Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013

HOT - BÀI VIẾT NÊN ĐỌC

Đảng cộng sản VN đã chọn lựa dứt khoát từ lâu rồi!

Song Chi.- RFA
Trong lịch sử cầm quyền kéo dài 68 năm trên miền Bắc và 38 năm trên toàn đất nước VN, không biết bao nhiêu lần đảng cộng sản đã có những quyết định, chọn lựa sai lầm, bỏ lỡ rất nhiều cơ hội đưa VN trở thành một nước tự do dân chủ, giàu mạnh, hội nhập với dòng chảy chung của thế giới. Nhưng điều đáng nói hơn, và ở đây, cái tội của đảng cộng sản với lịch sử, với đất nước, dân tộc sẽ càng nặng hơn gấp nghìn lần, đó là không biết bao nhiêu lần, thay vì tìm cách đưa đất nước, dân tộc thoát ra khỏi cái bóng của TQ, thoát khỏi nguy cơ VN sẽ trở thành Tây Tạng hoặc Tân Cương thứ hai, thì đảng cộng sản lại tự nguyện đút đầu vào tròng nô lệ và càng ngày càng lún sâu hơn.
Những ngày gần đây, quan sát tất cả những diễn biến trong mối quan hệ giữa hai đảng-hai nhà nước Việt-Trung, quan sát những gì đang thực sự xảy ra ngoài biển Đông, đối chiếu với những động thái từ phía nhà cầm quyền VN đối với nhà cầm quyển TQ và đối với nhân dân, người dân VN và cả thế giới càng nhận ra một sự thật rõ ràng: Nhà cầm quyền VN đã công khai chọn lựa con đường tiếp tục đi theo TQ, công khai đầu hàng TQ, chối từ mọi con đường dân chủ hóa, tiếp tục đặt quyền lợi của đảng lên trên lợi ích của đất nước, dân tộc-như từ trước đến nay vẫn thế, nhưng bây giờ càng rõ ràng hơn bao giờ hết.
Hãy điểm lại hàng loạt những diễn biến xảy ra giữa hai đảng-hai nhà nước và những động thái của nhà cầm quyền VN.
Vào ngày 21 tháng Sáu năm 2012, khi Quốc hội thông qua Luật Biển VN, nhiều người dân đã có ý mừng rằng cuối cùng rồi VN cũng có được một bộ luật chặt chẽ để xử lý, giải quyết những vấn đề có liên quan đến chủ quyền của VN trên biển, đảo trước âm mưu bành trướng của TQ. Ngược lại, TQ thì hậm hực thấy rõ.
Cũng vì Luật biển VN mà phía TQ đã trả đũa bằng hàng loạt hành động nhằm củng cố “đường lưỡi bò” trên biển Đông, củng cố “chủ quyền” trên quần đảo Hoàng Sa đã đánh chiếm được của VN-nơi mà bây giờ họ đã và đang đẩy mạnh việc xây dựng cái “thành phố Tam Sa”. Đồng thời tỉnh Hải Nam tung ra một quy định mới cho phép bộ đội biên phòng “chặn và lục soát tàu nước ngoài” trên biển Đông mà ai cũng thấy rõ là nhằm vào ngư dân VN.
Cả Luật biển VN cũng như quy định ““chặn và lục soát tàu nước ngoài” của TQ cùng có hiệu lực từ ngày 1.1.2013. Về phía họ, TQ vừa ráo riết tăng cường thêm tàu chiến cho đội tàu hải giám để thêm sức mạnh tuần tra, giám sát thường xuyên; hàng chục hàng trăm thuyền đánh cá “khủng” của ngư dân TQ được sự khuyến khích của nhà nước và sự yểm trợ của đủ loại tàu hải giám, ngư chính các loại tiếp tục ào ạt tiến vào biển Đông, vào sâu cả khu vực thuộc chủ quyền của VN, và nếu nhác thấy tàu đánh cá của ngư dân VN đánh bắt xa bờ một chút là đẩy, đuổi. Thuyền trưởng tàu cá ĐNa 90072 Lê Văn Ninh vừa trở về từ Hoàng Sa đã kể lại việc này trên báo Tiền Phong (“Thuyền trưởng tàu Hoàng Sa kể chuyện bị tàu Trung Quốc đẩy, đuổi”).
Tàu hải giám và cả máy bay trinh sát Trung Quốc còn phối hợp tiến hành tuần tra gần vịnh Bắc bộ, nhưng “không nêu rõ các tàu và máy bay kể trên có đi vào vùng biển và không phận thuộc chủ quyền của Việt Nam hay không”. (“Tàu hải giám Trung Quốc tuần tra gần vịnh Bắc bộ”, VNExpress).
Ngược lại, về phía mình, nhà cầm quyền VN đã làm những gì để chuẩn bị cho cái ngày Luật biển VN có hiệu lực, để xử lý những vụ xâm phạm chủ quyền trên biển từ phía tàu cá, tàu chiến TQ chắc chắn sẽ xảy ra? Không ai thấy họ làm gì cả. Biển Đông đang sôi sùng sục như cái lò chảo, Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản đều có những tranh chấp biển, đảo với TQ và mỗi lần như vậy đều tỏ rõ thái độ sẵn sàng cứng rắn với TQ để bảo vệ chủ quyền bằng cả pháp lý lẫn đối đầu quân sự.
Trong khi đó thì các ông lãnh đạo cao nhất của VN hoàn toàn câm lặng trước những sự việc tương tự. Cả người phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng trốn mất tiêu, thi thoảng mới thấy xuất hiện lặp lại như vẹt những lời phản đối chuyện này chuyện kia.
Từ ông đại tá Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng cho đến ông Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng còn đi “rao giảng về hòa bình”, về tình hữu nghị Việt-Trung, công khai bày tỏ sự không thiện cảm với Mỹ. (Mời đọc lại “Đại tá Trần Đăng Thanh giảng về biển Đông cho lãnh đạo các trường đại học”, Nhật báo Ba Sàm và bài nói chuyện của ông tướng Vịnh “Không ai quên lợi ích quốc gia, dân tộc” trên báo Tuổi Trẻ. Để thấy dù một bên ông đại tá Thanh có ngôn ngữ bỗ bã, tư duy lộn xộn, một bên ông tướng Vịnh có vẻ kín kẽ, mỵ dân hơn nhưng tư tưởng, quan điểm chính trị thì vẫn giống nhau, mà có người nhận xét, đều là “lẫn lộn bạn thù, tù mù chiến lược” một cách vô cùng nguy hiểm).
Vẫn chưa đủ hèn đủ nhục, nhà cầm quyền VN, như “hối hận, sợ hãi” vì đã dám chọc giận TQ bằng Luật Biển VN và có thái độ đu dây giữa Hoa Kỳ và TQ trong một giai đoạn nào đó trước đây, đã tìm mọi cách để “vuốt giận”, lấy lòng Bắc Kinh.
Khi tàu TQ lại cắt cáp tàu thăm dò dầu khí Bình Minh 02 vào ngày 30.11.2012, khác với lần trước VN phản đối khá mạnh, lần này khi báo chí vừa đưa tin “cắt cáp” thì ngay sau đó, các quan chức VN tìm cách làm nhẹ vấn đề bằng cách bằng cách “lệnh” cho báo chí xuống giọng, điều chỉnh từ “cắt cáp”, “phá hoại” thành ra “vô tình làm đứt cáp”.
Trong cuộc họp giao ban báo chí vào ngày 11 tháng 12, cả phó vụ trưởng Vụ Báo Chí Xuất Bản-Ban Tuyên Giáo Trung Ương, bà Doãn Thị Thuận, lẫn phó trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương, ông Nguyễn Thế Kỷ, đã phê bình báo chí không chấp hành sự chỉ đạo từ trên, đưa tin làm nóng thêm tình hình. Ông Nguyễn Thế Kỷ còn đe sẽ xử lý các báo, các cá nhân vi phạm cả về mặt đảng lẫn bên nhà nước.
Để khẳng định với TQ rằng VN đã đã có sự chọn lựa dứt khoát đứng về phía TQ, nhà cầm quyền VN tổ chức những hoạt động rầm rộ kỷ niệm những sự kiện có liên quan đến “chiến thắng” trong cuộc chiến tranh chống Mỹ trước kia, chẳng hạn, “chiến dịch Điện Biên Phủ trên không”, nhắc đi nhắc lại mối thù cũ với “đế quốc Mỹ xâm lược”. Trong khi đó thì hèn hạ, khiếp nhược đến độ gần đây, nhân dịp cải táng hài cốt Lê Đình Chinh, Anh hùng liệt sĩ đầu tiên trong cuộc Chiến tranh Biên giới phía Bắc 1978-1979 chống bọn Trung Quốc xâm lược, báo chí không dám gọi đúng tên kẻ thù đã gây ra cái chết của Lê Đình Chinh.
Hàng loạt tờ báo từ VNExpress, Nhân Dân, Tiền Phong…chỉ dám viết anh Lê Đình Chinh hy sinh khi đang chiến đấu chống “quân xâm lược”, “quân xâm lược từ bên kia biên giới” hoặc “những tên côn đồ từ bên kia biên giới kéo sang” như báo Dân Trí, hoặc không nói như báo Tuổi Trẻ, chỉ mỗi báo Thanh Niên gọi đúng tên “quân xâm lược Trung Quốc” (“Kẻ thù nào đã giết anh Lê Đình Chinh 35 năm trước ở Biên giới phía Bắc?”, Nhật báo Ba Sàm)…
(Với một tinh thần khiếp nhược như vậy thì làm sao nhà nước VN dám đem Luật Biển VN ra mà đối thoại hay xử lý những trường hợp xâm phạm biển, đảo của TQ?)
Ngày 7.2013 quan chức VN lặng lẽ, lén lút đón tiếp 3 tàu chiến đồ sộ của TQ với thủy thủ đoàn gần 800 người ghé thăm cảng Sài Gòn mà không cho báo chí truyền thông cũng như người dân được tiếp cận khu vực cảng, đưa tin. Chỉ đến khi 3 tàu TQ đi rồi, báo chí mới được đưa tin.
Trong lúc các quan chức lãnh đạo VN đang nhiệt liệt hoan hỉ đón tiếp phái đoàn của 3 tàu chiến TQ thì có hai sự kiện cay đắng, chua xót và đáng phẫn nộ khác diễn ra, càng làm nổi bật diện mạo “hèn với giặc, ác với dân” của nhà cầm quyền VN: Ngày 8.1, hai tàu cá của ngư dân đang đánh cá thì bị hỏng máy, xin vào Hoàng Sa trú bão và sửa chữa hư hỏng nhưng bị hải quân TQ không cho vào, phải neo đậu ngoài khơi trong điều kiện gió cấp 6, cấp 7. Báo chí VN đưa tin chỉ trong cơn bão đầu năm 2013, hải quân TQ đã chặn hơn 20 tàu cá VN không cho vào Hoàng Sa tránh bão.  Cũng trong ngày 8.1, tòa án tỉnh Nghệ An đã đưa 14 thanh niên Công giáo và Tin Lành ra xét xử về tội danh “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân”.
Và sau 2 ngày xét xử, với một phiên tòa chỉ thấy toàn công an trong phòng xử án, người thân của những người bị xử án cũng không được phép vào, công an, cảnh sát, dân phòng bủa đi các ngả bao vây, ngăn chặn, xách nhiễu, bắt bớ tất cả những ai tới tham dự phiên tòa, kết quả: tổng cộng 83 năm tù giam và 43 năm quản chế sau khi mãn hạn tù dành cho 14 người, trong đó có 3 người bị kết án nặng nhất là 13 năm tù giam cộng 5 năm quản chế.
Bản án quá dã man khiến người dân VN cho đến thế giới bàng hoàng, phẫn nộ. Ngay lập tức, quốc tế lên tiếng chỉ trích. Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Hà Nội cũng lên tiếng phản đối nhà cầm quyền Việt Nam. Thế giới bày tỏ sự lo ngại trước tình trạng nhân quyền ngày càng thụt lùi ở VN. Khi dư luận về bản án quá nặng dành cho 3 blogger của CLBNBTD với blogger Điếu Cày lãnh 12 năm tù, blogger Công lý và Sự thật 10 năm tù, hay vụ bắt luật sư Lê Quốc Quân ngày 27.12.1012 còn chưa kịp lắng xuống, thì nay lại đến bản án dã man này.
Người ta tự hỏi phải chăng cái nhà nước này ngu, điên hay quẫn trí khi đang giữa lúc tình hình cực kỳ khủng hoảng về mọi mặt, kinh tế nát bét, nợ nước ngoài ngập mặt, nội bộ lủng củng phe phái đánh nhau, lòng dân oán ghét chửi thấu trời xanh, bên ngoài thì tàu TQ tràn ngập biển Đông, ngay cả trong khu vực thuộc chủ quyền của VN, và chưa biết lúc nào TQ sẽ đánh úp để chiếm nốt những cái đảo còn lại của Trường Sa…Giữa lúc như vậy mà họ lại phạm vào 2 điều tối kỵ nhất:
Đối ngoại, đã không có đồng minh chiến lược, không có bạn bè để nhờ cậy nếu bị xâm lược mà lại còn tự đẩy mình xa ra với các nước dân chủ tiến bộ trên toàn cầu và với Hoa Kỳ khi công khai bày tỏ sự nghi kỵ với Hoa Kỳ và tiếp tục thành tích tệ hại về nhân quyền bất chấp phản ứng của quốc tế. Đối nội, không khoan sức dân, tận thu thuế, song song với việc gia tăng sự đối đầu với nhân dân bằng những vụ cưỡng chế đất đai nói thẳng ra là cướp ngày, bắt bớ, giam cầm những người yêu nước, tìm mọi cách ngăn chặn thông tin, ngăn chặn mọi tiếng nói phản biện trên mạng v.v…
Họ có ngu, điên hay quẫn trí không? Có thể. Những chế độ gần đến ngày tàn, khi hệ thống lý luận bị phá sản, cả lý tưởng, tính chính danh, cả niềm tin của nhân dân lẫn thiện cảm/đồng cảm của thế giới cũng không còn thì thường hành xử như vậy.
Chỉ có điều, với tất cả đội ngũ quan chức đầu óc mê sảng và cực kỳ ích kỷ bám chắc vào ghế, với đội ngũ quân đội, công an chìm nổi tích cực làm tay sai, điên cuồng bám giữ chế độ, bám giữ quyền lợi, cộng thêm số đông người dân vẫn còn sợ hãi hoặc thờ ơ với vận mệnh đất nước như hiện nay thì quá trình giãy chết của đảng cộng sản VN không thể mau như người dân hy vọng. Quá trình này càng lâu thì cái hậu quả phải dọn dẹp và làm lại sau đó, thời hậu cộng sản càng nặng nề.
Mặt khác, tất cả những diễn biến nói trên trong thời gian gần đây đã chứng minh: Một lần nữa, đảng cộng sản VN đã có sự chọn lựa dứt khoát. Vận mệnh đất nước, vì vậy, chỉ còn tùy thuộc vào sự tỉnh thức của người dân VN.

Góp ý sửa đổi hiến pháp. Gánh hát làng xã diễn trò dân chủ

 —  Lê Diễn Đức – RFA

Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đang hô hào toàn dân góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, từ ngày 2/01 đến ngày 31/03/2013.
Một hiến pháp đúng nghĩa phải như thế nào?
Hiến pháp (HP) là văn kiện đặt ra các nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị cho một quốc gia. HP xác lập toàn bộ cấu trúc cơ bản của các cơ quan nhà nước, cách thức bổ nhiệm, bao gồm thẩm quyền của các cơ quan này cũng như mối quan hệ tương tác, và các quyền lợi, nghĩa vụ cơ bản của công dân.
HP là bộ luật quan trọng nhất của một nhà nước, cơ sở pháp lý cho các hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, là Luật cơ bản. HP đi cùng với các quy định khác của pháp luật, nhưng đứng ở vị trí hàng đầu, là bộ khung của mọi luật định. Tất cả các luật khác của quốc gia phải phù hợp quy định của HP.
HP tiến bộ, văn minh phải là đỉnh cao của quy trình và những thay đổi liên quan đến việc chuyển đổi các quy định từ một nhà nước phong kiến, chuyên chế hay độc tài toàn trị đến một nhà nước dân sự, dựa trên các nguyên tắc của dân chủ và nhân bản.
HP không chỉ xác định cấu trúc cơ bản của nhà nước, thiết lập ranh giới hoạt động của các cơ quan nhà nước, mà trước hết bảo đảm các quyền cơ bản và quyền tự do của công dân, cũng như bảo vệ quyền lợi của các cá thể và các nhóm thiểu số trong xã hội. HP không thể bị áp đặt bởi một đa số bất kỳ nào mà là sự thỏa hiệp được hình thành từ kết quả của tranh luận xã hội rộng rãi, công khai.
HP, với chức năng của nó, không phải chỉ dành cho đảng cầm quyền mà còn cho xã hội. Một HP đúng đắn phải là HP của nhà nước của một xã hội dân sự. Nó không chỉ giới hạn trong các vấn đề của nhà nước và cách thức thực hiện, mà còn mở rộng phạm vi điều chỉnh những vấn đề không phù hợp trong các chính sách của nhà nước. Nhà nước trong HP, được xem không chỉ là nhà tổ chức chính của đời sống công cộng, mà là một thực thể tạo ra cuộc sống có phẩm giá, nhưng đồng thời cho phép các tập hợp dân sự khác có đời sống chính trị và xã hội làm việc song song bên cạnh nhà nước.
HP là sản phẩm mà mỗi công dân đều có quyền góp phần sáng tạo ra nó, tham gia xây dựng của nó, được hưởng và tuân thủ quyền lợi và nghĩa vụ hiến định sau khi có đồng thuận.
Một tiến trình công phu
Là nhân chứng suốt giai đoạn chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ và hơn 20 năm hoàn thiện một nhà nước dân chủ pháp quyền, tôi nhận thấy việc thay đổi HP của Ba Lan là một quá trình phức tạp và đòi hỏi nhiều công sức.
Vào năm 1989, sau khi chế độ CS sụp đổ, để bộ máy nhà nước giữ tính liên tục, HP của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan năm 1952, một HP bị áp đặt bởi chủ nghĩa Stalin, vẫn được duy trì. Nhà nước dân chủ chỉ đưa ra một số luật định cần thiết nhất để mở rộng quyền dân chủ và tự do, như bãi bỏ ngay lập tức kiểm duyệt báo chí, thay đổi thể lệ bầu cử, v.v…
Mặc dù HP thời CS không còn phù hợp về thời gian, không đáp ứng nhu cầu của đất nước, nhưng để ra đời hiến pháp mới, người Ba Lan phải mất tới 8 năm chuẩn bị.
Kể từ khi Hội đồng HP của quốc hội bao gồm 56 dân biểu và thuợng nghị sĩ bắt đầu công việc, đến lúc có các bản dự thảo đọc trước quốc hội, mất gần 5 năm.
Trình bày trước quốc hội không chỉ riêng bản dự thảo của Hội đồng HP, mà còn có các bản dự thảo của nhiều đảng chính trị đối lập với đảng cầm quyền, của riêng Tổng thống và của công đoàn lao động. Tất cả ý kiến đóng góp cho các bản dự thảo tại quốc hội được chuyển cho nhóm luật gia có uy tín cao về lĩnh vực hiến pháp, nghiên cứu trong vòng hai năm, nhằm tổng hợp, kết nối, tìm ra đồng thuận cho một Dự thảo chung để đưa ra biểu quyết tại quốc hội (vào tháng 3/1997, với 461 phiếu thuận, 30 phiếu chống và 5 phiếu trắng).
Bản dự thảo này được chuyển lên Tổng thống và một lần nữa quốc hội thảo luận về 41 điểm lưu ý của Tổng thống. 30/41 điểm lưu ý của Tổng thống được quốc hội chấp thuận, đưa ra biểu quyết lần thứ hai (với 451 phiếu thuận, 40 phiếu chống và 6 phiếu trắng).
Tiếp theo, Tổng thống Ba Lan ra sắc lệnh tổ chức trưng cầu dân ý. Có 42,86% số công dân Ba Lan hợp lệ đã đi bỏ phiếu và cho kết quả 52,71% chấp thuận. Ngày 16/7/1997 Tổng thống Ba Lan ký chuẩn thuận và 3 tháng sau khi đăng trên công báo, bản HP mới có hiệu lực, tức là từ ngày 17/10/1997.
(Một lưu ý thú vị là, HP Ba Lan dân chủ cấm mọi hình thức tuyên truyền và hoạt động đối với các tổ chức phát xít, cộng sản và phân biệt chủng tộc. Người ký chuẩn thuận hiến pháp mới, nghịch lý thay là ông A. Kwasniewski, từng là Bộ trưởng thời cộng sản, đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống trước huyền thoại của Công đoàn Đoàn Kết, ông Lech Walesa, và làm Tổng thống Ba Lan hai nhiệm kỳ (1995-2005).
Tạo ra được một HP đã khó khăn, muốn thay đổi nó, hoặc một số điểm nào của nó, trong một quốc gia dân chủ còn khó khăn gấp bội. Nước nào cũng có những luật định đặc biệt khắt khe với các kiến nghị đòi thay đổi HP. Ví dụ, ở Ba Lan bắt buộc phải có ít nhất 100 ngàn chữ ký ủng hộ của dân chúng và phải được 3/4 số dân biểu quốc hội chấp thuận, một khả năng thực hiện thường xuyên bằng zero trong một quốc hội đa đảng.
Gánh hát diễn trò dân chủ
Chiến dịch kêu gọi toàn dân góp ý sửa đổi HP 1992 được phát động bởi một đảng chính trị đang độc quyền cai trị đất nước, ĐCSVN, theo Chỉ thị 22 của Bộ Chính Trị và nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 của Trung Ương ĐCSVN.
Kể từ khi ra đời, nhà nước CSVN đã có các bản HP vào các năm 1946, 1959, 1982 và 1992 với những bổ sung vào năm 2001-2002. Thực ra đây là những bản HP khác nhau, với nội dung được thay đổi chứ không phải là những điều chỉnh (tu chính) một số điểm nào đó của các bản HP trước.
Trừ HP 1946 được tạo nên trong bối cảnh ĐCSVN phải liên hiệp với nhiều thành phần xã hội khác nhằm đoàn kết chống thực dân Pháp, chính phủ của Hồ Chí Minh lúc đó phải tranh thủ sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức không cộng sản, do đó nội dung của HP 1946 được xem là có tư tưởng dân chủ và cởi mở nhất về các quyền công dân. Tuy nhiên thời gian chuẩn bị của nó cũng chỉ hơn một năm, kể từ khi Uỷ ban Dự thảo HP thành lập ngày 20/9/1945 đến lúc quốc hội thông qua ngày 9/11/1946.
Sau khi ĐCSVN giành toàn quyền cai trị trên miền Bắc từ năm 1954, và trên cả nước từ năm 1975, tất cả các bản HP từ năm 1959 không kế thừa HP 1946, thậm chí nhiều quyền cơ bản của công dân trong HP 1946 bị bãi bỏ hoặc hạn chế, như quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền khiếu nại, tố cáo, tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do lập tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài…
Tất cả HP sau HP 1946, đều ra đời bằng sự áp đặt của ĐCSVN, như một luật lệ ban từ trên xuống, bắt thần dân phải tuân phục trong thời phong kiến, phục vụ duy nhất cho lợi ích của tập đoàn cai trị.
Phản dân chủ nhất là HP năm 1980, được xem là bản photocopy từ HP Liên Xô, trong đó có điều 4 khẳng định ĐCSVN “là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, xã hội”, mặc nhiên tước bỏ quyền tham gia quản lý đất nước của các thành phần khác không thể tách rời trong cộng đồng xã hội.
Tuỳ theo chính sách và lợi ích của từng giai đoạn, ĐCSVN đã dễ dàng thay đổi HP cho thích ứng, vá víu hoặc “mông má” cấu trúc, để mở rộng, củng cố quyền cai trị hoặc tìm cách tạo ra không gian phân chia quyền lực giữa các phe nhóm (như lần này).
Từ sự khẳng định “bỏ điều 4 đi là tự sát” mà ông Nguyễn Minh Triết thừa nhận lúc còn là Chủ tịch nuớc và từ ý nghĩa của một HP dân chủ đích thực, với sự quan sát tiến trình khó khăn mà nhà nước Ba Lan xây dựng HP hậu cộng sản, ai cũng có thể ý thức rõ rệt rằng, chiến dịch lấy ý kiến dân góp ý thay đổi HP 1992 chỉ là màn trình diễn dân chủ trơ trẽn, may chăng lừa mị ược những ai ấu trĩ, ngây ngô, hoặc vừa điếc vừa mù.
Riêng thời gian 3 tháng mà ĐCSVN muốn lấy ý dân, bản thân nó đã chứng tỏ sự mị dân, làm cho có, vì quá ngắn ngủi cho tiến trình thảo luận rộng rãi của xã hội và soạn ra một văn kiện quan trọng bậc nhất.
Hơn nữa, loai bỏ sự tham gia quản lý điều hành đất nước của các thành phần xã hội khác, ĐCSVN từ khi giành quyền cai trị, đã luôn cho mình độc quyền định đoạt nội dung hiến pháp, cũng như số phận của người dân bị trị. HP với ĐCSVN, thực chất chỉ là một thứ trang sức hàng fake (giả hiệu) của chế độ, khi cần ĐCSVN có thể vứt bỏ và thay thế bằng các Nghị định tuỳ tiện từ một ông Thủ tướng, hoặc thậm chí không cần đến Nghị định mà bằng luật… rừng của những tay côn đồ nhân danh pháp luật. Không khó khăn gì cho việc chứng minh nhận định này.
Các tuyên bố của ĐCSVN trong chiến dịch này bộc lộ hình ảnh con cáo già mặc áo veston nhưng không che được cái đuôi. Miệng hô “lấy ý kiến nhân dân về Hiến pháp là cách thức dân chủ thể hiện vai trò làm chủ của nhân dân đối với các vấn đề quốc gia đại sự“, “không có vùng cấm trong lấy ý kiến về sửa đổi Hiến pháp“, nhưng phải “đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng”, “phải thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng”.[1]
Khi dân chưa kịp mở miệng thì Đảng đã run sợ, hô hoán “nêu cao tinh thần cảnh giác, ý thức tự “đề kháng”, năng lực phản bác của nhân dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch“.
Rồi Đảng lên cơ bắp, răn đe “chỉ đạo chặt chẽ công tác đảm bảo quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự ATXH, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị, kịp thời đấu tranh phòng chống, ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng dân chủ trong việc lấy ý kiến nhân dân để chống phá, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”.[2]
Các động thái trên nói lên điều gì, nếu không phải là miệng xúi dân góp ý kiến, nhưng hai tay giơ cao nắm đấm và sẽ bịt miệng khi thấy khó nghe?
Những ý kiến đóng góp nếu có, được báo lề đảng chọn lọc đăng tải, chắc chắn không thoát khỏi số phận của viên đá ném xuống ao hoặc bị vứt vào thùng rác, như nhiều lần trước đó ĐCSVN cũng đã kêu gọi, nổi bật nhất là lần góp ý cho đại hội Đảng CSVN lần thứ 10 ầm ĩ trên báo lề đảng, để rồi sau đại hội nhiều vị trí thức mơ ngủ và những nhà cách mạng “thời vụ” chán nản, thất vọng.
Muốn lấy ý kiến của dân chúng chính xác nhất, thì Dự thảo HP phải được mọi thành phần xã hội thảo luận công khai, không cần bất kỳ sự cảnh giác nào, vì tự thân các ý kiến, kẻ cả đối nghịch, không có khả năng tước đoạt quyền lực của ĐCSVN, mà chỉ làm sáng tỏ thêm các vấn đề. Việt Phương, cựu thư ký của ông Phạm Văn Đồng đã chẳng nói “mở đài địch như mở toang cánh cửa, nghe nó chửi mà thấy cả ngày mai”, đó sao! Tục ngữ cũng có câu “kẻ thù thường nói thật, còn người thân thì chưa chắc”!
Và một điều kiện tối quan trọng: Dự thảo HP mà quốc hội thông qua, phải được đưa ra trong một cuộc trưng cầu dân ý dân chủ. Nhưng đòi hỏi này chẳng khác gì bắt ĐCSVN làm phép cho chó, lợn biết bay.
Muốn nghe tiếng của dân ư? Thì đây, cụ thể và thiết thực hơn nhiều những đóng góp cho một bản HP vô giá trị: Hàng ngàn chữ ký của trí thức trong và ngoài nước phản đối dự án khai thác bauxite tại Tây Nguyên, một công trình đe doạ môi sinh, an ninh quốc gia và giờ đây ước tính mỗi năm lỗ ít nhất 33 triệu USD; Là tiếng kêu của hàng triệu dân oan chưa được giải quyết, chỉ tính riêng giai đoạn 2008-2011 “đã có hơn 1,57 triệu lượt người khiếu nại tố cáo, với gần 673 ngàn đơn thư“; Là những tiếng than ai oán ngút trời trên đồng ruộng Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản “xé vành môi bà mẹ, chị em, những người bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, để kiếm hạt thóc nuôi con khôn lớn đi đánh giặc giữ nước giữ làng. Giờ Làng Nước có rồi nhưng Đất lại bị đưa vào cuộc bán buôn kiếm chác của những kẻ chức quyền tham lam vô độ, vô nhân” (“Đất vỡ“, Thùy Linh); Là tiếng khóc xót xa và tuyệt vọng trong hy vọng đi tìm công lý của những người mẹ, nguời vợ, người con của các nạn nhân bị công an đánh đập dã man đến chết nhưng nhà cầm quyền ra sức bao che tội phạm, v.v…
Vậy, thôi đi, gánh hát Hùng – Dũng – Sang – Trọng! Các vị đừng phung phí tiền bạc, thời gian, hãy buông tha đám dân đen lam lũ đang ngao ngán với hệ thống chính trị thối nát vì tham những, với tình trạng kinh tế khó khăn, ảm đạm! Đừng làm mệt mỏi họ thêm nữa!
“Miệng nhà quan có gang có thép”, ĐCSVN thích cai trị dân theo kiểu gì cứ việc làm. Vừa đơn giản, lại vừa không bị dân chúng cười giễu cợt, phỉ nhổ vào trò hề đạo đức giả.
Ngày 10/01/2013
© Lê Diễn Đức 2012 – RFA Blog

Quy luật giàu nghèo

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
Mở đầu cho năm mới, mục Điễn đàn Kinh tế xin lần lượt trở lại các yếu tố cơ bản giải thích sự giàu nghèo giữa các quốc gia, hoặc của cùng một quốc gia trong nhiều thời kỳ khác nhau.
AFP photo -Một người đàn ông trong một chiếc xe hơi đắt tiền cho tiền một người ăn xin bên đường ở Indonesia, ảnh minh họa.
Có lẽ những yếu tố ấy mới là cơ sở cho một chính sách kinh tế thích hợp. Xin quý vị theo dõi cách Vũ Hoàng nêu vấn đề với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về loạt chương trình này.

Tạo thịnh vượng cho quốc gia

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, mở đầu cho năm mới, xin đề nghị ông trở lại một vấn đề căn bản của các quốc gia là tạo ra của cải hay sự thịnh vượng. Nhiều thính giả theo dõi tiết mục chuyên đề này của chúng ta có thể thắc mắc với câu hỏi đó khi hàng ngày phải phấn đấu để tạo ra của cải cho gia đình sớm thoát khỏi cảnh nghèo khổ và cũng rất thích cách ông đặt vấn đề kinh tế dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Ông nghĩ sao về đề nghị này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng đây là đề tài hữu ích nhưng đòi hỏi nhiều chương trình liên tục để giải thích cho tường tận, có khi đến Tết chưa xong! Tôi xin được tạm gọi chung đề tài là “những quy luật của giàu nghèo”, trong tinh thần phân tích xem là nhờ đâu mà một quốc gia trở thành thịnh vượng và vì sao lại có nhiều nước chưa thoát khỏi sự nghèo khốn. Nhưng trước hết, mình nên khởi sự bằng cách phơi bày nhiều sự ngộ nhận khá phổ biến.
Vũ Hoàng: Nghĩa là ông muốn bác bỏ một số lý luận mà ông cho là ngộ nhận hoặc hiểu sai?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng thế vì nếu không thấy ra cái sai, ta sẽ khó tìm ra cái đúng và sự lầm lẫn ấy còn có thể dẫn đến những chính sách kinh tế bất lợi cho yêu cầu thịnh vượng.
Đầu tiên, trước khi thế giới tìm ra và tổng hợp các kiến thức để có khoa kinh tế chính trị học, tức là chỉ từ vài trăm năm trở lại, loài người đã có bài toán kinh tế. Đó là con người ta đều muốn có phương tiện sinh hoạt lớn lao hơn khả năng sản xuất của mình. Giải quyết sự khan hiếm ấy là bài toán kinh tế ngàn đời. Khi tìm cách giải quyết, người ta phải tìm hiểu lý do của sự khan hiếm hoặc nguyên nhân của nghèo khó. Nhưng ta khó tìm ra giải pháp nếu cứ đơn giản cho rằng sự nghèo khó của xứ này là do xứ khác gây ra. Xin gọi đó là lý luận hàm hồ của sự bóc lột.
Đến nay, nhiều người còn nói rằng một quốc gia có thể làm giàu bằng cách khai thác xứ khác. Nguyên ủy là từ lập luận hồ đồ của Marx về lợi nhuận và giá trị thặng dư, Lenin khai triển ra quy mô quốc tế lý luận về chủ nghĩa đế quốc theo đó các nước tư bản làm giàu bằng cách bóc lột các nước nghèo. Lý luận này đề ra một tương quan nhân quả nhiều khi sai lạc về sự giàu nghèo. Nôm na là sự nghèo khốn của xứ này là do xứ khác gây ra và ngược lại, sự giàu có của nước này là kết quả của chính sách bần cùng hóa xứ khác.
Tôi xin đi vào chuyện cụ thể của trăm năm trước, khi Lenin viết ra cuốn sách về Chủ nghĩa Đế quốc, y hệt như chuyện của hiện tại, là quả thật rằng các nước tư bản Tây phương có đầu tư ra ngoài, nhưng chủ yếu là đầu tư vào các nước tư bản khác. Còn kim ngạch đầu tư vào các nước nghèo, hay đang phát triển như ta nói bây giờ, chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Vậy mà ngày nay các nước nghèo vẫn đang tìm cách chiêu dụ và thu hút đầu tư của các nước tư bản. Khi còn lấn cấn trong đầu cái lý luận hàm hồ của sự bóc lột thì mình khó nhìn ra bài toán khan hiếm và giải pháp về phát triển.
Vũ Hoàng: Nhưng ta không thể phủ nhận được sự hiện hữu của chủ nghĩa thực dân và sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc từ Âu Châu qua các lục địa khác. Ông trả lời sao về câu hỏi này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Quả thật là các nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay Anh, Pháp đã trước sau chinh phục nhiều khu vực và có gây ra thảm họa cho nhiều dân tộc khác trên thế giới. Nhưng câu hỏi đầu tiên là vì sao họ chinh phục được các vùng đất rộng lớn hơn lãnh thổ của họ và khuynh đảo được một dân số đông gấp bội? Tức là từ trước đó, các nước thực dân đế quốc đã có sức mạnh kinh tế, quân sự hay kỹ thuật gì đó mà các nước kia không có. Vì sao lại như vậy? Và vì sao nhiều nước tự cô lập và không hề bị chiếm làm thuộc địa mà vẫn cứ nghèo khốn hoặc còn tự làm cho họ nghèo đi? Ta sẽ còn cơ hội nhắc đến những trường hợp cụ thể này.

Yếu tố địa lý

052_01178563-250.jpg
Trẻ em con nhà nghèo và trẻ em con nhà giàu ở Sài Gòn. AFP photo
Vũ Hoàng: Ông hay nói đến địa dư hình thể, kể cả đất đai hay tài nguyên thiên nhiên. Liệu đó có là những yếu tố giải thích sự thịnh vượng của nhiều quốc gia không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng địa dư hình thể có chi phối cách giải quyết bài toán khan hiếm và đem lại lợi thế cho sự thịnh vượng nhờ diện tích khả canh nhiều hay ít, có mạng lưới sông ngòi hay khí hậu thuận tiện hay không, v.v…. Nói chung, các nền văn minh lớn của nhân loại đều xuất phát từ vùng châu thổ của các con sông lớn và khu vực núi non hiểm trở thì khó phát triển và thường đi sau vùng đồng bằng.
Nhưng địa dư không là thực thể bất biến hay trở lực vĩnh viễn. Thác nước kia có thể là một chướng ngại cho đến khi con người nghĩ ra máy xoay nước và dùng sức nước làm ra điện. Nhiều tài nguyên thiên nhiên như quặng mỏ dầu khí có thể là thứ vô dụng trong cả vạn năm, cho đến khi con người khám phá ra công dụng mới.
Nói chung, các nền văn minh lớn của nhân loại đều xuất phát từ vùng châu thổ của các con sông lớn và khu vực núi non hiểm trở thì khó phát triển và thường đi sau vùng đồng bằng.
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Khi ấy ta mới chú ý đến trí tuệ của con người trong bài toán khan hiếm. Vương quốc Á Rập Saudi là nước sản xuất nhiều dầu thô nhất thế giới, lại được trời cho những giếng dầu dễ khai thác, nghĩa là ít tốn kém so với dầu thô của nhiều xứ khác. Nhờ vậy, xứ này có nhiều hoàng thân tỷ phú, nhưng lợi tức bình quân một đầu người chỉ bằng 42% lợi tức của Singapore là một xứ không có dầu và còn phải mua nước của Malaysia. Israel là một quốc gia không được thiên nhiên ưu đãi, chẳng có một giọt dầu nào và thường xuyên bị đe dọa, nhưng người dân vẫn giầu hơn hầu hết các nước Á Rập có dầu ở chung quanh. Nghĩa là ăn thua vẫn ở cách tổ chức của con người. Trong một kỳ khác, chúng ta sẽ nói riêng về địa dư hình thể và không quên trường hợp Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan trong khu vực Á châu Thái bình dương.
Vũ Hoàng: Nhắc đến Nhật Bản, ông có thấy rằng xưa kia xứ này là một nước nghèo hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Mới chỉ nửa thế kỷ trước thôi, người ta còn xem thường sản phẩm chế tạo tại Nhật là đồ dỏm, rẻ tiền và dễ hư nếu so sánh với các sản phẩm Âu-Mỹ. Ngày nay, xe hơi, máy ảnh và nhiều đồ gia dụng khác của Nhật là tiêu chuẩn cao nhất và dân Nhật cũng thuộc loại giàu nhất. Nhìn trong lịch sử lâu dài thì cho đến thế kỷ 19, Nhật Bản còn là một quốc gia nghèo và khá lạc hậu vì khép cửa với bên ngoài trên một lãnh thổ có ít tài nguyên. Nhưng chỉ một thế kỷ thôi, họ đã thay đổi và thoát ra khỏi cái nghiệp nghèo khốn này.
Nhân chuyện đó, chúng ta cũng thấy ra một sự thật khác. Người ta cứ tưởng các nước nghèo là một khối bất động, chết kẹt trong sự nghèo khổ từ cả trăm năm hoặc còn lâu hơn nữa. Ngày nay, nhiều người còn gọi chung các xứ đó là “Thế giới Thứ ba” hay Đệ tam Thế giới ở giữa khối tư bản và khối cộng sản. Đây là một sự lầm lẫn, vì không thấy ra sự chuyển dịch chậm rãi lâu dài của các quốc gia.
Chẳng hạn như cách đây trăm năm, Argentina ở Nam Mỹ đã là cường quốc giàu mạnh hơn hai đại cường Âu Châu là Đức và Pháp. Thế rồi, với sức người, áo cơm cũng có thể biến thành sỏi đá và ngày nay Argentina trở thành một nước “đang phát triển” còn thua xa nhiều nước Đông Âu mới thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản có hai chục năm. Cũng thế, Singapore hay Nam Hàn đều đã từng là nước nghèo, thuộc loại gọi là Đệ tam Thế giới, ngày nay họ là nước “tân hưng” trong khi Miến Điện lại tụt hậu mất nửa thế kỷ sau khi là một nước giầu của Đông Nam Á.

Làm sao tránh tụt hậu

000_GYI0061844677-250.jpg
Trong một cửa hàng bán hàng giá rẻ tại New York hôm 28/9/2010. AFP photo
Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì mình có thề thấy rằng quốc gia nào trên thế giới cũng từng có lúc là nước nghèo, thuộc loại gọi là Thế giới Thứ ba. Nhưng sau đấy họ đã giải quyết được bài toán khan hiếm để hành quốc gia thịnh vượng. Và vì vậy, chúng ta mới tìm hiểu xem họ giải quyết như thế nào và vì sao có nhiều nước thì nghèo vẫn cứ hoàn nghèo và nhiều nước còn tự làm cho mình nghèo đi….
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng thế và ta cũng thấy rằng giải thích sự nghèo khổ chưa hẳn là có ích bằng việc tìm ra giải pháp cho thịnh vượng. Và mình nên tìm hiểu chuyện ấy trong một bối cảnh dài có thể cả trăm năm. Hiểu ra quy luật chung thì sẽ tránh được cái họa tụt hậu.
Nói chung thì xứ nào cũng từng đã có lúc là quốc gia chậm tiến và nghèo khó nhưng lại vươn lên trong khi nhiều quốc gia đã từng dẫn đầu thế giới về sự thịnh vượng, có khi trong cả chục thế kỷ như trường hợp Trung Quốc, rồi sau đó lại lụn bại không vì ách thực dân đế quốc hay bị liệt cường sâu xé. Vì Trung Quốc lụn bại từ trước nên mới bị ngoại bang khuất phục, hậm hực mất trăm năm. Khi nhìn rõ hơn cái tương quan nhân quả về sự giàu nghèo thì mình tránh được việc quy trách cho người khác cái hoạn nạn do chính mình gây ra cho mình.
Vũ Hoàng: Qua từng bước phân tích như vậy, ông làm sáng tỏ được một số điều về lẽ thịnh suy hay giàu nghèo của các quốc gia. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu thêm từng yếu tố của quy luật giàu nghèo. Kết thúc chương trình kỳ này và quy vào trường hợp Việt Nam sau khi suy ngẫm về kinh nghiệm của các nước khác, ông cho rằng yếu tố nào là quan trọng và đáng suy ngẫm nhất?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trên địa cầu hay trong một quốc gia, ta đều thấy là có sự giàu nghèo. Muốn người nghèo hay nước nghèo thoát ra khỏi tình trạng này thì người ta cần rất nhiều điều kiện, từ dân số đến văn hóa, v.v… Nhưng nếu muốn nói đến điều kiện có thể là then chốt nhất, tôi nghĩ đến nền tảng pháp lý, quyền tư hữu và nếp văn hóa của sự tin cậy.
Và nếu những ai tạo ra của cải lại bị nhà nước trấn lột vì luật lệ thiếu nghiêm minh, là chuyện đang xảy ra tại Việt Nam, thì nghèo vẫn hoàn nghèo….
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Một người nghèo mà có sáng kiến kinh doanh, dù ban đầu chỉ thuộc loại cò con, cũng khó thoát khỏi kiếp nghèo nếu không huy động được vốn để khai triển sáng kiến. Nhiều người nghèo tại các nước công nghiệp tiên tiến đã tìm ra vốn và kinh doanh thành công để trở thành triệu phú trong khi cũng tạo ra việc làm và sự thịnh vượng cho xã hội. Thế thì vì sao họ làm nổi việc đó?
Họ làm được vì ban đầu đã có tiền từ người giàu. Người giàu có thể yên tâm đưa tiền cho người nghèo mà có khả năng kinh doanh để cùng nhau phân chia lợi nhuận. Thế rồi khi cần mở mang doanh nghiệp và vay tiền loại người giàu không hề quen biết, như qua ngân hàng hay thị trường chứng khoán, thì doanh gia này phải có hồ sơ kế toán và thông tin xác thực về thành tích đã qua.
Sở dĩ những người đó làm được như vậy vì xã hội đã có luật lệ hẳn hoi – nhất là về quyền tư hữu – và được áp dụng nghiêm minh. Nền tảng ấy mới tạo ra niềm tin, hay sự tín cẩn, tín nhiệm. Thiếu nền móng từ pháp lý đến văn hóa ấy thì người ta chỉ còn tin nhau trong phạm vi rất hẹp của bạn hữu và gia đình nên chỉ làm được việc nhỏ, với lợi ích giới hạn về kinh doanh và kinh tế. Và nếu những ai tạo ra của cải lại bị nhà nước trấn lột vì luật lệ thiếu nghiêm minh, là chuyện đang xảy ra tại Việt Nam, thì nghèo vẫn hoàn nghèo….
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về thí dụ thấm thía này, và xin hẹn ông kỳ sau mình sẽ nói tiếp về những điều kiện khiến cho một quốc gia có thể trở thành giàu có thịnh vượng.

Phóng viên không biên giới chứng minh sự vô tội của blogger Paulus Lê Sơn

Paulus Le Son tại khóa huấn luyện về blog do Phóng viên không biên giới tổ chức, Bangkok, Thái Lan, 07/2011
Paulus Le Son tại khóa huấn luyện về blog do Phóng viên không biên giới tổ chức, Bangkok, Thái Lan, 07/2011 -(SRF)
Trong một thông cáo công bố ngày hôm nay, 11/01/2013, tổ chức Phóng viên không biên giới, bày tỏ sự phẫn nộ về bản án đối với 14 nhà hoạt động Công giáo và Tin Lành trong phiên xử sơ thẩm hai ngày 08/01 và 09/2013 tại thành phố Vinh. Đồng thời, tổ chức này tuyên bố có thể chứng minh sự vô tội của blogger Paulus Lê Sơn, một trong ba người lãnh án nặng nhất.
Trong phiên xử sơ thẩm vừa qua, Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An đã kết án tù 13 trong số 14 người bị đem ra xét xử với tội danh « hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân », do bị cáo buộc là đảng viên đảng Việt Tân, mà Việt Nam xem là một tổ chức khủng bố. Ba người lãnh án nặng nhất là Lê Văn Sơn, tức Paulus Lê Sơn, Hồ Đức Hòa và Đặng Xuân Diệu, mỗi người bị tuyên án 13 năm tù giam và 5 năm quản chế. Những người còn lại lãnh án từ 3 đến 8 năm tù giam và từ 2 đến 4 năm quản chế. Chỉ có một người được hưởng án treo.
Riêng về blogger Paulus Lê Sơn, Phóng viên không biên giới tuyên bố có thể chứng minh rằng blogger này không hề tham gia một hoạt động nào của Việt Tân, khi ở Bangkok trong thời gian từ 25 đến 30/11/2011, đơn giản chỉ là vì lúc đó, Lê Sơn dự một khóa huấn luyện do Phóng viên không biên giới tổ chức cho các blogger Đông Nam Á. Đối với Phóng viên không biên giới, rõ ràng là chính quyền Việt Nam đã sử dụng những « chứng cớ ngụy tạo » để kết án những blogger chỉ trích họ. Tổ chức này cực lực phản đối việc kết án Paulus Lê Sơn và bảy blogger khác và yêu cầu trả tự do ngay lập tức cho họ.
Các tổ chức nhân quyền quốc tế khác cũng đã đồng loạt chỉ trích Việt Nam về phiên xử ở Vinh.
Trong bản thông cáo đề ngày 09/01 ngay sau khi phiên xử sơ thẩm ở Nghệ An kết thúc, tổ chức Human Rights Watch ( HRW ) cho rằng, việc kết án tù 14 nhà hoạt động nói trên đánh dấu « một sự leo thang rõ rệt trong chiến dịch trấn áp những tiếng nói chỉ trích chính quyền. » Theo giám đốc châu Á của HRW, Brad Adams, « thay vì cầm tù những người chỉ trích, chính phủ Việt Nam nên tôn vinh họ vì những nỗ lực giải quyết vô số vấn đề của đất nước, mà bản thân chính quyền cũng đã nhìn ra ».
HRW yêu cầu chính quyền Hà Nội trả tự do cho những người bị kết án ở Nghệ An, cũng như hủy bỏ những cáo buộc đối với luật sư, blogger Lê Quốc Quân, bị bắt giữ cuối tháng 12 vừa qua ở Hà Nội.
Tổ chức Ân xá Quốc tế cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho các nhà hoạt động vừa bị kết án. Ông Rupert Abbott, nhà nghiên cứu về Việt Nam của Ân xá Quốc tế, tuyên bố : « Xuyên tạc các hành vi của các nhà hoạt động như một cố gắng lật đổ chính phủ là hoàn toàn vô căn cứ. Họ đã bị cầm tù chỉ vì đã thực hiện quyền tự do ngôn luận ».
Trong một thông cáo đề ngày 09/01, Uỷ ban Bảo vệ Nhà báo CPJ ghi nhận là trong phiên xử 14 nhà hoạt động Công giáo và Tin Lành, có ít nhất 5 blogger độc lập đã bị kết án tù nặng nề, đó là Palus Lê Sơn, Hồ Đức Hòa, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Văn Duyệt và Nguyễn Xuân Anh. Họ là những cộng tác viên của trang mạng Truyền thông Chúa Cứu Thế, chuyên thông tin về các vụ đàn áp người Công giáo, các vụ tranh chấp đất đai giữa chính quyền với người dân và các vấn đề xã hội khác ở Việt Nam. Tổ chức CPJ lên án hành động này và kêu gọi chính quyền Việt Nam hủy bỏ những cáo buộc đối với họ trong phiên xử phúc thẩm và trả tự do cho các blogger nói trên.
Về phản ứng của các nước Tây phương, ngay sau khi kết thúc phiên xử ngày 09/01, đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội đã ra thông cáo bày tỏ mối quan ngại của họ. Bản thông cáo cho rằng « những bản án này, cùng với việc bắt giữ luật sư Lê Quốc Quân ngày 27/12/2012, và việc y án tù đối với các blogger Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Tạ Phong Tần, và Phan Thanh Hải cho thấy phần nào xu hướng đáng lo ngại về nhân quyền ở Việt Nam ».
Bản thông cáo của sứ quán Hoa Kỳ xác định : « Hành xử của chính quyền đối với những cá nhân này tỏ ra không phù hợp với các nghĩa vụ của Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị, cũng như các điều khoản của Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền liên quan đến tự do ngôn luận và xét xử theo đúng trình tự. Chúng tôi kêu gọi chính phủ trả tự do cho các cá nhân này và tất cả các tù nhân lương tâm khác ngay lập tức ».

Luật sư của Lê Quốc Quân khiếu nại công an TP. Hà Nội vi phạm pháp luật

Chuacuuthe

 11/01/13

   VRNs (11.01.2013) – Hà Nội – Gia đình luật sư Lê Quốc Quân cho biết đã mời ba luật sư để trợ giúp pháp lý cho Ls. Lê Quốc Quân, anh Lê Đình Quản và chị Nguyễn Thị Oanh.
Luật sư Lê Quốc Quân bị công an bắt như bắt cóc vào ngày 27/12/2012. Ngay sau khi bị bắt, anh đã tuyệt thực để phản đối những vi phạm pháp luật của công an trong việc bắt giam anh nên hiện nay sức khỏe rất yếu. Công an đã xác nhận với người nhà của Ls Quân rằng đúng là anh có tuyệt thực.
Một trong ba luật sư được gia đình mời là Ls. Trần Thu Nam, thuộc VPLS Tín Việt tại Hà Nội, người vừa tham dự phiên tòa xử 14 thanh niên Công giáo và Tin lành tại Nghệ An ngày 8 và 9/1/2013 vừa qua. Luật sư Nam đã làm thủ tục cho Ls. Lê Quốc Quân nhưng chưa được chấp thuận, và hôm nay tiếp tục nộp hồ sơ để trợ giúp pháp lý cho anh Lê Đình Quản và chị Nguyễn Thị Oanh.
Ngày 10/01/2013 Ls. Trần Thu Nam đã gửi Đơn khiếu nại đến Viện trưởng VKS nhân dân TP. Hà Nội và Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra – công an TP. Hà Nội về việc Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ – công an TP. Hà Nội không cấp giấy chứng nhận bào chữa cho ông theo quy định pháp luật.
Các điều luật được Ls. Trần Thu Nam trích dẫn từ Bộ luật Tố tụng Hình sự là Khoản 4 Điều 56, Điều 3, Điểm e Khoản 2 Điều 49 và Điều 3 của Thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ công an. Những sự vi phạm các quy định của pháp luật về tố tụng đã xâm phạm lợi ích hợp pháp của Ls. Lê Quốc Quân và Ls. Trần Thu Nam.


Anh Lê Đình Quản từ khi bị bắt đã bị chuyển trại 2 lần. Được biết anh Quản bị giam trong một phòng có tới 47 người, nhưng chỉ có 5 người vi phạm kinh tế, còn chủ yếu là tội phạm ma túy, giết người cướp của. Trong trại tạm giam có nhiều trường hợp bị đánh đập, nhưng trường hợp của Lê Đình Quản thì không, vì được quán triệt từ trên xuống. Công an không cho các tù nhân khác nói chuyện hoặc trao đổi với Quản.
Anh Quản bị giam đến nay là 2 tháng 11 ngày, nhưng chỉ mới làm việc được 3 hôm, công an cứ giam để đó. Hiện đã có 2 luật sư nhận bào chữa cho Quản, làm thủ tục nộp vào ngay từ ngày đầu nhưng chưa được chấp thuận. Luật sư đã khẳng định công an Hà Nội đã vi phạm nhiều điều sai trái, nhưng họ nói phải có giấy chứng nhận bào chữa thì mới lên tiếng được.
Trường hợp của Nguyễn Thị Oanh thì hết sức nghiêm trọng, bị bắt khi mang thai khoảng 9 tuần. Gia đình có trong tay giấy chứng nhận khám thai, chụp siêu âm của bác sĩ. Oanh bị bắt đến nay đã hơn một tháng, gia đình chưa hề được thăm gặp. Luật sư cũng đã làm thủ tục mà chưa được chấp thuận.
Hai luật sư còn lại là Ls. Trần Đình Triển, VPLS Vì Dân và Ls. Nguyễn Minh Long, Giám đốc Công ty Luật Rồng Việt. Ls. Trần Đình Triển đã làm thủ tục đầy đủ để bào chữa cho anh Lê Đình Quản và chị Nguyễn Thị Oanh cách đây gần một tháng nhưng chưa được chấp thuận. Ls. Nguyễn Minh Long cũng đã làm đủ thủ tục để bào chữa cho anh Quản và chị Oanh cách đây hai tháng nhưng vẫn chưa được chấp thuận.
PV. VRNs

TÔI BĂN KHOĂN LẮM

Trelang blog

Vu Hoang Son
Trước hết phải nói ngay, tôi không phải nhà báo, không phải là người viết văn, vì thế không dám chê ai viết.
Nhưng với tư cách người đọc, tôi thấy cần nói đôi lời với nhà báo viêt bài Anh hùng, liệt sĩ Lê Đình Chinh được đưa về quê an táng (tại đây). Nhà báo viết: “Ngày 25/8/1978, trong khi đang chiến đấu bảo vệ đồng đội mình bị những tên “côn đồ” từ bên kia biên giới kéo sang đánh giết, Lê Đình Chinh đã bị sát hại.” Cả câu trên tôi thấy không ổn.
Không ổn vì nhà báo đã hiểu sai lịch sử dân tộc. Lê Đình Chinh hy sinh tại mặt trận Lạng Sơn trong khi thi hành nhiệm vụ ngăn cản quân Trung Quốc xâm lược. Lê Đình Chinh là người chiến sĩ đầu tiên ngã xuống trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc năm 1978. Tên tuổi của anh đi vào lịch sử, thi ca và âm nhạc và anh trở thành một trong những biểu tượng anh hùng của thế hệ thanh niên Việt Nam.
Cùng nội dung trên, bài “Đưa hài cốt anh hùng Lê Đình Chinh về quê hương” trên báo Tiền Phong lại viết: “Ngày 25- 8- 1978, anh Lê Đình Chinh đã hy sinh khi đang chiến đấu bảo vệ đồng đội và người dân khỏi quân xâm lược từ bên kia biên giới. Lúc hy sinh, anh Chinh là thượng sĩ, Tiểu đội trưởng, Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 12, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang, đoàn viên Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”. Cách viết này có vẻ chân thực hơn và gần gũi với lịch sử hơn.
Tôi cũng tìm thấy bài: “Anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh” trên trang “Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam” có nội dung tương đồng với bài trên báo Dân Trí, nhưng lại có nguồn từ Quansuvn.net. Nói như vậy để thấy, có lẽ tác giả chưa nghiên cứu kỹ về sự hy sinh của anh hùng Lê Đình Chinh.Nhưng đây mới là tiếng nói chính thống, báo Nhân Dân đưa tin ( Nhân dân :)  “Lê Đình Chinh hy sinh ngày 25-8-1978 trong chiến đấu chống quân xâm lược.”. Vậy, vì sao lại nói anh bị sát hại bởi những tên côn đồ?
Câu trả lời dành cho Dân Trí.Thiết nghĩ, người viết báo phải trách nhiệm với những gì mình viết ra là hoàn toàn đúng đắn. Vì thế nhà báo cần cân nhắc kĩ trước khi đặt bút, nếu thấy chưa chuẩn hay lăn tăn thì nên dừng lại.
Viết thế này thì tôi băn khoăn lắm!
http://trelangblogspotcom.blogspot.com/2013/01/toi-ban-khoan-lam.html

CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NGƯỜI MỸ


Trí Nhân Media
“… giới lân cận Ông Nhu đều nhận định rằng Ông Nhu muốn thoát ảnh hưởng của Mỹ, muốn tìm một thế đứng mới nhưng chuyện mưu đồ bắt tay với cộng sản chỉ là chiến thuật trả giá với Hoa Kỳ. Nhưng Hoa Kỳ lại dùng ‘’gậy ông lại đập lưng ông’’ quật ngã Ông Nhu, khi họ cố tình cho rằng Ông Nhu định bắt tay với cộng sản. Một số Tướng lãnh và sĩ quan cao cấp Việt Nam đã bị Hoa Kỳ lung lạc tinh thần bằng cái dư luận: Ông Nhu định điều đình với cộng sản. 
 
Thực sự cơ quan CIA không thiếu gì phương tiện, nhất cử nhất động của Ông Nhu không qua khỏi con mắt CIA. Có lẽ vấn đề Ông Nhu bắt tay với cộng sản không làm Mỹ lo ngại bằng cho vấn đề bang giao Việt Pháp mỗi ngày càng thêm tốt đẹp sau nữa là thái độ quá cứng rắn của Tổng Thống Diệm trước những đề nghị của Mỹ mà Tổng Thống Diệm cho rằng xâm phạm đến chủ quyền Việt Nam (như vụ Cam Ranh. Đề nghị đặt Cố Vấn Mỹ cạnh Tỉnh Trưởng Việt Nam, lập phòng Dân Vụ Mỹ cạnh Tòa Đại Biểu Chánh Phủ. Sau năm 1963 những đề nghị này được hậu các chánh phủ sau đảo chánh thỏa mãn ngay).

BÚT KÝ LỊCH SỬ 
LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIẾT MỘT TỔNG THỐNG 
(TẬP I – CHƯƠNG 7)
        Cao Thế Dung & Lương Khải Minh (1969)
Sau vụ biến cố đẫm máu tại Đài Phát Thanh Huế 4 ngày, Ông Nhu đã cho nổ một trái bom làm rung động ngoại giao Mỹ. Khi ông tuyên bố với phái viên tờ Washington Post: ‘’Cho đến lúc này Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa không thấy cần thiết một số Cố Vấn Quân Sự quá lớn, cho nên Việt Nam Cộng Hòa có thể yêu cầu chính Mỹ cho rút một nửa số Cố Vấn Quân Sự Mỹ, tức là chỉ nên duy trì khoảng 7, 8 ngàn là đủ’’. (Washington Post 12.5.1963).
Cũng vào thời gian này Ông Nhu nói với Giáo Sư Bửu Hội: ‘’Đã đến lúc mình phải xét lại sự hợp tác và viện trợ của Mỹ. Anh có thể giúp tôi tìm sự ủng hộ thân hữu của Pháp và các quốc gia Bắc Phi. Trong tình thế này chúng ta phải đi đến một modus vivendi thỏa ước với Bắc Việt’’. Sáng Chủ Nhật hôm ấy Ông Nhu cũng lập lại như vậy với một vài cộng sự viên thân cận. Nhưng ai nấy đều cho rằng con đường mà Ông Nhu sắp đi tới nguy hiểm. Nhƣng Ông Nhu vẫn chủ quan cho rằng kế hoạch Ấp Chiến Lược và đường lối ngoại giao mới qua trục Ba Lê và Á Phi sẽ tạo cho Miền Nam đủ tư thế chấp thuận thỏa ước với Miền Bắc. Nhưng Ông Nhu quên mất rằng với 16,000 Cố Vấn Mỹ và mỗi ngày Mỹ phải chi trên một triệu đô la cho cuộc chiến tại Việt Nam (63) thì không dễ dàng gì Mỹ có thể để cho Ông Nhu tự do hành động khác với đường lối của họ .
MỘNG ƯỚC HIỆP THƯƠNG HAI MIỀN NAM BẮC
Trước đây năm 1961 Ngoại Trƣởng Pháp Couve De Murville sau cuộc tiếp xúc với Ông Nhu tại Ba Lê (61) đã phê bình ‘’Ngô Đình Nhu là một người có nhiều ảo tưởng’’. Ông Murville cũng nhƣ Bác Sĩ Trần Kim Tuyến cho rằng phê bình nhƣ vậy cũng có phần đúng. Theo Bác Sĩ Tuyến ‘’Ông Nhu là một chính khách có suy tư về chính trị, có khám phá sáng tạo trên bình diện chiến lược. Nhưng thực tại chính trị Miền Nam chính nó đã làm cho những suy nghĩ của Ông Nhu trở nên ảo tưởng’’. Một buổi sáng trời trong xanh, Ông Nhu mỉm cƣời mô tả một cách đầy thi vị nói với ông Tuyến: ‘’Buổi sáng Việt Nam trời mầu pha lê, toa thấy chiến tranh phi lý quá hỉ ? Nhưng bọn nó (tức cộng sản) có bao giờ muốn hòa bình đâu. Chiến lược chiến tranh cách mạng vô sản mà. Nhưng nếu bọn nó ngưng bắn hiệp thương thì mình cũng chấp nhận, mấy thằng tư bản phiêu lưu nó sẽ phá moa, toa thấy thằng Nghị Sĩ Mansfield gầm thét chưa. Bọn nó (tức Mỹ), như con hổ bị thương, chúng sẽ cho dollar để Phật Giáo phá moa…Nhưng chế độ này phải tồn tại’’.
Khi Ông Nhu toan tính bắt tay với Bắc Việt thì trước hết ông đã gặp phản ứng hết sức bất lợi cho kế hoạch của riêng ông. Phản ứng đó xuất phát ngay từ tập thể Thiên Chúa Giáo và nhất là khối di cư.
Khối người đó từng hậu thuẫn vô giá cho chế độ Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu năm 1954-1955. Tuy toan tính của Ông Nhu không mấy ai biết nhưng hẳn nhiên không thể qua mắt được các Đức Giám Mục Thiên Chúa Giáo. Đức Cha Lê Hữu Từ có thể là người được biết khá thông suốt về những toan tính của Ông Nhu. Điều này Cha Jean (một Linh Mục người Pháp hiện sống tại Sài Gòn) đã có nhiều cơ hội được am tường một cách tương đối rành rẽ. Sau cuộc biểu tình dữ dội của Phật Giáo ngày 17.7, phản ứng của Mỹ hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Đài VOA thông tin và bình luận một cách có thiện cảm hay đúng hơn đã gián tiếp ca ngợi cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Cha Jean được mời vào gặp Ông Nhu. Cuộc gặp gỡ kéo dài trong trong 2 tiếng đồng hồ.
Ông Nhu đề cập về cuộc xuống đường của Phật Giáo ngày 17, ông nói: ‘’Tôi có bằng chứng là hiện nay cộng sản đã thao túng Phật Giáo. Rất nhiều cán bộ cộng sản cải trang vào đó với tư cách Phật Tử hay các nhà sư’’.
Cha Jean chỉ lắng nghe mà không đáp. Ông Nhu với thái độ giận dữ: ‘’Tôn giáo là tôn giáo, quốc gia là quốc gia. Tổng Thống không thể nào nhượng bộ họ được nữa. Đã đến lúc chính phủ phải có biện pháp mạnh. Nếu chính phủ hạ lệnh thì chỉ trong vòng một ngày, Quân Đội và Cảnh Sát có thể dẹp tan Phong Trào đấu tranh này’’.
Cha Jean đáp: ‘’Thưa ông Cố Vấn, đây là vấn đề nguy hiểm và tế nhị. Ông Cố Vấn có thể nào tìm cách giải quyết tốt đẹp hơn là đàn áp không ? Theo tôi đàn áp thì dễ, cộng sản sẽ chỉ mong chính phủ đàn áp Phật Giáo’’.

Ông Nhu lừ mắt nhìn Cha Jean, ông lắc đầu: ‘’Đến nay thì không còn cách nào giải quyết tốt đẹp nữa. Hiện các Tướng lãnh và Sĩ Quan cao cấp đang bất mãn với Phật Giáo, họ đang xúi Tổng Thống hạ lệnh cho họ được phép dẹp cho yên’’  Cha Jean không còn biết nói gì hơn.
Ông Nhu lại tiếp tục: ‘’Tôi hiểu, cộng sản cũng như Hoa Kỳ đang âm mưu gây rối Miền Nam theo tư lợi của họ…chính phủ không thể tha thứ bất cứ một cuộc nổi loạn nào’’.
Bất chợt Ông Nhu hỏi Cha Jean: ‘’Phía Hoa Kiều Chợ Lớn Cha thấy thái độ chung của họ như thế nào ?’’
Cha Jean đáp: ‘’Hoa Kiều tại Việt Nam như ông Cố Vấn đã rõ họ chỉ biết làm ăn buôn bán’’. Ông Nhu nói: ‘’Cha có thể giúp tôi một việc riêng ?’’
Cha Jean đáp: ‘’Tôi sẵn sàng nếu thấy có khả năng’’.
Ông Nhu ngần ngại rồi đi thẳng vào câu chuyện: ‘’Cha có thể giúp tôi một việc quan trọng này mà ngoài Cha, Tổng Thống không muốn ủy thác cho một ai’’.
Ông Nhu lại yên lặng hút thuốc lá lâu hàng 5, 7 phút.
Đoạn ông nói: ‘’Cha sang Đài Loan giúp chính phủ được không ?’’ Cha Jean chưa trả lời,
Ông Nhu nói tiếp: ‘’Cha có đủ uy tín nói chuyện với chính phủ Đài Bắc, Cha làm sáng tỏ cho họ rõ là chính phủ Việt Nam không bao giờ chủ trương và kỳ thị tôn giáo. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo đang bị cộng sản sách động giật giây!!’’
Cha Jean đáp: ‘’Thưa ông Cố Vấn, tôi nghĩ việc này ông Cố Vấn nên tiếp xúc thẳng với Đại Sứ Trung Hoa Dân Quốc hoặc nếu không ông Cố Vấn có thể ủy thác cho ông Bộ Trưởng Ngoại Giao’’.
Sự từ chối khéo của Cha Jean làm Ông Nhu mất bình tĩnh: ‘’Bộ Trưởng Ngoại Giao ấy à? Ông ta không làm được cái chi hết. Còn ông Đại Sứ Trung Hoa Dân Quốc cũng đang bị dư luận đầu độc. Tôi muốn Cha sang Đài Loan nói cho chính phủ của Tưởng Giới Thạch biết rõ sự thực và Cha nói dùm chính phủ Đài Bắc phải chấm dứt ngay chiến dịch báo chí ở Đài Loan hiện đang xuyên tạc chính phủ Việt Nam và họ đang cổ võ cho cuộc tranh đấu của cộng sản dưới chiêu bài tôn giáo’’.
Cha Jean nói: ‘’Xin ông Cố Vấn cho tôi trình bày ý kiến. Theo tôi, có thể cộng sản len lõi vào hàng ngũ đấu tranh của Phật Giáo nhưng tôi tin rằng cuộc đấu tranh này vẫn có tính cách tôn giáo đó chứ. Tôi không tin Thượng Tọa Tâm Châu hay ông Mai là cộng sản. Đại Sứ Trung Hoa Dân Quốc cũng đã nói với tôi như thế. Xin ông Cố Vấn thông cảm sự khó khăn của tôi, tôi không thể nói gì khác hơn là như vậy’’.
Ông Nhu hỏi: ‘’Ngay Cha cũng tin vào dư luận là Tổng Thống sẽ thương thuyết với cộng sản Bắc Việt ?’’ Cha Jean đáp: ‘’Đó là điều tôi ngạc nhiên’’. Cha hỏi lại: ‘’Chắc chắn ông Cố Vấn có theo dõi hoạt động của Ủy Ban Hòa Bình Phục Hưng Miền Nam’’ (Comite pour la Paix et Renovation du Sud VN)
Ông Nhu ‘’à’’ một tiếng khá lớn lắc đầu với thái độ khinh miệt. ‘’Tôi biết tổ chức ấy là một con số không do một số người Pháp đỡ đầu. Trần Văn Hữu chắc Cha đã biết rõ ?’’
Cha Jean đáp: ‘’Tôi có gặp mặt ông ấy một vài lần’’.
Ông Nhu bỗng cao hứng nói một hơi thật dài. Đến nay Cha Jean chỉ còn nhớ lại vài nét chánh, đại cương Ông Nhu nói ‘’Trần Văn Hữu hiện nay đang được nhóm Paul Devinat Bolaert, Pignon đỡ đầu, hắn đòi gì biết không ? Hắn đòi phải lật đổ chánh phủ này nghĩa là xóa bỏ chế độ này sau đó tổ chức một chánh phủ liên hiệp có Mặt Trận Giải Phóng tham gia và Miền Nam sẽ trung lập’’.
Cha Jean lại hỏi: ‘’Thưa ông Cố Vấn ông Cố Vấn nghĩ như thế nào về đề nghị của ông Hữu ?’’
Ông Nhu đáp: ‘’đó là một đề nghị trẻ con tôi không quan tâm nếu có nói chuyện trung lập thì chỉ nói với cộng sản Bắc Việt thôi chớ Mặt Trận Giải Phóng chỉ là một tổ chức phiến loạn’’.
Cha Jean nhân cơ hội này lại hỏi: ‘’Thưa ông Cố Vấn ông có nghĩ đến vấn đề nói chuyện với Bắc Việt không ?’’
Ông Nhu mỉm cười: ‘’Đó là vấn đề chính mà hôm nay tôi cần gặp Cha và nhờ Cha giúp tôi’’.
BẮT TAY VỚI CỘNG SẢN CHỈ LÀ CHIẾN THUẬT TRẢ ĐŨA HOA KỲ
Qua cuộc tiếp xúc với Ông Nhu, Cha Jean nhận thấy Ông Nhu đang trải qua cơn giao động với một thái độ quyết liệt. Về vấn đề bắt tay với cộng sản Bắc Việt Ông Nhu tỏ ra hết sức dè dặt. Ông vẫn không tin tưởng vào thế trung lập mà liên hiệp với cộng sản lại càng không thể có. Ông Nhu nhắc đi nhắc lại với Cha Jean ‘’Cha đã hiểu rất nhiều về cộng sản…Cha cũng rõ Tổng Thống ghét cộng sản như thế nào’’. 
Sau đó ông rất dè dặt tâm sự: ‘’Trong tình thế này Hoa Kỳ cứ gây khó khăn mãi cho chánh phủ Việt Nam tôi phải lựa chọn’’
Ý Ông Nhu nói là ông phải lựa chọn một thế đứng mới làm điều kiện trả đũa áp lực của Hoa Kỳ. Cha Jean cũng nhận thấy chưa bao giờ Ông Nhu tỏ vẻ tức giận Hoa Kỳ như vậy.
Trong cuộc gặp gỡ hôm  ấy Ông Nhu muốn nhờ Cha Jean qua Đài Loan rồi trở qua Ba Lê. Về việc qua Đài Loan Ông Nhu cho biết ông muốn nhờ Cha Jean nói với nhà cầm quyền Đài Loan biết rằng Tổng Thống Diệm vẫn giữ vững lập trường chống cộng không có vấn đề trung lập liên hiệp tuy nhiên Ông Nhu nhấn mạnh: ‘’Tuy nhiên nếu quốc gia chống cộng như Trung Hoa Dân Quốc không giúp đỡ tích cực Việt Nam Cộng Hòa và không làm cách nào cho Hoa Kỳ bớt gây rối Miền Nam thì buộc lòng Việt Nam Cộng Hòa phải chọn lựa nghĩa là sẽ có nói chuyện ngưng bắn và thiết lập quan hệ bình thường với Bắc Việt’’ .
Cha Jean đã tìm cách từ chối không qua Đài Loan.
Điểm sau cùng mà Ông Nhu nhấn mạnh ‘’Chánh phủ Việt Nam hoàn toàn ủng hộ Trung Hoa Dân Quốc và chính vì thế Hoa Kiều tại Việt Nam đã hưởng mọi ân huệ. Nếu tình thế thay đổi nghĩa là khi chánh phủ Việt Nam buộc lòng phải bắt tay với cộng sản Bắc Việt thì lúc ấy Hoa Kiều không còn được hưởng ân huệ như vậy và các tổ chức chìm nổi của chánh phủ Đài Loan tại Việt Nam cũng sẽ gặp khó khăn rồi tự nó tan rã’’.
Trước khi ra về Ông Nhu nắm chặt tay Cha Jean tiễn ra tận hành lang ông nhắc đi nhắc lại: ‘’Bất cứ một người Công Giáo nào cũng không thể nghi ngờ được lập trường chống cộng của Tổng Thống’’.  Ông Nhu ngập ngừng khẽ nhún vai dáng điệu ấy cho đến nay Cha Jean vẫn chưa thể quên.
Ông Nhu nói: ‘’Lập trường chống cộng phải đi song song với lập trường dân tộc. Nếu Hoa Kỳ không tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam thì buộc lòng Tổng Thống sẽ phải xét lại công cuộc viện trợ. Chắc Cha cũng đã rõ, nhiều quốc gia sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam, Tổng Thống sẽ cân nhắc lựa chọn’’.
Trong buổi tiếp xúc này, Ông Nhu có vẻ muốn thanh minh hai điểm quan trọng:
1/ Không có chuyện đàn áp Phật Giáo.
2/ Tập thể Công Giáo cứ yên tâm và tin tưởng vào lập trường chống cộng của Tổng Thống Diệm.
Từ Cha Jean đến Bác Sĩ Trần Kim Tuyến và giới lân cận Ông Nhu đều nhận định rằng Ông Nhu muốn thoát ảnh hưởng của Mỹ, muốn tìm một thế đứng mới nhưng chuyện mưu đồ bắt tay với cộng sản chỉ là chiến thuật trả giá với Hoa Kỳ. Nhưng Hoa Kỳ lại dùng ‘’gậy ông lại đập lưng ông’’ quật ngã Ông Nhu, khi họ cố tình cho rằng Ông Nhu định bắt tay với cộng sản. Một số Tướng lãnh và sĩ quan cao cấp Việt Nam đã bị Hoa Kỳ lung lạc tinh thần bằng cái dư luận: Ông Nhu định điều đình với cộng sản. Thực sự cơ quan CIA không thiếu gì phương tiện, nhất cử nhất động của Ông Nhu không qua khỏi con mắt CIA. Có lẽ vấn đề Ông Nhu bắt tay với cộng sản không làm Mỹ lo ngại bằng cho vấn đề bang giao Việt Pháp mỗi ngày càng thêm tốt đẹp sau nữa là thái độ quá cứng rắn của Tổng Thống Diệm trước những đề nghị của Mỹ mà Tổng Thống Diệm cho rằng xâm phạm đến chủ quyền Việt Nam (như vụ Cam Ranh. Đề nghị đặt Cố Vấn Mỹ cạnh Tỉnh Trưởng Việt Nam, lập phòng Dân Vụ Mỹ cạnh Tòa Đại Biểu Chánh Phủ. Sau năm 1963 những đề nghị này được hậu các chánh phủ sau đảo chánh thỏa mãn ngay).
Trước năm 1962, bang giao Việt-Pháp vẫn tẻ lạnh nhƣ buổi chợ chiều. Chánh phủ De Gaulle không một chút thân thiện nào đối với Việt  Nam Cộng Hòa. Theo những tài liệu mà chúng tôi tìm hiểu thì Tổng Thống Diệm do sự thúc đẩy của Ông Nhu đã gián tiếp ngỏ ý muốn qua hành hương tại Lourder và nhân cuộc hành hƣơng này Tƣớng De Gaulle sẽ chính thức mời Tổng Thống Diệm thăm viếng Ba Lê. Song điều đó bất thành.
CHẮP NỐI DUYÊN XƯA
Theo Cha Jean thì không phải chỉ năm 1963 Ông Nhu mới nghĩ đến chuyện bang giao phát triển Việt-Pháp và tìm mọi điểm tựa mới trong chính phủ De Gaulle. Năm 1961 trong chuyến du hành qua Maroc dự lễ đăng quang Đức Vua Hanssan II Ông Nhu nhân dịp này ghé qua Ba Lê với tư cách riêng. Tuy vậy Ông Nhu cũng đến thăm xã giao Ngoại Trưởng Pháp Couve De Murrville. Tuy với tư cách riêng Ngoại Trưởng Couve De Murrville cũng mở dạ tiệc khoản đãi Ông Nhu với sự hiện diện của Đại Sứ Lalouette và ông Étienne Manach đặc trách Á Châu Sự Vụ tại Bộ Ngoại Giao Pháp. Tuy không đạt đƣợc một kết quả nào cụ thể nhƣng chuyến thăm viếng Ba Lê lần này Ông Nhu đã phá đƣợc bầu không khí tẻ lạnh giữa Pháp-Việt. Kể từ năm 1961, ông Étienne Manach trở thành nhịp cầu thông cảm giữa hai quốc gia Việt-Pháp. Hơn nữa vấn theo Cha Jean, ông Étienne Manach rất có thiện cảm với Ông Nhu (một cựu sinh viên Trường Cổ Học Ba Lê) đó cũng là một điểm hào quang dễ dàng thu hút sự cảm phục của giới ngoại giao Pháp.
Trước năm 1960, các Cha Thừa Sai Pháp (MEP) từng tỏ ra lạnh nhạt đối với chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng năm 1960 thái độ đã thay đổi. Tổng Thống Ngô Đình Diệm trở lại ưu ái các Cha Thừa Sai Ba Lê đặc biệt những Cha hoạt động trên Vùng Cao Nguyên thì Tổng Thống mỗi ngày thêm tín nhiệm và kính phục. Đó cũng là tia sáng soi đường cho giai đoạn thân thiện với Pháp. Một trí thức cỡ như Ngô Đình Nhu tất nhiên dễ dàng thông cảm với Pháp hơn. Cái văn minh cơ khí của Mỹ có tiền dollars viện trợ dù to tát như thế nào cũng khó lòng đè bẹp được cái tinh hoa văn hóa Pháp đã tiêm nhiễm quá sâu xa trong con ngƣời trí thức như Ngô Đình Nhu.
Đó cũng là điều dễ hiểu khi Ông Nhu giơ bàn tay tiếp nhận người bạn Pháp. Đó cũng là lý do đễ hiểu tại sao những năm 1960-1961, chính quyền Ngô Đình Diệm cho mở hàng loạt Tòa Đại Sứ tại các quốc gia Á Phi thuộc ảnh hưởng Pháp. Trong một bài báo nhan đề ‘’La Paix manquée’’, của ký giả Georger Chaffard (express số 909) nhận định rằng trong cuộc gặp gỡ Couve De Murrville. Ngô Đình Nhu (1961) đã không đạt được kết quả vì Ông Nhu quá tự ái.
Couve De Murrville lại tỏ ra lạnh nhạt. Chaffard viết: ‘’Ông Couve De Murrville tin rằng thế nào chuyến sang Pháp lần này Ông Nhu cũng ve vãn Pháp nhưng ông Couve De Murrville đã thất vọng vì trong suốt bữa tiệc Ông Nhu chỉ đề cao chánh sách của anh em ông, ca ngợi Khu Trù Mật và tự hào chế độ Ngô Đình Diệm đang mạnh”. Vẫn theo Chafffard thì ông Étienne Manach linh cảm rằng, Ông Nhu sang Pháp không phải chỉ để nói những lời ‘’suông’’ như vậy…Ông Étienne Manach lại bố trí cuộc hội đàm Ngô Đình Nhu. Couve De Murrville từ Ratbat (Maroc) trên đường về ghé qua Ba Lê. Cuộc hội đàm không đi đến đâu…nhưng đó là cái mốc lớn mở đầu cho giai đoạn mới mà Đại Sứ Labouette đóng vai trò quan trọng. Đại Sứ Labouette đã hiểu rõ sự rạn nứt trong mối tình Đồng Minh Việt-Mỹ.
Sự mâu thuẫn giữa Việt-Mỹ càng ngày càng gia tăng và Ông Nhu đã hơn một lần gián tiếp ngỏ ý cho Đại Sứ Labouette hay rằng đã đến lúc Pháp-Việt phải cải thiện bang giao tại Bán Đảo Đông Dƣơng. Đại Sứ Labouette trở thành ngƣời bạn thân của Tổng Thống Diệm lẫn Ông Nhu. Labouette đóng vai trò biện hộ cho chế độ Ngô Đình Diệm trước thái độ nghi ngờ của Tướng De Gaulle, vì De Gaulle vẫn chưa quên bài học đau đớn 1954- 1955, một mặt bị Mỹ đá khỏi Việt Nam một mặt chính quyền Ngô Đình Diệm tẩy chay Pháp.
Theo George Chaffard nhận định thì theo ông Đại Sứ Labouette anh em Tổng Thống Diệm quá nhiều tự ái dù anh em Ông Diệm có muốn ve vãn Pháp đến mức nào chăng nữa, anh em Tổng Thống Diệm cũng không nói thẳng ra được. Dần dần, Tướng De Gaulle ngã theo hướng thuyết phục của Đại Sứ Labouette.
Nghĩa là: Với sựu mâu thuẫn Việt-Mỹ, khi mà Ông Nhu muốn dân Mỹ tìm một thế đứng mới thì đây là cơ hội tốt nhất để Pháp nhẩy vào Đông Dƣơng, đóng vai trò mới.
Tưởng cũng nên ghi lại một số biến cố ngoại giao đáng cho Hoa Kỳ lo ngại. Tháng 2.63 một phái đoàn Dân Biểu Việt Nam chính thức sang thăm viếng Pháp Quốc do ông Trương Vĩnh Lễ hướng dẫn gồm có các Dân Biểu Nguyễn Hữu Chỉnh, Hà Nhƣ Chi, Nguyễn Quốc Hưng, Trần Văn Thọ. Phái đoàn Dân Biểu Việt Nam được đón tiếp một cách khác thường, Tổng Thống De Gaulle đã tiếp phái đoàn tại Điện Elysée và cuộc hội kiến kéo dài 35 phút. Báo chí Pháp trong ngày 14.2.63 đã nhận định về cuộc hội kiến này. Tờ Le Monde cũng như France Soir coi đây như một biến cố lớn, một khúc quanh quan trọng trong cuộc bang giao Việt-Pháp.
Ngày 15.2, Thủ Tướng Murrville đã thảo luận rất lâu với phái đoàn Dân Biểu Việt Nam về chương trình hợp tác và viện trợ kinh tế văn hóa. và viện trợ kinh tế văn hóa. Phòng Thương Mại Ba Lê cũng mở dạ hội khoản đãi phái đoàn Dân Biểu Việt Nam với sự tham dự gần nhƣ đủ mặt giới doanh thƣơng và kỹ nghệ Pháp. Ngƣời hoan hỉ nhất trong dịp này là Đại Sứ Labouette. Ông Đại Sứ đã thành công trong chặng đầu…Từ đó trở đi Đại Sứ Labouette trở thành một Đại Sứ quan trọng sau Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Phản ứng của Hoa Kỳ như thế nào ? Dĩ nhiên Hoa Kỳ không thể công khai phản đối mối tình Việt-Pháp nhưng Hoa Thịnh Đốn bắt đầu phản công lại.
Đại Tá Lansdale cũng như Fishel người đã từng ủng hộ hết lòng Tổng Thống Diệm trong thời gian 1954-1955 thì 1963, ông lại là người tích cực vận động lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Fishel từng lưu ngụ tại Việt Nam đã từng cộng tác với chính quyền Ngô Đình Diệm thì 1963 ông lại chủ trương phải lật đổ ngay Ngô Đình Diệm dù phải dùng biện pháp máu sắt kể cả việc thanh toán cá nhân Tổng Thống Diệm.
Trí Nhân Media

NHỮNG PHIÊN TÒA KHỐN NẠN TRONG MỘT CHẾ ĐỘ QUÁ KHỐN NẠN

Trinhan Media


     Nguyễn Thu Trâm
9-01-2013
      Chính Quản Trọng đã chủ trương rằng: “Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là Tứ duy tức là bốn đầu dây của một nước. Bốn đầu dây ấy nếu không dương lên được thì nước sẽ diệt vong.”  Rằng “Nước có 4 đầu dây. Một đầu dây đứt thì phải nghiêng. Hai đầu dây đứt thì nước phải nguy. Ba đầu dây đứt thì nước phải đổ. Bốn đầu dây đứt thì nước phải diệt.”
“Nếu nghiêng thì còn làm cho ngay lại được; nếu nguy có thể làm cho yên được; nếu đổ có thể nâng lên được; nếu diệt vong, thì không thể nào gây dựng lại được nữa.”
Chắc chắn trong xã hội loài người không thể có một chế độ chính trị nào khốn nạn như chế độ cộng sản Việt Nam và cũng không thể có nơi đâu trên thế gian này lại có những phiên tòa quá khốn nạn như ở đất nước Việt Nam dưới chế độ cộng sản.
Ngót 100 năm trước, vào năm 1927, nhà thơ Tản Đà đã đau xót mà thốt ra rằng:
“Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm quan
Đào mà đào được nên đào mãi
Mềm cứng bây giờ đất Vĩnh An.”
Có lẽ đúng như vậy, khoảng một trăm năm trước đây, phần vì nghèo túng, phần vì bị chế độ thực dân kìm hãm bị, dễ có đến 85% dân số Việt Nam ta mù chữ  nên “Thằng dân ngu quá lợn, cho nên quân nó dễ làm quan” là điều dễ hiểu. Thế nhưng trong xã hội Việt Nam ngày nay, với số lượng hơn 9.000 Giáo sư, hơn 24.300 Tiến sỹ và hơn 101.000 Thạc sỹ thì rõ ràng là không phải thằng dân mà chính là thằng quan ngu quá lợn nên đất nước phải suy đồi. Điều đáng suy nghĩ ở đây là với trình độ dân trí như thế sao lại để cho đất nước bị cai trị bởi những thằng quan ngu quá lợn? Và câu trả lời cũng thật đơn giản là bởi cái chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay là một chế độ vô cùng khốn nạn: CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM.
Cái khốn nạn của chế độ cộng sản mà dễ dàng nhận ra nhất là sự cưỡng bức con người ta phải đeo mặt nạ để sống, phải lường láo tráo trở, phải đãi bôi để tồn tại, điều này đã khiến cho chỉ riêng  tầng lớp bị trị trong xã hội dân sự Việt Nam từ lâu đã xuất hiện và tồn tại hai hạng nô lệ là nô lệ cưỡng bức và nô lệ tự nguyện.
Tự ngàn xưa, kẻ sỹ Việt Nam không phải chỉ sống bởi cơm áo gạo tiền mà họ còn sống bằng cái Nghĩa, Lễ, Liêm và Sỹ của họ và vì vậy mà vào khi xã hội nhiễu nhương do đất nước bị cai trị bởi hôn quân bạo chúa thì những nhân sỹ đó đã treo ấn từ quan về nơi điền dã vui thú với cỏ cây, chứ cái Lễ, cái Nghĩa, cái Liêm và cái Sỷ của họ không bao giờ cho phép họ cộng tác với hôn quân bạo chúa để làm cho đất nước suy tàn cho dân chúng lầm than, tức là họ không tự nguyện làm kẻ nô lệ.
Còn hiện nay,  với số lượng hơn 9.000 Giáo sư, hơn 24.300 Tiến sỹ và hơn 101.000 Thạc sỹ cùng với hơn 20 triệu sinh viên học sinh Việt Nam đang phải uốn lưỡi cú diều, đang phải sống giả dối với toàn xã hội, với những người chung quanh, với các thế hệ học trò, với cháu con, với đồng nghiệp và nhất là phải dối trá luôn cả với chính mình để tiếp tục tồn tại, tiếp tục được ăn ngon mặc đẹp và được tiến chức thăng quan. Bởi chế độ cộng sản đâu cho phép con người trong xã hội được nói thật và được sống thật.
Bởi chế độ cộng sản không chỉ bao cấp tư duy mà còn bao cấp luôn cả tâm tư, tình cảm của con người ta nữa và vì lẽ đó mà thức giả các sinh viên, học sinh trong xã hội Việt Nam ngày nay đâu dám yêu nước đâu được quyền yêu dân tộc, yêu tổ quốc của mình một cách đúng nghĩa, mà họ buộc phải yêu chế độ cộng sản, tức là phải yêu cái xấu, cái ác, cái đang tàn hại đất nước và hủy diệt giống nòi nếu không họ sẽ phỉa bị bắt bớ, bị tra tấn, bị ép cung, bị buộc nhận tội rồi bị đưa ra tòa án để xét xử rồi bị đưa vào các nhà tù nhỏ để giam cầm, để khủng bố và sau khi mãn án sẽ được đưa trở lại nhà tù lớn để tiếp tục bị quản thúc, quản chế. Vậy, xin được hỏi rằng còn có chế độ chính trị nào trên thế giới này khốn nạn bằng chế độ cộng sản Việt Nam hay không?
Xin thử hỏi có chế độ chính trị nào trên thế giới này buộc các nhân sỹ trí thức, buộc các nhà khoa bảng phải sống bằng sự dối gian, vô liêm sỷ và hèn hạ đến mức phải tự nguyện làm kiếp nô lệ, để rồi trong kho tàng ngôn ngữ của loài người phải xuất hiện thêm thuật ngữ “Nô Lệ tự Nguyện” hay không?
Xin thử hỏi có một chế độ chính trị nào trên thế giới này lại đi buộc các nhân sỹ trí thức phải chối bỏ cái Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỹ để được sống như ở chế độ cộng sản Việt Nam hay không? Khốn nạn quá!
May thay cho dân tộc Việt Nam, cho giống nòi Lạc Việt là đồng bào Việt Nam, những người thấp cổ bé họng trong xã hội, cùng có một số ít nhân sỹ trí thức vẫn còn thấy được cái chân giá trị của Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ bởi họ hiểu rằng đó chính là những giềng mối để phục hưng tinh thần đạo đức cho quốc gia dân tộc và là sự quyết định cho sự hưng thịnh của đất nước, sự tồn vong của giống nòi. Tất nhiên điều này không phải là những gì mới mẻ mà cách đây hơn 2600 năm trước, Quản Trọng khi làm tướng quốc nước Tề, đã áp dụng 4 chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ để làm quốc sách chấn hưng tinh thần đạo đức cho dân.
Chính Quản Trọng đã chủ trương rằng: “Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là Tứ duy tức là bốn đầu dây của một nước. Bốn đầu dây ấy nếu không dương lên được thì nước sẽ diệt vong.”  Rằng “Nước có 4 đầu dây. Một đầu dây đứt thì phải nghiêng. Hai đầu dây đứt thì nước phải nguy. Ba đầu dây đứt thì nước phải đổ. Bốn đầu dây đứt thì nước phải diệt.”
“Nếu nghiêng thì còn làm cho ngay lại được; nếu nguy có thể làm cho yên được; nếu đổ có thể nâng lên được; nếu diệt vong, thì không thể nào gây dựng lại được nữa.”
Rõ ràng nước Việt Nam đã “Nghiêng” từ hơn 80 năm trước khi đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đã “Nguy” từ đúng 50 năm trước từ khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ và đã “Đổ” từ hơn 38 năm nay rồi, va giờ đây thì đang bên bờ vực của sự diệt vong chính vì vậy mà nhiều giới đồng bào Việt Nam cùng một số nhân sỹ trí thức còn có lương tri, còn biết thế nào là “Lễ, Nghĩa, Liêm Sỹ” đã dấn thân vì sự trường tồn của tổ quốc, của giống nòi. Nhưng khốn nạn thay! Chế độ cộng sản đã dùng bạo quyền để đàn áp, dùng công an để khủng bố và dùng tòa án để xét xử để kết án họ, bởi trong chế độ công sản, người dân không được yêu nước, không được phép bảo vệ quê hương đất nước, giống nòi mà phải yêu chế dộ cộng sản và phải biết bảo vệ chế độ cộng sản. Khốn nạn quá!
Đến nỗi những người dân ở các nước khác khi nghĩ đến Việt Nam là họ nghĩ ngay đến một đất nước của kẻ ít học hành cai trị những những trí thức khoa bảng và là một đất nước của phiên tòa mà những kẻ phản quốc ngồi xét xử những người yêu nước. Và tất nhiên cả thế giới loài người đều thấy quá rõ chỉ trong vòng 10 ngày thôi, từ 28 tháng 12 năm 2012 đến ngày 08 tháng 01 năm 2013 đã có đến 3 phiên tòa xét xử và kết án những người yêu nước, từ các thành viên của Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải đến Lô Thanh Thảo rồi 14 thanh niên Công Giáo và Tin Lành mà phiên tòa kéo dài trong hai ngày, vừa kết thúc ít phút trước đây thì mức án mà 3 phiên tòa của những kẻ phản quốc đó tuyên phạt cho những người yêu nước lên đến 120 năm tù giam ở nhà tù nhỏ và hơn 50 năm quản chế ở nhà tù lớn sau khi rời nhà tù nhỏ. Nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả: Bởi chế độ cộng sản đâu chỉ dừng lại ở hành động trấn áp những người yêu nước mà chúng còn khủng bố trắng luôn cả những người yêu kính, ngưỡng trọng những người yêu nước chính vì vậy mà ở mỗi phiên tòa, nhà cầm quyền đều triểu khai hàng trăm, có khi đến hàng ngàn công an chìm nổi để bắt bớ những người yêu nước và yêu những người yêu nước mà đến dự khán phiên tòa, nhiều người đã bị khống chế, bắt giam, bị lột quần áo để quay phim, chụp ảnh, nhiều thân nhân của “bị cáo” hoặc bị giam nhốt tại nhà trong suốt phiên xử, hoặc bị hành hung, tra tấn vô cùng dã man đến mức phải nhập viện để điều trị.
Dẫu vậy vì “Nghiã, Lễ, Liêm, Sỹ” tất cả những người yêu nước luôn nêu cao tinh thần hiên ngang, bất khuất và dũng khí của những chí sỹ trước những kẻ quá vô liêm sỷ là những kẻ “nô lệ tự nguyện” đann tâm làm tay sai cho những kẻ bán nước đang ngồi xét xử và kết án những người “nô lệ cưỡng bức” là những người yêu nước. Và nhiều người, cùng với lòng cảm phục và kính ngưỡng, đã không cầm được nước mắt khi nghe được lời nói sau cùng của những “nô lệ cưỡng bức” đang đứng trước vành móng ngựa:
Anh Trần Minh Nhật, người bị kết án  4 năm tù giam đã dõng dạc rằng: “Con xin cảm ơn Cha Mẹ, gia đình, anh em và bạn bè đã đến tham dự phiên tòa, đồng hành với con. Cầu mong xã hội Việt Nam sớm có được sự thật và công lý. Tôi chấp nhận tất cả những gì mà chế độ này đè nén!”
Còn Paulus Lê Sơn người bị kết án 13 năm tù giam, vẫn chưa biết tin mẹ đã qua đời một cách vô cùng oan nghiệt không lâu sau khi Lê Sơn lụy vòng lao lý thì rất hiên ngang tuyên bố rằng: “Xin cảm ơn gia đình, mẹ già đã chăm sóc nuôi nấng, xin lỗi mẹ vì những ngày mẹ yếu đau đã không chăm sóc được cho mẹ. Xin cảm ơn các cậu, các dì và anh em bạn bè đã chăm sóc mẹ khi ốm đau thay Sơn. Phần Sơn, tự xác định là mình không có bất cứ tội gì, nguyện vọng chỉ là yêu cầu xử đúng người, đúng tội căn cứ luật pháp.”
Được biết với mức án hơn 100 năm tù mà tòa án vừa tuyên phạt 14 người yêu nước đó thì một gia đình có đến 3 mẹ con cùng bị đưa ra tòa và kết án là Bà Đặng Ngọc Minh và hai con là Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc – Họ phải chịu án tù vì họ dám yêu nước và dám sống bằng “Nghĩa Lễ Liêm Sỷ”. Còn sự khốn nạn nào trên đời hơn thế này nữa không?
 
Hàng ngàn người dân có Nghĩa Lễ Liêm Sỹ đến tham dự phiên tòa
Tất nhiên không chỉ đồng bào Việt Nam mà cả thế giới loài người đều phẫn nộ trước phiên tòa và trước mức án mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam và những kẻ vong nô phản quốc vừa tuyên phạt những người yêu nước.
Đồng bào Việt Nam và thế giới loài người cũng hết lòng kính phục các anh chị, nhưng người yêu nước, vì Nghĩa Lễ Liêm Sỷ và vì sự tồn vong của tổ quốc của nòi giống mà phải lụy vòng lao lý gông xiềng. Chúng tôi và cả thế giới loài người sẽ không quên các anh chị.
Riêng với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam và những kẻ nô lệ tự nguyện, những kẻ vì bát cơm manh áo, vì vinh thân phì gia mà sẳn sàng làm thân trâu ngựa cho cộng sản để tàn hại giống nòi thì chúng tôi xin được nhắn nhủ rằng:
“Lễ nghĩa là đại pháp để trị người. Liêm sỉ là đại tiết để giúp con người nên người.
Vì nếu không liêm thì của gì cũng lấy, không sỉ thì việc gì cũng làm.
Người mà đến như thế, thì họa bại vong loạn còn cái gì mà chẳng đến.
Phương chi kẻ làm quan mà cái gì cũng dám lấy cái gì cũng dám làm, thì làm sao mà thiên hạ không loạn, quốc gia không mất cho được.”
 
3 chiến hạm của Trung cộng cập cảng Sài gòn ngày 7 tháng 1
trước sự im lặng đáng sợ của báo chí
Quý vị có tin rằng Việt Nam đang đứng trước đại họa mất nước hay không? Quý vị có biết rằng trong khi phiên tòa này đang diễn tiến, thì cơn bão số 1 đã xuất hiện ở Biển Đông và hai tàu cá của ngư dân Việt ở gần Hoàng Sa đã phải xin phép lực lượng hải quân Trung cộng để được vào trú bão ở trong một đảo nhỏ của tổ quốc mình thuộc quần đảo Hoàng Sa, nhưng họ đã bị lực lượng hải quân Trung cộng từ chối và xua đuổi nên đành phải neo đậu giữa biển khơi và phó dâng sinh mạnh mình cho bão tố, cùng lúc đó nhà cầm quyền cộng sản ở Sài gòn lại lén lút tiếp đón 3 tàu chiến của Trung cộng cập cảng Sài gòn trước sự im lặng tuyệt đối của báo chí lề đảng? Khốn nạn quá!
Nếu cứ tiếp tục là những kẻ nô lệ tự nguyện, nếu cứ tiếp tục làm kiếp ngựa trâu cho cộng sản để bắt bớ, xét xử và giam cầm những đồng bào yêu nước của mình thì chỉ một ngày không xa nữa, không riêng người dân thấp cổ bé họng, mà đến cả bộ chính trị, cả Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng và tất cả những người nô lệ tự nguyện quý vị cũng sẽ phải xin phép các quan Tàu để được vào nhà của chính quý vị, hoặc thậm chí để được ăn ngủ với vợ con quý vị.
Khốn nạn! Khốn nạn! Đại Khốn nạn thay cho chế độ cộng sản Việt Nam.
Trí Nhân Media

ĐỨC TÍNH TRUNG THÀNH TRONG DÂN CHỦ PHÁP TRỊ

 Trinhan Media

Lê Minh Nguyên
Trung thành với cá nhân là một nét của văn hóa Á Châu, có thể người ta không bỏ được nó, nhưng nếu biết sắp xếp để nó không ưu tiên khi có mâu thuẩn với các giá trị và định chế của tự do dân chủ thì cuộc tranh đấu chống độc tài mới dễ thành công và công việc xây dựng một chế độ dân chủ pháp trị mới có được một nền tảng vững bền từ quần chúng.
 
Trong bất cứ một xã hội nào, xưa cũng như nay, nhất là ở Á Châu, đức tính trung thành là một đức tính luôn được người đời ca ngợi. Đây là một đức tính tự nhiên và cao quý. Tự nhiên vì nó bắt nguồn từ bản năng xã hội, là một trong ba bản năng nằm bên trong của bản năng sinh tồn, cho nên chẳng những nó có sẵn trong bản chất con người mà nó còn có trong bản chất của các loài sinh vật khác mặc dù mức độ có khác nhau, như chim uyên-ương hay cả những loài thú dữ.
Trong các xã hội theo nhân trị mà trong đó người hay giai cấp lãnh đạo đứng ngoài và đứng trên luật pháp như các chế độ quân chủ chuyên chính, độc tài phát xít, độc tài cộng sản v.v.. thì đức tính này bị khai thác, lợi dụng để phục vụ cá nhân hay giai cấp độc tài. Hiện tượng người lãnh đạo bắt kẻ dưới quyền phục vụ cá nhân, gia đình hay một phe nhóm lợi ích, hiện tượng cắt máu ăn thề đại ca tiểu đệ, hiện tượng bố già.. làm tê liệt giá trị tự do và những định chế xây dựng dân chủ pháp trị.
Thời Đông Châu Liệt Quốc ở Trung Quốc, vua nước Tấn là Tấn Ai Công bị bốn quan khanh họ Trí, Triệu, Hàn, Ngụy chuyên quyền, trong bốn họ này thì mạnh nhất là họ Trí với Trí Bá chuyên quyền và muốn chiếm ngôi nhà Tấn.
Trí Bá là một trong những người con của Trí Tuyên Tử. Khi Trí Tuyên Tử muốn lập con nối nghiệp có hỏi người trong họ là Trí Quả thì Trí Quả cho là không nên lập Trí Bá, vì theo Trí Quả, Trí Bá có năm điều sở trường hơn người và một điều sở đoản. Các điều sở trường là râu rậm mày dài, cưỡi ngựa bắn cung giỏi, nhiều kỹ năng, cương nghị quả cảm, và trí xảo biện luận. Nhưng sở đoản là tham tàn bất nhân. Trí Quả cho rằng đem năm điều sở trường đè lấn người ta mà lại thêm một nỗi bất nhân thì còn ai sống được. Nếu mà lập Trí Bá thì họ Trí tất diệt. Trí Tuyên Tử không đồng ý và cứ lập Trí Bá làm đích tử. Trí Quả than và xin quan thái sử đổi thành họ Phụ vì e có ngày bị vạ lây.
Khi Trí Tuyên Tử mất, Trí Bá nối nghiệp, cầm quyền chính nước Tấn, cùng với người trong họ là Trí Khai, Trí Quốc và thuộc hạ là Hi Tì, Dự Nhượng. Trí Bá muốn cướp ngôi nước Tấn nên tìm cách làm suy yếu ba họ Triệu, Hàn, Ngụy bằng cách lấy cớ động binh tranh bá với nước Việt, mượn lệnh vua Tấn, bắt ba họ kia mỗi họ phải nộp vào công gia họ Trí một trăm dặm đất để thu thuế làm quân phí. Hàn Hổ và Ngụy Câu vì khiếp sợ Trí Bá nên dâng đất, riêng Triệu Vô Tuất chống lại. Trí Bá huy động Hàn Hổ và Ngụy Câu đánh Triệu Vô Tuất với hứa hẹn lấy được đất Triệu sẽ chia ba. Triệu Vô Tuất chạy về thủ ở Tấn Dương. Trí Bá vây thành một năm mà không thể phá vỡ được nên làm cừ ngăn nước sông Tấn cho chảy vào thành.
Triệu Vô Tuất bí mật thuyết phục Hàn Hổ và Ngụy Câu đứng về phía mình để đánh lại Trí Bá, diệt trừ hậu họan và lấy đất Trí Bá vốn nhiều hơn đất Triệu để chia ba. Hi Tì biết Hàn Hổ và Ngụy Câu sẽ phản và tìm cách can ngăn Trí Bá nhưng không được nên cáo bệnh và trốn sang nước Tần. Triệu Vô Tuất hợp lực cùng Hàn Hổ và Ngụy Câu tháo đê cho nước đổ về dinh Trí Bá. Dự Nhượng đến cứu Trí Bá lên thuyền và khuyên Trí Bá trốn sang Tần. Triệu Vô Tuất đoán được nên phục binh bắt Trí Bá và đem chém. Dự Nhượng nghe tin bèn cải trang và trốn. Triệu Vô Tuất cùng với Hàn, Ngụy trở về Giáng Đô, kinh thành nước Tấn, quy cho dòng họ Trí tội phản nghịch và giết sạch, chỉ có một mình Trí Quả vì đã đổi ra họ Phu nên được thóat nạn. Đất của Hàn, Ngụy nộp cho Trí Bá khi trước được họ thu về, và đất của Trí Bá ba nhà chia nhau.
Dự Nhượng trốn ở Thạch Thất Sơn nghĩ cách trả thù cho Trí Bá, đổi họ tên, giả làm kẻ tù phục dịch, giắt một con dao nhọn, lẻn vào trong nhà cầu họ Triệu, định chờ khi Triệu Vô Tuất ra thì đâm chết, nhưng bị bắt. Triệu Vô Tuất cho là nghĩa sĩ nên tha. Dự Nhượng cho rằng việc tha này là cái ơn riêng, nhưng việc báo thù vẫn là điều nghĩa lớn. Sau đó Triệu Vô Tuất về ở thành Tấn Dương. Dự Nhượng luôn nghĩ cách báo thù, nhưng sợ có người biết mặt, nên cạo sạch râu và lông mày, lấy sơn bôi vào mình để giả làm người cùi, vào thành Tấn Dương và đi ăn mày ở chợ. Ông sợ vợ đi tìm và nhìn ra mình nên nuốt than để thay đổi tiếng nói.
Triệu Vô Tuất cho xây Xích Kiều trên những cái cừ của Trí Bá khi trước. Dự Nhượng biết Triệu Vô Tuất thế nào cũng ra xem cầu, nên giắt con dao nhọn, giả làm người chết, nằm phục ở dưới gầm cầu. Khi Triệu Vô Tuất gần đến Xích Kiều, con ngựa kéo xe bỗng hí lên và lùi trở lại. Triệu Vô Tuất sai quân sĩ đi sục tìm và bắt được Dự Nhượng. Triệu Vô Tuất sai đem chém., Dự Nhượng than khóc tiếc rằng không ai báo thù cho Trí Bá nữa. Triệu Vô Tuất trách Dự Nhượng đã từng làm bề tôi cho họ Phạm, họ Phạm bị Trí Bá diệt mà Dự Nhượng chịu nhục không trả thù, còn làm bề tôi cho Trí Bá, nay Trí Bá chết mà Dự Nhượng lại cố sức báo thù. Dự Nhượng cho rằng họ Phạm đãi ông ta như thường nhân, nên ông ta lấy lòng thường nhân mà xử lại, họ Trí đãi ông như quốc sĩ thì ông lấy lòng quốc sĩ mà xử lại. Triệu Vô Tuất cởi thanh kiếm đang đeo đưa cho Dự Nhượng để cho Dự Nhượng tự tử. Dự Nhượng xin Triệu Vô Tuất cởi áo cho ông được đánh mấy cái vào áo, ngụ ý báo thù rồi sẽ tự tử. Triệu Vô Tuất thương tình, cởi áo cẩm bào, sai người đưa cho Dự Nhượng. Dự Nhượng cầm kiếm, trừng mắt nhìn áo nhảy lên đánh ba lần rồi đâm cổ mà chết. Cái cầu ấy sau đổi tên là Dự Nhượng Kiều. Triệu Vô Tuất thấy Dự Nhượng tự tử thì có lòng thương xót và truyền mai táng tử tế.
Người đời thán phục đức tính trung thành của Dự Nhượng, tiếc một điều là sự trung thành ấy chỉ dành cho một cá nhân, dù cá nhân đó có ác độc đến đâu. Nếu Dự Nhượng trung thành cho một giá trị xây dựng xã hội thì xã hội đã không bị mất đi một nhân tài.

Ngày xưa, dân chúng sống trong Thời Đại Nông Nghiệp, các quân vương làm chủ phương tiện sản xuất của ruộng đất, cho nên họ lập ra chế độ chính trị quân chủ chuyên chính để khống chế xã hội, luật là do họ làm ra nhân danh con Trời hay Thiên Tử của «Thuận Thiên Thừa Vận, Hoàng Đế Có Chiếu…», luật chỉ để áp dụng cho người dân, còn giai cấp cai trị thì chỉ dùng Lễ nếu phạm tội, qua câu «Lễ không xuống đến hạng thứ dân, Hình không lên đến bậc đại phu». Người Cộng Sản ngày nay cũng đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Nếu người đảng viên phạm tội thì chỉ xử lý trong nội bộ đảng qua hình thức kiểm thảo hay tự phê bình, chỉ khi nào bị khai trừ, tức mất quyền đảng viên thì luật pháp dành cho thứ dân mới áp dụng cho họ được.
Ngày nay nhân loại đã vào Thời Đại Thông Tin, trong đó luồng lao động sản xuất tập trung vào các sản phẩm của trí tuệ, cho nên nó đòi hỏi một cấu trúc xã hội có nền tảng tự do để trao đổi thông tin và lưu thông sản phẩm. Trong thời đại mới này, tất cả mọi cá nhân cần được giải phóng ra khỏi vòng kềm tỏa của độc tài để phát huy năng lực nội tại và sức sáng tạo. Muốn làm được việc này, các giá trị như tự do để phát huy năng lực cá nhân, dân chủ để phát huy năng lực dân tộc, nhân quyền để phát huy phần cao thượng của bản năng sinh tồn, pháp trị để phát huy công lý, sự bình đẳng và sự hài hòa cần thăng hoa để thay thế các giá trị đã lỗi thời của một thời đại đã qua. Các định chế để bảo vệ và phát huy các giá trị này cần được dựng xây và đức tính trung thành nên dành ưu tiên cho các giá trị và định chế này.
Trong trường hợp có sự mâu thuẩn giữa sự trung thành với cá nhân của người lãnh đạo mình và các giá trị/định chế tự do dân chủ thì người có đức tính trung thành nên dành ưu tiên cho tự do dân chủ. Trong một đảng phái có mục tiêu tranh đấu cho tự do dân chủ mà người lãnh đạo có cung cách ứng xử độc tài thì người đảng viên cần trung thành với giá trị tự do dân chủ, vì dân chủ không chỉ là cái đích cho tổ chức đến mà là con đường tổ chức đang đi, là từng trụ cây số mà tổ chức cần vượt qua, là một lề lối sống. Nếu người lãnh đạo hay đảng viên có cung cách hành xử độc tài thì con đường mà tổ chức đang đi là độc tài và vô phương mà nó có thể xây dựng tự do dân chủ cho dù mục tiêu này đã được đề ra trong cương lĩnh.
Ngày xưa việc người cha đi ăn trộm dê và người con đi tố cáo là một điều không thể chấp nhận được vì nó vi phạm giá trị trung hiếu của hệ thống nhân trị, như câu thơ «có trung hiếu nên đứng trong trời đất…» của ông Nguyễn Công Trứ. Ngày nay giá trị dân chủ pháp trị được người dân ở các nước văn minh tin tưởng vào và ưu tiên bảo vệ. Muốn xây dựng một xã hội mà mọi người dân đều có sự tự do và độc lập để phát huy năng lực thì lòng trung thành ngày hôm nay được dành ưu tiên cho các giá trị của tự do dân chủ cùng những định chế lập ra để phát huy các giá trị này.
Trong gần hai thập niên từ 1978 đến 1995 ở Hoa Kỳ có kẻ giết người bằng cách gởi bom thư, chính quyền Hoa Kỳ bất lực không thể biết được là ai nên đặt tên cho kẻ sát nhân này là Unabomber. Người giúp chính quyền tìm ra thủ phạm không ai khác hơn là em ruột của kẻ sát nhân, ông David Kaczynski. Anh của David, ông Ted Kaczynski, là tiến sĩ giáo sư đại học Berkeley, vì bất mãn xã hội kỹ nghệ hóa cao độ nên dùng phương pháp đánh bom thư giết người để phản đối. Người em đọc cái tuyên ngôn «Xã Hội Kỹ Nghệ và Tương Lai Của Nó» mà ông Ted gởi đến báo The New York Times và nhận ra nét văn của anh mình, nên David đã hy sinh tình riêng hầu bảo vệ lợi ích chung. David rất thương người anh của ông, nhưng ông không thể trung thành với anh mình mà phải trung thành với giá trị dân chủ pháp trị để bảo vệ xã hội. Sau đó ông tận lực tranh đấu cho người anh không bị án tử hình và đã thành công.
Vào giữa thập niên 2000s, một vị bộ trưởng của Thái Lan than phiền với báo The Economist rằng đất nước ông theo chế độ quân chủ lập hiến, tức mô hình dân chủ có vua như ở Anh hay Nhật, nhưng ít ai trung thành với các giá trị và định chế dân chủ mà vẫn trung thành với hệ thống đàn anh kẻ cả (patronage system), đó là nguyên nhân lớn cho sự bất ổn chính trị của nước này. Thay vì như Anh hay Nhật, nhà vua lại hay thò bàn tay lông lá vào chính quyền do dân bầu lên, hậu quả là từ khi theo dân chủ năm 1932 đến nay, Thái Lan đã trãi qua 17 hiến pháp và 18 lần đảo chánh. Vương quyền Thái Lan có nguy cơ đi theo dấu chân của Nepal là bị xóa bỏ nếu yếu tố trung thành tiếp tục đặt sai.
Trong cuộc bầu cử tổng thống ở Nam Hàn cuối năm 2012, con gái của nhà độc tài Phát Chánh Hy đã đắc cử, làm sống lại một cuộc thảo luận rằng nhờ ông Phát Chánh Hy mà Nam Hàn mới có được ngày hôm nay, rằng ông ta là một nhà độc tài sáng suốt và một số người đã cổ võ cho cho mô hình độc tài sáng suốt này. Trong khi đó thì thực chất của độc tài là độc tài, dù phía tả hay phía hữu, dù sáng suốt hay ngu muội. Trong chế độ Đức Quốc Xã hay Quân Phiệt Nhật, rất khó mà nói rằng Quốc Trưởng Hitler hay Nhật Hoàng không sáng suốt. Ta có thể ví dân chủ như sự bơi lội, nếu đứng mãi trên bờ (duy trì độc tài) thì sẽ không bao giờ biết bơi, nếu muốn biết bơi thì phải tập bơi, và chính trong giai đoạn tập bơi này người ta hay bị sặt nước (bất ổn định) nên thường e ngại. Nam Hàn, Đài Loan, Nam Dương.. đều đã qua giai đoạn tập bơi này và dân chúng khó mà chấp nhận mô hình độc tài sáng suốt.
Sự độc lập và tự do của mỗi cá nhân là điều kiện tiên quyết để phát triển đức tính trung thành với giá trị và định chế dân chủ pháp trị. Các hình thức độc tài cá nhân (despotism), độc tài phe nhóm (cronyism), độc tài gia đình trị (nepotism), hệ thống trưởng lão (gerontocracy), hệ thống đàn anh kẻ cả (patronage), hệ thống các gia đình quyền lực (oligarchy), hệ thống giai cấp (caste system), độc tài cộng sản.. sẽ hạn chế đức tính trung thành vào cá nhân hay phe nhóm đặc quyền đặc lợi, cản trở sự phát triển của tự do và dân chủ pháp trị.
Xây dựng một đất nước tự do với mô hình dân chủ pháp trị đòi hỏi một nền tảng đạo đức xã hội, một hệ thống tư pháp hoàn toàn độc lập, công minh với luật pháp do ý chí quần chúng mà ra, chứ không phải chỉ phát triển kinh tế. Nga hậu cộng sản dù kinh tế phát triển nhưng là quốc gia tội phạm với mafia và một số ít các gia đình quyền lực thu tóm đại khối tài sản quốc gia. Trung thành với giá trị tự do và các định chế dân chủ pháp trị sẽ giúp Việt Nam tương lai tránh được các dạng thái của độc tài này.
Trung thành với cá nhân là một nét của văn hóa Á Châu, có thể người ta không bỏ được nó, nhưng nếu biết sắp xếp để nó không ưu tiên khi có mâu thuẩn với các giá trị và định chế của tự do dân chủ thì cuộc tranh đấu chống độc tài mới dễ thành công và công việc xây dựng một chế độ dân chủ pháp trị mới có được một nền tảng vững bền từ quần chúng.
Trí Nhân Media

Tự ý điều chỉnh quy hoạch, cướp đất dân ngay sát nhà Tổng Bí thư

Dự án đường 5 kéo dài với cầu Đông Trù chạy từ cầu Chui ngang qua nhà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (thôn Đông Trù, xã Đông Hội – Đông Anh, HN) nổi tiếng nhiều tiêu cực. Dự án khởi công từ 2006 mà hiện nay liên tục chịu điều chỉnh vốn, điều chỉnh quy hoạch, nắn tuyến bị thao túng và làm xiếc bởi các bố già tài tình trong bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội. Điều đáng nói là những trò lợi dụng dự án, cướp đất của nhân dân, gây thiệt hại cho nhà nước hàng chục nghìn tỉ đồng ngang nhiên diễn ra nhiều năm nay ngay sát nhà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Tiêu cực trong quy hoạch
Liên quan đến việc GPMB có nhiều điểm mập mờ tại dự án đường 5 kéo dài, đầu năm 2006, các hộ dân sát nút giao thông cầu Chui và cầu Đông Trù nhận được thông báo khu vực đang ở nằm trong diện GPMB Dự án đường 5 kéo dài (từ cầu Chui – cầu Đông Trù). Theo đó, sẽ có 3 phường và 4 xã trên địa bàn quận Long Biên, Đông Anh bị thu hồi đất phục vụ dự án.
Những gia đình nằm trong diện phải di dời chỉ có yêu cầu rất đơn giản là: chính
quyền Đông Anh, Long Biên, Ban QLDA Hạ tầng Tả Ngạn công khai bản đồ quy hoạch chi tiết dự án, cùng các văn bản liên quan đến chính sách GPMB, đền bù, hỗ trợ tái định cư theo đúng quy định.
Tuy nhiên, sau 6 năm đấu tranh liên tục, những đòi hỏi chính đáng của người dân
vẫn không được quận Long Biên, cùng các cơ quan chức năng “hồi âm”. Không những vậy, thời gian qua, quận Long Biên, huyện Đông Anh còn liên tục thúc ép người dân phải nhận tiền, bàn giao mặt bằng. Những người chưa chấp nhận ký nhận tiền đền bù thì bị coi là bất hợp tác với chính quyền.
Riêng tại quận Long Biên, cho đến thời điểm này (ngày 8/1/2013), chính quyền vẫn
chưa công khai được bản đồ quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 nút giao thông cầu
Chui đến người dân theo đúng quy định GPMB. Khi hàng trăm nhân khẩu còn chưa biết đất thu hồi sẽ phục vụ cho hạng mục nào? Ngày 26/11/2012, Phó Chủ tịch UBND quận Long Biên, Đỗ Huy Chiến đã ký văn bản số 337/KH-UBND về việc “Tiếp tục triển khai công tác GPMB thực hiện dự án Xây dựng Đường 5 kéo dài và ô quy hoạch trên địa bàn phường Đức Giang”.
Văn bản số 337/KH-UBND nêu rõ từ ngày 26 – 29/12/2012, sẽ ký và tống đạt Quyết
định cưỡng chế; Từ ngày 30/12/2012 đến 19/1/2013, xây dựng kế hoạch và tổ chức
xử lý hành chính (cưỡng chế thu hồi đất) đối với những hộ dân chưa nhận tiền đền
bù, hỗ trợ tái định cư.
Nhận được văn bản 337/KH-UBND của quận Long Biên, 31 hộ dân tổ 1, phường Đức Giang đã làm đơn kiến nghị UBND quận Long Biên và Ban QLDA Hạ tầng Tả Ngạn công khai minh bạch dự án. Tại buổi đối thoại diễn ra ngày 8/12/2012, giữa Lãnh đạo quận Long Biên, phường Đức Giang, Ban QLDA Hạ tầng Tả Ngạn tổ với tổ dân phố do Phó Chủ tịch quận Long Biên Đỗ Huy Chiến chủ trì, các hộ dân đề nghị cho xem bản đồ quy hoạch chi tiết 1/500 nút giao thông cầu Chui, nhưng không cơ quan nào đưa ra được bản đồ quy hoạch.
“Bẻ” quy hoạch và xóa dấu vết
Thay vào đó, UBND quận Long Biên lại đưa ra Quyết định số 4503/QĐ – UBND ngày 10/10/2012, do Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội, ông Nguyễn Văn Khôi (tức Khôi nghẹo) ký “Phê duyệt chỉ giới đường đỏ nút giao thông trung tâm quận Long Biên tỷ lệ 1/500” . Quyết định số 4503/QĐ – UBND vừa được ký ngày 10/10/2012, nhưng quận Long Biên đã thông báo thực hiện GPMB vào ngày 19/1/2013 là quá gấp gáp và không phù hợp.
Đại diện cho các hộ dân tổ 1, ông Nguyễn Thế Được, trú tại số 7, ngách 53/2,
phố Ngô Gia Tự và là bố của liệt sĩ cho rằng, việc UBND quận Long Biên viện dẫn
Quyết định số 2419/QĐ – UB ngày 29/9/2005 của UBND TP. Hà Nội về việc thu hồi 1.011.198m2 để thực hiện dự án đầu tư xây dựng Đường 5 kéo dài thực chất chỉ
nhằm mục đích thu hồi thêm phần diện tích ngoài dự án của người dân nhằm phục
vụ cho dự án khác. Quyết định số 16/2005/QĐ-UB ngày 7/2/2005, phê duyệt dự án
trục đường cầu Chui – Đông Trù chỉ rõ giới hạn quy hoạch đường cầu Chui – Đông
Trù. Phần diện tích 31 hộ dân tổ 1, phường Đức Giang đang sử dụng nằm hoàn toàn
ngoài khu vực dự án.
Đông đảo nhân dân dự án đường 5 kéo dài tố cáo UBND quận Long Biên đã ban hành kế hoạch cưỡng chế GPMB không đúng trình tự pháp luật nhằm xóa những vi phạm kể từ năm 2006, che lấp vi phạm quy hoạch của các bố già trong chính quyền Hà Nội mưu toan lợi dụng dự án cướp đất dân ngay sát quê nhà của Tổng Bí thư đúng dịp Tết Nguyên đán cổ truyền của dân tộc đã cận kề.
Nhân dân dự án đường 5 kéo dài (cầu Chui – cầu Đông Trù) tố cáo quan chức
 http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=BXGWu_-XqpE
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=kLay0jZtBFg
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=zQI0C6qaaN8

Tàu chiến TQ ‘đổ quân’ vào Sài Gòn ‘thăm hữu nghị’?

Bạn đọc Danlambao - Sau nhiều ngày im lặng, Thông Tấn Xã Việt Nam đã chính thức đăng bản tin nói về việc 3 tàu chiến của hải quân Trung Quốc cập cảng Sài Gòn.
Bản tin ngắn trên trang VietNamPlus xác nhận biên đội tàu hải quân TQ gồm 2 tàu khu trục hạn và 1 tàu hậu cần đã vào cảng Sài Gòn để ‘thực hiện chuyến thăm hữu nghị’ 4 ngày.
TTXVN cho biết thêm: “Trong thời gian ở Thành phố Hồ Chí Minh (từ 7-11/1/2013), chỉ huy và thủy thủ tàu hải quân Trung Quốc đã đến đặt hoa tại tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh, chào xã giao lãnh đạo Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ tư lệnh Quân khu 7, đại diện Bộ tư lệnh Hải quân tại phía Nam và tham quan một số địa danh, thắng cảnh của thành phố”.
Nội dung bản tin cực ngắn do TTXVN công bố không khác gì những bản tin ‘xe cán chó’ trên các cột báo thường ngày. 3 tàu chiến TQ trang bị hỏa tiễn, mang theo 800 lính ‘đổ bộ’ Sài Gòn là một sư kiện khiến dư luận đặt nhiều dấu hỏi. Không lẽ với một lực lượng hùng hậu như vậy vào SG chỉ có mục đích là đi đặt hoa trước tượng đài ông Hồ Chí Minh, hay để chào xã giao lãnh đạo và đi tham quan?
Chuyến ‘thăm hữu nghị’ của tàu chiến TQ tại Sài Gòn diễn ra đúng vào thời điểm hơn 20 tàu cá Việt Nam gặp nạn trên Biên Đông bị hải quân TQ xua đuổi, ngăn chặn không cho tránh bão tại khu vực quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Toàn cảnh 3 chiếc tàu chiến của TQ cập cảng Sài Gòn. Đây là những loại tàu chiến có trang bị hỏa tiễn, với số lượng thủy thủ đoàn lên đến 800 người
 
Trang Blog Tâm Sự Y Giáo nêu lên nghi vấn:
Đoàn tàu Hải quân Trung Quốc: Không mời mà đến?
 
Bản tin trên cho thấy đây là một chuyến “thăm hữu nghị” rất lạ lùng: Không hề có người mời và người đón! Điều này hoàn toàn trái ngược với những qui tắc ứng xử ngoại giao tối thiểu. 
 
Hơn thế nữa, bản tin của TTXVN đã lờ tịt vai trò và vị thế của nước chủ nhà, chỉ buông một câu trời ơi đất hỡi rằng “…đã thực hiện chuyến thăm hữu nghị…”. Có lẽ nào không mời mà bọn họ tự đến ? Hoặc, đúng là không có ai mời, nhưng bọn họ vẫn muốn đến, và đã đến?
Trước đó, nhà cầm quyền VN và truyền thông Lề Đảng đã cố hết sức để ém nhẹm thông tin này. Tuy nhiên, việc 3 tàu chiến treo cờ Trung Quốc xuất hiện lù lù ở cảng Sài Gòn đã không thể che mắt nhân dân TP.
Cố tình che dấu nhân dân, lén lút mở đường cho giặc mang tàu chiến vào Sài Gòn, Bí thư Thành ủy TP.HCM Lê Thanh Hải đã ‘lập công lớn’ để dâng quan thầy Trung Quốc.
Bạn đọc Danlambao

’Đóng dấu mật’ kết luận thanh tra đất đai tại Đà Nẵng

* Đồng chí X ‘nắn gân’ ông Nguyễn Bá Thanh?
Bảng Đỏ (Danlambao) – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ‘đã có ý kiến’ đối với kết luận của Thanh tra Chính phủ về việc quy hoạch đất đai ở Đà Nẵng dưới thời Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh. Tuy nhiên, nội dung này không được công bố công khai vì tất cả đều đã bị ông Dũng đóng dấu mật.
Báo Thanh Niên dẫn lời vị đại diện lãnh đạo Thanh tra Chính Phủ nói rằng việc đóng dấu mật được “thực hiện theo đúng quy định pháp luật”. 
Buổi họp báo thường kỳ của Thanh Tra Chính Phủ diễn ra hôm 10/1, dưới sự chủ trì của hai ông Lê Tiến Hào, Ngô Văn Khánh, phó Tổng Thanh tra Chính phủ. Được biết, Thủ tướng chính phủ cũng đã cho ý kiến đối với 6 kết luận thanh tra khác.
Người đại diện Thanh tra Chính phủ cẩn thận rào trước đón sau: việc không công khai kết luận tranh đa đất đai tại Đà Nẵng “không liên quan đến công tác nhân sự cấp cao”. Ý nói đến việc Bí thư Đà Nẵng là ông Nguyễn Bá Thanh vừa được Bộ chính trị đưa về Trung ương giữ chức Trưởng Ban Nội chính Trung ương.
Buổi họp báo của Thanh Tra Chính Phủ ‘nắn gân’ ông Nguyễn Bá Thanh
Nhiều ý kiến cho rằng, ông Thanh được TBT Nguyễn Phú Trọng đưa về Trung ương nhằm hạn chế bớt quyền lực của ông Nguyễn Tấn Dũng.Trước khi ra Ba Đình, ông Thanh cũng đã lớn tiếng đe dọa sẽ ‘hốt liền, không nói nhiều’ những trường hợp tham nhũng trong ngành ngân hàng, đe dọa trực tiếp đến túi tiền và tài sản của thủ tướng.
Động thái trên cho thấy Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chủ động ‘nắn gân’ đối với Tân trưởng ban nội chính TW Nguyễn Bá Thanh, trước khi ông này ra Ba Đình.
Việc quy hoạch sử dụng đất đai ở Đà Nẵng dưới thời Bí thư Nguyễn Bá Thanh đã khiến rất nhiều người dân bị ảnh hướng. Các chính sách ‘chỉnh trang đô thị’ đã làm giàu và tạo nên tên tuổi cho ông Nguyễn Bá Thanh, nhưng đồng thời cũng gây ra thảm cảnh màn trời, chiếu đất cho biết bao gia đình. Nhiều người hiện nay vẫn đang phải đội đơn khiếu kiện, hàng trăm trường hợp phải trốn đi tị nạn do sợ bị trả thù.
Việc giới chóp bu cộng sản sử dụng các văn bản đóng dấu mật để đấu đá, triệt hạ lẫn nhau đã từng xảy ra. Tại đại hội đảng cộng sản lần thứ 11, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng khi ấy là ông Hồ Đức Việt khi lên danh sách nhân sự đã dám cả gan ‘chọc tiết’ các phe phái trong Đảng. Hậu quả là nhân vật đầy quyền lực như ông Hồ Đức Việt cũng đã phải ‘về vườn’, sau khi những tài liệu tuyệt mật ghi lại cảnh ăn chơi trác táng của ông này bị công bố trước Bộ chính trị.
Xem ra, đường ra Ba Đình của ông Thanh vào những ngày sắp tới sẽ còn lắm chuyện để bàn.
Bảng Đỏ
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét