Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

Lượm tin tức

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
Nguyên TBT Lê Khả Phiêu: Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc!  (Infonet). Màn này cũng không khỏa lấp được những “đóng góp” của ông ta trong quá khứ mà lịch sử sẽ phải làm rõ. Mời xem: + 73. GIẢI MẬT: TRẢI NGHIỆM CHUYỆN BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ TRUNG-VIỆT VÀO THẬP NIÊN 1990 (Việt sử ký). “Tháng 2 năm 1999, trong thời gian Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tới thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước đã ra “Tuyên bố chung”, xác định phương châm 16 chữ chỉ đạo sự phát triển lành mạnh mối quan hệ Trung-Việt ở thế kỷ mới, đó là “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Sau đó, lãnh đạo hai nước còn xác định thêm mục tiêu nỗ lực của hai nước và nhân dân hai nước, đó là vĩnh viễn trở thành “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.  + 155. Quan hệ Việt – Trung: Thực tế bẽ bàng hơn nhiều. “Trong Đại Hội X, năm 2001, để lật đổ tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh buộc tội Phiêu là đã dâng đất và độc đoán, khi sang Trung Quốc đàm phán về biên giới không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm để dễ “thậm thụt”. Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Lê Khả Phiêu, biện hộ cho Phiêu như sau: Nguyễn Mạnh Cầm không đi vì thành phần phái đoàn Việt Nam do Trung Quốc quyết định”.
- Phó tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) Trần Văn Chiều: ‘Dừng dự án bô xít Tây Nguyên là không khả thi’ (VNE).  - Vinacomin thông tin về việc tạm dừng đầu tư cảng Kê Gà (CP).
KINH TẾ
VĂN HÓA-THỂ THAO
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
QUỐC TẾ

73. GIẢI MẬT: TRẢI NGHIỆM CHUYỆN BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ TRUNG-VIỆT VÀO THẬP NIÊN 1990

dangshi.people.com.cn

GIẢI MẬT: TRẢI NGHIỆM CHUYỆN

BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ TRUNG-VIỆT

VÀO THẬP NIÊN 1990

Tác giả: Lý Gia Trung

Người dịch: Quốc Thanh
29-4-2010
Ngày 18 tháng 1 năm 1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vừa mới được thành lập không lâu đã thiết lập ngay quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trung Quốc là nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi đã công nhận nhà nước này. Từ thập niên 60 đến thập niên 70 của thế kỷ 20, Trung Quốc với tư cách là hậu phương lớn của Việt Nam, đã chi viện toàn lực cho các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của Việt Nam, nhân dân hai nước kết tình hữu nghị sâu đậm. Hồ Chí Minh từng dùng câu thơ “Mối tình hữu nghị Việt-Trung. Vừa là đồng chí vừa là anh em” để ca ngợi mối quan hệ tốt đẹp Trung-Việt.
Từ sau thập niên 70 đến cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, quan hệ giữa hai nước gặp khó khăn. Vấn đề chủ yếu là Việt Nam đưa quân xâm chiếm Campuchia, dẫn đến căng thẳng cục diện khu vực, đồng thời khiến cho mối quan hệ Trung-Việt bị rơi xuống đáy. Đến giữa thập niên 80, Việt Nam ý thức được gánh nặng trầm trọng do vấn đề Campuchia mang lại, nên vào tháng 3 năm 1985, lần đầu tiên đã tỏ ý muốn rút quân ra khỏi Campuchia. Tháng 12 năm 1986, sau khi Nguyễn Văn Linh  nhậm chức Tổng Bí thư, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam càng chú trọng bắt tay vào việc điều chỉnh các chính sách đối nội, đối ngoại ở biên độ lớn hơn, mong muốn giải quyết vấn đề Campuchia và cải thiện mối quan hệ với Trung Quốc. Nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình cũng đưa ra ý tưởng ổn định biên giới phía nam. Lúc này, mối quan hệ Trung-Việt tuy ở vào trạng thái không bình thường, nhưng cả hai bên đều cân nhắc đến đến chuyện áp dụng một sáng kiến làm dịu căng thẳng nào đó.

Hòa giải
Lúc 10 giờ rưỡi sáng ngày 14 tháng 12 năm 1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam gọi điện tới Đại Sứ quán Trung Quốc nói, Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Việt Nam, Đinh Nho Liêm, mời Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Lý Thế Thuần tới Bộ Ngoại giao Việt Nam vào lúc 10 giờ sáng ngày 15 để bàn về vấn đề quan hệ giữa hai nước, hy vọng Đại sứ Lý Thế Thuần cho biết, xem có thể tới đúng hẹn được không. Xét về lý, đại sứ tới Bộ Ngoại giao nước sở tại là chuyện hết sức bình thường, nhưng kể từ khi mối quan hệ Trung-Việt trở nên xấu đi, nên Đại Sứ quán Trung Quốc gần như không còn qua lại gì với các bộ, ngành phía Việt Nam nữa. Cho nên, phía Việt Nam bất ngờ gọi điện tới như vậy tất nhiên đã khiến cho sứ quán hết sức thận trọng, không dám khinh suất bày tỏ thái độ, mà ngay lập tức báo cáo thỉnh thị trong nước. Tối hôm đó, trong nước đã trả lời là, Lý Thế Thuần có thể tới gặp Đinh Nho Liêm, chủ yếu là xem đối phương nói những gì để báo cáo lại với trong nước, đồng thời cũng tìm hiểu luôn ý đồ của phía Việt Nam, nhưng không cần phải bày tỏ thái độ gì trong cuộc gặp mặt.   
Sáng ngày 15, đúng giờ hẹn, Lý Thế Thuần tới Bộ Ngoại giao Việt Nam. Đinh Nho Liêm trao trực tiếp bức thư của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch gửi cho Bộ trưởng Tiền Kỳ Tham, yêu cầu phía Trung Quốc đồng ý cho Nguyễn Cơ Thạch được tới Bắc Kinh vào trước tháng 3 năm 1989 để tổ chức cuộc gặp mặt với Tiền Kỳ Tham. Bức thư viết: “Chúng tôi cho rằng, thời cơ để hai nước Việt-Trung ngồi lại với nhau đã chín muồi. Chúng ta hãy hợp tác với nhau, trên cơ sở đặt nền móng hòa giải dân tộc giữa các bên ở Campuchia để tạo điều kiện cho việc đi đến các giải pháp chính trị một cách ổn thỏa. Theo tinh thần này, tôi mạn phép được tới Bắc Kinh trong thời gian sớm nhất mà ông cho là thích hợp, để tổ chức một cuộc gặp mặt bí mật hoặc công khai”.
Đinh Nho Liêm còn bổ sung thêm, Nguyễn Cơ Thạch trước đây từng 2 lần yêu cầu được tới Bắc Kinh, phía Trung Quốc đều nói Tiền Kỳ Tham đang bận công việc, xin phía Việt Nam thông cảm. Hiện tại phía Việt Nam mong ông Tiền Kỳ Tham có thể thu xếp được thời gian trong vòng 3 tháng để gặp Nguyễn Cơ Thạch. Phía Việt Nam thực sự mong muốn sớm giải quyết được vấn đề Campuchia, thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, nhằm thuận ứng được với xu thế phát triển chung của thế giới hiện tại.       
Trong nước đã nghiên cứu cẩn thận bức thư của Nguyễn Cơ Thạch, cùng buổi nói chuyện với Đinh Nho Liêm, cho rằng lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia đã xuất hiện việc giảm lập trường cứng rắn mới, có thể tiến hành tiếp xúc với phía Việt Nam về vấn đề quan hệ Trung-Việt và nhất là về vấn đề Campuchia. Nhưng xét về cuộc gặp mặt cấp bộ trưởng ngoại giao hai nước là một sáng kiến chính trị quan trọng, thì trong bối cảnh quan hệ giữa hai nước khi ấy, thời cơ vẫn chưa chín muồi.
Tiếp đó, vào ngày 23 tháng 12 đã trả lời Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc mời Lý Thế Thuần hẹn với Đinh Nho Liêm: Phía Trung Quốc cho rằng, vẫn còn nhiều công việc chuẩn bị phải làm để thực hiện cuộc gặp gỡ cấp bộ trưởng ngoại giao hai nước, đề nghị phía Việt Nam cử một thứ trưởng ngoại giao tới Bắc Kinh trong thời gian gần nhất về việc này, để sớm tổ chức trao đổi nội bộ về các giải pháp chính trị, giải quyết vấn đề Campuchia. Phía Trung Quốc còn đề nghị không công bố công khai bức thư của Nguyễn Cơ Thạch, chuyện trao đổi tiếp xúc giữa hai bên cũng không đưa tin công khai.
Sáng ngày 24 tháng 12, Lý Thế Thuần tới gặp Đinh Nho Liêm để truyền đạt ý kiến nói trên của phía Trung Quốc cho phía Việt Nam. Do trước đây phía Trung Quốc đã hai lần không chấp nhận gặp mặt Nguyễn Cơ Thạch, cho nên không thể dò được lần này phía Việt Nam sẽ trả lời phía Trung Quốc ra sao. Trả lời của Lý Thế Thuần tuy không đề cập đến chuyện Nguyễn Cơ Thạch tới Bắc Kinh, nhưng đồng ý cho phía Việt Nam cử một thứ trưởng ngoại giao tới Bắc Kinh, thực tế là lập trường cũng đã bớt cứng rắn, điều này khiến cho Đinh Nho Liêm không khỏi bất ngờ.  
Đinh Nho Liêm hai lần bày tỏ thái độ “hết sức cảm ơn”. Ông nói, phía Việt Nam hết sức hoan nghênh sự trả lời nhanh chóng từ phía Trung Quốc về bức thư của Nguyễn Cơ Thạch, hoan nghênh phía Trung Quốc đã bộc lộ thành ý trong lời phúc đáp. Muốn tăng cường thêm sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai phía Việt-Trung, cần sớm tổ chức cuộc gặp mặt nội bộ giữa hai nước. Phía Trung Quốc đề nghị phía Việt Nam cử trước một thứ trưởng ngoại giao tới Bắc Kinh, để chuẩn bị cho cuộc gặp mặt cấp bộ trưởng ngoại giao hai nước, đây là một bước đi tốt, đồng thời cũng rất cần thiết. Ông còn nói, phía Việt Nam nhất trí với ý kiến của phía Trung Quốc, sự tiếp xúc và trao đổi giữa hai nước hiện tại cần được tiến hành bí mật, không công khai.
Lưu Thuật Khanh nói, về thời điểm cuộc gặp mặt, phía Việt Nam có thể nêu ý kiến trước, phía Trung Quốc sẽ xem xét. Phía Trung Quốc cho là vào đầu tuần hay trung tuần tháng 1 năm 1989 đều có thể được. Về nội dung cuộc gặp mặt, phía Trung Quốc biết vấn đề mà phía Việt Nam quan tâm nhất là nhanh chóng thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Còn phía Trung Quốc thì cho là phải giải quyết vấn đề Campuchia trước, rồi sau đó mới nói đến chuyện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Lưu Thuật Khanh nhấn mạnh, trong cuộc trao đổi lần này, thứ trưởng ngoại giao hai nước sẽ tiến hành thảo luận, xoay quanh việc làm sao để có thể giải quyết vấn đề Campuchia một cách công bằng, hợp lý, còn vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước thì để sau này hãy thảo luận.
Ngày 31 tháng 12, chuyên viên Vụ Trung Quốc Bộ ngoại giao Việt Nam, Nguyễn Bá Cự đã thông báo cho Bí thư thứ hai Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam Hồ Càn Văn: Đoàn của ông Đinh Nho Liêm dự định sẽ đáp máy bay hàng không dân dụng của Trung Quốc từ Bangkok tới Bắc Kinh vào (thứ hai) ngày 16  hoặc vào (thứ tư) ngày 18 tháng 1 năm 1989. Do khi đó cả đường sắt, đường bộ lẫn đường hàng không giữa hai nước đều đã bị gián đoạn, nên đoàn Đinh Nho Liêm chỉ có thể đi đường vòng để tới Bắc Kinh.  
Ngày 10 tháng 1 năm 1989, chuyên viên Nguyễn Bá Cự thông báo với Hồ Càn Văn về danh sách đoàn Đinh Nho Liêm. Nguyễn Bá Cự nói, mới đầu dự định đoàn đại biểu gồm 4 người, nhưng phía Việt Nam do nhận thức đầy đủ về ý nghĩa quan trọng của cuộc trao đổi lần này, cho nên đã quyết định từ 4 người tăng lên đến 8 người, đó là Thứ trưởng thứ nhất Đinh Nho Liêm, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Minh Phương, Trợ lý Bộ trưởng Bộ ngoại giao Đặng Nghiêm Hoành, Tham tán sứ quán tại Trung Quốc Hoàng Như Lý, Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Bộ ngoại giao Trần Hữu Nghĩa, chuyên viên Vụ Trung Quốc Bộ ngoại giao kiêm phiên dịch Nguyễn Bá Cự, Bí thư thứ ba Sứ quán tại Trung Quốc Chu Công Phùng và Tùy viên Sứ quán tại Trung Quốc Bùi Trọng Vân. Nguyễn Bá Cự còn nói với Hồ Càn Văn rằng, phía Trung Quốc đồng ý bàn bạc với phía Việt Nam là một niềm khích lệ to lớn đối với cả đất nước Việt Nam. Việt-Trung đối kháng nhau đã 10 năm, không thể tiếp tục đối kháng được nữa. Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã phổ biến cho các cán bộ trung cao cấp trong cả nước về việc hai nước Việt – Trung sắp sửa ngồi trao đổi với nhau, tất cả mọi cán bộ đều tỏ ý hoan nghênh, đồng thời hy vọng cuộc trao đổi sẽ thành công. Nguyễn Cơ Thạch cũng nói phía Việt Nam sẽ không bỏ lỡ cơ hội nữa, mà sẽ nỗ lực cùng với phía Trung Quốc để đi đến một hiệp định cả hai bên đều chấp nhận được.
Theo sự sắp xếp của nhân viên tham gia cuộc trao đổi bên phía Việt Nam, phía Trung Quốc quyết định sẽ có 6 người tham gia, đó là Thứ trưởng Lưu Thuật Khanh, Trợ lý Bộ trưởng Từ Đôn Tín, Vụ phó Vụ Á châu Trương Thanh, Tham tán Tạ Nguyệt Nga, Trưởng ban Lý Gia Trung, Phó ban kiêm phiên dịch Hồ Chính Dược. 
Ngày 13 tháng 1 năm 1989, đoàn Đinh Nho Liêm rời Hà Nội tới Bangkok. Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên, Quyền Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Ngô Tất Tố và Đại sứ Lý Thế Thuần đã ra sân bay tiễn đoàn. Tại sân bay, Đinh Nho Liêm nói với Lý Thế Thuần, tư tưởng chỉ đạo của phía Việt Nam về cuộc trao đổi lần này là xóa bỏ bất đồng, hiểu biết lẫn nhau và nhượng bộ cho nhau, hy vọng cả hai bên quan tâm và lắng nghe ý kiến của đối phương, để cuộc trao đổi đạt được nhiều thành quả hơn. 
Trao đổi
Lúc 6 giờ 20 phút chiều ngày 14 [tháng 1 năm 1989], đoàn Đinh Nho Liêm đáp máy bay dân dụng hàng không của Trung Quốc từ Bangkok qua đường Quảng Châu tới Bắc Kinh. Do cuộc trao đổi mật, nên máy bay chỉ dừng lại trên một mảnh đất đóng băng ở một góc tương đối khuất của sân bay thủ đô, tôi ra sân bay đón với tư cách là Trưởng đoàn Bộ Ngoại giao. Lưu Thuật Khanh, Trương Thanh và Đại sứ Việt Nam Nguyễn Minh Phương đợi đón ở phòng nghỉ của sân bay cũ.  Khi ấy, có mấy chục nhà báo ngoại quốc nghe nói có quan chức cao cấp Việt Nam tới Bắc Kinh, đã vội vã lao tới sân bay. Do sự sắp xếp khéo léo của phía Trung Quốc mà đã tránh được các nhà báo, khiến cho họ chẳng thu hoạch được gì. Phía Việt Nam từng nói trước là đoàn Đinh Nho Liêm sẽ ở Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh trong thời gian lưu lại Bắc Kinh. Sau do phía Trung Quốc tỏ ý muốn bố trí cho họ ở Thanh Lộ Đường trong khu Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, mọi chi phí do phía Trung Quốc chu cấp. Phía Việt Nam tiếp nhận thiện ý của phía Trung Quốc đồng thời bày tỏ sự cảm ơn.    
Tối ngày 15, Lưu Thuật Khanh mở dạ tiệc tại lầu số 7 Điếu Ngư Đường để đón tiếp đoàn Đinh Nho Liêm. Lưu Thuật Khanh nói, trước đây quan hệ giữa hai nước rất tốt, sau này quan hệ trở nên xấu đi, chúng ta rất đau lòng. Phía Trung Quốc cho rằng nếu tiếp tục đối kháng thì sẽ không phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, quan hệ giữa hai nước cần được khôi phục lại bình thường. Nhưng trước tiên cần giải quyết sự bất đồng lớn nhất giữa hai nước – vấn đề Campuchia. Nhiệm vụ của cuộc trao đổi lần này rất quan trọng, mang một ý nghĩa rất lớn, tuy nói là trao đổi nội bộ, nhưng cả thế giới đều đã biết. Chúng ta cần làm việc cho thật tốt để có được thành quả, không phụ lòng mong mỏi của nhân dân hai nước và dư luận quốc tế.
Đinh Nho Liêm nói, kể từ 10 năm nay lần đầu tiên ông có cơ hội được ngồi cùng với các đồng chí Trung Quốc, đây là sự mở đầu cho việc thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Việt Nam và Trung Quốc dần cải thiện mối quan hệ cho phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, và cũng phù hợp với xu thế chung trên toàn thế giới là đi vào hòa hoãn và giải quyết bất đồng bằng thương lượng. Ông nói, phía Việt Nam đã chuẩn bị thảo luận vấn đề Campuchia với phía Trung Quốc, nhưng cũng phải bàn tới cả vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.  
Sáng ngày 16, cuộc trao đổi được diễn ra tại phòng họp tầng 4 trụ sở Bộ Ngoại giao cũ trong Triều Dương Môn và kéo dài cho tới chiều. Ngày 17, Từ Đôn Tín, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Đặng Nghiêm Hoành, Trợ lý Bộ trưởng Bộ ngoại giao đã tiến hành thảo luận suốt cả ngày. Hai bên chú trọng thảo luận về vấn đề Campuchia, kết quả chủ yếu là:
1) Về vấn đề Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, phía Việt Nam nhắc lại, sẽ căn cứ theo văn bản khung về các giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, chậm nhất đến tháng 9 năm 1989 sẽ rút toàn bộ quân khỏi Campuchia, đồng thời nói đây là quyết sách từ người lãnh đạo tối cao của Việt Nam. Phía Trung Quốc không có đề nghị gì khác về thời hạn rút quân mà phía Việt Nam đã hứa, nhưng nhấn mạnh, rút quân phải là rút quân thật.  
2)  Về các mặt như ngừng viện trợ bên ngoài từ các phía cho Campuchia, bảo đảm địa vị trung lập của Campuchia, thực hành sự giám sát quốc tế và cung cấp sự bảo đảm quốc tế…, ý kiến cả hai bên thiên về nhất trí.
3)  Sự bất đồng chủ yếu nhất giữa hai bên là làm sao bảo đảm được hòa bình ở Campuchia sau khi Việt Nam rút quân. Để tránh cho Campuchia khỏi xảy ra nội chiến, phía Trung Quốc chủ trương trong giai đoạn quá độ từ khi Việt Nam rút hết quân cho đến khi chưa tiến hành tổng tuyển cử thành lập chính phủ mới ở Campuchia, cần thành lập chính phủ liên hợp có bốn bên ở Campuchia, do Sihanouk đứng đầu, để chính phủ liên hợp này chủ trì cuộc tổng tuyển cử; đồng thời đông kết các phái quân đội, giảm thiểu các phái quân đội tới quân số ngang nhau, thành lập quân quốc phòng thống nhất. Cái gọi là bốn bên ở Campuchia chỉ một phe là chính quyền Phnom Penh cho Việt Nam hỗ trợ, một phe là lực lượng đối kháng. Lực lượng đối kháng lại bao gồm 3 phe là phe Sihanouk, phe Khơme Đỏ và phe Son Sann. Phía Việt Nam cho rằng, đây là phương diện nội bộ của vấn đề Campuchia, tức vấn đề nội bộ của Campuchia, cần để các bên của Campuchia bàn bạc giải quyết, chứ không nên để hai bên Việt-Trung bàn bạc thảo luận.   
   
Đồng thời, phía Việt Nam nhiều lần yêu cầu thảo luận về vấn đề bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, đã đưa nhiều kiến nghị cụ thể như hai bên chấm dứt các tuyên truyền thù địch, chấm dứt các hành động thù địch ở đường biên giới trên bộ và các vùng hải đảo của hai nước, các lực lượng vũ trang ở vùng biên giới hai bên cần tránh đụng độ, cung cấp phương tiện đi lại và mưu sinh cho người dân vùng biên của hai nước…   
Phía Trung Quốc bày tỏ, cần giải quyết trước vấn đề Campuchia, để tạo điều kiện cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Tin tưởng rằng, cùng với việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và giải quyết vấn đề Campuchia, mối quan hệ Trung-Việt sẽ dần được cải thiện.    
Ngày 19 tháng 1, Tiền Kỳ Tham đã tiến hành hội kiến với đoàn Đinh Nho Liêm, đã có bài phát biểu quan trọng về việc giải quyết vấn đề Campuchia và việc cải thiện mối quan hệ Trung-Việt. Tiền Kỳ Tham nói, ý kiến của phía Trung Quốc đã trình bày trong cuộc trao đổi là ý kiến của Trung ương chúng tôi, đồng chí Đinh Nho Liêm hãy về báo cáo lại với ban lãnh đạo Việt Nam, đồng thời xem xét thật kỹ lưỡng. Trung-Việt có tình hữu nghị truyền thống, lại là nước láng giềng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, Trung Quốc đã góp sự hy sinh dân tộc. Nhưng những chuyện phát sinh sau này, đã tạo nên vấn đề giữa hai nước, kéo dài tới 10 năm trời. Tiền Kỳ Tham nói, xu thế của cục diện quốc tế hiện nay là hòa hoãn và đối thoại, nhằm chấm dứt các xung đột khu vực. Các nước đều phải dồn sức mạnh vào xây dựng kinh tế, hy vọng nhân dân Việt Nam cũng được sống một cuộc sống hòa bình, xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh. Chính vì thế, chúng tôi giữ thái độ hoan nghênh đối với việc Việt Nam quyết định rút quân khỏi Campuchia vào trước tháng 9 năm nay, hy vọng rằng quyết định từ phía Việt Nam sẽ được thực hiện một cách thực sự. Cuộc trao đổi nội bộ lần này đã đạt được nhiều điểm chung.
Về vấn đề nội bộ của Campuchia, tất nhiên cần do bốn bên Campuchia tự giải quyết, với điều kiện không có bên ngoài can thiệp. Nhưng với tư cách là nước đương sự, Việt Nam cùng với các nước có liên quan trực tiếp tới vấn đề Campuchia, như Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan, cần có chủ trương rõ ràng về vấn đề này, đó là sau khi quân đội nước ngoài rút quân và chấm dứt viện trợ từ nước ngoài, Campuchia cần thực hiện liên hợp bốn bên, thực hiện hòa giải dân tộc, không được để xảy ra nội chiến và hỗn loạn, đây là một vấn đề hết sức quan trọng. Các nước có liên quan đều cần giữ thái độ tích cực và mang tính xây dựng, Việt Nam lại càng phải như vậy. Trung Quốc không gây khó dễ cho Việt Nam, những cũng mong Việt Nam cần có thành ý. Cuộc trao đổi lần này đã có được sự khởi đầu tốt đẹp, nên tiếp tục. Có những vấn đề phía Trung Quốc còn phải chuẩn bị thêm. Hoan nghênh đồng chí Đinh Nho Liêm tới Bắc Kinh sau một thời gian ngắt quãng. Tiền Kỳ Tham nhờ Đinh Nho Liêm chuyển lời thăm hỏi của mình tới Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, nói rằng đã nhận được thư của Nguyễn Cơ Thạch. Tiền Kỳ Tham nói, đúng như trong lời phúc đáp từ phía Trung Quốc, cuộc gặp mặt cấp bộ trưởng giữa hai bên còn nhiều công việc chuẩn bị cần làm, chỉ khi vấn đề Campuchia có tiến triển, thì mới có thể xem xét được. Nếu như những phương diện cơ bản trong vấn đề Campuchia đã được giải quyết, thì việc cải thiện và bình thường hóa quan hệ Trung-Việt sẽ là kết quả đương nhiên.
Đinh Nho Liêm cảm ơn cuộc tiếp kiến của Tiền Kỳ Tham, đồng thời chuyển lời thăm hỏi của Nguyễn Cơ Thạch đến Tiền Kỳ Tham. Đinh Nho Liêm nhấn mạnh, giải quyết sớm vấn đề Campuchia và thực hiện bình thường hóa quan hệ Việt-Trung, tập trung lực lượng vào xây dựng kinh tế là một chiến lược lâu dài của Việt Nam. Thông qua cuộc trao đổi lần này, hai bên tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, đã có được sự nhất trí ở rất nhiều phương diện. Tất nhiên vẫn còn có những bất đồng. Phía Việt Nam sẵn sàng nhìn về phía trước, mong muốn tiếp tục được trao đổi ý kiến với phía Trung Quốc. Bản thân ông sẵn sàng tới Bắc Kinh bất cứ lúc nào để giải quyết tốt những vấn đề chưa đi đến sự cảm thông.
Trong cuộc họp toàn thể cuối cùng vào ngày 18, Đinh Nho Liêm đánh giá cuộc trao đổi lần này là “một bước mang tính đột phá” trong quan hệ Việt-Trung.
  
Đinh Nho Liêm khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Đại sứ ở Liên Xô, là một nhà ngoại giao rất tinh thông lão luyện. Từ năm 1977 đến năm 1978, ông từng làm trưởng đoàn Đoàn Đại biểu Chính phủ Việt Nam tới thăm Bắc Kinh, tiến hành đàm phán về vấn đề biên giới đất liền với Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Niệm Long của Trung Quốc. Tôi đã tham gia cuộc đàm phán lần ấy với tư cách là phiên dịch và thư ký. Trong bối cảnh quan hệ giữa hai nước khi đó, ngôn từ đàm phán của hai bên đều không tránh khỏi quá nặng nề. Nhưng 10 năm sau, Đinh Nho Liêm lại trở nên cẩn trọng và chừng mực khác thường, đi đến đâu cũng tỏ ra hết sức nhã nhặn, như chuyến đến Bắc Kinh lần này.
Ngày đến Bắc Kinh, khi tôi theo ông đi vào sảnh phòng nghỉ của sân bay thủ đô cũ, chỉ thấy ông nhẹ nhàng cởi áo khoác ngoài treo lên giá, sau đó lấy từ trong túi bộ Âu phục ra một chiếc lược, chải đầu cho thật ngay ngắn rồi mới bước vào phòng nghỉ để gặp Lưu Thuật Khanh và những người cùng đi. Trong buổi dạ tiệc do Lưu Thuật Khanh tổ chức, Đinh Nho Liêm rất chú ý thể hiện bộ dạng thoải mái và tươi tắn. Ông còn tự giới thiệu mình rất thích thơ Đường, rồi ngâm ngay tại chỗ mấy câu thơ của Thôi Hộ “Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng, Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong”. Trong cuộc trao đổi, tuy không đồng ý với một vài ý kiến nào đó từ phía Trung Quốc, ông không phản bác lại ngay trước mặt, mà kiên nhẫn lắng nghe, rồi nói sẽ về báo cáo lại với lãnh đạo trong nước.
Khi ấy, Hàn Niệm Long đã lui xuống từ cương vị Thứ trưởng, sang giữ chức Hội trưởng Học hội Ngoại giao. Để biểu thị sự đối đãi thân thiện và lịch sự, trưa ngày 19, Hàn Niệm Long đã đứng ra mời đoàn Đinh Nho Liêm tới thưởng thức món vịt quay ở tiệm vịt quay Toàn Tụ Đức trước cổng chính. Đinh Nho Liêm khi nhìn thấy đối thủ đàm phán Hàn Niệm Long từ 10 năm trước, đã chạy ngay đến ôm ông. Đoàn Đinh Nho Liêm rời Bắc Kinh vào ngày 20, đi qua Thâm Quyến, Hongkong rồi về nước. Trương Thanh và tôi cùng Cao Đức ở Vụ Á châu đã cùng đi theo đoàn tới Thâm Quyến tham quan thăm hỏi. Tại Thâm Quyến, Đinh Nho Liêm nắm chặt hai cánh tay tôi nói: “Hãy tin rằng chúng tôi nhất định sẽ rút hết quân khỏi Campuchia”.  
Bình thường hóa quan hệ
Đầu tháng 9 năm 1990, Tổng Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Phạm Văn Đồng, theo lời mời đã tới Thành Đô, Tứ Xuyên, tổ chức cuộc gặp mặt nội bộ với Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, tổ chức cuộc gặp mặt cấp cao về các giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và vấn đề quan hệ Trung-Việt, đã có được sự đồng nhận thức quan trọng, trải phẳng con đường bình thường hóa quan hệ hai nước. Khi kết thúc cuộc gặp mặt, Giang Trạch Dân đã dẫn hai câu thơ của nhà thơ đời Thanh Giang Vĩnh là “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại/ Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu”(1). Để đáp lại, Nguyễn Văn Linh tối đó đã viết 4 câu thơ: “Huynh đệ chi giao sổ đại truyền/ Oán hận khuynh khắc hóa vân yên/ Tái tương phùng thời tiếu nhan triển/ Thiên niên tình nghị hựu trùng kiến” (2).
Tháng 11 năm 1991, Tổng bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt theo lời mời đã chính thức đi thăm hữu nghị Trung Quốc, tiến hành hội đàm với Giang Trạch Dân và Lý Bằng, công bố thông cáo chung giữa hai bên, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Gần 20 năm nay kể từ lúc đó, với sự nỗ lực chung của hai bên, sự giao lưu và hợp tác trong nhiều lĩnh vực giữa hai nước đã không ngừng phát triển và đi vào chiều sâu, sự tin cậy lẫn nhau dần dần tăng lên.
Tháng 2 năm 1999, trong thời gian Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tới thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước đã ra “Tuyên bố chung”, xác định phương châm 16 chữ chỉ đạo sự phát triển lành mạnh mối quan hệ Trung-Việt ở thế kỷ mới, đó là  ”Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai“. Sau đó, lãnh đạo hai nước còn xác định thêm mục tiêu nỗ lực của hai nước và nhân dân hai nước, đó là vĩnh viễn trở thành “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Đương nhiên giữa hai bên vẫn còn tồn tại một số bất đồng và tranh cãi. Tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Ôn Gia Bảo khi tham dự Hội nghị thường niên Diễn đàn Châu Á Bác Ngao, đã nói với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, vấn đề Nam Hải (tức Biển Đông) là vấn đề lịch sử cuối cùng tồn đọng, còn chưa được giải quyết giữa hai nước Trung-Việt. Hai bên phải nhìn xa trông rộng, xuất phát từ đại cục, tích cực duy trì sự ổn định ở Nam Hải, đẩy mạnh sự hợp tác hai bên cùng có lợi, tranh thủ tiến những bước đi tích cực trong việc đồng khai thác ở Nam Hải. Tin tưởng rằng, với nỗ lực chung của hai bên, trong những năm tháng sắp tới, mối quan hệ láng giềng tốt đẹp giữa hai nước Trung-Việt sẽ phát triển theo hướng ổn định hơn.
Nguồn:  Mạng tin tức Trung Quốc Đảng Cộng sản
Bản tiếng Việt © Vsk 2012

Ghi chú:
(1) Tạm dịch: Trải qua  cơn sóng gió/ tình anh em vẫn còn/ Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù.
(2) Tạm dịch: Anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ/ Oán hận trong khoảnh khắc đã biến thành mây khói/ Khi gặp lại nhau cười rạng rỡ/ Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại.

155. Quan hệ Việt – Trung: Thực tế bẽ bàng hơn nhiều

Thông luận

Quan hệ Việt – Trung: Thực tế bẽ bàng hơn nhiều 

Nguyễn Gia Kiểng
Thứ Năm, 30 – 8 – 2012
“…Nếu ở Việt Nam có một người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc thì người đó chính là Lê Đức Anh…”
Giờ này, khi mà nhiều người nghĩ và tin rằng Việt Nam chỉ còn một chọn lựa là ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc và nhanh chóng tiến đến thế đồng minh chiến lược với Hoa Kỳ và các nước dân chủ, chúng ta cần nhận định lại quan hệ Việt Trung một cách chính xác hơn. Lý do là vì sự thực còn phũ phàng hơn nhiều người nghĩ. Và nếu quá khứ có khả năng tiết lộ những gì có thể sẽ tới thì chúng ta phải rất cảnh giác nếu không muốn hụt hẫng một lần nữa.
Cho tới nay, theo cái nhìn của nhiều người, Trung Quốc, sau khi thất bại trong chiến tranh biên giới 1979,  đã cố lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ và đã thành công; Đại Hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã là một bước đổi mới đầy hy vọng không may bị khựng lại và đảo ngược; Nguyễn Văn Linh là con người của một cách canh tân dang dở; trong nội bộ ĐCSVN đã có đấu tranh giữa hai phe canh tân thân phương Tây và bảo thủ thân Trung Quốc và sau cùng phe bảo thủ đã thắng v.v. Nhưng sự thực rất khác.

  Cái nhìn này không giải thích được một cách thuyết phục tại sao ĐCSVN đã có thể đổi hẳn chính sách đối với Trung Quốc từ thế tử thù sang thế chư hầu ngoan ngoãn mà không gây ra một chấn động lớn, bằng cớ là cho đến nay ít người có thể nói một cách quả quyết ĐCSVN đã quyết định thay đổi thái độ đối với Trung Quốc vào lúc nào, hay tại sao mặc dù Việt Nam hết sức chiều lòng Trung Quốc mà Trung Quốc lại cứ tiếp tục hạ nhục và chèn ép Việt Nam. Lý do là vì nó vẫn nằm trong một logic bình thường theo đó mọi chính quyền trước hết mưu tìm quyền lợi cho đất nước mình, họ có lầm lẫn hay không là chuyện khác. Logic này không đúng trong trường hợp của quan hệ Việt – Trung  như chúng ta sẽ thấy.
Nhìn lại quan hệ Việt – Trung đòi hỏi một phân tích thấu đáo những gì đã xảy ra, điều này không dễ vì sự đảo ngược quan hệ Việt Trung đã diễn ra một cách bí mật trong nội bộ của nhóm cầm quyền cao nhất trong đảng cộng sản, nghĩa là bộ chính trị (BCT) và ban bí thư (BBT), ngay cả tuyệt đại bộ phận đảng viên cao cấp cũng không biết. Hơn nữa nó lại chủ yếu được quyết định qua những thảo luận miệng trong tập đoàn lãnh đạo mà các biên bản hoặc không có hoặc vẫn còn được giữ kín. Trong hoàn cảnh đó ta chỉ có thể dựa vào hồi ký của những người trong cuộc cuối đời hoặc có những tâm sự muốn nói ra hoặc có những ân oán giang hồ muốn thanh toán.
Tập Hối Ức và Suy Nghĩ của Trần Quang Cơ là một tài liệu quí. Ít ai có điều kiện để theo dõi biến chuyển trong quan hệ Việt – Trung bằng ông. Ông chủ trì nhóm CP87 một nhóm nghiên cứu chiến lược đối ngoại của đảng vào giai đoạn chuyển hướng này. Ông cũng là thứ trưởng đặc trách vấn đề Campuchia, vấn đề gai góc nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc vào lúc đó. Ông đại diện Việt Nam đàm phán với đại diện Trung Quốc Từ Đôn Tín vào tháng 6-1990, cuộc đàm phán gay go cuối cùng trước khi chính quyền cộng sản Việt Nam thực sự đầu hàng, đúng ra là được Trung Quốc cho phép hàng phục. Quan trọng hơn, Trần Quang Cơ là một trong những người hiếm hoi có kiến thức về thế giới và bang giao quốc tế, một khả năng mà không ai trong số những lãnh tụ cộng sản cao nhất có. Tuy vậy ông Cơ chỉ là một người thừa hành ngoan ngoãn. Nếu đôi khi ông có những tâm sự u uất thì đó cũng chỉ là những trăn trở của một tôi trung. Trần Quang Cơ không có cái nhìn của người lấy quyết định, do đó ông quan tâm trước hết đến những gì thuộc phần nhiệm của mình. Vì vậy trong hồi ký này các sự kiện không được chọn lựa và sắp xếp theo tầm quan trọng đối với chính sách đối ngoại mà theo tầm quan trọng của chúng đối với cá nhân ông. Ông kể khá chi tiết những thảo luận về giải pháp Campuchia và những cuộc phỏng vấn của ông với các báo dù chúng chỉ có một giá trị rất tương đối nếu ta muốn tìm hiểu động cơ và não trạng của những người quyết định chính sách của Việt Nam vào lúc đó. Những điều Trần Quang Cơ kể lại vì vậy cần được hội nhập vào dòng thời sự của cả một giai đọan dài mới có giá trị giải thích và soi sáng.
Trước hết hãy nhìn lại một cách tổng quát quan hệ Việt Trung.
Một cách ngắn gọn có thể nói cho tới cuối thâp niên 1960 ĐCSVN đã giữ được thế cân bằng của một đứa em ngoan giữa anh cả Liên Xôanh hai Trung Quốc, dù có phần gần với Trung Quốc hơn vì lúc đó Liên Xô không khuyến khích cuộc chiến chinh phục miền Nam mà ĐCSVN coi là mục tiêu sống còn. Năm 1957 Liên Xô còn đề nghị cho cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Nhóm “xét lại chống đảng” chung quanh ông Hoàng Minh Chính đã bị đàn áp thẳng tay vì bị tình nghi là theo đường lối “xét lại” của Khruchev. Tuy vậy sau khi triệt hạ xong nhóm bị coi là thân Liên Xô này, ban lãnh đạo ĐCSVN, đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, vẫn duy trì quan hệ mật thiết với Liên Xô. Thế cân bằng này đã dần dần thay đổi sau khi Brezhnev lên thay Khruchev (tháng 10-1964) và chọn đường lối cứng rắn hơn trong chiến tranh lạnh, trong khi Trung Quốc suy yếu vì những tranh chấp nội bộ mà cao điểm là cuộc “Đại Cách Mạng Văn Hóa” không còn khả năng để yểm trợ đắc lực cuộc “chiến tranh giải phóng miền Nam” của Hà Nội nữa. Sang đầu thập niên 1970, khi xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô trở thành dữ dội và Trung Quốc rõ ràng tìm cách bắt tay với Hoa Kỳ  (Kissinger bí mật sang Bắc Kinh tháng 6-19971 chuẩn bị cho Nixon sang thăm Trung Quốc tháng 2-1972 mà kết quả là Tuyên Ngôn Thượng Hải mở đầu tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước), Hà Nội chọn đứng hẳn về phía Liên Xô, và quan hệ Việt Trung dần dần chuyển từ bạn sang thù. Năm 1976 Đảng Cộng Sản Trung Quốc không gửi phái đoàn tham dự Đại Hội  IV của ĐCSVN. Nước Việt Nam thống nhất chọn toàn bộ mô hình tổ chức Đảng và Nhà Nước của Liên Xô. Trung Quốc xúi dục và hỗ trợ chính quyền Khmer Đỏ gây chiến với Việt Nam, Việt Nam đem quân đánh đổ chế độ Pol Pot tháng 12-1978, một tháng sau khi gia nhập khối COMECON và ký xong hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô. Trung Quốc đem quân tấn công tàn phá các tỉnh biên giới phía Bắc để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Các báo đài của hai bên mạt sát nhau thậm tệ. Trung Quốc bới móc đời tư để bôi bẩn Hồ Chí Minh trong khi Việt Nam lố bịch hóa Mao Trạch Đông như một bạo chúa quê mùa lỗ mãng không tắm, không đánh răng, khạc nhổ bừa bãi và mắc bệnh tim la. Nhân dân hai nuớc được huy động để xuống đường lên án đối phương hàng ngày. Chính quyền CSVN xua đuổi người Việt gốc Hoa.
Năm 1980 hiến pháp Việt Nam được sửa đổi để thêm vào lời nói đầu một đoạn tuyên chiến với Trung Quốc. Trong đại hội đảng V, tháng 3-1982, bản điều lệ của ĐCSVN cũng được sửa đổi với lời nói đầu đề cao cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung như một chiến công lịch sử oanh liệt. Nguyễn Văn Linh, người có công lớn trong cuộc “chiến tranh giải phóng miền Nam” bị loại khỏi bộ chính trị vì lập trường thân Trung Quốc. Nhiều công thần bị loại chỉ vì có tội là người Việt gốc Hoa. Chiến tranh biên giới giữa hai nước vẫn tiếp tục. Thế thù địch đạt đến cực điểm.
Thế rồi, một cách lặng lẽ nhưng nhanh chóng và quả quyết, tình thế đã thay đổi hẳn. Việt Nam trở thành một chư hầu khép nép của Trung Quốc. Thay đổi đã diễn ra như thế nào và vào lúc nào?
Mặc dù tình hữu nghị Việt – Trung đã nhạt dần và hầu như không còn gì vào thời điểm Đại Hội IV tháng 12-1976 nhưng ngòi nổ đã đưa đến xung đột vũ trang giữa hai nước là cuộc chiến Campuchia trong đó cả hai bên đều có những mưu tính không thú nhận. Cuộc chiến khởi đầu tháng 4-1977 khi quân Khmer Đỏ, với sự hỗ trợ và xúi dục của Trung Quốc, tấn công các tỉnh biên giới phía Tây Nam. Cuối năm 1978 Việt Nam đem quân đánh chiếm Campuchia, lập nên chính quyền Heng Samrin – Hun Sen và chỉ rút quân năm 1989 trước áp lực quốc tế, đặc biệt là áp lực Trung Quốc.
Với thời gian người ta có thể nhận thấy là vào thời điểm 1977 chế độ Pol Pot là một gánh nặng cho Trung Quốc vào lúc mà Đặng Tiểu Bình muốn tìm kiếm sự hợp tác của Hoa Kỳ và các nước dân chủ. Chế độ diệt chủng Pol Pot quá hung bạo và bị cả thế giới lên án như một bọn quỉ sứ, nhưng nó cũng là một chư hầu của Trung Quốc và vì thế nó khiến Trung Quốc cũng bị lên án lây. Còn gì tốt hơn cho Trung Quốc là chế độ Pol Pot bị Việt Nam tràn ngập? Trung Quốc bớt được một gánh nặng và Việt Nam, kẻ thù đáng ghét nhất của Trung Quốc, bị thế giới nhìn như một mối nguy cho vùng Đông Nam Á và bị cô lâp. Ngược lại chế độ CSVN cũng muốn đánh gục chính quyền Pol Pot và dựng lên một chính quyền chư hầu tại Campuchia. Lúc đó những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang say men chiến thắng. Họ đặt điều kiện để cho phép Mỹ được bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Họ tưởng mình vĩ đại, chủ nghĩa Mác-Lênin nhất định toàn thắng và sắp toàn thắng đến nơi, chủ nghĩa tư bản đang dẫy chết. Ý đồ tái lập Liên Bang Đông Dương như một không gian Việt Nam nới rộng là có thực chứ không phải chỉ là một bịa đặt vu khống của Trung Quốc, dù danh xưng “Liên Bang Đông Dương” không được sử dụng. Trong những năm kế tiếp cuộc xâm lăng Campuchia không ngày nào các báo đài Việt Nam không đưa tin về “ba nước Đông Dương”. Một định chế được thành lập và thường được nhắc tới là “Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương”. Cụm từ “ba nước Đông Dương” được đưa vào lời nói đầu của hiến pháp 1980 cùng cụm từ “bọn bá quyền Trung Quốc”. Một danh xưng được đề nghị lúc đó là KALAVI (Kampuchia, Lào, Việt Nam) để chỉ thực thể bao gồm ba nước thay cho cụm từ Đông Dương.
Chính sách khôn ngoan cho Việt Nam vào lúc đó là chỉ đẩy lùi và đánh tê liệt quân Khmer Đỏ nhưng không tràn vào chiếm đóng Campuchia. Như thế Trung Quốc sẽ không khạc được khúc xương Khmer Đỏ và sẽ tiếp tục bị thế giới lên án như là quan thày của chế độ diệt chủng gớm ghiếc Pol Pot. Nhưng chính sách này ban lãnh đạo ĐCSVN không hề nghĩ đến. Họ đang say men chiến thắng và tự đặt cho mình sứ mạng cao cả là làm đội tiên phong kiên cường của phong trào cộng sản thế giới do Liên Xô lãnh đạo mà theo họ thắng lợi đã gần kề. Hơn nữa họ cũng tin một cách mù quáng vào sức mạnh của Liên Xô và họ tin Liên Xô thừa sức che chở cho họ. Tháng 11-1978 Việt Nam gia nhập khối COMECON và ký hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô, một tháng sau quân Việt Nam tràn vào Campuchia. Các biến cố kế tiếp nhau theo một kế hoạch. Vào thời điểm này tuy kinh tế Việt Nam  đang suy sụp bi đát – trong các tiệm ăn người ta cân từng bát cơm – và Hoa Kỳ không còn sẵn sàng bình thường hóa quan hệ ngoại giao không điều kiện nữa, nhưng niềm tin vào “chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng” vẫn còn nguyên vẹn vì ảnh hưởng của Liên Xô vừa mở rộng một cách ngoạn mục. Trong vòng năm năm, từ 1975 đến 1980, một loạt quốc gia theo nhau rơi vào quỹ đạo Liên Xô -Việt Nam, Lào, Somalia, Yemen, Ethiopia, Granada, Nicaragua, Angola, Afghanistan… Chính sự phình to này đã khiến Liên Xô kiệt quệ và sụp đổ nhanh chóng sau đó nhưng trong nhất thời nó khiến ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam mê cuồng đến mất trí. Trong khi đó Trung Quốc dưới Đặng Tiểu Bình, ngược lại, dồn mọi cố gắng để tranh thủ sự hợp tác của phương Tây và khai thác triệt để thái độ hung hăng đắc thắng của Việt Nam để xuất hiện như một lực lượng bảo vệ hòa bình tối cần thiết tại Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình không ngần ngại tuyên bố “Trung Quốc là NATO ở phương Đông, Việt Nam là Cuba ở phương Đông”. Thực tế đã cho thấy Trung Quốc khôn ngoan bao nhiêu thì Việt Nam khờ dại bấy nhiêu. Khi Trung Quốc tấn công Việt Nam tháng 2.1979, trừ Liên Xô và một vài đồng minh, thế giới gần như cho rằng đây là hành động đúng và cần thiết.
Trung Quốc không phải chỉ đã tấn công để “dạy cho Việt Nam một bài học” rồi thôi. Quân Trung Quốc vẫn còn liên tục tấn công vào Việt Nam sau đó. Đã có hai đợt tấn công lớn sau 1980, đợt đầu trong hai tháng 1 và 2.1982, đợt sau trong từ tháng 4 đến tháng 7.1984. Đợt sau cùng này đặc biệt dữ dội, trong đó có trận Lão Sơn (hay Cao Điểm 1509, thuộc huyện Vị Xuyên, Hà Giang). Nhiều tài liệu Trung Quốc nói rằng ba quân đoàn của họ đã đánh lui và gây thiệt hại nặng cho ba sư đoàn Việt Nam trong trận này. Lão Sơn ngày nay đã thuộc về Trung Quốc. Trận này được nhớ tới như là một chiến công lớn của quân đội Trung Quốc. Ngay sau trận đánh tổng bí thư Hồ Diệu Bang đã đến khen thưởng binh sĩ Trung Quốc. Trong Thế Vận Bắc Kinh 2008 trường đua xe đạp được đặt tên là Lão Sơn. Hoàn cảnh Việt Nam lúc đó hoàn toàn tuyệt vọng, kinh tế sụp đổ, sa lầy tại Campuchia và bị cả thế giới lên án. Liên Xô đã không cứu giúp còn khuyên Việt Nam nên  hòa với Trung Quốc. Lúc đó chính Liên Xô cũng đang tìm cách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc – các cuộc thương luợng giữa hai bên đã bắt đầu từ năm 1982 – nên không thể có vấn đề Liên Xô giúp Việt Nam đánh nhau với Trung Quốc. Hơn nữa, tình trạng bi đát của Liên Xô ngày càng rõ rệt: kiệt quệ về kinh tế, sa lầy về quân sự tại Afghanistan và chao đảo ngay trong nội bộ. Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagan đang phục hồi một cách ngoạn mục và quả quyết đánh sụp Liên Xô. Reagan thản nhiên gọi Liên Xô là “Đế Quốc Ác Quỷ” (Evil Empire) và thách thức chạy đua võ trang trong khi Liên Xô đã kiệt quệ. Trong các nước vừa lọt vào quỹ đạo Liên Xô các lực lượng chống cộng phản công dữ dội và ngày càng thắng thế. Andropov, kế vị Brezhnev từ tháng 11.1982, nhìn nhận tình trạng nguy ngập và tuyên bố nhu cầu cải tổ toàn diện, điều mà sau đó Gorbachev sẽ làm nhưng cũng không cứu được Liên Xô. Phải hiểu rằng ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã rất hốt hoảng. Cũng cần phải nói lại rằng chiến tranh biên giới hoàn toàn không phải là một chiến thắng cho Việt Nam. Trong cả ba đợt tấn công Việt Nam đã tổn thất hơn hẳn Trung Quốc; trong đợt cuối cùng trận Lão Sơn là một thất bại nặng cho Việt Nam. Cái ảo tưởng chiến thắng chỉ là một sản phẩm tuyên truyền của chính quyền CSVN. Trung Quốc đã không cải chính tuyên truyền này vì nó có tác dụng che giấu sự kiện họ lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam: Việt Nam thắng trận thì không thể mất đất. Nhưng sự thực là Việt Nam đã mất nhiều đất, trong đó có Lão Sơn, Bản Giốc, Nam Quan. Có thể lấy tháng 7.1984 như là thời điểm mà Hà Nội , sau khi thua trận Lão Sơn, không còn sức để phản công và cũng không còn chỗ dựa Liên Xô, đã quyết định cầu hòa với Trung Quốc.
Và sự hàng phục đã diễn ra một cách rất thành khẩn. Ngôn ngữ chống Trung Quốc biến mất trong diễn văn của các lãnh tụ hàng đầu, sau đó trên các báo, đài Việt Nam. Tháng 6.1985, Nguyễn Văn Linh, con người đã thất sủng vì thân Trung Quốc, được đưa trở lại bộ chính trị, để rồi một năm sau trở thành thường trực ban bí thư, nghĩa là nhân vật thứ 2 trong đảng, nhưng thực tế là nhân vật toàn quyền vì Lê Duẩn đã chết, Trường Chinh đã già nua lỗi thời. Lê Đức Thọ, người kiểm soát bộ máy đảng không còn chọn lựa nào khác là ủng hộ Nguyễn Văn Linh. Một năm sau ông Linh trở thành tổng bí thư sau Đại Hội VI. Phải hiểu rằng đây là sự hàng phục chúng ta mới giải thích được thái độ quỵ lụy của ĐCSVN đối với Trung Quốc sau đó.
Còn một chọn lựa khác cho ĐCSVN là quả quyết hòa giải với Hoa Kỳ và sáp lại với các nước dân chủ để được bảo vệ bởi công pháp quốc tế và để phát triển đất nước qua trao đổi và hợp tác với các nước giầu mạnh, nhưng chọn lựa này, vào thời điểm đó và cho tới hết thập niên 1980 không một lãnh tụ cộng sản Việt Nam nào nghĩ đến. Một lý do là vì những vết thương của cuộc chiến và của chính sách tiếp thu miền Nam vẫn còn quá mới, đảng cộng sản đã đi quá xa trong thái độ huênh hoang đắc thắng, nhiều sĩ quan và viên chức miền Nam vẫn còn trong các trại cải tạo, thế giới vẫn còn xúc động vì làn sóng thuyền nhân. Nhưng đây không phải là lý do chính.
Lý do chính là tất cả các lãnh tụ cộng sản lúc đó, không trừ môt ngoại lệ nào, đều tin một cách cuồng nhiệt vào chủ nghĩa Mác-Lênin và thù ghét dân chủ. Trong mọi trường hợp họ chỉ tìm kiếm những giải pháp trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin. Với logic này một khi không dựa vào Liên Xô được nữa thì chỉ còn một con đường là theo Trung Quốc. Đặc điểm chung của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam là họ rất thiếu văn hóa, họ chỉ biết có một chủ nghĩa Mác-Lênin mà họ học một cách cung kính như một giáo lý chứ không phải một cách có phê phán như một tư tưởng chính trị. Đối với họ chủ nghĩa Mác-Lênin là một tín ngưỡng tuyệt đối. Đã thế họ còn trưởng thành trong chiến tranh và được huấn luyện để không bao giờ thắc mắc về đường lối và mệnh lệnh. Đặc tính của những người thiếu văn hóa là họ thường có những xác quyết chắc nịch không thể thay đổi. Các lãnh tụ cộng sản lúc đó đều coi bảo vệ chủ nghĩa xã hội là bổn phận trước hết và trên hết. Kể cả ông Nguyễn Cơ Thạch, con người hiểu biết và sáng suốt nhất trong các thành viên bộ chính trị. Ông Thạch chỉ chủ trương mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ và các nước phương Tây để đừng quá cô lập và bị Trung Quốc bắt chẹt chứ ông không hề nghĩ là phải kết bạn với những nước  này. Ông Trần Quang Cơ thuật lại lời phát biểu của ông Thạch trong một cuộc thảo luận tháng 5.1987  của tổ CP87:  “Phải thỏa thuận cả với Mỹ, chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc là không đúng.”  Ý kiến này, theo ông Cơ, là một ý kiến động trời vào lúc đó, vì nói tới quan hệ với các nước phương Tây là một điều húy kỵ. Còn chính ông Trần Quang Cơ? Cuốn “Hồi ức và suy nghĩ” của ông có thể khiến người đọc nghĩ rằng ông là một người rất cởi mở, nhưng trong báo cáo trình bộ chính trị vào năm 1993 ông vẫn coi “diễn biến hòa bình”, nghĩa là chuyển hóa về dân chủ, như một mối nguy và tới năm 2000, khi viết những dòng cuối cùng của cuốn sách, ông vẫn thấy lập trường này “xem ra chưa phải đã lỗi thời”. Quan điểm của ông Cơ đáng chú ý ở chỗ ông không phải là thành viên bộ chính trị hay ban bí thư, ông chỉ là một người thừa hành và một chuyên gia và do đó có thể nói thực những gì mình nghĩ. Chính vì thế mà những gì ông nói phản ánh một cách thực thà “não trạng cộng sản” lúc đó.
Người duy nhất trong số các lãnh đạo cấp cao dám có lập trường đổi mới mạnh dạn, dù muộn màng, là ông Trần Xuân Bách. Ông là thành viên của cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và phát biểu lập trường đa nguyên đa đảng trong một bài nói chuyện tại trường đảng Nguyễn Ái Quốc tháng 1 năm 1990. Ngay sau đó ông bị kỷ luật, khai trừ khỏi cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và cả trung ương đảng.
Có lẽ chỉ trừ ông Trần Xuân Bách tất cả bộ chính trị đều tán thành đường lối cầu hòa với Trung Quốc. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ có những người, như Nguyễn Cơ Thạch, muốn đa dạng hóa quan hệ để đừng bị cô lập và chèn ép; có những người chấp nhận phục tùng Trung Quốc nhưng vẫn còn ấm ức như Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, còn đa số hầu như không có tâm sự nào cả.
Riêng hai ông Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh thì không những chỉ chấp nhận mà còn tỏ ra rất nhiệt tình với lập trường qui phục Trung Quốc không điều kiện. Nguyễn Văn Linh vốn là một người thân Trung Quốc và đã từng bị loại khỏi bộ chính trị trong Đại Hội V, năm 1982. Trong cuộc gặp gỡ với tổng bí thư đảng cộng sản Lào Kaysone Phomvihan tháng 10.1989, Đặng Tiểu Bình trong khi phê phán nặng lời Lê Duẩn đã hết lời ca tụng Nguyễn Văn Linh, nhắc lại năm 1963 đã tổ chức đưa ông Linh sang Bắc Kinh qua ngả Hồng Kông để gặp Đặng. Việc ông trở lại bộ chính trị rồi ngay sau đó lên làm tổng bí thư đánh đấu sự toàn thắng của khuynh hướng cầu hòa với Trung Quốc. Trong tất cả mọi phát biểu của Nguyễn Văn Linh lập trường trước sau như một là phải bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc bằng mọi giá. Câu nói quen thuộc của ông là: “Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu của đế quốc Mỹ xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng nhau chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau”. Lê Đức Anh cũng hăng say không kém Nguyễn Văn Linh trong lập trường qui phục Trung Quốc. Nhân vật Lê Đức Anh đặc biệt ở chỗ là ông đã được thăng thưởng rất nhanh chóng trong giai đoạn thù địch với Trung Quốc – từ đại tá lên đại tướng bộ trưởng quốc phòng và ủy viên bộ chính trị trong vài năm – nhưng lại đột ngột trở thành thân Trung Quốc sau khi Nguyễn Văn Linh trở lại cầm quyền, có lẽ là vì hai người đã thân nhau từ giai đoạn cùng chỉ huy cuộc chiến tại miền Nam. Từ khi Nguyễn Văn Linh trở lại Lê Đức Anh hoàn toàn rập khuôn theo ông Linh trong thái độ đối với Trung Quốc. Đôi khi Lê Đức Anh còn tỏ ra thù ghét “đế quốc Mỹ” và ngưỡng mộ Trung Quốc hơn cả Nguyễn Văn Linh. Thí dụ như khi sang Phnom Penh, cùng với Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười, để thuyết phục chính quyền Hun Sen chấp nhận cái mà Hà Nội gọi là “giải pháp Đỏ” ông nói: “Mỹ muốn xóa cộng sản. Nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất, phải tìm đồng minh, đồng minh là Trung Quốc”. Nhờ lập trường này và sự hỗ trợ của Nguyễn Văn Linh mà Lê Đức Anh gần như trở thành nhân vật quyền lực thứ nhì trong chế độ. Tuy chỉ là quân nhân và hoàn toàn không biết gì về bang giao quốc tế ông lấn át cả ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong chính sách đối ngoại.
Ông Trần Quang Cơ thuật lại rằng trước khi ông đàm phán với đại diện Trung Quốc Lê Đức Anh đã gọi ông cho chỉ thị và ông đã nghe lời khiến ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải hỏi gằn một cách bực bội: “Vậy đồng chí theo ý kiến bộ trưởng quốc phòng hay bộ trưởng ngoại giao?”. Trong Đại Hội VII năm 1991 tuy phải nhường chức tổng bí thư cho Đỗ Mười nhưng quyền lực của ông cũng ngang ngửa với tổng bí thư. Ông là uỷ viên thường trực bộ chính trị kiêm bí thư trung ương phụ trách ba ngành quốc phòng, ngoại giao và an ninh, đồng thời là chủ tịch nước. Tại sao ông phải ôm cả ngoại giao và an ninh nếu không phải là để đảm bảo rằng chính sách phục tùng Trung Quốc vẫn tiếp tục và để bóp nghẹt những tiếng nói phản đối? Trong dịp đại hội 11 năm trước Lê Đức Anh, dù đã 91 tuổi, bỗng nhiên tái xuất hiện kêu gọi ủng hộ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và lên án ông Nguyễn Phú Trọng là “tay sai Trung Quốc”. Khi được một người bạn trong nước báo tin và hỏi ý kiến tôi đã trả lời: “Đừng nên lấy thái độ, nếu ở Việt Nam có một người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc thì người đó chính là Lê Đức Anh”. Sau lưng Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh là những người hoặc ủng hộ tận tình lập trường hàng phục Trung Quốc hoặc chống Mỹ kịch liệt và do đó phải chấp nhận cầu hòa với Trung Quốc.
Tới đây cần giải tỏa một số lấn cấn và hiểu lầm.
Điều đáng lưu ý là cách suy nghĩ rất lạ của những người lãnh đạo cộng sản mà một cách vô tình cuốn hồi ký của Trần Quang Cơ mô tả khá rõ. Họ không lý luận một cách bình thường như người ta có thể hình dung: Trung Quốc muốn gì, sẽ làm gì, có thể làm gì, có những điểm mạnh và điểm yếu nào, có thể giúp gì hay gây thiệt hại nào cho Việt Nam, ngược lại Việt Nam có thể bị đe dọa như thế nào và có thể làm gì v.v. Họ lý luận một cách thuần túy ý thức hệ, theo đó Trung Quốc có hai mặt, một mặt xã hội chủ nghĩa và một mặt bá quyền. Trong bảy năm trời lý luận của ĐCSVN chỉ loanh quanh xem mặt nào quan trọng hơn với kết luận sau cùng là cả hai mặt đều quan trọng. Nghị quyết 13 của bộ chính trị, ngày 25.05.1988, nhấn mạnh là “phải khắc phục những tư tưởng lệch lạc chỉ thấy Trung Quốc là bá quyền mà không thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội hay chỉ thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội mà không thấy Trung Quốc là bá quyền”.Dầu vậy mục tiêu của Đảng vẫn là “phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau”. Trong các “vấn đề khác” có vấn đề Trường Sa vì hai tháng trước đó, ngày 14.03.1988 hải quân Trung Quốc đã đánh chiếm một số đảo của Việt Nam tại Trường Sa và làm thiệt mạng hơn 60 binh sĩ Việt Nam. Cách lý luận này ngày nay nhìn lại ta có thể cho là dở hơi nhưng nó nói lên não trạng của những người lãnh đạo cộng sản vào lúc đó và nó cũng có hậu quả cụ thể là ĐCSVN chấp nhận trước những thiệt thòi và mất mát đối với Trung Quốc, vì đã chấp nhận “bình thường hóa quan hệ” dù biết trước Trung Quốc có bản chất bá quyền. Theo ông Trần Quang Cơ đây không phải là bình thường hóa quan hệ mà chỉ là lệ thuộc hóa. Vả lại, điều khó tin nhưng có thực, quyền lợi quốc gia không hề là một quan tâm của các lãnh tụ cộng sản vào lúc đó. Theo Trần Quang Cơ chỉ mãi về sau này trong cuộc họp kéo dài ba ngày của bộ chính trị từ 15 đến 17.05.1991, khi chính sách đối với Trung Quốc đã quyết định xong, câu hỏi mới được đặt ra là nên chọn đồng minh theo “lợi ích dân tộc” hay theo ý thức hệ. Và câu trả lời cũng vẫn là phải chọn đồng minh theo ý thức hệ.
Trái với một nhận định khá phổ biến, Nguyễn Văn Linh không phải là con người của của đổi mới mà là con người của Trung Quốc. Đại Hội VI, tháng 12.1986, không phải là đại hội đổi mới và một cơ hội dân chủ hóa không thành mà chỉ là đại hội của chọn lựa thần phục Trung Quốc và chống dân chủ. Cái gọi là “đổi mới” của đại hội này chỉ là rập khuôn theo mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Trung Quốc. Đại Hội VII kế tiếp là đại hội khẳng định dứt khoát sự thần phục đối với Trung Quốc, những phần tử có chút tâm sự lấn cấn với lập trường này, như Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, đều bị loại khỏi ban lãnh đạo. Các đại hội VIII và IX chỉ tiếp tục một đường lối đã thành nền nếp. Khuynh hướng đối đầu với Trung Quốc trong đảng chỉ bắt đầu xuất hiện từ đại hội X trở đi và xuất phát từ lớp đảng viên trẻ sau hai thập niên trao đổi với phương Tây, trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đã trở thành vô nghĩa và nhất là vì Trung Quốc quá xấc xược.
Cũng trái với một nhận định đã được phản ánh qua nhiều bài viết, kể cả của nhiều người dân chủ, Trung Quốc không hề có mưu mô lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ. Thực tế bẽ bàng hơn nhiều. Chính quyền cộng sản Việt Nam đã nài nỉ được phụ thuộc Trung Quốc trong khi Trung Quốc xua đuổi; họ chỉ coi ĐCSVN như một bọn bội bạc và tráo trở bị dồn vào đường cùng. Trần Quang Cơ tiết lộ: “Từ năm 1980 đến năm 1988 ta đã ngót hai mươi lần đề nghị đàm phán, Trung Quốc chỉ làm ngơ”. Đúng ra là từ 1984 trở đi, khi Hà Nội thấy là không còn dựa vào Liên Xô được nữa, như chính ông Cơ kể lại trong cuốn hồi ký. Sự khẩn khoản còn gia tăng hơn nữa sau năm 1988. Việt Nam nhiều lần cầu xin Trung Quốc giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội thay thế Liên Xô trong khi Trung Quốc trả lời dứt khoát là họ không có ý định bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Ưu tiên của họ là tranh thủ sự hợp tác và các thị trường của phương Tây để hiện đai hóa và phát triển kinh tế. Một lần đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói công khai với quan chức Việt Nam trong buổi tiếp tân của đại sứ quán Ai Cập là “Trung Quốc không chủ trương giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội về mặt đối ngoại”. Đây phải là chọn lựa rất quả quyết của Trung Quốc nên một đại sứ mới có thể nói công khai và tự nhiên như vậy. Hà Nội muốn lập lại tình anh em xã hội chủ nghĩa trong khi Trung Quốc nói thẳng là họ chỉ có thể chấp nhận một quan hệ láng giềng “thân nhi bất cận” (thân nhưng không gần). Nhu cầu hòa giải với Trung Quốc còn mạnh đến nỗi nó khiến ban lãnh đạo CSVN thúc đẩy Lào lập quan hệ với Trung Quốc để mong nhờ Lào làm trung gian đàm phán với Trung Quốc. Họ còn cố làm một điều tưởng là vừa lòng Trung Quốc trong khi Trung Quốc không những không muốn mà còn bực mình. Đó là “giải pháp Đỏ” cho Campuchia. Sau khi Gorbachev gợi ý rằng Việt Nam nên cố gắng tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc để giải quyết cuộc xung đột tại Campuchia, ban lãnh đạo Việt Nam bèn nghĩ ra “giải pháp Đỏ”, nghĩa là thỏa hiệp giữa hai phe cộng sản Campuchia – Pol Pot do Trung Quốc đỡ đầu và Hun Sen do Việt Nam dựng lên – gạt phăng đi các lực lượng không cộng sản Sihanouk và Son Sann. Họ tưởng như thế sẽ làm hài lòng Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại không chấp nhận. Bắc Kinh muốn một giải pháp do Liên Hiệp Quốc bảo trợ và dành ưu thế cho các lực lượng không cộng sản bởi vì họ đang muốn tranh thủ cảm tình của thế giới và nhất là phương Tây. Ban lãnh đạo Việt Nam thật quá chậm hiểu! Và đồng minh Hun Sen của Hà Nội cũng không chấp nhận “giải pháp Đỏ” này bởi họ nhất quyết không đội trời chung với bọn Khmer Đỏ. Giải pháp này cũng phản bội cả hàng trăm ngàn bộ đội Việt Nam đã chết hoặc bị thương tật tại Campuchia dưới danh nghĩa tiêu diệt bọn diệt chủng Khmer Đỏ. Với một sự ngoan cố khó tưởng tượng, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh sẽ còn cố gắng áp đặt giải pháp này lên Hun Sen trong một thời gian dài để hy vọng cùng với Hun Sen thuyết phục Trung Quốc, ngay cả sau khi đã chấp nhận giải pháp do Trung Quốc đưa ra tại Thành Đô. Kết quả là Hà Nội thất bại và còn mất luôn cảm tình của chế độ Hun Sen mà họ dựng lên.
Con đường cầu hòa đã rất nhục nhằn cho Hà Nội. Trung Quốc đã đặt ra nhiều điều kiện để chấp nhận nói chuyện về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và mỗi khi Hà Nội thỏa mãn xong một điều kiện thì họ lại đặt ra một điều kiện mới và Hà Nội lại phải thỏa mãn. Có khi họ chỉ định cả người đại diện Việt Nam để nói chuyện với họ. Tại hội nghị Paris ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm và được trả lời rằng Tiền Kỳ Thâm không có thì giờ để tiếp Nguyễn Cơ Thạch nhưng nếu thứ trưởng Trần Quang Cơ muốn gặp thì đồng ý. Tháng 6.1990, sau sáu năm nhẫn nhục của Hà Nội, khi Trung Quốc cuối cùng chấp nhận gửi Từ Đôn Tín, một trợ lý ngoại trưởng, sang đàm phán với thứ trưởng Trần Quang Cơ, cả Nguyễn Văn Linh lẫn Lê Đức Anh đều đã tiếp riêng đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy trước ngày Từ Đôn Tín sang để tỏ lòng kính trọng với Trung Quốc. Từ Đôn Tín đã đến một cách ngạo nghễ như một sứ giả thiên triều và tuyên bố: “Lần này tôi sang Hà Nội để xem xét nguyện vọng của các đồng chí…”. Từ Đôn Tín tự cho phép mắng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và khi ông Thạch trả lời thì nổi giận bỏ đi. Năm sau khi Lê Đức Anh (chủ tịch nước) và Hồng Hà (trưởng ban đối ngoại trung ương đảng) sang thăm Trung Quốc họ đã xin gặp Từ Đôn Tín để xin lỗi, mặc dù trước đó ông Thạch đã bị gạt ra khỏi bộ chính trị và mất chức bộ trưởng ngoại giao để làm vừa lòng Trung Quốc. Lê Chiêu Thống cũng không đến nỗi khúm núm như thế. Nhục nhã hơn nữa cuộc gặp gỡ Thành Đô. Trần Quang Cơ thuật lại như sau: ngày 28.08.1990 đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy thông báo cho chính quyền Việt Nam biết tổng bí thư Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng muốn gặp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và thủ tướng Đỗ Mười cùng với cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn về quan hệ giữa hai bên ngày 3.9.1990 tại Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Đây là lệnh triệu tập chứ không phải đề nghị. Trung Quốc ấn định ngày giờ, địa điểm và những ai sang Trung Quốc. Họ cũng buộc hai nhân vật quyền lực nhất chế độ, tổng bí thư đảng cộng sản và thủ tướng, phải bỏ ngày quốc khánh Việt Nam để sang họp. Theo Trần Quang Cơ Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã có mặt tại Thành Đô ngày 02.09.1990. (Theo Trương Đức Duy thì họ đến ngày 3-9). Ba ông này sau đó chấp nhận toàn bộ những gì Giang Trạch Dân và Lý Bằng đưa ra. Nhục nhằn như vậy chỉ vì Hà Nội muốn được Bắc Kinh nhận làm đàn em trong khi Bắc Kinh không cần gì cả. Và mối “quan hệ bình thường” này sẽ còn kéo dài về sau. Trong Đại Hội X, năm 2001, để lật đổ tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh buộc tội Phiêu là đã dâng đất và độc đoán, khi sang Trung Quốc đàm phán về biên giới không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm để dễ “thậm thụt”. Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Lê Khả Phiêu, biện hộ cho Phiêu như sau: Nguyễn Mạnh Cầm không đi vì thành phần phái đoàn Việt Nam do Trung Quốc quyết định.
Chưa hết, hiện nay mọi người Việt Nam đều phẫn nộ và thế giới cũng phẫn nộ vì cái lưỡi bò liếm hết Biển Đông của Trung Quốc. Nhưng cái lưỡi bò đó do đâu mà có? Đó là vì Bắc Kinh viện cớ họ có một số đảo ở Trường Sa. Đó là những đảo mà họ đã đánh chiếm của Việt Nam năm 1988 sau khi giết hại 64 binh sĩ Việt Nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao Trung Quốc không nhân dịp chiếm luôn tất cả mọi đảo của Việt Nam tại Trường Sa mà lại chỉ chiếm một vài đảo đá? Câu trả lời là họ không thể chiếm hết. Thực ra nếu chính quyền CSVN không muốn họ cũng không thể chiếm một hòn đảo nào cả. Trường Sa nằm ngoài tầm hoạt động của không quân Trung Quốc và trong tầm hoạt động của không quân Việt Nam. Các tầu chiến của Trung Quốc lúc đó cũng còn khá sơ sài và chưa đủ sức đương đầu với máy bay chiến đấu. Chính quyền CSVN hoàn toàn có thể phản công lấy lại các đảo đã mất và đuổi tàu chiến Trung Quốc ra khỏi Trường Sa nếu muốn nhưng họ đã không làm. Họ đang muốn cầu hòa với Trung Quốc bằng mọi giá.
Những ai nghi ngờ điều này có thể nhìn những gì xảy ra ngay sau đó. Ngày 14.03.1988 Trung Quốc đánh Trường Sa. Ban lãnh đạo CSVN đã im lặng. Báo chí của Đảng và Nhà Nước loan tin qua loa rồi thôi. Hai tháng sau, ngày 25.05.1988 bộ chính trị họp và ra nghị quyết 13 khẳng định phải “phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau”. Tháng 9, hiến pháp Việt Nam được tu chỉnh để bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù. Trung Quốc không còn là kẻ thù sau khi đã đánh chiếm Trường Sa!
Chúng ta đều phẫn nộ vì sự thần phục quá đáng của Việt Nam đối với Trung Quốc nhưng ít ai ý thức rằng để được thần phục Trung Quốc đảng CSVN đã bắt nước ta trả giá rất đắt.
Nhìn lại giai đoạn lịch sử vừa qua cũng chua xót như nhìn lại giai đoạn nhà Nguyễn bị quân Pháp chinh phục hồi thế kỷ 19. Cũng bám lấy Trung Quốc và một chủ nghĩa đã lỗi thời để từ chối một thay đổi vừa đúng vừa bắt buộc. Chủ nghĩa lỗi thời lần này là chủ nghĩa Mác-Lênin thay vì Khổng Giáo. Chính trị Việt Nam vẫn giữ nguyên sự mù quáng sau một thế kỷ. Điểm khác nhau là ngày trước triều Nguyễn bám lấy Trung Quốc để chống một kẻ thù, lần này Đảng Cộng Sản bám lấy chính kẻ thù.
Người ta khó có thể không đặt những câu hỏi tương tự trong hai trường hợp.
Nếu ở thế kỷ 19 nhà Nguyễn thay vì bám lấy Khổng Giáo và ngoan cố làm chư hầu Trung Quốc mạnh dạn mở cửa ra với phương Tây?  
Nếu sau năm 1975 hay vào năm 1984 thay vì bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và chọn làm đàn em Liên Xô rồi hàng phục Trung Quốc đảng cộng sản chọn dứt khoát chuyển hóa về dân chủ?
Gần hơn và khẩn cấp hơn, trong lúc này khi mà khả năng đất nước tách khỏi quỹ đạo Trung Quốc và ra khỏi bế tắc khá lớn nhưng chưa chắc chắn, là những câu hỏi nhức nhối:
Tại sao một thay đổi đột ngột và toàn diện như thế trong chính sách đối với Trung Quốc, từ chống đối hung hăng sang thần phục ngoan ngoãn, lại có thể được quyết định và thực hiện bởi một vài người lãnh đạo thiển cận mà không bị chống đối? Như vậy có thể nói tới một thành phần sáng suốt trong ĐCSVN không?
Và tại sao các trí thức Việt Nam cũng chỉ nhận ra thay đổi này khi nó đã hoàn tất? Phải đánh giá thế nào trình độ nhận thức chính trị của trí thức Việt Nam?
Sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta tránh né những câu hỏi này. Vì rất có thể chính quyền cộng sản lại sắp đưa đất nước vào ngõ cụt một lần nữa.
Nguyễn Gia Kiểng.
(Tháng 8/2012)

Mời xem thêm:  + 119. QUAN HỆ TRUNG-MỸ-XÔ TRONG XUNG ĐỘT TRUNG-VIỆT 1979;   + 127. NHẬT KÍ LÝ BẰNG TIẾT LỘ ĐẦU ĐUÔI CHUYỆN BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ TRUNG-VIỆT NĂM 1990;  + 131. ĐẦU ĐUÔI CHUYỆN VIỆT NAM ĐUỔI HOA KIỀU NĂM 1978.

Kami - Cần có nhiều ĐBQH như ông Hoàng Hữu Phước?

 
Vụ việc ếch chết tại miệng 'Tứ đại ngu" của ĐBQH (Đại biểu Quốc hội) Hoàng Hữu Phước hình như chưa có hồi chấm dứt. Báo chí nhà nước vẫn tiếp tục bình luận và công kích. Nhưng báo chí lề trái hình như người ta cũng bắt đầu cảm thấy ông Nghị Phước chỉ là một nạn nhân của cái thể chế chính trị đầy bất cập này ở Việt nam. Ở một chừng mực nhất định, cũng đã bắt đầu có những ý kiến đồng tình với ông Nghị Phước.

Tôi vốn là một người ngưỡng mộ tài năng, tri thức đặc biệt là sự khéo léo của ĐBQH Dương Trung Quốc, mà có người nói một cách dân dã là rất "quái". Cũng vì ông là một người sắc sảo, lịch duyệt và thông tuệ. Không "quái" thì tồn tại làm sao được, khi ĐBQH Dương Trung Quốc là một trong số các đại biểu Quốc hội không phải đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Song ông Dương Trung Quốc nổi tiếng vì những phát biểu thẳng thắn của mình trong các kỳ họp quốc hội điều mà đã làm cho ông luôn trở thành một trong những ngôi sao của nghị trường. Ngược lại, từ trước tôi cũng hầu như không hề có một chút thiện cảm với ĐBQH Hoàng Hữu Phước, kể từ khi tôi biết tên và tìm hiểu các bài viết trên trang blog cá nhân của ông ta Lý do không thích ông Nghị Phước có lẽ vì tôi cảm nhận ông Nghị này hình như rất thích khoe khoang kiến thức của bản thân và có những ý hoang tưởng trong suy nghĩ. Đặc biệt là ông ta rất sính nói chữ, thích dùng quá nhiều các từ Hán - Việt thay cho các từ tiếng Việt thông thường mà người ta đang sử dụng hàng ngày. Điều này cũng có thể giải thích được đối với những người chịu ảnh hưởng của văn hóa cũ thường hay mắc, vì đó là thói quen. Cũng như việc ông ta hay dùng kiến thức tiếng Anh chuyên ngành học của ông ta để lòe thiên hạ, vì theo ông ta thì do ông ta sử dụng tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt trong việc viết hay giao tiếp hàng ngày (!?). Mà mục đích ai cũng biết để cố tình tạo cho người đọc (nghe) có cảm giác rằng ông ta rất uyên bác. Có thói xấu này có lẽ vì ông Nghị Phước không biết rằng ông ta đang làm cái việc mà người Việt gọi là "Dốt nhưng thích nói chữ".

Hãy bỏ qua cái gọi là chuẩn mực văn hóa, điều mà ông Nghị Phước đã mắc lỗi, khi dùng các lời lẽ miệt thị, dùng các ngôn từ chợ búa đối với người đồng viên của mình là ĐBQH Dương Trung Quốc trong bài viết "Tứ đại ngu" trên blog cá nhân. Điều này là hoàn toàn sai, là thiếu văn hóa. Tuy nhiên bỏ qua những vết bẩn đó thì  càng đọc kỹ những điều ông Nghị Phước phát biểu hay viết trên blog, đặc biệt là trong phong cách tranh luận, trả lời phỏng vấn báo chí cho thấy ông Nghị Phước có những điểm nổi trội mà lẽ ra các chính trị gia cần phải có. Đó là cái mà các cá nhân những người tham gia hoạt động chính trị kể cả trong và ngoài hệ thống chính trị hiện tại ở Việt nam rất ít người có được. Đó là ông Nghị Phước có điểm tích cực là đã dám công khai quan điểm cá nhân của mình trên blog cá nhân, biết xin lỗi khi biết mình sai, sẵn sàng chấp nhận mọi kỷ luật nếu vi phạm chứ không đổ lỗi cho cậu nhân viên đánh máy như bọn đảng viên. Nhưng kiên quyết không từ chức để bảo vệ chính kiến của cá nhân mình, nghĩa là dám làm, dám chịu trách nhiệm và có tư duy độc lập dẫu đúng hay sai nhưng dứt khoát không bị chi phối bởi cá nhân hay thế lục khác. Đó chính là lý do vì sao trong bài viết "Tư duy kẻ sĩ" tôi có nhắc bạn đọc rằng "...rồi sẽ thấy ở ông nghị "khùng" có nhiều mặt tích cực có ích cho xã hội hơn những mặt tiêu cực như chúng ta tưởng". Một quốc gia có một nền chính trị mạnh thì cần phải có rất nhiều các ĐBQH có tính cách như ĐBQH Hoàng Hữu Phước, dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm, nhất là có chính kiến rõ ràng không lệ thuộc. Cử tri chỉ thực sự trông cậy và tin tưởng vào những dân biểu có phong cách sống và làm việc như ông Nghị Phước.

Thật lạ lùng có những ĐBQH mà tôi hằng yêu mến và kính trọng như cựu ĐBQH Nguyễn Minh Thuyết lại cho rằng hành động của ông Nghị Phước chưa từng có trong tiền lệ trong sinh hoạt nghị trường ở Việt nam, đặc biệt là việc sử dụng blog cá nhân (để công kích ĐBQH khác). Trong khi về mặt pháp lý thì như Trưởng ban Công tác đại biểu của UB Thường vụ QH Nguyễn Thị Nương cho biết chưa có căn cứ để xem xét việc bãi nhiệm, miễn nhiệm tư cách ĐBQH của ông Hoàng Hữu Phước và chúng tôi (chứ không phải dân) sẽ rút kinh nghiệm trong việc lựa chọn ĐBQH. Lẽ ra các ĐBQH là đại biểu của dân cần phải có tinh thần tiên phong, làm những việc phá lệ mà quy định không cấm chứ không thể có ý thức bảo thủ như của cựu ĐBQH Nguyễn Minh Thuyết. Nói như vậy để thấy việc ĐBQH Hoàng Hữu Phước đột phá (lệ) để tạo tiền đề cho một phong cách làm việc mới của các ĐBQH là điều đáng hoan nghênh, cần phải có. Mặc dù chúng ta ai cũng đều biết rằng, hàng năm Quốc hội họp 2 kỳ với khoảng 50-60 phiên họp toàn thể, nhưng số ĐBQH ngậm miệng ăn tiền vì do “Trình độ hạn chế, sợ động chạm hoặc do thiếu dũng cảm" chiếm khoảng trên 70% của tổng số 500 ĐBQH . Vậy thử hỏi ai hơn ai trong việc thực hiện trách nhiệm một ĐBQH đối với cử tri?

Dư luận xã hội của chúng ta hiện nay cũng vậy, người ta bảo rằng "Đa phần người Việt Nam chúng ta đón nhận những ý kiến phản biện bằng sự suồng sã của con vẹt và thói hách dịch của kẻ bề trên. Nó là biểu hiện cho sự cùm trói tư duy, không chấp nhận bất cứ quan điểm nào khác chủ kiến của mình và chỉ gìn giữ những định kiến mà không cần liên hệ với giá trị hiện thời – tự coi tầm hiểu biết của mình là chân lý bất biến.". Và cộng thêm một cái xấu là thói bầy đàn, lấy thịt đè người. Hễ thấy họ chửi thì mình cũng phải chửi theo cảm tính, đúng sai không cần biết miễn là ủng hộ phong trào. Đó là thói xấu cần phải bỏ. Nhìn sự việc của ông Nghị Phước dưới góc độ tự do, dân chủ thì thấy nghịch lý của xã hội Việt nam hiện nay còn quá nặng nề. Ngoài cái suồng sã của con vẹt và thói hách dịch của kẻ bề trên của chúng ta thì nó còn bộc lộ sự mất dân chủ và sự tôn trọng quyền tự do ngôn luận của các thành viên trong cộng đồng. Mục đích tối thượng của sự tự do hay dân chủ cũng là vì quyền con người, ở đó con người được trân trọng cùng với quyền làm người của họ. Tự do ngôn luận hay tôn trọng các ý kiến khác biệt cũng là tôn trọng quyền con người. Nó đấy cũng chính là một bộ phận của tự do dân chủ mà chúng ta đã và đang hướng tới và đấu tranh cho mình. Nguyên tắc của dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, nhưng ý kiến của thiểu số phải được tôn trọng. Nghĩa là điều kiện cần là tôn trọng số ít khác biệt (bằng cái tối thiểu là quyền con người) và ý kiến trái chiều (dù ít) cũng phải được lắng nghe một cách nghiêm túc thì lúc đó mới thực là dân chủ. Do đó những ý kiến của ông Nghị Phước có thể sai hay chưa đúng, nhưng nên hiểu trong tranh luận, ý kiến của một bên khi đưa ra đó chỉ là ý kiến chứ chưa phải là một điều khẳng định hay là một chân lý. Nếu thấy họ sai thì chúng ta phải phản biện. Và tranh luận và phản biện là phương pháp đưa chúng ta cùng nhau tìm tới chân lý.

Nói như thế không có nghĩa là tôi cho rằng ông Nghị Phước đúng, mà như đã nói, ở một chừng mực nhất định vẫn thấy trong việc làm của ông ta tuy bị xã hội lên án nó có nhiều điểm tích cực hơn tiêu cực nhất là ở cương vị của một dân biểu. Nó là việc làm cần thiết phải có và đáng trân trọng. Nếu ai từng theo dõi các buổi chất vấn trong nghị trường ở các nước dân chủ thì thấy hành động của ông Nghị Phước còn quá ôn hòa và hiền lành. Ở các quốc gia đó, trong buổi họp quốc hội thì người chủ trì là Chủ tịch hay phó Chủ tịch Quốc hội ngồi điều khiển, với một Văn bản về quyền của ĐBQH trong tranh luận, trong đó chi tiết cụ thể từng vấn đề có thể nói, được phép và không được phép. Vậy mà chuyện dân biểu các phe công kích hay chỉ trích nhau, đôi khi "choảng" nhau, hay quá đà họ "choảng" cả Chủ tịch phiên họp cũng chỉ là chuyện bình thường. Với lý do làm việc và bảo vệ quyền lợi cho dân. Có người cho rằng như thế là làm xấu hình ảnh, nhưng nếu so sánh giữa cái được và cái mất của các hành động quá khích đó thì thấy nó đôi khi lại có lợi hơn có hại?

Cái đó còn hơn cái quốc hội của dân ở Việt nam nhà mình, cái người ta gọi là quốc hội bù nhìn, làm dân biểu thì họ gọi là nghị gật. Vậy mà một cái văn bản quy định giới hạn trong tranh luận của các ĐBQH - thành viên của cơ quan lập pháp vẫn không có. Điều đó cho thấy cái tư duy "gật, cái gì cũng gật" của các ĐBQH - đại biểu của  cơ chế đảng cử vẫn là một tồn tại cố hữu bấy lâu nay đã trở thành thông lệ bất thành văn. Chuyện các đại biểu là người được đảng chọn lựa chứ không phải do dân bầu ra đâu thì ai cũng quá biết. Thực chất chuyện bầu bán cũng chỉ là vờ vịt cho vui để lừa thiên hạ. Vậy mà có nhiều người vẫn cứ chỉ trích, bảo việc làm của ông Nghị Phước làm cử tri thất vọng (!?). Nghĩ hay thật, đảng chọn họ mà đảng không thất vọng thì thôi chứ sao cứ vơ dân chúng tôi vào, dân chúng tôi đâu có quyền chọn ĐBQH?

Lai thêm chuyện bảo hành động của Nghị Phước là việc chưa từng có hay phá lệ nữa. Vẫn kiểu bầu cử lừa, bịp và coi thường nhân dân đang diễn ra mấy chục năm nay của đảng và chính quyền thì phải phá lệ là đúng chứ sao lại không?

Vậy sao không khen mà lại chê?

Ngày 20 tháng 2 năm 2013

© Kami - (RFA Blog's)

Nguyễn Văn Lục - Tướng Võ Nguyên Giáp [1]

vo nguyen giap 
Có hai nhân vật lãnh đạo cộng sản được biết đến nhiều nhất là Hồ Chí Minh và tướng Võ Nguyên Giáp. Họ là những người đưa ra những quyết định hàng đầu (decision-makers) vốn làm nên lịch sử chiến tranh ở Việt Nam. Ngoài ông Hồ, tướng Giáp là người được người ngoại quốc biết tới nhiều nhất trên thế giới. Tầm vóc ấy chỉ đứng sau Hồ Chí Minh và trên mọi người – ngay cả Lê Duẩn sau này.
Những người Pháp như Jean Sainteny, Paul Mus, Jean Lacouture, ngay cả các tướng lãnh Pháp như Raoul Salan hay Marcel Bigeard và ngay cả tướng Mỹ Westmoreland sau này thì đều có những nhận xét đầy cảm tình và trân trọng đối với Võ Nguyên Giáp.  Bên cạnh đó là vô số các tác giả như  Robert Fox, Tay Mallin, Cecil B. Currey.
Nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng cả hai đều đã được huyền thoại đến độ thực hư không kiểm chứng hết được. Huyền thoại về Hồ Chí Minh một phần mở đầu bởi một số nhà báo và trí thức Pháp, một phần thì do chính ông Hồ dựng lên và phần lớn còn lại do nhu cầu tuyên truyền do đám cán bộ dưới quyền dựng lên.
Sự ca tụng ấy hết mực đến độ trở thành lố bịch.
Phần Võ Nguyên Giáp có thể được thế giới bên ngoài biết đến lần đầu do đi duyệt binh chung với tướng Leclerc của Pháp tại Hà Nội. Bức ảnh gây ấn tượng với tôi không ít. Ông Gíap thì nhỏ thó, trịnh trọng quá mức, thụng thịnh trong áo quân so với khổ người và lúc chào thì giơ nắm đấm vào mang tai mình. Đại diện Pháp và Mỹ (ông Patty) thì xòe bàn tay nghiêng nghiêng để chào cờ. Nhưng có thể kể từ giờ phút lịch sử đó, tên tuổi ông cứ thế mà nổi lên như cồn. Nhất là sau chiến thắng Điện Biên thì tên tuổi ông có thể qua mặt cả Hồ Chí Minh..
Những chiến công của ông chỉ xét riêng về mặt quân sự thôi có lẽ cũng cần được đánh giá lại cho công bằng qua các chiến dịch do ông chỉ huy và điều động.
Bởi vì, tôi đọc ông thì hầu như trận nào ông cũng thắng cả- mà thắng lớn –với những con số rất chính xác, nhưng thua thì không thấy nói tới và không bao giờ có con số rõ ràng cả.
Hình như thua thì nhân dân chịu, còn thắng thì mình ông hưởng hết !! Nhận xét như thế có bất công với ông không hay sự thật nó là như thế.
Về các mặt khác như tiểu sử của ông lúc thiếu thời còn lắm điểm tồn nghi. Điều mà chính bản thân ông cũng cương quyết dấu kín nhẹm. Việc diệt trừ một cách tàn bạo các người  của đảng phái đối lập trước chiến tranh để củng cố quyền lực Đảng cộng sản phải được coi là vết nhơ trong cuộc đời hoạt động chính trị của ông .
Có thể nào chỉ viện cớ các đảng phái dựa vào thế lực của quân đội Tưởng Giới Thạch để tiêu diệt họ không? Rồi sự tiêu diệt các nhóm cộng sản đệ tứ một cách có hệ thống thì dựa trên lý do gì ? Và chẳng lẽ họ quên là chính Việt Minh đã thủ tiêu các lãnh đạo tôn giáo hoặc bắt giam tù ở trại Lý Bá Sơ từ một ông Trùm nhà xứ, một ông Chánh Trương. Hàng vạn người đã chết dưới tay họ phải chăng đều là Việt gian ? Và kẻ chủ xướng những cuộc thanh toán ấy do lệnh của Võ Nguyên Giáp ?
Và sau cùng cũng cần xem xét lại ai là người đã khởi động cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất cũng như cần rà xét lại việc sử dụng thanh niên tự vệ trong việc bảo vệ Thủ Đô Hà Nội – một điều ít ai nói tới- nhưng lại chính là điều khiến người viết bài này thấy được tính chất “sát quân” của vị tướng tài của thế kỷ 20 !! Nay đã trên trăm tuổi, ông vẫn tự hãnh diện về những chiến thắng lịch sử ấy và chưa một lần thấy xót xa thương cảm cho số phận những thanh niên trẻ tuổi đã nằm xuống- không phải vài trăm ngàn người mà cả triệu người.
Đứng về mặt con người nhân bản, tôi thấy không thể chấp nhận được !! Không có thứ chiến thắng nào- dù lẫy lừng- có thể cân bằng được những mất mát lớn lao như thế. Chỉ nghĩ tới chiến thắng (theo tinh thần Victory with any cost như tựa đề một cuốn sách) là một điều bất nhẫn.
Không có chiến thắng nào hay lý tưởng nào ở trên giá trị và sự sống con người.
Nhưng hiện nay có một xu hướng muốn giải trừ chẳng những huyền thoại cá nhân mà cả những huyền thoại chiến thắng-(Như huyền thoại cứu nước, giải phóng) nơi một số các nhà nghiên cứu, các nhà sử học. Về nhân vật Hồ Chí Minh thì có nhiều đầu sách đã cào xới quá khứ của ông HCM một cách trung thực để tìm ra những sự thật chung quanh nhân vật này.
Đặc biệt đáng chú ý nhất là ba tác giả ngoại quốc theo thứ tự quan trọng là William J. Duiker, Pierre Brocheux và bà Sophie Quinn-Judge.
Về phía các tác giả Việt Nam thì không thể bỏ qua công trình nhận định tổng hợp của tác giả Minh Võ đã giới thiệu, nhận định tóm lược về các tác giả trong cũng như ngoài nước viết về Hồ Chí Minh. Đây là một trong những tư liệu giúp người đọc hiểu được một phần nào con người, cuộc đời cũng như sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã có một ảnh hưởng không chối cãi được đến lịch sử Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20.
Phần ông Bùi Tín- người quyết định can đảm đầy cam go đi ra từ trong nước- nhìn nhận tuổi trẻ của ông đã bị tuyên truyền, nhồi sọ quá nhiều về Hồ Chí Minh và nay tuổi đã xế chiều, ông rắp tâm một lần nữa nhìn và đánh giá lại tất cả!!
Đó là những dấu hiệu đáng mừng cho mọi phía.
Nhưng riêng trường hợp tướng Võ Nguyên Giáp thì ít có một công trình nào viết thực sự đầy đủ về ông. Rải rác thì có nhiều như trong các sách của Jean Sainteny, J. Lacouture, Bernard B. Fall.  Georges Fleury, Lucien Bodard,  Stein Tonnesson, Erwan Bergot, Jean Pierre Bernier, Jules Roy, Philippe Devilliers và nhiều người khác ..
Có một vài tác giả như Peter Macdonnald, Georges Boudarel, R. Stetler, R.J. O’Neill và nhất là Cecil B. Currey mà tôi sẽ sử dụng một số tài liệu của họ để viết bài này. Riêng cá nhân tôi  đánh giá cao cuốn sách của Cecil B. Currey: Victory at any cost, The Genius of Viet Nam’s Gen Vo Nguyen Giap.
Phần nhà báo Bùi Tín cũng gửi cho tôi 7 bài viết liên quan đến tướng Giáp mà ông đã biên soạn và chưa đăng báo. Tôi trân trọng những đóng góp của tác giả Bùi Tín vì ông có cái lợi thế là có quan hệ quen biết hàng ngang, hàng dọc với các nhân vật lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam. Lợi thế mà ít ai có được vì tác giả Bùi Tín đã có nhiều dịp trò chuyện trao đổi riêng với tướng VNG. Tuy nhiên cái lợi thế ấy chỉ xảy ra ở giai đoạn chót của cuộc chiến. Còn một số điều ông Bùi Tín lúc đầu còn trẻ, chưa có cơ hội tiếp xúc quen biết nên có giới hạn.
Ngoài ra, ở Hải ngoại có hai bài biên khảo giá trị của nhà bình luận chính trị Trần Bình Nam và của giáo sư sử học Phạm Cao Dương, bước đầu có những đóng góp gợi ý về một số điểm liên quan đến VNG mà tôi xin được tiếp tục khai triển thêm dựa trên tài liệu.
Phần người viết bài này để công đọc và tìm hiểu qua nhiều nguồn tài liệu và thấy rằng còn nhiều điều về tướng Võ Nguyên Giáp đã bị bỏ quên, bỏ qua hoặc cố tình không được đề cập tới ..
Chẳng hạn, tôi tìm đọc những sách vở do chính ông VNG biên soạn, tôi nhận thấy có nhiều điều ông đã không viết lại- và một trong những nguyên tắc làm việc của tôi là những gì không được nói tới thì quan trọng hơn những gì đã được viết ra .. Và đó là những công việc khó khăn nhất khi muốn tìm hiểu về tướng Giáp.
Tướng Giáp- một tiểu sử cần được làm sáng tỏ
Hiện nay, tiểu sử của tướng Võ Nguyên Giáp thường quá vắn tắt, chưa được giải mật đầy đủ. Càng không đầy đủ thì hẳn có những điều được che dấu, không tiện nói ra?
Tôi mở đầu bài viết bằng cách trưng dẫn một tài liệu mà cho đến nay tôi không biết đích xác là thực hư, hay chỉ là trò đấm đá nhau trong Đảng?
Theo ông Trần Quỳnh- một chức sắc lãnh đạo có thẩm quyền, có uy tín cá nhân- viết lại về việc ông Trường Chinh đến thăm ông Đặng Thái Mai như sau:
“Sau khi kết thúc vụ điều tra chống Đảng và âm mưu lật đổ, Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật những người cầm đầu. Khai trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc một số, nhưng cho hưởng nguyên tắc các chế độ đãi ngộ. Trường Chinh bổ xung thêm một chi tiết về Võ Nguyên Giáp.
Thời kỳ trước Cách mạng tháng tám, một lần Trường Chinh đến nhà Đặng Thái Mai có việc. Thấy Mai đang cầm đọc một lá thư, Đăng Thái Mai bị bất ngờ, Trường Chinh lướt qua bức thư mới kịp thấy tiêu đề của thư là chánh mật thám, chữ ký là Mạc-Ti  và câu đầu: “Các con thân ái Mai và Giáp” (Mes chers enfants Mai et Giap). Mai ngước lên nhìn thấy Trường Chinh vội vàng nhét thư vào túi áo .. Bộ chính trị nhất trí với mức độ kỷ luật đề nghị : Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai trừ khỏi Bộ chính trị, Lê Duẩn không đồng ý. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần đến sự giúp đỡ của Liên Xô trong công cuộc xây dựng lại miền Bắc và nhất là trong sự nghiệp giải phóng miền Nam. Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ đụng đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự viện trợ của liên Xô. Tôi đề nghị cứ để lại Giáp trong Bộ chính trị. Ta sẽ có cách làm việc với Giáp làm cho sự ở lại và có mặt của Giáp không gây ra những hậu quả có hại.
Chúng ta nhớ rằng vào thời bấy giờ, Bộ chính trị đối với Đảng toàn dân là một tổ chức thiêng liêng được hình thành qua sự sàng lọc của lịch sử bao gồm những con người ưu tú nhất và đáng kính nhất của dân tộc. Kỷ luật đối với một ủy viên Bộ chính trị là một chuyện tầy trời, không phải như ngày nay khai trừ một ủy viên Bộ chính trị như Nguyễn Hà Phan, đối với đảng viên và nhân dân chả là cái gì.
Giáp là con người xảo trá- khi tôi từ miền Nam, khi nói chuyện riêng, Giáp hay nói xấu Bác, nhưng trước mặt Bác, Giáp hay nịnh Bác”.
[1] Hồi ký Trần Quỳnh: Những kỷ niệm về Lê Duẩn, 30-07-1986
Đây là những tiết lộ quan trọng liên quan đến sinh mệnh chính trị của tướng Võ Nguyên Giáp.  Và thái độ của tướng Giáp là giữ im lặng tuyệt đối. Ông thừa cơ hội sau này để chối bỏ những cáo buộc công khai ấy trong đảng. Nhưng ông chọn không hành động.
Lúc ông được 90 tuổi, tác giả C.B Currey cho hay tướng Giáp từ chối một cách cương quyết đến bướng bỉnh không chịu đề cập đến vấn đề này. Và cho rằng tất cả những câu hỏi và những thắc mắc về những năm tháng ấy là thiếu chuyên nghiệp và động cơ thúc đẩy chỉ là những  động cơ chính trị. Cho nên việc giúp đỡ của Louis Marty cho đến nay không thể cắt nghĩa và hiểu được do động lực nào?
Vì thế, theo tôi sự cáo buộc ấy có chứa một phần sự thật. Tôi cũng tìm đọc Hồi Ký Đặng Thái Mai, một người bạn cố tri, một người cha vợ, một người đồng chí, một đàn anh và sau này cùng chịu chung số phận bị tố giác là con nuôi mật thám Pháp.
Tôi thất vọng đến chán nản vì đó là một cuốn Hồi ký vô tích sự, che dấu đến tận cùng chỉ nói về con đường học hành- không một chữ nào liên quan đến những năm hoạt động chính trị-không một chữ nói đến đảng cộng sản- không một chữ nói đến Võ Nguyên Giáp !!
Gớm thay cho những lời tố cáo ở trên. Nhưng cũng sợ thay cho sự im lặng của VNG và ĐTM. Phải chăng đấy là hai bộ mặt thật của guồng máy cộng sản !!
Việc Trường Chinh tố giác tướng Võ Nguyên Giáp ở trên cùng với Đặng Thái Mai là con nuôi trùm mật thám Pháp có vẻ úp mở, nửa là thực, nửa là hư. Người đọc có thể bán tin, bán nghi cho là họ “chơi nhau”. Chữ con nuôi có vẻ là chế thêm vào. Đặng Thái Mai vốn đã là một giáo sư, hơn Võ Nguyên Giáp gần 10 tuổi, nhận được sự giúp đỡ gì để trở thành con nuôi Louis Marty?
Nhưng ông Hoàng Văn Chí trong cuốn Từ thực dân đến cộng sản viết đầy đủ và rõ ràng hơn như sau:
“Mai (Đặng Thái Mai) và Giáp đều là “con  nuôi” của Louis Marty, giám đốc phòng chính trị của Phủ Toàn Quyền. Marty kiếm việc cho Mai dạy học ở trường Gia Long mà giám đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hãy còn là sinh viên, cho Mai trông coi. Trong khi những đảng viên Tân Việt khác bị tù đầy hoặc cầm cố thì hai người ung dung sống ở Hà Nội cho đến ngày Giáp được Pháp đưa sang Tàu theo Việt Minh chống Nhật. Giáp có theo học lớp “chiến tranh du kích” do Mỹ mở ở Tỉnh Tây, nhưng không bao giờ lên Diên An. Giáp và Mai coi nhau như “anh em kết nghĩa”, nhưng sau khi vợ Giáp chết trong tù, Giáp lấy cô Hà, con gái Mai kém Giáp gần 20 tuổi mà trước kia Giáp vẫn bế trong tay hồi còn là chú cháu”.
[2]Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân đến Cộng Sản, 1962, chú thích trang 83.
Một chi tiết khác nữa là khi còn sinh viên, Võ Nguyên Giáp có đi dậy tư gia mà người học trò không ai khác là bà Thụy An- nhà văn phụ nữ duy nhất cũng là người bị kết án tù 15 năm về vụ án Nhân Văn Giai phẩm.
Giữa Giáp và Thụy An đã nẩy nở một mối tình thầm lặng. Mối tình ấy thấm đậm tinh thần cách mạng qua mấy câu thơ của bà Thụy An được trích dẫn sau đây:
Tóc anh hừng trí bốn phương
Tay run nắm hồn dân tộc
..Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất..
[3]Trích bài thơ Sao lại mùa thu của bà Thụy An, trích lại trong Nhân Văn Giai Phẩm, Thụy Khuê, trang 181
Vậy mà khi bà Thụy An bị nạn trong vụ NVGP với cái án 15 năm tù, người tình cũ đã không một lời lên tiếng!! Im lặng. Im lặng như cái im lặng của Hồ Chí Minh với vụ án Nguyễn Hữu Đang.
Khi Giáp được Pháp cho sang Tàu năm 1933, ông đã có ý định rủ Thụy An đi theo.
Và sau đây là lời giải thích của bà Bùi Thụy Băng, con gái bà Thụy An giải thích:
“Người thày giáo đề cập ở đây là tướng Võ Nguyên Giáp. Khoảng 1930, ông ngoại của tôi đã mướn người thày giáo sử địa Võ Nguyên Giáp về kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam. Ông Võ Nguyên Giáp muốn đưa bà cụ tôi sang Trung Hoa. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài Gòn và hai người lấy nhau, sanh ra anh cả tôi là Bùi An Dương, năm 1934. Lúc đó ba má tôi đã xuất bản tuần báo Đàn Bà Mới nên má tôi trở về Hà Nội cho anh tôi làm con nuôi ông bà Trần Trọng Kim, để vô Nam tiếp tục lo tờ tuần báo. Năm 1937, ba má tôi trở ra Hà Nội sanh ra tôi là Bùi Thụy Băng”.
[4]Bùi Thụy Băng, điện thư ngày 15/9/2004. Trích lại Thụy Khuê, Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, trang 182.
Theo tài liệu chính thức, ông Võ Nguyên Giáp đỗ cử nhân luật .. Chương trình ba năm. Nhưng theo nhà thơ Nguyễn Vỹ cho hay :
“VNG là Sinh viên Cao đẳng luật khoa, Hà Nội vừa thi đỗ chứng chỉ hai, cấp bằng cử nhân luật, tháng sáu năm 1937. Nhưng năm sau 1938, anh lại thi rớt cấp bằng cử nhân Luật pháp hành chánh. Số đông sinh viên luật Hà Nội thi đậu chứng chỉ cử nhân luật liền học một năm về “Droit administratif” (Hành chánh luật), thi đậu cấp bằng này được bổ ra làm tri huyện, theo Hành chánh Nam triều, hoặc Commis làm tại phủ toàn quyền, hoặc tại các tòa thống sứ, khâm sứ, thống đốc, nếu phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Võ Nguyên Giáp lúc bấy giờ có ước vọng làm commis, nhưng thi rớt nên bỏ học luôn và tiếp tục làm giáo sư Sử địa trường trung học Thăng Long”.
[5]Nguyễn Vỹ, Tuấn chàng trai nước Việt, trang 381-382
Tên Võ Nguyên Giáp thật ra là bí danh của Võ Giáp hay bí danh khác là Dương Hoài Nam hoặc người ta còn quen gọi ông là Văn. Ông có học luật, sau làm giáo sư trường Thăng Long dạy môn sử.
Ông cũng là người thuyết giảng cho những người trẻ như Bùi Tín những khái niệm sơ khởi về kỹ thuật chiến tranh. Và theo ông Bùi Tín, ông Giáp là người đã đào tạo nên cả một thế hệ những sĩ quan trẻ tuổi.
Về cuộc đời niên thiếu của tướng Giáp, có một cuốn sách do Georges Boudarel- một người Pháp theo cộng sản viết- nhan đề gọi một cách thân mật vỏn vẹn có một chữ: Giáp. Cuốn sách đã được Hà Nội cho dịch ra tiếng Việt.
[6]  Georges Boudare – Biographhie, Wikipedia. Ông theo Việt Minh từ năm 1950, làm cho đài phát thanh bí mật đặt ở tỉnh Sông Bé. Đó là đài La voix de Saigon-cho lon libre. Sau đó, ông được điều động ra Bắc vào năm 1952. Ông phải đi bộ suốt 9 tháng để đi từ Nam ra Bắc. Cộng sản Hà nội đã chỉ định ông làm ủy viên chính trị trại tù 113 . Sau này, do nhiều tù binh Pháp ra làm chứng và tố giác ông trách nhiệm tra tấn các tù binh Pháp. Chính G. Boudarel củng phải nhìn nhận là tỉ lệ tù binh Pháp chết trong trại giam là rất cao, 50%. Ngay những tù binh Pháp còn sống sót cũng cho biết trong số 320 tù binh Pháp bị giam tại trại tù 113 thì có 278 tù binh đã bị chết trên tổng số 320 tù binh bị giam giữ . Cuốn sách của Boudarel vì thế cần phải dè dặt lắm khi đọc ông.
Trong cuốn  sách của Boudarel  khi đề cập đến người bố của tướng Giáp đã viết như sau:
“Sinh ở An Xá tỉnh Quảng Bình năm 1910, (Chỗ khác ghi năm sinh là 25 tháng 8, năm 1911) Giáp lúc nhỏ sống ở một vùng đồng bằng nhỏ hẹp ven biển miền Trung phía Bắc vĩ tuyến 17. Cụ bà thân sinh những hôm không bận việc đồng áng thì cặm cụi bên khung cửi. Còn cụ ông là một nông dân có học thức tự cầy cấy ruộng nhà.
[7] Tài liệu từ Wikipedia ghi: Bố là Võ Quang Nghiêm, (Võ Nguyên Thân), Võ Quang Nghiêm là một nhà nho, thi cử bất thành về làm hương sư và thầy thuốc Đông y, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, ông bị Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù, truyền đạt lại cho cậu bé Giáp chữ nghĩa thánh hiền và vốn trí thức truyền thống theo Khổng giáo cùng với lòng yêu tha thiết quê hương đất nước.
(Cuốn sách được chú thích thêm là: Học giả người Pháp Georges Bouidarel đã viết như vậy về vị đại tướng đầu tiên của Quân Đội nhân dân trong tập sách “Võ Nguyên Giáp”, nguyên bản tiếng Pháp là “Giáp”).
[8] Trích bài Học giả Pháp viết gì về tướng Giáp, trong Viet Nam. Net, 22-12-2012
© Nguyễn Văn Lục

© Đàn Chim Việt


 Trần Quỳnh
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]  Georges Boudarel, theo Viêt Minh từ năm 1950, làm cho dài phát thanh bí mật đặt ở tỉnh Sông Bé. Đó là đài La voix de Saigon-cho lon libre. Sau đó, ông được điều động ra Bắc vào năm 1952 . Ông phải đi bộ suốt 9 tháng để đi từ Nam ra Bắc . Cộng sản Hà nội đã chỉ đinh ông làm ủy viên chính trị trại tù 113 . Sau này, do nhiều tù binh Pháp ra làm chứng và tố giác ông trách nhiệm tra tấn các tù binh Pháp. Chính G. Boudarel củng phải nhìn nhận là tỉ lệ tù binh Pháp chết trong trại giam là rất cao, 50% .. Ngay những tù binh Pháp còn sống sót cũng cho biết trong số 320 tù bình Pháp bị giam tại trại tù 113 thì có 278 tù binh đã bị chết trên tổng số 320 tù binh bị giam giữ . Cuốn sách của Boudarel vì thế cần phải dè dặt lám khi đọc ông.
[7]
[8]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét