LUẬT BIỂN VÀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ VỚI ĐẤT NƯỚC
Nhiều nghi vấn: “Phải chăng Hội nghị Thành Đô 1990 là sự quá cả tin ở ‘người’ mà thỏa hiệp xuôi chiều – Cái nguyên do để tự làm mất trọn vẹn độc lập, tự chủ, tự quyết của dân tộc?”. |
* Bùi Văn Bồng
Sáng 19/11, trong buổi khai mạc Hội thảo Quốc tế về
Biển Đông lần thứ 4, tại TP HCM, Phó Giáo sư Ramses Amer, nghiên cứu
viên cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Đông Á thuộc Đại học Stockholm
(Thụy Điển), đã trao đổi với các nhà báo về vấn đề biển Đông. Ông nói: “Theo tôi nghĩ, muốn hình thành một đối sách với nước nào đó, trước tiên phải biết người ta thực sự nghĩ gì, muốn gì”…
Hôm mới đây (17/11), ông Hoàng Bình Quân, Trưởng ban Đối
ngoại Trung ương, đã sang sang Bắc Kinh chúc mừng Đại hội đảng CS Trung
Quốc thành công. Nhân chuyến đi này, ông Hoàng Bình Quân đã có cuộc gặp
với ông Lưu Vân Sơn, Ủy viên Thường vụ Bộ chính trị kiêm Bí thư Ban Bí
thư Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Ông Lưu Vân Sơn nói rằng ông
đánh giá cao mối quan hệ giữa hai đảng cộng sản Việt-Trung và sẽ cùng
Việt Nam duy trì đường hướng phát triển đúng đắn mối bang giao song
phương và phát huy đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước
(?!).
Đáp lại, ông Hoàng Bình Quân nhấn mạnh Việt Nam sẵn sàng bắt
tay với Trung Quốc để tăng cường tin cậy lẫn nhau, phát huy hợp tác, và
đẩy quan hệ đôi bên lên một tầm cao mới.
Dù giới lãnh đạo hai nước Việt-Trung liên tục khẳng định quyết tâm thắt
chặt hữu nghị giữa đảng và chính phủ hai nước, tranh chấp chủ quyền đôi
bên chưa có dấu hiệu lắng dịu. Trong mọi tình huống và hoàn cảnh, Trung
Quốc chỉ muốn mọi vấn đề tranh chấp biển Đông giải quyết song phương,
không chấp nhận các cuộc tiếp xúc đa phương. Điều này càng bộc lộ Trung
Quốc rất ái ngại khi thấy các nước Đông Nam Á đoàn kết lại, tạo thành
sức mạnh cùng đấu tranh giữ chủ quyền lãnh hải trên biển Đông. Tách ra,
chỉ gặp gỡ sông phương là mưu chước “bẻ từng chiếc đũa”, dễ dàng dùng
mọi thủ đoạn ngon ngọt, dụ dỗ, cài bẫy để thực hiện âm mưu độc chiếm
biển Đông, khi cía “lưỡi bò” đã liếm tận vùng biển nội thủy của
Malaysia. Trước thực trạng đó, lãnh đạo các cấp ở Việt Nam cần không
ngừng nâng cao cảnh giác, nâng cao trách nhiệm chính trị với đất nước,
dù quan hệ trên tinh thần nào, cân đối khéo léo ra sao cũng rất cần
thường trực ý thức cảnh giác, không để cho láng giềng tranh thủ, lôi
kéo, kiên quyết thực hiện nghiêm Luật biển Việt Nam khi chỉ còn hơn một
tháng nữa là Luật biển Việt Nam có hiệu lực.
Ai cũng nhớ, ngày 21/6/2012, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật
biển Việt Nam đã được ban hành. Đây là sự thống nhất cao của Quốc hội,
với sự khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền, lãnh hải quốc gia. Tính dân tộc
đã được thể hiện ở tầm cao mới, qua việc ra được Luật biển trong bối
cảnh tranh chấp biển Đông ngày càng phức tạp hiện nay. Cho dù đã bị muộn
so với Liên Hiệp Quốc ban hành Công ước Biển 1982, nhưng việc thông qua
và ban hành Luật biển đã thể hiện được sự mong đợi của toàn quân, toàn
dân, sự đồng tình, hoan nghênh, ủng hộ của lương tri nhân loại, và riêng
trong việc này QH đang được sự đồng thuận cao của nhân dân…
Trước sự kiện này, Trung Quốc đã lồng lộn lên khi Quốc hội Việt Nam
thông qua Luật biển, gấp rút tuyến bố thành lập thành phố Tam Sa, tiếp
tục mời thấu 9 lô mỏ dầu, tăng cường cho tàu ngư chính, tung hàng mấy
chục nghìn tàu đánh cá xâm phạm vùng lãnh hải Việt Nam, nhất là khu vực
Trường Sa…
Luật
biển quy định đầy đủ các nguyên tắc, chính sách quản lý và bảo vệ biển;
phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo
Việt Nam, trong đó có Trường Sa và Hoàng Sa; các hoạt động trong vùng
biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tài nguyên và môi
trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra
kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển.
Nhưng, không thể dễ dàng quan niệm rằng đã có Luật biển là coi như
cả nước yên tâm với chủ quyền biển – đảo. Có luật trong lúc này là cần
thiết, nhưng dù sao thì luật vẫn chỉ là luật. Luật cho dù có đầy đủ,
mang giá trị pháp lý và bảo đảm chặt chẽ đến mấy cùng chỉ nằm trên giấy,
như bao luật khác, nếu không có sự lãnh đạo, chỉ đạo kèm theo những
biện pháp kiên quyết, hữu hiệu để thực hiện luật. Phải có sức mạnh đoàn
kết toàn dân, kết hợp điều hành về chính trị (lãnh đạo), thể hiện tính
kiên quyết thực thi pháp luật, thì luật mới đi vào đời sống. Trung Quốc
sẽ không coi Luật biển Việt Nam ra gì cả, nếu như việc ra luật chỉ để
đáp ứng nguyện vọng hiện thời của người dân, nhưng sau đó không có sự
lãnh đạo, chỉ đạo thực thi đúng luật một cách kiên quyết, tự chủ và có
bản lĩnh. Luật biển rất cần bản lĩnh chính trị, năng lực, khôn khéo, tầm
nhìn và bản lĩnh đối ngoại. Khi có những hành động vi phạm luật biển,
việc xử lý theo luật thế nào mới là quan trọng. Đó là hiệu quả thực thi
Luật biển khi có hiệu lực.
Vấn đề phát ngôn, tiếp kiến, tọa đàm và ra các văn bản liên
quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập, tự chủ,
quyền tự quyết của dân tộc không phải ai có chức có quyền thì muốn tùy
hứng, tùy tiện nói gì, ký cái gì cứ việc thoải mái? Sự tùy tiện hoặc
có xen lồng động cơ cá nhân nào đó sẽ là nguyên do để lại nhiều hậu họa,
thậm chí nguy cơ mất nước. Cùng lắm chỉ mang tiếng nói bừa, nói ẩu, nói
có hại, “cõng rắn cắn gà nhà”… Mà rất cần phải có điều luật quy định cụ
thể, rõ ràng. Cá nhân nào vi phạm làm mất quốc thể, hạ thấp vị thế đất
nước, dân tộc bị xúc phạm và thiệt hại phải bị xử lý trước pháp luật,
phải nghiêm trị bằng phép nước.
Khi thực hiện Nhà nước pháp quyền, vươn tới văn minh nhân loại, rất cần
có nhiều bộ luật về mọi lĩnh vực. Thực thi luật có nghiêm hay không còn
tùy thuộc vào sự vận hành thực tế của thể chế chính trị. Cho nên, vấn
đề cần đặt ra là quan hệ giữa thể chế chính trị, quan điểm dân chủ với
việc thực thi pháp luật.
Người lãnh đạo nhiều khi chỉ chịu nhiều trách nhiệm về mặt tổ chức,
chưa phải chịu gánh trách nhiệm về mặt pháp lý. Đảng có chính cương,
điều lệ, nguyên tắc, những đảng còn ít bị ràng buộc theo luật, có khi
đứng lên trên cả luật. Cho nên khi việc thực thi pháp luật không nghiêm,
thì người lãnh đạo, người đứng đầu cũng ít bị chịu trách nhiệm cá nhân
về pháp lý. Đó là sự lệch pha trong một thể chế chính trị-xã hội, là kẻ
hở của một thể chế, các cơ chế, quy ước, chế tài đặt ra, nhưng tập thể,
hoặc cá nhân người lãnh đạo ít bị liên đới, trách nhiệm cá nhân khong
mấy khi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Vì thế mà rất cần có sự ràng buộc trách nhiệm chính trị với pháp lý
về mặt cá nhân lãnh đạo, kể cả về Đảng, chính quyền, bộ, ngành chủ quản
và cơ quan chức năng. Khi sự ràng buộc pháp lý được “thể chế hóa” thì
luật mới thực sự có giá trị. Chính trị bị ràng buộc theo luật, có mang
tính sống còn, thì mới có tính tự giác cao. Lãnh đạo để có luật và lãnh
đạo thực thi đúng luật tự nó tạo ra những nỗ lực tự thân của mỗi cá
nhân, khỏi phải cần đến nhiều nghị định, thông tri, chỉ thị đi kèm, ít
phải hội họp, kiểm điểm, kiểm tra, đôn đốc. Nó đã tạo ra được “tự động
hóa” trong nội lực mỗi người.
Chính trị muốn vững bền vững và khẳng định uy tín ngày càng cao cần
phải lấy dân chủ làm gốc, luôn luôn song hành với dân chủ, cần thường
xuyên không ngừng đề cao dân chủ. Luật chưa ban hành, nhưng nhân dân
biểu tình, tuần hành ôn hòa ủng hộ luật, phản đối kẻ vi phạm chủ quyền
biển-đảo, nhằm khẳng định chí khí của toàn dân trong bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia có nên qui kết xem như tội đồ làm tay sai cho kẻ địch?
Sao có thể suy diễn ngược ngạo và ấp đặt đến thế?! Thử hỏi ngăn chặn
biểu tình của dân chúng, qui chụp việc biểu thị thái độ ủng hộ Luật biển
là có sự tiếp tay của “thế lực thù địch” nào đó, vậy thì ra luật để làm
gì? Ai thực hiện? Hiệu lực thực thi luật được bao nhiêu? Vô hình trung,
những hành động trấn áp, ngăn chặn, khống chế, hạn chế hành động biểu
thị thái độ của người dân là thể hiện rõ nét sự mơ hồ về chính trị, tách
chính trị khỏi pháp luật, đem chính trị đối trọng với nhân dân. Đó cũng
là những biện pháp có thể coi là đem chính trị sai lầm tự bào mòn, làm
thui chột lòng yêu nước chân chính và trung thực của người dân. Một sức
mạnh đoàn kết cần được động viên, khuyến khích, làm nền tảng cho mọi
thắng lợi bỗng nhiên bị xé nhỏ, phân rã, băm nát. Như thế là có tội,
không thể coi là có chút công gì với dân với nước.
Nghị
quyết Đảng, quyết định của Nhà nước, Quốc hội là chính trị. Nếu như
chính trị đó chỉ được thể hiện với sự tính toán một chiều, xem xét một
bề, không dựa trên toàn cục, thiếu khách quan toàn diện lại trở thành
phản chính trị. Suy cho cùng, nếu như nói rằng hành động đi vận động
người dân đừng đi biểu tình chống “thế lực thù địch” xâm phạm chủ quyền
lãnh thổ, tìm cách ngăn chặn, trấn áp, khống chế biểu tình là một sự
tiếp tay cho “thế lực thù địch”, có hại cho nước cho dân cũng chẳng
ngoa! Các “thế lực thù địch” sẽ rất hả hê trước sự nhũn nhặn, nhịn nhục,
nhân nhượng, lối hành xử đối với nhưng người yêu nước như vậy, khác nào
“nối giáo cho giặc”, là sự tiếp tay với những kẻ cho sự vi phạm Luật
pháp quốc tế, khuyến khích chúng tiếp tục lộng hành, càng đặt đất nước
vào tình trạng nguy cấp?
Làm chính trị mà không tôn trọng dân, không dựa vào dân là coi như
tự mình kìm hãm năng lực lãnh đạo, tự mình xa dân, không phù hợp với quy
luật vận hành xã hội, làm mất đi cội nguồn sức mạnh “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng”. Cho nên, mỗi khi lắng nghe tiếng nói của người
dân, chủ nhân của lịch sử, người lãnh đạo phải coi đó chính là cơ sở xây
nền cho thể chế chính trị ngày càng thêm vững mạnh. Nhà chính trị không
tự tô vẽ bằng sự đề cao uy tín của chức danh, mà uy tín đó do nhân dân
ghi nhận và chính nhân dân tôn vinh.
Một khi chủ nhân đất nước bị người có trách nhiệm chính trị coi
thường, chỉ biết dùng uy quyền kiểu quân chủ chuyên chế, thì chính uy
quyền sẽ theo năm tháng và tùy sự biến xã hội mà mất đi, thời nào thì
chủ nhân vẫn là chủ nhân. Của cải cho dù nhiều đến mấy rồi cũng hết dần,
nhưng tiếng thơm lưu truyền mãi mãi. Uy quyền lúc này, lúc khác có thể
đạt được chủ đích nào đó cho cá nhân, nhưng rồi cũng mất đi cùng với sự
thay đổi thời thế bằng những cuộc cách mạng dân chủ. Người có trách
nhiệm chính trị, có vị thế xã hội mà tự mình gây ra sự ô danh thì muôn
đời khó rửa sạch.
Hơn
thế nữa, như trên đã nêu, Luật biển sẽ chỉ nằm trên giấy, không đi vào
cuộc sống một cách thiết thực và hiệu quả (như nhiều luật khác đã ban
hành), nếu như việc tổ chức tuyên truyền, giáo dục về luật không sâu
rộng đến mọi người dân, kể cả Việt kiều ở nước ngoài và dư luận quốc tế.
Cần phải nhanh chóng đưa luật vào cuộc sống, trở thành chỗ dựa tin cậy
cho lòng yêu nước chân chính của người dân. Chính trị và pháp luật phải
che chở, bảo hộ được người dân có lòng yêu nước nồng nàn . Một khi sức
mạnh của lòng yêu nước bị ngăn chặn, thì áp lực của chân lý, lẽ phải,
công bằng và nhu cầu quyền sống sẽ là mầm mống đòi hỏi cần thiết phải
đổi mới. Sự mất dân chủ thường xảy ra khi người cầm quyền trình độ năng
lực yếu kém, ấu trĩ, ngờ nghệch, hoặc vì nguyên do, động cơ cá nhân chủ
nghĩa lợi ích phe nhóm nào đó cố tình lợi dụng quyền lực hành xử tùy
tiện, vi phạm pháp luật.
Trong bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền
thiêng liêng của đất nước, chính trị-lòng dân và pháp luật cần phải tạo
được thế chân kiềng ngày càng vững chắc. Đất nước đã có độc lập trên 67
năm rồi, cần phải coi đó là niềm tự hào và trách nhiệm giữ vững nền độc
lập trên tinh thần “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Một đất nước có độc lập, nhưng người lãnh đạo không tự chủ, thậm chí tự
mình thiếu kiên định mà chấp nhận những lệ thuộc ngoại bang, “dĩ hòa vi
quý” trong quan hệ và đấu tranh ngoại giao, “hảo lớ” vô nguyen tắc, có
khi còn làm những việc theo cái roi hoặc cái thước kẻ sai khiến của
ngoại bang là tự đánh mất giá trị nền độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc
mà không đi liền với tự chủ là một nền độc lập bấp bênh, mất dần ý
nghĩa. Trách nhiệm chính trị trước lòng dân và vận mệnh đất nước là phải
có lập trường kiên định, vững vàng, có bản lĩnh tự chủ, không lấy lòng
đến mức sai nguyên tắc, phạm luật và có hại, không thỏa hiệp, không
khoan nhượng trong bất cứ tình huống nào.
B.V.B
——————————–
——————————–
Được đăng bởi Bùi Văn Bồng
1398. Khoa học Việt Nam mắc kẹt trong phi chuẩn mực, hành chính hóa và tư duy ăn xổi
Phạm Duy Hiển * Việt Nam là nước đi sau về khoa học và công nghệ (KH-CN). Ta du nhập cách làm KH-CN, ban đầu từ các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu (ở miền Bắc), gần đây từ các nước tư bản Âu-Mỹ. Ý thức hệ và thiết chế của hai hệ thống hoàn toàn khác nhau, song tư duy và cách nghiên cứu khoa học lại khá giống nhau. Học họ, nhưng ta chẳng giống ai, có chăng chỉ là những bề nổi bên ngoài, như các danh hiệu giáo sư, tiến sỹ, còn cốt lõi bên trong thì theo cách tư duy của mình.Từ chối chuẩn mực phổ quát trong nghiên cứu khoa học
Ở nước ngoài, chức danh tiến sỹ khẳng định anh đã vượt qua những đòi hỏi gắt gao về học thuật để có thể bắt đầu theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học, hoặc giảng dạy đại học. Ở ta, thiếu tấm bằng tiến sỹ chẳng những không vênh vang được với thiên hạ mà không thể chen chân vào nhiều chức quan. Có nơi còn quy định 50% cán bộ thuộc thành ủy quản lý phải có bằng tiến sỹ (TuanVietnam.net, 29/10/2012). Theo kế hoạch của Bộ GD-ĐT, đến năm 2020 Việt Nam phải có sáu vạn tiến sỹ để đáp ứng quy mô mở rộng hệ thống đại học với 450 sinh viên trên một vạn dân, không cần biết hiện có bao nhiêu người hướng dẫn và phòng thí nghiệm đáp ứng yêu cầu. Cách quy hoạch ngược đời này đang lạm phát ồ ạt bằng tiến sỹ, thực học không cần, chuẩn mực khoa học bị gạt bỏ, chưa kể bằng dởm, viết luận án thuê, đang tràn lan (ANTĐ, 28/10/2012).
Ở nước ngoài, giáo sư phải là người sáng tạo ra tri thức mới qua hàng loạt công trình được đồng nghiệp khắp nơi trên thế giới trích dẫn và sử dụng. Ở ta, trong Quy chế bổ nhiệm giáo sư mới sửa đổi gần đây để tiến gần hơn đến thông lệ quốc tế vẫn chưa có điểm sàng tối thiểu, chẳng hạn yêu cầu giáo sư phải có một vài bài báo quốc tế. Giáo sư ở ta được tính điểm khoa học chủ yếu dựa trên 900 ấn phẩm nội địa, nhưng chưa có tạp chí nào trong số này, kể cả những tạp chí tiếng Anh, lọt vào Web of Knowledge của Thomson Reuter (ISI). Đây là cơ sở dữ liệu chứa những thông tin cơ bản về các công trình khoa học có phản biện quốc tế đăng trên một vạn tạp chí hàng đầu, bao quát mọi ngành khoa học, kỹ thuật, xã hội, nhân văn và nghệ thuật.
Tuy không đâu quy định chính thức, song ISI được giới khoa học khắp nơi xem như chuẩn mực, một bộ lọc bảo đảm chất lượng đội ngũ nghiên cứu khoa học, qua đây khẳng định chỗ đứng của nhà khoa học trên mặt tiền thế giới. Các tổ chức quốc tế cũng dựa vào số bài báo có phản biện quốc tế và số bằng sáng chế để xếp hạng đại học, trình độ khoa học và năng lực cạnh tranh của các quốc gia. Cách làm này chưa thể xem là tuyệt hảo, song tương tự như GDP, tuy còn khiếm khuyết vẫn được dùng làm thước đo sức mạnh của nền kinh tế. Cho nên né tránh các diễn đàn khoa học quốc tế chẳng khác nào vận động viên cấp quốc gia chê đấu trường Olympic.
Mãi gần đây, công bố quốc tế mới được dùng làm căn cứ để đánh giá các đề tài khoa học cơ bản. Nhưng công bố quốc tế lại không đòi hỏi đối với các nghiên cứu ứng dụng, kỹ thuật, xã hội, nhân văn chiếm hầu hết ngân sách và nguồn nhân lực khoa học của đất nước, lại có tác động trực tiếp đến quốc kế dân sinh. Các ngành xã hội nhân văn chiếm ba phần tư số ấn phẩm khoa học nội địa hầu như không có mặt trên các tạp chí quốc tế. Các kết quả nghiên cứu này đúng sai đến đâu, rất khó biết. Trong nhiều thập kỷ gần đây diện mạo khoa học xã hội nhân văn trên thế giới đã thay đổi hoàn toàn nhờ có sự xâm nhập của toán học và các khoa học tự nhiên. Nhiều hướng nghiên cứu đa ngành xuất hiện, khoa học tự nhiên và xã hội đan xen nhau, không thấy đâu phân chia riêng rẻ như ở ta. Khoa học xã hội nhân văn của ta đang lạc lỏng khỏi thế giới.
Vì sao cho đến nay các diễn đàn khoa học quốc tế không được chấp nhận? Trong số các giáo sư được bổ nhiệm mấy năm gần đây chỉ những người làm Toán và Vật lý có 4-5 bài báo quốc tế trở lên, đa số những giáo sư nghiên cứu ứng dụng, kỹ thuật và xã hội, nhân văn chỉ công bố công trình trong nước. Nhiều người trong số này lập luận rằng nghiên cứu ứng dụng cốt mang lại lợi ích kinh tế thiết thực, cần gì những mục tiêu hàn lâm. Lập luận này phù hợp với quan điểm nhiều người trong giới quản lý và các cơ quan cấp kinh phí, nên có tác động đến chính sách.
Trên thực tế rất khó đánh giá một công trình nghiên cứu mang lại “lợi ích kinh tế thiết thực” bằng cách nào (xem phần sau). Vả lai, trong số hàng triệu công trình nghiên cứu hàng năm trên thế giới chỉ một số rất ít có tiềm năng trực tiếp tạo ra những ứng dụng nào đó. Trong khi đó, nghiên cứu khoa học có sứ mạng tìm ra tri thức mới, mà cái mới lại rất dễ khẳng định qua bài báo có phản biện quốc tế. Những khám phá trong khoa học cơ bản là tri thức mới đã đành, những quy luật tự nhiên, xã hội ở Việt Nam mà thế giới chưa biết, những phiên bản ứng dụng có thêm phát hiện mới trong điều kiện cụ thể ở nước ta … vẫn cứ rất mới với thế giới, miễn là nhà khoa học phải am tường mọi kết quả nghiên cứu và phương pháp luận hiện đại nhất, từ đó tìm được chỗ đứng dành cho kết quả nghiên cứu của mình trên mặt tiền khoa học.
Cũng phải thừa nhận rất khó tìm được chỗ đứng trên mặt tiền khoa học nếu không có thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm và hạ tầng kỹ thuật hiện đại. Chính khó khăn này giải thích tại sao công bố quốc tế của Việt Nam nghiêng hẳn về Toán và các môn lý thuyết. Số bài báo quốc tế về khoa học thực nghiệm, ứng dụng và kỹ thuật quá ít, không tương xứng với quy mô nhân lực và đầu tư, và ít hơn hẳn các nước xung quanh như Thái Lan, Malaysia.
Bước đột phá trong chiến lược KH-CN 2011-2020
Gần đây lãnh đạo Bộ KHCN đã tạo ra bước đột phá rất đáng mừng, chính thức khẳng định công bố quốc tế là thước đo năng lực nghiên cứu khoa học của đất nước. Chiến lược KH-CN 2011-2020 (sau đây gọi tắt là Chiến lược) nêu rõ mục tiêu (thứ hai) tăng số lượng công bố quốc tế từ các đề tài sử dụng ngân sách nhà nước trung bình 15-20%/năm. Mục tiêu thứ năm lại ghi rõ đến năm 2020 hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giớí.
Tăng số lượng công bố quốc tế 15-20%/năm là mục tiêu hoàn toàn khả thi, Ngay trong mười năm 2000-2009 chúng ta đã đạt tốc độ 15-16%/năm, ngang với Thái Lan và Malaysia, chỉ kém Trung Quốc (20%/năm), nhưng nhanh hơn Philippine và Indonesia (5,7%/năm). Song số lượng công bố quốc tế chưa phản ảnh đầy đủ năng lực nghiên cứu và hiệu quả đầu tư cho khoa học của một quốc gia. Phân tích các công bố quốc tế của Việt Nam và 11 nước Đông Á cho thấy chất lượng các bài báo (dựa trên chỉ số trích dẫn trung bình) của Việt Nam còn thấp, nhiều ngành trực tiếp liên quan đến quốc kế dân sinh chưa có công bố quốc tế, và phần lớn đồng tác giả Việt Nam không đóng vai trò chính trong các công trình. Số công trình do nội lực chỉ chiếm 30%, vào loại thấp nhất khu vực, so với 90% ở Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan (xem bài “A comparative study of research capability of East Asian countries and implication for Vietnam” đăng trên Higher Education, Vol. 60, trang 615-625, bản dịch tiếng Việt trên Tia Sáng, 22/06/2010).
Bước đột phá trong “Chiến lược” sẽ đưa chúng ta thoát khỏi tình trạng lạc lỏng bấy lâu nay để sớm sánh vai với các nước, nhanh chóng tiếp cận mặt tiền khoa học. Song muốn đạt được các mục tiêu trong “Chiến lược” cần có những đột phá mới để khoa học Việt Nam khỏi bị mắc kẹt trong những tư duy, cơ chế và cơ cấu tổ chức bất cập hiện nay.
Hành chính hóa hoạt động nghiên cứu khoa học
Chỉ bám vào nguồn kinh phí duy nhất từ ngân sách nhà nước, lại thiếu chuẩn mực nghiêm túc, hoạt động nghiên cứu khoa học rơi vào tình trạng hành chính hóa, do các quan chức hành chính cầm cân nẩy mực. Họ là những người chưa hề nghiên cứu khoa học, hoặc nếu xuất thân từ giới khoa học, họ sẽ ném ngay “hòn gạch gõ cửa” sau khi lọt vào chốn quan trường (Lỗ Tấn, Khổng Phu tử ở Trung Quốc đời nay, bản dịch Phan Khôi). Đối với nhiều người trong số họ, khoa học giờ đây chỉ còn là chiếc áo khoác bên ngoài, bên trong là danh, quyền và tiền, những cạm bẫy rất ít ai thoát khỏi.
Hành chính hóa nghiên cứu khoa học đặt ra luật chơi hành chính. Đề tài các cấp vận hành theo kiểu hợp đồng kinh tế như ra đầu bài, đấu thầu, tuyển chon, kiểm tra tiến độ v.v…Kinh phí được quyết toán dựa trên số ngày công khai báo cho từng thành viên tham gia, số trang dịch thuật, tiền thuê mướn nhân công, vật tư, hóa chất tiêu hao v.v… Sản phẩm phải mục sở thị như quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn nhà nước, phần mềm, số cơ sở sử dụng các kết quả v.v…. Để được nghiệm thu lại phải có đầy đủ các chứng từ, hóa đơn thanh toán hợp “lệ”. Chỉ có bài báo quốc tế là không đòi hỏi.
Bởi bài báo quốc tế yêu cầu cao hơn hẳn. Đó là phát hiện mới (new findings), tính độc đáo (originality), góp phần đẩy hướng nghiên cứu lên phía trước (significant advances in field) và phương pháp luận hiện đại (state-of- the art approach). Không cần hội đồng đông người, chỉ một trong hai phản biện lắc đầu, bài báo sẽ bị từ chối. Rõ ràng từ đề tài được Bộ KH-CN nghiệm thu đến bài báo quốc tế được chấp nhận là một khoảng cách rất xa, đầy thách thức, nhiều người đành bỏ cuộc vì không còn kinh phí và thời gian, họ phải lao tiếp vào đề tài mới để tồn tại.
Song những đề tài, luận án nói trên lại được dùng làm căn cứ bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư. Theo Quy chế, giáo sư phải hướng dẫn chính ít nhất hai nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, chủ trì ít nhất một đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ hoặc đề tài cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên. Các tân giáo sư sẽ được phân vai mới trong hệ thống hành chính, chủ trì các đề tài, dự án, chương trình nhà nước, có tiếng nói nặng cân hơn trong các hội đồng xét duyệt và nghiệm thu. Cuộc chơi trên sân nhà có thêm vai diễn mới, không thấy hồi kết.
Hành chính hóa nghiên cứu khoa học bộc lộ nhiều lỗ hổng làm nơi ẩn chứa cơ chế xin cho, ban phát, vốn là sản phẩm của thời bao cấp. Thời nay, mỗi đề tài, dự án cấp Bộ trở lên thường được cấp từ hàng trăm triệu đến hàng chục tỷ đồng, nên không còn ai ban phát vô tư nữa, kẻ cho người nhận đều phải biết hành xử theo “luật thị trường”. Có hội đồng khoa học để xét duyệt và nghiệm thu, nhưng hội đồng lại do chính bộ máy hành chính lập ra để dễ dàng hợp thức hóa các ý định của mình. Hội đồng chỉ bàn về học thuật không tham gia xét duyệt kinh phí cho đề tài, việc này thường được dàn xếp giữa người ban phát và người nhận. Tiếng nói chính trực thường là thiểu số và sẽ không có cơ hội trong các lần sau.
Dễ hiểu tại sao nạn gian dối – điều tối kỵ nhất trong khoa học – lại lên ngôi trong những năm gần đây. Khai gian, khai khống các khoản chi là chuyện thường tình. Mọi người đều gian dối nên không ai phải xấu hổ. Bịa số liệu, đạo văn, thuê viết luận án …, ngày càng phổ biến. Nhóm lợi ích hình thành qua các đề tài dự án, che chắn nhau rút ruột kinh phí nhà nước. Phi chuẩn mực và hành chính hóa làm cho môi trường học thuật ở nước ta ngày một tù mù, vàng thau lẫn lộn, nghiên cứu khoa học trở nên tùy tiện, đề tài nào, công trình nào cũng xem là nghiên cứu, hội thảo nào cũng có thể gán thêm mác khoa học. Báo chí và xã hội không phân biệt được thực và giả, nhà khoa học đích thực với những người khoác áo khoa học.
Từ môi trường học thuật này không thể xuất hiện đỉnh cao mà chỉ có số đông làng nhàng, thiếu chuyên nghiệp. Lao vào quan trường là con đường tiến thân độc đạo, số người theo đuổi học thuật đến cùng hiếm dần, thành phần ưu tú ngày càng vắng bóng trong lãnh đạo các viện nghiên cứu, trường đại học và ngay ở những cơ quan đầu não về KH-CN. Rất đông tài năng trẻ được đào tạo bài bản ở nước ngoài không tìm thấy đất dụng võ khi trở về nước. Thực trạng này liệu các nhà lãnh đạo có biết?
Không thành công trong nội địa hóa công nghệ
Nhà nước có chủ trương nội địa hóa công nghệ, nhưng thiếu quyết sách. Hàng điện tử và công nghệ cao là mủi nhọn xuất khẩu, dự kiến đến 2020 kim ngạch lên đến 45% để minh chứng cho mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại của đất nước. Riêng chín tháng đầu năm 2012 kim ngạch xuất khẩu lên đến 15 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch. Song phần lớn là sản phẩm từ các doanh nghiệp nước ngoài, và đằng sau những con số ấn tượng trên là một sự thật ê chề: “trong mặt hàng này các doanh nghiệp Việt Nam nhập 100% linh kiện nước ngoài…, phần nội địa hóa chỉ là vỏ nhựa, thùng các tôn và xốp” (SGGP, 25/9/2012).
Về cơ khí, nội địa hóa công nghiệp ô tô trong hơn hai thập kỷ qua chỉ đạt vài phần trăm (Vneconomy, 03/07/2012), xem như thất bại. Công bằng mà nói, thành tích nội địa hóa công nghệ ấn tượng nhất chính là mấy con tàu trọng tải 50 nghìn tấn được VINASHIN cho hạ thủy và xuất khẩu. Nhưng VINASHIN vỡ nợ, gây hậu quả nghiêm trọng cho đất nước. Các học giả có dịp ném đá vào đống đổ nát mà ít ai quan tâm nhặt ra từ đó bài học nội địa hóa công nghệ thành công hay thất bại.
Có nhiều lợi thế hơn VINASHIN, nhưng TKV và EVN cũng không chịu nội địa hóa công nghệ. Theo Quyết định 167/2007/QĐ- TTg, hàng chục nhà máy chế biến alumina sẽ được xây dựng từ năm 2007 dến 2025 trên Tây Nguyên, nhưng không có từ ngữ nào nhắc đến lộ trình nội địa hóa công nghệ, trong khi Việt Nam sở hữu một tiềm năng bô xít lớn thứ năm thế giới. Chính phủ cũng không yêu cầu TKV hứa hẹn đến bao giờ sẽ có công nghệ Việt Nam. Mẻ alumina đầu tiên đang chậm tiến độ hơn hai năm, và trên thực tế cả đại dự án bô xit đang gặp bế tắc, chính phủ phải rút quy mô chỉ còn hai nhà máy thí điểm. Một kết quả nhãn tiền, bởi không chỉ công nghệ, mà cả khoa học cũng đứng ngoài. Bao nhiêu bài toán kinh tế, kỹ thuật, môi trường, xã hội … chưa được nghiên cứu thấu đáo trước khi ra Quyết định.
Hàng chục nhà máy điện chạy than được EVN xây dựng trên khắp cả nước đều rơi vào tay nhà thầu nước ngoài. Không biết đến bao giờ mới thấy tua bin và máy phát điện do người Việt tự chế tạo. Trong khi đó, EVN đi tắt đến thẳng điện hạt nhân, đề xuất đưa vào vận hành hàng chục lò phản ứng từ 2020 đến 2030. Nhiều ý kiến phản bác hoặc đề nghị đình hoãn kế hoạch mạo hiểm này sau khi xảy ra thảm họa Fukushima. Nhưng chúng đều lọt thỏm trong luồng dư luận phải làm điện hạt nhân mới có quốc phòng mạnh, mới có nước Việt Nam hiện đại vào năm 2020.
Thành ra hiện đại hay không là ở người tiêu dùng. Nói nôm na, với chiếc iphone 5S bên tay lái Mercedes ngày một phổ biến trên các xa lộ nước ta, người Việt cũng hiện đại không kém người Mỹ, người Đức. Đó là nhờ ta biết đi tắt đón đầu, đúng như lời một vị Bộ trưởng dõng dạc thuyết phục Quốc Hội trước đây ba năm: “xây dựng đường sắt cao tốc Bắc –Nam chính là phương án đi tắt đón đầu lên thẳng hiện đại”.
Không có bằng sáng chế
Không có sản phẩm từ công nghệ Việt Nam, bằng sáng chế cũng không có nốt. Việt Nam hầu như không có bằng sáng chế đăng ký ở Mỹ (US Patent and Trademark Office, US PTO). Trong khi đó, năm 2011 Indonesia và Philippines sở hữu hàng chục bằng, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc còn nhiều hơn gấp bội. Báo chí đổ lỗi cho 9000 giáo sư/ phó giáo sư (VietnamNet, 5/11/2012) khiến mọi người có dịp mang các vị ra đàm tiếu mà không biết rằng nghiên cứu khoa học khác nghiên cứu công nghệ. Sản phẩm nghiên cứu khoa học là tài sản chung cho mọi người cùng sử dụng, bằng sáng chế là bí quyết công nghệ của doanh nghiệp được bảo vệ và mua bán thông qua cơ quan đăng ký. Chính doanh nghiệp, chứ không phải tác giả, phải bỏ tiền ra để đăng ký bằng sáng chế và hưởng lợi từ việc mua bán nầy.
Đâu phải làm thơ, nhà khoa học lấy đâu ra bằng sáng chế khi doanh nghiệp không yêu cầu. Thiếu bằng sáng chế chứng tỏ trình độ quá thấp của nền công nghiệp nước nhà. Chúng ta chỉ du nhập công nghệ từ nước ngoài để sản xuất, mà không nội địa hóa để có công nghệ của mình. Nếu cần thay thế công nghệ, doanh nghiệp sẽ đi mua, hơn là đầu tư nghiên cứu.
Tư duy ăn xổi
Dù sao, thiếu bằng sáng chế cũng đặt ra dấu hỏi về tính thiết thực và hiệu quả của nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam hai thuật ngữ khoa học và công nghệ luôn gắn với nhau, thậm chí đồng nhất với nhau trong cùng một khái niệm như thị trường khoa học công nghệ, hội chợ khoa học công nghệ v.v… Chính sự nhập nhằng này trong tư duy làm cho nghiên cứu công nghệ đích thực vẫn là bãi đất trống. Đây là hệ quả của tư duy ăn xổi, muốn nghiên cứu khoa học phải cho ra ngay sản phẩm trên thị trường.
Khoa học và công nghệ hỗ trợ lẫn nhau, nghiên cứu khoa học tạo ra mảnh đất cho công nghệ phát triển, và ngước lại. Tuy nhiên ngay trong số hàng triệu bài báo khoa học công bố hàng năm trên thế giới, rất ít công trình có tiềm năng tạo ra công nghệ hay dịch vụ. Nếu có, còn phải trải qua nhiều khâu, đòi hỏi thời gian, công sức và kinh phí. Kết quả nghiên cứu phải được kiểm nghiệm và củng cố bằng nhiều nghiên cứu mới tiếp theo, bảo đảm chất lượng (QA), prototype, quy mô pilot, thử sai (trial by error) nhiều lần trước khi đưa ra ứng dụng. Tư duy ăn xổi bỏ qua các khâu quan trọng này, nên nghiên cứu khoa học sinh ra những đứa trẻ đẻ non, chết yểu, làm thất thoát nguồn kinh phí lớn của nhà nước. Bao nhiêu đề tài chế tạo thiết bị với tính năng “chẳng kém nước ngoài”, nhưng chỉ là đơn chiếc mang trưng bày ở triển lãm, hội chợ, sau vài năm mất hút. Số trẻ đẻ non, chết yểu này nhiều lắm, cứ chọn ra một số đề tài, dự án lớn được Bộ KHCN nghiệm thu từ 5 đến 10 năm trước đây sẽ thấy ngay.
Tư duy ăn xổi không thể tạo ra những đỉnh cao khoa học, những hướng nghiên cứu mũi nhọn có thể sớm bứt phá lên mặt tiền khoa học thế giới. Các quan chức muốn thấy thành tích ngay trong nhiệm kỳ của mình, lại phải ban phát, rải đều quả thực cho mọi người, năm nay anh có đề tài, sang năm đến lượt anh khác, người làm khoa học giống như dân du canh, không chuyên sâu vào một hướng nhất định. Trong khi đó, khoa học phát triển được nhờ tích lũy và kế thừa, công trình đẻ ra công trình, thành công lẫn thất bại trong công trình trước đều để lại dấu ấn trong các công trình sau. Biết tích lũy và kế thừa, tri thức sẽ tăng tốc theo cấp số nhân, được lưu lại trong đầu con người qua các thế hệ, trở thành một dạng chứng khoán (stock) của các doanh nghiệp, thành truyền thống của phòng thí nghiệm và hình hài của nền khoa học.
Qua cơ chế tích lũy và kế thừa, người tài mới xuất hiện, người khác đứng trên vai họ (stand on the shoulder of giants) để nhìn rõ chân trời phía trước. Nhờ đó các nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành và phát triển, các thế hệ khoa học sinh ra và trưởng thành nối tiếp nhau. Theo “Chiến lược”, năm 2020 nước ta sẽ có 60 nhóm nghiên cứu mạnh. Hy vọng họ, và những người lãnh đạo của họ, sẽ làm nên hình hài nền khoa học nước nhà. Thế giới sẽ biết khoa học Việt Nam qua họ. Các thế hệ tương lai sẽ nhớ đến thế hệ hiện nay qua các công trình khoa học của họ.
Mấy bước đột phá thay lời kết
Chỉ cần cố gắng làm giống như các nước khác, KH-CN Việt Nam sẽ thoát ra khỏi tình trạng hiện nay. Nghiên cứu khoa học chỉ được xem là đích thực khi tìm ra tri thức mới. Những người cầm quân, như giáo sư, chỉ được bổ nhiệm khi có chỗ đứng nhất định trên mặt tiền khoa học. Công bố quốc tế phải được dùng làm thước đo thay cho các chuẩn mực hành chính. Làm được những việc này sẽ tạo ra bước đột phá lớn đẩy lùi tệ nạn xin cho, ban phát và những tiêu cực trong môi trường học thuật hiện nay.
Sản phẩm nghiên cứu khoa học là đỉnh cao văn hóa, làm tăng vốn tri thức của đất nước, tác động đến chính sách và nâng cao mặt bằng dân trí, từ đó tạo nên sức mạnh tác động đến phát triển kinh tế xã hội. Trường đại học là nơi gánh vác tốt nhất sứ mạng này. Từ trường đại học tri thức khoa học lan tỏa ra cộng đồng, do đó phải tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên – những người lan tỏa tri thức – được tiếp thu tri thức mới trực tiếp từ những nhà khoa học có chỗ đứng trên mặt tiền khoa học. Nghĩa là phải ưu tiên tập trung nghiên cứu khoa học về các trường đại học và xây dựng lên tại đây những nhóm nghiên cứu mạnh. Chúng ta đã bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội rồi, giờ đây không được chậm trễ nữa.
Nghiên cứu công nghệ khác với nghiên cứu khoa học và cần có chỗ đứng trong phát triển kinh tế. Nên cho qua đi niềm tự hào Việt Nam là nơi thu hút vốn FDI, ODA nhiều nhất, thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất…. Không thể mãi mãi làm người tiêu thụ mà phải bước lên bục cao hơn của những người tạo ra tiện ích cho xã hội. Con đường duy nhất là nội địa hóa công nghệ, sau đó tiến lên đổi mới để cạnh tranh. Cho nên rất cần một quyết sách từ phía nhà nước, đừng để doanh nghiệp mãi chạy theo lợi nhuận trước mắt mà quên lợi ích lâu dài của dân tộc. Và sau quyết sách là tầm nhìn và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo KH-CN. Bởi tìm ra cách đi hợp lý trước trăm bề ngổn ngang hiện nay, thật không dễ chút nào.
P.D.H.
1399. Một bức thư ngụy tạo, bịa đặt tác giả là tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và tướng Đồng Sĩ Nguyên
Đôi lời: Vào hồi 16h chiều 19/11/2012, hộp thư của trang BS nhận được một email, từ địa chỉ không quen biết, một bức thư đứng tên hai vị tướng có nội dung phê phán Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Chúng tôi đã có lời bình như sau: “… Nội dung thư tố cáo CTN TTS đã ‘lừa’ hai vị tướng ‘ký đơn kiến nghị xử lý kỷ luật đồng chí Nguyễn Tấn Dũng trước HNTW6″. Thư còn tố cựu TBT Lê Khả Phiêu cùng CTN TTS “đã tổ chức nhiều cuộc vận động, thông qua các vị lão thành cách mạng khác và trực tiếp gặp chúng tôi để cung cấp nhiều thông tin sai lệch về cá nhân và gia đình đồng chí Nguyễn Tấn Dũng …’ và nhiều vấn đề khác, tuy không đưa ra bằng cớ cụ thể nào nhưng lại đều có tính chất rất nghiêm trọng. Chúng tôi đã liên lạc với người thân của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh để nhờ xác minh trực tiếp, thì được trả lời: bức thư này hoàn toàn là ngụy tạo.”
8h40′ sáng 20/11/2012, chúng tôi được gia đình tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cho biết, đã có một trang mạng đăng lại bức thư này mà không có lời xác nhận là bức thư ngụy tạo. Do vậy, để tránh sự hiểu lầm nguy hiểm, gia đình tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã đề nghị đăng tải bức thư cùng lời khẳng định như trên.
Một điều thú vị mà có lẽ những kẻ ngụy tạo bức thư không tính đến, đó là cũng trong ngày 18/11/2012, là ngày ra đời bức thư, tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã có một bài viết bàn về chính những vấn đề của ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, mà đọc nội dung sẽ thấy nó tự nhiên phủ nhận hoàn toàn bức thư ngụy tạo kia: Tiếng nói của một lão tướng – Văn hóa từ chức và lòng tự trọng (BoxitVietnam).
Việt-Trung cam kết tăng cường quan hệ giữa tranh chấp Biển Đông
19.11.2012 - VOA
Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục cam kết phát huy hơn nữa quan
hệ đối tác song phương dù tranh cãi ngoại giao giành chủ quyền ở Biển
Đông giữa đôi bên vẫn đang tiếp diễn.Cam kết được đưa ra hôm 17/11 sau cuộc gặp giữa Ủy viên Thường vụ Bộ chính trị kiêm Bí thư Ban Bí thư Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, Lưu Vân Sơn, với Ủy viên Trung ương đảng cộng sản Việt Nam kiêm Trưởng ban Đối ngoại trung ương và cũng là đặc phái viên của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, ông Hoàng Bình Quân, nhân dịp ông Quân sang Bắc Kinh chúc mừng đại hội đảng Trung Quốc kết thúc thành công.
Ông Lưu Vân Sơn nói Trung Quốc đánh giá cao mối quan hệ giữa hai đảng cộng sản Việt-Trung và sẽ cùng Việt Nam duy trì đường hướng phát triển đúng đắn mối bang giao song phương và phát huy đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
Đáp lại, ông Hoàng Bình Quân nhấn mạnh Việt Nam sẵn sàng bắt tay với Trung Quốc để tăng cường tin cậy lẫn nhau, phát huy hợp tác, và đẩy quan hệ đôi bên lên một tầm cao mới.
Dù giới lãnh đạo hai nước Việt-Trung liên tục khẳng định quyết tâm thắt chặt hữu nghị giữa đảng và chính phủ hai nước, tranh chấp chủ quyền đôi bên chưa có dấu hiệu lắng dịu.
Bắc Kinh không ngừng các hành động cụ thể dành chủ quyền ở Biển Đông giữa những tuyên bố phản đối của Hà Nội và thái độ bài Trung Quốc ngày càng dâng cao tại Việt Nam bất chấp những biện pháp mạnh tay của chính quyền.
Gần đây, Hà Nội lần lượt bắt giam hoặc tuyên án nhiều nhà hoạt động chống Trung Quốc như trường hợp của blogger Điếu Cày, nhạc sĩ Việt Khang, hay sinh viên Nguyễn Phương Uyên.
Nguồn: Xinhua, China.org, Chinhphu.vn
Phản ứng của dân Miến Điện về diễn văn của Tổng thống Obama
RANGOON — Bài diễn văn của Tổng thống Barack Obama đọc tại
Đại học Rangoon của Miến Điện, về phần lớn đã được đánh giá là bài diễn
văn gợi nhiều cảm hứng, ủng hộ cho cải cách chính trị.
Bài diễn văn của Tổng thống Obama đã được nhiều nhân vật có ảnh hưởng ở Miến Điện ca tụng là ủng hộ các cải cách dân chủ tuy mới mẻ nhưng đầy ấn tượng của nước này.
Tổng Thống Obama ngỏ lời chúc mừng Miến Điện đã chuyển sang chế độ cai trị dân sự, trả tự do cho hàng trăm tù chính trị, và nới lỏng những hạn chế đối với các hoạt động truyền thông. Ông nói Hoa Kỳ sẽ là một đối tác cho Miến Điện trên con đường cải cách.
Tuy nhiên nhà lãnh đạo Mỹ lưu ý rằng hãy còn một số tù nhân lương tâm bị cầm tù, và nêu lên những thách thức do tình trạng nghèo đói, cũng như trong việc giải quyết các cuộc nổi dậy của các nhóm sắc tộc.
Chủ tịch Hội Phụ nữ Tàn tật Nge Nge Aye Maung nhận định rằng bài diễn văn của Tổng Thống Obama rất có ý nghĩa đối với Miến Điện.
“Đây là một bài diễn văn hay tuyệt vời và là một khích lệ cho nhân dân Miến Điện chúng tôi, may ra sau này nước Miến Điện cổ xưa này sẽ chuyển biến để trở thành một nước Miến Điện mới”.
Tổng thống Obama còn kêu gọi hãy tôn trọng nhân phẩm của người Rohingya, một sắc tộc thiểu số theo Hồi giáo cư ngụ ở bang Rakhine ở miền Tây Miến Điện, là thành phần bị coi là vô tổ quốc.
Các cuộc xung đột giữa nhóm Hồi giáo Rohingya và những người theo đạo Phật ở bang Rakhine trong năm nay đã làm thiệt mạng ít nhất 170 người và đẩy hơn 100.000 người vào cảnh vô gia cư, trong số này, hầu hết là các tín đồ Hồi giáo.
Nhà hoạt động cho hòa bình liên tôn Thin Zar Khin Myo Win, một tín đồ Hồi giáo, tỏ vẻ xúc động vì những phát biểu của Tổng thống Obama về giá trị của tự do ngôn luận và tự do thờ phượng, và sự chấp nhận tính đa dạng của nhau. Ông nói:
“Vì ông nói rằng phải tận dụng tính đa dạng để phát triển quốc gia – lời phát biểu ấy rất khích lệ, đây là những điểm rất hay cho nhân dân Miến Điện chúng tôi.”
Nhiều người ở Miến Điện coi người Hồi giáo Rohingya là di dân bất hợp pháp đến từ Bangladesh. Họ bị tước quyền công dân dựa trên một đạo luật năm 1982, và thường được đề cập tới với những ngôn từ có tính xúc phạm trên các phương tiện truyền thông chính thức.
Phát ngôn viên của Đảng Phát triển các Dân tộc Rakhine, ông Oo Hla Saw, cho rằng những nhận định của Tổng thống Obama về bang Rakhine không được chính xác. Ông nói:
“Những lời bình luận của ông Obama rất xa thực tế so với những gì xảy ra tại hiện trường – cả về mặt lịch sử, kinh tế và chính trị. Cho nên chúng tôi lấy làm vô cùng thất vọng về những phát biểu của ông.”
Ông Ko Ko Gyi là một cựu tù nhân chính trị, đã tham gia cuộc nổi dậy đòi dân chủ của giới sinh viên hồi năm 1988.
Ông nói một giải pháp cho cuộc xung đột phải do chính các công dân Miến điện định đoạt. Nhưng ông nói thêm rằng được sự hỗ trợ và cảm thông của vị Tổng Thống quốc gia hùng mạnh nhất thế giới cũng như của cộng đồng quốc tế cho những cải cách của Miến Điện, là điều rất quan trọng.
Tổng Thống Obama nói hậu thuẫn tất cả mọi thành phần bên trong các ranh giới Miến Điện không phải là một sự mềm yếu, mà là một sức mạnh.
Bài diễn văn của Tổng thống Obama đã được nhiều nhân vật có ảnh hưởng ở Miến Điện ca tụng là ủng hộ các cải cách dân chủ tuy mới mẻ nhưng đầy ấn tượng của nước này.
Tổng Thống Obama ngỏ lời chúc mừng Miến Điện đã chuyển sang chế độ cai trị dân sự, trả tự do cho hàng trăm tù chính trị, và nới lỏng những hạn chế đối với các hoạt động truyền thông. Ông nói Hoa Kỳ sẽ là một đối tác cho Miến Điện trên con đường cải cách.
Tuy nhiên nhà lãnh đạo Mỹ lưu ý rằng hãy còn một số tù nhân lương tâm bị cầm tù, và nêu lên những thách thức do tình trạng nghèo đói, cũng như trong việc giải quyết các cuộc nổi dậy của các nhóm sắc tộc.
Chủ tịch Hội Phụ nữ Tàn tật Nge Nge Aye Maung nhận định rằng bài diễn văn của Tổng Thống Obama rất có ý nghĩa đối với Miến Điện.
“Đây là một bài diễn văn hay tuyệt vời và là một khích lệ cho nhân dân Miến Điện chúng tôi, may ra sau này nước Miến Điện cổ xưa này sẽ chuyển biến để trở thành một nước Miến Điện mới”.
Tổng thống Obama còn kêu gọi hãy tôn trọng nhân phẩm của người Rohingya, một sắc tộc thiểu số theo Hồi giáo cư ngụ ở bang Rakhine ở miền Tây Miến Điện, là thành phần bị coi là vô tổ quốc.
Các cuộc xung đột giữa nhóm Hồi giáo Rohingya và những người theo đạo Phật ở bang Rakhine trong năm nay đã làm thiệt mạng ít nhất 170 người và đẩy hơn 100.000 người vào cảnh vô gia cư, trong số này, hầu hết là các tín đồ Hồi giáo.
Nhà hoạt động cho hòa bình liên tôn Thin Zar Khin Myo Win, một tín đồ Hồi giáo, tỏ vẻ xúc động vì những phát biểu của Tổng thống Obama về giá trị của tự do ngôn luận và tự do thờ phượng, và sự chấp nhận tính đa dạng của nhau. Ông nói:
“Vì ông nói rằng phải tận dụng tính đa dạng để phát triển quốc gia – lời phát biểu ấy rất khích lệ, đây là những điểm rất hay cho nhân dân Miến Điện chúng tôi.”
Nhiều người ở Miến Điện coi người Hồi giáo Rohingya là di dân bất hợp pháp đến từ Bangladesh. Họ bị tước quyền công dân dựa trên một đạo luật năm 1982, và thường được đề cập tới với những ngôn từ có tính xúc phạm trên các phương tiện truyền thông chính thức.
Phát ngôn viên của Đảng Phát triển các Dân tộc Rakhine, ông Oo Hla Saw, cho rằng những nhận định của Tổng thống Obama về bang Rakhine không được chính xác. Ông nói:
“Những lời bình luận của ông Obama rất xa thực tế so với những gì xảy ra tại hiện trường – cả về mặt lịch sử, kinh tế và chính trị. Cho nên chúng tôi lấy làm vô cùng thất vọng về những phát biểu của ông.”
Ông Ko Ko Gyi là một cựu tù nhân chính trị, đã tham gia cuộc nổi dậy đòi dân chủ của giới sinh viên hồi năm 1988.
Ông nói một giải pháp cho cuộc xung đột phải do chính các công dân Miến điện định đoạt. Nhưng ông nói thêm rằng được sự hỗ trợ và cảm thông của vị Tổng Thống quốc gia hùng mạnh nhất thế giới cũng như của cộng đồng quốc tế cho những cải cách của Miến Điện, là điều rất quan trọng.
Tổng Thống Obama nói hậu thuẫn tất cả mọi thành phần bên trong các ranh giới Miến Điện không phải là một sự mềm yếu, mà là một sức mạnh.
Miến Điện hay Myanmar?
RFA 19.11.2012
Liên quan đến chuyến viếng thăm Miến Điện kéo dài chỉ ít giờ đồng hồ mà Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama mới thực hiện ngày hôm qua.
Một số quốc gia gọi Myanamar là Myanmar, một số nước khác lại gọi Myanmar là Miến Điện. Riêng với Tổng Thống Hoa Kỳ thì ông dùng cả hai.
Bằng chứng là hôm qua khi đứng bên cạnh Tổng Thống Thein Sein, ông Obama gọi Myanmar là Myanmar, nhưng sau đó khi đến thăm lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi, ông lại gọi Myanamar là Miến Điện.
Gọi thế nào là đúng? Câu trả lời là tùy từng quốc gia. Điển hình là Nhà Trắng nói rõ chính phủ Hoa Kỳ chỉ dùng từ Miến Điện, không gọi là Myanmar.
Khoảng 20 năm trước đây, các tướng lãnh cầm quyền quyết định đổi tên nước từ Miến Điện sang Myanmar, lấy lý do tên cũ nhắc lại thời đất nước này còn là thuộc địa của Anh Quốc, và không tiêu biểu cho tình đoàn kết quốc gia vì Miến Điện không chỉ có sắc dân Miến mà còn là tập hợp của nhiều sắc tộc thiểu số khác.
Quyết định này gặp sự chống đối của tập thể người Miến lưu vong và lực lượng bất đồng chính kiến trong nước, cho rằng các tương lãnh muốn thành lập một quốc gia mới, xóa bỏ hẳn lịch sử của quốc gia và của người dân Miến.
Từ đó đến giờ, những nước ủng hộ thành phần tranh đấu cho tự do dân chủ Miến Điện vẫn gọi theo tên cũ, chẳng hạn như Hoa Kỳ gọi là Miến Điện, không dùng tên Myanmar.
Vài tháng trước đây khi lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi ghé thăm Hoa Kỳ, câu hỏi nên gọi nước bà là Miến Điện hay Myanmar đã được giới truyền thông Mỹ đặt ra. Câu trả lời của bà là xin tiếp tục gọi là Miến Điện, bảo thêm tên Myanmar là tên do các tướng lãnh đặt, bắt dân chúng phải tuân theo.
Liên quan đến chuyến viếng thăm Miến Điện kéo dài chỉ ít giờ đồng hồ mà Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama mới thực hiện ngày hôm qua.
Một số quốc gia gọi Myanamar là Myanmar, một số nước khác lại gọi Myanmar là Miến Điện. Riêng với Tổng Thống Hoa Kỳ thì ông dùng cả hai.
Bằng chứng là hôm qua khi đứng bên cạnh Tổng Thống Thein Sein, ông Obama gọi Myanmar là Myanmar, nhưng sau đó khi đến thăm lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi, ông lại gọi Myanamar là Miến Điện.
Gọi thế nào là đúng? Câu trả lời là tùy từng quốc gia. Điển hình là Nhà Trắng nói rõ chính phủ Hoa Kỳ chỉ dùng từ Miến Điện, không gọi là Myanmar.
Khoảng 20 năm trước đây, các tướng lãnh cầm quyền quyết định đổi tên nước từ Miến Điện sang Myanmar, lấy lý do tên cũ nhắc lại thời đất nước này còn là thuộc địa của Anh Quốc, và không tiêu biểu cho tình đoàn kết quốc gia vì Miến Điện không chỉ có sắc dân Miến mà còn là tập hợp của nhiều sắc tộc thiểu số khác.
Quyết định này gặp sự chống đối của tập thể người Miến lưu vong và lực lượng bất đồng chính kiến trong nước, cho rằng các tương lãnh muốn thành lập một quốc gia mới, xóa bỏ hẳn lịch sử của quốc gia và của người dân Miến.
Từ đó đến giờ, những nước ủng hộ thành phần tranh đấu cho tự do dân chủ Miến Điện vẫn gọi theo tên cũ, chẳng hạn như Hoa Kỳ gọi là Miến Điện, không dùng tên Myanmar.
Vài tháng trước đây khi lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi ghé thăm Hoa Kỳ, câu hỏi nên gọi nước bà là Miến Điện hay Myanmar đã được giới truyền thông Mỹ đặt ra. Câu trả lời của bà là xin tiếp tục gọi là Miến Điện, bảo thêm tên Myanmar là tên do các tướng lãnh đặt, bắt dân chúng phải tuân theo.
Dốt hay nói chữ
Nguyễn Thông
Chả biết có dốt thật không nhưng giở ra trang 13, chuyên mục Khoa học-Giáo dục của báo in Đại đoàn kết,
đọc cái tít bài ở mục Sổ tay, mình cứ ôm bụng cười. Chết cười. Các vị
ấy xài thành ngữ Hán Việt, viết là “Trúng khẩu đồng từ”. Mình tặc lưỡi,
có khi nó chỉ sai ở cái tít, nhưng đọc xuống phía dưới vẫn là “trúng
khẩu đồng từ”. Kiểm tra kỹ trên bản online vưỡn thế. Than ôi, đội ngũ
làm báo nước nhà đã đến hồi tệ vậy chăng.
Đây là cái thành ngữ hầu như ai có chút ít kiến thức Hán Nôm cũng biết, viết ra chữ Việt là “Chúng khẩu đồng từ”. Theo Hán Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh thì “chúng khẩu đồng từ” có nghĩa “nhiều người mà cùng một lời”, còn sáng tạo như báo Đại đoàn kết thành “trúng khẩu” thì có nhẽ người đọc cấm khẩu, á khẩu, trúng gió, mắc cái họng luôn. Thiệt hết biết.
Đây là nguyên xi đoạn đầu bài báo trên bản điện tử daidoanket online mà mình copy lại, ngày mai mình sẽ chụp toàn bộ bài báo in đưa lên cho bà con cùng chiêm ngưỡng, kẻo bảo mình nói xấu báo Đại đoàn kết.
Đây là cái thành ngữ hầu như ai có chút ít kiến thức Hán Nôm cũng biết, viết ra chữ Việt là “Chúng khẩu đồng từ”. Theo Hán Việt từ điển của cụ Đào Duy Anh thì “chúng khẩu đồng từ” có nghĩa “nhiều người mà cùng một lời”, còn sáng tạo như báo Đại đoàn kết thành “trúng khẩu” thì có nhẽ người đọc cấm khẩu, á khẩu, trúng gió, mắc cái họng luôn. Thiệt hết biết.
Đây là nguyên xi đoạn đầu bài báo trên bản điện tử daidoanket online mà mình copy lại, ngày mai mình sẽ chụp toàn bộ bài báo in đưa lên cho bà con cùng chiêm ngưỡng, kẻo bảo mình nói xấu báo Đại đoàn kết.
|
||||||||
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét