Khi
Đông Á đang nỗ lực đối phó những thách thức an ninh biển đang gia tăng ở
khu vực Tây Thái Bình Dương – bao gồm thay đổi cán cân quyền lực, căng
thẳng tranh chấp trên biển và bất đồng cơ bản về cách giải thích Luật
Biển – có ba câu chuyện mới sẽ góp phần xác định lại cấu trúc địa chính
trị khu vực.
Câu
chuyện thứ nhất là sự công nhận ngày càng rộng rãi về việc các vấn đề
an ninh biển ở Đông Á phải được giải quyết trong khuôn khổ rộng hơn của
khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Thứ hai là sự suy yếu của Mỹ, nước bảo
đảm an ninh chính ở Ấn Độ Dương và Thái Bình dương trong suốt nhiều thập
niên qua. Thứ ba là sự thay đổi trong định hướng biển của Ấn Độ, từ một
tác nhân đơn lẻ sang một đối tác sẵn sàng xây dựng liên minh trên biển.
Kết
hợp ba luồng xu hướng này mở ra không gian cho Delhi và Canberra tích
cực tham vấn nhau hơn về các vấn đề trên biển và xác lập khuôn khổ hợp
tác an ninh trong các vùng biển đang biến động không ngừng ở châu Á.
Theo
truyền thống, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương luôn được coi là hai thế
giới khác nhau và độc lập với nhau. Những diễn biến gần đây bắt đầu củng
cố quan điểm thống nhất hơn về Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Tăng
trưởng cao của Đông Á đã tạo ra những mối liên kết kinh tế vững chắc hơn với khu vực Tây Á và với châu Phi giàu tài nguyên.
Không
giống như nhiều nước Đông Á phải phụ thuộc vào Mỹ để duy trì trật tự
tại vùng biển sâu của châu Á, Trung Quốc đang xây dựng một lực lượng hải
quân có tiềm lực và độc lập để đảm bảo các lợi ích mới của mình ở Ấn Độ
Dương.
Bắc
Kinh cũng đang phát triển các hành lang vận tải biển và đường ống dẫn
dầu từ Ấn Độ Dương qua Tây và Tây Nam Trung Quốc. Nước này cũng tích cực
xây dựng các cơ sở hạ tầng hàng hải chiến lược ở Ấn Độ Dương.
Mặt
khác, khi quan hệ thương mại và kinh tế của Ấn Độ với Đông Á có trọng
lượng lớn hơn, chính sách "Hướng Đông" của New Delhi cũng đã bao gồm một
quy mô hải quân lớn hơn.
Những
khác biệt rõ rệt trước đây giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương sau đó
cũng đang bắt đầu mờ dần. Trong khi Ấn Độ - Thái Bình Dương luôn có
những tiểu vùng nhỏ, mỗi vùng lại có những vấn đề an ninh đặc trưng, thì
sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ đã mang đến một đặc điểm địa chính
trị rõ ràng.
Nếu
như sự trỗi dậy của các cường quốc mới ở Đông Á là một phần trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra trong hệ thống quốc tế, thì sự suy
giảm tương đối nhanh của Mỹ trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và tài
chính đã lan rộng ra cả thế giới từ năm 2007 cũng vậy.
Những
nghi ngờ về tính bền vững và độ tin cậy của các liên minh với Mỹ ở khu
vực Ấn Độ - Thái Bình Dương vì thế cũng không tránh khỏi nảy sinh. Giờ
đây Washington đang phải đối mặt với những thách thức thực sự trong việc
đảm bảo hài hòa các nguồn lực tài chính và quân sự đang dần eo hẹp với
các cam kết ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Chắc
chắn, Mỹ sẽ vẫn là một thế lực quân sự hùng mạnh nhất ở châu Á trong
thời gian dài tới. Tuy nhiên, sự hiện diện từ sớm của Mỹ ở Ấn Độ - Thái
Bình Dương sẽ gặp khó khăn do hoạt động chạy đua tăng cường tiềm lực
quân sự hiện đại trong khu vực và việc theo đuổi chiến lược hai mặt của
các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là Trung Quốc và Iran.
Washington
vẫn liên tục khẳng định sẽ vẫn duy trì vai trò "cường quốc khu vực" ở
Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, và chính quyền Obama đã hiện thực
hóa các tuyên bố đó bằng việc ra sức tập trung các hoạt động ngoại giao
với châu Á trong hai năm qua.
Mỹ
đang tái bố trí lại lực lượng quân đội ở Ấn Độ - Thái Bình Dương để
nâng cao tính hiệu quả, điều chỉnh lại học thuyết quân sự nhằm đối phó
với các thách thức mới xuất phát từ thực tế như việc từ chối tiếp nhận
các căn cứ quân sự Mỹ của một số nước hay sắp xếp lại các quan hệ đối
tác an ninh.
Củng
cố các liên minh truyền thống với Nhật bản và Australia và xây dựng
quan hệ đối tác an ninh mới với các nước như Ấn Độ cũng trở thành trọng
tâm trong chiến lược mới của Mỹ, như một biện pháp để chia sẻ gánh nặng.
Chuyển hướng chiến lược biển của Delhi một mở ra một nền tảng hoàn hảo
cho cách tiếp cận mới này của Mỹ với Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Ấn
Độ nằm ở vị trí trung tâm trong chiến lược an ninh của Anh ở Ấn Độ
Dương từ cuối thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 20. Ấn Độ cung cấp các nguồn lực
vô cùng cần thiết để duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực Ấn Độ -
Thái Bình Dương trong thời cai trị của Anh.
Sau
khi giành độc lập và phân chia lãnh thổ năm 1947 (thành Liên bang Ấn Độ
và Lãnh thổ tự trị Pakistan), Ấn Độ phải tập trung bảo vệ biên giới đất
liền mới với Pakistan và Trung Quốc. Chính sách kinh tế hướng nội và
chính sách đối ngoại không liên kết các khiến cho vấn đề biển không được
coi trọng tại Ấn Độ.
Trong
chiến tranh lạnh, Ấn Độ theo chủ trương không can thiệp quân sự và yêu
cầu các cường quốc rời khỏi Ấn Độ Dương và để cho các quốc gia ven biển
đang phát triển của khu vực tự quyết định hệ thống an ninh cho mình.
Cách
tiếp cận thiếu thực tế của Delhi ở Ấn Độ Dương bắt đầu thay đổi từ
những năm 1990 khi Ấn Độ mở cửa nền kinh tế và nối lại liên lạc với các
nước láng giềng Ấn Độ Dương và các cường quốc hải quân lớn trên thế
giới.
Khi
Ấn Độ đã trở thành một quốc gia thương mại, như Trung Quốc trước đó,
chính sách an ninh quốc gia của Ấn Độ hiển nhiên cũng sẽ đặt trọng tâm
vào an ninh biển. Nhập khẩu năng lượng và tài nguyên khoáng sản, cũng
như xuất khẩu hàng hóa ra các thị trường rải rác trên thế giới của Ấn Độ
giờ đây phụ thuộc rất lớn vào vận tại biển, nghĩa là Ấn Độ chắc chắn
cũng sẽ phải tính đến việc phát triển lực lượng hải quân.
Quan
trọng không kém là sự thay đổi thái độ của Ấn Độ đối với vấn đề hợp tác
quốc tế về biển. Kết thúc chiến tranh lạnh, Delhi sử từ bỏ chính sách
không can thiệp quân sự và chấp nhận sự hiện diện của quân đội nước
ngoài ở Ấn Độ Dương. Ấn Độ bắt đầu nhấn mạnh vấn đề can dự hải quân và
hợp tác trên biển với tất cả các cường quốc, nhất là Mỹ. Ấn Độ cũng chủ
trương mở rộng các liên kết hàng hải đã có từ với các quốc đảo nhỏ ở Ấn
Độ Dương và hợp tác với các tác nhân lớn trong khu vực dựa trên khuôn
khổ song phương và đa phương.
Từ
bỏ quan điểm truyền thống phản đối hành động quân sự bên ngoài khuôn
khổ Liên hợp quốc, Ấn Độ đã bắt đầu tham gia vào các chiến dịch chung,
đáng kể nhất là chiến dịch cứu trợ sau trận sóng thần ở Ấn Độ Dương cuối
năm 2004.
Ấn
Độ còn từng bước tăng cường các cuộc tập trận hải quân đa bên, với sự
tham gia của Mỹ và các đồng minh châu Á. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa Ấn Độ đã chấm dứt mục tiêu tự chủ chiến lược hay từ bỏ nguyên tắc
chính sách đối ngoại độc lập.
Delhi
đã đưa vào những lý thuyết cũ ấy một cách nhìn thực tế hơn, tập trung
phát triển cách tiếp cận mang tính hợp tác về vấn đề an ninh trên biển
tại Ấn Độ - Thái Bình Dương. Với tiềm lực kinh tế và hải quân ngày một
vững chắc, Ấn Độ đã tự tin hơn trong tư duy về không gian đại dương xung
quanh mình.
Không
gian an ninh của Ấn Độ trước đây được xác định trong phạm vi từ vịnh
Eden đến Malacca. Hiện tại, khu vực nằm trong an ninh quốc gia của Ấn Độ
không còn gói gọn từ eo biển Malacca trở lại nữa mà đã mở rộng sang cả
Biển Đông.
Quyết
tâm làm sâu sắc quan hệ hợp tác hải quân với Việt Nam của Delhi, cam
kết tiến hành thăm dò dầu khí ở vùng biển của Việt Nam bất chấp sự phản
đối của Trung Quốc, ủng hộ mạnh mẽ giải quyết hòa bình các tranh chấp
lãnh thổ trên Biển Đông, và nhấn mạnh tự do đi lại trên Tây Thái Bình
Dương đã thu hút nhiều sự quan tâm ở Đông Á. Lợi ích mới của Ấn Độ ở
Thái Bình Dương cũng giống như lợi ích của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương. Ấn
Độ không muốn đối đầu với Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương hay cản trở
nước này hiện diện trên Ấn Độ Dương. Ấn Độ tìm kiếm một trật tự trên Ấn
Độ - Thái Bình Dương để làm sao các không gian chung trên biển ở châu Á
luôn mở cửa và có thể tiếp cận cho tất cả các bên và không bên nào được
lấy làm lãnh thổ dù dưới danh nghĩa chủ nghĩa dân tộc hay yêu sách lịch
sử.
Ấn
Độ và Australia đều là hai quốc gia thương mại, kế thừa truyền thống
Anglo-Saxon về hệ thống Thông luật và định hướng biển. Hai nước cũng
chia sẻ nhiều giá trị chung của chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp và đa
nguyên chính trị.
Không
giống như trong Chiến tranh Lạnh, khi Delhi và Canberra còn bất đồng,
thường rất gay gắt, về Ấn Độ Dương, giờ đây họ có chung lợi ích trong
việc củng cố ổn định và an ninh trên Ấn Độ - Thái Bình Dương, hài hòa
với các nước khác.
Ấn
Độ và Australia đã tuyên bố mong muốn triển hợp tác an ninh trên biển.
Tuy nhiên, sự biến đổi mau lẹ trong thực tiễn địa chính trị ở Ấn Độ -
Thái Bình Dương đòi hỏi Delhi và Canberra phải nhanh chóng biến tư duy
ấy thành những hành động chính sách quyết định.
Ấn
Độ và Australia phải thiết lập cơ chế tham vấn và phối hợp chung trong
các diễn đàn hiện nay như Tổ chức Hợp tác khu vực vành đai Ấn Độ Dương
(IOR-ARC) và Hội nghị Chuyên đề Hải quân ở Ấn Độ Dương (IONS).
Tổ
chức IOR-ARC, với sự tham gia của 18 quốc gia ven biển, có mục tiêu
củng cố sâu sắc quan hệ hợp tác kinh tế trong khu vực Ấn Độ Dương, nhưng
còn rất yếu ớt. Delhi, hiện đang giữ chức chủ tịch, và Canberra, chủ
tịch luân phiên tiếp theo, sẽ có cơ hội đưa thêm sức sống và quyết tâm
vào IOR-ARC trong những năm tới đây.
IONS
là sáng kiến gần đây của Ấn Độ, tập hợp các Tham mưu trưởng Hải quân
các quốc gia ven biển để trao đổi và hợp tác chuyên môn về các vấn đề
liên quan tới an ninh trên biển.
Cuối
cùng, khu vực Ấn Độ Dương quá rộng lớn và đa dạng nên không thể tự đặt
mình vào một khuôn khổ thể chế bao quát toàn bộ duy nhất nhất trong
tương lai gần. Thay vì cố gắng thiết kế cấu trúc cho Ấn Độ Dương, khu
vực có thể xây dựng dựa trên ý tưởng của Bộ trưởng Ngoại giao Australia
Kevin Rudd về "tiến bộ từng bước" thông qua "hợp tác chức năng".
Đóng
vai trò trung tâm trong việc tạo dựng một bản sắc toàn khu vực ở Ấn Độ
Dương là sự hợp tác tích cực và lâu dài giữa Ấn Độ, Australia và các
quốc gia ven biển cùng chung lý tưởng khác.
Đình Ngân dịch từ The Asialink Essays 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét