Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

HOT - BÀI VIẾT NÊN ĐỌC

 Lê Đức Thọ: Tôi còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm!

“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử Việt Nam hiện đại

Thăng yên hạ mã bách thiên nan

Quốc thế như kim thực vị an

Nùng mạt, đạm trang, nhân tính cựu

Nguyên nhung bát thập bất tri nhàn

(Lên yên xuống ngựa khó muôn vàn

Thế nước hôm nay thực chửa an

Đậm, nhạt, mau, thưa người nếp cũ

Tám mươi lão tướng chẳng mong nhàn)

Tôi mở đầu vài cảm nghĩ về cuốn sách “Quyền Bính” (Tập 2 – Bên Thắng Cuộc, Huy Đức) bằng bài thơ của Tào Mạt: “Gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi bộ ứng khẩu làm ngay”. Năm 1991 ấy, tướng Giáp tròn 80 tuổi. Sau Đại hội VII ĐCSVN, ông Võ Nguyên Giáp – một đại công thần của chế độ, chính thức rời khỏi chính trường. Rồi những cuốn hồi ký nổi tiếng, rất có giá trị sử học của ông liên tiếp ra đời: Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng…Nhưng, trong những cuốn hồi ký ấy, ông chỉ nói rất ít về bản thân mình.
Thì đây, “Quyền Bính” có một chương riêng về tướng Giáp. Tác giả đã cho chúng ta biết một câu nói rợn người đầy kinh hãi của Lê Đức Thọ qua lời kể của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể Lê Duẩn: “Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”. Than ôi! Một ông Đại tướng Tổng tư lệnh, người Anh Cả đầu tiên và duy nhất của quân đội, đã làm nên biết bao công tích, được thế giới ca ngợi, đã phạm “tội” gì mà Lê Đức Thọ dám đưa ra một lời kết án tai ác đến cỡ đó?
Trong Quân ủy Trung ương, ông Thọ chỉ là Phó Bí thư, cấp dưới của ông Giáp. Ông ta dĩ nhiên không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp. Chiến lược, chiến thuật quân sự, điều quân đánh đông dẹp bắc là nhờ tài năng của các tướng lĩnh. Thế mà trong chiến dịch Quảng Trị (không chỉ chiến dịch Quảng Trị), “Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc!”.
Lê Đức Thọ thường gọi ông Trần Bạch Đằng, một người cộng sản cấp tiến cực kỳ tài hoa, tiếng tăm lẫy lừng là “thằng trời đánh” – điều cay đắng là ông Đằng không bao giờ được vào Trung ương, dù có ông Lê Duẩn đỡ đầu. Chính Giáo sư Hồ Ngọc Đại cũng đã một phen hoảng hốt sau khi bố vợ mất, ông hỏi Đoàn Duy Thành, “Ba cháu mất rồi, liệu họ… có giết gia đình nhà cháu không?” (Làm người là khó – Đoàn Duy Thành). Quả thật, quyền bính – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại.
Người làm chính trị, nắm quyền bính, điều quan trọng nhất là để lại tiếng thơm trong sử sách. Tôi xin lưu ý, một Giáo sư người Mỹ sau khi nghiên cứu về Mao Trạch Đông đã kết luận, cuộc đời ông ta làm được 31 việc nhưng có tới 20 việc liên quan đến việc hủy hoại tinh thần và đạo đức con người!
Quan sát sự vận hành quyền bính tại VN cho thấy, dường như không ít nhà lãnh đạo cao cấp ghen tỵ với tài năng và vinh quang của tướng Giáp, họ muốn hạ bệ uy tín cực lớn của ông trong đảng và dân chúng. Đến như ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, thay vì bác bỏ bản báo cáo sai sự thật của Nguyễn Đức Tâm về vụ Sáu Sứ, ông lại chỉ đạo điều tra hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà; thay vì minh oan cho ông Giáp và ông Trà sau khi biết kết quả điều tra, ông và Bộ Chính trị lại im lặng “đáng sợ”.
Có nhà nghiên cứu cho rằng, ông Võ Nguyên Giáp là điển hình của một tài năng không được phát huy hết trong một xã hội mà sự vận hành quyền lực tập trung vào tay một số người, lại thiếu công cụ để khống chế, kiểm soát quyền lực ấy. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tham nhũng tuyệt đối và quyền lực tuyệt đối cũng sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Đúng như tác giả Huy Đức nhận xét, ông “mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, Tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông”.
Thêm một điểm cần lưu ý, đó là ông Võ Nguyên Giáp đã xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” khác hẳn việc xử lý mẫu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” là xử lý mâu thuẫn đối kháng, một mất một còn – chiến tranh là như thế. Song, xử lý mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì phải khác. Ông Trần Bạch Đằng từng nói: “Đành rằng làm chính trị là phải thủ đoạn. Nhưng làm chính trị thì cũng phải có tình nghĩa, bạn bè chứ”. Chỉ có điều, đối thủ chính trị của các ông không nghĩ và làm như vậy.
Quyền bính (quyền hành) và quyền lực đều có điểm chung là quyền định đoạt mọi công việc và sức mạnh để đảm bảo thực hiện quyền ấy. Quyền lực đồng nghĩa với sức mạnh và như vậy, kẻ mạnh nắm quyền lực sẽ thống trị và chi phối kẻ yếu. “Quyền Bính” đã làm nổi bật tư duy và quyền lực của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp VN, của tập thể, của cả chế độ, trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, con người và tư tưởng; sự vận hành và chi phối của quyền lực, kết quả của việc thực thi quyền lực. Có thể nói, “Quyền Bính” đã cho chúng ta thấy sự vận hành quyền lực ảnh hưởng như thế nào đến tương lai đất nước và dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử VN hiện đại.
Anh Doan Tran, một người bạn thân của tôi ở Hoa Kỳ, rất am hiểu văn hóa và lịch sử VN – người đã gửi tặng tôi ấn bản điện tử “Quyền Bính” ngay sau khi phát hành, bằng một sự liên tưởng và tinh tế hiếm có, nhận xét: “Hãy lưu ý hình bìa cuốn sách với chiếc xe hơi Lada, dây điện, đèn tín hiệu giao thông rồi đọc chi tiết này trong cuốn sách để thấy sự thú vị:
“Khi nhậm chức, Nguyễn Văn Linh vẫn sử dụng một chiếc xe hơi hiệu Lada của Liên Xô đã cũ thay vì tiêu chuẩn của Tổng bí thư phải là “Volga đen” hoặc Toyota. Theo ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn Văn Linh: “Ông không biết rằng, để Lada có thể chở Tổng bí thư, Văn phòng phải gắn thêm máy lạnh. Vì tải thêm máy lạnh mà tuổi thọ của những chiếc Lada này bị giảm đi rất nhanh, cứ sau một hai năm là phá luôn giàn máy. Một lần ông Linh đi công tác về tỉnh, chiếc máy lạnh tự chế phát nổ. May mà khi đó, ông Linh đang ngồi trong phòng họp còn chiếc xe thì đậu ngoài sân”.
Phải chăng, đưa “cái lạnh” của tư bản vào “cái nóng” của xã hội chủ nghĩa, nó sẽ “trung hòa” và “bộ máy” sẽ vận hành tốt hơn? Không phải! Trên thực tế, làm như vậy “bộ máy” bị hỏng nhanh hơn và tệ hơn nữa – nó phát “nổ” rất nguy hiểm. Không thể “lắp ghép” một cách tùy tiện, bởi nó không thể tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, dù gắn cho nó cái “đầu” hay cái “đuôi” gì đi nữa (“đuôi” định hướng XHCN chăng – một gợi ý!). Tri thức nhân loại đã kết tinh hàng ngàn năm, sao người ta không tiến cùng văn minh thời đại, mà lại “sáng tạo” ra con đường đi mới chưa có tiền lệ trong lịch sử và than ôi, sự “sáng tạo” đó đã cho kết quả nhãn tiền rồi!
Cũng như “Giải Phóng”, “Quyền Bính” – dù khách quan đến đâu, chúng ta vẫn nhận thấy tác giả tiếp tục dành cho ông Võ Văn Kiệt nhiều thiện cảm. Anh Doan Tran cho rằng tác giả dường như “thần tượng hóa” ông Kiệt – tôi nghĩ nhận xét đó hơi quá. Dù sao, cách sử dụng quyền lực và việc nắm quyền bính của ông Kiệt được nhiều người ủng hộ, dù ông Tố Hữu bóng gió: “Sáu Dân muốn làm vua Saigon”.
Ông Võ Văn Kiệt có cách giải quyết mâu thuẫn về chính trị khá hay. Đã một lần ông nói với người lãnh đạo văn nghệ: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà Định; đóng Lênin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”. Lại một lần khác, khi họp Bộ Chính trị để thông qua việc chọn BHP làm đối tác thăm dò dầu ở mỏ Đại Hùng, Nguyễn Hà Phan phản đối: “Đồng bào miền Nam chắc chắn không một ai đồng tình chọn Úc làm đối tác khai thác dầu khí vì bọn Úc đã từng đưa quân vào tàn sát đồng bào ta”. Ông Võ Văn Kiệt liền đứng dậy: “Nếu nói như Sáu Phan thì tôi đề nghị Bộ Chính trị nên chọn Lào đầu tư. Mỹ là kẻ thù mới đánh ta; Pháp đô hộ 80 năm; Nhật khiến cho 2 triệu người chết đói; Úc, Hàn theo Mỹ mang quân sang… Không có nước nào có công nghệ tốt lại không có dính líu vào một ‘tội ác’ nào đó”.
Đọc “Quyền Bính” và “Giải Phóng”, chúng ta nhận thấy có một điểm nổi bật nữa là tính tự trọng của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp thời ấy. Họ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Các ông Trường Chinh từ chức Tổng bí thư, Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng bị kỷ luật do sai lầm của cải cách ruộng đất. Ông Linh cũng đã phải một lần ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Kiệt xé rào, đổi mới. Ông Trần Phương quyết định từ chức sau vụ “giá – lương – tiền” cho dù ông không phải là người chịu trách nhiệm chính. Ông Lê Duẩn thấy rằng, sau vụ “giá – lương – tiền”, Tố Hữu không còn khả năng làm Tổng bí thư, dù đã được chọn vào hàng ngũ kế cận. Và thực tế, tại Đại hội VI, Tố Hữu thậm chí không được bầu vào Trung ương.
Phải thừa nhận, thời ấy đa số các nhà lãnh đạo cao cấp không được đào tạo bài bản, song họ rất có trình độ, chỉ bằng tự học. Còn gần đây và hiện nay thì sao? Không ít người gần như “mất trí” vì ham mê quyền bính: dấu bệnh để mong làm Chủ tịch nước, dấu bệnh để làm Thường trực Ban bí thư, sợ ra khỏi Bộ Chính trị thì chết không nhắm được mắt…Rồi một Tổng bí thư hai nhiệm kỳ mà Phó Ban Tổ chức Trung ương nhận xét trình độ chỉ tầm cỡ cán bộ cấp huyện, một Thủ tướng mà chỉ mới nghe tên thôi, người dân đã lắc đầu ngán ngẩm. Liệu đất nước có thể phát triển sánh vai với thế giới nếu vấn đề quyền bính được vận hành như thế?
Rốt cuộc, ai là người có quyền lực nhất? Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler, trong tác phẩm Thăng trầm quyền lực, đã phân tích rất sâu sắc về quyền lực. Bạo lực, của cải và tri thức là ba đỉnh của một tam giác quyền lực. Bạo lực chủ yếu dùng để trừng phạt, làm người ta khiếp sợ nhưng là nguồn quyền lực ít linh hoạt nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc (“Giải Phóng” và “Quyền Bính”), chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng nguồn quyền lực bạo lực nhất.
Của cải được dùng vừa trừng phạt lại vừa ban thưởng và có thể được chuyển thành nhiều nguồn khác, là một công cụ quyền lực rất uyển chuyển. Đọc Bên Thắng Cuộc cũng như quan sát tình hình hiện nay, chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng và sử dụng hết sức “thành công” nguồn quyền lực của cải nhất.
Tuy vậy, tri thức mới là nguồn quyền lực cơ bản và linh hoạt nhất, vì một người có tri thức có thể tránh được những thử thách đòi hỏi sử dụng bạo lực hay của cải và có thể thuyết phục được những người khác để hoàn tất những ý định mình mong ước. Tri thức tạo ra quyền lực có phẩm chất cao nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta đã rõ nhân vật nào thường sử dụng nguồn quyền lực tri thức nhất. Nếu nhân vật ấy sử dụng nguồn quyền lực bạo lực, chắc chắn lịch sử VN hiện đại đã khác rồi.
Và một khi quyền lực được tạo ra từ quyền mưu hay từ những yếu tố khác thay vì tri thức thì quyền lực đó không thể bền vững, khiến cho những người nắm quyền lực kiểu đó trở nên đáng sợ – ngay cả với bạn bè, đồng chí, người thân của họ. Lịch sử hiện đại VN không thiếu thí dụ minh họa điều này.
“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại. Một xã hội chỉ có thể phát triển tốt khi “quyền bính” được cân bằng, không bị lũng đoạn hoặc tập trung vào trong tay một số người – cũng tức là phải tạo ra một tam giác đều quyền lực trong đó ba đỉnh của nó chính là bạo lực, của cải và tri thức.
Để kết thúc, tôi xin nhìn đôi nét tổng quát về Bên Thắng Cuộc. Điểm mạnh của “Quyền Bính” cũng như “Giải Phóng” là nhiều tư liệu, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, được thể hiện bởi một nhà báo lão luyện – công trình mang phong cách báo chí. Tuy nhiên, tác giả Bên Thắng Cuộc tái hiện một giai đoạn lịch sử VN hiện đại nhưng tư liệu gốc chiếm tỷ trọng không nhiều lắm, chỉ có một số bức điện, một số báo cáo, một số biên bản, một số nghị quyết, còn chủ yếu sử dụng các hồi ký và phỏng vấn nhân chứng. Đối với những người am hiểu, còn rất nhiều sự kiện lịch sử VN cực kỳ quan trọng, song có thể vì lẽ này, lẽ khác chưa được tác giả đề cập. Vì vậy, tính đầy đủ và chính xác của nó chắc rằng còn phải thảo luận nhiều. Các Phụ lục cuối mỗi tập sách không có gì đặc biệt, chưa tương xứng với nội dung phong phú và những vấn đề rất lớn mà bộ sách đặt ra. Và, tác giả chỉ nêu các sự kiện lịch sử nhưng không phân tích, không bình luận làm cho bộ sách thiếu hẳn tính “hàn lâm” – đó không hẳn là một phương pháp tốt nhất?
Dẫu sao, Bên Thắng Cuộc thực sự là một công trình rất đáng đọc, rất đáng tìm hiểu, rất đáng suy ngẫm, với tất cả ý nghĩa đầy đủ của nó. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta càng hiểu thêm nhận xét “có một lịch sử như nó diễn ra và một lịch sử như nhà sử học viết ra”. Thử hỏi, đến nay, đã có công trình nào phản ánh đầy đủ, trung thực và hấp dẫn lịch sử VN hiện đại do các nhà sử học VN “nổi tiếng” thể hiện? Cho nên, chúng ta không đòi hỏi tác giả Bên Thắng Cuộc, song chúng ta có quyền hy vọng…

Lê Mai

(Blog Lê Mai )

Đọc sách: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc của Thụy Khuê


 

- Chương 15 : Cuộc cách mạng hiện đại đầu thế kỷ XX   –   Chương 16 : Nguyễn Tất Thành   –   Chương 17 : Hội Đồng Bào Thân Ái – Phong trào ái quốc đầu tiên tại PhápChương 18 : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản   –   Chương 19 : Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quấc/Quốc   –   Chương 20 : Vì sao Phan Châu Trinh phó thác “đại sự” cho Phan Khôi?   – Chương 21 : Phan Khôi (1887-1959)   –   Chương 22 : Vụ án Nam Phong  –   Chương 23 : Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997)   –   Chương 24 : Une voix dans la nuit: Cải Cách Ruộng Đất và Cải Tạo Tư Sản  –  Chương 25 : Une voix dans la nuit: Vấn Đề Trí Thức và Độc Tài Đảng Trị
- Phụ Lục – Trò chuyện với người trong cuộc: Với nhà cách mạng Nguyễn Hữu Đang   –   Với nhà thơ Lê Đạt  –   Với nhà thơ Hoàng Cầm   –   Với họa sĩ Trần Duy.

Ai chịu trách nhiệm vụ Nhật Bản đòi bồi thường 200 tỉ tại cầu Nhật Tân?

Tuần qua, báo chí rộ thông tin Nhật Bản đòi Việt Nam bồi thường 200 tỉ do chậm tiến độ giao mặt bằng tại dự án cầu Nhật Tân. Quan chức, báo chí nhà nước, thậm chí một số vị giáo sư tai to mặt lớn đều to mồm cho rằng chính quyền cần có kế hoạch GPMB nhanh hơn. Một sự thật mà không ai (trừ nhân dân) dám phanh phui là quan chức chính quyền thành phố Hà Nội (với sự thông đồng của quan chức Bộ GTVT) đã ngang nhiên vi phạm pháp luật, biến việc GPMB cầu Nhật Tân thành một “quả làm ăn đậm” và khoản bồi thường 200 tỉ chỉ chiếm một phần nhỏ trong hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật mà quan chức Hà Nội là thủ phạm chính.
Cụ thể là, dưới sự chỉ đạo chung từ thành ủy, UBND, các chuyên gia bẻ quy hoạch
như Đỗ Hoàng Ân, Lê Quý Đôn, Nguyễn Thế Thảo, Nguyễn Văn Khôi, Vũ Hồng Khanh đã cố tình làm trái pháp luật, làm lợi cá nhân, cố tình vẽ ra đường đỏ nút giao Nam cầu Nhật Tân trái với quy hoạch Thủ đô đã được phê duyệt, liên tiếp tự ý điều chỉnh quy hoạch cầu Nhật Tân (cả bờ Bắc và Nam). Mục đích của hành vi vi phạm pháp luật này là lái nút giao Nam cầu Nhật Tân ra khỏi các lô đất mà tập đoàn sâu mọt trên có lợi ích (hiện vẫn bỏ hoang), đưa nút giao vào thẳng khu dân cư mà gần 400 hộ dân đang sinh sống hợp pháp, lái đầu cầu Nhật Tân ở bờ Bắc ra khỏi các khu vực lợi ích của chúng.
Hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật nói trên là hơn gần 400 hộ gia đình mất nhà, đất. Nhà nước phải bỏ ra hàng chục nghìn tỉ đồng để bồi thường. Dự án cầu Nhật Tân bị phát sinh thêm kinh phí hành chục nghìn tỉ đồng nữa và tiến độ bị chậm thảm hại (cả bờ Bắc và Nam), phía Nhật Bản đâm đơn đòi Việt Nam bồi thường. Việc nhân dân kiên cường, bền bỉ tố cáo, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật của tập đoàn sâu mọt nói trên là hành động cần được khen ngợi và biểu dương. Vị luật sư tài ba Trần Đình Triển cũng đã thay mặt nhân dân tiến hành các thủ tục cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người mất đất oan. Cay cú trước nhân dân, tập đoàn sâu mọt nói trên không những huy động các lực lượng hòng dập tắt tiếng nói của nhân dân mà còn tìm mọi thủ đoạn ti tiện, tung đội quân mạng hùng hậu của an ninh và tuyên giáo “vào cuộc” để bôi nhọ, vu cáo Blog Cầu Nhật Tân (là nơi đăng tải các nội dung tố cáo tập đoàn sâu mọt).
Thiết nghĩ, thay vì ép dân tuân thủ “tiến độ”, cần đưa tập đoàn sâu mọt trong chính quyền Hà Nội, quận Tây Hồ và Đông Anh ra tòa, cần điều chỉnh lại nút giao Nam cầu Nhật Tân theo đúng quy hoạch Thủ đô đã phê duyệt, cần đảm bảo lợi ích cho bà con mất đất ở cả bờ Bắc và Nam là cách làm tốt nhất đảm bảo tiến độ GPMB cầu Nhật Tân. Cũng lưu ý thêm rằng, phía Nhật Bản sẽ tiếp tục đòi bồi thường (ngoài khoản 200 tỉ đã nêu) nếu bọn sâu mọt nói trên còn tác oai tác quái làm chậm tiến độ.
Đọc thêm:
 http://www.youtube.com/watch?v=vakxkCj_0Jg&feature=player_embedded

Tai sao đồng chí X không tham dự mít tinh cấp nhà nước, kỷ niệm 40 năm ký HĐ Paris ?

Bạn Ruồi Trâu "đặt hàng" Phamvietdao.net: Sao không thấy bác Đào bình luận về cuộc mít tinh sáng 25: "Mít tinh cấp nhà nước kỷ niện 40 ký kết hiệp định Pa ri" có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Huỳnh Đảm cùng nhiều đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng Nhà nước, các mẹ Việt Nam Anh hùng... Mà không có Thủ tướng hoặc 1 phó thủ tướng nào đến dự ??? Phải chăng quan chức chính phủ không muốn dự và nghe ô Sang đọc diễn văn???!!!”

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Lễ kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Sau khi nhận được “ đặt hàng” này của Ruồi Trâu, chủ blog vội lướt nhanh qua các báo để kiểm chứng thông tin thì thấy thông tin mà Ruồi Trâu phát hiện là có cơ sở  vì: các tờ báo đều đưa tin về các nhân sự tham dự mít tinh đúng như bạn Ruồi Trâu phản ánh; Chỉ riêng VTV thì đưa tin chung chung, không nêu đích danh tên các quan chức tham dự...
Thủ tướng không những không tham dự mít tinh mà cũng không thấy đưa tin tiếp các quan khách ngoại giao, chỉ thấy đưa tin Chủ tịch  nước Trương Tấn Sang tiếp ?
Kiểm chứng thêm thông tin báo chí về hoạt động của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong dịp này thấy: Ngày 26/1/2013 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm sân bay Sao Vàng ở Thanh Hóa; thăm Thanh Hóa ngày 26 thì nếu Thủ tướng vào sớm thì chiều 25 vẫn kịp, do vậy sáng 25, Thủ tướng vẫn ở Hà Nội, chủ động tránh hoặc vì lý do sức khỏe hay gì đó mà không có mặt ?

Phạm Viết Đào

(Blog Phạm Viết Đào)

Tại sao vấn đề Cải Tổ Chính Trị lại tránh né Trung quốc?

Kể từ khi Ông John Winthrop phát hành cuốn sách “Thành Phố Trên Đồi” (City on a Hill), người dân Hoa Kỳ đã trở nên quen thuộc với những nhà lãnh đạo quốc gia thường xuyên ca ngợi sự vĩ đại đặc biệt của Hoa Kỳ. Ngay cả trong khi những nhà lãnh đạo hiện nay xem raphải chạy lung tung để lo đối phó từ cuộc khủng hoảng này sang cuộc khủng hoảng kế tiếp, sự ngụ ý củanhững hình ảnh này vẫn còn có nhiều sự thật. Những đợt bầu cử liên tục và những sự chuyển tiếp lãnh đạo một cách ôn hòa là một thứ mà hầu hết người dân Hoa Kỳ đã quen và không biết giá trị đúng mức của nó, nhưng thật sự đó là một thành quả ngoạn muc mà đa số những quốc gia khác không được biết tới. Sự quan trọng của những định chếtrưởng thành đểbảo đảm sự phát triển bền vững được phơi bầy rõ ràng tại Trung Quốc hơn bất cứ nơi nào khác. Sự thất bại của những định chế này tạo ra một thử thách to lớn nhất cho Đảng Cộng Sản đang cai trị Trung Quốc.
Sự chuyển giao quyền lực lần thứ hai không đổ máu thành công phần lớn nhờ vào sự phát triển của những định chế chính trị ở Trung Quốc. Từ tình trạng xáo động của thời đại Mao Trạch Đông, những sự chuyển tiếp có vẻ tiên đoán được nhưng không vững vàng. Sự thành công trong một số lãnh vực chỉ làm nổi bật những thất bại rành rành ở những nơi khác. Trong bài diễn văn từ biệt tại Đại Hội Đảng thứ 18, Thủ Tướng sắp ra đi Ôn Gia Bảo đã nói (như nhiều lần trước đây) về sự cần thiết hiện nay của việc cải tổ chính trị.
Vì Ông Đặng Tiểu Bình đã mở đầu một thời đại cải tổ kinh tế lịch sử tại Trung Quốc, những nhà lãnh đạo mới cũng phải đi tiên phong về chính trị — hoặc là chịu rủi ro về những hậu quả khốc liệt. Tuy nhiên bất cứ cải tổ nào không bao giờ dễ dàng. Ngay cả đối với Ông Đặng Tiểu Bình, một vị anh hùng của cách mạng Trung Quốc với sự lãnh đạo chính thống không có nghi vấn nào cả, việc cải tổ kinh tế là một cuộc tranh đấu không ngừng. Trong 15 năm sau cùng của cuộc đời, ông phải chiến đấu chống lại những đối phương phản động muốn làm hại những cố gắng của ông. Chỉ có sức mạnh về ý chí của ông đã nuôi dưỡng hạt giống của một nước Trung Hoa hiện đại và xây dựng nền tảng cho một quốc gia mà chúng ta biết ngày nay.

Hình (Xinhua): Ông Đặng Tiểu Bình (1904-1997), người khởi xương chương trình cải tổ Trung Quốc, bao gồm cả hai lãnh vực kinh tế và chính trị. Những nhà lãnh đạo tiếp nối ông tiếp tục trì hoãn cuộc cải tổ chính trị và đang tạo nguy cơ cho một cuôc cách mạng bạo lực tại Trung Quốc (1).
Hình (Xinhua): Ông Đặng Tiểu Bình (1904-1997), người khởi xương chương trình cải tổ Trung Quốc, bao gồm cả hai lãnh vực kinh tế và chính trị. Những nhà lãnh đạo tiếp nối ông tiếp tục trì hoãn cuộc cải tổ chính trị và đang tạo nguy cơ cho một cuôc cách mạng bạo lực tại Trung Quốc (1).
Một cuộc cải tổ chính trị thật sự hầu như sẽ đòi hỏi một cố gắng mạnh mẽ hơn thế. Cải tổ kinh tế cho phép những người chủ trương cải tổ trở nên giầu có hơn, nhưng cải tổ chính trị làm cho những người chủ trương trở nên lỗi thời. Ngày nay không có ai như Ông Đặng Tiểu Bình và khi sức mạnh của những cá nhân giảm bớt, nó không được thay thế bởi một quyền lực có cùng một trình độ tương xứng do những định chế đào tạo. Trong lịch sử, sự thay đổi ở Trung Quốc luôn luôn là tầm nhìn của những cá nhân có uy thế lớn, hoặc là những vị hoàng đế trong thời kỳ đế quốc của quá khứ, những ông tướngquốc gia đánh giặc như Ông Tưởng Giới Thạch hoặc là những lãnh tụ Cộng Sản vĩ đại như Ông Mao Trạch Đông. Ngày nay không có những người này trong giới lãnh đạo Trung Quốc và những định chế hướng dẫn những người nhỏ bé hơn như ở Tây Phương không cung cấp đủ che chở cho họ về mặt chính trị.
Vào giai đoạn đầu của sự nghiệp, Đức Hồng Y Richelieu, vị bộ trưởng nổi tiếng đầu tiên của Vua Pháp Louis XIII và là một trong những nhà kiến trúc của chính trị dựa trên căn bản “quyền lợi quốc gia” đã dùng Ông Francois Le Clerc du Tremblay, một nhà tu thuộc dòng Franciscan, làm cố vấn. Ông thầy dòng yên lặng và khiêm tốn này phát triển một quan hệ cá nhân gần gũi với Đức Hồng Y. Do đó ông thầy dòng Tremblay có biệt hiệu là “Eminence Grise” [eminence là giáo chủ; griselà mầu xám] – áo choàng của thầy tu dòng Franciscan cũng được đặt tên như vậy. Biệt hiệu của thầy dòng xâm nhập vào tự điển và có nghĩa là bất cứ ai có ảnh hưởng làm việc bí mật đàng sau những trung tâm quyền lực chính thức. Ngày nay, những định chế yếu ớt của Trung Quốc truyền lại không phải chỉ một mà tới vài chục quân sư (Eminence Grise).
Vào tháng 11 vừa qua, tờ báo New York Times đã trình bầy một biểu đồ tác động qua lại khá thú vị (2). Biểu đồ này cho thấy vấn đề bằng phương pháp tượng hình. Quyền lực của những cá nhân tại Trung Quốc giảm mỗi lần có thế hệ lãnh đạo mới. Thay vì tập trung vào văn phòng của những nhân vật lãnh đạo này, quyền hành lại được ủy thác và phân tán ra tất cả những người này. Ngày càng có nhiều nhiều đảng viên già về hưu, mỗi người có những quyền lợi cá nhân và cái tôi. Họ sử dụng thế lực của họ từ hậu trường. Ông Tập Cận Bình, cũng như Ông Hồ Cẩm Đào người tiền nhiệm, sẽ phải cai trị theo sự đồng thuận không phải chỉ với Ban Thường Trực hiện nay, mà còn với tất cả những thành viên của những Ban Thường Trực trước ẩn náu ở phía sau. Ngoại trừ một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, làm cho đoàn xiệc gồm những tiểu hoàng đế hài lòng sẽ tạo ra sự trì trệ ghê gớm. Sự trì trệ này hầu như chắc chắn sẽ bóp chết cuộc cải tổ chính trị từ trên xuống trong một tương lai gần có thể thấy trước được.
Người ta nói rằng Ông Đặng Tiểu Bình đã riêng tư gọi Ông Mikhai Gorbachev là một kẻ ngu đần. Ông Đặng Tiểu Bình lập luận rằng chương trình minh bạch hóa (Glasnost) của Ông Gorbachev là liều lĩnh một cách dại dột và nguy hiểm vì đã không hoàn tất tái cấu trúc kinh tế toàn bộ trước hết. Trong sự sáng sáng suốt của một người già có một cái gì hơn là sự thật nhỏ bé.
Trong thập niên 1990, hàng triệu công nhân bị cho nghỉ việc khi Thủ Tướng Chu Dung Cơ (Zhu Rongji) bắt đầu thực hiện cuộc tái cấu trúc đầu tiên các doanh nghiệp nhà nước đang hấp hối. Không dễ để chuyển đổi một nền kinh tế chỉ huy sang một nền kinh tế thị trường. Môt hệ thống khế ước xã hội bảo đảm việc làm của Ông Mao Trạch Đông được gọi là “bát cơm sắt” (iron ricebowl), yếu đuối và vô hiệu quả trầm trọng,đã bị hủy bỏ. Sự bình đẳng về nghèo đói trong 30 năm của Trung Quốc được thay thế bẳngsự tham lợi và phú quí. Trong khi tại những nước dân chủ hơn, những cuộc phản đối bạo lực ở ngoài dường và những viên chức theo phái mị dân được bầu lên có thể làm hỏng chương trình cải tổ khó khăn, nhưng sự cấm đoán tự do phát biểu tại Trung Quốc đã bảo đảm sự hoàn tất của những cải tổ và sự liên tục của lãnh đạo.
Để vấn đề đạo đức qua một bên, việc chuyển tiếp kinh tế tại Trung Quốc đã tiếp diễn một cách trôi chảy hơn những xã hội hậu Cộng Sản khác. Sự nguy hiểm ngày nay là Trung Quốc sẽ không hoàn tất phương trình mà Ông Đặng Tiểu Bình đã hình dung. Ở thời điểm nào Trung Quốc sẽ sẳn sàng cho cuộc cải tổ chính trị? Một cách tự nhiên đây không thể là một câu hỏi, nhưng rửi ro của một cuộc cải tổ chính trị quá sớm ngày càng xem ra ít hơn so với rủi ro của một cuộc cải tổ chậm trễ. Dân Trung Quốc muốn biết liệu những nhà lãnh đạo của họ đang trì hoãn vì Trung Quốc chưa sẵn sàng – hay Đảng Cộng Sản chưa sẵn sàng.
Sự trễ nải xẩy ra đúng ngay lúc mà những cuộc cải tổ nguy kịch trở nên cần thiết hơn. Những chính sách trì hoãn quyết định để hi vọng vấn đề sẽ qua đi của Ông Hồ Cẩm Đào sẽ không thể kéo dài thêm một thập niên nữa. Internet, và đặc biệt là sự phát triển tuyệt vời của Weibo (một sản phẩm của Trung Quốc giống như Twitter), đã giúp cho những thường dân Trung Quốc một khả năng chưa từng có để tố giác những hành vi phi pháp của những viên chức trong chánh quyền. Trong trường hợp không có một đảng thứ hai, phương cách đặc thù này đã chứng tỏ là một cách chữa trị có khả năng nhất đối với tai họa tham nhũng kinh niên trong giới chức chính quyền.
Nhưng Đảng Cộng Sản đã thực hiện những biện pháp để giới hạn những công dân sử dụng Internet. Có những luật lệ mới đòi hỏi họ phải ghi danh với tên thật với Weibo và chánh quyền đã gia tăng mạnh mẽ việc kiểm duyệt toàn bộ Internet. (Đặc biệt, dịch vụ Gmail của Google, trong khi không bị ngăn chặn, nhưng đã trở nên khó sử dụng tại Trung Quốc đến nỗi tác giả thỉnh thoảng phải cần trên 10 phút để gửi những điện thư).
Tại một cuộc họp báo vào tháng 1, 2003, Thủ Tướng lúc đó Chu Dung Cơ được hỏi là khi nào Trung Quốc trù tính mở rộng những cuộc bầu cử trực tiếp thành công với nhiều ứng cử viên ở cấp thấp nhất của hệ thống chính trị tới những cấp bang, tỉnh và quốc gia. Ông trả lời: “Càng sớm càng tốt.”
Mười năm sau, Trung Quốc vẫn còn chờ đợi. Mỗi năm cách biệt lợi tức (thu nhập) gia tăng, những tai nạn ảnh hưởng đến đại chúng nhiều hơn và tham nhũng lại phát triển thêm. Gần đây, một nhóm những nhà trí thức Trung Quốc nổi tiếng đã cảnh báo nhà nước trong một thỉnh nguyện thư mạnh bạo và công khai rằng cuộc cách mạng bạo lực có thể xẩy ra nếu không tiến hành sớm cuộc cải tổ chính trị đã bị đình trệ lâu nay. Dù sao, hồi chuông báo động của nhóm trí thức này rất bảo thủ. Những cuộc thử nghiệm cấp tiến về chủ nghĩa tư bản nhà nước đã đạt được nhiều kết quả lớn lao trong nhiều năm qua, nhưng nếu cải tổ [chinh tri] tiếp tục bịtránh né, tương lai sẽ ảm đạm.
Jonathan Levine - The National Interest
17-1-2013
Người dịch: Nguyễn Quốc Khải
© Đàn Chim Việt
————————————–
Chú thích:
(1) Chú thích của người dịch.
(2) Biểu đồ trình bầy số lãnh tụ có ảnh hưởng ngày càng nhiều tại Trung Quốc:

* Tác gỉa: Ông Johnathan Levin là một giảng viên về nghiên cứu Hoa Kỳ và Anh ngữ của Đại Học Tsinghua tại Bắc Kinh và một phân tách gia tại Wikistrat, một nhóm tham vấn về chiến lược địa lý. Liên lạc qua Twitter tại @levineJonathan.

Huỳnh Thục Vy - Tản mạn về trí thức và thời cuộc

images (2) 
Trước nay, trước mỗi kỳ đại hội đảng CS, thiên hạ hay bàn chuyện ông này, ông kia có tư tưởng cải cách, có khả năng thay đổi thể chế để dân chủ hóa đất nước. Thế rồi hết kỳ này đến kỳ khác đất nước vẫn chìm trong độc tài – đàn áp. Giờ nghĩ lại mới thấy thời cuộc đã làm cho những ưu tư, hy vọng về vận mệnh đất nước vỡ tan.
Cộng đồng yếu đuối mới cần cá nhân anh hùng
Có một thời, giới trí thức trong nước đã hy vọng và hết lời ca ngợi Võ Văn Kiệt như là một chính khách có tư tưởng tiến bộ và gần đây nhất, một số người đặt hy vọng vào Nguyễn Bá Thanh. Chưa nói đến thiện chí thực sự của họ, một cá nhân và một số ít người trong vây cánh của ông ta quả thật quá yếu để tin cậy, bởi không một cá nhân nào trong các chế độ độc tài có khả năng thoát ra khỏi guồng máy cai trị để tiến hành thay đổi thể chế nếu nó đi ngược lại ý chí của tập đoàn (chưa kể đến việc tập đoàn này đang bị khống chế bởi một đàn anh ngoại bang), dù đó là một cựu lãnh đạo hay là một lãnh tụ đương quyền; và càng quá phiêu lưu để giao phó vận mệnh đất nước trong tay một vài người. Bởi con người vốn dĩ không thể tuyệt đối tin cậy, đặc biệt khi họ có quyền lực mà ít chịu trói buộc.
Một “cứu tinh” rồi sẽ trở thành một tên tội đồ nếu xã hội dân sự rã rời. Cái tâm lý sai lầm cố hữu về xã hội và chính trị khiến chúng ta luôn ngộ nhận. Người ta cứ nghĩ mọi thứ có thể giải quyết bằng một đề án chính trị áp đặt từ trên xuống, và mọi đề án chính trị quốc gia có thể được giải quyết với một cá nhân.
Nói đến đây chắc nhiều độc giả liên tưởng đến Gorbachov. Thật ra, trường hợp này không mâu thuẫn với quan điểm của người viết. Tình thế Nga Sô lúc đó buộc đảng CS phải đi đến chỗ sụp đổ. Ông Gorbachov chỉ là người tuyên bố một sự kiện không thể đảo ngược. Cuộc cách mạng Nhung, với sự nổi lên của những người hùng như Gorbachov và Yelsin, đã xảy đến với một nước Nga kiệt quệ sau chiến tranh Lạnh và hầu như không có xã hội dân sự sau thời kỳ CS. Điều đó chỉ mang lại danh tiếng cho các cá nhân này nhưng không đem đến một tương lai đáng mơ ước cho nước Nga. Bởi khi các lực lượng dân sự yếu đuối thì một người hùng có thể mang đất nước ra khỏi, dĩ nhiên có khả năng đưa đất nước trở lại chế độ độc tài. Như chúng ta có thể thấy, một ý chí đầy cảm tính đã khiến Yelsin chọn Putin – một kẻ cực đoan, chống phương Tây – làm người kế tục ông, đã đẩy nước Nga vào một chế độ dân chủ giả hiệu như hôm nay. Người dân Nga chẳng có đóng góp nào cho những cuộc chuyển mình lớn lao của nước họ. Và hậu quả là họ tiếp tục không có tiếng nói đáng kể nào trong các vấn đề đất nước.
Đồng ý, cá nhân vượt trội luôn có vai trò không thể chối cãi trong phong trào xã hội vì khả năng gắn kết những sức mạnh sẵn có và phát huy hiệu quả vận động xã hội, như trong bài viết gần đây nhất của tôi về người lãnh đạo. Nhưng đặt tất cả mọi hy vọng và toàn toàn dựa giẫm vào một cá nhân không phải là tâm lý của một dân tộc trưởng thành. Bởi một dân tộc trưởng thành cần một lãnh đạo chứ không cần lãnh tụ.
Chính trị là tất cả?
Không thể phủ nhận chính trị là quan trọng, bởi nếu nó không quan trọng thì nó đã không tồn tại từ khi con người được tổ chức thành xã hội cho tới bây giờ. Nó quan trọng đến nỗi mọi nỗ lực gạt bỏ quyền lực chính trị (nhà nước) ra khỏi xã hội dù chỉ trên lý thuyết (chủ nghĩa Marx) cuối cùng đã đưa đến một “siêu nhà nước” trong thực tế. Thế nhưng, từ khi nhà nước xuất hiện, chúng ta nhận thấy toàn khối xã hội cơ bản được chia thành hai phía: người được/bị cai trị và người cai trị, xã hội và nhà nước, dân sự và chính trị. Hệ thống chính trị giúp xã hội được điều hành một cách văn minh, quy củ và giữ chức năng trọng tài cho mọi tranh chấp xã hội. Nhưng để giữ cho xã hội hài hòa, cân bằng, đảm bảo tự do cá nhân, tất yếu không thể để nhà nước lấn át xã hội.
Thế nhưng, từ lịch sử bị cai trị chuyên quyền, người Việt Nam coi chính trị là cái gì đó vượt lên trên xã hội, tách khỏi xã hội và độc tôn. Nhưng, chính trị chỉ là một trong nhiều mảng hoạt động trong xã hội con người và tương tác trực tiếp với những cái còn lại. Nhà nước là một hệ thống nên/phải bị kiểm soát bởi sức mạnh dân sự. Khi nhận thức được rằng, ngoài quyền lực chính trị còn có quyền lực kinh tế và quyền lực dân sự, chúng ta sẽ không quá đề cao chính trị và coi nó là đáp án cho mọi vấn đề.
Gần đây, tôi được hỏi rằng: khi tôi lên tiếng đấu tranh, tôi có mong cầu một vị trí chính trị trong tương lai? Dù vô tình hay hữu ý, cách suy nghĩ này xuất phát từ tâm lý coi quyền lực chính trị là độc tôn. Vấn đề không phải ở chỗ người ta cho rằng: những người dấn thân và lên tiếng nên có vị trí xứng đáng; mà vì người ta quá đề cao quyền lực chính trị. Tất nhiên những người can đảm và có thực tài nên được trọng dụng, nhưng tại sao không phải ở chỗ nào khác mà là trong hệ thống chính trị? Chỉ có nắm quyền lực chính trị mới là chỗ đứng thích đáng cho người tài đức? Không nơi đâu khác ngoài chính trị, nơi mà một cá nhân có thể trở nên hữu ích và tỏa sáng?
Đến đây tôi nhớ đến một nhân vật rất nổi bật trong phong trào Otpor ở Serbia – Srdja Popovic. Sau khi chế độ Slobodan Milosevic sụp đổ, anh ta được bầu vào Quốc hội Serbia. Nhưng sau đó ít lâu, anh ta rời khỏi chính trường và thành lập một tổ chức phi chính phủ ở Belgrade. Sự ra đi ấy có thể được suy đoán với nhiều lý do nhưng không thể bỏ qua một lý do quan trọng – đó là sự trưởng thành trong tâm lý và nhận thức của giới trẻ Serbia: chính trị không là tất cả!
Vì coi chính trị là tối cao và là cứu cánh, người Việt Nam vẫn chưa thể tìm thấy sức mạnh thực sự ở chính mình và ở cộng đồng quanh mình khi giải quyết các vấn đề quốc gia, mà luôn trông ngóng vào một chính khách “vĩ đại” làm thay tất cả cho mình. Nhưng làm sao cá nhân nào đó lại thực hiện tốt khát vọng của chúng ta hơn là chính chúng ta? Thực ra, tình trạng chính trị chỉ là biểu hiện của năng lực dân sự. Không thể có chính trị tốt nếu quần chúng chỉ là những con người bạc nhược.
Quả thật, không phải ngoài chính trị ra, không còn “đất dụng võ” cho những người tài năng mà vì chúng ta chưa mở rộng tâm trí và cả tâm lý để nhìn thấy một nơi như thế. Hình như đối với chúng ta, tất cả những gì đáng vinh danh và mong ước đều nằm ở chính trị bởi từ trước đến nay, chúng ta chưa hề được sống trong một không gian khác, một không gian đối trọng với quyền lực chính trị. Chính nơi ấy, một cá nhân không chỉ tỏa sáng mà còn tỏa sáng độc lập, không bị không chế và cũng không cần dựa giẫm vào hào quang chính trị.
Sức mạnh dân sự yếu kém, trí thức bị khinh miệt
Tâm lý dựa giẫm và giao phó đưa đến hai hệ lụy nghiêm trọng. Thứ nhất, sự tuân phục và phụ thuộc vào quyền lực chính trị khiến cho cả xã hội, đặc biệt là giới trí thức, không nhận thức được vị trí quan trọng của mình trong việc giải quyết các vấn nạn xã hội. Điều này tạo điều kiện cho chế độ độc tài cai trị tùy tiện và vô thời hạn. Thứ hai, nếu một nguyên nhân nào đó khiến chế độ độc tài sụp đổ, thì sự yếu kém của các thế lực dân sự sẽ khiến đất nước gặp rất nhiều trở ngại trong việc xây dựng dân chủ, mà trường hợp xấu nhất có thể xảy ra là, sự xuất hiện một chế độ độc tài mới.
Người dân ít học lơ là chuyện xã hội thì đã rõ; giới trung lưu trí thức thì làm ngơ, hoặc có quan tâm nhưng im tiếng, hoặc dựa vào quyền lực chính trị để tiến thân. Sự dựa giẫm vào chính trị tỏ ra đặc biệt nguy hiểm, khi địa vị và sự vinh quang của giới trí thức trong xã hội được ban phát bởi Nhà nước thì không thể nào có suy nghĩ và hành động độc lập hay đối kháng. Cuộc cách mạng Pháp đẫm máu đã không mang lại tự do thực sự cho người Pháp cũng bởi trước đó, giới trung lưu và quý tộc Pháp chỉ là một tập đoàn người tập trung quanh vương miện vua Pháp, ca ngợi và hưởng lợi từ đó. Hiện nay, Việt Nam không có giới trung lưu theo đúng tinh thần: mãnh mẽ, độc lập và có năng lực đối kháng với nhà nước.
Không ngẫu nhiên và vô lý khi cả Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh và những người CS nói chung khinh miệt trí thức. Bởi vì đối với họ, trí thức vừa có quá nhiều chữ để có thể bị lừa gạt lâu dài, nhưng cũng quá nhu nhược để là những đối thủ xứng tầm với họ.Tại sao trung lưu trí thức trong các xã hội tự do là lực lượng tiên phong cho các giá trị dân chủ tiến bộ, còn thân phận trí thức Việt Nam lại rẻ rúng như thế?
Phải chăng khi còn mang tâm lý xem chính trị là tất cả, các công dân chưa thể thoát khỏi thân phận thần dân? Phải chăng khi trí thức chưa nhận thấy vai trò to lớn của mình là đảm đương và lãnh đạo khối dân sự, kiềm chế khối chính trị; mà chỉ bám vào chính trị để “vinh thân phì gia” thì chính trị sẽ còn kiêu ngạo và mặc sức tung hoành? Phải chăng khi khối hoạt động dân sự vẫn yếu đuối, và trí thức chỉ là người đi bên lề mọi quyết định quan trọng của quốc gia; thì trí thức – trung lưu vẫn bị coi thường và con đường đi đến Tự do của dân tộc sẽ vô vàn khó khăn?
Thay lời kết
Đất nước đang đối mặt với những bế tắc và khủng hoảng. Kinh tế đang kiệt quệ. Đảng CSVN đang mạnh tay đàn áp đối kháng để giành ưu thế thời gian cho một cuộc đào thoát lớn của họ. Vận mệnh nước nhà sẽ giao vào tay ai nếu không đặt lên vai mọi tầng lớp dân chúng, đặc biệt là tầng lớp trung lưu trí thức? Đây chính là cơ hội để giới trí thức dành lại trọng trách, khẳng định vai trò và mở rộng tầm vóc của mình. Vị trí cao quý nhất cho những người trí thức không nhất thiết phải là trong một thế lực chính trị mà là trong xã hội dân sự đang nhen nhóm hình thành. Người trí thức phải nhận lấy vai trò và vinh quang của một thế lực dân sự có khả năng kìm chế quyền lực chính trị. Còn gì quan trọng và vinh dự hơn vai trò kiểm soát nhà nước? Còn gì nổi bật hơn vị thế “lương đống” cho toàn khối dân sự? Còn gì đáng mong ước hơn tư cách độc lập và không bị ràng buộc bởi bất cứ thế lực chính trị nào để chỉ hành động vì quyền lợi quốc gia?
Để rồi từ đó, bắt đầu một giai đoạn lịch sử hoàn toàn mới cho Việt Nam, trí thức giờ đây không còn chịu thân phận bề tôi mà mạnh mẽ sánh ngang với quyền lực chính trị, để thực hiện những nhiệm vụ mà lịch sử và quốc gia giao phó. Trút bỏ được sự ràng buộc với chính trị và tâm lý e dè đối với quyền lực chính trị, tầng lớp trí thức Việt Nam sẽ là Hercules, có sức mạnh nâng đỡ cả dân tộc.

Buôn Hồ ngày 23 tháng 1 năm 2013

© Huỳnh Thục Vy

© Đàn Chim Việt

Việt Nam sửa đổi hiến pháp nhằm hỗ trợ cải cách kinh tế

Việt Nam sẽ sửa đổi hiến pháp để hỗ trợ cho việc cải cách kinh tế giữa lúc nước này đang tìm cách mở rộng tăng trưởng từ kế hoạch kinh tế tập trung theo kiểu Liên Xô sang mô hình định hướng thị trường từ hơn hai thập kỷ trước.
Theo bản tin trên trang web chính phủ thì mục đích là để đảm bảo sự đồng bộ trong việc cải cách chính trị và kinh tế, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên cho biết trong một phiên họp và trả lời các câu hỏi liên quan đến các phiên bản dự thảo [sửa đổi hiến pháp]. Một số điều sẽ được sửa đổi bao gồm các mảng kinh tế, giáo dục, môi trường và văn hóa, theo ông Nguyễn Văn Phúc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội khóa XII và Phó Trưởng Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nói.
“Hiến pháp năm 1992 đã được xây dựng khi chúng tôi bắt đầu quá trình cải cách kinh tế”, ông Liên nói. “Hiến pháp năm 1992 nhắm mục tiêu thay đổi kinh tế, với sự chuyển đổi quan trọng từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế định hướng thị trường. Chúng tôi đã đạt được những thành tựu to lớn trong vòng 20 năm qua. Tổng kết thực hiện Hiến pháp 1992 trong 20 năm qua, chúng tôi nhận ra rằng vẫn còn nhiều vướng mắc.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý, Trưởng Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và hai Phó Trưởng Ban biên tập Lê Minh Thông, Nguyễn Văn Phúc chủ trì buổi họp báo. Ảnh: Tiền Phong Online
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý, Trưởng Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và hai Phó Trưởng Ban biên tập Lê Minh Thông, Nguyễn Văn Phúc chủ trì buổi họp báo. Ảnh: Tiền Phong Online
Sau khi khu vực Đông Nam Á trở thành điểm đến của giới đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã nhanh chóng nới lỏng hơn qua chính sách “Đổi mới” từ đầu năm 1986, cho phép đổi mới kinh tế và doanh nghiệp tư nhân. Chính phủ do Đảng Cộng sản Việt Nam điều hành đã cam kết cơ cấu lại ngành ngân hàng, hạn chế tham nhũng và tổ chức lại lĩnh vực công khi tăng trưởng đang trên đà sụt giảm, bị các đối thủ như Indonesia bỏ lại phía sau trong những năm gần đây.
Tăng trưởng ‘thấp’
Việt Nam phải chấp nhận tăng trưởng kinh tế “thấp” trong lúc tái cấu trúc lại nền kinh tế và nhắm mục tiêu tăng trưởng hàng năm ít nhất là 5%, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói. Kinh tế tại Việt Nam chỉ tăng trưởng 5,03% trong năm 2012, mức thấp nhất trong 13 năm qua do vốn vây từ ngành ngân hàng cũng như nhu cầu nội địa suy giảm, gây thêm áp lực lên chính phủ đối với việc cải cách lại hệ thống tài chính để thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn.
Bản dự thảo hiến pháp sửa đổi đã loại bỏ ngôn ngữ quy định rằng khu vực nhà nước sẽ “đảm nhận vai trò chủ đạo” trong nền kinh tế quốc gia.
“Việc này cho thấy một bước tiến rất lớn và sự thay đổi trong tư duy”, kinh tế gia Lê Đăng Doanh, cố vấn cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cho biết. “Nếu bản dự thảo này được phê duyệt thì các doanh nghiệp nhà nước sẽ không còn cơ sở nào để tiếp tục nhận tiền cũng như sự quan tâm đặc biệt từ phía chính phủ”.
Bản dự thảo cũng gián tiếp thừa nhận vai trò của khu vực kinh tế tư nhân.
Đối xử công bằng
“Nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế”, bản dự thảo viết. “Tất cả các thành phần kinh tế đều là những thành phần quan trọng của nền kinh tế quốc gia, và tất cả sẽ được phát triển trong thời gian dài hạn”. Theo bản dự thảo thì tất cả những thành phần này sẽ hoạt động bình đẳng và cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Thông tin về sự thay đổi này đã được đăng trên trang web của chính phủ để lấy thêm ý kiến  từ công chúng trong tháng này.
Bản hiến pháp sửa đổi sẽ nhấn mạnh về quyền con người và quyền công dân, ông Phúc cho biết kèm các thông tin được đưa ra trên trang web của chính phủ ngày 23 tháng Một vừa qua. Thay đổi hiến pháp lần này sẽ là “tiền đề chính trị để phát triển kinh tế”, ông Liên nói.
Bản dự thảo sửa đổi sẽ được trình lên Quốc hội để phê duyệt sau khi tham khảo ý kiến ​​công chúng. Quốc hội sẽ hoàn chỉnh bản dự thảo hiến pháp sửa đổi vào ngày 31 tháng Ba và sẽ tiếp tục được thảo luận tại cuộc họp tiếp theo vào tháng Năm. Phiên bản cuối cùng sẽ được xem xét và phê duyệt vào cuối năm nay, ông Nguyễn Sĩ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho biết qua điện thoại ngày 24 tháng Một, 2013.

Nick Heath & Nguyễn Diệu Tú Uyên -  Bloomberg

Thanh Ngân chuyển ngữ, CTV Phía Trước

Liên hệ với biên tập viên chịu trách nhiệm về bài viết này: Stephanie Phang qua email sphang@bloomberg.net
© Bản tiếng Việt TC Phía Trước 

Vì sao Báo chí chính thống không có người đọc?

Phát biểu tại hội nghị tổng kết công tác năm 2012, triển khai nhiệm vụ năm 2013 của ngành tuyên giáo mới đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, chưa bao giờ Việt Nam có đội ngũ làm công tác tư tưởng hùng hậu, phương tiện hiện đại, nhanh nhạy như bây giờ, với hơn 800 cơ quan báo chí, hàng nghìn ấn phẩm, 17.000 nhà báo...
Mặc dù vậy, đây đó vẫn có băn khoăn, thậm chí của cán bộ có trách nhiệm là tại sao chúng ta có một hệ thống báo chí hùng hậu như vậy mà thông tin lưu truyền trong xã hội lại là thông tin từ blog cá nhân?
Thực ra không hẳn như vậy. Cái gọi là “thông tin lưu truyền trong xã hội” không phải thông tin báo chí và không thể lấn lướt được dòng thông tin chủ lưu. Sẽ là thiếu sót nếu không làm rõ việc các báo điện tử hàng đầu luôn có lượng độc giả truy cập lên tới 7 con số hàng ngày và trên mặt bằng báo chí, một số báo điện tử của chúng ta được xếp hạng ngang ngửa với các báo xuất hiện trước hàng chục năm.
Trong lĩnh vực thông tin chính thống, hệ thống báo giấy, báo mạng từ Trung ương đến các ngành, các địa phương đang làm chủ diễn đàn, hướng dẫn dư luận và đấu tranh với các thông tin sai trái bịa đặt, xuyên tạc. Dòng thông tin chủ lưu được tổng hòa từ toàn bộ hệ thống báo chí cách mạng.
Đây hẳn là lý do để Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá rằng, chưa bao giờ chúng ta có đội ngũ làm công tác tư tưởng hùng hậu, phương tiện hiện đại, nhanh nhạy như bây giờ. Nếu nói các thông tin từ blog được lưu truyền lấn lướt hệ thống báo chí rất có thể sẽ là phiến diện. Trước hết cần làm rõ các thông tin blog này là thông tin lĩnh vực nào?
Hình như bây giờ, thông tin về giới showbiz nặng về đời tư, tình yêu, scandal, lộ hàng, trưng diện khoe của… không còn nóng nữa. Bạn đọc chân chính quá nhàm chán và dễ dàng bỏ qua loại tin tức này rồi. Đáng tiếc là chính một số trang mạng đã vẽ đường cho hươu chạy, tiếp sức không công cho các thông tin loại này gây ngộ nhận về độ bao phủ thông tin.
Tất nhiên trong hệ thống báo chí với 800 đầu mối không khỏi có lúc có nơi để xảy ra sai sót, thậm chí vi phạm. Được biết, trong năm 2012, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xử lý vi phạm 57 cơ quan báo chí, thu 6 thẻ nhà báo, đình bản 2 tờ báo điện tử, 9 ấn phẩm tự đình bản. Theo Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn đây là sự răn đe nghiêm khắc của cơ quan Nhà nước đối với một số cơ quan báo chí.
Được biết, trong tất cả các văn bản, kể cả quy chế của Ban Bí thư về thông tin nói chung, trong đó có cả một số thông tin về vấn đề phức tạp, nhạy cảm, cũng như quy chế về phát ngôn và thông tin cho báo chí, nếu thực hiện tốt cũng đã giúp cho báo chí có những nguồn thông tin quan trọng, chính xác, kịp thời để thông tin đến công chúng. Nhưng trong thực tế, những người có trách nhiệm thay mặt cho các cơ quan hành chính Nhà nước, khi sự kiện xảy ra, hoặc những thông tin mang tính thường xuyên thì không có chế độ thông tin kịp thời. Thậm chí, đối với những vấn đề nổi cộm còn bị né tránh, ngại trách nhiệm. Vì vậy có báo đã tiếp cận những nguồn thông tin có khi độ tin cậy thấphoặc không đủ độ tin cậy, dẫn đến thông tin thiếu chính xác, hoặc không đại diện, không thể hiện đầy đủ tính chính thống.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, đây là vấn đề đã đề cập trong tổng kết 5 năm thực hiện Quyết định 77 của Thủ tướng Chính phủ về cung cấp thông tin cho báo chí. Vấn đề quan trọng nhất của báo chí vẫn là vấn đề thông tin. Cho nên, việc đổi mới cung cấp thông tin là vấn đề đang được đặt ra.
Làm sao để các cơ quan, ban, ngành, địa phương bảo đảm chủ động cung cấp thông tin cho báo chí. Đây cũng chính là định hướng dư luận về những vấn đề mà xã hội quan tâm chắc chắn sẽ rất thuận lợi. Còn nhớ vụ máy bay của hàng không Việt Nam bị sét đánh gây thảm họa ở Thái Lan mãi mới có thông tin chính thức.
Gần đây chúng ta có thêm bài học về việc báo chí chủ động thông tin, làm rõ mục đích, yêu cầu, lộ trình, cách làm trong việc cấm đốt pháo, đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy tham gia giao thông thì người dân thấy đó là lợi ích thực sự và sau đó, nghiêm túc thực hiện trở thành nét đẹp văn hóa của cả xã hội.
Trong thực tế, từng có những vụ việc xảy ra nhưng do có ý kiến lo ngại nếu thông tin sẽ hoang mang, lo lắng không cần thiết, dẫn đến “bí mật hóa” quá mức như các vụ tai nạn, hỏa hoạn lớn, cưỡng chế giải phóng mặt bằng… khiến báo chí chính thống không giữ được thế chủ động thông tin. Vì vậy trong các trường hợp này, dòng thông tin chủ lưu đã bị cản bởi các tin tức lan truyền trên mạng, trên blog. Theo các nhà báo lão thành, tại sao trước một cuộc cưỡng chế các cơ quan chức năng không chịu cung cấp đầy đủ thông tin cho báo chí về nội dung, ý nghĩa, cách thức và đề nghị báo chí tập trung định hướng, tạo sự nhất quán trong chỉ đạo giữa Trung ương và địa phương, giữa báo chí và các cơ quan chỉ đạo thì thiết nghĩ chắc chắn sẽ tốt hơn rất nhiều.
Gần đây, Thủ tướng đã giao Bộ Thông tin và Truyền thông tổng hợp ý kiến các bộ, ban, ngành, địa phương để có một quyết định thay thế Quyết định 77. Trong đó sẽ có những chế tài, những quy định bắt buộc. Nếu cơ quan, đơn vị và cá nhân không thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin và phát ngôn thì được xem là vi phạm quy định của Chính phủ, vi phạm quy định của Luật Báo chí và sẽ bị xem xét. Hy vọng, khi đó tính nghiêm minh sẽ cao hơn rất nhiều.
Đã đến lúc, theo Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn là cần có đủ cán bộ, công chức có kỹ năng, bản lĩnh, tác phong, thái độ để thay mặt cho cơ quan hành chính Nhà nước phát ngôn báo chí.Và cũng theo báo giới, Luật Báo chí cần sửa đổi. Trong sự phát triển của thông tin truyền thông hiện nay đã có những loại hình rất mới, như báo điện tử, cần có sự điều chỉnh của pháp luật.
Gần đây, trong báo giới lại rộ lên việc xử lý thông tin “nhạy cảm” đang làm khó các tổng biên tập. Khái niệm “nhạy cảm” hiện chưa được làm rõ bởi không có tiêu chí cụ thể. Phóng viên thì hào hứng muốn đưa tin ngay vì vấn đề đang nóng, hấp dẫn dư luận. Thế nhưng, Ban Biên tập một số tờ báo lại ngại ngần đụng chạm, cân nhắc lâu khiến thông tin báo nhà bị thiu và báo ngoài thì nóng. Nhưng cũng có báo sa đà vào những thông tin “nhạy cảm” này với mục đích câu khách, khiến có trang, có mục trở nên lạc lõng, thậm chí bị chính bạn đọc lên tiếng phản bác trước khi cơ quan quản lý nhắc nhở.
Theo các nhà báo lão thành, cả hai khuynh hướng “nhạy cảm hóa” và “bình thường hóa” thái quá đều bất cập, ảnh hưởng đến vai trò của các báo chính thống khi tham gia dòng thông tin chủ lưu. Hãy trao quyền cho Tổng biên tập tự chịu trách nhiệm khi xử lý thông tin, kể cả thông tin “nhạy cảm”.

Bảo Dân
(PetroTimes) 

Việt Nam ký hợp đồng xây nhà máy lọc dầu 9 tỉ đôla


Nhà máy lọc dầu Dung Quất tại Quảng Ngãi, Việt Nam.

Hôm Chủ nhật, Việt Nam đã ký hợp đồng với các công ty của Nhật Bản và Kuwait để xây một khu phức hợp lọc dầu gần 9 tỉ đôla, trong nỗ lực đáp ứng nhu cầu năng lượng của mình.

Quần thể nhà máy lọc dầu Nghi Sơn trong tỉnh Thanh Hóa sẽ bước vào hoạt động năm 2017, biến dầu hỏa của Kuwait thành xăng và các sản phẩm dầu hỏa khác, nhà máy có thể xử lý 10 triệu tấn dầu thô một năm.

Đây là một liên doanh giữa tập đoàn PetroVietnam và hai công ty của Nhật - Idemitsu Kosan và Mitsui Chemicals – cộng với công ty Petroleum International của Kuwait.

Việt Nam có dầu hỏa ở vùng biển nhưng vẫn chi nhiều tỉ đôla mỗi năm để nhập xăng dầu tiêu dùng.

Nhà máy Nghi Sơn đã được khánh thành hồi tháng 5, năm 2008 nhưng dự án này đã gặp một số vấn đề nên phải dời lại.

Một giới chức của PetroVietnam nói với hãng tin AFP chưa biết ngày khởi công xây dựng lần này.

Nhà máy lọc dầu Dung Quất đầu tiên, xây tốn 2,5 tỉ đôla có công suất 6,5 triệu tấn dầu thô một năm, khai trương năm 2009 sau nhiều lần trì hoãn.

PetroVietnam hy vọng hai nhà máy Dung Quất và Nghi Sơn sẽ giải quyết 65% nhu cầu dầu khí của Việt Nam.

Một nhà máy lọc dầu thứ ba tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đang được chuẩn bị.

Nguồn: AFP, france24.com
VOA

Việt Nam bó tay trước 'bệnh' địa ốc đóng băng

“Chữa bệnh mà không biết bệnh nhân có bệnh gì.” Ðây là một trong những lời chỉ trích người ta nghe thấy trong cuộc “giải trình” về các biện pháp của nhà nước loay hoay cứu thị trường địa ốc đang “đóng băng” vừa được tổ chức buổi sáng ngày Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013 tại Ủy Ban Kinh Tế của Quốc Hội CSVN.
Quan chức các Bộ Xây Dựng, Bộ Kế Hoạch và Ðầu Tư, Bộ Tài Chính, Bộ Công Thương, và Ngân Hàng Nhà Nước cùng với những tập báo cáo về “thực trạng và giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản” có vẻ vừa che đậy sự thật, vừa không biết giải pháp nào đem đến hiệu quả mà “tiền cứu” thì bây giờ đào ở đâu ra, chưa ai biết đích xác.

Những căn biệt thự xây dở dang ở một khu vực thuộc ngoại ô Hà Nội hiện đang bị bỏ hoang cho cỏ dại mọc vì bán không ai mua. Nhà đầu tư phần lớn là các đại gia quốc doanh đang lún sâu trong nợ nần, kéo theo các ngân hàng. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/GettyImages)
Người ta mới chỉ thấy những giải pháp được “bàn.”
Giữa tháng 12, 2012, báo Lao Ðộng dẫn một bài tham luận về kinh tế Việt Nam năm 2012 của bộ phận nghiên cứu thuộc tổ chức đầu tư Dragon Capital cho biết, trên các thành phố lớn, đặc biệt là Sài Gòn và Hà Nội, hiện đang “tồn kho” tới 70,000 căn nhà và biệt thự xây dở dang rồi bỏ cho cỏ mọc. Các nhà đầu tư mà không ít là các đại gia quốc doanh “mượn đầu heo nấu cháo” bị chôn trong đó từ 70,000 tỉ đồng (lối 3.5 tỉ USD) tới 140,000 tỉ đồng (lối 7 tỉ USD) nếu tính trung bình trị giá các căn nhà đó từ 1 tỉ đồng (50,000 USD) đến 2 tỉ đồng (100,000 USD).
Tờ báo dẫn chi tiết của bản tham luận cho biết 69 đại gia đầu tư địa ốc (gồm nhiều đại gia quốc doanh của Bộ Xây Dựng CSVN) niêm yết trên sàn giao dịch, tính đến quý thứ tư của năm 2011, đã gánh số nợ khoảng 67,000 tỉ đồng (khoảng 3.35 tỉ USD) từ các ngân hàng thương mại và phải trả tiền lời mỗi năm 13,400 tỉ đồng (khoảng 670 triệu USD).
Riêng trong năm nay, nợ đáo hạn phải trả lên đến 39,800 tỉ đồng hay khoảng $1.99 tỉ USD. Các công ty đầu tư xây cất không bán được nhà, không có tiền trả nợ, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam ôm một số nợ khó đòi khổng lồ, rất có thể mất luôn.
Theo tờ Lao Ðộng, tiền mặt của 69 đại gia đó chỉ đủ trả một phần tư số nợ và “lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trước lãi vay và thuế chỉ bằng 1/3 chi phí lãi vay mỗi năm. Ước lượng, tổng tiền nợ khách hàng của các doanh nghiệp bất động sản chừng 50,000 tỉ đồng - tương đương 2.5 tỉ USD. Ðây là số nợ khủng khiếp. Con số này có thể còn lớn hơn cả nợ xấu ngân hàng.”
Bán không được, bị chôn vốn, có những công ty quảng cáo bán giảm giá tới 50% trên 1m2. Liên tiếp mấy năm trước, tăng trưởng kinh tế hơn 7%, nhà xây lên bán ào ào. Nhiều công ty quốc doanh lớn dù không phải trong ngành xây dựng, như Vinashin, cũng chen vào vay tiền ngân hàng xây nhà kiếm ăn.
“Những năm qua, thị trường bất động sản Việt Nam phát triển không ổn định. Những cơn sốt giá và lợi nhuận trong kinh doanh đã phát đi những tín hiệu sai lệch về nhu cầu và khả năng chi trả thực sự của thị trường, tạo nên làn sóng doanh nghiệp ồ ạt đổ vào đầu tư phát triển bất động sản, kể cả các đơn vị không có kinh nghiệm và năng lực tài chính. Dư nợ cho vay bất động sản tăng nhanh lại đầu tư quá lớn vào phân khúc cao cấp, trong khi nguồn cầu lại chủ yếu là phân khúc bình dân và thu nhập thấp.” Ông Nguyễn Trần Nam, thứ trưởng Bộ Xây Dựng CSVN nói trên báo Lao Ðộng.
Tuy nhiên, trong cuộc “giải trình” ở Quốc Hội ngày 24 tháng 1, 2013, ông Ngô Văn Minh, ủy viên Ủy Ban Pháp Luật của Quốc Hội CSVN căn cứ trên tài liệu báo cáo dài 29 trang giấy của Bộ Xây Dựng nói cách giải thích (trong tài liệu) về “sự trầm lắng của thị trường bất động sản chưa chuẩn, từ đó cách tiếp cận chưa thuyết phục.”
Ông đại biểu này đả kích giải pháp sẽ đi vay rồi trả tiền lời 3% cho nhà đầu tư hoặc cộng thêm 1% cho người mua nhà (phải trả thêm) thì “không khả thi.”
Ông cũng kêu rằng một căn nhà bán 1 tỉ đồng cộng với tiền lãi 100 triệu đồng phải trả mỗi năm thì “người thu nhập thấp làm gì có tiền mà mua nhà, khi đó không giải cứu được thị trường, nợ xấu chồng lên nợ xấu...”
Theo bản tin trên báo VNEconomy hôm Thứ Năm, “Nêu các con số về nợ xấu liên quan đến bất động sản khác xa nhau, Ủy viên Ủy Ban Kinh Tế Trần Xuân Hòa bình luận thực trạng thị trường còn là điều bí ẩn, vậy nên việc giải cứu giống như đang chữa bệnh mà không biết bệnh nhân có bệnh gì.”
Nói khác, các quan chức của đảng và nhà nước, vì lợi ích cục bộ, vẫn che giấu sự thật. Họ chỉ muốn bơm được thật nhiều tiền như một thứ cây tầm gửi ăn bám cần được cây mẹ nuôi sữa.
Ông Trần Du Lịch, một nhà kinh tế và đại biểu Quốc Hội ở Sài Gòn thì kêu “càng can thiệp, coi chừng càng rối.”
Ngày 10 tháng 1, 2013, ông Nguyễn Bá Thanh, bí thư thành ủy Ðà Nẵng mới được phát cho chức Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương của đảng CSVN, điểm mặt mấy đại gia lươn lẹo đầu tư địa ốc và dọa “hốt liền, không nói nhiều.”
Nhưng với cái núi nợ khổng lồ có thể mất luôn, các đại gia đầu tư địa ốc đang chờ những “gói cứu trợ” chứ không phải chờ bị hốt.
(Người Việt) 

Phỏng vấn một me Tây

Gần đây truyền thông trong nước rộ lên những chủ đề tranh cãi về đẳng cấp của đàn ông Việt Nam trên trường quốc tế. Một cô nghệ sĩ múa tên là Michiyo Phạm Ngà đen so sánh trai Việt với trai Tây qua những ngôn từ biếm chỉ làm dấy lên một làn sóng sôi nổi trên các trang mạng xã hội về vai trò của người đàn ông vs. phụ nữ trong xã hội Việt Nam.

Người Việt Ðông Bắc thông qua Blog RFA (Ðài Á Châu Tự Do) của Trần Ðông Ðức xin giới thiệu bài phỏng vấn tự nguyện của một “Me Tây” có nội dung liên quan đến trào lưu đang nóng này. Lê Anh Thư cũng người từng cộng tác với blog RFA qua các chuyên đề về Trung Quốc. Lê Anh Thư (người gốc Nghệ An) từng du học ở Trung Quốc và nay lấy chồng và định cư ở Pháp. Cô nói được 4 ngoại ngữ, Trung Quốc, Anh, Pháp, Tây Ban Nha và có nhiều góc nhìn rất đặc biệt về văn hóa chính trị xã hội v.v... Xin giới thiệu “cuộc phỏng vấn” này:

-Phóng viên (viết tắt PV): Xin mợ cho biết tên?

-Me Tây (viết tắt Me): Chú cứ gọi me Tây, me đại diện cho 1 group đương manh nha bành trướng xã hội. Group còn lại thì có thể gọi là các me Ta.

-PV: Vầng, me nghĩ thế nào trước trào lưu cặp giai nước lạ, lấy chồng ngoại ạ?

-Me: Tốt! Báo hiệu một xã hội bắt đầu cởi mở. Dung nạp được các sắc tộc, màu da, luồng văn hóa, chính kiến khác nhau. Quốc gia càng phát triển thì yêu đương hôn nhân đa chủng tộc càng nhiều, đừng cãi. Sang Âu, Mỹ, Latin mà coi..


-PV:ng ở các xứ ấy... có phân biệt chủng tộc ạ?
-Me: Hỏi ngẩn! Phân biệt đối xử là thứ muôn đời tồn tại ở bất cứ đâu. Những quốc gia đa màu... thực chất ít phân biệt chúng tộc hơn dòng thuần chủng một màu. Tại vì họ có kinh nghiệm đón tiếp và quản lý các sắc dân khác nhau. Và mảnh đất đó phải màu mỡ thì hàng ngày trắng đen vàng đỏ mới đổ đến kìn kìn, nào có ai ép người tứ xứ di cư đến đó. Còn dửng nơi mà tuyền đầu đen, hoặc tuyền đầu vàng... tất nhiên quan trên không có kinh nghiệm quản lý đa sắc tộc. Người dân cũng không có phông nền văn hóa đa sắc. Càng dễ phân biệt đối xử nhố nhăng kệch cỡm. Mà nói thẳng ra, chính họ, những đồng bào thuần chủng, quay ra phân biệt và kỳ thị lẫn nhau.
-PV: Nhưng chưa chắc cuộc hôn nhân đa sắc đã tồn tại được lâu dài?
-Me: Trào lưu nào dù có tiến bộ đến mấy, cũng có những thử nghiệm thất bại. Ðể đúc được vỏ chai nước hoa Thierry Mugler , người ta mất 2 năm thử nghiệm cưng ạ. Hàng trăm khuôn demo đã bị đập bỏ... Rồi mới dẫn đến cái thành tựu là 1 trong 10 chai bán chạy nhất mọi thời đại.
-PV: Me quen anh í ở đâu, chắc là thơ mộng lắm?
-Me: Cũng thường thôi, quán bar Propaganda ở Bắc Kinh. Ðêm ấy me chủ động làm quen xin số điện thoại (xong nhủ thầm... éo bao giờ tao liên lạc đâu)
-PV: Èo! Me không sợ bị mang tiếng à? Với lại quen ở bar thường là thành phần tạp nham, mối quan hệ không đứng đắn?
-Me: Nẫu! Ở xứ Châu Á chúng ta, nơi nào chả hỗn loạn nham hiểm. Trong nhà trường đáng phải thánh thiện, chúng ta mua bán điểm chác bằng cấp. Trong bệnh viện đáng phải thuần khiết, bác sĩ y tá vòi tiền tắc trách... bỏ mặc sinh mệnh con bệnh. Trong văn phòng đáng phải sáng choang, chúng ta bàn chuyện tham nhũng hối lộ buôn lậu mánh mung, đá ông nọ lật thằng kia... Trong khuôn viên Vinashin đáng nhẽ phải chứa những lãnh đạo tài ba với công nhân miệt mài, chúng ta lại có những con dòi ăn hại hàng tỷ đô. Xét đi xét lại, đâm ra quán bar lại là nơi vui tươi nhí nhảnh trong sáng hết. Ai đi bar cũng ăn mặc đẹp, vui vẻ, hay chí ít cũng tỏ ra lãng mạn, ăn nói ngọt ngào dễ nghe... Giai gái đi bar để giải trí cưa cẩm, chứ không thấy mấy ai đi bar bàn chuyện tham nhũng hay vòi tiền lường gạt cả. Chả làm quen trai ở bar thì đi đâu cho trong sạch?
-PV: Khéo me có lý. Ðàn ông phương Tây nghe đâu sợ cưới xin, hôn nhân?
-Me: Thú thật, me không rõ lắm, vì me mới cưới có 1 chồng Tây, chứ me chưa cưới hết cả tập thể “đàn ông phương Tây” bao la để biết được chúng nghĩ gì. Chỉ biết hôm cưới, lão nhà được me đặt may cho bộ đũi trắng không đụng hàng, được cầm bó hoa không đụng hàng, được trèo lên con xe cổ không đụng hàng. Lão thì thầm vào tai me: Em làm tôi biến thành movie star, movie star hi hi...
-PV: Sau đám cưới, me sống ra sao?
-Me: Bọn me ăn cơm trước kẻng 5 năm trời sống với nhau rồi mới cưới. Sau đám cưới á, y như lúc trước, tức là vui vẻ hạnh phúc, mặc dù cũng có những mâu thuẫn vớ vẩn...
-PV: Ðàn ông phương Tây chắc hâm mộ phụ nữ VN lắm? Nhân hậu vị tha, đảm đang, tần tảo hy sinh, công dung ngôn hạnh này. Không đâu được như phụ nữ VN ta đâu me nhỉ?
-Me: Phỉ phui cái mồm. Tư duy con lừa cụt đuôi. Cái gì mà đàn ông phương Tây hâm mộ phụ nữ VN. Cái đó chính là dân tộc ta bày ra để tự sướng với nhau, và để đầy ải phụ nữ trong cái danh xưng nết na. Mật ngọt chết ruồi. Thẳng thắn ra ranking của phụ nữ VN trên trường quốc tế không hề cao, cưng đừng ảo tưởng. Phụ nữ VN bị đàn ông nó nhử cái bả nhân hậu hy sinh, thế là cảm đám kéo nhau chui vào cái bẫy ấy. Rồi tự hoang tưởng tâng bốc nhau lên, phải cần cù nhẫn nại hy sinh. Phải bỏ hết mọi cái tôi, bỏ mọi sở nguyện để cống hiến cho chồng và... nhà chồng, thế mới là đàn bà Việt??!!! Hơ hơ me nói thẳng, nơi nào tôn vinh hy sinh với công dung ngôn hạnh, nơi ấy đàn bà chỉ có... bất hạnh.
-PV: Vậy ra ranking của phụ nữ VN thấp ạ? Ðàn ông VN thì sao?
-Me: Ranking phụ nữ VN thấp dẫn đến hệ quả là ranking đàn ông VN cũng chả cao. Bởi hai giống này sinh ra nhau, giáo dục nhau.
-PV: Nhưng em tưởng phụ nữ VN đảm đang nội trợ chứ nhỉ? Cái gì làm nên người đàn bà đích thực nhỉ?
-Me: Mời chú tẩy não đi. Nội trợ là thứ dễ ợt, he he quá đơn giản. Cô nào dốt đến mấy cho học vài khóa về nấu ăn, dọn dẹp, giặt đồ... vươn vươn, là xong. Cái làm nên người đàn bà đích thực không phải ở nội trợ cưng ạ. Học từ gốc chứ bố ai học từ ngọn như thế. Ðàn bà đích thực là người biết yêu thương bản thân, biết nâng cấp bản thân từng ngày. Có cái đó rồi sẽ dẫn đến mọi thứ khác. Ý thức quyết định hành động.
-PV: Nâng cấp bản thân à? Phụ nữ VN thường học xong ÐH (mà sao luôn luôn là ÐH nhỉ?), đi làm vài năm rồi lấy chồng. Họ nghĩ kiến thức thế là đủ...
-Me: Ờ, vậy nên đất nước mới nhuôm nhoam thế. Từng người dân mới vất vả cần lao thế. Chưa biết gì về cuộc sống, chỉ vì lời sàm tấu của xã hội mà vội lao và xây tổ ấm. Họ tạo số phận của họ. You are what you do...
-PV: Ðàn ông VN có cần nâng cấp bản thân không?
-Me: Ðàn ông đàn bà, đàn đông đàn Tây đều cần hết. Me trước có ex, anh ta bảo xong ÐH rồi là ok. Ði sang đến China nước bạn thôi, cùng văn hóa với ta thôi mà anh ta lúng túng như gà mắc tóc. Vì tự quản lý cuộc sống, tự đối diện với bản ngã cô đơn.. chao ơi mới khó làm sao. Anh ta bấu víu vào các cô bạn gái, chia tay cô này thì phải kiếm ngay cô khác.. vì không thể sống xa nhà được. Vậy đó.
-PV: Anh nhà me thì sao?
-Me: Như me... Me không có số lấy đại trí thức, vì kiến thức của me cũng chụp giật lởm khởm bỏ cha. Nhưng kiếm được người đầu óc không ngừng vận động, canh tân làm mới bản thân. Học tốt, làm tốt cái này rồi thì sẽ nhảy sang cái khác thử sức... Anh ấy cũng phải cách mạng bản thân triệt để thì mới giữ được me chứ, đùa đâu. Me đâu phải “con rùa nuôi nơi xó bếp” mà đứng hoài một chỗ (chữ mượn của Tô Hoài).
-PV: Thế mà các anh VN lại bẩu gái Việt lấy Tây là đú đởn, hư hỏng, vì sex?
-Me: Nó nói đúng mẹ rồi, vì sex chứ còn gì nữa. Thế hóa ra lấy chồng VN không vì... sex? Ðàn ông VN cổ vũ đàn bà hy sinh hết mọi thứ, hy sinh mẹ cả nhu cầu sex? Thế hóa ra sống để cống nạp hiến dâng chứ éo phải để làm con đàn bà đúng nghĩa. Phản động bỏ mẹ...
-PV: Các anh/các chị bẩu gái lấy Tây là để lợi dụng tiền tài, quốc tịch?
-Me: Chuẩn luôn, họ nói đúng đới. Thiên hạ lắm đứa trông đần đần thế thôi mà phát ngôn chí lý phết. Me lấy chồng Tây là để lợi dụng triệt để đới. Lợi dụng từ tiền bạc, nhan sắc, học vấn, sự nghiệp, họ hàng, quen biết, quốc tịch, sức khỏe, sex, đạo đức... Lợi dụng hết để phục vụ cho công cuộc tiến đến hạnh phúc của me. Me đồ rằng anh í cũng lợi dụng me tương tự. Me lấy chồng, ừ, một tay chồng với đầy đủ tính năng tác dụng cần phải có để tạo nên hạnh phúc. Chứ me có lấy cái sọt rác đâu, sọt rác có mỗi cái tính năng chứa đồ bỏ. Lấy cái... sọt rác mới vô tư không tính toán được.
-PV: Các anh/các chị vẫn thấy nóng mắt. Chắc họ nghĩ đến lịch sử nước nhà. Quá khứ nước đã từng dính bị ngoại xâm hoặc dính dáng chính trị với Pháp, Mỹ, Tàu, Nga... Những thứ gái cặp với ngoại quốc là loại vong nô, mất gốc, trơ lì trước nỗi đau giống nòi: “Gái buôn quên nhục sơn hà” (thương nữ bất tri vong quốc hận).
-Me: Các anh chị ấy đừng làm hàng me. Me thẳng thắn rằng dân VN chả quan tâm gì đến lịch sử văn hóa đâu, đừng ngụy biện. Nước ta thằng nghèo lo ăn. Thằng giàu lo hưởng thụ. Thằng vừa vừa chưa kịp hưởng thụ đã lại phải lo ăn. Tất cả cần lao nháo nhào thế chả ai quan tâm gì đến văn hóa với chả kiến thức với chả lịch sử đâu. Cứ túm một người dân xem, hỏi rộng ra ngoài hoàn cảnh sống của họ, hỏi chuyện vài chục năm trước, sẽ lúng túng như gà mắc tóc. Dân ta chỉ thấy cái gì là lạ, không giống nhà mình thì chọc ngoáy vào&tỏ vẻ nguy hiểm tí. Lấy đâu ra mà bởi nguyên nhân lịch sử... tạo nên tâm lý ác cảm.
-PV: Các anh bẩu gái xấu mới lấy chồng Tây, thường là gầy gầy đen đen bửn bửn..??!! Tây nó rước đi là may..

-Me: Tây nó rước gái xấu VN, thế để lại toàn gái đẹp cho các anh rồi còn gì. Thẩm mỹ dân Tây khác, họ thích nâu nâu rắn rỏi. Ta quan trọng đường nét, họ quan trọng thần thái... Mà thôi, me không tranh luận về thẩm mỹ với các anh chị đâu, nhọc lắm! Thẩm mỹ các anh chị mà cao, thì các anh chị đã xây lâu đài, đúc tượng đá... từ lâu rồi. Chứ không để nền kiến trúc mỹ thuật nó nhươm nhoam như bây giờ.

-PV: Nhưng mà da me...?

-Me: Uh, rất hồng, mới lại me tròn quay chứ có gầy gầy que củi như các anh chị bêu riếu đâu. Hà hà... Hôm trước me mua mẹ chai kem màu nâu về bôi lên da, cho nó ram rám sexy. Me có nhu cầu thấy bản thân sexy, để mình yêu mình hơn.
-PV: Me đặt bản thân lên trên hết? Phớt lờ ý kiến của trai Tây lẫn trai ta?
-Me: Làm người nó phải thế.
-PV: Me có nhời gì nhắn nhủ cho các chị em chưa chồng?
-Me: Học tập rèn luyện nhan sắc thể lực và kiến thức. Mở mang hiểu biết, nhưng đừng có đọc bọn lá cải nhan nhản vỉa hè.
-PV: Ối!
(Người Việt)

Hình như có hai Thủ tướng?

Ngày 18/01/2013, báo chí khắp nơi đăng tải việc Thanh tra Chính phủ công bố kết luận thanh tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng trong việc chấp hành pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng; đặc biệt là một số dự án đầu tư có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất trong thời kỳ 2003-2011.
Theo TTCP, Thủ tướng đã đồng ý kiến nghị của TTCP kiểm điểm Chủ tịch, các phó chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng, các tổ chức và cá nhân có liên quan (thời kỳ 2003 - 2011) theo phân cấp quản lý cán bộ, đã vi phạm quy định về quản lý sử dụng đất đai liên quan đến việc xác định giá thu tiền sử dụng đất; giảm tiền sử dụng đất phải nộp cho các đơn vị và cá nhân gây thất thu ngân sách trên 3.434 tỉ đồng; chấm dứt việc giao đất (bán đất) theo hình thức ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ.
Ngay sáng hôm sau, Đà Nẵng 'phản pháo' rầm rộ bằng những dòng tít ấn tượng ngập các báo giấy, báo mạng...
"Vấn đề mà TTCP đưa ra là có thất thoát hay không, cái này chưa thể nói rạch ròi được. Thật ra vụ này TTCP tiến hành thanh tra cả năm trời rồi, TP cũng giải trình lui, giải trình tới miết mà mấy ổng đâu có chịu nghe. Đến khi TTCP báo cáo Thủ tướng, TP xin được giải trình thêm cho rõ lần nữa nhưng TTCP không cho. Giờ đùng một cái, TTCP công bố. Trong khi đó Thủ tướng Chính phủ có văn bản yêu cầu giao các bộ, ngành trung ương (như Bộ Tài nguyên - môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - đầu tư và Bộ Công an) vào Đà Nẵng để tiến hành kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật về quản lý sử dụng đất đai, thu chi tài chính đối với các dự án đầu tư liên quan đến việc giao đất, cho thuê đất mà trong kết luận của TTCP đã đề cập. Trong khi các bộ, ngành chưa có ý kiến gì, phía TTCP đã chuyển cho Thủ tướng ra kết luận."
Ông Văn Hữu Chiến - chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cho rằng: "Bây giờ chưa xác định được có thất thoát hay không thì làm sao xử lý được. TP khẳng định không thất thoát, còn TTCP tính toán theo kiểu của họ rồi bảo thất thoát. Cả hai bên không đến với nhau được thì làm sao phê bình, kỷ luật được ai?"
Ông Chiến khẳng định: "Không giải trình nữa, vì TP giải trình rất nhiều lần rồi."
Thế rồi, báo chí bỗng nhiên bình yên khác thường, công dân mạng thủ thỉ thì thầm tai nhau thế là đã có lệnh giới nghiêm...
Không ngẫu nhiên, ngày 21/01/2013, báo chí ra bản tin "Đà Nẵng: Yêu cầu các hộ dân chấm dứt khiếu kiện cũ", kết thúc buổi làm việc, có 2 hộ dân được UBND TP Đà Nẵng đồng ý bố trí thêm 2 lô đất tái định cư (hộ phụ) và thông báo chấm dứt việc xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo do đã có kết luận của Thủ tướng Chính phủ và văn bản trả lời của Thanh tra Chính phủ đối những trường hợp này.
Gần 20 hộ dân khiếu kiện đất đai kéo dài 10-20 năm nay trên địa bàn thành phố, tập trung vào các vấn đề: đòi lại đất do xí nghiệp đường sắt quản lý; khiếu kiện chủ trương thu hồi đất xây dựng dự án đường Liên Chiểu - Thuận Phước; khiếu kiện việc đền bù để mở rộng quốc lộ 1A… Theo các hộ dân này thì việc thu hồi đất của họ là sai quy định của pháp luật và sử dụng đất sai mục đích. Đồng thời, việc áp dụng bồi thường, tái định cư chưa sát với thực tế.
Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến cho biết UBND TP thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là không chấp nhận các khiếu kiện cũ và yêu cầu các hộ này chấm dứt khiếu kiện. TP sẽ chỉ ghi nhận các ý kiến mới mà các hộ dân nêu để xem xét giải quyết.
Như vậy, cũng hai "nổi oan", nhưng "nổi oan" của UBND TP Đà Nẵng được chia sẻ nồng nhiệt trên khắp phương tiện đại chúng một cách kịp thời, đúng lúc, còn "nổi oan" của những hộ dân khiếu kiện đất đai kéo dài 10-20 năm kia (chưa kể những khó khăn mà họ phải gặp phải trong quá trình đi đòi "công lý") hình như ít được báo chí cách mạng biết đến và cùng lắm là một bản tin ngắn mà đường link này dẫn đến.
Như vậy, cũng hai kết quả "kết luận của TTCP và kiến nghị của Thủ tướng Chính phủ", đối với sai phạm trong quản lý, sử dụng đất từ năm 2003-2011 tại địa phương mình, UBND TP Đà Nẵng đã "bật lại", nhưng trong trường hợp cụ thể khác, ông Văn Hữu Chiến lại dùng "kết luận của Thủ tướng Chính phủ và văn bản trả lời của Thanh tra Chính phủ" để yêu cầu các hộ dân chấm dứt khiếu kiện cũ.
Và như thế, hình như có hai Thủ tướng.., một Thủ tướng không thấu hiểu được "nổi oan" của UBND TP Đà Nẵng, và một Thủ tướng đồng thuận với chỉ đạo của thành phố trước "nổi oan'' của nhân dân, mà hình như, khiếu kiện 10 đến 20 năm không phải là con số lọt tai... nếu đặt vào những phát ngôn kiểu "đã kịp thời xử lý" ra rả hằng ngày trên các phương tiện thông tin đai chúng của các vị quan chức.
Minh Phước
P/s: Báo chí chữ nghĩa nhiều nên nhìn đâu cũng thấy... "dân quyền", còn người dân ít chữ, an phận thủ thường nhỏ to động viên an ủi nhau... mình là phận "dân quèn".
(Blog Phước béo)

Về nghi án Nguyễn Bá Thanh nhận hối lộ 4,2 tỷ đồng

(TTHN) - Tác giả Dương Tiến, vì viết bài báo này mà bị cho rằng "bị cáo đã lợi dụng quyền tự do báo chí để viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền TP Đà Nẵng"
TP. Đà Nẵng: Nguyên nhân nào một số công dân khiếu kiện gay gắt? 

(Thứ năm , 10/05/2007, 10:32)

(CATP) - Cuối tháng 3-2000, CATP Đà Nẵng đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam Phạm Minh Thông, giám đốc Công ty Hợp doanh xây lắp và kinh doanh Quảng Nam - Đà Nẵng về các hành vi phạm tội: cố ý làm trái các qui định của Nhà nước, thiếu tinh thần trách nhiệm trong quản lý kinh tế gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản XHCN. Quá trình điều tra xác định tài sản thiệt hại trên 10 tỷ đồng do hành vi phạm tội của Thông và đồng bọn gây ra. Số tiền này Thông đã khai dùng một phần vào chi phí cho chủ đầu tư và chi cho một số cán bộ của UBNDTP Đà Nẵng. Ở công trường đường Bắc - Nam TP. Đà Nẵng, Thông cũng đã lấy hơn 1 tỷ đồng để chi phí giao dịch. Lời khai của Thông và những người liên quan đến việc hối lộ, nhận hối lộ khá rõ ràng, còn một số chi tiết cũng có mâu thuẫn cần được làm rõ. Ngay sau khi phiên tòa xét xử Phạm Minh Thông và đồng bọn kết thúc, dư luận bức xúc đặt câu hỏi Phạm Minh Thông đã đưa hối lộ và người nhận hối lộ là ai vẫn chưa được làm rõ, như vậy có dấu hiệu lọt người, lọt tội?
Dư âm tai tiếng từ vụ án Phạm Minh Thông ở TP. Đà Nẵng chưa yên thì trong 3 năm qua, một số công dân TP. Đã Nẵng đã có đơn thư gửi đến các cơ quan TW và rất nhiều công dân ra tận Hà Nội để khiếu nại, tố cáo những sai phạm trong việc đền bù giải phóng mặt bằng, cố ý làm trái pháp luật. Có cá nhân lãnh đạo TP. Đà Nẵng có dấu hiệu bao che, tham nhũng nhưng vẫn chưa có cấp nào giải quyết dứt điểm, khiến đơn thư của công dân gửi đi nhiều nơi, gay gắt hơn. Thậm chí có những đơn người dân tỏ thái độ “tiêu cực” với cách giải quyết của các cơ quan có trách nhiệm. Qua các tài liệu cho thấy ngày 24-8-2000, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn ký quyết định số 801/QĐ-TTg giao đất cho TP Đã Nẵng xây dựng tuyến đường Liên Chiểu - Thuận Phước (giai đoạn 1), thu hồi 459.628,1m2 thì trước đó hơn 2 tháng, ngày 19-6-2000 ông Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBNDTP Đã Nẵng đã ký quyết định 6580/QĐ-UB thu hồi 4.908.728,33m2 để xây dựng công trình này. Đáng chú ý là tại quyết định này có mục ghi khai thác vệt 30m diện tích 649.906m2 (theo đơn tố cáo của công dân diện tích này nằm ngoài chỉ giới đường Liên Chiểu - Thuận Phước đã được chia lô bán (?).
Tại quyết định số 465/QĐ-TTg ngày 17-6-2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung TP. Đà Nẵng đến năm 2020, quyết định ghi rõ: Nâng cấp các cơ sở hiện có như sân vận động Chi Lăng khoảng 4,5ha, trung tâm thể dục thể thao Nguyễn Tri Phương. Thế nhưng trước đó, ngày 27-8-2001 Chủ tịch UBNDTP Đà Nẵng đã ký quyết định số 5062/QĐ-UB phê duyệt quy hoạch tổng thể mặt bằng chi tiết mở rộng sân vận động Chi Lăng với quy hoạch sử dụng đất 62.043m2. Về tái định cư tại chỗ, điều đáng chú ý một số hộ dân có đất ở hợp pháp lại phải mua lại chính lô đất họ đã ở với giá cao hơn hàng trăm triệu đồng. Ví dụ như hộ bà Hoài diện tích bị thu hồi 314,5m2 bị chia ra hạn mức, số tiền đền bù 400 triệu đồng, nhưng mua đất tái định cư tại chỗ 142,5m2 là 812 triệu đồng! (Văn bản số 3048/UB-VP ngày 22-10-2002 gửi Ban quản lý các dự án xây dựng công nghiệp và dân dụng về bố trí tái định cư đợt 1- dự án mở rộng sân vận động Chi Lăng do ông Chủ tịch UBNDTP Đà Nẵng ký).
Ngoài ra, có nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo tham nhũng, bán nhà công sản, nhiều công trình có dấu hiệu sai phạm như: công viên nước, siêu thị Đà Nẵng, khách sạn Bạch Đằng, rạp chiếu bóng Lê Đô, dự án đường Liên Chiểu - Thuận Phước, dự án thủy sản ở phường Thọ Quang - Sơn Trà, khu tái định cư Nguyễn Huy Tưởng... Trong báo cáo quyết toán ngân sách năm 2004 lập tháng 9-2005, UBNDTP Đà Nẵng đã miễn giảm tiền sử dụng đất với số tiền 6 tỷ 322 triệu đồng (gồm Công ty TNHH Nam Việt Á, giảm 50% với số tiền 5 tỷ 603 triệu đồng và bà Nguyễn Thị Chi giảm 10% với số tiền 719 triệu đồng) là chưa hợp lý.
Đề nghị các cơ quan chức năng cần vào cuộc để làm rõ và xử lý nghiêm những cá nhân sai phạm và những ai lợi dụng khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật.

Dương Tiến
(CATP) 

Nguyễn Huy Canh - Trao đổi với ông Bùi Đức Lại và ông Trần Mạnh Hảo về điều 4 Dự thảo Hiến pháp

Ông Trần Mạnh Hảo vừa có bài viết trên trang của n/v Phạm Viết Đào về nền tảng của HP92 (hiện nay ta gọi là Dự thảo sửa đổi HP) bị phá hủy bởi chính điều 4 của nó. Toàn bộ bài viết chặt chẽ, chính xác của ông chỉ nhằm đi tới một kết luận, một đòi hỏi xóa bỏ điều 4 của DT. Đòi hỏi này phù hợp với tâm nguyện của nhiều nhân sĩ trí thức từ Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, GS Nguyễn Minh Thuyết, TS Nguyễn Thanh Giang cho đến cựu lãnh đạo Ban tổ chức TW Bùi Đức Lại…
Trước hiện thực nhiều đau buồn, nhức nhối của đất nước như sự nghèo khó cùng cực của người dân, những bất công và nỗi oan trái, sự tha hóa mạnh mẽ của Đảng…, những nguyện vọng trên đã nhìn thấy rất đúng rằng nó là hệ quả của việc áp đặt quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Nhưng từ đó tiếc rằng, các ý kiến đó lại đẩy tới một nguyên nhân cội nguồn sâu sa hơn từ trong điều 4HP.
Trong chiều suy tư và kinh nghiệm đầy máu lửa và nước mắt của nhân loại đã rút ra được một kết luận có tính nguyên lí: mọi lí thuyết xét theo nguồn gốc hình thành của nó, ít ra, nó đều phải là hình ảnh của hiện thực, của đời sống hiện thực.
HP là một lí thuyết, một nguyên lí được xây dựng trong hình thức là các qui định có tính chất pháp luật. Và vì vậy 1/Những phân tích dựa trên qui luật của tư duy logic rất đúng đắn, chính xác của ông TMH không phải đã là chân lí, là ý nghĩa trong sự tồn tại của nó. Và 2/Tính chân lí của một hệ thống lí thuyết không bao giờ được chứng minh chỉ từ những tiên đề của hệ thống ấy.
Vì thế cái ý muốn bác bỏ điều 4 DT(dự thảo) của ông để nhằm có được một bản HP logic và hoàn hảo là một sự phiến diện và vô nghĩa: Tính chân lí của HP sửa đổi phải là đích tìm kiếm và vận động của chính hiện thực lịch sử này, chứ không phải ở sự chặt chẽ có tính hình thức của tư duy chúng ta.
  Cùng trong chiều hướng bác bỏ điều 4HP được đặt trong hình thái của câu hỏi về lí do tồn tại của nó, ông Bùi Đức Lại đã đi xa hơn một bước khi ông không bị vướng vào định đề của logic hình thức của bản HP, mà là sự đặt thành vấn đề cơ sở cho sự tồn tại của nó bằng việc yêu cầu phải luật hóa được điều 4.
Ông đã rất đúng khi cho rằng sự lãnh đạo của Đảng sao cho không phải là sự áp đặt lên xã hội và nhân dân mà phải trên cơ sở tín nhiệm, ủy quyền của người dân được xác lập ngay từ trong thủ tục lập hiến. Có như thế thì theo ông, đảng sẽ nằm ngay trong HP, chịu sự qui định của nó…
Có một thực tế này tôi muốn nói với ông, trong cơ cấu tồn tại của mình, Đảng và nhà nước đã là hai thực tại. Và quyền lực của Đảng đã được đảng xác lập từ các Đại hội và các trung tâm như một quyền lực bóng tối. Người dân hoàn toàn đứng ngoài quá trình chính trị đó, họ chỉ như những kẻ xa lạ. Bởi vì, ngay từ đầu như một mặc định, họ chỉ được xem như một đối tượng được chăn dắt,chỉ dẫn, giáo dục và ban cho (xin nói thêm, đó cũng là lí do vì sao các cán bộ chỉ cần bằng cách nào đó được vào cấp ủy thì coi như đã chắc chắn 99% được cơ cấu vào trong bộ máy đảng, chính quyền hoặc đoàn thể, còn lá phiếu sau này của người dân như thế nào thì hoàn toàn không quan trọng, và do đó họ đã mắc phải bệnh khinh miệt,coi thường nhân dân như một gien di truyền vậy). Vậy thì làm sao có thể nói được là nhân dân ủy quyền cho đảng trong thủ tục lập hiến trong cái cấu trúc quyền lực còn nguyên vẹn sau hơn 50 năm ấy?
Vì quá mơ hồ như thế nên ông cho rằng phải luật hóa điều 4HP. Cách lí giải của ông mắc phải hai sai lầm nghiêm trọng, một là ông đã lấy luật làm cơ sở cho sự tồn tại của điều 4, và do đó cho HP-đó là điều chưa bao giờ thấy!
Thứ hai, ông đã không nhìn thấy trong sự hiện ra của mình, đảng đã như một tổ chức quyền lực: thể chế chính trị trong đó chúng ta đã và đang sống là đảng trị hiểu theo nghĩa của hình thái “quân chủ chuyên chế” đã biến dạng. Do đó, Đảng đã đứng trên, và ngoài HP và PL từ trong cơ cấu tồn tại của mình. Vậy làm sao nhân dân thông qua QH viết ra những điều qui định cho sự lãnh đạo của đảng được. Không có một đạo luật nào làm được điều đó ngoài những ý nghĩ điên rồ.
Thực tiễn chính trị của đất nước đang đặt ra những thử thách nghiêm trọng cho đảng và dân tộc chúng ta lúc này, rằng cần phải thiết kế những con đường, những dự án, những bước đi thích hợp cho một cuộc cách tân lớn hơn là những tranh cãi “kinh viện”cho những qui định của HP như một không gian riêng của lí tính thuần túy.
Nhân dân, sự chịu đựng như đang chạm đáy bởi sự nghèo khó, bất công, bị áp bức và khinh rẻ cùng nhiều giá trị của giáo dục, đạo đức bị đảo lộn.
Về phía Đảng là một quá trình tha hóa diễn ra ngày một mạnh mẽ như một sự kiện khách quan của lịch sử. Cái tha hóa được hiểu ở đây là một cuộc chuyển hóa, chuyển biến của Đảng thành cái khác mình trước đó. Công cuộc tha hóa này được đánh dấu về mặt lịch sử bắt đầu từ thời kì đổi mới: thực tiễn và pháp luật thừa nhận sở hữu tư nhân, chế độ sở hữu tư nhân như một tất yếu khách quan của sự tồn tại phát triển xã hội, và do đó quyền sở hữu tư nhân của mọi người dân là chính đáng. Cùng với điều đó là quyền sản xuất và kinh doanh của công dân là không hạn chế và được pháp luật bảo hộ. Những đảng viên của Đảng, với tính cách là công dân, sau này cũng đã được thừa nhận quyền tổ chức kinh doanh theo phương cách tư nhân tư bản chủ nghĩa. Có nghĩa là đảng viên cũng được suy nghĩ làm giàu cho bản thân mình, và hoàn toàn được tham gia vào quan hệ bóc lột khách quan giữa người và người diễn ra trong quá trình tổ chức lao động và sản xuất.
Đảng từ trong máu lửa là một Lí tưởng cứu đời, vì dân vì nước; và mỗi một đảng viên là một bộ phận, một thành tố, yếu tố cấu thành hệ thống lí tưởng đó-cái lí tưởng xóa bỏ chế độ tư hữu và mọi khác biệt về gia cấp, và vì thế mỗi một con người đảng viên là một vô thân, vô ngã . Phấn đấu hi sinh vì dân tộc, vì người khác, vị tha đã trở thành phẩm chất, thành đặc trưng riêng biệt của Đảng và của những đảng viên. Qúa trình biến đổi lịch sử nói trên, đối với mỗi đảng viên  cũng  đồng thời là quá trình chuyển hóa, tha hóa, nói theo ngôn ngữ triết học, là từ vô ngã, vô thân đến hữu ngã, có bản ngã. Lo toan, thu vén, quan tâm cho lợi ích của bản thân, của vợ con và những thú vui trần tục được thỏa mãn cùng diễn ra trong mối quan tâm, bận tâm tới hạnh phúc của người khác đã trở thành nhu cầu chính đáng của đảng viên, và được xã hội và pháp luật thừa nhận. Nhưng cái quá trình tha hóa khách quan này của Đảng cũng đã kéo theo nó một quá trình tha hóa kép hiểu theo nghĩa hẹp là một sự hư hỏng, suy đồi của phẩm chất một con người khi toàn bộ cấu trúc và vận hành của Đảng đã không có một sự thay đổi tương ứng nhằm đáp ứng quá trình tha hóa khách quan đó của mình. Thành ra sự biến đổi này từng ngày, từng giờ đã biến thành đe dọa sự tồn vong của Đảng. Đó là điều mà TBT đã cảm nhận thấy một cách rõ ràng và đau đớn, còn tân trưởng ban nội chính TW thì nhìn thấy sự lâm nguy đang đến rất gần.
Nhưng tiếc rằng, các vị lãnh đạo cao cấp của đảng đã không nhìn thấy được mặt khách quan, lịch sử của những diễn biến đó, của công cuộc tha hóa đó đang nằm ngay trong cơ chế, cơ cấu kinh tế- xã hội đã thay đổi theo hướng qui hồi bản ngã chân chính của mỗi con người, cùng với một thể chế quyền lực phi dân chủ, khép kín vẫn được giữ nguyên của đảng.
Vì chỉ nhìn thấy mặt chủ quan, chủ thể của quá trình tha hóa, nên TBT đã kiến tạo nên nqtw4 xem việc tự nêu gương, tự rèn luyện, tự nhận lỗi của quan chức là điều kiện tiên quyết ngăn chặn sự suy thoái của đảng…Nhưng tư tưởng về con đường của TBT đã thất bại. Cái còn lại chỉ là một lò lửa đang tắt dần cùng với một chiến lược củng cố vị thế và quyền lực trong cái cấu trúc đã cũ của đảng. Còn tân trưởng ban nội chính thì đưa ra quyết sách gì? Ông kêu gọi cần đến một sự “chiến đấu” để lấy lại lòng tin của nhân dân.
Chiến đấu để làm trong sạch Đảng-đó là một điều quí. Nhưng tôi e rằng với con đường này, có thể ông sẽ đẩy Đảng vào trạng thái tê liệt, hoặc khủng hoảng. Đó là điều mà TBT đã cảm nhận được khi ông nói về “ân oán, cừu thù…”.
Đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của nhân dân về một xã hội công bằng, dân chủ, nhân ái và phát triển; đồng thời ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đang lâm nguy của Đảng song song với nhu cầu ổn định đất nước, xã hội, tôi cho rằng giai đoạn hiện nay không có con đường nào khác bằng việc thay thế thể chế chuyên chế, phi dân chủ đã cũ và lạc hậu của Đảng bằng một thể chế dân trị: nhân dân toàn quyền lựa chọn những đảng viên ưu tú của Đảng vào nắm giữ 2 cơ quan lập pháp (với một tỉ lệ thích hợp từ 60%->65% số ghế trong QH) và hành pháp thông qua bầu cử QH và nguyên thủ QG được tổ chức bởi hội đồng bầu cử quốc gia (độc lập). Tuy rằng một dự án cho công cuộc chuyển đổi thành công đó không phải là mục đích của bài viết, nhưng tôi hiểu từ 2 cơ quan này, đặc biệt với cơ quan quyền lực hành pháp, Đảng sẽ thực hiện được vai trò lãnh đạo đất nước, lãnh đạo quốc gia của mình trong thể chế cộng hòa-dân chủ bởi một chế độ nhất đảng…
                                                                  
Ngày 28/1/013

Nguyễn Huy Canh
(Blog Phạm Viết Đào) 

Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật đầy nghi vấn

Nguyễn Ái Quốc
Trích từ cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc của tác giả Thụy Khuê phát hành tại Pháp
Chương 16 - Nguyễn Tất Thành
Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật.
Chỗ nào ông muốn viết hoặc chỉ thị cho viết, chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, đều có chủ đích rõ ràng. Và ông không hề ngần ngại nhận mình là tác giả những công trình không phải của ông. Trong phạm vi khảo luận này, chúng tôi chỉ chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành ở Pháp, từ 1919 đến 1923. Thời gian này, ông tự nhận là Nguyễn Ái Quốc và chính những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc đã xây dựng nên tên tuổi và huyền thoại Hồ Chí Minh.
Thật vậy, về Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tường Bách, em Nhất Linh Nguyễn Tường Tam viết: "Ngày 2/9 chính phủ Hồ Chí Minh làm lễ tuyên thệ độc lập ở Quảng trường Ba Đình. Tôi đã biết từ lâu Hồ Chí Minh ngày nay là Nguyễn Ái Quốc mà chúng tôi vẫn khâm phục như một nhân vật thần kỳ thời thiếu niên. Éo le là vận mệnh đã làm cho tôi đứng vào hàng ngũ đối lập"[1].
Đặng Thai Mai cũng viết tương tự: "Chúng tôi được đọc báo Nhân Đạo và những tờ báo Bác Hồ viết ở Pháp như tờ Le Paria. Chúng tôi nhận những sách báo đó qua cụ Ngô Đức Kế, lúc đó đang làm báo Hữu Thanh (...) Kể từ những năm 1925 trở đi, chúng tôi hiểu được Liên Xô hơn vì được đọc các báo Việt Nam Hồn, Le Paria, L'Humanité, do Thủy thủ Pháp, đảng viên đảng Cộng Sản đưa vào Sài Gòn"[2].
Một tiểu sử đầy nghi vấn
Cuối lá thư đề Marseille ngày 15/9/1911, gửi Tổng thống Pháp, xin học trường Thuộc địa, ghi sinh năm 1892 ở Vinh. Một mật báo ghi Nguyễn sinh ngày 24/1/1892. Một mật báo khác ghi 15/1/1894. Hộ chiếu vào Nga năm 1923, theo Hồng Hà, ghi 15/1/1895. Còn ngày sinh chính thức 19/5/1890, có từ năm 1946, theo Nguyễn Thế Anh, có thể là ngày kỷ niệm thành lập Mặt Trận Việt Minh, 19/5/1941[3]. Daniel Hémery cho rằng chọn năm sinh chính thức 1890 -thay vì 1895 hay 1898- chỉ có mục đích phục vụ huyền thoại: 1890 tính đến 1945 là đã ngoại ngũ tuần, đáng được gọi bằng Bác. Năm Nguyễn Tất Thành từ Anh sang Pháp cũng thế, theo Hémery, Thành đến Pháp năm 1919, nhưng lại chọn năm 1917, vì năm này có những mốc lịch sử gắn liền: những cuộc binh biến trong quân đội Pháp và cuộc cách mạng tháng 10 của Nga[4].
Tiểu sử chính thức của Hồ Chí Minh được rút ra từ ba cuốn hồi ký Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên, được coi là chính Hồ Chí Minh viết. Cuối sách này đề (viết xong) Mùa xuân năm 1948. Bản gốc, chữ Hán được in ở Thượng Hải năm 1949, dịch ra quốc ngữ và in ở Hà Nội lần đầu năm 1958. Cuốn thứ nhì: Vừa đi đường vừa kể chuyện của T. Lan[5], một bút hiệu khác của Hồ Chí Minh, in năm 1963. Và Cuốn thứ ba: Thời thanh niên của Bác Hồ, của Hồng Hà, nhà xuất bản Thanh Niên in năm 1976.
Viết về thời gian ở Pháp, cuốn Trần Dân Tiên có một số đoạn tương đối thành thực hơn cả. Cuốn Hồng Hà sửa lại, đầy đủ và hợp lý hơn, nhưng nhiều đoạn thêm bớt khá lộ liễu.
Lữ Phương nhận xét: "Cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" của Trần Dân Tiên, viết từ năm 1948, đến nay đã in đi in lại đã có cả chục lần rồi. Cuốn sách này đã đóng vai trò hết sức đặc biệt đối với giới nghiên cứu, giảng dạy về Hồ Chí Minh trong chế độ cộng sản Việt Nam từ đó đến nay: nó được mọi người coi như là tác phẩm do chính Hồ Chí Minh viết về mình dưới bút danh Trần Dân Tiên, một tài liệu được tác giả giới thiệu như một "tiểu sử trung thành, đúng đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt". Cuốn sách vì thế đã thành một nguồn tham khảo căn bản, quan trọng nhất cho tất cả những công trình biên khảo về Hồ Chí Minh: các sự kiện về cuộc đời hoạt động của ông đã được đương nhiên coi là chính xác, không thể nói khác, nói ngược lại"[6].
Dựa vào sự kiện bà Lê Thị Kinh đã gặp ông Vũ Kỳ và kể lại rằng: "Chiều ngày 2 tháng 3 năm 1993, tôi đã được gặp ông Vũ Kỳ là thư ký riêng của Bác từ Cách Mạng Tháng Tám đến ngày Bác qua đời và đã cùng một số người quanh Bác là đồng tác giả cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" với bút danh Trần Dân Tiên", Lữ Phương đưa ra lập luận sau đây: "Không có gì ngăn cản người ta tin rằng cái "tiểu sử" dưới hình thức "truyện" ấy được chính Vũ Kỳ và những người cộng sự viết ra và ký là Trần Dân Tiên. Nhưng như vậy thì lại gặp điều khó khăn phải giải thích tại sao cuốn sách tầm thường của một tác giả vô danh là Trần Dân Tiên ấy lại có thể trở thành một thứ tài liệu tham khảo vào bậc nhất về Hồ Chí Minh như đã xẩy ra, đặc biệt trong giới nghiên cứu, giảng dạy? Sự quan trọng ấy không thể nào có được nếu những gì đã viết về ông Hồ trong cuốn sách ấy không được chính ông xét duyệt (Vũ Kỳ là thư ký riêng của ông) và một cách nào đó đã làm cho người ta hiểu rằng chính ông đã muốn phổ biến cái "tiểu sử" có nội dung như vậy. Cuốn sách, do đó, dù có do Vũ Kỳ lấy tài liệu từ Hồ Chí Minh để viết hoặc do chính Hồ Chí Minh trực tiếp viết (hay đọc cho Vũ Kỳ viết), thiết tưởng ý nghiã cũng đều như nhau: Sự xuất hiện của nó là "cái cần thiết" cho nhu cầu cách mạng của bản thân Hồ Chí Minh sau 1945"[7].
Tại sao lại cần thiết cho nhu cầu cách mạng của bản thân Hồ Chí Minh, Lữ Phương giải thích: "Sau 1945, Khi Nguyễn Tất Thành đã trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà với cái tên mới là Hồ Chí Minh (dân chúng chưa biết rõ lắm về lai lịch của cái tên này), 1948, đang ở chiến khu Việt Bắc kháng chiến chống Pháp: phải tạo cho mình hình ảnh một "đấng bậc trưởng thượng" kiểu Châu Á có uy tín vượt trội (...) một con người trong sạch, giản dị, hoà mình vào quần chúng, được bạn bè khắp hoàn vũ mến yêu giúp đỡ còn đồng bào trong nước thì đặt hình lãnh tụ lên bàn thờ và tôn xưng là "Cha già của dân tộc" v.v... Cuốn "tiểu sử" viết về Hồ Chí Minh của Trần Dân Tiên đã biểu lộ rất rõ cái nhu cầu năm 1948 mà Hồ Chí Minh và cuộc cách mạng của ông đang muốn tạo ra cho phong trào yêu nước cộng sản trước tình hình mới - một lãnh tụ tuyệt vời và chỉ có lãnh tụ đó mới là tuyệt vời thôi!"[8]
Lập luận của Lữ Phương rất sắc bén. Duy có một điểm: bản gốc cuốn "tiểu sử" là chữ Hán, in năm 1949, tại Thượng Hải, chắc chắn phải do Hồ Chí Minh viết - trừ khi Vũ Kỳ biết chữ Hán, nhưng điều này khó mường tượng: ông Hồ đọc cho Vũ Kỳ bằng tiếng Việt rồi Vũ Kỳ dịch sang tiếng Tàu! Ông Hồ viết chữ Hán vì ông giỏi chữ Hán hơn quốc ngữ. Nhưng bản dịch quốc ngữ in năm 1958 tại Hà Nội, chắc phải do Vũ Kỳ và những người "quanh Bác" thực hiện, vì trình độ quốc ngữ của "Bác" không cao -xin xem bài Việt Nam Yêu Cầu Ca- không thể viết được cuốn "Những mẩu chuyện..." Lữ Phương có lý khi ông cho rằng Vũ Kỳ và những người "quanh Bác" đã góp phần trong bản quốc ngữ. So với bản chính Hán văn, sự khác biệt ra sao? Phải hỏi những nhà Hán học. Nhưng chắc bản Hán văn gần với lời ông Hồ hơn cả.
Vậy cuộc đời "thật" của Nguyễn Tất Thành từ ngày rời nước năm 1911 đến năm 1923, đi Nga, như thế nào?
Từ 1911 đến 1923, cuộc đời Nguyễn Tất Thành, có thể đã diễn ra như sau:
Ngày 4/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời Sài Gòn trên tàu L'Amiral Latouche-Tréville, thuộc Compagnies des Chargeurs Réunis - Công ty vận tải liên kết, chạy đường Hải Phòng - Dunkerque, làm phụ bếp, lấy tên Văn Ba. Trên tàu gặp ông Bùi Quang Chiêu và được 2 người lính trẻ, giải ngũ, hồi hương, dạy đọc và viết tiếng Pháp. Ông Chiêu nói với Tất Thành: "Tại sao con lại làm cái nghề khó nhọc này? Bỏ nghề này đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn..."[9].
Sổ hành trình ghi: Ngày 5/6/1911 rời Sài Gòn; 6/7 đến Marseille; 15/7 tới Le Havre; 26/8/1911 đến Dunkerque[10]. Theo Trần Dân Tiên, tàu đến Le Havre để sửa chữa. Nhân viên được chuyển sang một chiếc tàu khác để trở về Đông Dương, nhưng anh Ba không muốn về, anh ở lại Le Havre, làm vườn cho ông chủ tàu tại Sainte-Adresse, ngoại ô Le Havre, trong khoảng một tháng, rồi lại tiếp tục lên tàu đi Phi Châu. Tại nhà ông chủ, anh Ba học tiếng Pháp với cô sen[11].
 Lê Thị Kinh viết: "Từ Dunkerque, tàu quay lại Sài Gòn và trên sổ lương của tàu có ghi: "Văn Ba đã lĩnh lương tại Sài Gòn ngày 16/10/1911". Ngày 31/10/1911 Tất Thành đã gửi một thư cho cha. Thư lọt vài tay mật thám và được chuyển cho khâm sứ Trung Kỳ"[12].
 Vậy Trần Dân Tiên giấu việc trở lại Việt Nam, bịa ra chuyện đi vòng châu Phi để làm gì? Nếu không phải là để chứng minh muốn "đi xem các nước" để tính chuyện "giúp đồng bào" ngay từ 1911? Tất Thành lúc đó chưa thể bị "mật thám" theo dõi, vì chưa có thành tích gì. Thành viết thư thẳng đến Tòa Khâm, nhờ khâm sứ chuyển tiền cho cha, đồng thời viết thư cho anh là ông cả Đạt, đang làm việc tại Tòa Khâm - Sẽ nói rõ hơn ở dưới. Trong các thư Tất Thành gửi cho cha hay cho toàn quyền, năm 1911-1912, còn ký cả tên Tây: Paul Tatthanh hay Paul Thành... nữa, vậy khó có thể nói đến việc đi Tây "tìm đường cứu nước".
Đơn xin học trường Thuộc Địa
Lá thư đề Marseille ngày 15/9/1911, gửi Tổng Thống Pháp xin vào nội trú trường Thuộc Địa được Henri de Turenne[13] phát hiện và công bố trên đài truyền hình Pháp trong chương trình về Hồ Chí Minh, tháng 1/1982. Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh chụp được hai bức thư viết tay giống hệt nhau: một gửi Tổng Thống Pháp và một gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa[14] cùng về việc xin học.
Daniel Hémery, cho rằng sự lựa chọn này là do Phan Châu Trinh dẫn dắt. Lê Thị Kinh, có lẽ do ảnh hưởng Hémery, đưa ra giả thuyết: Khi ở Sainte-Adresse: "Chắc chắn Người đã tranh thủ đến Paris gặp bác Phan, làm quen với những người quanh bác, và đặc biệt để bàn bạc với bác về hướng sống và học tập... Và có thể không phải chỉ đến một lần". Và bà tiếp tục cho rằng nhân dịp này "Người" gặp Bùi Kỷ, đang học trường Thuộc Địa và Bùi Kỷ đã gợi ý và viết đơn giùm[15].
Lập luận này không vững vì nhiều lẽ: Tất Thành chỉ ở Le Havre từ 15/7/1911 đến 26/8 đã theo tầu lên Dunkerque. Phan Châu Trinh tới Paris ngày 27/4/1911, lúc đó chưa quen Phan Văn Trường -chỉ gặp ông Trường tháng 1/1912- và chưa chắc đã biết Bùi Kỷ ở đâu. Việc thông tin thời ấy không dễ dàng, Tất Thành vừa từ Sài Gòn sang, tiếng Pháp chưa biết, lạ nước lạ cái, mà cũng chỉ ở Le Havre hơn một tháng, làm sao đã tìm được địa chỉ của Phan Châu Trinh? Mà dù có địa chỉ cũng chưa chắc đã dám xin chủ nghỉ việc để về Paris nhiều lần thăm bác, vì thời ấy di chuyển không dễ dàng như bây giờ. Hơn nữa, cả Trần Dân Tiên, Bùi Kỷ và Phan Châu Trinh đều không nói đến những cuộc gặp gỡ này. Vậy giả thiết "Bác" đã gặp Bùi Kỷ và Phan Văn Trường tại nhà Phan Châu Trinh không thể đứng vững.
 Ngoài ra, hầu hết các tư liệu đều chứng minh: Năm 1911 Tất Thành chưa có ý đồ hoạt động chính trị, chỉ muốn giúp cha và tiến thân. Sau cùng, nếu Bùi Kỷ viết đơn giùm Tất Thành, thì cũng không gửi đơn xin học cho tổng thống và bộ trưởng, mà viết thẳng cho hiệu trưởng. Vậy người viết đơn giùm Tất Thành phải là người không có trình độ cao lắm, làm việc cùng với Tất Thành ở Công Ty Vận Tải tại Marseille, Le Havre hay Dunkerque, hoặc một sự quen biết nào khác. Ngày 21/10/1911, ông hiệu trưởng trường Thuộc Địa viết thư trả lời từ chối, chỉ nhận những người đã học và được toàn quyền tuyển chọn tại Đông Dương[16].
Lữ Phương dựa theo tài liệu của Hémery, thuật lại những sự kiện: khi tàu ghé Sài Gòn giữa tháng 10/1911, ngày 31/10/1911, Tất Thành viết thư gửi khâm sứ Trung Kỳ nhờ chuyển cho cha mandat 15 đồng Đông Dương và viết thư cho anh là ông cả Khiêm -Nguyễn Sinh Khâm hoặc Nguyễn Tất Đạt- đang giúp việc vặt tại Toà Khâm Sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin vào Ecole Coloniale. Việc này cũng thất bại.
 Theo lời khai của ông Bùi Quang Chiêu với mật thám Sài Gòn ngày 21/9/1922, thì khi gặp trên tàu, Tất Thành nói với ông mục đích sang Pháp là để xin khiếu nại cho cha vừa bị bãi chức, và muốn đến ở nhà thuyền trưởng Do Huu Chan đang làm việc ở Marseille để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại đó[17].
Xin nhắc lại: "Nguyễn Sinh Huy đậu phó bảng năm 1901; năm 1906 vào Huế nhậm chức thừa biện Bộ Lễ; 1909 được cử làm tri huyện Bình Khê (tỉnh Bình Định), nhưng chỉ 7 tháng sau, tháng 1/1910, thì bị bãi chức và bị triệu về Huế. Lý do: theo sở mật thám ông đã uống rượu say và đánh chết người"[18].
Vậy việc khuyên Tất Thành xin vào trường Thuộc Địa và viết đơn giùm có thể là thuyền trưởng Đỗ Hữu Chân -hay Chấn- làm. Cũng không loại trừ khả năng chính ông Bùi Quang Chiêu đã nghĩ ra, vì thương Tất Thành là con quan -ông Chiêu đã dạy ông Nguyễn Sinh Huy về nông nghiệp- phải làm việc trên tàu cực khổ, nên đã giới thiệu Thành với ông Đỗ Hữu Chấn và nhờ ông Chấn giúp đỡ, vì ông Chấn ở cùng công ty hàng hải. Đơn xin học đề ngày 15/9/1911 ở Marseille, đúng là thời gian tàu ghé Marseille trên đường về Sài Gòn. Ngày 16/10/1911, Văn Ba lĩnh lương tại Sài Gòn. Tất cả ăn khớp vì đường Thủy Marseille - Sài Gòn là một tháng. Tại Sài Gòn, Tất Thành lại nhờ anh, ông Đạt, viết thư gửi khâm sứ và toàn quyền, xin vào trường Thuộc Địa một lần nữa, nhưng vẫn bị từ chối. Từ đây, Tất Thành phải chấp nhận nghề thủy thủ.
Theo Hémery, từ 1912 tới mùa hè 1914, Tất Thành vẫn dùng tên Ba, tiếp tục làm bồi, phụ bếp, hoặc phu khuân vác trên những tàu xuyên Đại Tây Dương, chạy đường Le Havre - Londres - New York, hoặc Châu Phi - Châu Mỹ.
 Từ 1914 đến 1919, bỏ việc trên tàu, sống tại Luân Đôn với tên Nguyễn Tất Thành, ở số 8 Tottenham Road. Hémery cho rằng trong thế chiến, Tất Thành không sang Pháp vì sợ có thể bị gọi đi quân dịch. Làm việc tại khách sạn Carlton, rửa bát, rồi phụ bếp. Học tiếng Anh và hình như buổi tối có học thêm Máy móc (Mécanique) và Điện. Trao đổi thư từ với Phan Châu Trinh bằng Hán văn. Giữa tháng 6/1919, sang Paris. Hoạt động trong nhóm An Nam Yêu Nước. Ngày 27/12/1920, khai mạc hội nghị Tours của đảng Xã Hội (SFIO), Nguyễn Tất Thành xuất hiện công khai với tên Nguyễn Ái Quốc. Ngày13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Nga, tới Moscou ngày 30/6/1923. Tháng 2/1925, Lý Thụy xuất hiện ở Quảng Đông, tình báo Trung Hoa nhận diện là Nguyễn Ái Quốc. Thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội.
Trình độ học vấn
Theo năm sinh chính thức 1890, thì khi xuống tàu đi Pháp năm 1911, Tất Thành 21 tuổi.
Từ điển Văn học và các tiểu sử chính thức khác đều ghi: thủa nhỏ học chữ Hán rồi quốc ngữ, sau vào Quốc Học Huế. Đầu năm 1911, bỏ học vào Phan Thiết dạy trường Dục Thanh, ít lâu sau vào Sài Gòn, rồi từ Sàigòn "xuất dương tìm đường cứu nước".
Daniel Hémery viết: "Theo lời khai của Đạt (anh cả của Thành) với Sở Mật thám năm 1920, thì Thành học trường bảo hộ (franco-indigène), dường như Đông Ba, đậu bằng Tiểu học (Certificat d'études primaires). Cả hai ghi tên vào trường Quốc học (...) nhưng Thành học dở dang, bỏ đi làm (khoảng 1909?), làm trợ giáo, lương 8 đồng một tháng, ở trường Dục Thanh tại Phan Thiết"[19].
Hémery ghi rõ học trường Pháp-Việt, còn đậu cả bằng Certificat d'études primaires. Nếu chi tiết này đúng, tức là Nguyễn Tất Thành đi học đến năm 19 hoặc 21 tuổi, và nếu có Certificat d'études primaires, tất phải biết tiếng Pháp.
Nhưng Trần Dân Tiên viết ngược lại: Ở tàu Latouche-Tréville "mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng", "công việc kéo dài suốt ngày", "suốt ngày anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than", buổi tối có hai người lính giải ngũ về Pháp, tốt bụng, "dạy cho anh đọc và viết". Và khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Sainte-Adresse, "anh học tiếng Pháp với cô sen"[20]. Một người đã có bằng Certificat d'études primaires không thể không biết đọc và viết tiếng Pháp, mà phải học tiếng Pháp với cô sen.
Nhưng cũng không có lý gì mà Hồ Chí Minh viết sai về chuyện này, nhất là ông lập lại nhiều lần rằng khi đến Pháp ông không rành tiếng Pháp, không viết được tiếng Pháp, phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ.
Tại sao có nghịch lý này? Xin tạm giải thích như sau: Trong lá thư từ chối đơn xin học của Nguyễn Tất Thành[21], ông hiệu trưởng trường Thuộc Địa nói rõ lý do: Trường chỉ nhận những học sinh đã học ở Đông Dương và do toàn quyền Đông Dương quyết định. Vì vậy, khi về qua Sài Gòn, Tất Thành mới viết thư cho ông cả Đạt, nhờ ông viết thư cho khâm sứ và toàn quyền, để xin cho em mình vào học trường Thuộc Địa. Trong hai lá thư này, để có trọng lượng, chắc ông Đạt khai là em mình đã học các trường Pháp Việt Đông Ba và Quốc Học... Vì vậy, năm 1920, khi Nguyễn Tất Thành đã "nổi danh" là Nguyễn Ái Quốc, sở Mật Thám gọi ông Đạt lên hỏi cung, ông giữ nguyên lời khai cũ.
Tóm lại, vấn đề học vấn của Nguyễn Tất Thành, phần chữ Hán là chắc chắn, vì cha là phó bảng Nguyễn Sinh Huy, bạn của Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh... Còn việc học ở các trường Đông Ba, Quốc Học, dường như không lấy gì làm chắc lắm.
Nguyễn Tất Thành đến Paris
1/ Trong thời gian ở Anh, Nguyễn Tất Thành có trao đổi thư từ với Phan Châu Trinh, gọi cụ Phan là Hy Mã nghi bá đại nhơn - Hy Mã là tên hiệu của Phan Châu Trinh, nghi bá là bác kính- tự xưng là cuồng điệt Nguyễn Tất Thành -cuồng điệt là người cháu hăng say. Vì Phan Châu Trinh bị theo dõi rất kỹ, loạt thư này không qua mắt được mật thám, đó cũng là một trong những lý do xác định khoảng 1914-1918, Nguyễn Tất Thành sống ở Luân Đôn.
2- Theo Thu Trang, mật thám tìm thấy thẻ thư viện mang tên Nguyễn Ái Quốc, ghi năm 1919[22]. Chứng này không đáng tin, vì thẻ thư viện, cũng như thẻ sinh viên, phải đề đầy đủ họ và tên thật Nguyễn Tất Thành, hoặc chỉ đề họ Nguyễn, chứ không thể đề tên hiệu Nguyễn Ái Quốc. Việc này có thể do mật thám nhìn thấy thẻ có tên Nguyễn, rồi bịa thêm thành Nguyễn Ái Quốc để lấy điểm.
3- Về thời điểm sang Pháp, Trần Dân Tiên viết:
Thế giới đại chiến bùng nổ. (....) Anh Ba đến nói với tôi: "Xin từ biệt anh Nam".
- Anh đi đâu?
Tôi đi Pháp (...)
Sau khi rời Luân Đôn, anh Ba viết thư cho tôi. Đại ý thế này:
"Tôi đã gặp nhà ái quốc Phan Châu Trinh. (...) Tôi cũng gặp luật sư Phan Văn Trường và những người khác. Tôi nói với họ: Trong khi vua Duy Tân nổi dậy ở Huế, nhân dân Thái Nguyên và nhiều nơi khác khởi nghiã, thì chúng ta phải làm gì chứ?"[23]
Trích đoạn trên đây cho thấy, "lần sang Pháp vào lúc đại chiến bùng nổ" Tất Thành mới gặp Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường. Nhưng lại có mâu thuẫn: Đại chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914. Vua Duy Tân nổi dậy, 1916 và khởi nghiã Thái Nguyên, 1917. Vậy nếu Tất Thành sang Paris khi đại chiến bùng nổ vào năm 1914, thì làm sao biết được những biến cố xẩy ra năm 1916 và 1917?
Tại sao phải nói bừa như vậy?
Đọc đoạn Trần Dân Tiên viết về Hội Nghị Hoà Bình Versailles 1919, chúng ta có thể hiểu lý do:
"Họ đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh Ba). (...) Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam Yêu Nước ở Pa-ri và ở các tỉnh Pháp. Với danh nghiã của tổ chức này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Véc-Xây (...) Cũng nên nhắc lại ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Châu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt Nam Yêu Nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con"[24].
Trần Dân Tiên nhận mình đã "tổ chức nhóm người Việt Nam Yêu Nước ở Paris và ở các tỉnh", là nói bậy. Về bản Thỉnh Nguyện Thư thì viết đúng: luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Còn câu: "các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con" nên hiểu: hai ông Phan thuộc lớp già, chê lớp trẻ: Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành là trẻ con.
Tóm lại, đoạn "anh Ba đi Pháp khi đại chiến thế giới bùng nổ" sở dĩ có nhiều chỗ vô lý, vì nó được viết ra với hậu ý chứng minh rằng:
- Chính Nguyễn Tất Thành đã dựng nên nhóm Người An Nam Yêu Nước.
- Chính Nguyễn Tất Thành là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc.
- Chính Nguyễn Tất Thành chủ động đưa ra ý kiến về bản Thỉnh Nguyện Thư ở Hội nghị Hoà Bình Versailles 1919.
- Và Nguyễn Tất Thành viết được những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc là do đã ở Pháp từ 1914 và đã hết sức cố gắng học tiếng Pháp.
Xin nhắc lại: Khi Nguyễn Tất Thành đến Pháp -sẽ được xác định vào tháng 6/1919- Hội Nghị Hoà Bình Thế Giới đã khai mạc từ 18/1/1919 ở Versailles, tức là nửa năm trước, và nhóm An Nam Yêu Nước đã hoạt động từ khoảng 1916. Vậy Nguyễn Tất Thành không thể "tổ chức" nhóm An Nam Yêu Nước và cũng không "đề ra những yêu cầu" ở Versailles. Tất Thành chỉ là người được nhóm An Nam Yêu Nước chỉ định đem bản Thỉnh Nguyện Thư Của Người An Nam đến Hội Nghị Hoà Bình Versaillles.
Hội Nghị Hoà Bình (Conférence de la Paix) do khối đồng minh thắng trận đại chiến thứ nhất tổ chức, khai mạc ở Versailles ngày 18/1/1919 và kết thúc tháng 8/1920.
Ủy ban tối cao gồm các nước Mỹ, Pháp, Anh, Ý, Nhật.
Hội nghị bàn nhiều vấn đề, chủ yếu như:
- Sự cáo chung của Đế quốc Đức, đế quốc Áo-Hung, đế quốc Ottoman.
- Xây dựng ba nhà nước ở Âu châu: hồi sinh nước Ba Lan (Pologne), tạo ra các nước mới: Tchécoslovaquie và Yougoslavie.
- Thuộc địa Đức được lấy lại để chia cho Anh, Pháp, Bỉ, Nam Phi, Mỹ và Nhật.
- Đức phải bồi thường chiến tranh.
Bên lề hội nghị còn có những vấn đề:
- Nguyên tắc bình đẳng giữa các giống người.
- Hội nghị về Châu Phi tại Paris tháng 7/1919.
Ngày 8/1/1918, Tổng thống Mỹ đọc một diễn văn quan trọng tại Nghị Viện Hoa Kỳ, chủ yếu gồm 14 điểm, mà hội nghị Versailles sẽ lấy làm nền để bàn luận, nội dung nằm trên hai nguyên tắc: Dân tộc tự quyết và Tự do hoà bình.
Wilson được giải Nobel Hoà Bình năm 1919.
Đối với Việt Nam và các dân tộc bị trị trên thế giới, chủ trương của tổng thống Wilson sẽ là cơ hội và nền móng cho các chuyển động đòi độc lập.
Tuyên bố Wilson đi đôi với những cuộc tranh luận về vấn đề thuộc địa ở nghị viện Pháp, tiếp đó, nền chính trị thuộc địa được bàn cãi rộng rãi ở Hà Nội từ ngày 24/4/1919 với bài diễn văn cởi mở của toàn quyền Albert Sarraut, thuộc đảng Xã Hội, đề ra khái niệm  "công dân bản xứ" (citoyens indigènes), một thứ "quyền chính trị mở rộng cho người dân bản xứ" (une extension sensible de leurs droits politiques dans la cité indigène), và sau cùng là Hội Nghị các vấn đề Châu Phi tháng 7 năm 1919.
Tất cả những biến cố này đã góp phần củng cố các phong trào đòi độc lập và hoà bình của các nước bị trị.
Bản Thỉnh Nguyện Thư của Phan Văn Trường đưa ra giữa tháng 6/1919, là lúc cao trào mọi chuyển động. Phan Văn Trường dùng hai nguyên tắc chủ yếu của Wilson là Dân tộc tự quyết và Tự do hoà bình làm nền tảng cho việc đòi hỏi tự do dân chủ của nước mình.
Theo Daniel Hémery trong cuốn Ho Chi Minh de L'indochine au Vietnam[25], dựa vào tư tưởng chống thực dân của tổng thống Mỹ, mùa thu năm 1918, trước khi Hội Nghị Hoà Bình họp, nhóm Tunisie và Algérie đã cho in Bản tuyên ngôn của Ủy ban Tunisie và Algérie tại Hội Nghị Hoà Bình, và Hội những người lao động Trung hoa ở Pháp, những người Ái Nhĩ Lan, Hội những người Triều Tiên cũng đã phát hành  những tờ báo hoặc những bản công bố. Một trong những bản thỉnh nguyện đầu tiên của người Việt Nam đòi độc lập là của cựu hoàng Duy Tân, bị đầy từ năm 1916.
Trong chiến tranh, Pháp đã tập trung 900 ngàn người ở các thuộc địa đến Pháp để đánh giúp, trong đó có 92 ngàn người Việt Nam[26]. Số lính thợ di dân tạo nên những phong trào yêu nước chống Pháp của người dân các thuộc địa như Tunisie, Algérie... và Việt Nam với nhóm An Nam Yêu Nước của Phan Văn Trường. Trong bối cảnh tổng thống Wilson tuyên bố chống lại chính sách thuộc địa, Hội Nghị Hoà Bình Thế Giới là cơ hội hiếm có để tiếng nói của các nước bị đô hộ vùng lên, và nhóm Yêu Nước đã nhắm đúng thời cơ để công bố bản Thỉnh Nguyện Thư tám điểm, ký tên Nguyễn Ái Quấc.
Xác định ngày Nguyễn Tất Thành đến Paris
1/ Việc Tất Thành sang Pháp năm 1914, quá khó tin; cho nên trong cuốn Thời thanh niên của bác Hồ[27], Hồng Hà (được lệnh) sửa lại như sau:
"Anh bỏ nghề phụ bếp ở Luân Đôn, sang Pháp, đấy là vào cuối năm 1917"[28].
"Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh[29] một phố yên tĩnh của quận 13. Đây là nhà của luật sư Phan Văn Trường. Cùng ở có cụ Phan Châu Trinh mà anh Nguyễn Ái Quốc có thư từ thăm hỏi luôn khi anh còn ở Luân Đôn. Ông Trường nhường cho anh một buồng con trên gác ba, vừa đủ kê một cái bàn, một cái giường và một cái tủ con. Dạo ấy, nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh là một trung tâm gặp gỡ của nhiều Việt kiều ở Pa-ri. Có khi bà con đến chơi ăn ở liền mấy ngày (...) Cụ [Phan Châu Trinh] làm nghề ảnh tư ngay tại nhà số 6. Để sống, anh Nguyễn - cả người Việt lẫn người Pháp quen gọi anh Nguyễn Ái Quốc như thế - cùng với một kiều bào khác là Tuyết giúp việc cho cụ Phan đồng thời học nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh. Cụ Phan là một nhà yêu nước chân thành, nổi tiếng ở Việt Nam và nước ngoài. Cụ hơn anh Nguyễn 19 tuổi, còn ông Trường vốn là thông ngôn, học đến tiến sĩ luật học, làm nghề luật sư ở Pa-ri. Ông giỏi tiếng Pháp, vào quốc tịch Pháp, có nghiên cứu chủ nghiã Mác, quen biết nhiều trí thức và nhà chính trị Pháp. Điều mà anh Nguyễn băn khoăn hỏi hai người lúc đó làm gì cho đất nước trong khi đồng bào khao khát cách mạng thì không được trả lời thoả đáng, rõ ràng. Anh Nguyễn vừa làm nghề rửa ảnh vừa chăm chỉ học thêm tiếng Pháp với ông Trường"[30].
Trích đoạn này cho ta một số thông tin rất đáng lưu ý. Đặc biệt câu: "Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh". Chính câu này đã xác định, một lần nữa, ngày tháng Nguyễn Tất Thành đến Paris: Bởi vì căn nhà số 6, ngõ cụt Gobelins, Phan Văn Trường chỉ ở sau giải ngũ, tức là từ tháng 4/1919, khi ông về sống tại Paris[31].
 Tóm lại, nếu Nguyễn Tất Thành đến Paris ở ngay nhà Phan Văn Trường, 6 Villa des Gobelins, thì chỉ có thể là sau tháng 4/1919, thời điểm Phan Văn Trường đã giải ngũ, lên Paris và trước khi Nguyễn Tất Thành đem bản Thỉnh Nguyện đến Versailles, giữa tháng 6/1919.
 2/ Một mật báo của Pierre Guesde - tổng thanh tra quân đội Đông Dương và người Đông Dương- Contrôleur général des troupes indochinois et des Indochinois chắc là chức vụ tình báo cao nhất về vấn đề Đông Dương, thời đó - không đề ngày, nhưng chắc là cuối năm 1919, ghi như sau:
"Người có tên gọi là Nguyễn Ái Quốc, 27 tuổi, quê ở Đông Dương. Anh ta đã từ Luân Đôn (Anh) đến Paris hồi tháng 6 vừa qua, ở một mình từ ngày 7 đến ngày 11/6/ tại số nhà 10 phố Stockholm, rồi từ ngày 12/6 đến ngày 13/7 vừa qua tại 56 Monsieur Le Prince. Sau đó, anh ta cư trú tại 6 Villa des Gobelins, ở với người đồng hương có tên là Phan Văn Trường sinh năm 1878 ở Hà Nội (Bắc Kỳ), luật sư toà Phúc Thẩm Paris"[32].
Mật báo này có lẽ là nguồn mà Sophie Quinn-Judge trích dẫn trong bài viết của bà, để xác định Tất Thành từ London đến Paris ngày 7/6/1919.
 Tóm lại, theo tổng thanh tra Guesde: Tất Thành đến Pháp ngày 7/6/1919. Ở số 10 Stockholm từ 7/6 đến 11/6. Ở 56 Monsieur Le Prince từ 12/6 đến 13/7. Và từ 14/7/1919 đến ở 6 Villa des Gobelins. Được ông Khánh Ký dạy cho nghề rửa ảnh.
Vậy có thể xác định chắc chắn rằng: Nguyễn Tất Thành đến Pháp ngày 7/6/1919. Kết hợp mật báo của Pierre Guesde và các sự kiện khác, tất cả đều ăn khớp.
Nguyễn Tất Thành ở nhà số 6 Villa des Gobelins của Phan Văn Trường trong hai năm, từ tháng 6/1919 đến ngày 14/7/1921 mới dọn tới số 9, Impasse Compoint, khu 17.
Đây là khu phố nghèo dành cho thợ thuyền, gần ngoại ô phía Bắc Paris, Tất Thành tiếp tục nghề ảnh ở một cửa hiệu gần nhà. Ngày 14/3/1923, Tất Thành dọn về trụ sở báo Le Paria, số 3 Marché des Patriaches[33], ở được ba tháng đến 13/6/1923, lên đường đi Nga.
Khi đã xác định được đúng thời điểm Nguyễn Tất Thành đến Pháp, ta có thể đi sâu hơn nữa vào các tổ chức Việt kiều, vào sự phát sinh cái tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc và những công trình Hồ Chí Minh nhận là của ông nhưng lúc đó ông chưa có mặt tại Paris.
Căn nhà số 6 Villa des Gobelins và ông Khánh Ký
Căn nhà số 6 Villa des Gobelins, được coi là "trụ sở" của Hội Người An Nam Yêu Nước, nhiều nơi ghi là địa chỉ của Phan Văn Trường từ 1912, đặc biệt trong bản báo cáo của dự thẩm quan ba Caron, ngày 23/6/1915, với câu: "Sở Mật Thám khám nhà hai ông: không bắt được gì tại nhà ông Trường ở 6 Villa des Gobelins. Tại nhà ông Trinh ở 16 Cujas có bắt được một số tư liệu chữ Hán và quốc ngữ"[34].
Trong hồi ký, Phan Văn Trường cho biết: Từ khi sang Pháp cuối năm 1908 đến 1913, cuộc đời ông chia đôi giữa trường Sinh Ngữ Đông Phương, nơi ông dạy học và trường Luật, nơi ông học.
Bắt đầu từ tháng 4/1913, ông nói đến địa chỉ rue Bertholet (PVT, trang 99). Và đến tháng 2/1916, đóng ở Toulouse, khi được nghỉ phép về Paris, ông vẫn ở cái appartement ấy (PVT, trang 168).
1914-1915, đi tù. Ra tù, bị đổi xuống Toulouse, nhưng không ở trong trại lính mà thuê nhà ở riêng, đổi nhà 2 lần, đều ở Phố Taur - Rue du Taur.
Appartement phố Bertholet có lúc cho cháu ở, bị an ninh khám 2 lần, đều giả ăn trộm, lần thứ nhất khi ông vừa nhập ngũ, lần thứ nhì khi ông đã bị tù trong ngục Cherche-Midi, và mật thám đã lấy đi tất cả tài liệu (PVT, trang 112), cả bài diễn văn Les revendications indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ, đọc ở trường Cao Đẳng Xã Hội ngày 13/3/1914, cũng bị tịch thu trong 2 buổi khám nhà này.
Sự nhầm lẫn của Caron có thể giải thích như sau: số 6 Villa des Gobelins là một nhà lầu (immeuble) có nhiều phòng. Khoảng 1914-1915, có thể ông Khánh Ký đã thuê cho những người đồng hương lỡ bước ở nhờ.
Ông Khánh Ký tên thật là Nguyễn Văn Xuân, là một nhà ái quốc, thợ ảnh và doanh nhân, một trong ba cột trụ của Hội Đồng Bào Thân Ái, là người kinh tài cho tổ chức Yêu Nước ngay từ những ngày đầu, bạn thân của Phan Văn Trường, không hề rời ông Phan, dù ở Paris, Toulouse hay sang Mayence, Đức. Chính ông Khánh Ký đã dạy cho Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành nghề ảnh để kiếm sống tại Pháp. Và Nguyễn Như Chuyên -có nhiệm vụ theo dõi Phan Châu Trinh từ trên tàu rời Việt Nam- cũng đã ở số 6 Villa des Gobelins trong thời điểm đó.
 Vì vậy mới có sự lầm lẫn trong phúc trình Caron và trong báo cáo của một số chỉ điểm khác. Mà cũng chưa hẳn là nhầm: có thể chính Nguyễn Như Chuyên đã dẫn mật thám đến khám nhà này năm 1914 và bảo đó là nhà của Phan Văn Trường.
Một mật báo của Deveze ngày 29/4/1921 cho biết thêm: "Hôm qua trong căn hộ của Phan Văn Trường ở 6 Villa des Gobelins đã xẩy ra một cuộc cãi cọ dữ dội giữa một bên là Khánh Ký và bên kia là Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc và Tạ Văn Căn. Khánh Ký đã nhân danh Phan Văn Trường cam kết với chủ ngôi nhà, ông Richard, là sẽ trả dần tiền thuê nhà trong 5 năm chiến tranh, nay không thể tiếp tục trả nữa và nói rằng những người ở nhà phải trả nợ đó (...) Khánh Ký còn báo với Phan Châu Trinh là người cháu của Phan Văn Trường là Phan Cao Lu (Lục?) làm cho một ngân hàng tư nhân ở Toulon sẽ đến ở Paris cùng với vợ và một cháu bé và phải giành chỗ ở cho anh ta trong căn hộ. Tình hình đó làm cho Phan Châu Trinh, Tạ Văn Hộ và Nguyễn Ái Quốc rất lo lắng, họ không biết sẽ làm sao ở chung được với gia đình trẻ có một cháu bé như vậy. Do đó họ đã tìm bà gác cổng để hỏi xem trong nhà còn nơi nào chưa có người thuê không"[35].
Như vậy, ông Khánh Ký đã thuê căn nhà Villa des Gobelins từ trong chiến tranh, và tới tháng 4/1921, ông báo cho những ai ở đó phải lo trả tiền nhà. Bởi vì ông đang sửa soạn về nước. Ông về Hà Nội ngày 25/7/1921[36].
 Đó là lý do khiến ngày 14/7/1921, Tất Thành phải dọn tới 9 Impasse Compoint. Phan Châu Trinh ở lại đến cuối năm 1921 mới dọn ra 21 Pernety. Có lẽ vì giận Tất Thành hay làm ẩu nên ông Khánh Ký nói vậy -khi ở Mayence, ông Khánh Ký đã viết thư răn đe Tất Thành nên ăn ở tử tế với ông Trường- chứ ông Trường viết thư cho ông Trinh ngày 27/4/1921 còn dặn dò: "Tôi đã bảo cho Lục nếu nó cần ở Paris mấy tháng thì có thể đến căn hộ của tôi nhưng phải để gia đình ở Toulon. Nếu nó đem theo ai thì anh báo cho tôi. Roux đến Paris có việc gì hay chỉ đến thăm anh"[37].
Trình độ chính trị của Nguyễn Tất Thành
Trần Dân Tiên viết: "Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng (...) Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo"[38].
Đoạn này xác định thêm một lần nữa: Nguyễn Tất Thành không biết tiếng Pháp và cũng không hiểu gì về chính trị, nhưng những chi tiết này ở các bản tiểu sử chính thức về sau sẽ bị xoá hẳn. Trần Dân Tiên viết tiếp về việc học viết báo tiếng Pháp: "Nhược điểm về tri thức làm ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo. Thường lui tới toà báo "Dân Chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình cón kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: "Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài, năm, sáu dòng cũng được". Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt Nam, ông Nguyễn không thiếu. Ông thiếu nhất là văn Pháp (...) Khi thấy viết đã bớt sai lầm, ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tý, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng. Dần dần, ông Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo:"Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn"[39].
Việc học tiếng Pháp để viết báo trong vài năm chỉ có thể đưa đến kết quả: Nguyễn Tất Thành có thể viết được vài hàng tin tức. Còn viết được những bài xã luận ký tên Nguyễn Ái Quốc là một chuyện khác. Nhất là Tất Thành chỉ ở Pháp có 4 năm.
Tóm lại, phần thành thật trong nhật ký Trần Dân Tiên là nhìn nhận lúc ở Pháp, Tất Thành chưa biết gì về chính trị, tiếng Pháp kém và muốn học để viết báo. Nhưng cũng có chỗ không thành thật: vì ông đã nâng thời điểm Tất Thành đến Pháp từ 1919 lên 1914, để chứng tỏ những việc làm của Phan Văn Trường là Nguyễn Tất Thành làm. Theo thông tin tình báo, ông chơi rất thân với Nguyễn Thế Truyền, người bạn có lúc ở chung với ông, hoặc ngày nào cũng gặp, có lẽ Nguyễn Thế Truyền mới là người đắc lực dạy ông tiếng Pháp.
Ở Hội Nghị Tours, khai mạc ngày 27/12/1920, Nguyễn Tất Thành xuất hiện công khai với cái tên Nguyễn Ái Quốc. Hémery viết: "Nguyễn xoay sở để được mời đi dự Đại Hội đảng Xã Hội ở Tours, nhân danh đại biểu khu 13 của nhóm Xã Hội Đông Dương ma (fantomatique). Ngày 27/12 anh phát biểu ủng hộ kiến nghị Cachin-Frossard, ủng hộ việc đảng Xã Hội gia nhập Quốc Tế Cộng Sản"[40].
Về Hội Nghị Tours, Trần Dân Tiên viết: "ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghiã tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghiã xã hội, cách mạng (...) Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu"[41].
Tuy không hiểu rõ những bàn cãi chính trị trong Hội Nghị Tours, nhưng Nguyễn vẫn bỏ phiếu cho Đệ Tam Quốc Tế vì ông nghĩ: "Đệ Tam Quốc Tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ"[42].
Đoạn này Trần Dân Tiên cũng viết rất thực, nhưng trong cuốn Hồng Hà và các tiểu sử chính thức về sau, những đoạn thành thực như thế sẽ bị xoá hẳn, để thêm vào những đoạn dài mô tả "Bác" đã "nghiên cứu" kỹ càng lý thuyết Mác-Lê trước khi dự Hội Nghị Tours.
Thụy Khuê
---------------------------
Chú thích:
[1] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Tủ sách nghiên cứu, Montréal, 1981, trang 70.
[2] Đặng Thai Mai, Hồi ký, Tác phẩm mới, 1985, trang 355.
[3] Nguyễn Thế Anh, L'itinéraire politique de Ho Chi Minh, in trong cuốn Ho Chi Minh, L'homme et son héritage, Đường Mới, Paris, 1990.
[4] P. Brocheux dẫn Hémery, Ho Chi Minh, Presses Sciences Po, 2000, trg15.
[5] T. Lan là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh sau 1951, theo Bùi Tín, ông Hồ rút ngắn bí danh Trần Thái Lan của Nguyễn Thị Minh Khai khi hoạt động ở Hương Cảng và Quảng Đông.
[6] Lữ Phương, Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, Thư Nhà, Melbourne, Australia, 2002, trang 5.
[7] Lữ Phương, sđd, trang 26-27).
[8] Lữ Phương, sđd, trang 25.
[9] Trần Dân Tiên, trang 17.
[10] Chép theo sổ hành trình của tàu, Hồng Hà, trang 27-28-29. Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 187.
[11] Trần Dân Tiên, trang 18-19-20.
[12] Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 187-188.
[13] Nhà báo Pháp, cánh tả, nổi tiếng làm phim thời sự về Việt Nam.
[14] Vũ Ngự Chiêu &Nguyễn Thế Anh, Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành, Tủ sách Văn Hoá, Paris, 1983, trang 117- 118.
[15] Lê Thị Kinh, sđd, trang 188-190.
[16] Vũ Ngự Chiêu & Nguyễn Thế Anh, trang 121.
[17] Hémery, sđd, trang 36-37. Lữ Phương, sđd, trang 19-20.
[18] Trích theo Lữ Phương, sđd, trang 16, LP trích lại Hémery, Jeunesse d'un colonisé, genèse d'un exil. Ho Chi Minh jusqu'en 1911, Approche Asie, No 11, 1992.
[19] Daniel Hémery, Ho Chi Minh De L'Indochine au Viet Nam, Gallimard 1990, trang 32-33.
[20] Trần Dân Tiên các trang 15-16-17 và 20.
[21] Vũ Ngự Chiêu & Nguyễn Thế Anh, sđd, trang 121.
[22] Thu Trang, Rapport ký tên Jean, in trong Phụ lục cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông Nam Á, Paris, 1983.
[23] Trần Dân Tiên, trang 30-31.
[24] Trần Dân Tiên, trang 32.
[25] Découverte Gallimard, 1990, trang 43
[26] Hémery, sđd, trang 42.
[27] Nxb Thanh Niên, 1976.
[28] Hồng Hà, trang 38.
[29] 6 villa des Gobelins. Villa ở đây nghiã là Ngõ cụt, không phải là Phố.
[30] Hồng Hà, sđd, trang 38 và 19.
[31] Phan Văn Trường, Une histoire de conspirateurs annamites à Paris ou la vérité sur L'Indochine - Chuyện những người An Nam âm mưu ở Paris hay Sự thật về Đông Dương, L'Insomniaque, 2003.
[32] Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 64.
[33] Hồng Hà, trang 187.
[34] Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 14.
[35] Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 188.
[36] Lê Thị Kinh, tập 2, quyển 1, trang 211.
[37] Lê Thị Kinh, sđd, t2, q1, trang 190.
[38] Trần Dân Tiên, trang 34- 35.
[39] Trần Dân Tiên, trang 35- 36.
[40] Hémery, trang 46.
[41] Trần Dân Tiên, trang 46-47.
[42] Trần Dân Tiên, trang 49.
© 1984-2012 Thụy Khuê

Cưỡng bức đưa vào bệnh viện tâm thần: Lỗ hổng pháp luật hết sức nguy hiểm!

Dắt xe ra cửa chuẩn bị đi làm, người đàn ông bị 4 thanh niên lạ mặt xuất hiện, áp tải đưa lên xe trực chỉ Bệnh viện (BV) Tâm thần… Nhận được điện thoại kêu cứu của ông M.V.T (68 tuổi, ngụ Q.1, TP.HCM) về việc bỗng dưng bị bắt đưa vào BV Tâm thần TP, cả Công ty Công nghệ mới (Ecotec), nơi ông T. đang làm việc hết sức bất ngờ vì lâu nay không ai thấy ông T. biểu hiện bệnh tâm thần. Ngay sau đó, Giám đốc Ecotec trực tiếp vào BV để can thiệp, định bảo lãnh cho ông T. ra, nhưng không được, vì quy định: chỉ có người nào đưa bệnh nhân (BN) vào viện ký giấy đồng ý nhận người thân về, thì BV mới cho BN ra.



''Chúng tôi chỉ đạo BS khám, kiểm tra, và nhận thấy trường hợp ông T. chưa có sự kích động có thể gây nguy hiểm gì cho ông và người thân, nên ngày hôm sau BV có gọi người nhà đưa ông về. Thế nhưng, người nhà bảo chưa thu xếp được - BS Trịnh Tất Thắng, Giám đốc BV Tâm thần TP.HCM

Đang đi làm thì bị áp tải lên taxi

Nhận được thông tin, ngày 1.10, PV Thanh Niên đi cùng những người làm việc chung công ty với ông T. vào BV Tâm thần. Theo lời ông T. kể với các đồng nghiệp, vụ việc xảy ra như sau:

Ngày 29.9, khi ông vừa dắt xe ra cửa đi làm thì có 4 thanh niên lạ mặt xuất hiện, và hỏi: “Bác có phải bác T. không?”. Khi ông vừa trả lời: “Ừ, tôi đây. Có việc gì không?”, thì lập tức 4 thanh niên khống chế, áp tải đưa ông lên xe taxi, chở thẳng vào BV Tâm thần TP. Khi đến trước cửa BV, ông T. chỉ kịp gọi một cuộc điện thoại báo cho đồng nghiệp biết sự việc và nhờ giúp đỡ, rồi sau đó bị đưa vào cùng các BN tâm thần khác và bị giữ luôn ở đó.

Cũng theo ông T., khi bị đưa vào BV, vợ ông bảo ông bị bệnh tâm thần, còn ông thì bảo mình không bệnh, nhưng bác sĩ (BS) vẫn đưa ông hai viên thuốc bảo uống. “Tôi không uống, họ lấy thuốc lại và cho người trói tôi, chích thuốc mà chẳng biết thuốc gì. Sau đó, cứ ngày hai lần, họ lại bắt uống thuốc”, ông T. kể. 
Sáng 3.10, chúng tôi quay trở lại BV Tâm thần, ông T. vẫn bị “nhốt” ở khu A cùng các BN khác. Chứng kiến cảnh ông T. phải “nằm viện” với vài chục BN tâm thần, chúng tôi không khỏi ái ngại. Nếu người không bệnh bị "nhốt" kiểu này cũng dễ… điên. Lúc chúng tôi đến, ông T. đang nói chuyện với ông D. (một đồng nghiệp vào thăm ông). Nói chuyện rất từ tốn, nhỏ nhẹ, ông T. cho biết, ông không có một người thân nào khác ngoài vợ và các con. Ông D. khẳng định: “Ông T. là người rất giỏi, tỉnh táo, nên đang được hai công ty, tại Q.1 mời làm cố vấn chuyên môn. Ông ấy mà tâm thần gì”.
Tương tự, ông N.P.Đ (Công ty Ecotec) cũng tỏ ra khó hiểu: “Tôi khẳng định ông T. bình thường, không hề có biểu hiện bệnh tâm thần. Trước đây ông T. là giảng viên trường ĐH Ngoại thương Hà Nội, gần đây ông được mời làm chuyên viên cho Công ty Ecotec. Ông rất giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực ngoại thương. Hiện ông đang làm việc ở bộ phận triển khai dự án về trồng lúa, dạy nghề, thương mại”. 
Ông N.V.T - cố vấn Công ty Ecotec, bức xúc: “Khi Ban giám đốc công ty chúng tôi vào gặp Ban giám đốc BV Tâm thần, thì chính bác sĩ Giám đốc cũng nói ông T. không bệnh tâm thần, và nói sẽ cho ông T. về...”. 

Ông T. (áo trắng, ngồi) đang ở BV Tâm thần TP - Ảnh: L.Nga

Cần có quy định rõ ràng
Tiếp xúc với chúng tôi, BS Trịnh Tất Thắng - Giám đốc BV Tâm thần TP, cho biết sau khi ông T. được người thân đưa vào BV ngày 29.9, vì cho rằng ông có những biểu hiện bệnh tâm thần, thì một số đồng nghiệp của ông có vào và nói ông T. không bị bệnh, mà có những chuyện liên quan đến gia đình. “Chúng tôi chỉ đạo BS khám, kiểm tra, và nhận thấy trường hợp ông T. chưa có sự kích động có thể gây nguy hiểm gì cho ông và người thân, nên ngày hôm sau BV có gọi người nhà đưa ông về. Thế nhưng, người nhà bảo chưa thu xếp được”, BS Thắng nói. 
Vậy, nếu một ai đó bị người thân áp tải đưa vào yêu cầu cho nhập viện nhằm mưu đồ gì đó thì BV cũng tiếp nhận và cho họ nhập viện hay sao?
Bác sĩ Trịnh Tất Thắng: Với những trường hợp bình thường, khi khám, nhận thấy không có bệnh, BS sẽ cho về, hoặc chỉ cần điều trị ngoại trú; một số trường hợp cần nhập viện theo dõi, điều trị. Nhưng, không như một số bệnh khác xét nghiệm, chụp chiếu có thể cho kết quả bệnh rõ ràng, bệnh tâm thần có nhiều trường hợp rất khó xác định ngay. Nhiều ca bệnh rất kín kẽ, thường ngày họ vẫn làm việc, giao tiếp bình thường; và 90% người có bệnh tâm thần luôn phản đối, cho rằng mình không bệnh khi có yêu cầu nhập viện. Ngoài ra, hiện nay còn có những trường hợp rất phức tạp - có trường hợp giả vờ bệnh tâm thần; hoặc bị người thân đưa vào BV, cung cấp thông tin cho BV sai sự thật, cả hai là nhằm mục đích riêng nào đó, thì sẽ gây nhiều khó khăn cho BS, cần thời gian theo dõi, xác định bệnh hay không. 
Với trường hợp bị người thân áp tải đưa vào viện, nhưng sau đó xác định họ không có bệnh, hoặc không cần nhập viện, như trường hợp của ông T., thì cũng phải đợi người đã đưa họ vào viện ký nhận về. Nhưng, nếu người thân lấy lý do gì đó mà chậm trễ hoặc không đến ký bảo lãnh thì sao?
BS Trịnh Tất Thắng: Đây là điều lâu nay những người làm chuyên môn chúng tôi cần có luật quy định rõ ràng, BS hay người nhà BN quyết định chính cho BN về trong trường hợp này? Bởi, nếu BV cho về mà không có mặt, ký nhận của người đưa vào, lỡ có chuyện gì đó thì người nhà sẽ đổ lỗi cho BV. Cũng có những trường hợp, khi BV xác định không có bệnh mà người đưa BN vào viện không đến bảo lãnh về thì BV phải làm việc với địa phương, hay ngành LĐ-TB-XH để đưa BN ra khỏi BV.

Lỗ hổng pháp luật hết sức nguy hiểm!

Trao đổi với Thanh Niên, Luật sư Nguyễn Văn Đức - Công ty Luật TNHH MTV Biển Đông, phân tích: “Hiện nay, ở VN cũng như các nước trên thế giới, một người vào BV tâm thần có thể thuộc một trong ba dạng sau: nhập viện tự nguyện; nhập viện theo yêu cầu của người khác (thường được gọi là người thứ ba, ngoài BN và pháp luật); nhập viện bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tố tụng. Trường hợp của ông T. nói trên, rơi vào dạng thứ hai.
Ở các nước Âu, Mỹ, pháp luật quy định rất chặt chẽ về trường hợp người nhập viện theo yêu cầu của người khác. Người yêu cầu người khác vào BV phải có quan hệ rõ ràng với BN, sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật nếu yêu cầu của họ bị phát hiện là có ý đồ xấu, phi y tế. Ngay cả BS được giao nhiệm vụ tiếp nhận BN cũng phải xác định có cần thiết nhập viện hay không theo quy định chuyên môn nghiệp vụ. Khi ký giấy cho họ nhập viện, BS phải chịu trách nhiệm liên đới về việc điều trị của mình.
Ở nước ta, tại điều 12, Luật Khám chữa bệnh có quy định về quyền được từ chối chữa bệnh và ra khỏi cơ sở khám bệnh chữa bệnh. Tuy nhiên, quy định này còn chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể. Cho nên, một khi xảy ra tranh chấp giữa người đưa BN vào viện với những người thân thích còn lại, cơ sở y tế bị mắc “kẹt”. Trường hợp người ký đưa vào không đồng ý cho ra thì người bị đưa vào BV không thể ra được, kể cả họ được xác định không bị bệnh tâm thần. Đây là một kẽ hở của pháp luật hết sức nguy hiểm, một số đối tượng xấu có thể lợi dụng điều này để đưa người vào BV tâm thần, với ý đồ tước đoạt quyền tự do, xâm phạm đến quyền nhân thân của họ. Ở ta đã từng xảy ra những trường hợp như vậy, và hậu quả pháp lý để lại cũng hết sức nặng nề, nên theo tôi, đã đến lúc cần xây dựng luật về sức khỏe tâm thần quy định cụ thể, chặt chẽ vấn đề này”.

Đảng phải tự lột xác nếu không muốn bị người ta lột xác

Xin nói ngay rằng, đầu đề trên tôi lấy từ một ý kiến “góp ý với Đảng” trên báo Lao Động Chủ Nhật cách đây 20 năm, lúc làn gió “Đổi mới” đang ào ào trên khắp đất nước (chưa bị Đảng chặn lại và cố thổi ngược sau đó). Lúc ấy, nhiều đảng viên cũng như trí thức các cỡ vẫn còn tin/hy vọng Đảng “đổi mới” thực sự và toàn diện.
Nhưng sau một lúc hoang mang trước khủng hoảng chính trị của cả phe XHCN và tạm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhờ đường lối tự do hóa, lại bấu chặt được vào kẻ thù chưa xa bỗng thành ra “bạn vàng” rất gần, Đảng trấn tĩnh lại và hạ quyết tâm chỉ đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị. Cho nên câu dự đoán táo bạo trên của một đảng viên tâm huyết tạm thời chưa đúng. Sau 20 năm, Đảng vẫn chưa bị lột xác, mà còn hăm hở lột xác ngày càng nhiều người bất đồng chính kiến.
Đến hôm nay, tình hình ra sao?
Đổi mới kinh tế sau 20 năm thu được một số thành tựu, nhưng đã nhanh chóng thụt lùi và lại đang ở đêm trước của cuộc khủng hoảng mới. Nguyên nhân chủ yếu: Đổi mới nửa vời, có tự do hóa (cho tư nhân kinh doanh) nhưng vẫn kiên trì “thành phần chủ đạo” kinh tế nhà nước. Kết quả đã biết trước: quả đấm “chủ đạo” này đấm thẳng như trời giáng vào nền kinh tế quốc dân.
Giờ Đảng lại phải sửa soạn cuộc “đổi mới” lần hai. Cũng vẫn tư duy cũ: chỉ đổi mới kinh tế (tiến thêm một bước: có thể không còn khẳng định “kinh tế nhà nước” là chủ đạo), còn chính trị thì đổi mới một cách rụt rè e thẹn (nhấn mạnh “trên giấy” quyền con người kèm theo đủ thứ ràng buộc để sẵn sàng tước bỏ trên thực tế,… nhưng vẫn khăng khăng “điều 4” hiến định sự độc quyền của Đảng).
Với tư duy ấy, kết quả những năm tới của đất nước cũng có thể biết trước: Nếu kinh tế nhà nước – tức sự độc quyền kinh tế – đã đấm nát nền kinh tế quốc dân, thì tới đây, độc quyền của Đảng trên lĩnh vực chính trị chắc chắn sẽ làm tan hoang toàn bộ đời sống xã hội vốn đang lao nhanh trên con đường băng hoại chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc.
Nếu 20 năm trước, Đảng quyết định biến kẻ thù cũ thành “bạn vàng” để bấu vào mà tồn tại, thì tình thế hôm nay không cho phép nữa! Thực tế đã chứng tỏ chính sự bấu víu này là nguyên nhân đẩy nhanh đất nước đến nguy cơ mất mát lãnh thổ, mất quyền tự chủ và nhiều hiểm họa khôn lường khác. Lòng dân đang hết sức bức xúc! Trước nguy cơ đánh mất tính chính danh của một đảng từng tự hào có công giành độc lập dân tộc, Đảng đang rất lúng túng tìm cách thoát ra nghịch cảnh “còn Đảng mất nước, còn nước mất Đảng”.
Là một người cầm bút từng chịu sự lãnh đạo của Đảng gần hết đời (không tự nguyện nhưng biết là chưa thể khác, chỉ cố gắng giữ gìn “chút lòng trinh bạch” bằng cách không vào Đảng và không nhận bất cứ bổng lộc nào của Đảng), tôi vẫn băn khoăn “nghĩ hộ” Đảng (vô duyên?) cách thoát ra an toàn (vì nó cũng sẽ an toàn cho toàn dân tộc). Nhiều Đảng viên ưu tú đã chân thành vạch lối ra cho Đảng, nhưng Đảng chưa chịu nghe mà còn sách nhiễu họ đủ điều. Đảng còn quá tự tin vào “chính quyền trên mũi súng” của mình, còn quá khinh thường lòng dân?
Nhưng với bản Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 2013 vừa đây, mới mấy ngày đã thu được hàng ngàn chữ ký, trong đó lần đầu tiên có các cựu quan chức cao cấp và rất nhiều Đảng viên cỡ bự tham gia bất chấp mười mấy điều cấm mà Đảng ban hành, hồi chuông cấp báo đã rung lên! Triệt để và mạnh mẽ hơn hẳn Hiến chương 77 mở đầu cao trào dân chủ dẫn đến sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 2013 là dấu son lịch sử của cách mạng Việt Nam. Rất có thể nó sẽ dẫn đến một cuộc thanh trừng khủng bố khốc liệt, rất có thể hàng trăm người bị bắt, bị truy bức, bị đưa vào trại “phục hồi nhân phẩm” hoặc “nhà thương điên”, bị đụng xe, bị côn đồ hành hung… nhưng sẽ không gì cưỡng nổi ngọn triều dân chủ cuồn cuộn mà Kiến nghị đã phát động.
Vào lúc này, tôi bỗng nhớ đến câu góp ý với Đảng trên báo Lao Động Chủ Nhật cách đây 20 năm. Tôi muốn lấy lại câu ấy để nói với Đảng nhân ngày kỷ niệm Đảng Cộng sản ViệtNamra đời (3/2/1930 – 3/2/2013). Với tất cả sự chân thành. Vì nhớ đến những ngày tháng đẹp đẽ trong quá khứ của Đảng, với bao người con ưu tú đã hy sinh thân mình vì nền độc lập, vì nhớ đến lòng tin của bao nhiêu trí thức đã lựa chọn đi theo Hồ Chí Minh trong đó có cụ thân sinh ra tôi, vì nhớ đến những ngày tháng tanh xuân đẹp nhất của mình đã nghe lời kêu gọi của Đảng nguyện lên đường phục vụ công nông binh, vì lòng yêu mến nhiều người thầy, người anh, người bạn đã và đang là những đảng viên trung thực của Đảng. Vì tấm gương Myanmar trước mắt khi nhà độc tài và người đối lập bắt tay nhau xóa bỏ quá khứ hận thù để xây dựng một đất nước của tương lai.
ĐẢNG PHẢI TỰ LỘT XÁC NẾU KHÔNG MUỐN BỊ LỘT XÁC!
Mà trước mắt, hãy bước đi một bước nhỏ nhưng sẽ là bước nhảy vĩ đại: tự xóa bỏ “Điều 4” phi lý nực cười trong Hiến pháp. Nhân đây xin sửa câu nói thiếu thông minh của một người đồng tuế: “Bỏ điều 4 là tự sát” thành “Bỏ điều 4 là tự cứu”!

SG cuối tháng 1/2013

Hoàng Hưng
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN. 

Viện trưởng Viện KSND Đà Nẵng: Nguyễn Bá Thanh nếu mày không có quá nhiều tiền thì mày đã xanh cỏ với tao từ lâu rồi!

Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ: Đảng lệ đè pháp luật?
Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi bảo kê bỏ tù những người tố cáo Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh tham nhũng hay Đảng lệ đè pháp luật?
Dù muốn hay không, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam cũng đã phải thừa nhận “Tham nhũng là quốc nạn” với việc lập ra cả một Ban chỉ đạo trung ương chống tham nhũng do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cầm chịch có chân rết trong tất cả các Bộ, ngành và địa phương. Điều này không chỉ cho thấy tham nhũng có phạm vi toàn Việt mà còn cho thấy cuộc chiến chống tham nhũng là Một mất một còn.
Chỉ lấy ví dụ ở Đà Nẵng, đáng tiếc là các thế lực tham nhũng và bao che tham nhũng đang thắng thế với việc những người tố cáo hành vi “nhận hối lộ” của Bí thư thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc Hội Nguyễn Bá Thanh, bị Hội đồng xét xử Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao do thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa bỏ tù vào cuối tháng 12 năm ngoái do đã “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”?!
Mọi chuyện bắt đầu từ Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Lãnh đạo Viện KSNDTC và Công văn số 77/KSĐT/KT ngày 01/11/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Viện trưởng Viện KSNDTC và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Phan Diễn đề nghị xử lý Nguyễn Bá Thanh về tội nhận hối lộ của Phạm Minh Thông, Giám đốc Công ty hợp doanh xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng, Nguyễn Hưng, Chỉ huy phó Công trình đường Bắc Nam.
Đặc biệt Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rõ: “Thông khai có đưa cho ông Nguyễn Bá Thanh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích lại cho ông 5% trên số vốn do công trình xây dựng bằng vốn ngân sách và 150.000đ/m2 trên số mét vuông đất do Ủy ban nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Na… Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, vào chiều ngày 31/10/2000 sau khi phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, thì có 5/7 thành viên Ủy ban kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông, Nguyễn Hưng phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội: Nhận hối lộ. Do đó nếu vụ án dừng lại chỉ xử lý quy buộc số tiền trên cho Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng mà không điều tra, xử lý đối tượng nhận tiền thì sẽ oan cho người đưa tiền, trong khi đó người đòi hối lộ thì vô can, dư luận nhân dân không đồng tình và vụ án không được giải quyết triệt để và thỏa đáng”.
Do hai công văn này cùng với những lá đơn tố cáo hành vi tham nhũng của Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh được một công dân thành phố Đà Nẵng là Đinh Công Sắt lưu hành trong dân chúng mà trong mắt Công an thành phố Đà Nẵng là hành vi xâm hại đến uy tín, danh dự của Nguyễn Bá Thanh nên vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” đã được khởi tố. Trong số các bị can rồi tiếp đó là bị cáo ngoài Thiếu tướng Trần Văn Thanh, Chánh Thanh tra Bộ Công an, người đã tổ chức điều tra hành vi “nhận hối lộ” của Nguyễn Bá Thanh, còn có một cán bộ công an khác là Trung tá Dương Tiến, Trưởng Đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh.
Nếu như Thiếu tướng Trần Văn Thanh đã là nạn nhân của sự trả thù tư pháp phi nhân chưa từng thấy trong lịch sử thế giới hiện đại khi ông bị Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng Nguyễn Văn Quận điệu ra nơi xét xử khi đang hôn mê và bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử 12 tháng tù treo, Trung tá Dương Tiến bị Tòa án thành phố Đà Nẵng kết án 17 tháng 5 ngày tù giam và bị Hội đồng xét xử phúc thẩm y án, đúng bằng thời gian ông bị giam cầm trái pháp luật. Và phân tích sau đây chỉ riêng những hành vi phản pháp luật thể hiện trong bản án hình sự phúc thẩm đối với Trung tá Dương Tiến cũng đã đủ cho thấy thế lực tham nhũng có tính hệ thống trả thù những người chống tham nhũng điên cuồng và hèn hạ đến mức nào.
Hội đồng xét xử phúc thẩm đã kết án Trung tá Dương Tiến với lời buộc tội sau đây:
“Tại đơn kháng cáo kêu oan cũng như tại phiên tòa sơ thẩm trước đây và phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo chỉ thừa nhận vào ngày 14/5/2007, tại Văn phòng đại diện báo Công an TP. Hồ Chí Minh tại Hà Nội, bị cáo có giao cho Đinh Công Sắt tài liệu gồm: công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 và công văn số 77/KSĐT-KT ngày 01/11/2000 của VKSND TP. Đà Nẵng gửi lãnh đạo VKSNDTC và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, nội dung công văn có nêu kết quả điều tra vụ án Phạm Minh Thông, trong đó có một số lời khai của Phạm Minh Thông có liên quan đến lãnh đạo thành phố Đà Nẵng; bị cáo không thừa nhận có bảo Đinh Công Sắt đem tài liệu về phát tán cho dân Đà Nẵng đọc.
Xét thấy, vụ án Phạm Minh Thông và vụ án Nguyễn Hưng đã được Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm từ năm 2002, án đã có hiệu lực pháp luật, không có cán bộ lãnh đạo nào của thành phố Đà Nẵng liên quan đến bản án đã xét xử. Do đó mọi hành vi nhằm xúc phạm đến uy tín, danh dự lãnh đạo thành phố Đà Nẵng trong vụ án trên là phạm pháp.
Tại các biên bản ghi lời khai và tại các bản tường thuật trong giai đoạn điều tra cho thấy bị cáo Dương Tiến khi cung cấp hai công văn 73,77/KSĐT-KT nói trên đã bảo với Đinh Công Sắt đem đi photocopy nhiều bản, mang về cho dân Đà Nẵng đọc. Lời khai này phù hợp với lời khai của Đinh Công Sắt. Tài liệu này cùng với một số tài liệu khác sau đó đã được Sắt phát tán nhiều nơi, cho nhiều người tại địa bàn thành phố Đà Nẵng vào các ngày 15,16,17,18/5/2007 gần ngày bầu cử Quốc hội khóa 12 nhằm mục đích làm ảnh hưởng, gây khó khăn cho công tác bầu cử tại địa phương, làm giảm uy tín ứng cử viên đại biểu Quốc hội. Hành vi của bị cáo Dương Tiến và Đinh Công Sắt đã làm cho một bộ phận cử tri hoang mang, khiến chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan có trách nhiệm trong công tác chuẩn bị bầu cử cũng như giới thiệu ứng cử viên phải huy động lực lượng cho việc khắc phục hậu quả, thu hồi tài liệu mà các bị cáo tán phát và trấn an dư luận nhằm đảm bảo cho công tác bầu cử được diễn ra thuận lợi.
Về việc bị cáo Dương Tiến và Luật sư cho rằng công văn 73,77 không có dấu mật, công khai, ai đọc cũng được là điều không thể chấp nhận. Bởi lẽ bị cáo là công an, đồng thời giữ chức vụ Trưởng Văn phòng đại diện của một tờ báo ngành công an, bị cáo phải nhận thức rõ nội dung 2 công văn trên có đề cập đến cá nhân lãnh đạo địa phương, vì vậy chỉ có người có thẩm quyền mới được biết.
Việc Dương Tiến đã chủ động gọi cho Đinh Công Sắt ra Hà Nội để cung cấp 2 công văn trên, hỗ trợ tiền cho Sắt làm chi phí đi lại, bảo Sắt mang về tán phát đã thể hiện rõ mục đích, ý thức phạm tội của bị cáo. Do biết đây là hành vi vi phạm pháp luật nên bị cáo đã dặn Sắt “Phải cẩn thận”. Sau đó ngày 17/5/2007, bị cáo vào Đà Nẵng gặp Đinh Công Sắt để nắm tình hình dư luận Đà Nẵng sau khi Sắt tán phát tài liệu như lời khai tại bút lục 912, ngày 04/3/2008. Trong vụ án này, Dương Tiến và bị cáo Đinh Công Sắt là đồng phạm về hành vi tán phát tài liệu 2 công văn 73,77/KSĐT-KT tại thời điểm gần đến ngày bầu cử Quốc hội khóa 12, làm ảnh hưởng đến hoạt động của Nhà nước, tổ chức xã hội địa phương về công tác bầu cử, làm ảnh hưởng đến uy tín của người khác. Dương Tiến là đồng phạm với Đinh Công Sắt về hành vi trên. Án sơ thẩm không quy buộc bị cáo Tiến là đồng phạm với Trần Văn Thanh và Nguyễn Phi Duy Linh.
Với những căn cứ trên, xét án sơ thẩm áp dụng Khoản 1 Điều 258 BLHS để xử phạt Dương Tiến về “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” là có căn cứ, đúng tội. Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo cũng như quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo”.
Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đã cố tình kết án oan Trung tá Dương Tiến vì vụ án hình sự này không có người bị hại như chứng minh sau đây.
Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân…” , Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra” .
Rồi các Điều 68, 137 BLTTHS quy định về lời khai của người bị hại, Điều 191 BLTTHS quy định sự có mặt của người bị hại tại phiên tòa… Như vậy, theo pháp luật hình sự, tội phạm được xác định bởi người bị hại, không có người bị hại thì không có tội phạm.
Chắc chắn “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” không thuộc các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe và vì thế người bị hại bởi tội phạm này chắc chắn không chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, đồng nghĩa với việc người bị hại phải lên tiếng về tội phạm bằng cách này hay cách khác.
Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Lãnh đạo VKSNDTC và Công văn số 77/KSĐT/KT ngày 01/11/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Đ/c Viện trưởng VKSNDTC và Đ/c Phan Diễn, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng đều đề cập đến việc Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng đã nhận hối lộ của Phạm Minh Thông, Giám đốc Công ty hợp doanh xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng, Nguyễn Hưng, Chỉ huy phó Công trình đường Bắc Nam.
Đặc biệt Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rõ: “Thông khai có đưa cho ông Nguyễn Bá Thanh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích lại cho ông 5% trên số vốn do công trình xây dựng bằng vốn ngân sách và 150.000đ/m2 trên số mét vuông đất do Ủy ban nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Nam… Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, vào chiều ngày 31/10/2000 sau khi phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, thì có 5/7 thành viên Ủy ban kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông, Nguyễn Hưng phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội: Nhận hối lộ. Do đó nếu vụ án dừng lại chỉ xử lý quy buộc số tiền trên cho Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng mà không điều tra, xử lý đối tượng nhận tiền thì sẽ oan cho người đưa tiền, trong khi đó người đòi hối lộ thì vô can, dư luận nhân dân không đồng tình và vụ án không được giải quyết triệt để và thỏa đáng”.
Như vậy, theo quan điểm của Hội đồng xét xử phúc thẩm, việc Trung tá Dương Tiến, cung cấp 02 công văn 73,77/KSĐT-KT của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng cho Đinh Công Sắt là hành vi “xúc phạm đến uy tín, danh dự” của Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy ĐCSVN thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng và do đó Nguyễn Bá Thanh là “người bị hại”. Thế nhưng, trong toàn bộ hồ sơ của vụ án phần liên quan đến Trung tá Dương Tiến không có bất cứ dấu vết nào dù là nhỏ nhất cho thấy Nguyễn Bá Thanh là “người bị hại”, chẳng hạn như: đơn tố cáo, lời khai của chính Nguyễn Bá Thanh tại Cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của Trung tá Dương Tiến. Mà đã không có “người bị hại” thì không thể có việc Trung tá Dương Tiến phạm tội.
Tóm lại, chỉ riêng việc không có “người bị hại” trong vụ án hình sự này cũng đã đủ chứng minh Trung tá Dương Tiến hoàn toàn vô tội. Do đó, việc Hội đồng xét xử phúc thẩm đưa vụ án ra xét xử mà lẽ ra phải đình chỉ theo Khoản 2 Điều 239 (Kháng cáo kháng nghị những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm) Bộ Luật TTHS và hơn thế nữa, kết án Trung tá Dương Tiến dứt khoát là hành vi phạm “Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” quy định tại Điều 294 và “Tội ra bản án trái pháp luật” quy định tại Điều 295 Bộ Luật Hình sự!
Như vậy, người viết bài này đã chứng minh xong sự vô tội của Trung tá Dương Tiến cũng như chứng minh xong tội phạm “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” của Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng do Thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa. Tuy nhiên, điều nghiêm trọng hơn rất nhiều là Hội đồng xét xử phúc thẩm kết án oan Trung tá Dương Tiến không hẳn do dốt nát về nghiệp vụ hoặc do có vấn đề về tâm thần mà là do cố ý hãm hại người vô tội nhằm bao che hành vi “nhận hối lộ” của Bí thư Thành ủy Đảng cộng sản Việt Nam, Đại biểu Quốc hội, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh.
Thực vậy, có cả một loạt chứng cứ chứng minh nhận định này.
1. Hội đồng xét xử phúc thẩm bịa đặt căn cứ để kết tội
Pháp luật quy định các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể điều tra, kiểm sát, xét xử trên cơ sở các quy định của pháp luật. Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đưa ra ít nhất 02 căn cứ không có trong bất kỳ văn bản pháp luật nào để kết tội Trung tá Dương Tiến.
Tại bản án phúc thẩm có ghi: “Xét thấy, vụ án Phạm Minh Thông và vụ án Nguyễn Hưng đã được Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm từ năm 2002, án đã có hiệu lực pháp luật, không có cán bộ lãnh đạo nào của thành phố Đà Nẵng liên quan đến bản án đã xét xử. Do đó mọi hành vi nhằm xúc phạm đến uy tín, danh dự lãnh đạo thành phố Đà Nẵng trong vụ án trên là phạm pháp”.
Sự bịa đặt của Hội đồng xét xử phúc thẩm được thể hiện như sau:
Thứ nhất , không có bất cứ văn bản pháp luật nào quy định bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật đối với người không phải là bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm muốn bản án hình sự phúc thẩm vụ án Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng có hiệu lực pháp luật với Nguyễn Bá Thanh thì nhân vật này bắt buộc phải là bị cáo trong vụ án này. Thế nhưng Nguyễn Bá Thanh không phải là bị cáo trong vụ án vì chưa bị Công an thành phố Đà Nẵng khởi tố bị can để điều tra để rồi bị Viện kiểm sát truy tố ra Tòa án để xét xử về “Tội nhận hối lộ” quy định tại Điều 279 Bộ Luật Hình sự!
Nói cách khác, muốn pháp luật xác nhận Nguyễn Bá Thanh không phạm “Tội nhận hối lộ” của Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng thì cách duy nhất là phải khởi tố bị can và truy tố Nguyễn Bá Thanh ra Tòa án để rồi Hội đồng xét xử tuyên Nguyễn Bá Thanh không phạm tội sau khi bác bỏ những chứng cứ buộc tội của đại diện Viện kiểm sát thực hiện công tố đối với nhân vật này. Đó chính là điều mà Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà đã không dưới 2 lần cấp thiết đề nghị ngay giữa phiên tòa trước một cử tọa đông đảo nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đã cố tình lờ đi.
Thứ hai , không có bất cứ quy định pháp luật nào cấm công dân tiếp tục tố cáo hành vi phạm pháp của lãnh đạo thành phố Đà Nẵng nói chung, hành vi phạm pháp của Nguyễn Bá Thanh nói riêng với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ngay cả trong trường hợp Nguyễn Bá Thanh với tư cách bị cáo được Tòa án tuyên vô tội như giả thiết nêu trên.
Nhân đây cần khẳng định rằng chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải là việc riêng của chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng nghĩa hoạt động của các cơ quan này phải chịu sự giám sát chặt chẽ của người dân và của xã hội thông qua báo chí. Để nói việc Trung tá Dương Tiến đưa cho Đinh Công Sắt xem hai công văn số 73 và 77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng là hoàn toàn chính đáng và cần thiết, không chỉ trao đổi thông tin để chống tham nhũng có hiệu quả hơn mà còn để giám sát chính quyền nói chung, cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng trong đấu tranh chống tham nhũng!
Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS thì “Tội nhận hối lộ” là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 23 BLHS là 20 năm. Do Nguyễn Bá Thanh chưa bị Công an thành phố Đà Nẵng khởi tố để điều tra về hành vi nhận hối lộ như Viện KSND thành phố Đà Nẵng đề xuất tại 02 công văn 73 và 77/KSĐT-KT nên việc công dân phẫn nộ, tiếp tục tố cáo hành vi phạm pháp này của Nguyễn Bá Thanh không những là bình thường mà còn rất cần thiết để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý Nguyễn Bá Thanh một cách triệt để bằng biện pháp tư pháp.
Tóm lại, tố cáo là quyền công dân được Hiến pháp và Luật khiếu nại, tố cáo bảo hộ. Do đó việc Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử và kết án những người liên quan đến việc tố cáo Nguyễn Bá Thanh nhận hối lộ rõ ràng là hành vi cản trở việc tố cáo và cản trở việc xử lý ông Thanh theo pháp luật và vì vậy phạm “Tội xâm phạm quyền khiếu nại tố cáo” quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 132 Bộ Luật Hình sự.
Ngoài ra, tại bản án phúc thẩm còn ghi: “bị cáo Dương Tiến và Luật sư cho rằng công văn 73,77 không có dấu mật, công khai, ai đọc cũng được là điều không thể chấp nhận. Bởi lẽ bị cáo là công an, đồng thời giữ chức vụ Trưởng Văn phòng đại diện của một tờ báo ngành công an, bị cáo phải nhận thức rõ nội dung 2 công văn trên có đề cập đến cá nhân lãnh đạo địa phương, vì vậy chỉ có người có thẩm quyền mới được biết”.
Sự bịa đặt của Hội đồng xét xử phúc thẩm được thể hiện như sau:
Thứ nhất , không có bất cứ quy định pháp luật nào cấm công dân đọc công văn có dấu “Mật” của các cơ quan Nhà nước huống chi công văn không có dấu “Mật” như hai công văn số 73 và 77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Thứ hai , không có bất cứ văn bản pháp luật nào quy định công văn đề cập đến cá nhân lãnh đạo chính quyền địa phương chỉ người có thẩm quyền mới được biết.
Tóm lại, chỉ trong trường hợp tài liệu có dấu “Mật” bị lọt ra ngoài xã hội thì mới có thể truy cứu trách nhiệm và người bị truy cứu trách nhiệm là người có thẩm quyền đã để lọt tài liệu đó ra ngoài chứ tuyệt nhiên không thể truy cứu trách nhiệm người dân hay người không có thẩm quyền đã đọc tài liệu đó.
2. Hội đồng xét xử phúc thẩm tự mâu thuẫn khi một mặt, mặc nhiên thừa nhận Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh có hành vi “nhận hối lộ” như kết luận của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại 02 công văn số 73 và 77/KSĐT-KT nhưng mặt khác, lại kết luận việc lưu hành 02 công văn này xúc phạm danh dự, uy tín của Nguyễn Bá Thanh
Nếu Hội đồng xét xử cho rằng việc lưu hành 02 công văn số 73 và 77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng là hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh thì người có hành vi này phải biết rõ những điều mà họ loan truyền, lưu hành là bịa đặt, tương tự hành vi của người phạm “Tội vu khống” quy định tại Điều 122 Bộ Luật Hình sự.
Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đã không đả động một chút nào đến nội dung của 02 công văn này, tức mặc nhiên thừa nhận việc Nguyễn Bá Thanh nhận hối lộ không phải là bịa đặt, tức có thực.
Điều đáng lưu ý là ngoài hai công văn 73,77 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, theo Thiếu tướng Trần Văn Thanh, Chánh Thanh tra Bộ Công an tại Bản trình bày ngày 03/11/2008 làm theo yêu cầu của tổ công tác liên ngành kèm theo công văn 3429/VKSTC-V2 ngày 30/10/2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, còn có nhiều văn bản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác xác nhận các đơn tố cáo về hành vi tham nhũng của Nguyễn Bá Thanh của một số công dân thành phố Đà Nẵng (trong đó có đơn tố cáo của Đinh Công Sắt) là có cơ sở và đề xuất xử lý hình sự Nguyễn Bá Thanh như:
- Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ ngày 26/10/2007 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Thủ tướng Chính phủ và Thường trực Ban bí thư và Báo cáo số 38/BC-VPBCĐ ngày 07/4/2008 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng đề xuất xử lý Nguyễn Bá Thanh theo quy định của pháp luật.
- Kết luận thanh tra số 524/KLTT-BCA (V24) ngày 06/6/2008 của Bộ Công an xác định có đủ căn cứ để khởi tố vụ án và bị can đối với Nguyễn Bá Thanh và việc Công an thành phố Đà Nẵng không khởi tố để điều tra là vi phạm Điều 103, 104 BLTTHS, có dấu hiệu vi phạm Điều 294 BLHS.
3. Hội đồng xét xử phúc thẩm cố ý vi phạm tố tụng hình sự do đã không triệu tập ông Nguyễn Trịnh Thăng tham gia tố tụng với tư cách nhân chứng duy nhất cuộc gặp giữa Đinh Công Sắt và Trung tá Dương Tiến, ngày 14/5/2007 tại Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội.
Ngày 11/01/2010, ông Nguyễn Trịnh Thăng, thường trú tại Tổ 42 An Hòa, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã viết Đơn gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tố cáo Hội đồng xét xử sơ thẩm – Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng do Thẩm phán Nguyễn Thành làm Chủ tọa và Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng do thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa đã cố ý gạt bỏ ông Thăng với tư cách nhân chứng để kết án oan Trung tá Dương Tiến cho bằng được. Nội dung Đơn tố cáo như sau:
“Vào ngày 14/05/2007, ông Sắt gọi điện thoại cho tôi báo ông Sắt đã ra đến Hà Nội và đề nghị tôi cùng đến gặp ông Dương Tiến tại Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Khoảng 5 đến 6 giờ tối cùng ngày tôi và ông Sắt được ông Dương Tiến tiếp tại phòng khách của Văn phòng và ông Sắt có đưa cho ông Dương Tiến một tập tài liệu (nội dung tài liệu thì tôi không được biết). Do thấy hai người nói chuyện cho nên tôi xin phép ra ngoài khoảng 15 phút. Khi quay lại thì tôi thấy ông Sắt đang đọc hai tài liệu. Sau đó ông Sắt có đưa cho tôi xem qua thì tôi được biết đây là 02 Công văn số 73,77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đề nghị xử lý ông Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng lúc đó, do đã nhận hối lộ của Phạm Minh Thông. Đọc xong tôi trả lại hai tài liệu này cho ông Sắt. Lúc này ông Sắt nói với ông Dương Tiến cho ông Sắt mượn 02 Công văn số 73,77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng để đi photocopy và ông Dương Tiến đồng ý. Sau đó ông Sắt rủ tôi cùng đi đến một cửa hàng photocopy thuộc phường Cát Linh nhưng do cửa hàng đó đóng cửa nên ông Sắt bảo tôi vào quán uống nước đợi ông. Khoảng 20 phút sau ông Sắt quay lại và bảo tôi đi cùng để trả hai tài liệu trên cho ông Dương Tiến. Sau khi trả hai tài liệu, ông Sắt nói với ông Dương Tiến rằng ông Sắt không có tiền để về Đà Nẵng thì ông Dương Tiến đưa cho ông Sắt một triệu đồng để hỗ trợ. Sau đó tôi đưa ông Sắt ra ga Hà Nội để về Đà Nẵng, còn tôi thì vẫn ở lại Hà Nội.
Vào ngày 16-17/05/20007, ông Dương Tiến vào Đà Nẵng và ở tại khách sạn Xanh và có nhờ tôi chở đi xem một số dự án, công trình mà các công dân Đà Nẵng đang khiếu kiện mà ông Tiến đã phản ánh qua bài báo “Nguyên nhân nào một số công dân Đà Nẵng khiếu kiện gay gắt” đăng trên báo Công an thành phố Hồ Chí Minh ngày 10/05/2007. Tôi có chở ông đi một số nơi trong đó có dự án sân vận động Chi Lăng, dự án thủy sản Thọ Quang đường Liên Chiểu, Thuận Phước… Trong thời gian ở khách sạn Xanh, ông Dương Tiến nhận được một bản fax bài viết của ông Trần Đình Bá và có cho tôi và ông Sắt xem ngay tại quán cà fê của khách sạn. Xem xong, chúng tôi trả lại ông Dương Tiến bản fax đó.
Kết luận lại, tôi, Nguyễn Trịnh Thăng, một lần nữa khẳng định ông Dương Tiến không hề:
1. Bảo chúng tôi, Nguyễn Trịnh Thăng và Đinh Công Sắt phát tán 02 Công văn số 73 và 77 của Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng cho nhân dân Đà Nẵng đọc;
2. Vào Đà Nẵng chỉ để theo dõi, nắm tình hình dư luận về bài báo của ông viết về Đà Nẵng;
3. Cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo.
Là người có mặt trong các cuộc gặp giữa ông Dương Tiến và ông Đinh Công Sắt nhưng tôi không hề được cấp Tòa sơ thẩm cũng như cấp Tòa phúc thẩm triệu tập tham gia tố tụng với tư cách nhân chứng. Điều này cho thấy cả hai cấp Tòa đã chủ định kết án oan ông Dương Tiến nên mới gạt tôi, Nguyễn Trịnh Thăng, nhân chứng chứng minh ông Dương Tiến vô tội, ra khỏi thành phần tham gia tố tụng trong vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
4. Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Tòa phúc thẩm đã vi phạm nghiêm trọng Điều 218 (Đối đáp) Bộ Luật tố tụng hình sự.
Điều 218 (Đối đáp) Bộ Luật hình sự quy định:
“Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận”.
Thế nhưng Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Tòa phúc thẩm đã liên tục vi phạm quy định tố tụng hình sự này:
Ø Khi Luật sư Nguyễn Thị Dương bắt đầu tranh luận thì ngăn Luật sư bằng cách nói là chưa đến phần tranh luận. Khi Luật sư đòi tranh luận, đối đáp với đại diện Viện kiểm sát thì lại nói là phần tranh luận đã qua rồi, Luật sư không được tranh luận nữa?!
5.- Nhiều lần cắt ngang, ngăn cản Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà thực hiện bào chữa thô bạo đến mức Luật sư phải tuyên bố thẳng thừng là Chủ tọa phiên tòa đã vi phạm nghiêm trọng Điều 218 Bộ Luật tố tụng hình sự thì mới chịu để Luật sư tiếp tục công việc của mình.
Ø Không yêu cầu Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
6.- Nhiều lần trực tiếp tranh luận với Luật sư thay cho đại diện Viện kiểm sát, vi phạm tính khách quan của Hội đồng xét xử!!!
7.-Ra lệnh cho nhân viên kỹ thuật tắt micro mỗi khi Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà thực hiện công việc bào chữa nhằm ngăn cử tọa nghe được nội dung bào chữa liên quan đến hành vi “nhận hối lộ” của ông Nguyễn Bá Thanh!!!
8. Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Tòa phúc thẩm đã vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự khi cho phép vị đại diện Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng - không phải là người tham gia tố tụng hình sự theo quy định tại Chương IV Bộ Luật tố tụng hình sự - lên án các bị cáo ngay giữa phiên tòa để bênh ông Nguyễn Bá Thanh.
Việc thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm cho phép đại diện Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng không phải là người tham gia tố tụng phát biểu ý kiến trong khi lại ngăn cản Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà là người tham gia tố tụng thực hiện quyền bào chữa được pháp luật tố tụng hình sự bảo hộ là bằng chứng không thể chối cãi về việc Hội đồng xét xử phúc thẩm cố ý làm trái luật pháp nhằm bao che hành vi “nhận hối lộ” của Nguyễn Bá Thanh và nhằm bao che hành vi “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” và hành vi “ra bản án trái pháp luật” của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng do thẩm phán Nguyễn Thành làm Chủ tọa.
Cũng cần nói thêm rằng việc thay Thẩm phán trước đó đã được giao nhiệm vụ Chủ tọa Hội đồng xét xử phúc thẩm bằng thẩm phán Trần Mẫn chuẩn bị nghỉ hưu và việc Thẩm phán họ Trần này đã phải tập dượt xử án vì đã lâu không ngồi tòa theo một nguồn tin đáng tin cậy càng chứng tỏ Thẩm phán này không có vai trò nào khác là tuyên một bản án “bỏ túi” hay được định sẵn để bỏ tù những người đã “dám” tố cáo hành vi tham nhũng của Nguyễn Bá Thanh!
Ngoài những hành vi cố ý xâm phạm pháp luật tố tụng nói trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm còn cố ý lờ đi những phản bác của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà đối với hành vi “viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng” và hành vi “cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của nhà báo Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo” mà Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã buộc cho Trung tá Dương Tiến. Nói cách khác, Hội đồng xét xử phúc thẩm tìm mọi cách để bao che Bản án trái pháp luật của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Kết luận lại, bằng việc xâm phạm trắng trợn pháp luật tố tụng hình sự, bịa đặt chứng cứ để kết tội Trung tá Dương Tiến như trên đã chứng minh, Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng do thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa là điển hình xâm phạm hoạt động tư pháp, khép tội oan công dân nhằm bao che tham nhũng và trả thù người chống tham nhũng!
Không chấp nhận Bất công tột bậc này của những kẻ nhân danh Công lý tại Đà Nẵng, ngày 19/5 vừa qua, đúng sinh nhật lần thứ 120 của Hồ Chí Minh, người khai sáng Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, Trung tá Dương Tiến đã chính thức gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trần Quốc Vượng “Đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án hình sự số 78/2009/HSPT ngày 07/12/2009 của Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng liên quan đến việc “nhận hối lộ” của Bí thư Thành ủy ĐCSVN, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh” với yêu cầu không gì rõ ràng hơn:
Thứ nhất, tuyên Trung tá Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến, không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, đình chỉ vụ án và phục hồi cho Trung tá Dương Tiến mọi quyền và lợi ích hợp pháp.
Thứ hai, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với các thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm - Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa ngày 6-7/8/2009 và Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng tại phiên tòa ngày 07/12/2009 về “Tội truy cứu trách trách nhiệm hình sự người không có tội” quy định tại Điều 295 Bộ Luật hình sự về “Tội ra bản án trái pháp luật” quy định tại Điều 295 Bộ Luật Hình sự.
Thứ ba, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng về hành vi “nhận hối lộ” như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000.
Cũng chính việc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã đạp lên luật pháp để bao che tham nhũng nghiêm trọng của Nguyễn Bá Thanh và đàn áp một cách tàn bạo những người tố cáo đã gây phẫn nộ cao độ trong nhân dân thành phố Đà Nẵng. Liên tục từ cuối năm ngoái khi phiên tòa phúc thẩm kết thúc, công dân Đà Nẵng đã liên tiếp viết Đơn tập thể gửi các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước tố cáo và yêu cầu xử lý theo quy định của pháp luật hình sự cả Nguyễn Bá Thanh lẫn các thế lực bao che nhân vật này mà cụ thể là Thẩm phán Nguyễn Thành, Phó chánh án Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, Chủ tọa Hội đồng xét xử sơ thẩm và và thẩm phán Trần Mẫn, Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà nẵng, Chủ tọa Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền là không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không được làm oan người vô tội nên người viết bài này thấy không có lý do gì để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trần Quốc Vượng có thể chần chừ trong việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án hình sự phúc thẩm để minh oan Trung tá Dương Tiến, Thiếu tướng Trần Văn Thanh - những sĩ quan công an xứng danh “Vì nhân dân phục vụ” - và các bị cáo khác trong cùng vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” là Nguyễn Phi Duy Linh và Đinh Công Sắt cũng như để trừng trị nghiêm khắc những kẻ đã dựng đứng lên vụ án này!
Mặc dầu vậy, ai cũng thấy rõ là việc trừng trị đến nơi đến chốn tham nhũng cũng như những thẩm phán “coi Pháp luật bằng vung” như Trần Mẫn là “bất khả thi” nếu như không vạch ra được thế lực “ô, dù” bao che cho cái lũ “thù trong” này. Bởi thế nhiều người cho rằng chính ông Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương của Đảng là một trong số vai vế đã “bảo kê” ông Nguyễn Bá Thanh tham nhũng và do đó “bảo kê” luôn việc bỏ tù Trung tá Dương Tiến, Thiếu tướng Trần Văn Thanh… theo đúng nguyên tắc “Một mất Một còn” với 2 chứng cứ không dễ gì bác được:
Một là, kể từ sau Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban kiểm tra trung ương có thể nói là “độc quyền” hay “múa gậy vườn hoang” theo cách nói dân gian trong việc xử lý các cán bộ “có vấn đề” thuộc “diện Trung ương quản lý”, tức từ Phó chủ tịch tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương trở lên, sau khi những cơ quan khác của Đảng có cùng chức năng là Ban Nội chính trung ương, Ban bảo vệ chính trị nội bộ đã bị “xóa sổ”, hay nói đúng hơn là bị sáp nhập vào Văn phòng Trung ương Đảng.
Nói cách khác, Chủ nhiệm Nguyễn Văn Chi một khi “lắc đầu” thì dù Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng do Thù tướng đứng đầu có muốn xử lý cũng phải chào thua. Bằng chứng là Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ ngày 26/10/2007 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng gửi Thủ tướng Chính phủ và Thường trực Ban bí thư và Báo cáo số 38/BC-VPBCĐ ngày 07/4/2008 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng đề xuất xử lý ông Nguyễn Bá Thanh theo quy định của pháp luật cũng đã không “đè” nổi, “đánh xuôi” nổi Thông báo số 94TB/KTTW ngày 25/4/2007 của Ủy ban kiểm tra trung ương do Phó Chủ nhiệm Nguyễn Thị Doan, nay là Phó Chủ tịch Nước, ký thay Chủ nhiệm Nguyễn Văn Chi “thổi ngược”, phủi sạch trơn mọi tố cáo đối với ông Nguyễn Bá Thanh!
Hai là, Thẩm phán Trần Mẫn là em ruột bà Trần Thị Thủy mà bà Thủy lại chính là… vợ Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi!
Đó chưa kể “thâm giao” khó có thể không có giữa Nguyễn Bá Thanh và Chủ nhiệm Chi bởi ông Chi là Bí thư Quảng Nam – Đà Nẵng trong gần cả chục năm, từ 1986 đến 1994.
Để nói rằng, vẫn theo những ý kiến trên, oan khuất tày trời mà Trung tá Dương Tiến, Thiếu tướng Trần Văn Thanh và hai bị cáo khác của vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” khó có thể được giải quyết chừng nào Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi vẫn còn tại vị, chừng nào Nhà nước nói chung, các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng, vẫn còn đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích của Tổ Quốc và Nhân Dân, tóm lại chừng nào Đảng lệ vẫn còn đè Pháp luật!
Thế nhưng tôi vẫn tin rằng lũ “nội xâm” như Nguyễn Bá Thanh và các thế lực “bảo kê” không thể tiếp tục tồn tại bởi Nước Nam này Hào Kiệt đời nào chẳng có, mảnh đất Đà Nẵng kia đâu có thiếu Anh Hùng, mà bắt đầu bằng tác giả của hai công văn 73,77/KSĐT-KT giờ đã thành huyền thoại: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng Nguyễn Quốc Dũng.
Rất có thể tôi bị thuyết phục bởi bộc bạch này của người Viện trưởng – cựu chiến binh quả cảm ấy: “Tôi đã ký lệnh bắt nó rồi… Tôi đã nói thẳng với Nguyễn Bá Thanh rằng nếu mày không có quá nhiều tiền thì mày đã xanh cỏ với tao từ lâu rồi”!!
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
(Blog Cù Huy Hà Vũ)

Điều 4 Hiến Pháp 1992 phá hủy nền tảng của chính bản Hiến Pháp

 
Góp ý về Điều 4 Hiến pháp
Điều 4 trong bản “Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 2005 – Bản sửa đổi), có đoạn viết như sau:
“Đảng Cộng Sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Điều 4 này mâu thuẫn và chống lại Điều 2, Điều 3, Điều 8, Điều 15, Điều 16, Điều 21, Điều 83… của chính bản Hiến pháp. Chúng tôi sẽ lần lượt chứng minh.
Điều 2 của bản Hiến pháp có đoạn viết như sau: “Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”. Theo Điều 2 này khẳng định nước CHXHCNVN là một nước dân chủ. Bởi, Điều 2 nhắc lại định nghĩa của Ngài Abraham Lincoln (1809-1865) – vị anh hùng giải phóng nô lệ, vị tổng thống thứ 16 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, thần tượng của Karl Marx, được Marx tôn làm biểu tượng của Tự Do – định nghĩa về một quốc gia dân chủ như sau: “Một quốc gia dân chủ là một quốc gia mà chính quyền của dân, do dân, vì dân!”.
Như vậy, khi Điều 4 khẳng định: “Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, tức là nước CHXHCNVN theo một chế độ Đảng trị = Đảng chủ, hoàn toàn chống lại Điều 2: khẳng định nước CHXHCNVN là một nhà nước Dân trị = Dân chủ! Như vậy, nếu căn cứ vào Điều 2, thì Điều 4 là vi hiến và ngược lại; nhưng Điều 2 có trước Điều 4, nên ta có thể coi Điều 4 là điều vi hiến được chăng?
Điều 83 của Hiến pháp có đoạn viết như sau: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCNVN. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp…”. Như vậy, Điều 2 và Điều 83 cùng khẳng định quyền tối thượng của nước CHXHCNVN thuộc về nhân dân chứ không thuộc về Đảng CSVN như Điều 4 đã quy định Đảng CSVN nắm quyền tuyệt đối: “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Xã hội là toàn bộ đời sống văn hoá, chính trị, kinh tế, pháp luật, thể chế, lịch sử, tôn giáo…của con người trong một quốc gia. Tức là Điều 4 quy định Đảng CSVN là chủ nhân ông của đất nước và dân tộc Việt Nam, là ông vua của các vua, chúa của các chúa. Nhưng oái oăm thay, ở Điều 2 và Điều 83, bản Hiến pháp năm 1992 lại khẳng định Nhân Dân là chủ nhân ông của đất nước và dân tộc, nắm quyền tối thượng quốc gia, y hệt các nhà nước dân chủ khác trên thế giới vậy (Thế giới ngày nay có chừng 95% số quốc gia theo chế độ dân chủ đại nghị). Do đó, cứ theo Điều 4, Điều 2, Điều 83, thì nước Việt Nam ta có hai “vua”: “Vua Đảng CSVN” và “Vua Nhân Dân” ư? Nếu lấy hai chọi một, thì Điều 4 là thiểu số phải bị coi là vi hiến trước Điều 2 và Điều 83 đa số?
Chưa hết, ngay cả ở Điều 3 trong bản Hiến pháp 1992 cũng hàm chứa yếu tố chống lại Điều 4.
Điều 3 có đoạn viết như sau: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. “Quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân” nghĩa là nhân dân làm chủ tất tần tật mọi sinh hoạt xã hội từ chính trị, văn hoá xã hội, thể chế, luật pháp, lịch sử… của nước Việt Nam. Mệnh đề này của Điều 3 trong Hiến pháp phủ nhận Điều 4. Như vậy, Điều 3 đã về hùa với các Điều 2 và Điều 83 cùng xóa bỏ Điều 4 trong bản Hiến pháp.
Mệnh đề thứ 2 của Điều 3 viết như sau: “… Thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…”. Chính Điều 3 trong Hiến pháp đã xác định xã hội Việt Nam là một xã hội công bằng, tự do. Tự do và Công bằng xã hội là mọi công dân đều bình đẳng, không ai nhảy ra sai khiến (lãnh đạo) ai mà không được sự đồng ý của người bị sai khiến (bị lãnh đạo). Đảng CSVN chỉ là một nhóm người rất thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (ngót ba triệu đảng viên CS trong khi đó có hơn 90 triệu người dân ngoài đảng). Vậy thiểu số kia muốn cai trị (lãnh đạo) đa số này phải hỏi ý kiến xem 80 triệu dân có đồng ý (cho phép) Đảng CSVN cai trị đại đa số nhân dân Việt Nam hay không?
Nghe câu hỏi này, Đảng CSVN bèn bảo: – Quốc hội nước CHXHCNVN đã bỏ phiếu xác định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng CS thì không phải là toàn dân đồng thuận là gì? Vâng, đấy chỉ là sự đồng thuận hình thức, đồng thuận ảo, đồng thuận giả tạo! Vì trong Quốc hội có đến hơn 95% đại biểu là đảng viên CS, thì Quốc Hội thực chất chỉ là Quốc hội của Đảng CS mà thôi! Với phương châm bầu cử: “Đảng cử, Dân bầu” của Đảng CS, thì người dân (hơn 80 triệu) đã bị tước quyền ứng cử và bầu cử. Khi Nhân Dân mất quyền “cử” thì chữ “bầu” cũng thành vô nghĩa, thành trò hề! Do đó, mọi cuộc bầu bán do Đảng CS tổ chức để hình thành Quốc hội đều chỉ là hình thức, là trò ảo thuật kiểu Đảng CS vừa đá bóng, vừa thổi còi, vừa lĩnh thưởng mà thôi! Bầu cử Quốc Hội mà Đảng CS toàn cử người của mình ra ứng cử, rồi bắt dân chỉ được quyền “Bầu”, không được quyền “Cử”, Dân không được quyền kiểm phiếu… thì cái Quốc Hội kia chỉ là Quốc Hội của Đảng chứ nào đâu còn là Quốc hội của Dân? Do đó, chính Đảng CSVN đã vi phạm Điều 3 của Hiến pháp là không tôn trọng hai chữ: Tự do – Bình đẳng (Công bằng)!
Như vậy, Điều 3 trong Hiến pháp đã phủ nhận chính Điều 4 vậy!
Điều 8 trong bản Hiến pháp 1992 có đoạn viết như sau: “… Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Điều 8 không cho phép ai (kể cả Đảng CS) được phép quan liêu, cửa quyền. Nhưng ở Điều 4, Đảng CSVN đã chứng tỏ sự quan liêu, cửa quyền của mình bằng cách tự cho mình quyền lãnh đạo tối thượng nhân dân Việt Nam trái với quy định ở Điều 2, Điều 3 và Điều 83. Do đó, Điều 8 cũng đã phủ nhận chính Điều 4.
Điều 15 trong bản Hiến pháp, có đoạn viết: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng…”. Chính sự khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường (khái niệm “định hướng XHCN” hoàn toàn vô nghĩa), chấp nhận nền kinh tế tư nhân tại Việt Nam nơi Điều 15 này đã phủ nhận Điều 4; vì Điều 4 ghi: “Đảng CSVN theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Vì sao vậy? Vì ai đã đọc Mác - Lênin, dù chỉ ở trình độ sơ cấp, cũng biết chủ nghĩa Mác-Lê phủ nhận kinh tế thị trường = tư bản, xóa bỏ sở hữu tư nhân. Có chủ nghĩa Mác - Lê thì không có kinh tế tư bản = kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân và ngược lại! Như vậy, Điều 15 đã xóa bỏ Điều 4 hay ngược lại!?
Điều 17 trong bản Hiến pháp 1992 tiếp tục phủ nhận Điều 4 bằng cách nói rõ hơn sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam như sau: “Phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…”. Chính sự khẳng định Đảng CSVN lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Điều 17 này đã giết chết chủ nghĩa Mác - Lênin là tôn giáo và cương lĩnh của Đảng như Điều 4 đã quy định. Vậy, Điều 17 này đã xóa bỏ Điều 4 hay ngược lại?
Điều 21 trong bản Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường, tức kinh tế tư bản chủ nghĩa, như có đoạn viết sau: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động…”. Mục đích của chủ nghĩa Mác - Lê Nin là chôn chủ nghĩa tư bản. Sao Đảng CSVN ghi trong Điều 4 Hiến pháp “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội… theo chủ nghĩa Mác-Lênin” lại phát triển kinh tế tư bản? Hóa ra, bằng cách đề ra bốn Điều: 15, 16,17, 21 trong Hiến pháp 1992 là xây dựng nền kinh tế tư bản trên đất nước Việt Nam, Đảng CSVN đã làm ngược lại 180 độ chủ nghĩa Mác–Lênin; cũng có nghĩa là chính Đảng CSVN không chôn tư bản như nguyên lý Mác-Lênin đã dạy, mà ngược lại còn đi xây dựng tư bản chủ nghĩa. Như vậy, có phải chính là Đảng CSVN đã ngầm xóa bỏ Điều 4 trong bản Hiến pháp?
Tựu trung, Điều 4 trong Hiến pháp 1992 (bản sửa đổi) đã xóa bỏ các Điều 2, 3, 8,15, 16, 21, 83… của chính bản Hiến pháp, cũng là xóa bỏ nền tảng của bản Hiến pháp vậy! Muốn bản Hiến pháp không bị vô hiệu hoá vì sự thậm vô lý (ngược đời), cần phải xóa bỏ Điều 4. Vả lại, nếu Điều 4 Hiến pháp không bị xóa bỏ, hiển nhiên là các cuộc bầu cử của nhà nước Việt Nam chung quy chỉ là hình thức, là trò đùa mà thôi; vì Hiến pháp đã khẳng định đảng cộng sản Việt Nam với số đảng viên thiểu số (ba triệu) là lực lượng vĩnh viễn lãnh đạo đất nước, lãnh đạo khối nhân dân đa số (90 triệu) thì còn bầu cử làm gì cho mất công, vô ích. Chính Điều 4 Hiến pháp này đã thông báo một điều hiển nhiên: NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM LÀ NHÀ NƯỚC ĐỘC TÀI, ĐỘC ĐẢNG, TUYỆT ĐỐI KHÔNG PHẢI LÀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ như Hiến pháp đã lừa dối tuyên bố.,.

Sài Gòn 2006-2013

Trần Mạnh Hảo

Viết báo, viết văn, làm thơ, viết phê bình văn học
(Dân luận)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét