền lập hiến đều có
một nền dân chủ gián tiếp vững chắc – nhất là một Nghị Viện hay Quốc
Hội thật sự dân chủ. Vì thế không thể suy luận một cách hồ đồ rằng bất
cứ quốc gia nào cho phép người dân thực hiện quyền phúc quyết hiến pháp
đều bảo đảm được nguyên tắc “quyền lập hiến thuộc về nhân dân”. Trong thực tế, thiếu một nền dân chủ vững chắc, các cuộc trưng cầu dân ý rất dễ sản sinh ra những kết quả “ngụy tạo”, tương tự như kết quả ngụy tạo mà các cuộc bầu cử theo kiểu “Đảng cử, dân bầu” diễn ra lâu nay ở nước ta.
Kết luận:
Như trên đã phân tích, “quyền phúc quyết hiến pháp” (tức là quyền bỏ phiếu thông qua hiến pháp bằng hình thức trưng cầu dân ý) không phải là điều cốt tủy của quyền lập hiến. Quyền lập hiến của nhân dân trước tiên phải là quyền được bầu chọn cơ quan soạn thảo và thông qua hiến pháp.
Cơ quan đó có thể là Quốc hội Lập hiến hoặc Quốc hội thông thường, hoặc
là một cơ quan lập hiến theo một mô hình nào đó phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, nhưng cơ quan đó nhất thiết phải đại diện cho toàn thể
nhân dân.
Vì thế việc “cơ quan soạn thảo và thông qua hiến pháp có phải là của dân hay không” mới là gốc, còn việc “dân có được phúc quyết hay không” chỉ là ngọn của vấn đề. Nếu không tập trung đòi dân chủ hóa ở cái gốc (sao cho Quốc Hội và Ủy Ban soạn thảo Hiến Pháp phải đích thực là của Dân chứ không phải của Đảng
như hiện nay) mà cứ chăm chăm đòi cái ngọn, thì chẳng những không thay
đổi được thực chất của chế độ mà ngược lại, còn tạo điều kiện để hợp
thức hóa một bản Hiến Pháp của Đảng cộng sản. Một bản hiến pháp rất
thiếu dân chủ, nhưng một khi được dán cái nhãn “được toàn dân phúc quyết”
sẽ trở thành một công cụ lợi hại để Đảng sử dụng nhằm biện minh cho độc
quyền chính trị của họ đối với toàn xã hội. Thực tiễn đã có quá nhiều
dẫn chứng cho thấy trong một chế độ toàn trị thì việc tạo ra cái nhãn “trên 90% cử tri toàn quốc tán thành”
để dán lên bản Hiến Pháp mới không hề là một việc khó khăn. Cổ xúy cho
những hình thức dân chủ giả hiệu như thế trong tình hình hiện nay chẳng
những không có lợi cho đất nước, cho nhân dân mà còn vô tình tiếp tay,
vô tình đồng lõa với những kẻ độc tài, tham nhũng trong âm mưu lừa mị
nhân dân nhằm kéo dài sự tồn tại của chế độ độc tài đảng trị.
Đà Lạt, những ngày cuối tháng 4 năm 2013,
Mai Thái Lĩnh
_______________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Dahl, R. “Democratic Polities in Advanced Countries: Success and
Challenge” in Boron, A. (Ed.), New Worldwide Hegemony: Alternatives for
Change and Social Movements, Transnational Institute Publishing,
Amsterdam, 2003 (Reprinted), Table 2
- European Commission For Democracy Throug Law, Report on Constitutional Amendment adopted by the Venice Commission at its 81st Plenary Session (Venice, 11-12 December 2009):
- Tư liệu về thủ tục sửa đổi Hiến Pháp của các quốc gia dân chủ: chủ
yếu dựa vào Bách khoa toàn thư mở Wikipedia bản tiếng Anh, và tư liệu
trên các website chính thức của Nghị viện hay Quốc Hội, hoặc Chính Phủ
của các nước liên quan.
Hà Hiển - Nhân bàn về hòa giải dân tộc – Xin đừng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược!
“Để thực hiện chính sách Đại đoàn kết dân tộc thì một yếu tố quan
trọng là sự chân thành, cởi mở và chân thật. Không có sự chân thật thì
sao có sự hòa hợp, hòa giải được”
Hai người lính |
Mình hoàn toàn nhất trí với ý kiến trên của ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ
trưởng Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở
nước ngoài trong bài trả lời phỏng vấn của Báo Thanh Niên nhân ngày 30/4
với tiêu đề “Hòa hợp tạo ra sức mạnh cho dân tộc”.
Nhưng cho dù cả hai phía đều phải chân thành cùng chìa tay ra cho
nhau như ý của ông Sơn trong bài trả lời phỏng vấn trên thì vẫn phải có
một bên chịu trách nhiệm chính cho một thực tế là cho đến nay, sau 38
năm “giải phóng miền nam”, hòa giải và hòa hợp thực sự vẫn chưa đến với
dân tộc Việt Nam.
Bên chịu trách nhiệm chính ấy là ai nếu không phải là bên đã nắm được
chính quyền trong phạm vi cả nước trong suốt 38 năm qua? Phạm vi bài
này không bàn đến những hoàn cảnh chủ quan và khách quan đã đưa đẩy bên
này, bên kia vào các vị thế khác nhau mà chỉ khẳng định một điều không
thể bàn cãi là một khi bên nào được đặt vào vị thế lãnh đạo nhà nước,
tạm gọi là “bên thắng trận”, thì mọi điều hay dở, mọi thành
công hay thất bại của quốc gia đều phải được quy trước hết vào trách
nhiệm điều hành quốc gia của bên đó.
Trách nhiệm điều hành quốc gia của chính quyền nhà nước thì nhiều.
Phạm vi bài này chỉ bàn đến trách nhiệm của nó trong việc quy tụ, thu
phục nhân tâm của mọi người Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tín
ngưỡng, tôn giáo. Đây cũng là trách nhiệm phải hoàn thành của mọi thực
thể nắm quyền lãnh đạo nhà nước một cách chính danh trên thế giới. Nếu
chỉ xét riêng điều này thì có thể nói rằng Nhà nước Việt Nam hiện tại
vẫn chưa hoàn thành trách nhiệm chính của mình trước dân tộc khi hòa
giải thực sự vẫn còn chưa đến với người Việt Nam, khi mà “38 năm nay mình vẫn nói là thống nhất đất nước” mà vẫn “chưa thống nhất được lòng người” như chính lời của ông Nguyễn Thanh Sơn.
Sự chưa hoàn thành trách nhiệm ấy đã được Thứ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Thanh Sơn thừa nhận khi trong bài trả lời phỏng vấn trên, ông đã
nhiều lần nhấn mạnh về sự thiếu chân thành và dũng cảm của “chúng ta”, xin trích một đoạn ngắn trong bài trả lời phỏng vấn trên:
“Hơn bao giờ hết chúng ta cần có sự dũng cảm đột phá, sẵn sàng
chịu trách nhiệm. Hiện nay cái dũng cảm còn thiếu quá, chân thành còn
thiếu quá. Đến khi có vấn đề cần có người xử lý, có người chịu trách
nhiệm thì không ai làm. Đó là nỗi ray rứt của chúng ta.”
“Chúng ta” trong câu này và trong ngữ cảnh của toàn bộ bài
phỏng vấn trên không thể được hiểu là ai khác ngoài những người có trách
nhiệm trong bộ máy nhà nước, có thể được hiểu là từ những lĩnh vực cụ
thể như an ninh - quốc phòng - ngoại giao - truyền thông cho đến cơ quan
lãnh đạo cao nhất là Bộ chính trị.
Cứ tạm tin vào sự chân thành và cũng là sự dũng cảm của ông Nguyễn
Thanh Sơn thì những phát biểu trên của ông cũng cho thấy một sự thật
rằng sự chân thành, sự dũng cảm ấy vẫn còn rất thiếu ở những đồng chí
của ông - như lời ông nói “các anh bên công an là cơ quan an ninh nhìn đâu cũng thấy gián điệp như bác sĩ nhìn đâu cũng thấy vi trùng”, hay “cái khó của chúng ta là tư duy, nhận thức của lãnh đạo các cấp khác nhau…”
Tóm lại, căn cứ vào phát biểu của ông Sơn thì trách nhiệm chính vẫn thuộc về “chúng ta” – mà nói cụ thể hơn phải là “Nhà nước ta”.
Mình nghĩ không phải chỉ là sự khác nhau trong tư duy, nhận thức của
các cấp lãnh đạo mà phải phải nói thẳng ra là tình trạng trống đánh
xuôi, kèn thổi ngược. Chỉ riêng việc này thôi cũng cho thấy rất rõ tình
trạng này – đó là trong những ngày này, khi mà hết ông Nguyễn Thanh Sơn,
ông Nguyễn Dy Niên, bà Tôn Nữ Thị Ninh và nhiều ông bà khác thuộc “phe
thắng trận” lên diễn đàn nói về hòa giải, hòa hợp dân tộc, rằng cần
phải gác lại quá khứ, quên đi hận thù, hướng đến tương lai, thì đồng chí
Trần Bình Minh của “chúng ta” hàng ngày vẫn cứ cho nhà đài VTV phát đi phát lại những lời ca sắt máu đầy hận thù của một thời huynh đệ tương tàn - “ôi xương tan máu rơi lòng hận thù ngất trời…thúc giục lòng ta xung phong đi giết thù…”
Hận thù ngất trời như thế thì bao giờ mới có thể cởi bỏ hết được đây?
Hà Hiển
Hạ Đình Nguyên - Ghi chép về một buổi họp mặt quanh bàn ăn trưa ngày 29.4.2013
30-4 là ngày kỷ niệm lớn của người Việt Nam, với nhiều ý nghĩa khác nhau
và tên gọi khác nhau. Nhưng có lẽ vào ngày này, nên nhắc lại câu nói
của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng
chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và
nhiều sự mất mát...Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi
nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó
là một vế thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp
tục làm cho nó thêm rỉ máu”.
Vậy đó là ngày gì, có thể chỉ dùng một từ ngữ được không? Có người cho
rằng, cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc gần 40 năm, nhưng nhân dân
Việt Nam vẫn chưa ra khỏi cuộc chiến. Đó là cuộc chiến không có tiếng
súng vẫn tiếp diễn, với những hệ lụy của lòng thù hận chua cay và mâu
thuẫn chất chồng, kéo rê qua từng thế hệ và không ngừng những phát sinh
mới trong tình thế mới, trong từng thớ thịt của nhân dân. Vì thế mà “Thế
lực thù địch” lại có nhiều cách hiểu không giống nhau. Có lẽ không có
từ ngữ nào ổn hơn để gọi ngày 30-4: là ngày hòa bình của đất nước, ngày
chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài trên toàn cõi Việt Nam.
Lễ 30-4 năm nay không ầm ĩ reo hò như những năm qua, phố xá bình yên với
những dòng xe chạy thông thoáng, trên các kênh truyền hình tin đưa về
ngày lễ cũng chừng mực. Không gian thành phố có màu xanh của cây lá
nhiều hơn màu đỏ. Nguyên nhân nào? Do tác động của cơn suy thoái kinh tế
đang đến hồi nghẹt thở? Do cuộc đấu tranh nội bộ nghiệt ngã sắp diễn ra
vào tháng 5 tới? Hay do trạng thái cái nhìn về lịch sử đã có bình tĩnh
hơn?
Trưa 29-4-2013, chúng tôi, gồm một số công dân thuộc diện “suy thoái”
(theo cách ám chỉ của TBT Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng) đã
gặp nhau trong một góc phố (TP HCM), tại quán Trịnh, trong bữa cơm trưa
thanh đạm, không nhằm mục đích để hò reo vui mừng, không để khóc than
hay thù hận, cũng không nhằm mưu đồ hay lợi dụng một điều gì, mà chỉ để
tham gia chia sẻ về một tình tự dân tộc của cái ngày rất khó gọi tên
này.
Suy nghĩ vế chuyện chung, vốn là trách nhiệm và thẩm quyền của mọi công dân trước tình hình đất nước.
Anh Huỳnh Tấn Mẫm vừa rời cuộc đại lễ mà anh được Thành phố mời dự. Anh
nói có 2/3 buổi lễ là văn nghệ, sau đó là những diễn văn… và anh vội
vàng đến đây để gặp mặt với những người “cùng suy thoái”. Sau đó anh
Trần Quốc Thuận và anh Lê Công Giàu kể về chuyến đi thăm Trường Sa, do
Thành phố mời đi. Chuyện kể thật là cảm động về các chiến sĩ giữ đảo, về
những cố gắng mà Nhà nước đã đầu tư và trang bị. Những đồng tiền được
chắt chiu quý báu, có thể làm nhỏ lệ khi so với những con số khủng của
tham những và thất thoát. Tuy nhiên có điều khá buồn, là từ những người
lính cho đến sĩ quan đều “thầm thì” không dám gọi tên những kẻ thù đã
chiếm đảo. Kẻ thù như những bóng ma ẩn khuất, trong khi chúng lù lù ra
đấy. Trong chuyến hải trình ngắn ngủi, các anh đã gặp hai chiếc “hải
giám” của đối tượng mà ta không dám gọi tên. Và khi các anh kéo nhau ra
boong để chụp hình tàu “hải giám” thì liền bị nhắc nhở, vì “trên” sợ
“tàu lạ” hiểu lầm phía Việt Nam “khiêu khích”!
Vì vậy, phải chăng điều tiên quyết cần có ở Trường Sa là nâng cao ý chí
chiến đấu cho những người đang đứng đầu sóng ngọn gió trong cuộc chiến
đấu chống ngoại xâm, giữ vững sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Không
chỉ đích danh kẻ thù, thì mũi súng chĩa vào đâu? Vũ khí rất hiện đại,
nhưng bài học Việt Nam là bài học về ý chí và bản lĩnh của người cầm
súng dám “CẢM TỬ cho Tổ quốc QUYẾT SINH”.
Sau khi kể những chuyện thật cảm động về người lính đảo, luật sư Trần
Quốc Thuận nghẹn ngào nói một điều khiến mọi người lặng đi: Đứng trước
tượng đài kỷ niệm các anh hùng liệt sĩ của binh chủng hải quân đã dũng
cảm hy sinh trong cuộc chiến đấu chống Trung Quốc xâm lược, khi các anh
cúi đầu mặc niệm, thì người ta đã trang trọng đọc tên nhà tài trợ đã bỏ
ra hơn 9 tỷ để xây nên đài kỷ niệm này. Anh Thuận cho rằng, ghi công nhà
tài trợ là đúng, nhưng không nên đặt ngang hàng tên nhà tài trợ với tên
các anh hùng liệt sĩ. Anh xúc động nói: “Tôi không thể cúi đầu trước
mấy tỷ đồng được, cho dù đó là đồng tiền đáng quý. Máu xương của anh em
ta đổ ra làm sao lại đem cân đong đo đếm với đồng tiền tài trợ! Cần phải
sửa ngay sự xúc phạm đến anh linh các liệt sĩ!”.
Sau đó, buổi cơm trưa chuyển sang những chủ đề khác. Không có ai là
thuyết trình viên, không có ai làm thư ký, không ai làm chủ tọa, và
không vấn đề nào được kết luận. Những công dân “suy thoái về tư tưởng,
đạo đức và lối sống”, gặp nhau trong quán cơm hôm nay để được “tự do”,
được “chuyện trò” những đề tài “không được khuyến khích”. Nhưng đó là
những vấn đề của mọi công dân đang phải đối diện:
- Sự hòa hợp và đoàn kết dân tộc.
- Chủ quyền dân tộc trước sự đe dọa của Bắc Kinh.
- Một xã hội dân sự cho một Việt Nam tất yếu phải đổi mới.
“Ăn cơm nhà, vác ngà voi”! Một đất nước sẽ tốt hơn lên khi có nhiều người dân sẵn sàng vác ngà voi.
Chúng tôi mong muốn có sự chia sẻ sâu rộng về những chủ đề này. Vì vậy mới có mấy dòng ghi vội trên đây.
Hạ Đình Nguyên
(BVN)
Kami - Về vấn đề đối lập chính trị ở Việt nam
Có người bạn bảo tôi rằng "BBC đã làm thay việc của báo Nhân dân", đánh giá đó được rút ra sau khi anh ta đọc bài "Đảng CS không đối thủ vì đối lập yếu"
của tác giả Quốc Phương. Bài viết được tác giả dựa trên cuộc trao đổi
với GS. Nguyễn Đình Tấn, Giám đốc Viện Xã hội học thuộc Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh để rút ra nhận định này. Cá nhân
tôi thì nghĩ khác, BBC đã đánh giá khá chính xác về thực trạng của lực
lượng đối lập trong nước.
Nếu ở đây ta dùng từ lực lượng đối lập để thay cho từ đối lập có lẽ cũng
là vượt quá thực tế hiện tại, vì thực chất ở trong nước hiện nay chỉ
tồn tại dạng các đối lập dưới hình thức cá thể - ít hơn 2 người. Cũng vì
"không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập" như ý kiến của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng trong Hội nghị Công an Toàn quốc ngày ngày 17
tháng 12 năm 2012. Thực chất đây là sự chỉ đạo của Thủ tướng yêu cầu lực
lượng công an cần phải đấu tranh cương quyết không để hình thành các tổ
chức chính trị đối lập chống phá và đi ngược lợi ích của đất nước và
nhân dân. Điều đó cho thấy hiện nay, việc Đảng CS không đối thủ vì đối
lập yếu cũng là một điều dễ hiểu.
Sẽ có nhiều người đặt câu hỏi rằng các lực lượng tham gia biểu tình
chống Trung quốc, Nhóm Kiến nghị 72... xuất hiện thời gian vừa qua có
thể coi là đối thủ đối lập của đảng CSVN hay không? Trả lời câu hỏi này
thì theo ông Cao Lập, một trong những người đã từng công khai chống lại
chế độ Sài Gòn và đã từng chịu tù tội vào những năm thập niên 70 cho
rằng "Trước hết xin khẳng định chúng tôi không phải là những người
đối lập với Đảng và nhà nước. Chúng tôi chỉ là những người chống lại sự
xâm lấn một cách trắng trợn và ngang ngược của Trung Quốc mà thôi.".
Hay như ông Lê Hiếu Đằng, một người đã mang án tử hình bới chế độ VNCH
cũng cho biết về vấn đề “tổ chức chính trị đối lập” mà Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng nó tới rằng "Chúng tôi chẳng phải đối lập gì cả mà chỉ phản
ảnh nguyện vọng, ý chí của nhân dân. Nói như vậy thật ra chỉ lấy cớ để
đàn áp chúng tôi thì không được bởi vì chúng tôi làm theo luật, công
khai minh bạch, không lén lút. Nếu chúng tôi chống phá thì phải lén lút
tổ chức, nhưng không phải!".
Vậy cần phải có những điều kiện nào chung nhất để khẳng định đó là một
tổ chức đối lập chính trị? Câu trả lời là tổ chức đối lập trước hết phải
có tính cách tập thể của một tập hợp các thành viên, có chính kiến bất
đồng với đảng cầm quyền và tồn tại một cách hợp pháp. Trong đó các chính
kiến bất đồng ấy phải được cương lĩnh hóa theo một tiêu chuẩn chính
trị. Tựu chung lại đối lập có ba đặc điểm: sự bất đồng về chính trị, có
tính tập thể và có tính cách hợp pháp được pháp luật công nhận. Ở hoàn
cảnh Việt nam hiện nay, có tính cách hợp pháp được pháp luật công nhận
là điều hết sức khó, do vậy nó là vấn đề mấu chốt, phải trở thành mục
tiêu đấu tranh trước mắt. Bằng mọi cách phải đạt được, vì khi chính
quyền đã thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tự do chính trị. Trường hợp
mà chúng ta vẫn thường thấy có một số người ở ngoài đời hay trên mạng
internet thích nói chuyện chính trị, với một thái độ đả phá hay chống
đối đường lối, chủ trương của nhà nước ở Việt nam hiện nay. Đó chỉ là
những cá nhân chống đối, không phải là đối lập. Đặc biệt trong điều kiện
ở Việt nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Dũng cho rằng công an cần phải
đấu tranh “không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập” đã cho
thấy đây chính là một tử huyệt của chế độ. Do đó, điều này là một trong
những thách thức hàng đầu đối với những ai có mong muốn đòi hỏi cần có
một tổ chức đối lập.
Trên thực tế, chính quyền Việt nam đang từng bước nới lỏng sự kìm kẹp
đối với các nhà hoạt động chính trị dưới danh nghĩa các nhân vật bất
đồng chính kiến, nếu hoạt động của các cá nhân này còn nằm trong sự kiểm
soát của chính quyền và đặc biệt là các hoạt động của các cá nhân đó
không mang tính liên kết hay tập thể. Do đó các nhân vật bất đồng chính
kiến như các ông, bà BS Nguyễn Đan Quế, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Đài,
Lê Thị Công Nhân... họ vẫn được thể hiện quan điểm của mình bằng cách
viết bài hay trả lời phỏng vấn của các hãng truyền thông nước ngoài.
Chúng ta có thể thấy các trường hợp này khác với trường hợp của LS. Lê
Quốc Quân. Nhưng điều đáng nói họ cũng chỉ dừng lại ở mức là những cá
nhân bất đồng chính kiến. Và nhiều khi các nhân vật kể trên lại là các
con bài cần thiết không thể thiếu được của chính quyền, để sử dụng trong
việc đàm phán vấn đề nhân quyền của Việt nam đối với các quốc gia
phương tây. Và số lượng các nhân vật này luôn được chính quyền giới hạn ở
mức cần thiết, đây chính là lý do vì sao có một số trường hợp các cá
nhân chống phá nhà nước một cách hết sức quyết liệt, nhưng dường như
được chính quyền lờ đi không xử lý. Bởi vô tình các nhân vật này không
biết rằng, họ đang làm cho bức tranh nhân quyền ở Việt nam thêm sắc màu
và trở nên càng sinh động hơn trong con mắt người phương tây. Điều này
hoàn toàn có lợi cho chính quyền.
Đảng CSVN và chính quyền đang đối diện với nguy cơ đe dọa, mà theo họ
gọi là tự diễn biến và diễn biến hòa bình của các đối tượng là lực lượng
cán bộ đảng viên "thoái hóa", lực lượng dân oan và lực lượng các
bloggers. Các lực lượng này được đánh giá là nguyên nhân sống còn đối
với chế độ hiện tại. Điều này chúng ta có thể kiểm chứng qua các bài
viết chính luận, phòng chống diễn biến hòa bình hay bình luận phê phán
trên hai tờ báo hàng đầu của chế độ. Đó là tờ báo Nhân dân - Cơ quan
ngôn luận của đảng CSVN và tờ Quân đội Nhân dân - Cơ quan của Quân ủy TW
và Bộ Quốc phòng. Hai tờ báo này được mệnh danh là thước đo và chỗ bộc
lộ sự lo sợ của chính quyền đối với sự tồn vong của chế độ. Một khi đã
biết chính quyền lo sợ đối với lực lượng nào và tử huyệt của họ là gì
thì việc viết một kịch bản giải thể thể chế chính trị hiện tại một cách
đồng bộ đối với các chính trị gia có trình độ kiến thức và hiểu biết
chính trị sát với điều kiện thực tế ở Việt nam là một việc hoàn toàn
không khó. Một khi có một kịch bản hoàn chỉnh, mang tính khả thi có khả
năng tạo nên các chuyển biến tích cực, đáng kể có khả năng gây sức ép
lên đảng cầm quyền. Khi sức ép đủ mạnh để buộc chính quyền phải nhượng
bộ, thì cũng là lúc hình thành một tổ chức đối lập hợp pháp sẽ được phép
hoạt động công khai. Đây sẽ là bước đột phá cơ bản trong việc tiến hành
cải cách chính trị trong tương lai.
Rất nhiều người trong số chúng ta chưa hiểu hết vấn đề thế nào là đối
lập chính trị, tổ chức chính trị đối lập là gì? Kể cả về nội dung và
hình thức, chính điều đó đã làm cho nhiều người đã sai lầm khi nghĩ rằng
hành động chửi bới, nói xấu nhà nước hay kẻ cả kích động bạo loạn lật
đổ của họ là việc làm của những cá nhân đối lập với đảng CSVN. Nên hiểu
rằng những cái đó chỉ là biểu hiện chống đối chính quyền, và nó càng
không phải là hành động góp phần cho công cuộc vận động dân chủ.
Nếu nhìn nhận một cách thật khách quan, thì ở bối cảnh chính trị Việt
nam hiện nay, khi mà lý thuyết về Chủ nghĩa Marx-Lenine chỉ là lời nói
xuông mang tính hình thức. Nhưng trên thực tế về kinh tế, xã hội, đối
ngoại của chính quyền thì khác hoàn toàn 180 độ. Điều đó cho thấy công
cuộc vận động dân chủ ở Việt nam có những thuận lợi đáng kể, nếu so sánh
với một nước mang đậm màu sắc cộng sản như Bắc Triều tiên. Điều đó cho
thấy cần phải có các bước tiến mạnh mẽ hơn nữa, đi từ sự liên kết của
các cá nhân đối lập cho đến sự hình thành một tổ chức chính trị đối lập
hoàn thiện. Để đạt được điều đó chắc chắn sẽ phải đối diện với sự mất
mát, chịu sự bắt bớ đó là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Song phải
tin tưởng rằng, tre già thì măng mọc, lớp sóng sau sẽ kế nối tiếp lớp
sóng trước là một quy luật tất yếu. Căn bản nhất là mõi cá nhân bất đồng
chính kiến cũ và mới phải dứt khoát không sợ bất cứ điều gì, kẻ cả nguy
hiểm đến tính mạng. Có như vậy thì mầm cây "tổ chức đối lập" mới có khả
năng hình thành, tồn tại và phát triển.
Đối lập không hoàn toàn có nghĩa là chống đối mà đối lập sẽ phát huy vai
trò của nó trong việc hợp tác với chính quyền trên tin thần xây dựng.
Nếu đảng CSVN nhận ra điều đó thì chắc chắn họ sẽ phải tự thay đổi, chấp
nhận sự tồn tại của tổ chức đối lập và tổ chức đối lập đóng vai trò hợp
tác với chính quyền trong việc kiểm tra để tạo điều kiện cho họ tự điều
chỉnh.
Ngày 01 tháng 5 năm 2013
© Kami - RFA Blog's
BS. Nguyễn Quang Bình Tuy - “Chính trị hóa” làm tê liệt xã hội
Nhân việc bàn về “phi chính trị hóa quân đội”, cũng là cơ hội để chúng
ta nhìn lại hàng loạt vấn đề của xã hội hôm nay như đạo đức suy đồi, quá
tải bệnh viện, giáo dục xuống cấp, thanh niên không có tay nghề lẫn kỹ
năng làm việc, không thể tuyển người giỏi vô làm công chức… Có thể khẳng
định, đó là do chúng ta “chính trị hóa” mọi mặt của đời sống xã hội.
Chính trị hóa len lỏi tới mọi ngành nghề, mọi giới và mọi nơi. Chính trị
hóa đã làm xơ cứng xã hội, làm tê liệt xã hội, khiến không ai dám nói
thật vì sợ “phản động”, không ai dám làm vì sợ “làm trái ý lãnh đạo”,
không ai dám sáng tạo vì sợ “lãnh đạo biết mình giỏi hơn”… Suy cho cùng,
ai cũng phải căng thẳng, vắt óc suy nghĩ để nói gì và làm gì sao cho
đẹp lòng lãnh đạo để mà sống vì miếng cơm manh áo. “Nói thật thì sợ mất
lòng” nên đành phải… nói dối. Mà nói dối lâu ngày thành thói quen và trở
thành bản chất của mình lúc nào không hay. Hậu quả là mọi người chỉ nói
theo những gì lãnh đạo (cơ quan, tổ chức…) đã nói và muốn nghe. Những
ai tồn tại và được thăng tiến được trong môi trường đó thì gần như chắc
chắn cũng thuộc hàng “nịnh hót” và “miệng lưỡi đỡ tay chân” mà thôi. Mà
người giỏi, người tài thì không ai thích làm chuyện đó cả, mà họ cần một
lãnh đạo anh minh, biết tạo đất để họ dụng võ, phát huy hết khả năng
của mình. Thế thì làm sao chúng ta có được người giỏi người tài, khi mà
hiện nay tiêu chí xét thăng chức quản lý từ cấp thấp nhất là phó phòng,
phó khoa của một bệnh viện bắt buộc phải là… đảng viên Đảng Cộng sản bất
kể chuyên môn “có vấn đề”!
Chúng ta đã trải qua nhiều thời kỳ: chiến tranh, bao cấp, đổi mới. Dễ
nhận ra rằng, khi “chính trị hóa” càng rộng ra nhiều mặt của xã hội thì
không khí càng “nghẹt thở” và càng trở nên “bí hiểm”. Trước đây, thời
bao cấp do chính trị hóa cả lĩnh vực kinh tế nên hậu quả là ai cũng trở
thành “tội phạm” vì bán các mặt hàng cơ bản như thực phẩm, hàng gia
dụng… mặc dù chỉ đơn thuần là “làm để kiếm ăn”. Lúc đó chúng ta gọi một
cách khinh miệt những người buôn bán là “bọn con buôn” và đổ hết những
lý do làm kinh tế xáo trộn lên đầu họ. Sau khi mở cửa và “đổi mới”,
chúng ta “thôi chính trị hóa” lĩnh vực kinh tế bằng cách dẹp bỏ chế độ
tem phiếu và cửa hàng bách hóa, trả lại việc buôn bán cho dân nên kinh
tế phát triển, có của ăn của để, và những người buôn bán được gọi một
cách trìu mến là “thương nhân”, “doanh nhân”. Nói vậy không phải để bình
phẩm đúng sai của lịch sử, nhưng để cho thấy cũng cùng một vấn đề,
nhưng nếu nhìn dưới một lăng kính “chính trị” thì sẽ thấy đâu cũng là
“kẻ thù”, cũng là “phản động”, nhưng nếu nhìn với lăng kính “dân sự” thì
ai cũng có công đóng góp phát triển đất nước.
Như vậy có bao nhiêu lĩnh vực nữa mà chúng ta đã gỡ bỏ thành công cái
“vòng kim cô” “chính trị hóa” và trả nó về “dân sự”, và rồi nhận ra rằng
“tại sao ta không gỡ nó sớm hơn, vì nó có hại gì đâu?”. Đơn cử một lĩnh
vực nữa chúng ta đã làm được, đó là người dân được tự do đi nước ngoài,
điều mà cách đây không lâu là “phạm pháp”, là “phản bội Tổ quốc”, thậm
chí du kích được quyền bắn bỏ ngoài bãi biển bất kỳ ai “đi vượt biên” mà
không cần xét xử. Thế rồi mở cửa… nhưng vẫn chưa mở hết với lĩnh vực
này. Tôi nhớ cuối những năm 1990 đầu những năm 2000 muốn làm passport
phải khai báo là “thất nghiệp” hoặc “lao động tự do”, chứ nếu khai là
trí thức như bác sĩ, dược sĩ… thì không thể nào được cấp passport. Ngày
nay thì mọi người đều có thể làm passport một cách tự do mà không cần có
lý do, muốn đi nước nào thì đi, miễn nước đó nhận mình, kể cả “đế quốc
Mỹ”. Vậy thực sự việc đi nước ngoài có quá nguy hiểm với chế độ, có “làm
mất chế độ” như chúng ta từng lo sợ không? Ngược lại nữa là khác! Lượng
kiều hối quay ngược lại để phát triển đất nước là một minh chứng thưc
tế.
Thử nhìn vào Bắc Triều Tiên xem lãnh đạo họ hành xử có bất thường không?
Nếu trả lời “có”, tức là chúng ta đã thoát ra rồi, đang đứng ngoài nhìn
vào họ. Nếu chúng ta đứng chung với họ thì sẽ trả lời là “không có gì
bất thường”. Quay ngược lại thời bao cấp, hình ảnh của chúng ta trong
con mắt của thế giới giống y như vậy, giống đến từng chi tiết nhỏ nhất.
Giờ đây, chúng ta đang cố giữ thể chế “toàn trị”, cái mà thế giới phương
Tây văn minh họ lên án rất nhiều vì nó làm khổ dân, làm suy yếu đất
nước và khuyên chúng ta nên thay đổi để có lợi cho chính chúng ta, giúp
chúng ta phát triển hơn, văn minh hơn, đồng thời bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ tốt hơn. Vậy hãy thử dũng cảm “nhảy ra” khỏi cái vòng luẩn quẩn đó
thì mới thấy chúng ta “đang bất thường”. Đừng cố thanh minh và biện minh
làm gì, chỉ tốn thời gian và càng chứng tỏ mình “tham quyền cố vị” mà
thôi. Muốn xem một trận bóng hay thì phải ngồi ở khán đài, chứ đâu ai
đứng trong sân mà xem. Hãy thử đứng ở khán đài một lần để có cảm giác
như thế nào là bình thường và bất thường.
Quay sang Miến Điện, những cú xoay chuyển ngoạn mục của họ có làm họ suy
yếu thêm không? Có làm họ “lệ thuộc Mỹ” không hay là thoát khỏi “gọng
kìm Trung Quốc”? Có bị ai “giật dây” không? Dân họ sướng hơn hay khổ hơn
sau cú chuyển xoay đó? Xã hội của họ có bị rối loạn không hay là dễ thở
hơn nhiều? Với đà này, chỉ cần 10 năm nữa họ sẽ vượt qua mặt chúng ta
ngay, chắc chắn là vậy. Phải nói ngay, Mỹ không có tham vọng lãnh thổ,
không chiếm nước ta, trong khi Trung Quốc nhiều lần bành trướng xâm lược
nước ta. Minh chứng cho điều này là chỉ khi Mỹ rút khỏi chiến tranh
Việt Nam thì Trung Quốc mới dám khởi binh chiếm Hoàng Sa. Như vậy ai dã
tâm thì đã biết rõ rồi.
Các vấn nạn xã hội hôm nay mà chúng ta đang phải đối mặt đều có cùng một
nguyên nhân là “chính trị hóa”. Do chính trị hóa nên nhiều lĩnh vực
đáng lẽ thuộc dân sự, nhưng lại được tổ chức và vận hành mang màu sắc
chính trị. Hậu quả là, các tiêu chí đánh giá tổ chức dân sự đó tốt hay
xấu đáng lý ra phải dựa vào các tiêu chuẩn chuyên môn, nhưng lại dựa vào
tiêu chí chính trị! Hãy thử phân tích từng quốc nạn sẽ rõ.
1. Quá tải bệnh viện
Tôi thấy trải qua bao đời Bộ trưởng Bộ Y tế, và với quyết tâm chính trị
rất lớn là làm sao để giảm quá tải bệnh viện, nhưng đều thất bại. Kết
quả là quá tải bệnh viện lớn, chuyên môn sâu ở Hà Nội và Sài Gòn vẫn là
vấn đề nhức nhối chưa có lời giải. Bộ trưởng nào lên cũng tìm một lý do
để giải thích cho sự quá tải đó, nhưng tất cả đều là mệnh lệnh hành
chánh và không thể thành công trong thực tiễn. Các giải pháp “ngăn sông
cấm chợ” (khám bệnh theo tuyến, trái tuyến trả tiền cao hơn) đã từng làm
và từng thất bại, nhưng nay lại tiếp tục đem ra làm, và chắc chắn sẽ
thất bại tiếp. Sao không thử nghĩ, nếu con của Bộ trưởng bị bệnh nguy
cấp trên đường đi công tác, Bộ trưởng có dám đưa con vô cấp cứu tại một
bệnh viện tỉnh không, chưa nói đến bệnh viện huyện, hay là tức tốc về
Sài Gòn hay Hà Nội để cứu chữa, hay thậm chí bay sang nước ngoài? Thế
thì tại sao lại bắt người dân phải vô khám những nơi điều trị kém như
vậy? Ngày càng có nhiều bệnh viện cấp tỉnh kém về chuyên môn, mặc dù có
trang bị trang thiết bị hiện đại, thì người dân ngày càng kéo về thành
phố lớn. Tại sao như vậy?
Tại vì, không gì thay thế được con người cả. Nếu thay được, người ta đã
chế tạo ra máy khám bệnh rồi, và không cần đào tạo bác sĩ làm chi cho
tốn công, tốn tiền… Mà muốn có con người tốt thì phải được tổ chức tốt,
thì mới thu hút được người giỏi ở lại và cống hiến hết mình. Chỉ cần có
người giỏi làm việc thì không cần đầu tư máy móc hiện đại, cũng giải
quyết nhiều vấn đề rồi. Mà muốn những người này ở lại làm, cách duy nhất
là phải có lãnh đạo khoa, lãnh đạo bệnh viện giỏi, và…không cần là đảng
viên!
Người giỏi chuyên môn thì sẽ lấy tiêu chí chuyên môn ra để phấn đấu và
để đánh giá nhân viên dưới quyền, kết quả là chuyên môn ngày càng cao và
tăng uy tín cho bệnh viện. Còn người thăng tiến nhờ chính trị mà chuyên
môn kém thì chắc chắn sẽ tập hợp quanh mình những người kém cỏi và
khiến nhiều người giỏi và tâm huyết nghề nghiệp phải ra đi. Đó là chưa
kể họ sẽ tham nhũng thông qua việc mua sắm thiết bị chất lượng kém với
giá cao, bất chấp có ảnh hưởng tới hoạt động chuyên môn. Hiếm có người
nào thăng tiến nhờ chính trị mà lại vừa giỏi chuyên môn. Tôi có bạn bè
làm trưởng phó khoa, thậm chí giám đốc bệnh viện, họ tâm sự “vô Đảng cho
có thôi, chứ mình chỉ thích làm chuyên môn”.
Như vậy hăy trả tổ chức bệnh viện về “dân sự” và thay đổi tiêu chí đánh
giá bệnh viện dựa trên uy tín của bệnh viện về chuyên môn với dân chúng.
Chỉ cần 64 tỉnh thành có 64 bệnh viện tỉnh thực sự giỏi chuyên môn là
đủ sức giảm tải cho bệnh viện ở hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn.
Không ai muốn tốn tiền tốn bạc, ăn dầm nằm dề tại các bệnh viện thành
phố, phải bỏ công ăn việc làm để nuôi bệnh cả.
Tình hình hiện nay, chúng ta có dũng cảm “bỏ tiêu chuẩn đảng viên” trong
lựa chọn giám đốc bệnh viện cũng như trưởng và phó khoa phòng không?
Song song đó là thi tuyển giám đốc để chọn ra 64 giám đốc bệnh viện tỉnh
giỏi, biết làm việc, có tâm với ngành. Chỉ cần vậy, trong vòng 5 năm sẽ
xóa ngay tình trạng quá tải bệnh viện thành phố.
2. Giáo dục xuống cấp và đạo đức suy đồi
Giáo dục cũng tương tự, từ cấp tổ phó bộ môn trở lên phần lớn là đảng
viên. Đó là chưa kể chương trình giáo dục chúng ta quá nặng nề về chính
trị. Ngay cả dạy lịch sử, chúng ta cũng không khách quan, mà nặng tính
chính trị, lồng ghép bình luận lịch sử theo quan điểm chính trị của Đảng
Cộng sản. Chính vì cách dạy lịch sử như vậy, nên không thể có lịch sử
hay, không thể trách tại sao học sinh không biết lịch sử nước ta qua
4000 năm lịch sử hay tới mức nào. Ba tôi là Giáo sư dạy sử tiểu học thời
chế độ Việt Nam Cộng hòa, chỉ cần nghe ông kể chuyện sử trong mỗi bữa
ăn tôi cũng đã thuộc rồi, và thấy rất hay. Tôi biết tại sao có
Trịnh-Nguyễn phân tranh, tại sao có dải đất phía Nam trù phú, tại sao
ngoài Bắc có “con cả” nhưng trong Nam không có, mà bắt đầu là “con thứ
Hai”, tại sao có áo dài Việt Nam, từ thời nào bắt đầu mặc quần hai ống,
Huyền Trân Công Chúa có công như thế nào… rất rất và rất nhiều điều để
nói.
Đạo đức xuống cấp là do chúng ta không dạy học sinh cách ứng xử, cách
xưng hô, thưa gởi như thế nào. Con tôi mới học lớp 1, nhưng nó đột nhiên
hỏi tôi: “Ba, bộ Bác Hồ tốt lắm hả Ba?”. Tôi ngạc nhiên và thắc mắc,
tại sao chuyện “đi thưa về trình” tôi lại phải nhắc mỗi ngày cả năm rồi
mà nó vẫn quên hoài, có ông bà nội ngoại đến thăm thì phải nhắc nó liên
tục để thưa, trong khi lại hỏi chuyện đó với một thái độ rất ngưỡng mộ!
Tôi hỏi con “Vậy con biết Bác Hồ là ai không?”. Con trả lời “Dạ không.
Nhưng Bác Hồ cho mình cơm ăn áo mặc, tốt lắm Ba”. Tới đó tôi cũng không
biết nói gì hơn. Phải chi nhà trường dạy nó cách thưa Ba Mẹ đi học thì
nói làm sao (“Thưa Ba Mẹ con đi học”) và cách trình khi về nhà như thế
nào (“Thưa Ba Mẹ con đi học về”) và cách đứng nghiêm, khoanh tay, cúi
đầu như thế nào và bắt các em thực tập tại lớp. Tôi đảm bảo chỉ cần có
một lần như vậy, các em sẽ nhớ và làm theo ngay, vì các em rất nghe lời
cô giáo, hơn cả ba mẹ. Những gì cô thầy dặn ở lớp, các em rất nghe theo,
và về nhà đòi cho bằng được. Điển hình là đòi quà sinh nhật bạn trong
lớp, tối 9-10 giờ phải đi mua cho bằng được, không thì không dám đi học
nữa?!
Thiết nghĩ, mỗi lứa tuổi các em sẽ thường gặp những vấn đề trong cuộc
sống hàng ngày. Làm sao để các em biết ứng xử trong hoàn cảnh đó, biết
phát hiện tình huống nguy hiểm và biết cách thoát ra bằng cách nào. Chỉ
bao nhiêu đó thôi cũng đủ để giảm đi rất nhiều tình huống bi thương như
nạn hiếp dâm trẻ em, mà người phạm tội lại chính là những người thân hay
lại chính là thầy giáo như đã thấy. Đừng dạy quá nhiều chính trị, triết
học suốt cả 12 năm học, rồi lên Đại học cũng dạy tiếp tục, mặc dù cả
người dạy và người học đều biết rõ nó vô bổ và phi thực tế, nhưng lại là
cái “cần câu cơm” cho các giáo viên dạy các môn đó.
Người nước ngoài họ không khinh ta nghèo hay giàu, mà chỉ khinh ta không
biết cách ứng xử nơi công cộng. Ngay cả chúng ta với nhau, cũng đôi lúc
thốt ra câu này “giàu mà hành xử chẳng ra gì”. Vậy hãy dạy các em đừng
hành xử “chẳng ra gì” như vậy, để các em “thành người”. Không có gì khó
cả, chỉ cần dựa vào nhu cầu sống hàng ngày, các em lứa tuổi đó thì dạy
gì để sống với cộng đồng.
- Tiểu học: dạy đi thưa về trình, yêu quý ông bà cha mẹ thể hiện như thế
nào, cách chào khách khi có khách tới nhà, cách giữ vệ sinh bản thân.
- Trung học cơ sở: giáo dục giới tính, nhận diện những tình huống nguy
hiểm cho giới tính và cách thoát ra, cách đi đường, cách ứng xử nơi công
cộng (nói nhỏ, nhường người lớn tuổi và phụ nữ, xếp hàng, đón xe buýt…)
- Trung học phổ thông (cấp 3): cách thuyết trình, nói chuyện trước đám
đông, cách giao tiếp ngoài xã hội, cách nói chuyện với người nước ngoài,
cách ứng xử với bạn bè cùng phái và khác phái, hậu quả cho bé gái của
việc quan hệ tính dục khi chưa đủ tuổi trưởng thành, tình yêu trong
sáng...
Nhân cách con người hình thành qua các cách hành xử hàng ngày, lâu dần
thành thói quen và trở thành bản chất của một con người, thông qua quá
trình sống ở gia đình và học ở trường. Nhà trường có tác động rất lớn
tới việc hoàn thiện nhân cách của trẻ. Do đó phải dạy trẻ, mà không chỉ
dạy, mà phải uốn nắn từng chi tiết, để làm sao trẻ thực tập được, ứng xử
như một người văn minh, có văn hóa, gọi là “có học thức”. Điều đó cần
cả nội dung hay, giáo trình hấp dẫn, cách dạy có phương pháp, lẫn người
thầy gương mẫu.
Khó để có người thầy như vậy trong xã hội ngày nay, nhưng nếu không bắt
đầu thì sẽ mai một dần, sẽ hết dần những người có tâm huyết với giáo
dục, chỉ còn lại những người toan tính về chính trị thì sẽ mất đi cái
“đậm đà bản sắc văn hóa” mà chúng ta treo nhan nhản ở mỗi trường học.
Nhưng cái bản sắc đó là gì, thì chưa chắc ông Bộ trưởng biết mô tả cụ
thể, nói chi đến đưa ra chiến lược rồi triển khai thực tế, là khoảng
cách rất xa.
Hãy trả giáo dục về dân sự, sức sáng tạo mạnh mẽ của người Việt sẽ làm
nên những điều kỳ diệu mà không cần phải tốn nhiều thời gian, không cần
phải “nhập khẩu” chương trình giáo dục, cũng không cần mời chuyên gia
nước ngoài nào cả. Chỉ cần “phi chính trị hóa” nền giáo dục, để từng
người hiến kế mà không bị quy chụp, không bị cho là phản động.
3. Không thể tuyển người giỏi làm công chức
Các ngành như Hải quan, Thuế, cơ quan nhà nước… thì đâu cần phải chính
trị hóa. Làm công chức đâu nhất thiết phải theo Đảng Cộng sản hay bất kỳ
một đảng nào khác? Việc chính trị hóa làm cho các công chức “tưởng mình
là ngon” nên cứ “vênh vênh” và la ó chửi bới người dân rất khó coi.
Chưa kể ăn cắp giờ công để làm việc riêng, tạo nên sức ỳ cho nền hành
chánh nước nhà.
Các cơ quan làm công việc hành chánh cần chuyển về dân sự, không cần
tuyển dụng dựa vào “lý lịch tốt” mà bỏ qua các yếu tố chuyên môn giỏi.
Việc thăng chức cũng dựa vào chuyên môn, chứ không dựa vào lý lịch và
đảng viên, sẽ loại bỏ những thái độ hống hách đặc quyền hiện nay. Lúc đó
chính quyền sẽ trở nên thân thiện hơn với dân, mọi người sẽ làm việc
theo chuyên môn, theo luật chứ không theo bất kỳ một mệnh lệnh chính trị
nào khác.
Khi “dân sự hóa” các cơ quan hành chánh, một người công chức sẽ thấy
trách nhiệm mình lên cao, phải làm gì để xứng đáng với vị trí đó, nếu vi
phạm thì vẫn bị đuổi việc nghiêm khắc bởi người trực tiếp quản lý thì
thái độ sẽ tốt hơn nhiều, bởi lúc đó họ biết rằng không còn chỗ dựa nào
khác ngoài sếp trực tiếp của mình. Khi người công chức thấy người quản
lý của mình xử lý anh minh, có chuyên môn cao, xử lý tình huống tốt và
đáng để học hỏi, tự động anh ta sẽ phải làm việc hết mình và không dám
chểnh mảng.
4. Báo chí và truyền thông không dám nói thật
Khi thông tin bị kiểm soát bằng chính trị, chứ không phải bằng luật thì
không ai dám nói thật. Báo chí không tự do, không thể tạo ra tranh luận
để tránh sai lầm đáng tiếc. Một vấn đề càng được tranh luận nhiều chiều,
nó sẽ càng đi tới đồng thuận và thiệt hại do sai lầm khi triển khai
càng thấp. Đó là mặt tích cực của báo chí cần phải được nhìn nhận. Có
thể xem các điển hình của sự tranh luận là hầm Thủ Thiêm, dự án bô-xít
Tân Rai, dự án tàu cao tốc Bắc-Nam…
Khi mọi phát biểu đều phải “rào trước đón sau”, đều sợ “phạm thượng” thì
sẽ không có góp ý chân thành, không có lời nói thật để nghe, và chắc
chắn sẽ lạc lối.
Sự tranh luận tự do sẽ làm cho vấn đề trở nên khách quan và ngày càng
sát thực tế. Nhu cầu đó chắc chắn một xã hội nào cũng cần. Nhưng nếu bị
“chính trị hóa” như hiện nay, ai cũng sợ bị chụp mũ, bị ghép tội, thì
chẳng ai dám nói thật, vì nói thật chỉ “rước họa vào thân” mà thôi.
5. Nghệ thuật không có tác phẩm hay
Chúng ta hay than vãn vì sao ngày càng không có tác phẩm nghệ thuật hay.
Câu trả lời là, nó phụ thuộc với mức siết và kiểm duyệt vì mục đích
chính trị. Người nhạc sĩ, thi hào, văn hào, nghệ sĩ… chỉ có thể cống
hiến những tác phẩm hay nhất khi họ đạt được sự rung cảm cao nhất khi
sáng tác, thể hiện… Lúc đó, họ sẽ cảm thấy “mình ở trong đó” và nói lên
hết những gì từ đáy lòng. Việc kiểm duyệt làm họ nhụt chí và không còn
sáng tạo nữa. Sáng tác nhiều lúc là ngẫu hứng chứ đâu phải “theo giờ
giấc” được.
Sự tự do nói lên những suy nghĩ của họ sẽ tạo nên những tác phẩm bất hủ vượt thời gian.
6. Không dám bỏ tiền ra để làm ăn
Khi mà “kinh tế Nhà nước là chủ đạo” thì không ai dám bỏ tiền ra làm ăn
cả, vì sợ một ngày nào đó “mất trắng”. Ngành nghề nào Nhà nước cũng “chủ
đạo” cả, từ thu mua xuất khẩu nông sản cho tới dịch vụ hàng không, đóng
tàu… đều có công ty Nhà nước. Khó có một lĩnh mực nào mà Nhà nước không
nhảy vào. Nếu “muốn sống” thì phải “né” mấy ngành đó hoặc phải “có ai
chống lưng” hoặc phải là doanh nghiệp nước ngoài (vì không dám “đụng”).
Kết quả là ai cũng thấy, các ngành “mũi nhọn, xương sống” đều bị gãy,
đều thua kém các doanh nghiệp nước ngoài, hoặc thậm chí có doanh nghiệp
nhà nước chỉ làm thuê cho công ty nước ngoài đội lốt để nhận lấy vài
phần trăm ít ỏi. Trong khi, dân có thể tự làm và thậm chí có thể cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong nhiều lĩnh vực.
Nếu chúng ta “dân sự hóa” nền kinh tế, trả về cho dân tự làm tất cả các
ngành nghề và họ sẽ cạnh tranh nhau để tồn tại, thì sẽ rất tốt cho xã
hội. Nhà nước chỉ giữ những ngành chiến lược hoặc chỉ làm những ngành mà
dân không làm như công nghiệp quốc phòng, dịch vụ công ích… Thu nhập
của Nhà nước không phải từ các công ty Nhà nước, mà từ việc thu thuế.
Chính sách thuế thấp nhưng công bằng, quản lý tốt, sẽ làm tăng ngân sách
chứ không giảm. Là một người dân, khi đóng thuế thấp và phải chăng, ai
cũng ý thức để đóng, thu đủ 100%, còn hơn là đặt mức thu quá cao rồi
thất thu nhiều do trốn thuế. Khi người dân thấy nghĩa vụ của mình phải
nộp thuế để phát triển đất nước, thì khi đó họ cũng thấy yêu nước hơn.
Nhà nước chỉ nên tập trung xây dựng bộ luật hoàn chỉnh, công bằng cho
tất cả mọi người, chứ không nên ưu ái cho bất kỳ doanh nghiệp nào, kể cả
doanh nghiệp nước ngoài. Khi chính sách rõ ràng, ưu tiên cho doanh
nghiệp đầu tư lĩnh vực chiến lược do Nhà nước đề ra, sẽ được ưu tiên
thuế thấp. Không nên ôm đồm lập ra nhiều doanh nghiệp Nhà nước để rồi
mất kiểm soát dòng tiền Nhà nước đầu tư, tạo ra hệ lụy rất lớn cho xã
hội, mà khó có thể giải quyết ngày một ngày hai.
Chúng ta hay nói “vàng trữ trong dân rất lớn” nhưng chặn hết ngõ đầu tư:
chứng khoán, đô la, vàng, bất động sản… nếu dân có tiền thì đầu tư vào
cái gì? Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, chưa
có lối thoát, lại bàn chuyện giải cứu. Sao không mạnh dạn bán hết các
doanh nghiệp đó cho dân? Khi nhà nước cam kết “không quốc hữu hóa” và
“tôn trọng và đảm bảo vĩnh viễn quyền sở hữu tư nhân” trong Hiến pháp
(chứ không phải Sở hữu Nhà nước là chủ đạo như hiện nay) thì tôi dám
chắc không phải nặng đầu để suy nghĩ “giải quyết” các bài toán doanh
nghiệp Nhà nước thua lỗ. Lúc đó đâu cần phải dùng mọi biện pháp như Ngân
hàng Nhà nước làm hiện nay để “huy động vàng trong dân”? Nhưng rồi có
huy động được không, cho tới thời điểm này?
BS. Nguyễn Quang Bình Tuy
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Toàn văn: Đề cương cải cách giáo dục - Hoàng Tụy
Trên website Hocthenao.vn, GS Ngô Bảo Châu thông qua
tài khoản Thichhoctoan đã giới thiệu toàn văn đề cương cải cách giáo dục
của GS Hoàng Tụy. Sau đây, Giaoduc.net.vn xin đăng tải nguyên văn đề
cương này để bạn đọc xa gần cùng theo dõi, bày tỏ suy nghĩ về tâm huyết
của người thầy đáng kính của bao thế hệ, trong đó có cả GS Ngô Bảo Châu.
Giáo sư Hoàng Tụy. Ảnh: Xuân Trung |
Từ lâu giáo dục đã trở thành chỗ nghẽn lớn nhất trong sự phát triển của
đất nước. Vì vậy cải cách giáo dục toàn diện và triệt để theo tinh thần
các nghị quyết của TƯ là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống.
Sau đây là bản kiến nghị đề cương cải cách giáo dục phục vụ yêu cầu phát
triển của đất nước trong vài mươi năm tới. Bản đề cương gồm ba phần
chính:
I. Quan điểm tổng quát, cũng tức là triết lý cơ bản của giáo dục mới.
II. Những vấn đề chính và cấp bách cần giải quyết.
III. Lộ trình và tổ chức thực hiện.
I. Quan điểm tổng quát
Đây có thể coi là vấn đề của mọi vấn đề, nó là cái gốc chi phối từ sứ
mạng, phương châm cho đến nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục.
Trong thế giới hiện đại, yêu cầu hội nhập quốc tế đặt ra ngày càng gay
gắt cho mọi dân tộc, nếu ta chỉ muốn xây dựng giáo dục theo con đường
riêng của mình, thì dù với những lý tưởng đẹp đẽ và dân khí rất cao như
trong thời hoàng kim của cách mạng, sớm muộn chúng ta cũng không tránh
khỏi bị đào thải trong cuộc cạnh tranh quốc tế quyết liệt. Huống hồ sau
1975 đất nước đã bước sang một giai đoạn lịch sử mới, có biết bao vấn đề
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội phức tạp trước đây chưa bao giờ
gặp. Hơn nữa sau khi giành được độc lập, thống nhất, ta xây dựng lại đất
nước trong bối cảnh cả nhân loại chuyển lên nền văn minh trí tuệ. Nhiều
cơ hội mới mở ra từ đây cho những dân tộc giàu tiềm năng như chúng ta,
đồng thời đất nước cũng đối mặt với những thách thức to lớn không dễ gì
vượt qua nếu không đủ dũng khí chia tay với những tập quán, cách suy
nghĩ, làm ăn, ứng xử, từng là nếp sống quen thuộc một thời.
Cho nên ngày nay hơn bao giờ hết, không gì cản trở sự tiến bộ của xã hội
hơn thái độ đóng kín, thiếu cởi mở với cái mới, e ngại thay đổi, chủ
quan tự mãn, không muốn, không dám nhìn thẳng vào những yếu kém của mình
mà chỉ say sưa tự ru ngủ với quá khứ vẻ vang và tự dối mình bằng những
thành tích tưởng tượng hoặc giả tạo.
Có thể nói đã sang thế kỷ 21 nhưng giáo dục của ta vẫn còn giữ khá nhiều
quan niệm cổ hủ thời phong kiến nho giáo, thậm chí thời trung cổ Châu
Âu. Nặng tính giáo điều kinh kệ, nhằm biến con người thành một phương
tiện – dù là phương tiện để thực hiện những lý tưởng cao quý – hơn là
hoàn thiện con người như một chủ thể tự do. Đã đến lúc cần nhìn thẳng
vào thực tế để nhận rõ những hệ luỵ tiêu cực của tình hình đó đối với
tương lai dất nước. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng cứ áp đặt một ý thức hệ
định sẵn vào nội dung và phương pháp giáo dục thì sẽ đào tạo được những
con người khuôn theo ý thức hệ đó. Kinh nghiệm thực tế khắp nơi trên thế
giới đều cho thấy ngược lại: sự mâu thuẫn xung khắc giữa giáo lý trong
nhà trường với thực tế phũ phàng ngoài xã hội thường là nguyên nhân phát
sinh và nuôi dưỡng gian dối, đạo đức giả và bạo lực, cuối cùng đưa đến
bất ổn trầm trọng trong xã hội.
Lịch sử các nước Phương Tây cho thấy chỉ sau khi thế tục hoá nhà trường,
tách nhà trường ra khỏi Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo thì khoa học, kỹ thuật
hiện đại mới có điều kiện phát triển mạnh mẽ, đồng thời Nhà Thờ không vì
thế mà mất vị trí tinh thần của nó trong xã hội. Đối với chúng ta, mà
mục tiêu tối thượng của dân tộc là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, tưởng cũng cần một giải pháp tương tự cho giáo dục
mới có thể mở đường chấn hưng đất nước. Cuộc sống từ lâu đã đòi hỏi nhà
trường phải thoát khỏi chế độ bao cấp tư tưởng với những ràng buộc giáo
lý cứng nhắc đang có tác dụng kìm hãm thay vì khai sáng trí tuệ1. Thay
vào đó, cần đề cao tính nhân văn: rèn luyện nhân cách, phẩm chất trí
tuệ, năng lực cảm thụ, ý thức cộng đồng, như trong mọi nhà trường tiên
tiến trên thế giới. Đó mới chính là dạy người theo nghĩa cao quý nhất.
Một khi sản phẩm của nhà trường là những con người tự do, với nhân cách
và phẩm chất hướng theo hệ thống giá trị phổ quát của nhân loại thì cái
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh mới có
cơ may hiện thực. Bằng không, nếu chỉ chăm chăm đào tạo con người theo
khuôn mẫu đúc sẵn thì cái mục tiêu ấy mãi mãi xa vời. Bởi lẽ trong một
thế giới, một thời đại, đầy biến chuyển khó lường mà thế hệ chúng ta
đang trải qua, mọi khuôn mẫu đúc sẵn đều không thể thích nghi được.
Giáo dục hiện đang đứng ở ngã ba đường, giống như kinh tế những năm giữa
thập kỷ 80. Nếu lúc bấy giờ ta cứ kiên trì đường lối kinh tế tập trung
bao cấp và tiếp tục dị ứng với cơ chế thị trường như hồi 1968, khi đó VN
đã cùng với cả phe xã hội chủ nghĩa lên án mạnh mẽ chủ nghĩa xã hội thị
trường Tiệp Khắc2, thì không biết điều gì đã xảy ra. May thay, nhờ nhìn
thẳng vào thực tế cuộc sống với tinh thần trách nhiệm cao trước nhân
dân, chúng ta đã kịp thời nhận ra nguồn gốc bế tắc của xã hội và đã có
can đảm thay đổi tư duy, chấp nhận chính cái cơ chế thị trường ngày nào
đã bị chúng ta bác bỏ. Đường lối đổi mới nhờ thế đã ra đời, cứu đất nước
khỏi sự sụp đổ nhãn tiền. Đó là bài học sâu sắc.
Ngày nay, sau mấy chục năm giáo dục chìm đắm trong khủng hoảng triền
miên bởi các ràng buộc ý thức hệ cứng nhắc, đã đến lúc chúng ta phải có
sự lựa chọn: hoặc là tiếp tục con đường cũ, tiếp tục giam hãm đất nước
trong nền giáo dục lạc hướng, ngày càng tụt hậu so với thế giới, hoặc là
cương quyết thay đổi tư duy, thực hiện bước ngoặc cơ bản, mở đường cho
một giai đoạn giáo dục khai phóng phát triển.
Đương nhiên đây là công việc không hề dễ dàng vì phải đoạn tuyệt với
nhiều quan niệm, cách sống và nếp nghĩ đã ăn sâu trong tâm khảm nhiều
thế hệ từ thời chiến đấu giành độc lập thống nhất. Nhưng là giải pháp
trước sau gì cũng phải làm, mà càng để chậm trễ thì đất nước càng hụt
hơi, càng bị cô lập và khó thích ứng kịp với những biến chuyển bất ngờ
trong thế giới văn minh ngày nay.
II. Những vấn đề chính cần giải quyết trong cuộc cải cách giáo dục
Sau khi đã xác định quan điểm tổng quát về sứ mạng cơ bản của giáo dục,
mọi vấn đề cụ thể về tổ chức giáo dục, nội dung chương trình học các
cấp, phương pháp giáo dục, v.v . đều phải xem xét giải quyết trên cơ sở
quan điểm đó. Bản đề cương này không đi sâu vào các vấn đề cụ thể có
tính chất kỹ thuật là phần việc của các chuyên gia sau này mà chỉ tập
trung nêu lên những định hướng lớn làm nền tảng và khuôn khổ giải quyết
các vấn đề cụ thể ấy.
Có 4 vấn đề lớn sau đây cần cấp bách giải quyết theo định hướng hội nhập tích cực vào trào lưu chung của thế giới văn minh.
1. Cải thiện cơ bản chính sách đối với người thầy, giải tỏa nghịch lý
lương, để nhà giáo ở mọi cấp an tâm làm việc, toàn tâm toàn ý với trách
nhiệm cao cả của mình.
Có thể nói chính sách đối với người thầy là một trong những điểm khác
biệt cơ bản của giáo dục VN so với thế giới và là nguyên nhân trực tiếp
quan trọng nhất làm tha hóa giáo dục.
Có một nhà khoa học lớn nước ngoài tâm huyết với VN khi được hỏi về điều
gì cần thay đổi cấp bách nhất để chấn hưng giáo dục, đặc biệt là đại
học, đã không chút ngần ngại nói ngay đó là chế độ lương kỳ quặc không
thấy đâu trong thế giới văn minh nhưng đã tồn tại dai dẳng ở VN từ hàng
chục năm nay. Một chế độ lương biểu thị không gì khác hơn là sự khinh
miệt đối với lao động giáo dục và khoa học, trái hẳn với chủ trương tôn
vinh nhà giáo đã được lãnh đạo khẳng định lặp đi lặp lại không biết bao
nhiêu lần suốt thời gian qua.
Với đồng lương thấp đến mức khó tưởng tượng, đương nhiên nhà giáo và các
quan chức giáo dục đều phải xoay xở để kiếm thêm thu nhập. Chính đó là
cái lỗ hổng quản lý gây nên hoặc làm trầm trọng thêm hầu hết các căn
bệnh trầm kha đã ra sức tàn phá giáo dục3. Chúng ta nói nhiều đến bệnh
giả dối, gian trá, thành tích ảo, v.v. nhưng làm sao chống được các bệnh
ấy để có một nền giáo dục trung thực, lành mạnh, nói chi đến hiện đại,
nếu cái nguyên nhân gây ra các bệnh ấy nằm ngay trong cơ chế, nói cách
khác nằm ngay trong khuyết tật hệ thống của giáo dục?
Sự thật, nhờ xoay xở đủ mọi cách hợp pháp hay không hợp pháp, hợp lý hay
trái với lương tâm, phần lớn nhà giáo, nhất là quan chức giáo dục, nay
đã có mức sống không đến nỗi quá tệ, thậm chí một bộ phận nhỏ còn có thu
nhập khá. Song cái giá phải trả thật quá đắt. Những giải pháp chữa cháy
gần đây theo kiểu “kế hoạch 3” hồi những năm 80 thế kỷ trước, hay cho
phép nhiều cơ sở giáo dục vượt rào để xử lý từng trường hợp riêng lẻ về
lâu dài rất nguy hiểm, chỉ gây thêm rối loạn, dẫn đến bất công và tiêu
cực ngày càng tệ hại hơn.
Điều không may là giải quyết vấn đề cốt tử này cực kỳ khó vì căn bệnh từ
lâu đã thành một thứ ung thư của cả xã hội, chứ không riêng gì của giáo
dục, lại gắn liền chặt chẽ với quốc nạn tham nhũng đang ngày càng gia
tăng chóng mặt. Trước mắt chưa thể hy vọng có thể chữa trị nhanh chóng
cái ung thư này, cho nên giáo dục phải tìm mọi cách tự cứu lấy mình
trong phạm vi có thể, may ra còn nêu gương cho các ngành khác để tiến
dần đến một giải pháp chung. Theo tính toán của nhiều chuyên gia, hoàn
toàn có cơ sở để tin rằng dù trong phạm vi cả nước còn khó khăn thì ngay
trong nội bộ ngành giáo dục, vẫn có thể rà soát lại cơ chế tài chính,
kiên quyết bỏ hay giảm bớt mọi khoản chi tiêu không hiệu quả, trên cơ sở
đó tăng lương, bảo đảm lương đủ sống và dần dần trở thành thu nhập
chính của mỗi người, từ đó lập lại kỷ cương, đạo đức trong giáo dục.
Trong một xã hội mà đời sống kinh tế bị thao túng nặng nề bởi các “nhóm
lợi ích”, ai cũng thấy đây là việc vô cùng khó, tuy khả thi về điều kiện
vật chất khách quan nhưng chắc chắn sẽ vấp trở ngại cực kỳ lớn. Biết
thế, song giáo dục là lĩnh vực cần bảo vệ trong sạch nhất, nếu không
cương quyết làm bây giờ mà cứ trì hoãn mãi thì sẽ ngày càng khó hơn và
sẽ chẳng bao giờ có hy vọng trả lại lòng tự trọng cho giáo dục, chẳng
bao giờ xây dựng được một nền giáo dục lành mạnh, trung thực, hiện đại.
2. Cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục phổ thông và dạy nghề
Hệ thống giáo dục THPT hiện tại có hai lãng phí lớn.
Lãng phí thứ nhất là hàng năm có một số lớn thanh niên tốt nghiệp THPT
không qua lọt cánh cửa ĐH, CĐ, phải bước vào thị trường lao động, chịu
bằng lòng với một việc làm đơn giản (không cần tay nghề), dù đã tốn 12
năm đèn sách, hoặc phải chấp nhận vào học nghề ở một trường trung cấp kỹ
thuật vốn chỉ đòi hỏi trình độ THCS. Trong khi đó vì thiếu công nhân
lành ghề và kỹ thuật viên thông thạo nên công nghiệp phụ trợ không phát
triển nổi, sau mấy thập kỷ xây dựng công nghiệp mà cuối cùng chỉ có lắp
ráp, xuất khẩu tài nguyên thô, thì làm sao giàu được. Tình trạng lãng
phí đó vừa thiệt hại cho xã hội vừa tạo mầm mống bất ổn trong thanh
niên.
Lãng phí lớn thứ hai, khó thấy hơn, nhưng nghiêm trọng hơn, là cách học
và thi quá lạc hậu ở THPT gắn liền với thói hư học cổ lỗ, hoàn toàn
không chú ý các đặc điểm và đòi hỏi của lứa tuổi, làm phí sức học sinh
một cách vô ích, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, tâm lý, đến tương lai
nghề nghiệp của một số khá đông, lại rất tốn kém cho gia đình và xã hội.
Trẻ em ta học hết 12 năm THPT thì mệt nhoài, lên đại học và trên nữa
thường mau đuối sức khi đua tranh với bạn bè các nước mà ở đó tuổi thiếu
niên vừa được học vừa được chơi, chơi mà học, để dành sức sau này có
thể tiến lên xa vào những giai đoạn quyết định của cuộc đời.
Để khắc phục những bất hợp lý trên cần cải tổ hệ thống giáo dục để sau
THCS có hai nhánh rẽ: một số lớn học sinh (khoảng 2/3) sẽ vào trung học
hướng nghiệp, chỉ 1/3 vào trung học phổ thông.
Học xong trung học hướng nghiệp có thể đi ngay vào thị trường lao động
tìm một việc làm có nghề nhưng nếu muốn cũng có thể học lên cao hơn (cao
đẳng hay đại học) vì chương trình học, ngoài phần hướng nghiệp, vẫn bảo
đảm phần văn hoá cơ bản cần thiết. Còn trung học phổ thông có nhiệm vụ
chủ yếu chuẩn bị đầu vào cho đại học.
Theo hướng đó cần phát triển mạnh trung học hướng nghiệp, đồng thời cấu
trúc lại chương trình và cách học ở trung học phổ thông cho phù hợp với
nhiệm vụ của cấp học này. Cụ thể là bãi bỏ cách phân ban bất cập hiện
nay để tổ chức lại việc học như ở nhiều nước tiên tiến, về mỗi môn học
đều có một chương trình bình thường và một hoặc nhiều chương trình nâng
cao, theo nhiều mức độ nâng cao khác nhau, cho phép học sinh được tự do
lựa chọn chương trình nào hợp sức và hợp sở thích, đồng thời dễ dàng
điều chỉnh sự lựa chọn khi thấy cần thiết. Với cách học đó học sinh cả
trung học hướng nghiệp và trung học phổ thông đều không bị quá tải, vì
được học sâu những môn ưa thích và không phải học quá kỹ nhiều thứ mà
sau này sẽ chẳng bao giờ cần đến. Đó mới là cách thực tế và hiệu quả
giảm tải ở cấp học phổ thông, chứ không phải như hiện nay, chương trình
bị kẹt giữa hai yêu cầu mâu thuẫn: vừa giảm tải vừa không hạ thấp chất
lượng.
Hơn nữa về những môn hợp với xu hướng sở thích thì học sinh có cơ hội
được học đủ sâu để đến khi tốt nghiệp có đủ hiểu biết tìm được việc làm
có nghề, và nếu xuất sắc thì khi học tiếp lên ĐH hay CĐ có thể học vượt
lớp, tiết kiệm thời gian. Như thế tránh được nhiều sự lãng phí cho cả xã
hội lẫn cho từng cá nhân học sinh. Tuổi 15-18 là tuổi vàng, nhiệm vụ
của nhà trường là tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển đến mức tối
đa của mình, chứ không phải chỉ nhằm bảo đảm cho mọi cá nhân môt mức tối
thiểu đồng loạt như cách dạy hiên nay ở THPT4.
3. Thay đổi căn bản cung cách học và thi, xoá bỏ thi cử nặng nề, tốn kém mà kém hiệu quả
Bạn đọc gửi ý kiến phản hồi, bình luận, xin mời BẤM VÀO ĐÂY. Trân trọng cảm ơn!
Đồng thời với cải tổ hệ thống giáo dục, thì cách học, cách thi cử và
đánh giá cũng phải thay đổi tận gốc. Đặc biệt cần đổi mới căn bản tư duy
thi tốt nghiệp và tuyển sinh. Trong một nhà máy làm ra một sản phẩm gồm
nhiều bộ phận riêng rẽ (môđun) ghép lắp lại, người ta phải kiểm tra kỹ
chất lượng khi sản xuất từng bộ phận, đến khi lắp ráp chỉ kiểm tra chất
lượng lắp ráp. Việc học và thi trong nhà trường cũng vậy: mỗi môn, mỗi
học phần như một môđun, học môn nào, học phần nào phải kiểm tra, thi
nghiêm túc ngay môn đó, phần đó, đến cuối cấp không thi lại từng môn,
từng học phần nữa, mà chỉ phải làm một tiểu luận hoặc qua một kỳ thi nhẹ
nhàng, với mục đích chủ yếu kiểm tra trình độ văn hóa phổ quát (giống
như kiểm tra chất lượng lắp ráp các môđun trong nhà máy). Hơn nữa, kỳ
thi nhẹ nhàng này cũng có thể không bắt buộc cho mọi người mà có thể coi
như một kỳ thi sơ tuyển (ST) vào ĐH, CĐ chỉ bắt buộc đối với những ai
muốn vào học ĐH, CĐ. Còn việc tuyển sinh vào ĐH, CĐ thì cần trả lại cho
từng trường. Mỗi trường tuyển sinh căn cứ vào kết quả thi (ST) và học bạ
hoặc qua một kỳ thi tuyển nếu trường nào có yêu cầu đào tạo đặc biệt4.
Cách học và thi như thế khác hẳn cách học và thi hiện nay là dồn tất cả
sự kiểm tra vào cuối cấp trong một kỳ thi tốt nghiệp mà nhiều người cho
là thi vờ vì chỉ để loại vài phần trăm thí sinh, là những em quá kém
không cần thi cũng có thể loại được theo học bạ. Có ý kiến cho rằng tuy
thi vờ nhưng là cần thiết vì tâm lý học sinh là có thi thì mới học tử
tế5. Té ra là vậy: đất nước còn rất nghèo mà phải tốn kém hàng chục
nghìn tỉ mỗi năm tổ chức thi chỉ để dọa và gây áp lực buộc học sinh phải
học.
Cùng một luồng ý kiến đó nhiều quan chức giáo dục cho rằng trong điều
kiện hiện thời, thầy cô giáo chịu quá nhiều áp lực không lành mạnh từ
phía xã hội nên rất khó bảo đảm việc học và thi nghiêm túc từng môn,
từng học kỳ, ở từng lớp, từng địa phương được. Cho nên không còn cách
nào khác là phải thi tôt nghiệp, dù chỉ là thi vờ. Nói thế khác nào bảo
một nền giáo dục trung thưc là ngoài tầm với của xã hội ta hiện nay –
thật lạ lùng và xót xa, vì một nền giáo dục trung thực đâu có gì quá
khó, nó đã từng có ở cả hai Miền Bắc và Nam suôt từ 1945 đến 1975.
Một ý kiến xác đáng hơn là quy một phần nguyên nhân phát triển gian trá
trong thi cử là do chương trình quá nặng, mà thi tốt nghiệp lại quá căng
thẳng: thi viết gần hết các môn trong thời gian chỉ mấy ngày, tiềm ẩn
rủi ro học tài thi phận, khiến một số học sinh dễ nảy ra tư tưởng đối
phó bằng thủ đoạn gian dối, cầu cứu đến cả sự giúp sức của phụ huynh và
thầy cô giáo. Đúng là chương trình quá tải cũng là một vấn đề, nhưng
không thể giảm tải theo kiểu cắt giảm lung tung như chúng ta đã làm lâu
nay mà chủ yếu phải cải tổ cả hệ thống giáo dục phổ thông như đã trình
bày ở trên, chấm dứt cách giáo dục đồng loạt, quá nặng với số đông lại
quá nhẹ với số có khả năng. Đông thời để bảo đảm tính trung thực, trước
hết phải thực hiện kiểm tra, thi học kỳ nghiêm túc, nghĩa là trung thực,
ngay từ những lớp nhỏ nhất chứ không đợi đến cuối cấp. Khi đó mới có
thể thi tốt nghiệp nhẹ nhàng, chỉ cốt để kiểm tra chất lượng tổng hợp,
tức là trình độ văn hóa phổ quát, hoặc thậm chí chỉ xét kết quả học tập
theo học bạ để cho tốt nghiệp mà không phải thi.
Điều quan trọng ít người chú ý là lối thi tôt nghiệp và tuyển sinh như
hiện nay tạo ra áp lực tâm lý và tinh thần rất lớn, đặt thí sinh trước
những thử thách vượt quá khả năng chịu đựng của các em. Trong một xã hội
mà xung quanh quá nhiều dối trá, rất hiếm trung thực, nếu đặt thiếu
niên trước những thử thách trung thực quá sức thì cũng chẳng khác nào
đưa trẻ ra phơi nhiễm giữa một vùng đang dịch bệnh, làm sao trẻ tránh
không bị nhiễm. Cho nên chẳng lạ gì kỳ thi nào cũng có chuyện quay cóp,
gian dối, mà những chuyện đã bị phanh phui chỉ là phần nổi của tảng
băng.
Cuộc sống đã dạy chúng ta quá đủ rằng cách học và thi như hiện nay chẳng
những gây lãng phí lớn về công sức, tiền của, thời gian, mà còn khuyến
khích phát triển sự dối trá, thói đạo đức giả, là những thứ hư hỏng cần
tránh trước hết trong nhà trường.
4. Chuyển mạnh giáo dục đại học theo hướng hiện đại hóa và hội nhập quốc tế về cả nội dung, phương pháp và tổ chức quản lý
Chỉ nhìn qua hệ thống đại học VN hiện nay cũng đã thấy cảnh tượng lộn
xộn, rất khác mọi nơi trên thế giới: trường nào, kiểu gì, cũng gọi là
đại học, trong một đại học lại có thể có nhiều đại học thành viên, dịch
ra tiếng Anh tất cả đều là university, không phân biệt university với
school, ai muốn hiểu ra sao thì hiểu6. Đành rằng đây chỉ là vấn đề tên
gọi, nhưng nó cũng phản ảnh một nét riêng “không giống ai” của đại học
VN. Đi sâu hơn vào hoạt động cụ thể của đại học càng thấy rõ sự tụt hậu
bắt nguồn từ lối suy nghĩ chủ quan tự cho mình có thể tự biên tự diễn,
bất chấp thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Cho nên muốn hội nhập quốc tế
thành công, tiến lên một nền đại học thật sự hiện đại, trước hết phải từ
bỏ lối nghĩ đó, khiêm tốn học hỏi, tuân thủ các thông lệ và chuẩn mực
quốc tế, điều gì muốn làm khác thì cần suy nghĩ cẩn trọng và có lý do
thật xác đáng.
Chúng ta đang rớt lại sau đuôi thiên hạ, tại sao cứ muốn làm độc đáo,
khác người để mãi mãi thất bại? Ngay đến một nước có truyền thống khoa
học, giáo dục lâu đời như Pháp mà cách đây 30 năm khi đánh giá nền đại
học lúc ấy của họ nhà khoa học lỗi lạc Pháp L. Schwartz cũng đã từng lên
tiếng: “nếu Pháp là nước duy nhất trên thế giới còn muốn giữ lại mãi
một số quan niệm cũ về giáo dục đại học thì hoặc chúng ta đúng và nền
đại học của ta phải là tiên tiến và được ngưỡng mộ nhất thế giới – điều
rõ ràng không phải vậy – hoặc chúng ta sai và cần phải thay đổi”. Cho
hay yêu cầu cùng đi con đường chung với cả thế giới không phải chỉ đặt
ra cho các nước kém phát triển.
Cái khó là trước đây hệ thống giáo dục đại học của ta phỏng theo mô hình
giáo dục đại học Liên Xô cũ. Đến khi nhận rõ mô hình đó không còn thích
hợp mà phải thay đổi theo yêu cẩu mới của công cuộc phát triển đất
nước, ta lại không có những nhà quản lý đủ hiểu biết chuyên nghiệp cần
thiết và nắm vững tính hệ thống nên cứ thay đổi nham nhở, chắp vá, cuối
cùng biến giáo dục đại học thành một hệ thống đầu Ngô mình Sở, chẳng
giống ai cả. Đã thế mà từ 2006 lại mạo hiểm lao theo chiến lược tân tự
do trong phát triển giáo dục, cổ suý giáo dục là hàng hóa, phát triển
mạnh trường tư vị lợi, cổ phần hóa đại học công, v.v. 7
Trong khi đó, mọi vấn đề từ chế độ tiền lương, chính sách sử dụng tài
năng, từ việc đào tạo sau cử nhân, phương thức đào tạo liên ngành, cho
đến tuyển dụng, bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư, bảo đảm tự chủ đại học,
xây dựng môi trường nghiên cứu khoa học, tự do học thuật, tất cả đều ở
trạng thái cổ hủ, lạc hậu. Chẳng khác nào đường sá thì lầy lội gồ ghề,
đầy ổ trâu ổ gà, lại chủ trương nhập xe hơi xịn phóng nhanh cho oai.
Chính cái tâm lý chưa biết đi đã đòi chạy, cái lối học kinh nghiệm thế
giới theo kiểu thầy bói sờ voi đó là nguồn gốc tất cả những yếu kém, khó
khăn của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam dù đã tốn không ít công sức
xây dựng qua mấy thập kỷ.
Công bằng mà nói, từ vài năm lại đây, sau nhiều bài học thất bại, nhận
thức cũng đã có ít nhiều thay đổi, nhờ đó đã có những cố gắng tich cực
hướng tới hội nhập quốc tế. Tuy nhiên kết quả còn rất hạn chế, do sức ỳ
quán tính của bộ máy quản lý còn nặng, do tư duy vẫn luẩn quẩn trong
những giáo điều dai dẳng và những ràng buộc thể chế ngặt nghèo. Rõ nhất
là về mục tiêu, sứ mạng đại học, về phương thức đào tạo, về quyền tự chủ
đại học và tự do học thuật, nghĩa là về các vấn đề then chốt nhất của
đại học hiện đại, quan niệm chung của chúng ta còn rất mơ hồ, lệch lạc,
có mặt lạc hậu nửa thế kỷ.
Cho nên thách thức lớn nhất của giáo dục hiện nay là hiện đại hóa đại
học, đưa đại học hội nhập thật sự vào con đường phát triển chung của thế
giới. Hãy dứt khoát rủ bỏ những gì lạc hậu, trì trệ còn níu kéo chúng
ta để chuyển mạnh theo mô hình giáo dục đại học Hoa Kỳ là mô hình được
thừa nhận tiên tiến và đang được áp dụng phổ biến trên thế giới. Có thể
nói thành bại của cuộc cải cách giáo dục một phần quyết định tùy thuộc
tiến trình hiện đại hóa đại học này.
III. Lộ trình và tổ chức thực hiện
Cải cách giáo dục cần phải được thực hiện kiên quyết, khẩn trương, nhưng
không vội vã. Sau khi Trung Ương và Quốc Hội thảo luận và thông qua đề
cương cải cách nêu lên phương hướng chính cùng với những khâu mấu chốt
cần giải quyết trong cải cách, thì cần thành lập Ủy Ban Quốc Gia Chỉ Đạo
Cải Cách Giáo Dục, bao gồm những người có năng lực và có tâm huyết, vừa
có tầm nhìn vừa thật sự quan tâm, lo lắng cho giáo dục. Ủy ban này sẽ
vạch ra lộ trình và kế hoạch thực hiện cụ thể để có thể hoàn tất công
cuộc cải cách sau khoảng một thập kỷ. Trước mắt để thực hiện được cải
cách ở những khâu cấp bách phải tổ chức nghiên cứu những vấn đề cụ thể
như chương trình và sách giáo khoa cho các cấp phổ thông, phương pháp
giảng dạy ở các cấp, đổi mới thi cử, v.v. theo quan điểm tư duy mới.
Biết rằng trong hiện tình đất nước có vô vàn khó khăn, nhưng đây cũng là
thời cơ để giáo dục có thể lột xác, từ một kiểu giáo dục nặng tính giáo
điều, lạc hậu và lạc điệu với thời đại và thế giới, tiến lên một nền
giáo dục khai sáng, lành mạnh, trung thực, hiện đại, phù hợp xu thế tiến
hóa chung của nhân loại và đáp ứng lợi ích tối cao của đất nước.
———
Chú thích:
1 : Một trong những nguyên lý bất khả tranh luận chỉ đạo nền giáo dục
trước đây một thời là giáo dục phải tuyệt đối phục tùng chính trị, trong
nhà trường chính trị là thống soái, trong hai vế “hồng” và “chuyên” thì
“hồng” là tiên quyết. Mặc dù qua cọ xát thực tế nguyên lý ấy đã buộc
phải nới lỏng nhiều, nhưng nó vẫn còn ảnh hưởng đậm nét trong nhiều khâu
quan trọng về nội dung, phương pháp giáo dục, về rèn luyện đạo đức, về
cách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, cất nhắc cán bộ.
2 : Do Dubcek, nhà lãnh dạo Tiệp Khắc khi ấy, khởi xướng. Ông này sau đó
đã bị lật đổ trong một cuộc can thiệp quân sự mạnh mẽ của Liên Xô mà
hồi ấy cả khối xã hội chủ nghĩa đều ủng hộ.
3 : Cái phần thu nhập thêm ngoài lương đó thật ra cũng từ ngân sách hoặc
từ đóng góp của người học, nhưng bắt buộc nhà giáo phải mất sức làm
thêm nhiêu việc không hợp lý (chủ yếu là dạy thêm, dưới nhiều hình
thức). Thành ra thay vì trả lương đủ một cách đương hoàng thì người ta
chia lương ra thành hai phần: một phần nhỏ, goi là lương chính thức, quy
định chặt chẽ, còn phần kia (cũng từ ngân sách hoặc đóng góp của dân)
thì tùy thuộc sự xoay xở của mỗi người – chức càng cao khả năng và phạm
vi xoay xở càng lớn.
4 : Gần đây có nhiều ý kiến đề nghị rút thời gian trường phổ thông xuống
còn 11 năm. Theo tôi điều này chỉ đặt ra với trường phổ thông được quan
niệm như hiện nay là học thẳng một mạch, tôt nghiệp thì ra đời hoặc học
lên đại học. Với trường phổ thông quan niệm như vậy sẽ không tránh khỏi
hai bất cập lớn của trường phổ thông hiện nay như trên đã phân tích
(chỉ có khác là 11 năm thay vì 12 năm). Còn để có học vấn phổ thông phổ
cập khi ra đời thì chỉ cần 9 năm THCS như đề nghị của chúng tôi là đủ,
sau đó hoặc học trung học hướng nghiệp, hoăc trung học phổ thông để
chuẩn bị đầu vào đại học.
5: Để biện minh chủ trương duy trì thi tốt nghiệp THPT một số quan chức
giáo dục thường viện lẽ trên thế giới bất cứ nước nào cũng có thi tốt
nghiệp. Đây là thông tin sai, nhất là nếu hiểu thi tôt nghiệp là thi
theo kiểu ta. Nhân đây tôi nhớ lại khi bàn về phân ban ở THPT trước đây 8
năm một số người muốn bênh vực cách phân ban cứng nhắc của ta thường
viện dẫn lý do phần lớn các nước trên thế giới đều làm như vậy, thậm chí
còn dẫn ra ở Thụy Điển THPT có đến cả vài chục ban. Hỏi ra mới biết đó
là do hiểu sai cách tổ chức học ở THPT Thụy Điển và nhiều nước khác.
6 : Trươc kia ở Miền Bắc, theo mô hình Liên Xô và các nước Đông Âu, chỉ
Đại học Tổng hợp mới dịch là University, cho nên Hanoi University là
dịch tên Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nay có Đại Học Hà Nội mới mở, cũng gọi
là Hanoi University nhưng hoàn toàn không liên quan với Đại học Tổng
hợp xưa. Thật là rối.
7: Một nét khác biệt, không giống ai cả, của đại học công lập VN là bên
cạnh hệ chính quy, còn có hệ “ngoài ngân sách”, học phí cao của sinh
viên hệ này dùng để tăng thu nhập cho thầy dạy, bù vào lương chính thức
quá thấp. Đây thực chất không khác gì một loại trường tư trá hình, ghép
vào trường công để sử dụng phương tiện của trường công. Nếu kể càc hệ
này là ngoài công lập thì thật ra tỉ lệ sinh viên ngoài công lập ở VN
phải đến 60-70% chứ không ít hơn, Ở nhiều nơi số sinh viên tuyển vào hệ
này xấp xỉ số sinh viên chính quy, tạo ra một nguồn thu nhập khá cho
thầy dạy, với cái giá phải trả là tăng gấp đôi hoặc hơn số giờ dạy cho
các thầy, vừa hạ thấp chất lượng đào tạo ngay trước mắt, vừa khiến cho
thầy dạy không còn thì giờ nghiên cứu khoa học hoặc học thêm nâng cao
trình độ. Số này sau một số năm như vậy, nếu có được cử đi du học thì
sức bật cũng không còn nhiều, còn nếu cứ tiếp tục ở lại trường thì ngày
càng đuối sức so với yêu cầu, không theo kịp được đà tiến nhanh của khoa
học, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng về lâu dài.
Theo Tia Sáng, Học thế nàoNgười VN bị từ chối nhập cảnh Nội Bài
Ông Phạm Văn Điệp, 45 tuổi, nói ông đã bị từ chối nhập cảnh
ở sân bay Nội Bài cho dù vẫn có quốc tịch Việt Nam.
Từ Nga, nơi ông thường trú cùng vợ con, ông Điệp nói với BBC rằng hôm 24/4 vừa qua, khi từ Moscow bay về Nội Bài, Hà Nội lúc 8 giờ sáng, ông đã bị từ chối làm thủ tục xuất nhập cảnh.
"Đến gần 9 giờ 30, đại diện Công an Xuất nhập cảnh ở sân bay Nội Bài đến yêu cầu tôi phải quay lại máy bay để trở về Moscow."
Khi hỏi, ông Phạm Văn Điệp được trả lời rằng lý do không cho ông nhập cảnh là vì ông đã "vi phạm pháp luật Việt Nam".
Trong cuộc đôi coi với nhân viên xuất nhập cảnh, thoạt tiên ông Điệp từ chối không quay lại Moscow vì "tôi là công dân Việt Nam" và không mang một quốc tịch gì khác.
Ông cũng cho rằng chỉ có Chủ tịch nước mới có thể tước quyền công dân của ông.
Thế nhưng sau đó, ông đã bị cảnh sát cơ động áp tải ra máy bay trong cùng buổi sáng.
Ông Phạm Văn Điệp từng có nhiều bài viết về chính trị-xã hội Việt Nam |
'Chống phá Nhà nước'
Ông Phạm Văn Điệp cho BBC hay rằng cán bộ xuất nhập cảnh cáo buộc ông đã hoạt động "chống phá Nhà nước"."Tôi cho rằng nguyên nhân họ làm như vậy là vì tôi từng tham gia đảng Dân chủ Việt Nam từ thời ở trong nước, khi ông Hoàng Minh Chính phục hoạt đảng này," ông suy đoán.
Ông Điệp cũng là người viết nhiều bài về tình hình xã hội - chính trị Việt Nam, đăng trên các website ở hải ngoại mà Việt Nam cho là 'chống đối' như Đàn Chim Việt hay Dân Luận; cũng như trên blog cá nhân của mình.
Khi quay trở lại Nga, ông đã viết đơn lên Đại sứ quán Việt Nam ở Liên bang Nga để khiếu nại và yêu cầu phục hồi quyền lợi hợp pháp.
"Đơn khiếu nại về việc vi phạm quyền tự do về nước của Công dân" của ông Điệp cũng yêu cầu nhà chức trách hoàn lại tiền vé đi về Việt Nam của ông.
Lá đơn được ông Phạm Văn Điệp gửi đi hôm 29/4 và hiện đang chờ phúc đáp của sứ quán.
Quê quán ở Thanh Hóa, ông Điệp sang Nga từ 1992 và làm công việc kinh doanh.
Ông cho hay từ đó tới nay ông đã về Việt Nam nhiều lần 'nhưng chỉ có lần này bị không cho nhập cảnh".
(BBC)
Hé lộ ngày càng nhiều sếp bự nhận lương bạc tỷ
2013 vẫn là năm khó khăn nhưng ngày càng nhiều doanh nghiệp công bố mạnh tay chi lương bạc tỷ cho các sếp lớn.
Theo báo cáo thường niên của Tổng công ty Cà phê Việt Nam (VCF), trong
năm 2012, riêng tiền lương của các thành viên Ban tổng giám đốc đều trên
1 tỷ đồng. Trong đó, mức lương vị trí tổng giám đốc của ông Phạm Quang
Vũ là hơn 1,51 tỷ đồng, tương đương bình quân 126 triệu đồng/tháng.
Ngoài khoản lương, ông Vũ còn được cộng thêm gần 1 tỷ phụ cấp và thưởng.
Như vậy, tổng thu nhập trong năm 2012 của ông Vũ đạt gần 2,5 tỷ đồng.
Ngoài ra, là một cổ đông của công ty, ông Vũ còn nhận được 566 triệu
đồng cổ tức.
Là công ty gây ấn tượng với những khoản lợi nhuận ngàn tỷ đồng nhưng
Tổng Công ty Khí Việt Nam (GAS) có vẻ rụt rè khi chi mức lương “khiêm
tốn” hơn so với VCF cho lãnh đạo.
Cụ thể, tại GAS, chủ tịch Hội đồng quản trị hưởng lương cao nhất, 70
triệu đồng một tháng, Phó chủ tịch hơn 59 triệu, thành viên 57 triệu,
trưởng ban kiểm soát nhận lương 47,1 triệu, thành viên ban kiểm soát
lương 37,3 triệu đồng.
Hình minh họa |
Ngoài ra, Chủ tịch nhận thêm khoản tiền thưởng 30 triệu đồng một tháng.
Như vậy, trong một tháng, chủ tịch của GAS nhận được 100 triệu đồng,
tương đương 1,2 tỷ đồng một năm.
Một Tập đoàn lớn của Việt Nam là Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel
cũng rất mạnh tay trả thù lao cho cán bộ. Ông Lê Đăng Dũng, Phó tổng
giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel cho biết, hiện tập đoàn
này có 25.000 nhân sự và thu nhập bình quân đầu người của Viettel khoảng
18 triệu đồng/tháng, khá cao so với mức trung bình khoảng 10 triệu
đồng/tháng tại FPT và VNPT.
Và thù lao của các sếp Viettel tất nhiên phải cao hơn con số 18 triệu
đồng/tháng của nhân viên rất nhiều. ông Dũng cho biết Viettel trả lương
theo khối quản lý với mức lương cao nhất là Tổng giám đốc và khối chuyên
gia.
Mặc dù ông Dũng từ chối tiết lộ mức lương cao nhất trong khối lãnh đạo
hoặc chuyên gia của Viettel, song, một nguồn tin cho biết, tại Viettel
có những chuyên gia được trả lương tới vài trăm triệu mỗi tháng.
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, lãi sau thuế năm vừa qua chỉ là 785 tỷ
đồng nhưng ngân hàng Á Châu (ACB) vẫn mạnh tay chi trả lương, thưởng cho
lãnh đạo.
Cụ thể, các thành viên hội đồng quản trị ACB nhận thù lao 14,3 tỷ đồng,
gần gấp đôi so với năm 2011. Với các lãnh đạo, năm 2012, thu nhập ban
tổng giám đốc và thù lao hội đồng quản trị, ban kiểm soát đều tăng. Ban
tổng giám đốc nhận về 23,5 tỷ đồng, tương đương gần 200 triệu đồng/tháng
bình quân (tính cả nhân sự cũ đã từ nhiệm là ông Lý Xuân Hải), còn các
thành viên HĐQT nhận 14,3 tỷ thù lao, cao gấp đôi 2011, tương đương 62,7
triệu đồng/tháng/người (tính cả thành viên đã từ nhiệm).
Một công ty có quy mô nhỏ hơn nhiều là Công ty Cổ phần Sông Đà 9 (SD9)
cũng không tiếc tiền cho lãnh đạo. Tổng lương, thù lao hội đồng quả trị
và các khoản thu nhập khác năm 2012 được Đại hội thông qua là hơn 2,7 tỷ
đồng, trong đó tiền lương của chủ tịch hội đồng quản trị là 60 triệu
đồng/tháng.
Trước đó, dư luận đã xôn xao về mức lương khủng của nhiều sếp lớn như bầu Đức, bà Thanh, bà Dung,..
Được biết mức lương cứng mà bầu Đức, chủ tịch Hoàng Anh Gia Lai nhận
được là 240 triệu đồng/tháng, tương ứng 2,88 tỷ đồng mỗi năm. Chủ tịch
kiêm CEO Nguyễn Thị Mai Thanh của công ty cổ phần Cơ điện lạnh REE nhận
lương 100 triệu đồng/tháng, tương ứng 1,2 tỷ đồng/năm. Bà Cao Thị Ngọc
Dung, Tổng giám đốc PNJ nhận lương khoảng 1,7 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, tính tới thời điểm này, chưa ai vượt qua được mức lương khủng
mà ông Nguyễn Đức Vinh, nguyên Tổng giám đốc Techcombank thiết lập nên.
Khi đảm nhiệm vị trí CEO tại Techcombank, ông Vinh nhận lương 20 tỷ
đồng mỗi năm.
Thanh Hà
(VTC News)
"Lính Mỹ sống 45 năm ở VN" là kẻ lừa đảo
Tuyên bố gây sốc của một người đàn ông 76 tuổi tự xưng là cựu chiến
binh Mỹ bị bỏ rơi ở Việt Nam cách đây 45 năm gây xôn xao trong thời
gian qua hoá ra chỉ là trò lừa.
Câu chuyện của Trung sĩ John Hartley Robertson được kể lại trong bộ
phim tài liệu “Unclaimed” (Không đòi hỏi) khiến không ít người kinh
ngạc vì một tù binh Mỹ đã chạy trốn khỏi nhà tù Việt Nam và bí mật lập
gia đình với một người phụ nữ địa phương có thể sống ở Việt Nam trong
thời gian dài như vậy mà chính quyền cũng như giới báo chí Việt Nam
chưa từng nhắc đến.
Tuy nhiên, đến nay mọi sự đã rõ. Người đàn ông đó không phải Trung sĩ
Robertson, mà chỉ là kẻ muốn được gia nhập cộng đồng tù binh chiến
tranh/lính mất tích trong chiến tranh Việt Nam để vụ lợi. Xét nghiệm DNA
do Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) vừa xác nhận điều đó.
Theo tác giả viết sách nổi tiếng và là cựu binh lực lượng đặc nhiệm Mỹ
Don Bendell, người đàn ông tự nhận là Trung sĩ Robertson chỉ là người
đàn ông Việt gốc Pháp muốn lợi dụng cộng đồng cựu chiến binh đang tìm
kiếm lính Mỹ bị bắt làm tù binh hoặc mất tích ở Việt Nam.
Chân dung Trung sĩ John Hartley Robertson |
Trong email gửi tới ban tổ chức festival sẽ trình chiếu bộ phim
“Unclaimed”, ông Bendell khẳng định: “Người đàn ông trong bộ phim tự
nhận là John Hartley Robertson là một người Pháp, một kẻ mạo danh chỉ
muốn lừa tiền của cộng đồng cựu chiến binh và những người đang mong mỏi
tìm thấy những tù binh chiến tranh còn sống”.
Một số thành viên cấp cao của cộng đồng cựu chiến binh thuộc lực lượng
đặc nhiệm tham chiến ở Việt Nam cũng nói rằng họ bác bỏ tuyên bố của
người đàn ông trong bộ phim tài liệu sắp chiếu.
Người đàn ông có tên Việt Nam là Dan Tan Ngoc đến nay đã lừa được hàng chục nghìn USD từ hội cựu chiến binh Mỹ.
Ông Bendell cho biết, các cựu tù binh nổi tiếng như tướng Mark “Zippo”
Smith và Orson Swindle – bạn tù của Thượng nghị sĩ John McCain trong
thời gian ở Việt Nam – cũng biết trò lừa của Dan Tan Ngoc.
Zippo, hiện đang sống ở Thái Lan, và điệp viên CIA Billy Waugh, đã đến
gặp người nhận là Trung sĩ Robertson để tìm hiểu sự thực. Ông Bendell
cho biết, Zippo và ông Waugh đã kết luận đây hoàn toàn là trò lừa, và
kết quả xét nghiệm DNA xác nhận điều đó.
Hội các lực lượng đặc nhiệm Mỹ nói rằng, nếu người đàn ông đó đúng là
đồng đội đã mất tích của họ thì ông ta sẽ được chào đón nồng nhiệt để
trở về Mỹ. Tuy nhiên, Dan Tan Ngoc không phải người mà họ muốn tìm kiếm.
Bộ phim tài liệu của nhà làm phim giành giải Emmy Michael không đánh
giá tính đúng sai về tuyên bố của người đàn ông tự xưng là Robertson.
Bộ phim chỉ nói về hành trình của một cựu chiến binh Việt Nam, Tom
Faunce, trên đường đi tìm sự thật đằng sau tuyên bố kinh ngạc của người
đàn ông mà họ bắt gặp.
Người đàn ông đó đang sống ở miền Trung Việt Nam tự nhận là cựu chiến
binh Mỹ được cho là đã chết sau khi trực thăng của anh ta bị bắn rơi
trong chiến dịch đặc biệt ở Lào năm 1968. Người đàn ông này kể rằng, ông
ta chưa được ai tìm ra hay liên lạc kể từ thời gian đó. Ông ta cũng từ
chối làm xét nghiệm DNA để chứng minh thân phận. Vợ và con gái của
Trung sĩ John Hartley Robertson lúc đầu đồng ý làm xét nghiệm DNA,
nhưng năm ngoái đã thay đổi quyết định, theo nhà sản xuất của bộ phim
tài liệu “Unclaimed”.
Người đàn ông tự nhận là Robertson và đã sống ở Việt Nam 45 năm mà không ai biết đến |
Tên của Trung sĩ Robertson đã được ghi cùng 60.000 lính Mỹ khác tại đài
tưởng niệm chiến binh Mỹ tham gia chiến tranh Việt Nam ở Washington,
nhưng bộ phim tài liệu “Unclaimed” nêu nghi vấn liệu Robertson có thực
sự còn sống. Người đàn ông 76 tuổi nói rằng mình không còn nhớ ngày sinh
nhật, tên của con ở Mỹ cũng như đã quên sạch tiếng Anh.
Kẻ lừa đảo nói với mọi người rằng khi chiếc trực thăng của ông ta lao
xuống đất tại vùng núi ở Lào, ông ta bị bộ đội bắc Việt Nam bắt giữ.
“Họ giam tôi lại, trong một chiếc lồng sắt trong rừng. Tôi bị ngất lên
ngất xuống vì tra tấn và bị bỏ đói. Họ đánh tôi ngày càng nhiều, và tôi
nghĩ mình đã chết. Tôi không khai điều gì, dù họ đánh đập và tra tấn
tôi”. Rồi kẻ giả mạo kể rằng ông ta trốn thoát vào rừng 4 năm sau đó,
rồi được một người phụ nữ tìm thấy trên cánh đồng. Người phụ nữ này đã
chăm sóc rồi sau đó trở thành vợ ông ta.
Ông ta lấy họ và ngày sinh của người chồng quá cố của vợ rồi đăng ký là
người Việt gốc Pháp với tên Dan Tan Ngoc. Sau đó, người đàn ông này có
con với vợ Việt Nam và không liên lạc gì với vợ con ở Mỹ.
Bộ phim tài liệu được dựng theo đề nghị của cựu chiến binh Tom Faunce.
Faunce lần đầu nghe về người đàn ông này trong chuyến đi từ thiện tới
Việt Nam năm 2008. Nhà làm phim Jorgensen không thấy thuyết phục lắm về
câu chuyện, mà chỉ hứng thú với hành trình Faunce với tư cách cựu
chiến binh, một người nghiện rượu và là nạn nhân của tình trạng lạm
dụng trẻ em.
Một kiểu lừa đảo Trước tình trạng nhiều cá nhân, nhóm cá nhân lợi dụng các gia đình Mỹ đang mong mỏi tìm lại người thân để lừa tiền, trang web của Liên minh các gia đình tù nhân chiến tranh/lính Mỹ mất tích (National Alliance of POW/MIA Families) đã đưa ra cảnh báo về trò lừa đảo này: “Có một số cá nhân hoặc nhóm cá nhân đang lợi dụng gia đình các tù binh chiến tranh hoặc lính Mỹ mất tích, các nhà hoạt động hay cá nhân cộng đồng Việt Nam. Câu chuyện của họ luôn giống nhau; họ tiếp cận một hoặc vài cựu tù binh chiến tranh để nhờ giúp đỡ trở về nhà, dù lúc đầu họ không nhắc đến chuyện tiền nong. Những con người vô liêm sỉ này bắt đầu bằng việc xây dựng quan hệ với nạn nhân mà chúng nhắm tới. Chúng cung cấp một vài thông tin, thường là thông tin đã được công bố qua các tài liệu công khai hoặc nghe ngóng từ những cuộc trò chuyện với người thân gia đình tù binh chiến tranh/lính Mỹ mất tích. Sau đó họ cung cấp ảnh. Gần đây nhất là vụ việc xung quanh John Hartley Robertson mất tích ở Việt Nam năm 1968. Chúng tôi phải đưa ra lời cảnh báo vì chúng tôi tiếp tục nhận được báo cáo từ gia đình tù binh chiến tranh/lính Mỹ mất tích về những vụ lừa đảo kiểu này. Chúng tôi cảnh báo: “Hãy cẩn thận khi nhận được những thông tin như vậy. Hãy kiểm tra kỹ càng, và bảo đảm những thông tin họ cung cấp không có đầy trên internet”. |
Trúc Quỳnh
(Daily Mail)
Số phận 10 nhân vật quyền lực nhất Sài Gòn sau 1975
Số phận của họ đi theo những ngả đường khác nhau, người ở lại đất nước
và được trọng dụng, người ra đi và sống lặng lẽ nơi xứ người…
Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) là Tổng thống chế độ Sài Gòn từ 1967-1975.
Đêm 25/4/1975, ông rời VN đi Đài Loan dưới danh nghĩa phúng điếu Tưởng
Giới Thạch, rồi bay thẳng sang Anh định cư. Đầu thập kỷ 1990, ông
Thiệu chuyển sang sống tại Foxborough, Massachusetts, Mỹ và sống một
cuộc sống thầm lặng trong quãng đời còn lại ở đây. Ông qua đời ngày
29/9/2001, sau khi đột quỵ tại nhà riêng ở Foxborough, thọ 78 tuổi.
Dương Văn Minh (1916-2001) là Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn.
Sau năm 1975, ông sống tại TP Hồ Chí Minh, cho đến năm 1983 thì sang
Pháp định cư. Nhưng ngay sau đó, ông lại chuyển sang California (Mỹ),
sống với gia đình con gái. Ông qua đời ngày 6/8/2001, thọ 86 tuổi. Thời
gian cuối đời, Ông Dương Văn Minh đã bày tỏ mong muốn được trở về quê
hương và sống như một người dân Việt Nam bình thường.
Trần Văn Hương (1902-1982) là cựu Thủ tướng (1964–1965; 1968–1969),
phó tổng thống (1971-1975), rồi Tổng thống trong thời gian 7 ngày
(21-28/4/1975) của chế độ Sài Gòn. Sau 1975, ông chọn ở lại quê hương,
tiếp tục sống ở căn nhà của mình ở Sài Gòn. Những năm tháng cuối đời,
ông sống chung với em gái, em rể, và người con trai lớn là Lưu Vĩnh
Châu – từng là một đại úy Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tham gia trận
Điện Biên Phủ. Ông mất ngày 27/1/1982, hưởng thọ 80 tuổi.
Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011) là một sĩ quan cao cấp và là cựu Thủ tướng và
Phó Tổng thống của chế độ Sài Gòn. Năm 2004, ông đã về thăm quê hương
trong tinh thần hòa giải dân tộc. Ông mất ngày 23/6 tại một bệnh viện ở
Malaysia, thọ 81 tuổi.
Nguyễn Xuân Oánh (1921–2003), là cựu Phó Thủ tướng kiêm Thống đốc Ngân
hàng, 2 lần là quyền Thủ tướng trong chính phủ Sài Gòn. Sau 1975, ông
tiếp tục được chính quyền mới trọng dụng. Trong tiến trình Đổi mới cuối
thập niên 1980, ông đã có đóng góp lớn vào việc cải cách các lĩnh vực
ngân hàng, tài chính, đầu tư nước ngoài… tại VN. Ông từng là cố vấn
kinh tế cho Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cũng
là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên UBTW Mặt trận Tổ quốc VN. Ông
mất ngày 29/8/2003 tại TP HCM.
Vũ Văn Mẫu (1914-1998) là một chính trị gia kiêm học giả về ngành luật
nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông từng giữ chức vụ Bộ trưởng
Ngoại giao rồi Thủ tướng của chế độ Sài Gòn. Sau 1975, ông ở lại VN
trong một thời gian, rồi sau đó sang Pháp và định cư ở đây cho đến tận
cuối đời. Ông Vũ Văn Mẫu mất ngày 20/8/1998 tại Paris, thọ 84 tuổi.
Nguyễn Hữu Có (1925-2012) là cựu Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc
phòng và tổng tham mưu trưởng quân lực chính quyền Sài Gòn. Sau năm
1975, ông ở lại VN và phải đi cải tạo đến năm 1987. Tuy vậy, đến cuối
năm 2004, ông được bầu làm Ủy viên UBTW Mặt trận Tổ quốc VN và được
chính phủ VN xem như một biểu tượng của sự hòa giải dân tộc, xóa bỏ hận
thù của 30 năm chiến tranh. Ông mất tại TP HCM ngày 3/7/2012, hưởng
thọ 87 tuổi. Trong ảnh là vợ chồng ông Nguyễn Hữu Có, chụp
vào tháng 2.2012.
Trần Văn Đôn (1917-) là tướng lĩnh cao cấp của Quân lực Sài Gòn và là
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng trong nội các cuối cùng của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu. Vào ngày 29/4/1975, ông là một trong những
người di tản trên chuyến trực thăng nổi tiếng của Mỹ xuất phát từ tầng
thượng tòa nhà 22 phố Gia Long (nay là phố Lý Tự Trọng) ở Sài Gòn. Sau
đó, ông sang Pháp định cư và sinh sống ở đó cho tới nay.
Cao Văn Viên (1921-2008) là 1 trong 5 người được phong hàm đại tướng
quân lực chế độ Sài Gòn. Ông là vị tướng giữ chức vụ Tổng Tham mưu
trưởng trong thời gian lâu nhất (1965-1975) và cũng là người cuối cùng
giữ cương vị này của chế độ Sài Gòn. Năm 1975, trước các thất bại quân
sự, ông từ nhiệm ngày 27/4 và lên máy bay di tản sang Mỹ. Sau 1975, ông
sống lặng lẽ tại Arlington, Virginia. Ông mất ngày 22/1/2008 tại viện
dưỡng lão, thọ 87 tuổi.
Vương Văn Bắc (1927-2011) là một luật sư và Tổng trưởng Ngoại giao vào
những năm cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Sau ngày 30/4/1975, ông sang
Pháp định cư. Nhờ học vấn uyên thâm, ông được ngành luật của nước Pháp
trọng dụng và làm việc cho đến năm 80 tuổi mới nghỉ ngơi. Ông mất ở
Paris ngày 20/6/2011.
(Kiến thức)
VN 'yêu cầu TQ dừng việc làm sai trái'
Người phát ngôn Việt Nam lại lên tiếng yêu cầu Trung Quốc 'không
làm ảnh hưởng tới hòa bình ổn định ở Biển Đông'.
Khi được hỏi về phản ứng của Việt Nam trước một số hành động của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa như khánh thành nhà sách trên đảo Phú Lâm, đảo lớn nhất của Hoàng Sa; tổ chức đưa khách du lịch và chuẩn bị thi câu cá tại đây, ông Lương Thanh Nghị nói: “Những việc làm trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, trái với Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc..."
Ông cũng tái khẳng định chủ quyền "không thể tranh cãi" của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Người phát ngôn của Việt Nam nói thêm: "Chúng tôi yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt các việc làm sai trái nêu trên, không làm ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở Biển Đông”.
Tuyên bố nói trên không có gì mới so với các phản đối trước đó mà giới chức Việt Nam đưa ra trước các động thái của Trung Quốc ở Biển Đông.
Gần đây nhất, huyện đảo Lý Sơn tổ chức lễ Khao Lề thế lính Hoàng Sa để vinh danh các binh phu đã ngã xuống ở vùng biển Hoàng Sa cũng như nhắc lại chủ quyền lịch sử của Việt Nam tại quần đảo này.
Trước đó, một hội thảo quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa đã được tổ chức ở Quảng Ngãi.
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cũng mới ra thăm Lý Sơn để khẳng định cam kết giữ chủ quyền tại các vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong một diễn biến có liên quan, Tân Hoa Xã đưa tin đội tàu hải giám Trung Quốc gồm các tàu Hải giám 84 và Hải giám 74 thi hành nhiệm vụ "tuần tra bảo vệ chủ quyền định kỳ" lần thứ 13 trên Biển Đông đã về đến Quảng Châu hôm 29/4.
Đội tàu tuần tra này đã ra khơi 12 ngày với hải trình hơn 4.500 hải lý, tới các quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và các vùng biển phụ cận.
Theo Tân Hoa Xã, đội tàu này đã tiến hành "giám sát thu thập bằng chứng và triển khai hành pháp bảo vệ chủ quyền đối với các hành vi xâm phạm chủ quyền được phát hiện trong quá trình tuần tra".
(BBC)
Khi được hỏi về phản ứng của Việt Nam trước một số hành động của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa như khánh thành nhà sách trên đảo Phú Lâm, đảo lớn nhất của Hoàng Sa; tổ chức đưa khách du lịch và chuẩn bị thi câu cá tại đây, ông Lương Thanh Nghị nói: “Những việc làm trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, trái với Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc..."
Ông cũng tái khẳng định chủ quyền "không thể tranh cãi" của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Người phát ngôn của Việt Nam nói thêm: "Chúng tôi yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt các việc làm sai trái nêu trên, không làm ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở Biển Đông”.
Tuyên bố nói trên không có gì mới so với các phản đối trước đó mà giới chức Việt Nam đưa ra trước các động thái của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trả lời bằng hành động
Tuy nhiên, Việt Nam mới đây cũng có những hoạt động khẳng định chủ quyền của mình tại Hoàng Sa, mà Trung Quốc chưa có phản ứng.Gần đây nhất, huyện đảo Lý Sơn tổ chức lễ Khao Lề thế lính Hoàng Sa để vinh danh các binh phu đã ngã xuống ở vùng biển Hoàng Sa cũng như nhắc lại chủ quyền lịch sử của Việt Nam tại quần đảo này.
Trước đó, một hội thảo quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa đã được tổ chức ở Quảng Ngãi.
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cũng mới ra thăm Lý Sơn để khẳng định cam kết giữ chủ quyền tại các vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong một diễn biến có liên quan, Tân Hoa Xã đưa tin đội tàu hải giám Trung Quốc gồm các tàu Hải giám 84 và Hải giám 74 thi hành nhiệm vụ "tuần tra bảo vệ chủ quyền định kỳ" lần thứ 13 trên Biển Đông đã về đến Quảng Châu hôm 29/4.
Đội tàu tuần tra này đã ra khơi 12 ngày với hải trình hơn 4.500 hải lý, tới các quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và các vùng biển phụ cận.
Theo Tân Hoa Xã, đội tàu này đã tiến hành "giám sát thu thập bằng chứng và triển khai hành pháp bảo vệ chủ quyền đối với các hành vi xâm phạm chủ quyền được phát hiện trong quá trình tuần tra".
(BBC)
Hoàng Dũng CDVN - An ninh Bộ cơ đấy!
Thêm chú thích |
Như các anh chị đã biết, 6 người chúng tôi ghé thăm nhà anh Trội ở xã
Chương Dương, Thường Tín vào buổi sáng nay. Khi về tới nơi thì đã có 2
công an ngồi ở nhà anh Trội chờ - chào đón. Ngồi một xíu thì 2 người
rút, chúng tôi (anh Phạm Hồng Sơn, thày Đỗ Việt Khoa, anh Mai Dũng, anh
Vũ Quốc Ngữ, anh Tùng và tôi) vui vẻ trò chuyện về chuyện anh Trội khi
còn ở trong tù (vui lòng google từ khóa Phạm Văn Trội để biết thêm thông
tin :D), chuyện về công an, an ninh biết chuyện hôm nay chúng tôi ghé
thăm anh Trội mà quanh quẩn ở ngoài.
Đang ăn trưa thì ở ngoài cổng an ninh liên tục gọi anh Trội đòi mở cổng
vào nhà, làm tôi giờ đây thắc mắc hai chữ an ninh quá! Các anh đang giữ
an ninh cho làng xóm hay lại đang làm rối an ninh xung quanh?
Anh Trội dù phải nói rằng "Trời đánh tránh miếng ăn" nhưng cũng không
làm cho họ ngừng quấy an ninh. Mọi người đành phải ăn vội vàng để ra về,
kẻo làm phiền nhiều cho gia đình anh Trội. Cảm ơn anh Trội về bữa cơm
ngon, hì hì.
Sáu người tạm biệt anh Trội ra về, mở cổng thì đã có khoảng 20 người mặc
thường phục ùa ra đón, mời về Công an xã Chương Dương để làm việc về
việc dám đến thăm nhà một cựu tù nhân lương tâm còn đang phải chịu án
quản chế.
Tôi là người bị "đi cung" đầu tiên, với an ninh Bộ Công An - Cục bảo vệ
Chính Trị Nội Bộ - Cục chuyên trách theo dõi hoạt động của Phong trào
Con đường Việt Nam.
Chỉ vài câu hỏi ngắn gọn liên quan đến việc có mặt ở nhà anh Trội như ai
mời, với ai, đi thế nào... Sau đó lại quay về những câu hỏi liên quan
đến các hoạt động của Phong trào Con đường Việt Nam, ngay cả đến các bác
đọc note này thấy cũng chán. Một phong trào với mục tiêu làm cho quyền
con người được tôn trọng và bảo vệ trên hết, bình đẳng ở Viêt Nam mà
cũng làm cho Bộ Công An lo lắng và sợ hãi. Hơn nữa, tôi lại chưa có bất
cứ đóng góp nào vào mục tiêu này, mà cũng bị/được săn sóc như vậy.
Trong khi làm việc, họ còn đưa ra 2 thông tin rằng họ đang điều tra một
đơn tố cáo tôi và thông tin cho rằng tôi ủng hộ tiền cho ai đó 20 triệu.
Trời, bỗng dưng tôi giàu dữ! Hay là trong lúc mộng linh tinh mà tôi đưa
cho ai đó chăng? Ai nhận được xin hú lên để tôi xin lại nhé, hoặc gửi
cho tôi biên lai nhận tiền, hehe.
Họ có hỏi về cuốn sách "Câu chuyện về Quyền Con Người" và tôi nói rằng
tôi có 6-8 cuốn. Đã kịp tặng cho chị Thanh Nghiên 1 cuốn, anh Chí Đức 1
cuốn, để ở nhà 1 cuốn, còn lại là để ở Sài Gòn. An ninh Bộ cho rằng việc
lưu hành cuốn sách đó ở Vn là vi phạm pháp luật. Tôi nói rằng tôi mong
các anh làm um chuyện này lên để chứng minh tôi đã vi phạm pháp luật khi
có trong tay và tặng 1, 2 người bạn cuốn sách quyền con người đó và tôi
sẵn sàng chịu trách nhiệm nếu như việc đó vi phạm pháp luật. Tôi muốn
nhiều người hơn nữa biết và muốn tìm hiểu về quyền con người.
Ngoài ra, họ có hỏi tôi về việc ký "kiến nghị 72", có biết đó là hành
động vi phạm nghị quyết 38 gì đó không? Họ hỏi về "tuyên bố công dân tự
do", ai là người khởi xướng...
Có vẻ như họ rất sợ cái buổi nói chuyện về quyền con người ngày 5/5 tới ở
Hanoi, Nha Trang và Saigon. Họ hỏi tôi tham dự ở đâu. Tôi nói tôi sẽ
tham dự, nếu về kịp Sài Gòn thì tôi sẽ tham dự ở Sài Gòn. Họ còn cố gắng
tìm hiểu xem Phong trào Con đường Việt Nam có liên quan gì đến buổi này
không?! Tôi nói rằng không vì chuyện đấu tranh cho quyền con người
không phải là của riêng phong trào này hay chuyện tìm hiểu về quyền con
người không phải là chỉ là quyền của phong trào, mà nó là quyền của bất
cứ một công dân bình thường nào.
Khoảng 4pm, buổi làm việc có vẻ như kết thúc, họ yêu cầu tôi đọc lại
biên bản và ký. Tôi đọc và không ký vì tôi không thích ký và cho rằng
đây chỉ là buổi nói chuyện. Các anh mời tôi về làm việc, tôi đã đồng ý
về và trả lời các câu hỏi của các anh, đó chính là sự hợp tác rất tốt
của tôi rồi. Ba người (tôi, Giang và Tới) tranh luận một chút về việc
hèn không dám ký thì 2 công an thường phục đứng trong phòng bắt đầu lớn
tiếng: Không ký đánh cho bằng ký thì thôi...
Cái hèn hạ bắt đầu xuất hiện từ đây!
Tới và Giang nghe thấy vậy bèn để lại biên bản và lẳng lặng rút ra khỏi
phòng. Tôi chợt hiểu ra vấn đề. Tới và Giang - 2 nhân viên an ninh Cục
bảo vệ Chính Trị Nội Bộ - Bộ Công An thật hèn hạ khi có hành động đó.
Hèn hơn cả 2 công an già kia khi họ lao vào tát, đấm tôi.
Tuy chỉ 1 cái tát, 2 cú đấm gãi ghẻ và vài câu chửi dọa dẫm để bắt tôi
ký, nhưng nó lột tả hết mức cái sự trắng trợn ngồi xổm lên pháp luật của
những nhân viên bảo vệ pháp luật.
Sau khi lãnh 3 cú đánh, tôi có nói với 2 công an kia rằng: Cháu (họ khá
già) giữ quyền không ký biên bản nhưng không giữ quyền được bảo vệ thân
thể, các chú đã xâm phạm thân thể cháu. Nói một hồi cũng không làm tôi
ký, họ đành bỏ ra ngoài, cầm theo biên bản. Nhìn ra ngoài, hàng chục an
ninh, công an thường phục đang đứng nhìn sự việc qua cửa kính một cách
bình thản. Thật đáng để thở dài một tiếng.
Trước khi ra về, một an ninh còn dọa tôi: Ngay tối nay hoặc chậm nhất
ngày mai phải rời Hà Nội, nếu không %^((*^%##^&((&.
Tôi tưởng phải đi bộ về thì chính một trong hai người đánh tôi lúc nãy
đề nghị chở tôi về. Tôi đồng ý vì lúc bị đánh, lúc đó và ngay cả lúc
này, tôi chẳng thấy có gì đáng phải căm thù họ cả. Bởi đơn giản tôi nghĩ
họ chỉ là do nhận thức quá kém về pháp luật và những người hoạt động,
đấu tranh khác phải tiếp tục các việc làm để họ phải dần tôn trọng pháp
luật hơn nữa. Tôi chỉ thấy cái hành động bỏ ra ngoài của Tới và Giang là
cực kỳ hèn hạ mà thôi, anh Tới và em Giang ạ!
Ra ngoài, kể lại sự việc thì anh Phạm Hồng Sơn cho rằng cần phải không
đồng ý để cho tay công an kia đưa về giúp, bởi hắn chính là người đánh
mình. Có lẽ lần sau (nếu còn bị xâm phạm thân thể) tôi sẽ nghe theo anh
Sơn, nhưng cũng có thể không, bởi tôi muốn cho họ thấy rằng việc đánh
đấm tôi không làm cho tôi thấy căm giận hay phản kháng không hay, mà
ngược lại, họ sẽ cứ tiếp tục ngồi lên pháp luật nữa đi, để một ngày họ
phải gặm nhấm cái sự sám hối ngày càng nhiều khi họ hiểu ra vấn đề.
Vài ngày ở Hà Nội cũng đã kịp cho tôi được hưởng thời tiết mát lành ở Hà
Nội, những món ăn ngon mà bạn bè đãi, những cái bắt tay với các anh chị
mà tôi ngưỡng mộ và cũng kịp cho tôi 2 buổi làm việc với những người
bảo vệ pháp luật. Thật là một chuyến đi nhiều kỷ niệm...
Hanoi ngày Quốc tế Lao động 2013.
Hoàng Dũng CDVN
Nhiều khách TQ ra Hoàng Sa là công chức
Năm ngoái, Trung Quốc lập thành phố Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam
Có nhiều công chức hơn là du
khách thực có mặt trong chuyến tàu đầu tiên của Trung Quốc tới
tham quan khu đảo ở Biển Đông có tranh chấp hôm Chủ Nhật, báo
South China Moning Post nói.
Tường thuật của báo Shanghai Morning Post hôm thứ Hai thì nói trong số 240 hành khách chỉ có 100 là dân thường. Số còn lại là công chức thuộc nhiều cơ quan khác nhau của tỉnh Hải Nam.
Đây là chuyến tàu du lịch đầu tiên ra đảo Tam Sa, thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà phía Trung Quốc gọi là quần đảo Tây Sa, nơi Bắc Kinh vừa thiết lập thành một đơn vị hành chính cấp thành phố hồi năm ngoái.
Được biết có chừng 100 du khách, mỗi người trả từ 7.000 đến 9.000 nhân dân tệ để tham dự hành trình kéo dài bốn ngày ngày, nhưng họ được xếp cho ở các buồng hạng hai hoặc hạng thấp hơn.
Các quan chức và các nhân viên chính quyền chỉ phải trả ít hơn, nhưng được chọn các buồng hạng sang, bài trên Shanghai Morning Post viết.
Tuy nhiên, có vẻ như các du khách không mấy bận tâm về việc bị đối xử không công bằng.
Một hành khách họ Mã, người Hải Nam, nói rằng thật đáng đồng tiền bát gạo để trải nghiệm "vẻ đẹp nguyên sơ" của Tam Sa.
Tất cả mọi người đều bị kiểm tra an ninh gắt gao khi lên tàu, với việc phải qua hai lần kiểm tra an ninh và mất hai tiếng để hoàn tất quá trình này, tờ báo viết.
Các kế hoạch đưa du khách ra Hoàng Sa là những hoạt động mới nhất của Trung Quốc trong vấn đề lãnh thổ, điều trước đó đã khiến Việt Nam tức giận và gây quan ngại cho Washington.
Hoàng Sa là nơi mà Việt Nam và Trung Quốc từ lâu nay đã tranh chấp chủ quyền.
Các quan chức Trung Quốc hồi đầu tháng này xác nhận sẽ mở cửa đón cho hoạt động du lịch tại Tam Sa.
Trung Quốc chiếm Hoàng Sa sau cuộc chiến ngắn với Việt Nam Cộng Hòa hồi 1974. Đây là khu vực có khoảng 40 đảo nhỏ, bãi cạn và các rặng san hô.
Đài Loan, Philippines, Brunei và Malaysia cũng đều tuyên bố chủ quyền ở một số phần tại Biển Đông, trong lúc Hoa Kỳ luôn theo dõi sát việc Trung Quốc ngày càng tăng các hoạt động xác lập chủ quyền.
Trong bài diễn văn khai mạc họp quốc hội hồi tháng trước, cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói Bắc Kinh phải "phát triển kinh tế biển... và bảo vệ các quyền lợi và lợi ích biển của Trung Quốc".
(BBC)
Tường thuật của báo Shanghai Morning Post hôm thứ Hai thì nói trong số 240 hành khách chỉ có 100 là dân thường. Số còn lại là công chức thuộc nhiều cơ quan khác nhau của tỉnh Hải Nam.
Đây là chuyến tàu du lịch đầu tiên ra đảo Tam Sa, thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà phía Trung Quốc gọi là quần đảo Tây Sa, nơi Bắc Kinh vừa thiết lập thành một đơn vị hành chính cấp thành phố hồi năm ngoái.
Được biết có chừng 100 du khách, mỗi người trả từ 7.000 đến 9.000 nhân dân tệ để tham dự hành trình kéo dài bốn ngày ngày, nhưng họ được xếp cho ở các buồng hạng hai hoặc hạng thấp hơn.
Các quan chức và các nhân viên chính quyền chỉ phải trả ít hơn, nhưng được chọn các buồng hạng sang, bài trên Shanghai Morning Post viết.
Tuy nhiên, có vẻ như các du khách không mấy bận tâm về việc bị đối xử không công bằng.
Một hành khách họ Mã, người Hải Nam, nói rằng thật đáng đồng tiền bát gạo để trải nghiệm "vẻ đẹp nguyên sơ" của Tam Sa.
Tất cả mọi người đều bị kiểm tra an ninh gắt gao khi lên tàu, với việc phải qua hai lần kiểm tra an ninh và mất hai tiếng để hoàn tất quá trình này, tờ báo viết.
Tranh chấp chủ quyền
Hồi tháng trước, Hà Nội cáo buộc một tàu Trung Quốc đã nã đạn vào các tàu cá Việt Nam trong vùng biển này.Các kế hoạch đưa du khách ra Hoàng Sa là những hoạt động mới nhất của Trung Quốc trong vấn đề lãnh thổ, điều trước đó đã khiến Việt Nam tức giận và gây quan ngại cho Washington.
Hoàng Sa là nơi mà Việt Nam và Trung Quốc từ lâu nay đã tranh chấp chủ quyền.
Các quan chức Trung Quốc hồi đầu tháng này xác nhận sẽ mở cửa đón cho hoạt động du lịch tại Tam Sa.
Trung Quốc chiếm Hoàng Sa sau cuộc chiến ngắn với Việt Nam Cộng Hòa hồi 1974. Đây là khu vực có khoảng 40 đảo nhỏ, bãi cạn và các rặng san hô.
Đài Loan, Philippines, Brunei và Malaysia cũng đều tuyên bố chủ quyền ở một số phần tại Biển Đông, trong lúc Hoa Kỳ luôn theo dõi sát việc Trung Quốc ngày càng tăng các hoạt động xác lập chủ quyền.
Trong bài diễn văn khai mạc họp quốc hội hồi tháng trước, cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói Bắc Kinh phải "phát triển kinh tế biển... và bảo vệ các quyền lợi và lợi ích biển của Trung Quốc".
(BBC)
Đào Tuấn - “Tôi là gay”
Một thông điệp cực kỳ ngắn gọn nhưng khó khăn
Nụ cười của Jason Collins, ngôi sao bóng rổ 34 tuổi đang thi đấu tại giải NBA sẽ xuất hiện trên trang bìa tạp chí danh tiếng Sports Illustrated vào ngày 6.5.2013 tới. Và thưa các bạn, kèm theo đó là lời tự thuật : “Tôi da đen và Tôi là gay”.
Có thể nói sao về 2 vế của mệnh đề này nhỉ?
Đó là ngày 4.4.1968, Luther King đã dùng mạng sống của mình đánh đổi “một ước mơ”. Ước mơ “Rồi có một ngày bốn con nhỏ của tôi sẽ sống trong một đất nước mà chúng không còn bị đánh giá bằng màu da, mà bằng tính cách của chúng”.
Và 30 năm sau đó, Elton John đã cất lên ca khúc “trên chúng ta chỉ là bầu trời” để kỷ niệm chàng sinh viên bất hạnh Matthew Wayne Shepard, đã bị đánh đập, tra tấn đến chết trong một tội ác dã man. Chỉ vì anh là một người đồng tính.
Cuộc chiến chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở thế kỷ trước, dường như chưa kết thúc trong thế kỷ này, khi mà đóng vai “người da màu” giờ đây chính là những người đồng tính.
Trở lại với câu chuyện của Jason Collins. Khi quyết định “giơ tay” (tôi đã dùng chữ công khai thay vì viết là thú nhận) anh kể lại: Tôi bắt đầu nghĩ đến điều đó (việc công khai giới tính) từ năm 2011 khi NBA đang diễn ra đình công. Nhưng rồi cuộc đình công khiến tôi phải đối mặt với chính mình, phải tự hỏi rằng mình là ai và mình muốn gì?”.
Anh nói “Đó là một sự giải phóng” khi người đầu tiên anh tâm sự về giới tính, một người dì, một thẩm phán ở San Francisco đã trả lời rằng: “Dì biết cháu là gay từ nhiều năm nay rồi”.
Jason từng hẹn hò với các cô gái, đã đính hôn, đã từng nghĩ mình buộc phải sống theo một chuẩn mực nào đó như cưới một cô gái và nuôi con cùng cô ấy, y như việc: “Tôi luôn tự nói với mình rằng bầu trời có màu đỏ”. Nhưng rồi anh quyết định rằng “Trong thâm tâm, tôi luôn biết bầu trời có màu xanh”.
Khi quyết định tuyên bố giới tính, Jason cũng đã nghĩ đến phản ứng của đồng đội, “Câu trả lời đơn giản là: tôi không biết. Tôi hy vọng vào những điều tốt đẹp, nhưng cũng sẵn sàng cho những điều tồi tệ nhất”.
Thế giới đầy thị phi đầy những bi kịch tày liếp. Năm 1990, Fashanu, cầu thủ đầu tiên công khai giới tính của mình trên truyền hình. Vẫn chỉ là 3 chữ “Tôi là gay”. Fashanu sau đó được tung hô như một người dũng cảm, dám chiến đấu để được thừa nhận giới tính thật, nhưng cùng lúc, ông nhận được hàng “rổ đá”, thậm chí cả với những yêu cầu “cấm tiệt” vì Fashanu đã làm “vấy bẩn hình ảnh bóng đá”. Chẳng phải đồng tính, một thời từng được coi như một căn bệnh đáng sợ, dễ lây lan.
Nhưng về cuối đời, Fashanu đã chọn một cuộc sống ẩn dật, cô độc. Ông kết thúc cuộc đời mình bằng một sợi dây.
“Tôi là gay”. Một thông điệp cực kỳ ngắn gọn nhưng khó khăn.
Ngày hôm qua, khi Jason công khai giới tính trên báo chí thế giới, thì ở một ngôi làng bé nhỏ hẻo lánh nào đó ở xứ Lạng, câu chuyện chàng trai xứ Lạng Nông Văn Hiếu cũng lặng lẽ xuất hiện.
Hiếu sinh năm 1984, đang sống trong một ngôn nhà “lưng lửng” trên một quả đồi nào đó ở Chi Lăng. Ít năm trước, chắc trong một lúc nào đó “phải đối mặt với chính mình”, anh viết đơn xin vào Hội phụ nữ.
Tại sao ư? Anh thẹn thùng đáp: “Đơn giản em chỉ muốn được tham gia sinh hoạt trong một tổ chức nào đó, được trò chuyện…Nhiều người cho rằng hành động đó của em là điên khùng khác người, nhưng em không quan tâm,. Quan trọng là em thấy thoải mái và được sống đúng như những gì em mong muốn”.
Sẽ không lấy vợ- Hiếu khẳng định.
Và sự “ở vậy” của anh chính là lời kêu cứu tuyệt vọng của một cộng đồng thiểu số, tuy nhỏ, nhưng cũng là những con người, trước sự từ tuyệt của số đông những đồng loại của mình.
Luật hôn nhân gia đình sửa đổi sẽ được đưa ra Quốc hội trong ít tuần tới với những ý kiến trái chiều về hôn nhân đồng giới. Bộ Tư pháp lên tiếng ủng hộ. Bộ Y tế tán thành trên cơ sở xác định đồng tính luyến ái hoàn toàn không phải là một thứ bệnh tật. Nhưng vẫn còn đó những ý kiến khác. Thật tình cờ, chẳng hạn Hội Phụ nữ, với quan điểm bỏ cấm, nhưng “Nhà nước không thừa nhận việc kết hôn giữa những người có cùng giới tính với nhau”.
Thưa các bạn, chúng ta nói quá nhiều đến quyền làm người, đến “mưu cầu hạnh phúc”, nhưng phải chăng sự lạnh lùng và cái lắc đầu từ chối với tất cả những gì không giống mình thực ra cũng chỉ là một biểu hiện, chỉ là “hòa bình” hơn so với vụ hành hạ ở Mỹ năm 1998?!
Trong bài hát của Elton John có câu “Tưởng tượng xem tất cả mọi người.
Chỉ sống cho ngày hôm nay”.
Tại sao chúng ta không nhìn lên bầu trời để thấy nó có màu xanh, cho tất cả mọi người?!
Theo Đào Tuấn
Nụ cười của Jason Collins, ngôi sao bóng rổ 34 tuổi đang thi đấu tại giải NBA sẽ xuất hiện trên trang bìa tạp chí danh tiếng Sports Illustrated vào ngày 6.5.2013 tới. Và thưa các bạn, kèm theo đó là lời tự thuật : “Tôi da đen và Tôi là gay”.
Có thể nói sao về 2 vế của mệnh đề này nhỉ?
Đó là ngày 4.4.1968, Luther King đã dùng mạng sống của mình đánh đổi “một ước mơ”. Ước mơ “Rồi có một ngày bốn con nhỏ của tôi sẽ sống trong một đất nước mà chúng không còn bị đánh giá bằng màu da, mà bằng tính cách của chúng”.
Và 30 năm sau đó, Elton John đã cất lên ca khúc “trên chúng ta chỉ là bầu trời” để kỷ niệm chàng sinh viên bất hạnh Matthew Wayne Shepard, đã bị đánh đập, tra tấn đến chết trong một tội ác dã man. Chỉ vì anh là một người đồng tính.
Cuộc chiến chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở thế kỷ trước, dường như chưa kết thúc trong thế kỷ này, khi mà đóng vai “người da màu” giờ đây chính là những người đồng tính.
Trở lại với câu chuyện của Jason Collins. Khi quyết định “giơ tay” (tôi đã dùng chữ công khai thay vì viết là thú nhận) anh kể lại: Tôi bắt đầu nghĩ đến điều đó (việc công khai giới tính) từ năm 2011 khi NBA đang diễn ra đình công. Nhưng rồi cuộc đình công khiến tôi phải đối mặt với chính mình, phải tự hỏi rằng mình là ai và mình muốn gì?”.
Anh nói “Đó là một sự giải phóng” khi người đầu tiên anh tâm sự về giới tính, một người dì, một thẩm phán ở San Francisco đã trả lời rằng: “Dì biết cháu là gay từ nhiều năm nay rồi”.
Jason từng hẹn hò với các cô gái, đã đính hôn, đã từng nghĩ mình buộc phải sống theo một chuẩn mực nào đó như cưới một cô gái và nuôi con cùng cô ấy, y như việc: “Tôi luôn tự nói với mình rằng bầu trời có màu đỏ”. Nhưng rồi anh quyết định rằng “Trong thâm tâm, tôi luôn biết bầu trời có màu xanh”.
Khi quyết định tuyên bố giới tính, Jason cũng đã nghĩ đến phản ứng của đồng đội, “Câu trả lời đơn giản là: tôi không biết. Tôi hy vọng vào những điều tốt đẹp, nhưng cũng sẵn sàng cho những điều tồi tệ nhất”.
Thế giới đầy thị phi đầy những bi kịch tày liếp. Năm 1990, Fashanu, cầu thủ đầu tiên công khai giới tính của mình trên truyền hình. Vẫn chỉ là 3 chữ “Tôi là gay”. Fashanu sau đó được tung hô như một người dũng cảm, dám chiến đấu để được thừa nhận giới tính thật, nhưng cùng lúc, ông nhận được hàng “rổ đá”, thậm chí cả với những yêu cầu “cấm tiệt” vì Fashanu đã làm “vấy bẩn hình ảnh bóng đá”. Chẳng phải đồng tính, một thời từng được coi như một căn bệnh đáng sợ, dễ lây lan.
Nhưng về cuối đời, Fashanu đã chọn một cuộc sống ẩn dật, cô độc. Ông kết thúc cuộc đời mình bằng một sợi dây.
“Tôi là gay”. Một thông điệp cực kỳ ngắn gọn nhưng khó khăn.
Ngày hôm qua, khi Jason công khai giới tính trên báo chí thế giới, thì ở một ngôi làng bé nhỏ hẻo lánh nào đó ở xứ Lạng, câu chuyện chàng trai xứ Lạng Nông Văn Hiếu cũng lặng lẽ xuất hiện.
Hiếu sinh năm 1984, đang sống trong một ngôn nhà “lưng lửng” trên một quả đồi nào đó ở Chi Lăng. Ít năm trước, chắc trong một lúc nào đó “phải đối mặt với chính mình”, anh viết đơn xin vào Hội phụ nữ.
Tại sao ư? Anh thẹn thùng đáp: “Đơn giản em chỉ muốn được tham gia sinh hoạt trong một tổ chức nào đó, được trò chuyện…Nhiều người cho rằng hành động đó của em là điên khùng khác người, nhưng em không quan tâm,. Quan trọng là em thấy thoải mái và được sống đúng như những gì em mong muốn”.
Sẽ không lấy vợ- Hiếu khẳng định.
Và sự “ở vậy” của anh chính là lời kêu cứu tuyệt vọng của một cộng đồng thiểu số, tuy nhỏ, nhưng cũng là những con người, trước sự từ tuyệt của số đông những đồng loại của mình.
Luật hôn nhân gia đình sửa đổi sẽ được đưa ra Quốc hội trong ít tuần tới với những ý kiến trái chiều về hôn nhân đồng giới. Bộ Tư pháp lên tiếng ủng hộ. Bộ Y tế tán thành trên cơ sở xác định đồng tính luyến ái hoàn toàn không phải là một thứ bệnh tật. Nhưng vẫn còn đó những ý kiến khác. Thật tình cờ, chẳng hạn Hội Phụ nữ, với quan điểm bỏ cấm, nhưng “Nhà nước không thừa nhận việc kết hôn giữa những người có cùng giới tính với nhau”.
Thưa các bạn, chúng ta nói quá nhiều đến quyền làm người, đến “mưu cầu hạnh phúc”, nhưng phải chăng sự lạnh lùng và cái lắc đầu từ chối với tất cả những gì không giống mình thực ra cũng chỉ là một biểu hiện, chỉ là “hòa bình” hơn so với vụ hành hạ ở Mỹ năm 1998?!
Trong bài hát của Elton John có câu “Tưởng tượng xem tất cả mọi người.
Chỉ sống cho ngày hôm nay”.
Tại sao chúng ta không nhìn lên bầu trời để thấy nó có màu xanh, cho tất cả mọi người?!
Theo Đào Tuấn
Cân đong lợi ích chiến lược Việt - Mỹ
"Gia nhập tổ chức này sẽ tăng uy thế của Việt Nam không chỉ về phương diện kinh tế, mà chính trị cũng rất quan trọng".
Tuanvietnam
tiếp tục cuộc trao đổi với Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George
Mason (Hoa Kỳ), về triển vọng mối quan hệ "đối tác chiến lược" Việt -
Mỹ.
Ta thử bàn sang yếu tố thứ hai, là kinh tế, xem sao. Tất nhiên, không thể so với Trung Quốc được, nhưng lại nằm trong "ván cờ mới" của Mỹ được gọi là TPP (hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái bình dương), bao gồm những nước quan trọng nhất ở hai bên bờ Thái bình dương, trừ Trung Quốc, và chiếm tới 40% GDP toàn thế giới.
Liệu Việt Nam, nếu tham gia được vào TPP, có làm cho yếu tố giá trị (thứ ba) sẽ được "lờ mờ" đi, theo cách nói của ông? Mặc dù, theo tôi được biết, còn hàng loạt các rào cản, về mặt nguyên tắc, như doanh nghiệp nhà nước, tự do hội đoàn, hay dệt may, mà Việt Nam khó vượt qua.
Vả lại, có thêm những nước như Malaysia, Mexico, Canada, hay gần đây nhất là Nhật Bản, tham gia TPP, vị thế của những nước như Việt Nam sẽ không được như ban đầu. Hay nói như bà Virginia Foote, là đến một lúc nào đó ai rớt lại đằng sau thì chịu thôi.
Trong trường hợp Việt Nam có khả năng thì vào TPP có ba điều lợi.
Thứ nhất, TPP là tổ chức duy nhất ở Á châu-Thái Bình Dương Việt Nam tham dự, mà không có mặt Trung Quốc.
Thứ hai, Việt Nam gia nhập một tổ chức mà các quốc gia hội viên đều theo chế độ kinh tế thị trương thực sự. Một khi hội đủ được điều kiện gia nhập thì đương nhiên Việt Nam đuợc coi là có nền kinh tế thị trường, một điều mà Việt Nam vẫn tranh đấu để Mỹ công nhận.
Thứ ba, Việt Nam sẽ nằm trong một tổ chức mà tuyệt đại đa số các hội viên đều theo chế độ dân chủ. Gia nhập tổ chức này sẽ tăng uy thế của Việt Nam không chỉ về phương diện kinh tế, mà chính trị cũng rất quan trọng.
Ta thử bàn sang yếu tố thứ hai, là kinh tế, xem sao. Tất nhiên, không thể so với Trung Quốc được, nhưng lại nằm trong "ván cờ mới" của Mỹ được gọi là TPP (hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái bình dương), bao gồm những nước quan trọng nhất ở hai bên bờ Thái bình dương, trừ Trung Quốc, và chiếm tới 40% GDP toàn thế giới.
Liệu Việt Nam, nếu tham gia được vào TPP, có làm cho yếu tố giá trị (thứ ba) sẽ được "lờ mờ" đi, theo cách nói của ông? Mặc dù, theo tôi được biết, còn hàng loạt các rào cản, về mặt nguyên tắc, như doanh nghiệp nhà nước, tự do hội đoàn, hay dệt may, mà Việt Nam khó vượt qua.
Vả lại, có thêm những nước như Malaysia, Mexico, Canada, hay gần đây nhất là Nhật Bản, tham gia TPP, vị thế của những nước như Việt Nam sẽ không được như ban đầu. Hay nói như bà Virginia Foote, là đến một lúc nào đó ai rớt lại đằng sau thì chịu thôi.
Trong trường hợp Việt Nam có khả năng thì vào TPP có ba điều lợi.
Thứ nhất, TPP là tổ chức duy nhất ở Á châu-Thái Bình Dương Việt Nam tham dự, mà không có mặt Trung Quốc.
Thứ hai, Việt Nam gia nhập một tổ chức mà các quốc gia hội viên đều theo chế độ kinh tế thị trương thực sự. Một khi hội đủ được điều kiện gia nhập thì đương nhiên Việt Nam đuợc coi là có nền kinh tế thị trường, một điều mà Việt Nam vẫn tranh đấu để Mỹ công nhận.
Thứ ba, Việt Nam sẽ nằm trong một tổ chức mà tuyệt đại đa số các hội viên đều theo chế độ dân chủ. Gia nhập tổ chức này sẽ tăng uy thế của Việt Nam không chỉ về phương diện kinh tế, mà chính trị cũng rất quan trọng.
Tham gia TPP, xuất nhập khẩu sẽ có lợi hơn |
Trong quá khứ, Việt Nam đã để mất nhiều cơ hội. Gần đây, Myanmar đã vượt Việt Nam về phương diện được thế giới chú ý đến. Bà Virginia Foote nói đúng, thế giới đi tới và không chờ ai, kẻ nào đi chậm sẽ bị bỏ rơi lại đằng sau.
Có vẻ như với ông Tổng thống Barrack Obama, Việt Nam không nằm trong trọng tâm của ông, ít nhất trong năm nay. Thế còn với John Kerry, liệu tình cảm đặc biệt với Việt Nam, qua hàng thập kỷ qua, liệu ông sẽ có những nỗ lực cá nhân của riêng mình?
Hoặc, ít ra, với quá khứ tốt đẹp với chống chiến tranh và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, ông sẽ là gương mặt dễ nói chuyện với Hà Nội hơn?
Giai đoạn 2008-2010, thành công của Việt Nam trong vai trò hội viên không thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, và cả trong vai trò Chủ tịch ASEAN với việc củng cố sự cộng tác giữa các nước hội viên ASEAN đã gây ấn tượng đối với Mỹ. Vì thế, họ đã tích cực tìm cách củng cố quan hệ giữa hai nước.
Nhưng gần đây, vấn đề nhân quyền trong nước lẫn sự chia rẽ trong ASEAN làm Mỹ thất vọng. Sự ưu tiên dành cho Việt Nam cũng giảm, nhất là khi chính quyền Obama phải đương đầu với nhiều vấn đề đối nội cũng như đối ngoại quan trọng hơn.
Riêng ông John Kerry vốn có cảm tình cá nhân với Việt Nam, do đó có thái độ mềm mỏng hơn đối với Việt Nam, như ông đã tỏ ra trong quá khứ.
Nhưng bây giờ đã trở thành ngoại trưởng, ông phải quan tâm đến nhiều vấn đề nóng bỏng trên thế giới, theo quyền lợi quốc gia của Mỹ, nên không thể xếp Việt Nam vào loại ưu tiên cao. Không những ông chịu trách nhiệm trước Tổng thống, mà chịu trách nhiệm trước Quốc Hội. Lấy vấn đề nhân quyến làm một thí dụ.
Trước kia, với tư cách Thượng Nghị sĩ, ông có thể "ngâm tôm" luật nhân quyền chỉ trích Việt Nam, do Hạ Viện đã biểu quyết. Ngày nay, không những ông không có quyền "ngâm tôm" vấn đề nhân quyền, mà khi ra điếu trần trước Quốc Hội, ông còn phải chứng tỏ Việt Nam đã có tiến bộ về nhân quyền. Vì thế, tình hình nhân quyền ở Việt Nam sẽ đẩy tân ngoại trưởng Kerry vào thế khó xử.
Nhưng, nói cho gọn lại, việc ông Kerry trở thánh người lãnh đạo chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn là một cơ hội tốt cho Việt Nam. Lợi dụng được cơ hội ấy hay không lại là một việc khác.
Tựu trung, qua trao đổi với Giáo sư, Việt Nam chưa có vị trí tạm gọi quan trọng trên bàn cờ chiến lược của người Mỹ?
Không có gì là không quan trọng cả. Nhưng còn xa mới quan trọng để xác lập một mối quan hệ mới, hay như các nhà ngoại giao vẫn nói là "nâng lên một tầm cao mới".
Các lãnh đạo Việt Nam, từ chính phủ đến bộ ngoại giao, trong dịp nọ dịp kia, đều nhấn mạnh tới việc sớm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ. Nhưng dường như, bản thân Việt Nam hình như chưa có sự chuẩn bị tinh thần đầy đủ và quyết tâm cần thiết, nhất là một khái niệm rõ ràng về "đối tác chiến lược", để hướng tới mối quan hệ này?
Tôi nghĩ đúng là lãnh đạo Việt Nam có ý muốn như vậy. Với Mỹ, hai bên chưa thống nhất được nội hàm. Ai cũng biết bên kia muốn gì, nhưng dường như chưa có sự thuận mua vừa bán.
Thực ra Việt Nam đã từng bỏ lỡ thời cơ trong quan hệ với Mỹ khá nhiều, do chưa thực sự hiểu Mỹ, đơn cử là cơ hội bình thường hóa với Mỹ vào cuối những năm '70, hay trong quá trình đàm phán hiệp định thương mại song phương (BTA), rồi đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). Ngay cả với hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái bình dương (TPP) hiện nay dường như sự hiểu biết này của Việt Nam vẫn còn khá hạn chế, tuy đã khá hơn trước rất nhiều. Ông có nghĩ vậy không?
Phải nói cho khách quan, chính trị nội bộ của Mỹ thực sự rắc rối. Khi Trung Quốc mời tôi sang nói chuyện vào đầu những năm '90, họ cũng không hiểu gì về vấn đề này. Họ cứ hỏi tại sao thế này, tại sao thế kia, hỏi liên tục.
Tôi giải thích từng trường hợp cụ thể một. Và, tựu trung, chính trị nội bộ vẫn là vấn đề quyền lợi mà thôi. Dần dần, Trung Quốc có nhiều học giả học học tập và nghiên cứu về chính trị nội bộ của Mỹ, nên họ biết khá rành mạch.
Đối với Việt Nam, cũng có nhiều người học ở Mỹ, nhất là được thực tập ở Mỹ, nên sự hiểu biết chắc chắn là khá hơn ngày xưa, khá hơn rất nhiều. Vấn đề ở đây là họ có dám nói với lãnh đạo một cách thẳng thắn không né tránh không.
Nhưng, quan trọng nhất, là chỉ có lãnh đạo mới biết rằng họ thực sự muốn gì, tôi hy vọng như vậy, và nếu muốn cái đó phải trả giá thế nào. Và họ có sẵn sàng trả giá hay không, nếu có, đến mức độ nào. Chuyên viên chỉ nói về khía cạnh kỹ thuật, còn nhà chính trị thì quyết định theo quyền lợi chính trị.
Vì vậy, nên cái giỏi của nhà chính trị là chọn được chuyên viên giỏi, và biết chọn lựa lời khuyên tốt. Ta đành phải hy vọng thôi.
Xin cám ơn ông.
Huỳnh Phan
(Tuần VN)
Cái bẫy của thu nhập
Hôm Thứ Hai 29, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF công bố báo cáo cập nhật về viễn
ảnh kinh tế của khu vực Á Châu Thái Bình Dương với dự báo lạc quan hơn
trước về triển vọng kinh tế của trong năm nay. Nhưng định chế tài chính
quốc tế này cũng cảnh báo các nước trong khu vực về cái "bẫy sập của thu
nhập ở mức trung bình". Bẫy sập ấy là gì, Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi
với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Christine Lagarde và Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Young Kim (T) tại buổi họp báo cuối cùng của IMF tại Washington hôm 20/4/2013 AFP photo |
Thận trọng với chính sách kinh tế vĩ mô
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF
vừa công bố tại Singapore hôm Thứ Hai 29 đầu tuần những dự đoán lạc quan
hơn về triển vọng kinh tế của khu vực Châu Á Thái Bình Dương với tốc độ
tăng trưởng bình quân là 5,75% vào năm nay. Định chế này cũng cảnh báo
các nước nên thận trọng với chính sách kinh tế vĩ mô để khỏi bị rơi vào
bẫy sập của thu nhập. Thưa ông, kỳ này chúng ta sẽ tìm hiểu xem cái bẫy
sập ấy nghĩa là gì. Nhưng trước hết, xin đề nghị ông trình bày cho bối
cảnh.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa vâng, như mọi khi, tôi xin được nói về bối cảnh trước, rồi mới đi vào vấn đề mà ta muốn tìm hiểu.
IMF thường xuyên khảo sát tình hình kinh tế thế giới trong khoảng thời
gian chừng hai quý tức là sáu tháng để ước tính ra triển vọng kinh tế
trong từng khu vực. Chúng ta hãy mường tượng ra một tháp canh khá cao,
với tầm nhìn bao quát hơn, để thông báo về cả hy vọng lẫn rủi ro trước
mắt hầu các nước khỏi bị bất ngờ và có thể khai thác cơ hội thuận tiện.
Tuy nhiên ta không quên rằng đấy chỉ là khảo sát ngắn hạn, là trong tầm
nhìn của một năm và còn phải cập nhật liên tục. Thứ hai, và đây là nhận
định của riêng tôi, IMF thường đưa ra dự báo lạc quan hơn thực tế và
chính vì vậy mà ta càng nên chú ý đến lời cảnh báo của định chế này.
Trong bản phúc trình gần 70 trang, IMF dự đoán là các nước trong khu vực
Á Châu Thái Bình Dương sẽ dẫn đầu sự phục hồi kinh tế toàn cầu với đà
tăng trưởng cao và nêu ra cơ sở của dự báo này là hoàn cảnh của khối
kinh tế công nghiệp hóa Âu-Mỹ, là chính sách kích thích kinh tế của Nhật
và nhất là những ưu nhược điểm của các nước trong khu vực. Chương ba
của báo cáo mới nói đến nan đề của nhiều nước là làm sao tránh được bẫy
sập của thu nhập từ thấp lên cao.
Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông về cách trình bày tuần tự này, trước khi ta nhìn vào cái bẫy sập đó.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng cũng về bối cảnh nhưng nhìn trong trường kỳ
thì mình thấy sự tiến hóa và thịnh vượng của các nước trên thế giới có
chung một vài đặc tính.
Thứ nhất, các nước công nghiệp hoá, chủ yếu là các nền kinh tế Âu-Mỹ, đã
mất hai thế kỷ để đi từ hình thái nông nghiệp lên hình thái công nghiệp
và nâng cao lợi tức của người dân. Ngày nay, họ đã lên tới trạng thái
hậu công nghiệp với đà tăng trưởng thấp hơn nhưng trên một nền móng giàu
mạnh hơn trước và cho đến nay thì vẫn còn hơn nhiều quốc gia khác.
Thứ hai, trong thế kỷ 20, một số quốc gia khác, chủ yếu là các nền kinh
tế Á Châu, lại không mất hai thế kỷ mà chỉ có hai thế hệ để bung ra khỏi
tình trạng nghèo khó và trở thành nền kinh tế ta gọi là "tân hưng", mới
phát triển. Lý do là họ học được kiến thức về tổ chức và kỹ thuật sản
xuất của các nước đi trước trong môi trường kinh tế tự do hơn và trao
đổi với nhau nhiều hơn.
Thứ ba là các nước đi sau mới học kinh nghiệm Tây phương và các nước tân
hưng đi trước để đạt mức tăng trưởng nhanh hơn, với số lợi tức từ trình
độ thấp lên cao hơn. Nhưng người ta nghiệm thấy là nhiều nước nghèo lại
không bung lên bậc cao hơn mà chỉ dậm chân tại chỗ hoặc thập chí còn
tuột thang. Người ta nói rằng các nước đó rơi vào bẫy sập của thu nhập
bình quân. Ngân hàng Thế giới ước lượng mức đó vào khoảng ngàn mốt ngàn
hai đô la cho mỗi đầu người.
Vắn tắt lại cho dễ nhớ, nếu thu nhập bình quân của dân Mỹ là gần năm vạn
đô la một năm, của cả Âu Châu nói chung là hơn ba vạn thì Nam Hàn hay
Đài Loan cũng đã vượt qua mức hai vạn trong khi dân Trung Quốc thì vẫn
chỉ ở số sáu ngàn. Việt Nam thì được hơn một ngàn mà nhiều nước khác
chưa bung khỏi giới hạn ngàn đồng một năm, là kiếm ra dăm ba đồng một
ngày.
Vì đâu rơi vào bẫy sập?
Những tòa nhà cao tầng bên sông Hàn, Đà Nẵng. AFP photo
Vũ Hoàng: Như vậy và nhìn trong viễn cảnh dài, từ cảnh nghèo khốn mỗi
người dân chỉ kiếm ra khoản lợi tức quy ra vài trăm đô la một năm,
nhiều nước đã sớm vượt cái ngưỡng ngàn đồng để tiếp tục đi lên và có thu
nhập bình quân một đầu người là vài chục ngàn một năm. Thưa ông, có
phải là như vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng vậy, mà sở dĩ tôi nhắc đến khung cảnh rộng
lớn và lâu dài của các nền kinh tế trên thế giới là để chúng ta cùng
nhìn thấy một thực tế khách quan.
Đó là các nước có thể học hỏi để phát huy và xây dựng những động lực đem
lại sự thịnh vượng cho người dân. Ngoài yếu tố kiến thức hay kỹ thuật
sản xuất, một trong các động lực ấy là quyền tự do trao đổi kinh tế. Thứ
nữa, các nước đã có thể bung lên là nhờ buôn bán với nhau chứ không có
cái cảnh xứ này bóc lột xứ khác, hoặc sự giàu có của quốc gia này chỉ là
kết quả của việc bóc lột quốc gia khác. Tư tưởng đấu tranh giai cấp hay
lý luận tranh đoạt quyền lợi kinh tế theo kiểu đế quốc là những sai lầm
đã gây ra chiến tranh và tàn phá. Như vậy, sự thể khách quan mà ta cần
thấy ra ngày nay là sự thịnh suy của các nước tùy thuộc nhiều nhất vào
chính sách bên trong từng nước, chứ không thể đổ lỗi cho thiên hạ là
xong. Ngược lại, các nước có thể tự rơi vào bẫy!
Vũ Hoàng: Thưa ông, nếu cho là chẳng ai giăng bẫy ai vì sự thịnh
vượng của xứ này có thể đem lại lợi tức cho xứ khác như ông vừa phân
tích thì đâu là những lý do mà các nước có thể tự rơi vào bẫy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng về câu trả lời, ta có thể học được... từ Trung Quốc!
Quốc gia đông dân này bị khủng hoảng và tự giác ngộ khỏi xã hội chủ
nghĩa hoang tưởng kiểu Mao Trạch Đông mà cải cách kinh tế từ năm 1979
nên cũng có tốc độ tăng trưởng cao như Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan
cùng nhiều nước tân hưng Đông Á khác trước đó vài thế hệ. Với dân số
đông và đà tăng trưởng cao, Trung Quốc có nền kinh tế đứng hạng nhì thế
giới từ năm 2010 nhưng vẫn chưa là nước tân hưng, mới chỉ là "tân tòng"
theo quy luật tự do và bắt đầu rơi vào khoảng trũng nên đang phải cải
sửa chiến lược kinh tế từ lượng sang phẩm.
Hai năm trước, chính các kinh tế gia của họ đã cảnh báo về cái bẫy sập.
Hình như là chúng ta cũng đã đề cập đến chuyện này nên tôi chỉ xin được
nhắc lại. Thứ nhất, mỗi hoàn cảnh phát triển lại đòi hỏi một số chính
sách phù hợp. Trung Quốc đã dám cải cách theo lối mò chân dưới nước để
tìm đường đi và áp dụng nhiều chính sách thích hợp để đạt mức tăng
trưởng cao và tiến sang hoàn cảnh khác.
Nhưng sau khi có những thành tựu nhất định như vậy, Trung Quốc cứ sợ mò
chân xuống nước để tìm đường đi tiếp và điều ấy là sai. Sở dĩ như vậy vì
sau những thành tựu đó, nhiều thế lực kinh tế và chính trị đã thu vén
đặc lợi trong giai đoạn trước nên e ngại đổi thay. Mà không chỉ sợ đổi
thay sẽ làm mất quyền lợi, các nhóm lợi ích này còn cưỡng chống và phá
hoại nỗ lực cải cách của lãnh đạo để bảo vệ thành quả riêng. Vì vậy,
Trung Quốc có thể rơi vào bẫp sập của lợi tức. Năm ngoái, Ngân hàng Thế
giới và Trung tâm Nghiên cứu Phát triển của Bắc Kinh cũng có lời cảnh
báo tương tự về cái bẫy sập. Phó Thủ tướng Lý Khắc Cường khi ấy, là Tổng
lý Quốc vụ viện ngày nay, hoàn toàn đồng ý với kết luận này và nêu
quyết tâm cải cách để ra khỏi bẫy sập.
Hiện trạng Việt Nam
Vũ Hoàng: Chúng ta đang tiến dần đến sự thật đó vì dường như là Việt Nam
cũng gặp cảnh ngộ tương tự khi người ta than phiền về thế lực của các
nhóm lợi ích đang cưỡng chống việc tái cơ cấu nền kinh tế và gây vấn đề
cho chính sách kinh tế vĩ mô. Thưa ông, có phải rằng đấy cũng là yếu tố
đưa Việt Nam vào bẫy sập hay chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi e rằng sự thật lại còn tệ hơn vậy nữa!
Trung Quốc đang gặp nhiều khó khăn vì hết lợi thế nhân công rẻ do sự
thay đổi về dân số và thị trường xuất khẩu của họ bị co cụm nên phải cải
cách và tìm lực đẩy ở tiêu thụ nội địa thay cho xuất khẩu và theo chiến
lược chú trọng về phẩm hơn là về lượng. Vậy mà chưa chắc lãnh đạo mới
đã giải quyết nổi yêu cầu sinh tử đó và còn e ngại động loạn. Nhưng dù
sao, người dân xứ này vẫn có mức thu nhập bình quân là gấp năm người
Việt, và trình độ chuyên môn của cấp lãnh đạo Bắc Kinh còn cao hơn lãnh
đạo Hà Nội. Hoàn cảnh Việt Nam là chưa kịp len vào hạng trung bình thì
đã rơi xuống dưới vì cản lực quá lớn của các nhóm lợi ích. Cơ bản nhất,
Việt Nam chưa hoàn thành việc cải cách kinh tế cho tự do nên chưa có một
sân chơi bình đẳng và lành mạnh.
Việt Nam vẫn duy trì vai trò và thế lực quá lớn của khu vực kinh tế nhà
nước là nơi xuất phát các nhóm lợi ích cấu kết với nhau trong bộ máy
đảng, nhà nước và tay chân thân tộc. Các phe nhóm này không che giấu mà
còn phơi bày những thành tựu bất công và bất lương của họ để huy động
thêm vây cánh và cản trở mọi ý hướng cải cách.
Những gì ta đang thấy từ lời đả kích ồn ào về tội lũng đoạn hoặc rửa
vàng của cơ quan này hay tội phạm pháp của đại gia kia chỉ là biểu hiện
ra ngoài của nạn đấu đá về quyền lợi trong nội bộ. Trong khi ấy, đại đa
số người dân vẫn còn nghèo và cơ sở tư doanh thì mỗi tháng chết hàng
ngàn. Việt Nam khó ra khỏi hố sâu hiện tại để mơ tới những bậc thang cao
hơn.
Vũ Hoàng: Lời kết của ông cho hiện tượng đáng buồn này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trên bước đường phát triển, xứ nào cũng có thể gặp
gió chướng như một chu kỳ suy trầm hoặc bị khủng hoảng vì nhiều chứng
tật tích lũy từ trước. Gặp cảnh đó, các quốc gia đã thành công đều cố
truy ra lý do và tìm hướng cải cách, rồi dám sửa đổi để lại đi lên. Trên
bậc thang cao hơn, họ có thể lại gặp vấn đề mới nhưng nếu dám sửa thì
cuối cùng cũng tạo hoàn cảnh làm ăn dễ dàng cho mọi người, nhờ đó mới
thành nước tân hưng. Nhiều quốc gia thì chỉ mon men trong cảnh vặt mủi
bỏ mồm, và Việt Nam thì giỏi vặt mũi người này bỏ mồm người khác. Đấy là
một sự bất công rất nguy hiểm và là bài toán chính trị chứ không chỉ
kinh tế.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.
Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2013-05-01
Việt Nam có thực tâm hòa hợp và cả hòa giải dân tộc?
Vẫn còn “tài nguyên nhân quyền” đặt lên bàn đàm phán quốc tế, chủ đề hòa
hợp và có thể cả hòa giải dân tộc lại đang được Hà Nội nhắc đến. Chỉ có
điều, bối cảnh hiện thời khác xa so với gần một thập niên trước.
Biến đổi quan niệm
Dường như đã thấm thía ý nghĩa của mối quan hệ “song phương” và có thể
cả đa phương hóa, gần mười năm sau nghị quyết số 36 về công tác người
Việt Nam ở nước ngoài, giới chức lãnh đạo của quốc gia này mới hé cửa về
triển vọng “hòa hợp dân tộc”.
Cũng tràn ngập ý nghĩa và không kém ấn tượng, bài phỏng vấn Thứ trưởng
ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn do báo Thanh niên thực hiện với tiêu đề “Hòa
hợp tạo ra sức mạnh cho dân tộc” đúng vào ngày 30/4 - kỷ niệm năm thứ
38 của “Bên thắng cuộc”, đã phác họa những nội dung chưa từng có tiền lệ
kể từ năm 2004.
2004 - thời điểm mà nghị quyết 36 của Bộ chính trị ra đời, cũng là một
“thời kỳ quá độ” mà Việt Nam tích cực vận động để “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được tô điểm thêm một sắc thái mới:
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Vào thời kỳ quá độ trên, chủ đề hòa hợp hòa giải dân tộc cũng đã được
nêu ra, nhưng thể hiện một cách đầy chắt lọc chứ không phổ cập đại chúng
trên báo chí trong nước như những ngày qua.
Độ lượng hơn trong ít nhất việc chọn lọc “đối tượng”, hòa hợp dân tộc
đang biến diễn trong bối cảnh Việt Nam nhiệt thành xúc tiến cho một cuộc
thương thuyết mới sau “phong trào” WTO: gia nhập Hiệp định đối tác kinh
tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tất nhiên, kinh tế có thể đóng vai vế làm biến đổi cả quan niệm chính trị.
Những công nhân kết hoa trang trí xcho nàgy 30 tháng 4 năm 2013 tại Hà Nội. AFP photo |
“Cái nhìn hết sức tích cực”
Sau gần mười năm từ năm 2004, một quan chức có trọng trách về ngoại giao
và cũng là chủ nhiệm của Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài
- ông Nguyễn Thanh Sơn, đã lần đầu tiên dẫn ra một quan niệm mới “Do
hoàn cảnh lịch sử mà kiều bào ta vẫn còn một bộ phận mà ngày xưa chúng
ta vẫn gọi là “phản động”. Quan điểm của tôi là không nên gọi như thế”.
Trong bài trả lời phỏng vấn báo Thanh niên, nhân vật số hai của Bộ ngoại
giao Việt Nam đã “giải mật” một nội dung mà vẫn thường mang nặng dấu ấn
cơ mật vào “ngày xưa”, khi ông tiết lộ việc thông qua Đại sứ quán và
Tổng lãnh sự quán Việt Nam ở Mỹ, vào tháng 10/2012 ông đã có những cuộc
tiếp xúc tại Washington, Houston, California, quận Cam với “các cá nhân,
tổ chức còn chống đối, có tư tưởng hận thù với đất nước”, trong đó có
những thủ lĩnh, nhân vật “chống cộng khét tiếng’” như Nguyễn Ngọc Lập,
Nguyễn Phương Hùng, Nguyễn Thành Quang, Võ Đức Quang, Đức Nguyễn, Thôn
Thất Chiếu, Đông Duy, Nguyễn Á Độc Lập, Hoàng Duy Hùng…
Riêng đối với nhân vật Hoàng Duy Hùng, ông Sơn khen ngợi: “Vấn đề mà
chúng ta từng lo ngại là các thành phần chống cộng cực đoan đã ngày càng
giảm đi. Một trong những người cực đoan nhất như ông Al Hoàng (Hoàng
Duy Hùng) vừa qua cũng đã được về nước và ông ấy đã có những cái nhìn
hết sức tích cực như các anh (phóng viên) đã biết”.
Người được khen tặng - Hoàng Duy Hùng, một nghị viên của Thành phố
Houston đặc trách về châu Á - đã có chuyến về thăm Việt Nam vào cuối
tháng 3, đầu tháng 4/2013 qua lời mời của Bộ ngoại giao Việt Nam và của
thành phố Đà Nẵng - đô thị được xem là “nơi đáng sống nhất Việt Nam” và
đang có mối quan hệ kết nghĩa với Houston.
“Tôi e ngại rằng nhiều đảng phái quá sẽ không xây dựng được đất nước,
nên tôi cho rằng hệ thống lưỡng đảng ở Hoa Kỳ đem áp dụng cho Việt Nam
là tốt nhất, và đó cũng là sự “hợp nguyên”. Suy cho cùng, hệ thống lưỡng
đảng là tương đối ổn thỏa nhất để xây dựng và phát triển Việt Nam” -
ông Hoàng Duy Hùng đã nêu ra “cái nhìn hết sức tích cực” khi trả lời BBC
tiếng Việt cũng vào ngày 30/4/2013 - thời điểm mà Thứ trưởng ngoại giao
Nguyễn Thanh Sơn hé cửa “hòa hợp dân tộc” trong trả lời phỏng vấn báo
Thanh niên.
Nghị viên Houston Hoàng Duy Hùng còn đề nghị một phương án hết sức táo
bạo: nếu Đảng cộng sản Việt Nam thuận theo sự tiến bộ và tách thành hai
đảng, thí dụ Đảng cộng hòa (bảo thủ) và Đảng xã hội hay Đảng dân chủ
(cấp tiến), thì đó chính là đột phá của lịch sử để giải quyết nhiều bế
tắc trong nhiều năm qua ở ngay trong nội bộ Đảng cộng sản cũng như của
chính những người bất đồng chính kiến và ở hải ngoại. Lúc đó, những
người bất đồng chính kiến có thể tham gia một trong hai đảng mà không
cảm thấy khó khăn.
Khá bất ngờ là chính trường Việt Nam, với những ẩn dụ chưa định hình,
đang lần đầu tiên tạm chấp nhận sự hiện diện và cả phát ngôn của một
nhân vật “khét tiếng chống cộng”.
Việt Nam dân chủ cộng hòa?
Cũng khá bất ngờ đối với người dân trong nước và còn đột ngột hơn với
giới trí thức hải ngoại, tháng 4/2013 lại khởi đầu cho một “đột phá lịch
sử” nào đó giữa Nhà nước với thành phần trí thức “bất đồng” ở Việt Nam,
nhưng không được kích hoạt một cách trực tiếp, mà bằng vào sự hồi tưởng
lịch sử năm 1946: Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Quay về tên nước “Việt Nam dân chủ cộng hòa” cũng là một trong những nội dung cải cách chính trị của nhóm “Kiến nghị 72”.
Điều đáng ngạc nhiên là trong bối cảnh chỉ mới từ tháng 3/2013 trở về
trước, khi việc sửa đổi Hiến pháp vẫn không chấp nhận các ý kiến trái
chiều, thì trong một buổi tọa đàm lấy ý kiến Hiến pháp tại TP.HCM diễn
ra sau đó không lâu, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã cho rằng “cần phải
tiếp thu ý kiến nhiều chiều”.
Ý kiến đề xuất của một số nhân sĩ và cả giới chức mặt trận về việc đổi
tên nước cũng vì thế được lưu tâm hơn. Trong số nhân sĩ này, có cả những
người bất đồng chính kiến và những người mà “ngày xưa” còn bị cơ quan
an ninh xem là “đối tượng chống đối”.
Nhưng chỉ mới đây thôi, có vẻ cách nhìn và thái độ của các cơ quan “đặc
vụ” đã trở nên dịu dàng hơn nhiều. “Tôi cũng có quan hệ rất tốt với các
cơ quan quốc phòng, công an và các anh ấy cũng rất ủng hộ tôi khi có đột
phá vào những chuyện vẫn bị coi là nhạy cảm” - Thứ trưởng Nguyễn Thanh
Sơn trần tình trong trả lời báo Thanh niên.
Ông Sơn cũng gián tiếp khơi gợi về một sự kiện không kém ẩn ý trong thời
gian qua: “Tại sao năm 1946 khi Bác (ông Hồ Chí Minh) đi thăm Pháp
trong bối cảnh đất nước thù trong, giặc ngoài mà Bác không chọn bác Phạm
Văn Đồng hay bác Võ Nguyên Giáp là quyền chủ tịch nước, mà lại ủy nhiệm
cho cụ Huỳnh Thúc Kháng vị trí đó? Trong những lúc đất nước lâm nguy,
khó khăn thì hơn bao giờ hết tinh thần đại đoàn kết dân tộc được thể
hiện qua sức mạnh dân tộc trong các thành phần dân tộc, các tầng lớp
trong xã hội. Người được lựa chọn không phải là người ở trong chính đảng
mà Bác thành lập, mà là một chí sĩ yêu nước có uy tín lớn, đủ khả năng
lãnh đạo đất nước”.
Vào trung tuần tháng 4/2013, sau khi đề xuất đổi tên nước được bất
thường khởi xướng và có dấu hiệu lan rộng, một buổi lễ truy tặng huân
chương Sao vàng cho chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng đã được tổ chức tại
huyện ủy Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, với sự chủ trì của Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang.
Thực ra, tình cảm tri ân lịch sử của ông Sang đã được thể hiện qua bài
viết “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” của ông vào tháng 8/2012, trước
khi diễn ra Hội nghị trung ương 6 đầy sôi động.
Hòa giải?
Hướng về lịch sử chiến tranh Nam - Bắc cũng đang là tinh thần nổi trội
sau gần mười năm mà nghị quyết 36 của Bộ chính trị vẫn bị nhiều nhân sĩ,
trí thức trong và ngoài nước xem là “chưa đi vào thực tiễn”. Một trong
những chủ trương có tính lịch sử như thế liên quan đến nghĩa trang quân
đội Việt Nam cộng hòa ở tỉnh Bình Dương.
“Hai quân đội từng đối địch nhau, để như vậy càng tạo thêm sự xung đột
sau này, cho nên chuyển thành nghĩa trang dân sự là rất đúng” - Thứ
trưởng Nguyễn Thanh Sơn giải đáp một cách không quá thiên về thói quen
ngoại giao.
“Lần đầu tiên một quan chức Việt Nam bày tỏ nghĩa cử tưởng nhớ đối với
tử sĩ Việt Nam cộng hòa, những chiến binh của phía thua cuộc” - báo chí
phương Tây bình luận về sự hiện diện “đến thăm và thắp hương” của Thứ
trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn tại đài tưởng niệm bằng đá
đen mới được dựng lên trong nghĩa trang quân đội Biên Hòa cũ ở tỉnh Bình
Dương, nơi chôn cất 16.000 binh lính Việt Nam cộng hòa đã tử trận.
Sự kiện đáng nhớ trên lại diễn ra vào tháng 3/2013, ngay trước khi xuất
hiện một sự kiện khó quên khác: giáo sư Michael Dukakis - cựu ứng viên
tổng thống Mỹ năm 1988, hiện là Chủ tịch Diễn đàn toàn cầu Boston - đã
phát biểu đầy sôi nổi tại Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh: “Các bạn là một dân tộc điển hình về hòa giải, hòa hợp sau
chiến tranh, nỗ lực xây dựng một thế giới tránh xung đột”.
Dù vẫn thận trọng và chỉ dùng từ “hòa hợp” mà không có phụ ngữ “hòa
giải”, nhưng lời lẽ trong nội dung trả lời phỏng vấn của Thứ trưởng
ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn lại như toát lên một hàm ý nào đó về cả sự
hòa giải dân tộc - điều chưa từng hiện diện một cách thực tâm và thực
chất trong gần bốn chục năm qua giữa Nhà nước Việt Nam với “các thế lực
thù địch”.
Cho tới giờ, người ta đã có thể giải thích vì sao trong không khí nhang
khói tại nghĩa trang quân đội Việt Nam cộng hòa vào tháng 3/2013, lại có
mặt một trong những đại diện của “thế lực thù địch ấy” - ông Nguyễn Đạc
Thành, nguyên thiếu tá quân lực Việt Nam cộng hòa, cựu tù cải tạo và
hiện là Chủ tịch Hội Vietnamese American Foundation, bên cạnh “Người
thắng cuộc” Nguyễn Thanh Sơn.
Nếu kinh tế có thể làm biến đổi quan niệm chính trị, thì quan niệm ấy cũng có thể khiến đổi khác những hành động về ý thức hệ.
Đó cũng là lý do giải thích cho một hành động rất mới mẻ là chính vào
bối cảnh “rất nhạy cảm” như hiện nay, tờ báo Thanh niên của Trung ương
đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh lại có đủ can đảm để nêu ra một câu
hỏi đặc biệt đối với Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn: “Bài học lịch sử ấy
(thời kỳ đầu xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa), theo ông, có
thể áp dụng thế này vào hiện tại để tập hợp những con người có thể có
quan điểm, chính kiến khác nhau vì mục tiêu phát triển của đất nước?”.
Rất có thể đây là lần đầu tiên từ rất nhiều năm qua, một tờ báo “quốc
doanh” lộ ra mối quan tâm với những người bất đồng chính kiến mà không
bị Ban tuyên giáo trung ương “tuýt còi”.
Tài nguyên nhân quyền!
Trong Việt Nam đương đại, chủ đề “Phát triển đất nước” là một bài toán
quá nhiều ẩn số với xuất phát điểm của quá nhiều nguyên nhân, mâu thuẫn
và xung đột thuộc về nội tại.
Chìm trong suy thoái và gần như cạn kiệt về sức hồi sinh, nền kinh tế
Việt Nam và những người điều hành nó đang phải bằng nhiều cách tìm ra
lối thoát.
Nếu Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn dường như đang cố gắng thể hiện “gương
mặt ôn hòa” với kỳ vọng có thể thu hút từ 10 đến 20 tỷ USD kiều hối từ
4,5 triệu “kiều bào ta”, thì sau gần mười năm, nghị quyết số 36 của Bộ
chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài vẫn còn rất xa mới đạt
được ý nghĩa trọn vẹn về hình thể và nhân cách của nó.
Cũng gần như cạn kiệt tài nguyên, ngoài dầu khí ở khu vực biển Đông,
Việt Nam đang tụt hậu quá xa so với Myanmar trong nhãn quan lợi nhuận
của giới tư bản quốc tế.
Trong bối cảnh đầy ám ảnh như thế, hiển nhiên lời đánh đố về tính hấp
dẫn mang tính cứu cánh của TPP như “Việt Nam sẽ là nước được hưởng lợi
nhiều nhất”, cũng như kết quả đàm phán gia nhập tổ chức này của Việt
Nam, vẫn là một cái gì đó không thể không liên đới với khuyến cáo mới
đây của tiến sỹ Jonathan London của Trường đại học tổng hợp Hồng Kông,
trong một cuộc hội thảo tại Trường đại học Phạm Văn Đồng (tỉnh Quảng
Ngãi): “Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để chọn con đường cải
cách, đẩy mạnh cải cách chính trị để thu hút hậu thuẫn cho chủ quyền của
mình ở biển Đông”.
Ứng với những động thái khá cấp tập “vừa tranh thủ vừa đấu tranh” nảy ra
trong các mối quan hệ Việt - Mỹ và Việt Nam - Liên minh châu Âu, vào
lần này hình như chủ quyền lại đồng nghĩa với quyền con người.
Thường được mô tả như “một thị trường tiêu thụ tiềm năng với hơn 80
triệu người”, Việt Nam cũng còn một thứ tài nguyên đặc chủng để đặt lên
bàn đàm phán quốc tế: tài nguyên nhân quyền.
Một lần nữa từ nhiều năm qua và sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ
tái lập ở Hà Nội vào giữa tháng 4/2013, chủ đề hòa hợp và có thể cả hòa
giải dân tộc được Hà Nội nhắc đến.
Chỉ có điều, bối cảnh hiện thời đang khác xa so với gần một thập niên trước.
Phạm Chí Dũng gửi RFA
2013-05-01
Người Buôn Gió - Vật vã trở về, vật vã ra đi
Công
dân Việt Nam Phạm Văn Điệp thường trú tại Liên Bang Nga cuối tháng 4
năm 2013 trở về quê hương để dự lễ thượng thọ cho cha già. Nhưng đến
ngưỡng cửa của xứ thiên đường, thánh an ninh gác cổng thiên đường không
cho Điệp vào. Lý do là Điệp hay lên mạng intenet nói chuyện chính trị,
thời sự Việt Nam.
Phạm Văn Điệp cực kỳ bất ngờ vì anh ta là người
Việt Nam mà không được vào Việt Nam, dù Điệp chất vấn thế nào thì các
thánh an ninh gác cổng xứ sở thiên đường đều lắc đầu quầy quậy một là
một hai hai là hai.
Điệp đành ngậm ngùi rời khỏi cổng thiên
đường, quay về hạ giới. Làm đơn tấu trình quan sở tại dưới trần gian, để
quan đốt sớ dâng lên thiên đường xem xét.
Công dân Việt Nam Phạm Văn Điệp |
Xứ
thiên đường đâu phải thích đi là đi, thích về là về. Phạm Văn Điệp
trước kia đã từng vào xứ thiên đường trót lọt, nhưng lúc anh muốn trở về
hạ giới Liên Bang Nga. Người gác cổng thiên đường ngăn không cho anh ta
đi, vật vã 4 tháng ròng xin xỏ. Phạm Văn Điệp hưởng sự nhân đạo của
thiên đường cho phép anh ta đi xuống hạ giới.
Có lẽ Phạm Văn Điệp mất 4 tháng nữa để quay về Việt Nam.
Tổng
Bí Thư Đảng CSVN là người có thể nói là lãnh đạo cao cấp nhất ở VN,
từng công khai nói đến chuyện thanh niên, người dân Việt Nam xa rời
chính trị, chạy theo lối sống vật chất đời thường. Ngài TBT hô hào người
dân phải quan tâm tìm hiểu, góp ý về các sự kiện chính trị diễn ra
trong nước....
Hưởng ứng lời kêu gọi ấy của TBT ĐCS Việt Nam,
người công dân Phạm Văn Điệp đã bằng tấm lòng nhiệt huyết với quê
hương, anh đã dành thời gian còn lại sau những ngày làm việc vất vả, để
bàn luận về chính trị, chính sách của Đảng và nhà nước trên nhiều diễn
đàn. Không như nhiều người người khác, Phạm Văn Điệp có cái nhìn rất đa
chiều, tuy rằng ở nước ngoài nhưng không phải lúc nào anh cũng chê bai
đường lối chính sách của Đ và NN. Rất nhiều lần anh đã bênh vực, thanh
mình, giải thích cho hành động của Đ và NN Việt Nam trước những chỉ
trích của các luồng dư luận. Quan điểm và hành động của Phạm Văn Điệp
thiết nghĩ là khá tốt nếu xét theo lời yêu cầu của ông TBT ĐCS VN.
Nhưng
nếu xét theo quan điểm của các thánh an ninh, thánh tuyên truyền thì
tên Phạm Văn Điệp chưa hiểu đủ và đúng quan điểm của ông TBT ĐCS VN.
Ông TBT nói là người dân không quan tâm đến chính trị, không có nghĩa là
người dân quan tâm đến chính trị theo cảm nhận của họ, mà cái quan tâm ở
đây là phải có đường lối, có định hướng, nếu không sẽ bị trệch đường
ray, sẽ bị thế lực thù địch xuyên tạc.
Đáng ra Phạm Văn Điệp phải
chờ một nghị quyết bổ sung đại loại mang cái tên là - hướng dẫn quan
tâm đến chính trị...chẳng hạn. Ở xứ thiên đường là vậy, luật trên đưa
ra, nhưng muốn chắc thì còn phải chờ văn bản hướng dẫn nữa. Ví dụ như
hiến pháp ghi công dân có quyền biểu tình, nhưng chớ dại mà biểu tình,
vì mới có nghị định cấm tụ tập đông người chứ chưa có nghị định nào
hướng dẫn biểu tình. Và cũng chỉ có luật gây rối trật tự công cộng chứ
không có luật nào chỉ rõ việc biểu tình ra sao.?
Phạm Văn Điệp
khi không vào được xứ thiên đường lần này, Điệp tính nước khởi đơn kiện
vói nội dung là Điệp là người VN, có hộ chiếu VN, khẳng định là công dân
VN mà không được vào VN. Thời gian chờ đợi phân xử việc này không biết
kéo dài bao nhiêu lâu.?
Nhưng Phạm Văn Điệp có thể gửi đơn khiếu
nại về một chuyện khác liên quan đến việc bị cấm vào. Đó là gửi đơn đến
Hội đồng lý luận trung ương ĐCSVN, ban tuyên giáo ĐCSVN để khiếu nại về
việc không có văn bản hướng dẫn việc thực hiện lời ông TVB về chuyện
người dân quan tâm đến chính trị. Và vì bởi không có văn bản hướng dẫn
ấy nên ông không biết bàn thế nào để vừa ý Đảng, mặc dù nhiều lần ông đã
bênh vực cho Đảng , phản bác lại những ý kiến chỉ trích Đảng.
Hy vọng con đường ấy giúp ông khỏi phải vật vã khi trở về .
Người Buôn Gió
(FB Người Buôn Gió)
Vì sao em trở thành gái mại dâm?
Mại dâm là một nghề lâu đời trên thế giới. Nó đi theo bước chân của nhân
loại tuỳ theo sự phát triển về văn hoá, xã hội, kinh tế của từng quốc
gia. Trong thế kỷ 21, thế giới mở rộng và giao tiếp bằng kỹ thuật điện
toán, người ta có thể bán dâm, mua dâm một cách dễ dàng trên liên mạng
toàn cầu. Việt Nam không thể thoát ra khỏi cơn lốc xoáy của tình trạng
mại dâm.
Trên thế giới nhiều nước đã cấm mại dâm. Nhưng tại Châu Âu có một số
nước đã xem mại dâm là một nghề nghiệp như bao nhiêu nghề khác, được
luật pháp và xã hội công nhận như Anh, Ý, Phần Lan, Hungary, Hy Lạp,
Ireland, Tây Ban Nha, Hà Lan, Swizerland, Latvia, Thổ Nhĩ Kỳ…Chính quyền
các nước hợp thức hoá, quản lý và xem xét hoạt động mại dâm, nhưng
nghiêm cấm trẻ em bán dâm và buôn bán người xuyên biên giới để phục vụ
cho nô lệ tình dục. Chính quyền cũng yêu cầu những người hoạt động mại
dâm phải thường xuyên khám bệnh để tránh tình trạng lây lang bệnh HIV
sang cho người mua và bán dâm. Điều này cũng ngăn chặn bớt tình trạng
lây bệnh tràn lan trong xã hội.
Gái mại dâm chờ khách trong một khu phố ở Pháp hôm 28/3/2013 AFP photo |
Thực trạng mại dâm ở VN
Tại Á Châu, mại dâm vẫn còn là một nghề bị xã hội coi khinh và cấm kỵ.
Cho dù xã hội lên án nhưng nó vẫn tồn tại và không bao giờ có thể diệt
trừ được.
Ở Việt Nam, tình trạng mại dâm không còn là một điều bí mật. Chỉ cần gõ
trên máy điện toán thì sẽ hiện ra nhiều tin tức nóng bỏng về tình trạng
mại dâm phát triển rầm rộ tại Việt Nam. Nó rất công khai dù chính quyền
cấm đoán, ra lệnh cho công an bắt giam, xử phạt và đưa những người bán
dâm vào các trung tâm cải huấn hay trung tâm phục hồi nhân phẩm để giáo
dục. Nhưng chính quyền vẫn bất lực và không thể dẹp tan. Bởi những đại
gia mới phất lên, có nhiều tiền lao vào ăn chơi nhiều hơn xưa. Mặc khác,
đất nước mở rộng chào đón khách du lịch cho nên có nhiều đàn ông các
nước vào Việt Nam tìm nhu cầu để thoả mãn tình dục.
Tất cả những cô gái chấp nhận làm nghề mại đâm đều biết rõ họ rất dễ
mang bệnh HIV, có thể chết, hoặc tổn thương về thể chất, danh dự, nhân
phẩm. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình, không còn con đường nào khác đành
phải nhắm mắt đưa chân. Họ vẫn nuôi dưỡng một chút hy vọng có thể tìm
được tiền để giải thoát cuộc đời bế tắt. Những cô gái làm nghề mại dâm
tại Việt Nam thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội. Họ tập trung
về những thành phố lớn như Huế, Sài Gòn, Hà Nội để hoạt động. Nhiều
người bị bắt vào những Trung Tâm Cải Huấn nhiều lần. Sau khi được thả ra
cũng trở về nghề cũ vì họ chẳng biết làm gì để sinh sống. Trong số họ
đã mang các mầm bệnh lây lan qua đường tình dục và bệnh HIV. Đó là mối
lo ngại nhất cho xã hội.
Tôi muốn tìm hiểu thực trạng về tình trạng mại dâm tại Việt Nam nên đã
tìm ông Thiên Long. Ông là một doanh nhân làm ăn buôn bán nên đã lặn lội
trên khắp mọi miền đất nước. Ông có cái nhìn nhạy bén, sâu sắc và quan
sát thân phận của những cô gái ăn sương. Ông cho biết:
“Người ta thường nói, những ai thâm nhập vào cuộc sống vào cái nghề này
thì mới hiểu tâm lý và mới hiểu được vì sao có những cô gái phải đi làm
như vậy. Ở đây nó phân biệt làm ba đối tượng. Một là vì hoàn cảnh cuộc
sống gia đình khó khăn rơi vào bế tắc. Hai là ham chơi đua đòi là một
loại gái khác. Một loại nữa là buồn tình, buồn gia đình mới đi làm gái
mãi dâm. Còn đa số nhiều nhất vẫn là vì kinh tế gia đình, vì thiếu thốn,
vì hụt hẫng, vì không có nghề nghiệp. Cuộc sống lại đòi hỏi phải tương
đối đầy đủ. Có nhiều cô bé sinh viên đi học nhưng vì không có tiền bắt
buộc phải bán thân. Rồi có những cô gái ở quê cảm thấy nghèo nàn bạn bè
có quần áo đẹp, chiếc xe thì nghe lời ngọt ngào bước lên thành phố để
lao vào cuộc sống kiếm tiền.
Trong cái tỉ lệ gia đình nghèo hết đất lớn lên khi cha mẹ mất đất đâu có
rằng gia đình mình nghèo vì cái gì. Đôi khi cảm thấy cuộc đời buồn
chán. Sau đó nghe lời mật ngọt “em lên thành phố trước hết là bán cà phê
em kiếm một tháng được vài triệu.” Cô bé này ham lên thành phố rồi khi
vào quán cà phê rồi lại muốn thêm nữa, lại nghe lời ngọt ngào “Ờ!Cô em
à! Cô em đi chơi với ông A ông B đại gia nè. Cô em sẽ có trong tay xe
đời mới.” Từ đó, những cô bé còn non nớt trong sáng, mới bước ra đời trở
thành một sự đổi chác có giá trị. Nhưng sau đó rồi trải qua đại gia rồi
không còn giá trị nữa hương sắc, hoa đã tàn thì bắt đầu dạt vào những
nơi chỗ rẻ tiền hơn.”
Có nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng nguyên nhân chính là do không có
việc làm hay có việc làm nhưng đồng lương quá thấp không đủ sống trước
cơn bão giá. Ông Thiên Long nói tiếp:
“Cô ta những người xinh đẹp, đầy đủ chân tay mạnh khoẻ nhưng tại sao
không có việc làm? Đất nước Việt Nam việc làm bây giờ nói thẳng ra giống
như nạn thất nghiệp công nhân thì đông, giá rẻ làm thì không đủ sống,
sức khoẻ thì có giới hạn làm sao đủ để đảm bảo gởi tiền về cho em ăn
học. Có nhiều cô nói rằng em đi làm như thế này là còn gởi tiền về lo
cho em ăn học. Em làm để có kiếm tiền gởi về để nuôi con.
Vì sao gia đình nghèo như vậy vì gia đình không có nhà cửa đất đai không
ruộng vưòn, bị tịch thu hết bởi vì những quy hoạch như thế. Cha mẹ
không biết làm gì hết nhận được mấy đồng rồi tiêu hết. Bây giờ trình độ
không có, nghề nghiệp không lên thành phố muốn kiếm tiền nhanh trong một
tháng phải có hai ba triệu gởi về cho gia đình chỉ còn cách bán thân.
Đi làm công nhân, đi bưng cà phê một tháng chỉ được có một triệu mấy
không đủ sống. Còn giới ăn chơi đua đòi, mua sắm ăn diện chỉ chiếm tỉ lệ
10% vì nghèo vì thiếu thốn chiếm 80%. Còn 10% buồn tình rồi thả lỏng
cuộc đời đi cặp bồ ông này đi cặp bồ ông kia để kiếm vài đồng ăn chơi
sống phè phỡn là người mẫu. Chỉ có người mẫu mới đi cặp đại gia này, đại
gia kia để có một đêm một ngàn đô, ai ngàn đô để ăn chơi. Còn lại thành
phần là vì cuộc sống. Họ nghèo khổ thì lại lao vào cuộc sống nơi rẻ
tiền.”
Vì đâu nên nỗi?
Nhiều người lên án những cô gái bán dâm và có khi khinh bỉ, xem họ là
những thành phần cần phải được giáo dục vì vi phạm đến đạo đức, văn hoá
làm ô uế xã hội. Nhưng ít ai chịu khó nghiên cứu và tìm hiểu nguyên nhân
cội rễ về hoàn cảnh đáng thương của họ.
Tình cờ, do dòng đời xô đẩy nổi trôi, tôi đã quen biết với cô Phương
Trinh, 25 tuổi. Cô sinh ra lớn lên tại một vùng đất mới tại Xuyên Mộc.
Gia đình không có đất đai để canh tác. Cha mất sớm, mẹ làm nghề quét
rác. Nhà có bốn chị em. Công việc của mẹ chỉ thu được khoảng một triệu
đồng Việt Nam. Mẹ lại đau yếu, chị lớn đi lấy chồng nên Phương Trinh học
hết lớp 9 phải bỏ học. Năm 2011, cô lên Sài Gòn kiếm việc làm để phụ
giúp mẹ và lo cho em ăn học tại Thủ Đức. Ban đầu, cô làm việc trong một
quán cà phê, phải pha chế và chạy bàn suốt ngày nên cô cảm thấy rất mệt
mỏi mà lương thì chỉ khoảng hơn 2 triệu đồng một tháng. Cô quá ốm yếu,
chỉ nặng 37 kg, sức khoẻ không có nên không thể tìm được việc gì tốt
hơn. Cho dù cô phải mướn nhà trọ ở chung với nhiều người nhưng lương vẫn
không đủ để sống, nói chi đến chuyện gởi tiền về lo cho mẹ, cho em.
Ngày Tết đã đến, vì quá túng quẫn và lo lắng cô định bán máu để kiếm
tiền nhưng lại không đủ máu để bán vì quá gầy yếu. Cuối cùng, cô đã bán
thân để có đủ một số tiền về quê trang trãi cho gia đình trong dịp Tết.
Con đường bán thân chỉ diễn ra trong khúc quanh của cuộc đời cô như một
định mệnh đã an bài. Cô tâm sự:
“Có số người gạ gẫm dai lắm cô. Khi họ nắm được điểm yếu của mình là cần
tiền, không có ai giúp đỡ. Xung quanh không có bà con họ hàng. Em lại
nhút nhát nữa. Một số người trong xã hội họ muốn bản thân các cô gái ở
tỉnh lên là phải biết chấp nhận sống và phải biết luồn cúi. Một số người
đàn ông khi đi tìm nhu cầu thì những cô gái mại dâm đều cho đó là bình
thường.
Còn lúc đầu đối với em, em cho rằng điều đó là vô lý, vô duyên. Nhưng
sau đó, em chưa có việc làm và một người mua em là một thanh niên. Người
ta đề cao cái tình đi trước, tiền đi sau. Nếu như người đó chấp nhận bỏ
ra một số tiền nhiều thì phải đi tìm một cô gái xứng đáng hơn nữa. Còn
em vừa 37 ký, vừa xấu nữa. Nên người đó cũng muốn những cô gái nào vừa
thoả mãn dục vọng vừa có cái tình trong đó.”
Số tiền Phương Trinh bán tấm thân thơ ngây, trong trắng của mình chỉ
được 1 triệu đồng trong những ngày quanh quẩn trong Sài Gòn làm gái làng
chơi. Khổ thân cho em khi vừa ra đời còn non nớt. Chỉ với vài năm lăn
lộn, trải đời, Phương Trinh đã trở nên già dặn. Cô cho biết thân phận
bèo bọt, lạc lõng của mình:
“Sài gòn này xã hội người ta không chấp nhận mại dâm đâu cô. Người ta
tẩy chay dữ lắm. Nhưng mà nói cái chuyện thực tế khác với chuyện mình mơ
mộng lắm. Em mơ mộng nhiều nên em nghĩ tới giấc mơ làm giàu của em. Cho
nên em quên đi cái thân xác của mình đang bị lợi dụng. Khi mà em ra
ngoài xã hội lâu như vậy thì em thấy một điều là hoàn cảnh của mình
người ta không quan tâm. Người ta chỉ quan tâm mình đang làm gì ở cái xã
hội này thôi. Những người bên pháp luật họ làm cho mình có cảm giác
mình không còn lối thoát.”
Tôi hỏi Phương Trinh cảm xúc của em khi tiếp những người đàn ông đi mua dâm. Em thành thật trả lời:
“Em đã thông cảm cho một người thanh niên mà đi tìm bạn gái mà không có.
Lúc đó, em nghĩ là cái lòng bao dung của người phụ nữ có lúc miễn cưỡng
cũng có, mà có lòng bao dung thật cũng có. Có những lúc mình nói chuyện
với người đó mình sống thật lòng luôn cũng có, mà mình cố tình giả dối
cũng được luôn cô à! Tại vì em đi ở công viên, em bắt chuyện với có một
số cô với vai trò là một cô gái ở dưới tỉnh mới lên không biết gì hết.
Em đã hỏi những cô đó thì đa số đều nói là ở đây không có ai chấp nhận
mình hết mà mình không làm như thế này sống thì một số đàn ông đã dang
rộng tay đón những hoàn cảnh như thế để chia sẻ với nhau trong cuộc sống
miễn là đừng lừa dối nhau là được. Em cảm thấy rất là phức tạp, rất là
khó nghĩ.”
Khi hỏi về mơ ước của mình, giọng Phương Trinh trở nên xa xôi. Cô ngập ngừng một lát rồi đáp:
"Trong cái hoàn cảnh của mình khi em chưa có việc mà sưc khoẻ của em yếu
kém như vậy thì em đành nhắm mắt một thời gian ngắn gọi là tạm thời.
Khi mà em có một số tiền như em mong hoặc hơn em mong, em toàn là gởi về
nhà không hà. Bây giờ em mong ước có một sự nghiệp cho riêng mình thông
qua sở thích của em là kinh doanh.”
Tuổi xuân của cô phơi phới. Cô chưa được hưởng những ngày vui, chưa có
một tình yêu thật sự thì vì hoàn cảnh nghèo khổ Phương Trinh đã sa chân
vào chốn chợ đời. Tương lai em bị vùi lấp trong vũng lầy tăm tối. Sài
Gòn có đèn xanh, đèn đỏ, phố phường tấp nập người qua kẻ lại. Họ sang
trọng, lịch lãm, giàu có ăn chơi. Còn em và biết bao cô gái nghèo khác
lại biến thành món hàng mua bán đổi chác cho những người đàn ông khát
tình thích đi tìm của lạ. Xã hội không lên án đàn ông mua dâm, nhưng họ
lại lên án gắt gao và bắt bỏ tù những cô gái bán dâm. Ít ai đặt ra câu
hỏi vì sao em trở thành gái mại dâm?
Phong Thu, thông tín viên RFA
2013-05-01
Điềm gở trước Hội nghị Trung ương 7: Cụ Tổng xin rút?
Cách đây vài tuần, giữa trời phong quang, tự nhiên vân vũ ở đâu kéo về.
Mưa to trút xuống làm sạt hẳn tường đình làng Lại Đà. Dịp nghỉ 30/4 –
1/5 vừa qua, dân tình khắp Hà Thành đồn đại cụ Tổng có ý rút khỏi bãi
chiến trường để một lũ trâu đọ sừng với nhau (toàn các quan tuổi Kỷ
Sửu). Không biết việc sạt đình làng cụ Tổng có điều gì linh ứng với diễn
biến Hội nghị Trung ương 7 của Đảng sắp diễn ra? Về duy tâm, việc sạt
đình, sạt điện chưa bao giờ là điềm lành mà chỉ báo trước những điều
hung, gở.
Hội nghị Trung ương 7 của Đảng sắp khai mạc giữa bối cảnh lình xình từ
Hội nghị 6 chưa giải quyết xong lại xuất hiện nhiều lình xình mới. Ban
bệ bày ra đủ bộ nhưng sự nghiệp chống tham nhũng xem ra vẫn bế tắc, tham
nhũng trầm trọng, nội bộ đấu đá ngày càng ác liệt, đời sống nhân dân
thật thống khổ. Người cầm mái chèo, lái con thuyền giữa những luồng thác
dữ là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cụ Trọng quê ở làng Lại Đà rất cổ
kính ngoại thành Hà Nội, làng nổi tiếng với nhiều khoa bảng, đỗ đạt. Sở
dĩ làng có thế vượng như vậy một phần do đình làng này rất linh.
Đình làng được thiết kế hình chữ Công, dựng theo kiểu liên hoàn, trên
một khoảnh đất phong quang, thế đất hổ phục. Trước sân đình có hai ao
tròn, gọi là 2 mắt hổ; giữa có hòn đá là lưỡi hổ; phía sau đình là mình
hổ và tiếp đó là đuôi hổ. Lưng đình hướng về thành Cổ Loa. Cửa đình
ngoảnh phía Nam, trước mặt là sông Đuống. Hai cột đồng trụ hướng vào
đình có đôi câu đối:
Kình thiên đại quán long lân trụ
Dục nhật linh quang hổ nhãn trì
Tạm dịch là :
Quán lớn chống trời cột vẩy rồng
Ao mắt hổ tắm trong ánh mặt trời
Ao mắt hổ tắm trong ánh mặt trời
Cách đây vài tuần, giữa trời phong quang, tự nhiên vân vũ ở đâu kéo về. Mưa to trút xuống làm sạt hẳn tường đình làng.
Dịp nghỉ 30/4 – 1/5 vừa qua, dân tình khắp Hà Thành đồn đại cụ Tổng có ý
rút khỏi bãi chiến trường để một lũ trâu đọ sừng với nhau (toàn các
quan tuổi Kỷ Sửu). Không biết việc sạt đình làng cụ Tổng có điều gì linh
ứng với diễn biến Hội nghị Trung ương 7 của Đảng sắp diễn ra? Về duy
tâm, việc sạt đình, sạt điện chưa bao giờ là điềm lành mà chỉ báo trước
những điều hung, gở.
01/05/2013
Cầu Nhật Tân
(Blog Cầu Nhật Tân)
Tại sao cuộc chiến Việt Nam kết thúc năm 1975?
Nếu
không có sự kiện 30/4 thì sớm muộn quân đội Sài Gòn cũng chỉ có nước
giải tán vì hết tiền, một phụ tá của Thiệu viết trong hồi ký.
Sài Gòn cạn tiền hết đạn
Trong hồi ký Đại thắng mùa xuân,
Đại tướng Văn Tiến Dũng cho biết vào cuối năm 1974, ta biết được sức
chiến đấu của quân đội Sài Gòn suy giảm nghiêm trọng vì thiếu xăng dầu,
đạn dược. Chính điều đó đưa đến quyết tâm lập kế hoạch mở chiến dịch của
ta. Tuy nhiên, phía ta không biết rằng, vào thời điểm đó, tình hình
chính quyền và quân đội Sài Gòn còn bi đát hơn nhiều.
Tờ lịch ngày Giải phóng |
Từ khi được dựng lên, chính quyền Sài
Gòn dựa hoàn toàn vào viện trợ kinh tế. Viện trợ là nguồn tài chính chủ
yếu của mọi hoạt động từ quân sự tới xã hội. Nhưng từ sau Hiệp định
Paris và nhất là từ năm 1974, nền kinh tế Sài Gòn rơi vào khủng hoảng
nghiêm trọng do viện trợ bị cắt giảm nhanh chóng. Theo những thông tin
mật của hồ sơ Dinh Độc lập được trích dẫn trong cuốn Khi đồng minh tháo chạy
của Nguyễn Tiến Hưng, viện trợ quân sự cho tài khóa 1974-1975 được
Nixon ấn định một tỷ dolar. Tuy nhiên, khi đưa ra Quốc hội Mỹ, nó bị cắt
giảm chỉ còn 700 triệu.
Nhân dịp kỷ niệm 38 năm Ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam (30/4/1975 - 30/4/2013), Kiến Thức xin giới thiệu tới độc giả loạt bài "Lật lại hồ sơ chiến tranh Việt Nam" với những thông tin đầy đủ, sinh động và giàu giá trị tham khảo. Loạt bài sẽ được đăng tải liên tục từ 26/4 - 1/5/2013. Kính mời độc giả theo dõi, đón đọc. |
Tình hình viện trợ kinh tế cũng không
sáng sủa hơn. Ông Hưng viết: “Vào đầu năm 1974, có tin dồn dập là Quốc
hội Hoa kỳ sẽ đi tới việc cấm cả dùng viện trợ để tài trợ ngân sách Quốc
phòng. Vài tháng sau thì tin đồn thành sự thực. Trước kia, 75% sự thiếu
hụt ngân sách là do tài trợ bằng tiền của Quỹ đối giá (Counterpart
Fund). Quỹ đối giá là một ngân khoản thu được khi tiền Viện Trợ Nhập
Cảng (CIP) được đổi ra bạc Việt Nam. Thí dụ, một thương gia muốn nhập
cảng bông gòn phải đem tiền Việt Nam đến ngân hàng xin mua Mỹ kim mở tín
dụng thư. Số tiền này được đưa vào Quỹ đối giá. Đến nay, không những
viện trợ đã bị giảm, mà Quỹ đối giá lại không còn được dùng để chi tiêu
cho quốc phòng nữa”.
Sau tin sét đánh này, Quốc hội Mỹ dưới
áp lực của phe phản chiến đi thêm một bước nữa, bắt đầu từ 31/12/1974
sẽ cấm cả việc dùng Quỹ đối giá để trả lương cho lực lượng cảnh sát. Lúc
đó, cảnh sát chính quyền Sài Gòn có 120.000 người. Chỉ một tháng lương
của lực lượng này cũng là một món tiền không nhỏ.
Những nhân tố kinh tế này đã tác động
rất lớn vào tinh thần của quân đội và chính quyền Sài Gòn ở cấp cao
nhất. Nhiều năm sau nhìn lại, ông Nguyễn Tiến Hưng vẫn không tìm ra giải
pháp nào cho tình hình lúc đó. Ông nói: “Nhìn vào viễn ảnh kinh tế, tài
chính và quân sự Miền Nam cuối năm 1974 như nhìn vào chân trời tím.
Những đám mây đen đặc đang ùn ùn kéo tới báo hiệu cho một cơn bão tố từ
xa xa. Và như vậy, ta có thể đặt thêm một câu hỏi khác: từ năm 1976 Việt
Nam cộng hoà sẽ lấy tiền đâu trả lương cho quân đội và cảnh sát? Sau 30
năm, tôi cũng chưa tìm ra được câu trả lời. Khi không còn tiền trả
lương, chắc chỉ còn một giải pháp là giải ngũ? Trên thực tế, năm 1974 đã
là năm quyết định số mệnh cho Miền Nam Nam rồi vậy”.
Cùng lúc đó, dự trữ đạn dược, xăng dầu
và vật tư quân sự nói chung của quân đội Sài Gòn cũng khan hiếm nghiêm
trọng. Theo dự tính của Bộ Tổng tham mưu chế độ Sài Gòn: dự trữ đạn dược
tồn kho chỉ còn cung ứng được từ 30 tới 45 ngày. Tướng Cao Văn Viên kết
luận rằng nếu tình hình chiến sự cứ tiếp tục xảy ra theo cùng một nhịp
độ thì số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng Sáu 1975, nếu không nhận được
thêm viện trợ. Với tình hình đó, tác giả cuốn Khi đồng minh tháo chạy kết
luận: “Như vậy, ta có thể đặt câu hỏi quan trọng về phương diện lịch
sử, là: nếu như không có biến cố 30-4-1975 thì tới tháng Sáu, cho già
lắm là tháng Tám hay tháng Chín, quân lực Việt nam cộng hoà sẽ lấy gì mà
chiến đấu?”
Bí mật trong quyết định từ bỏ cao nguyên
Từ trước đến nay, các nhà chiến lược
khi xem xét cuộc tổng tiến công nổi dậy năm 1975 đều khẳng định rằng
chính quyết định vội vã rút khỏi Tây Nguyên của Tổng thống Thiệu là
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của quân đội Sài Gòn. Vậy đâu
là lý do khiến ông Thiệu đưa ra quyết định “vội vàng” này?
Hình ảnh bộ đội Sư đoàn 316 tiến công tiêu diệt Buôn Ma Thuột trong trận mở màn Chiến dịch Tây Nguyên (4 – 24/3/1975). Ảnh: Giáo dục Việt Nam. |
Thực tế, quyết định của ông Thiệu có
cơ sở và được nghiên cứu từ trước chứ không phải hồ đồ như nhiều người
vẫn phê phán. Nguyễn Tiến Hưng kể rằng, vào khoảng cuối năm 1974, ông đã
được Tổng thống Thiệu cho xem một báo cáo về khả năng chiến đấu của
quân đội Sài Gòn do Bộ Tổng Tham mưu trình lên. Phần kết luận của báo
cáo này viết: Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả
những khu đông dân cư của cả bốn Vùng Chiến Thuật; nếu là 1,1 tỷ thì
Quân khu 1 phải bỏ; nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II,
hoặc khó đương đầu với cuộc tổng tấn công của Bắc Việt; nếu là 750 triệu
thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc, và khó điều đình được
với Bắc Việt; nếu quân viện dưới 600 triệu thì Chính phủ VNCH chỉ còn
giữ được Sài gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.
Trên thực tế, đến tháng 8/1974, Quốc
hội Mỹ duyệt viện trợ quân sự cho Sài Gòn chỉ có 700 triệu. Cứ theo báo
cáo thì quân đội Sài Gòn chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc và
phải bỏ quân khu I, II. Niềm hy vọng cuối cùng của ông Thiệu về khoản
300 triệu mà ông xin Mỹ viện trợ gấp sau khi mất Phước Long cũng tan
thành mây khói. Quốc hội Mỹ đầu năm 1975 quyết định không cho Sài Gòn
thêm nữa dù một đồng.
Chính bởi những yếu tố đó nên khi Buôn
Ma Thuột mất, Thiệu liền ra lệnh rút khỏi cao nguyên. Thiệu nói: “Chắc
chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ muốn bảo vệ. Như vậy
chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù
phú, vì những vùng đất đó mới thực sự quan trọng”.
Tuy nhiên, ý định rút quân chiến lược
của ông Thiệu không thực hiện được vì các đơn vị rút đi đều bị chặn đánh
tơi tả. Ý định tử thủ Đà Nẵng để chặn bước tiến của quân Giải phóng
cũng không thành và cuối cùng Sài Gòn được giải phóng ngày 30/4/1975,
kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 30 năm.
Những dữ kiện của tác giả Nguyễn Tiến
Hưng đã giúp ta biết thêm tình hình chính quyền Sài Gòn vào những ngày
tháng cuối cùng để hiểu thêm một phần nguyên nhân dẫn đến ngày
30/4/1975. Tuy nhiên, tác giả có ý nhấn mạnh viện trợ kinh tế như một lý
do quyết định sự thất bại của họ để giảm nhẹ chiến thắng của đối
phương. Nhưng chính đó lại nói rõ hơn cái chiều hướng thất bại tất yếu
của họ. Bởi lẽ, một chính quyền, một quân đội không có nội lực mà chỉ
trông đợi vào người khác thì sớm muộn sẽ bị đánh bại mà thôi.
(Kiến thức)
Nghĩ từ chuyện 14 học sinh giỏi lớp 9 ở Tây Ninh bị điểm 0
Gần 20% học sinh dự thi môn toán trong kỳ thi chọn học sinh giỏi (HSG)
lớp 9 của tỉnh Tây Ninh bị điểm 0. Một con số gây sốc không phải chỉ Tây
Ninh mà cho cả giáo dục nước nhà. Chuyện này làm mọi người nhớ tới câu
chuyện cách đây không lâu, trong kì thi học sinh giỏi bậc PTTH của Thanh
Hóa cũng có đến 58 bài thi có dấu hiệu đánh dấu bài tập thể. Hai sự
việc đều cùng bản chất: bệnh sĩ ! Tuyển chọn “nhân tài” theo định hướng
như thế thì thật không hiểu giáo dục nước nhà sẽ đi về đâu ?
Gia_doi_thanh_tichTrong số 14 HSG bị điểm không nói trên ở Tây Ninh, có
cả những em ở vòng thi HSG cấp huyện thị chỉ đạt điểm 3/20 nhưng cũng
được đưa vào đội tuyển cho đủ…chỉ tiêu. Biết học sinh mình yếu kém mà
vẫn đôn lên cho đi dự thi HSG cấp tỉnh, đấy không phải là tắc trách. Xem
ra bệnh thành tích cũng giống như ung thư, đã di căn rồi. Vì nó đã chạy
vào tim nên từ thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy đến lãnh đạo các cấp đã
đánh mất cái tâm của mình. Việc làm của họ vô hình trung lại gây hại
cho học trò. 14 em mang tiếng là HSG mà lại bị điểm 0 kia sẽ ra sao nếu
các em và bạn bè biết được sự thật này ?
Bệnh thành tích là cha đẻ của chỉ tiêu, và chỉ tiêu là căn nguyên của sự
dối trá. Vì cái chỉ tiêu mà ngành giáo dục thị xã Tây Ninh bốc đại cả
những em yếu kém đi thi cho đủ số lượng 20 HSG được giao. Có nghĩa là để
đạt được chỉ tiêu, người ta sẵn sàng làm bậy dù biết thế là sai. 14 em
bị điểm 0 bởi các em không làm được gì cả, đành là thế nhưng những em
còn lại thì sao, những em đoạt giải ấy liệu có đúng thực chất là HSG
thực sự ?
Không chỉ có chỉ tiêu HSG, ngành giáo dục còn hàng chục, hàng trăm chỉ
tiêu khác. Chỉ tiêu xếp loại học sinh, chỉ tiêu lên lớp, chỉ tiêu tốt
nghiệp, chỉ tiêu giáo viên giỏi…Để đạt các chỉ tiêu ấy ai cũng hiểu là
phải bằng sự nỗ lực phấn đấu trong dạy học của thầy và trò. Nhưng thực
tế cho thấy, không phải ai và ở đâu cũng làm được như thế. Người ta cố
đạt chỉ tiêu bằng mọi cách. Đơn giản nhất, nhanh nhất, không phải nhọc
công là múa bút, cấy điểm, biến 0 thành 10, 10 thành trăm…để rồi có một
bản báo cáo đẹp với những con số như mơ. Cách thứ hai là đôn, đẩy, tạo
nên giá trị ảo như Tây Ninh vừa làm. Dù bằng cách nào thì cũng đều là sự
phù phép. Và người ta đã phù phép bao nhiêu năm nay. Làm sao tìm ra
được giá trị thực giữa một mớ bòng bong những số liệu giả và thành tích
ảo kia ?
Để giáo dục cất cánh, cần phải có một cuộc cách mạng thật sự, không chỉ
là việc thay đổi chương trình, sách giáo khoa. Chừng nào còn sự sùng bái
thành tích, còn những chỉ tiêu ảo thì chứng đó còn sự giả dối. Và giáo
dục cứ thế, vẫn ì ạch trên con đường đi tới tương lai của mình.
29-4-2013
Nguyễn Duy Xuân
(nguyenduyxuan.net)
Đức Thành - Tượng đài của chủ nghĩa xã hội
Đảng, nhà nước luôn tuyên truyền kiên định cho đường lối xã hội chủ
nghĩa của mình. Nhất là những ngày trong lễ kỷ niệm này các phương tiện
truyền thông lại ra rả như quốc kêu về vai trò lãnh đạo của Đảng, về lý
tưởng cộng sản, và về chủ nghĩa xã hội.
Ở tuổi trẻ con, tôi bị bố mẹ cấm đoán chơi với lũ trẻ con khác vì chúng
quậy phá nhất làng. Chúng ghét ai thì dù ruộng phần trăm hay ruộng cá
thể và dù lúa đã chín chúng vẫn dùng ngọn tre khô cào tơi bời cho thóc
rụng xuống, chủ nhân của những đám ruộng ấy chỉ còn nước khóc… kêu trời.
Tôi thấy chúng cứ vô tư chơi vô tư đùa mà cầm đầu lại là con ông bí thư
đảng ủy kiêm trưởng công an xã. Lúc ấy bắt được một người nào ăn cắp
ngô, khoai hay ăn cắp con gà… đều bị bố nó trói giật cánh khuỷu và trước
ngực người đó được treo thêm tang vật là ngô, là koai, là gà… hay bất
cứ thứ gì ăn cắp được. Các công an viên dẫn giải đi khắp các đường làng
ngõ xóm (có người vì một phút nông cạn đã vướng vào việc trộm cắp vặt
này nhưng không chịu được nhục do bị bêu riếu khắp làng kiểu như vậy nên
đã phải thắt cổ tự vẫn). Trong những lần như thế thằng con ông bí thư
xã kiêm trưởng công an vui nhất. Nó là kẻ đầu têu chuyên nghĩ ra các trò
tai quái như đi đằng sau ném gạch ném đất đá vào lưng người bị trói hay
đi ngang hàng tìm cách ngáng chân để họ ngã ra đường… Không ai dám can
hắn vì hắn là con út của người nắm vận mệnh của toàn thể nhân dân trong
xã tôi. Vô phúc mà bị hắn lu loa vu vạ cho ai thì không những người đó
mà còn cả nhà họ phải liên lụy. Nó với tôi học cùng lớp cấp một.
Cha tôi đã tránh hết mức để không phải đối đầu với “đồng chí” bí thư
đảng bộ xã, là cấp trên trực tiếp và là người cùng sinh hoạt đảng tại
chi bộ mình, nhưng vẫn không tránh khỏi hệ lụy vì chính ông ta đã báo
cáo tổ chức và đề nghị khai trừ bố tôi ra khỏi Đảng khi bố tôi thông qua
chi bộ và thực hiện việc chia đất hoang hóa cho các hộ dân (xin xem
thêm bài “Xin nói thật với Đảng và nhà nước” ngày 17/1/2013 trên Bauxite
Việt Nam).
Cái sân kho hợp tác quê tôi bề thế nhất vùng. Những năm 90 của thế kỷ
20, trong một lần về quê, thấy sân kho hợp tác bị người ta vạch vôi rồi
đào bới loang lổ, tôi hỏi cha. Cha tôi bảo: “Thế là cái tượng đài duy
nhất của chủ nghĩa xã hội còn sót lại cũng bị chúng nó thanh lý nốt”.
Tôi băn khoăn nhưng không dám hỏi tiếp cha tôi rằng tại sao lại thanh
lý. Vì cái sân kho cũng là bất động sản, là đất đai thuộc sở hữu toàn
dân, là công thổ quốc gia. Kẻ nào lai cả gan dám thanh lý công thổ quốc
gia như vậy? Vì cha tôi từ ngày bị khai trừ Đảng ông sống lầm lì ít nói.
Tôi đem chuyện này thắc mắc với mấy ông anh con bác đang là cán bộ quèn ở
địa phương, các ông im lặng chẳng nói gì nhiều chỉ phán mỗi một câu
“Thời buổi giờ nó thế”.Hôm khác về quê đến thằng em họ làm nghề mổ lợn
chơi đem chuyện thanh lý công thổ quốc gia ra kể, nó phán một câu xanh
rờn: “Sao bác lạc hậu thế! Một khi chúng đã bỏ tiền ra mua quyền chức
địa vị thì chúng phải gặt hái chứ. Đất đai là công thổ quốc gia thì
chúng nó mới bán, mới thanh lý được. Em cũng vừa mua được cho cháu bác
một miếng do chúng nó thanh lý đây!”. Nói rồi thằng em cho tôi xem phiếu
thu với đủ thành phần chữ ký của các quan chức từ anh thủ quỹ đến anh
thủ trưởng (nghĩa là có tổ chức đàng hoàng) với lý do thu là tiền “thanh
lý đất”?!!!
Chẳng trách nào có chuyện nước ngoài thuê được tất cả các loại đất bất
kể đó là đất an ninh, quốc phòng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rồi cả đất…
“tượng đài của chủ nghĩa xã hội” theo cách gọi của cha tôi. Hóa ra để có
tiền và có chức nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hộingười ta sẵn sàng làm tất
cả những thứ gì có thể.
Bây giờ tôi mới thấm thía. Khi Đảng, Nhà nước hô hào kêu gọi nông dân
vào hợp tác xã thì đó chính là hình thức thu gom, thu hồi đất đai tài
sản ruộng vườn của nhân dân tích cóp từ bao đời nay làm tài sản sở hữu
của tập thể, sở hữu của nhà nước (toàn dân) mà không đền bù thỏa thuận
gì với họ một cách hợp pháp. Đến khi phong trào hợp tác xã tan rã, đến
“cái sân kho – tượng đài của chủ nghĩa xã hội” cũng phải thanh lý nốt,
có nghĩa đất đai tài sản của người dân đóng góp từ ngày xưa không được
Đảng, Nhà nước trả lại cho nông dân. Chẳng trách mà có người nói đó là
“bọn cướp” chứ… cán bộ gì.
Tôi lan man suy nghĩ và tìm các văn bản pháp luật về luật phá sản doanh
nghiệp ra thì thấy đúng là tài sản của hợp tác xã nông nghiệp, của xã
viên hợp tác xã nông nghiệp do nông dân đóng góp đã không được Đảng, Nhà
nước coi là đối tượng điều chỉnh của pháp luật phá sản. Đến thời điểm
này có cả 100% số hợp tác xã nông nghiệp trước đây trên toàn quốc do
phong trào Hợp tác hóa dựng lên đều tan rã. Quyền lợi của các thế hệ xã
viên trong các hợp tác xã này không được Đảng, Nhà nước đếm xỉa gì, dù
họ thực hiện rất tốt việc làm hậu phương vững chắc “thóc không thiếu một
cân, quân không thiếu một người” để có chiến thắng mà kỷ niệm như ngày
hôm nay.
Nhân những ngày kỷ niệm này xin gợi lại một tượng đài của chủ nghĩa xã
hội đã bị chính những người đang kêu gào dân tộc hãy kiên định đường lối
xã hội chủ nghĩa \ bán lấy tiền mà không chịu trả cho dân những gì họ
đã đóng góp để chúng ta có cái nhìn thức tỉnh đúng đắn hơn.
Ngày 30/4/2013
Đức Thành
(BVN)
Lê Quốc Trinh -Nhân ngày 30-04 nghĩ gì về bức công hàm PVĐ 1958?
Lời mở đầu
Bài viết này không có chủ ý biện hộ hay kết án cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng về sự kiện “bức công hàm 14/09/1958 liên quan đến HS-TS”, và cũng
không muốn bàn tán thêm về chủ đề chủ quyền VN trên hai quần đảo này vì
đã có quá nhiều luật gia và học giả khắp nơi ra sức tranh luận từ hơn 5
năm qua trong các trang mạng Internet.
Bài viết xin phép được trình bày một cách nhìn khác trung thực và sâu xa
hơn về vấn đề Biển Đông nói riêng và lịch sử cận đại VN nói chung,
trong đó Đảng Cộng Sản Việt Nam nam giữ một vai trò chủ chốt vô cùng
quan trọng.
Dẫn chứng lịch sử VN xung quanh bức công hàm PVĐ 1958
Những dẫn chứng lịch sử xung quanh sự kiện HS-TS không có nhiều, thật ra
chỉ có hai văn kiện chính thức mà mọi người có thể truy tìm trên Google
một cách dễ dàng, tôi xin phép được trích dẫn ra đây hai bản văn kiện
tối quan trọng, đó là:
1)- Văn kiện 1: Bức công hàm do cố thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ký
ngày 14/09/1958 lên tiếng ủng hộ tuyên bố của chính phủ Trung Quốc liên
quan đến giới hạn và khu vực hải phận của TQ. Văn kiện này chính ông PVĐ
đích thân ký tên, mang quốc huy, quốc hiệu VCDCCH, con dấu chính phủ,
và do chính tay cố ngoại trưởng VN Ưng Văn Khiêm trao tay cho người đồng
nhiệm phía TQ. Sau do công hàm PVĐ được nhật báo Nhân Dân chụp ảnh, in
ấn nguyên bản và đăng công khai để người dân miền Bắc biết. Tuy nhiên
không hề thấy báo Nhân Dân chụp ảnh và đăng “bản tuyên bố chủ quyền đất
đai và vùng hải phận của TQ” mà công hàm PVĐ đã ghi nhận.
2)- Văn kiện 2: Bản tuyên bố chủ quyền quần đảo của TQ, giới hạn hải
phận 12 hải lý (khoảng 22km) bao bọc bờ biển của đất liền (TQ), hải phận
rộng 12 hải lý bao quanh các quần đảo trong vùng Biển Đông (trong đó TQ
xác định HS-TS là thuộc chủ quyền của họ). Đi xa hơn nữa TQ còn xác
định rõ ràng vùng hải phận xác định bởi những đường thẳng căn bản nối từ
đất liền TQ đến các hòn đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS của VN). Bản
tuyên bố này không mang quốc huy, quốc hiệu TQ, không mang chữ ký người
gửi, không con dấu, không để tên người nhận và cũng không biết cơ quan
truyền thông nào chịu trách nhiệm phát hành.
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.
Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài
khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả)
và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa,
quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền
và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh
hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải
lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển
bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là
vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả
đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và
Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc
nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc,
tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải
phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại
quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các
luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ
cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung
Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động
bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các
phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các
vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Chú thích: Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
_____________________________
Tôi đã kiên nhẫn theo dõi suốt 6 năm qua, từ khi có cuộc biểu tình đầu
tiên của người dân SaiGon tháng 11/2007 đòi hỏi chủ quyền HS-TS cho VN,
đến nay rất nhiều học giả TSGS, luật gia VN hay ngoại quốc, tri thức
Việt kiều hải ngoại thay phiên nhau tranh luận, chủ yếu chỉ dựa trên
“bức công hàm PVĐ 1958″ để biện hộ cho ông và ra sức tranh cãi pháp lý
quốc tế để giành lại chủ quyền VN trên hai quần đảo này. Tôi chưa thấy
ai đề cập gì đến “bản tuyên bố chủ quyền và hải phận của TQ 04/09/1958″
và cũng không cung cấp gì thêm dẫn chứng lịch sử nào khác ngoài hai văn
kiện đó. Do đó tôi có thể đặt giả thuyết rằng “bản tuyên bố TQ
04/09/1958″ có thật, tuy rằng hình thức không rõ ràng, nhưng nội dung
yêu cầu thì rất ư chi tiết. Nếu chỉ bàn luận trên “bức công hàm PVĐ
1958″ mà không nhắc gì đến “bản tuyên bố TQ 1958″ thì theo tôi, quả là
một thiếu sót rất lớn hoặc có thể là một mánh khoé đánh lạc hướng công
luận nhằm che dấu một sự thật hệ trọng. Đó là lý do khiến tôi phải đọc
đi đọc lại hai văn bản này hàng chục lần, hy vọng tìm ra manh mối dẫn
dắt đến tình thế phức tạp của VN hiện nay trong vùng Biển Đông.
Sau đây là những phân tích của tôi, dựa trên nội dung và hình thức của hai bản văn kiện ngoại giao quan trọng đó.
1)- Sai lầm nghiêm trọng
Bức công hàm PVĐ 1958 đã để lộ ra nhiều sơ hở chết người, quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy:
a)- Sơ hở về thời gian: Từ khi nhận được “bản tuyên bố chủ quyền và hải
phận TQ ngày 04/09/1958″ cho đến khi PVĐ đặt bút ký “bức công hàm ngày
14/09/1958″ chỉ vỏn vẹn có mười ngày (10) ngắn ngủi, để quyết định một
sự kiện lịch sử tối hệ trọng liên quan đến chủ quyền quốc gia, đến vận
mệnh dân tộc VN. Nên nhớ rằng thời kỳ đó miền Bắc VN và TQ kết thân nhau
như anh em, cùng chung ý thức hệ CS, cùng chung giới tuyến chống đế
quốc Mỹ, thế thì tại sao chính quyền Hà Nội chỉ được có 10 ngày để bàn
bạc thảo luận? Phải chăng TQ đã ra một đòn cân não, áp lực chính trị
nặng nề đến mức Đảng Cộng Sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh cầm đầu không
còn biện pháp nào khác hơn ngoài sự ngoan ngoãn cúi đầu tuân lệnh ? Phải
chăng tình hình chính trị kinh tế xã hội bết bát của miền Bắc thời đó
quá tồi tệ, lòng dân ly tán sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất tàn sát
hàng trăm ngàn người dân vô tội, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm tiêu diệt trí
thức, sau khi hàng triệu nguời di cư vào Nam đi tìm tự do, chính sách
Hợp Tác Xã bị phá sản hoàn toàn, miền Bắc VN túng quẫn, nạn đói đe doạ
trầm trọng ép buộc chính quyền Hà Nội và ĐCS VN phải cúi đầu tuân lệnh
ĐCS TQ để tiếp nhận viện trợ thực phẩm và nhu yếu phẩm ? Thời gian trả
lời chỉ có 10 ngày vỏn vẹn, không khác gì một kiểu “tối hậu thư” thúc ép
Hà Nội phải trả lời nhanh cấp tốc. Buồn thay cho vận mệnh dân tộc VN!
b)- Sơ hở về hình thức: Tại sao chính phủ VNDCCH phải sử dụng đến hình
thức ngoại giao công khai chính thức rất ư nghiêm túc chỉ để trả lời một
“bản tuyên bố vu vơ, một lá thư nặc danh không tên tuổi” đáng vứt vào
sọt rác ? Phải chăng đây là một mánh khoé chính trị, một cạm bẫy do ĐCS
TQ giăng ra để ép buộc Hà Nội rơi vào vòng kiềm toả của họ ? Tôi nghĩ
thầm đến hai giả thuyết, như sau:
- một là lãnh đạo TQ không muốn bị bẽ mặt nếu chẳng may chính quyền CS
Hà Nội tỏ vẻ cứng đầu phản đối, hoặc cù cưa không trả lời;
- hai là lãnh đạo TQ sử dụng đòn ngầm cưỡng ép miền Bắc phải trả lời
công khai chính thức bằng văn bản ngoại giao, để sau này họ nắm trong
tay đầy đủ chứng từ trưng ra trước công luận thế giới. Giả thuyết này
ngày nay đã thành hiện thực, bản thân thế hệ trẻ sau này đành phải đưa
đầu chịu báng, ngư dân VN tiếp tục bị tàu TQ xua đuổi, bị phá phách, bị
cướp bóc ngay trong vùng hải phận VN.
c)- Sơ hở về nội dung: Bức công hàm PVĐ 1958 không đề cập gì đến “yêu
cầu chủ quyền của TQ trên hai quần đảo HS-TS”. Đúng thế, đọc kỹ công hàm
vắn tắt chúng ta không thể tìm ra được câu chữ nào dính líu đến “chủ
quyền TQ trên HS-TS”. Tôi thầm nghĩ ông Hồ và toàn thể BCT thời đó hãy
còn trẻ, uy tín lẫy lừng ở miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954,
họ không dại dột gì lấy trách nhiệm với dân tộc về vấn đề chủ quyền lãnh
thổ. Tuy nhiên họ đã bị rơi vào cạm bẫy TQ khi công khai chấp nhận chủ
quyền TQ trong vùng hải phận 12 hải lý (22km). Sơ hở này nghiêm trọng
hơn vấn đề HS-TS vì lẽ bức công hàm mặc nhiên cho phép TQ độc quyền tung
hoành trong Biển Đông bao la:
- một: Công hàm cho phép TQ được quyền bao vây các hòn đảo thuộc chủ
quyền VNCH (HS-TS, miền Nam). TQ được quyền sử dụng mọi phương tiện quân
sự để đánh phá những tàu bè VN đi vào các vùng hải phận này. Ai cũng
biết rằng HS-TS có rất nhiều đảo nhỏ không lớn hơn 1km vuông, rất thấp,
không có nguồn lợi kinh tế gì cả. Tuy nhiên hải phận 12 hải lý (22km)
bao bọc mỗi đảo nhỏ chính là một vùng đặc sản kinh tế rộng lớn (hơn 1500
km vuông/mỗi đảo), chứa hải sản, hay mỏ dầu hoả chất lượng tốt. Đó
chính là lý do tại sao hàng chục ngàn ngư thuyền TQ đang tranh nhau khai
thác vùng biển trời cho này. Ngược lại ngư dân VN thì lại bị đánh đuổi,
thậm chí muốn vào tránh bão cũng không được.
- hai: Công hàm PVĐ 1958 đã mặc nhiên công nhận một vùng hải phận bao la
(hơn 700,000 km2) ấn định bởi những đường thẳng căn bản nối liền từ bờ
biển TQ đến tận các hải đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS). Mỗi đường
thẳng căn bản này được TQ đòi hỏi có một hành lang rộng 12 hải lý
(22km). Trân trọng mời quý vị độc giả quan sát bản đồ Biển Đông (đính
kèm) để hiểu rõ thêm vùng hải phận bao la ấn định bởi những đường thẳng
nối liền từ bờ biển TQ tới hàng chục đảo nhỏ của Trường Sa, nơi xa nhất
(khoảng 1700km, chiều rộng ngắn nhất 400km, theo tỷ lệ của bản đồ). Chấp
nhận vùng hải phận này do TQ yêu cầu, chính là chấp nhận thế bị bao
vây, mọi con đường hàng hải từ VN đến Nhật Bản, Phi, Đài Loan hay Đại
Hàn về hướng Đông đều bị ngăn cản. Đó chính là hàng rào chiến lược vĩ
đại mà TQ hiện nay đang cố gắng nâng cấp lực lượng hải quân hùng hậu
đứng thứ 2 thế giới, nhằm bao vây Việt Nam. Trong tương lai VN không còn
đất đứng, đành phải chịu thân phận “một vùng tự trị giống như Tây
Tạng”.
- ba: Đừng thắc mắc tại sao TQ ngang nhiên đem tàu chiến xâm phạm HS-TS
đánh chìm tàu hải quân VNCH (miền Nam) năm 1974, đừng trách cứ Hoa Kỳ
tại sao bỏ rơi miền Nam, vì nhân dân Mỹ đã quá chán ngán với chiến cuộc
VN, mà hãy trách cứ tại sao ĐCS VN đã cúi đầu công nhận chủ quyền TQ
trong một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2) rộng hơn gấp hai lần
lãnh thổ VN. Tình thế khó khăn của dân tộc VN hiện nay trong Biển Đông
chính là hệ luỵ từ bức công hàm PVĐ 1958. Công pháp quốc tế có ba đầu
sáu tay cũng không thể nào cãi lại với chính quyền TQ khi họ chìa “bức
công hàm PVĐ 1958″ ra làm bằng chứng.
c)- Sơ hở về chiến lược: Lý do gì ĐCS VN không cho phép nhật báo Nhân
Dân trích dẫn “bản tuyên bố TQ 04/09/1958″ mà công hàm PVĐ đã nhắc đến ?
Đây là một thiếu sót vô cùng hệ trọng. Ngày nay có ai dám đứng ra cãi
rằng “bản tuyên bố TQ” tìm thấy trên Google là giả tạo ? Có ai dám lục
hồ sơ chính phủ VNDCCH năm 1958 để đem “bản tuyên bố TQ thật” ra đối
chất ? Bức công hàm PVĐ 1958 đã hiện rõ bộ mặt thật của lãnh đạo ĐCS VN:
đó là bản chất lừa dối, dấu diếm sự thật, lập lờ đánh lận con đen để
lừa phỉnh quần chúng. Hành vi mập mờ này chứng tỏ toàn thể Bộ Chính Trị
ĐCS VN bị dồn vào thế thụ động phải tuân thủ mệnh lệnh Bắc Kinh, nhưng
để trốn tránh trách nhiệm họ đã nhắm mắt ngậm miệng để cho cố thủ tướng
PVĐ đứng ra chịu tội, sau này búa rìu công luận sẽ nhắm vào cá nhân ông
PVĐ mà quên đi rằng toàn thể lãnh đạo ĐCS VN chính là thủ phạm. Những ai
từng sống dưới chế độ vô sản chuyên chính hiểu rõ nguyên tắc bất di bất
dịch “Đảng lãnh đạo / Nhà Nước quản lý / Nhân Dân làm chủ”. Do đó trách
cứ đổ lỗi cho ông PVĐ là sai hoàn toàn. Tôi chỉ buồn là vào thời kỳ đó,
toàn bộ lãnh đạo ĐCS VN hãy còn sung sức và uy tín rất cao, và đại
tướng Võ Nguyên Giáp đâu rồi, sao không thấy lên tiếng về quyết định
trọng đại này ? Lòng yêu nước của những người lãnh đạo VN đã bị chủ
nghĩa giáo điều CS bào mòn, trở nên khiếp nhược trước áp lực của quân
xâm lược Bắc Kinh.
C- Kết luận:
Thật không dễ chút nào cho một kiều bào hải ngoại như tôi muốn tìm hiểu
lịch sử cận đại VN, khi mà có quá nhiều dấu diếm, tuyên truyền dối trá
nhằm che đậy sự thật do ĐCS VN cố tình gieo rắc gây hoang mang nghi kỵ.
Nói theo lời anh Nguyễn Ngọc Giao (báo Diễn Đàn) rằng “ba thế hệ dân tộc
VN đã bị ĐCS VN cho ăn cháo lú suốt hơn 60 năm ròng”, sách giáo khoa đã
bị bóp méo nhằm mục đích đào tạo một thế hệ “nô dịch” phục vụ cho mưu
đồ Hán hoá, làm hao mòn tinh thần yêu nước bất khuất của nòi giống Lạc
Việt mà tiền nhân đã đổ biết bao xương máu để kiến tạo nên một đất nước
oai hùng chống xâm lược không mỏi mệt.
Không thể nào nói chuyện “hoà hợp hoà giải dân tộc” khi mà chủ nghĩa
giáo điều CS là kim chỉ nam cho mọi hành động, khi mà tất cả mọi danh từ
nhằm vu khống cho cả triệu người dân miền Nam vô tội vẫn tiếp tục được
sử dụng trên báo chí truyền thông “lề phải”, nào là: nguỵ quân, nguỵ
quyền, nào là chi’nh phủ bù nhìn, nào là phản động, nào là phản quốc,
Việt gian. Đến bây giờ nếu ai công tâm ngồi suy nghĩ kỹ và phân tích
lịch sử nhân loại sẽ thấy ngay “kẻ phản quốc, phản động, bù nhìn, tay
sai ngoại bang, nguỵ quyền” chính xác là tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Kẻ nào gieo Nhân thì phải hái Quả, kẻ nào gây Nghiệp ác thì
phải lãnh nhận quả Báo, giáo pháp Nhà Phật không sai chút nào.
Bài viết này mới chỉ nhằm phân tích tìm kiếm sự thật nằm sau “bức công
hàm PVVD 1958″. Những hệ luỵ do bức công hàm PVĐ 1958 gây ra cho dân tộc
VN suốt nửa thế kỷ dẫn dắt đến cuộc chiến tranh tương tàn sẽ được phân
tích ở bài viết sau. Một vấn đề trọng đại như bức công hàm PVĐ 1958, đưa
đến chiến tranh tương tàn, dân tộc ly tán, hơn 6 triệu người dân VN bị
chia lìa, mất trắng cơ nghiệp, anh chị em, gia đình phân cách trong suốt
60 năm ròng, thì ngày 30/04 không thể nào được xem như là “một chiến
thắng vinh quang”, ngược lại đó chính là một dấu tích ô nhục cho tiền đồ
một dân tộc.
Rất mong nhận được những phản hồi góp ý của quý vị độc giả bốn phương,
trong và ngoài nước nhằm làm sáng tỏ vấn đề Biển Đông cho tương lai dân
tộc Việt Nam.
Thành thật cám ơn,
30/04/2013
© Lê Quốc Trinh
© Đàn Chim Việt
Đại diện 5 tôn giáo cùng ra tuyên bố chung về sửa đổi Hiến pháp
Hôm 1/5, đại diện các chức sắc của 5 tôn giáo là Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhứt, Công Giáo, Tin Lành - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ,
Cao Đài chính thống - Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây
Ninh, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo thuần túy đã cùng nhau ra Tuyên Bố
Chung về việc sửa đổi Hiến pháp 1992.
Nội dung bản Tuyên Bố Chung nhấn mạnh đến 8 điểm:
1- Do ý kiến nguyện vọng của toàn dân Việt Nam lập nên, tức là phải trưng cầu dân ý, có Liên Hiệp Quốc giám sát.
2- Tránh tất cả mọi sự lệ thuộc vào ngoại bang, nhất là Trung Quốc.
3- Tránh mọi điều xâm phạm đến quyền tự do căn bản của người dân Việt
Nam như: Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập
hội...
4- Bầu cử Quốc Hội, tất cả các đảng phái đều được tự do ứng cử.
5- Bầu cử chính quyền do dân cử, dân bỏ phiếu trực tiếp dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc.
6- Bầu cử theo thể chế Dân Chủ Tự Do.
7- Tam Quyền Phân Lập rõ ràng.
8- Xây dựng một nước Việt Nam thật sự Hòa Bình - Trung Lập - Tự Do - Dân Chủ; Do Dân - Phục Vụ Dân - Lập Quyền Dân.
Những người tham gia ký tên đại diện cho 5 tôn giáo tại Việt Nam gồm có:
1- Hòa Thượng Thích Không Tánh - Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
2- Linh Mục Đinh Hữu Thoại - Dòng Chúa Cứu Thế - Sài Gòn.
3- Linh Mục Lê Ngọc Thanh - Dòng Chúa Cứu Thế - Sài Gòn.
4- Mục Sư Nguyễn Hoàng Hoa - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ.
5- Mục Sư Hồ Hữu Hoàng - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ.
6- Cụ Lê Quang Liêm - Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo thuần túy.
7- Chánh Trị Sự Hứa Phi - Cao Đài chính thống - Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh.
Dưới đây là toàn văn bản Tuyên Bố chung:
Việt kiều Mỹ bị công an đuổi bắt như phim
Lái xe hơi từ Đồng Nai hướng đến Lâm Đồng chiều ngày 1 tháng 5, một Việt
kiều Mỹ 58 tuổi bị công an giao thông nổ súng chỉ thiên và dùng xe mô
tô rượt đuổi. Ông này bị bắt giải về đồn công an, bị quy kết tội “chống
người thi hành công vụ.”
Báo Tuổi Trẻ dẫn phúc trình của Tổ công an giao thông Đồng Nai tuần tiễu
tại quốc lộ 20 nói rằng người vi phạm luật giao thông là một Việt kiều
Mỹ tên Nguyễn Văn Hùng, 58 tuổi.
Cho rằng ông Hùng lái xe hơi chạy quá tốc độ trên đoạn đường từ Định
Quán, Đồng Nai hướng đến Lâm Đồng, một cán bộ công an giao thông ra hiệu
buộc ông Hùng phải dừng xe lại. Tuy nhiên, cũng theo phúc trình trên,
ông Hùng không ngừng mà đạp ga vọt thẳng.
Việt kiều Mỹ bị công an giao thông chụp bắt, giải về đồn. (Hình: báo Tuổi Trẻ) |
Nhóm công an giao thông này lập tức gọi cho nhóm thứ hai đang đứng
“chốt” tại một địa điểm khác kéo đến chặn đầu xe của ông Hùng. Thấy ông
Hùng chạy luôn, nhóm công an giao thông thứ hai bèn phóng xe rượt theo
và nổ súng thị uy mới buộc ông Hùng dừng xe lại.
Cũng theo phúc trình trên, ông Hùng đã “lạng lách, ép xe công an giao
thông, rồi cho xe lùi lại đâm vào khiến một cán bộ công an bị xây xát
nhẹ.”
Người đứng đầu công an huyện Định Quán cho hay, ông Hùng “uống rượu say,
tỏ ra bất hợp tác, liên tục chửi bới lực lượng thi hành công vụ.” Ông
này cũng cho hay, đã giải ông Hùng đến trụ sở công an tỉnh Đồng Nai để
“xử lý theo thẩm quyền.”
Trong khi đó, theo Việt Nam Net, ông Hùng “lạng lách, ép xe công an và
gây nguy hiểm cho người đi đường.” Báo này cũng nói rằng, ông Hùng dừng
xe mà “không ra khỏi xe trình giấy tờ, mà gọi điện thoại và lớn tiếng
thách thức công an.” Tại trụ sở công an huyện Định Quán, ông Hùng không
chịu để cho cán bộ công an kiểm tra nồng độ cồn trong máu.
Còn theo dư luận, qui định tốc độ quá chậm trên đường giao thông hiện
nay là bẫy để bắt “nóng” giới tài xế ở Việt Nam. Một số tài xế nói rằng,
vận tốc bắt buộc thay đổi “lia lịa” trên một đoạn đường ngắn, rất khó
chịu. Có những đoạn đường vắng trên quốc lộ mà công an chỉ cho phép chạy
tối đa 40 km/giờ, tương đương 22 dặm/giờ khiến nhiều tài xế bị “sa bẫy”
bất ngờ.
(Người Việt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét