Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 19 tháng 5, 2011

545. Thách thức đối với Việt Nam: chuỗi cung ứng

545. Thách thức đối với Việt Nam: chuỗi cung ứng

Đăng bởi anhbasam on 19/05/2011

Bankok Post

Weekly Link

Thách thức đối với Việt Nam: chuỗi cung ứng

Ngày 18 tháng 5 năm 2011
Việt Nam là một trong những câu chuyện ấn tượng nhất về tăng trưởng trong vòng hai thập kỷ qua trên thế giới. Đặc biệt, đất nước này từ 10 năm nay đã hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và đang trở thành một địa chỉ kinh doanh hấp dẫn. Tuy vậy, nền kinh tế hiện đang đối mặt với những nhược điểm và thách thức từ bên trong, điều này được thể hiện ra ngoài ở khả năng cạnh tranh thấp về nhiều mặt. Mặt khác, những đổi thay nhanh chóng và phức tạp ở bên ngoài đang tác động tới nền kinh tế mở cửa của Việt Nam theo những chiều hướng cần lưu ý.
Những vấn đề chính của chuỗi cung ứng: Vietnam Competitiveness Review [Nghiên cứu Cạnh tranh Việt Nam] đưa ra một đánh giá chi tiết về những điểm mạnh và điểm yếu của đất nước này. Được xuất bản gần đây bởi các chuyên gia của Viện Nghiên cứu Cạnh tranh châu Á (của Singapore) và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (của Việt Nam) dưới sự hướng dẫn chuyên môn của Giáo sư  Michael Porter của Trường Kinh doanh thuộc Đại học Harvard, bài viết này nhận diện những vấn đề chính liên quan đến cơ cấu chuỗi cung ứng mà đất nước này cần giải quyết.
Kể từ khi bắt đầu cải cách nền kinh tế vào giai đoạn nửa sau những năm 1980, GDP tính theo mỗi đầu người của Việt Nam đã tăng trưởng với tốc độ hàng năm là gần 6%, đưa hàng triệu người thoát nghèo. Bài viết này cho rằng động lực thúc đẩy chính nằm ở năng suất lao động tiến bộ. Nhưng bất chấp những thành quả đạt được gần đây, Việt Nam vẫn đứng sau nhiều nước về phát triển cơ sở hạ tầng, mức độ trưởng thành của chuỗi cung ứng và khung chính sách quản trị của quốc gia.  
Chính sách phát triển công nghiệp theo các cụm ngành nghề [cluster development]: Muốn nâng cao sức cạnh tranh thì đòi hỏi phải có các ngành nghề được chuyên môn hóa để tăng hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ mà một công ty hoạt động riêng lẻ không thể nào đạt được mức hiệu quả ấy. Cách làm phổ biến này được dựa trên việc tạo ra các doanh nghiệp nhà nước hàng đầu, cung ứng tín dụng rẻ cho các công ry cá lẻ và tạo nên cơ sở hạ tầng chuyên dụng. Các chiến lược phát triển dành cho khu vực tư nhân hiện đang tỏ ra có những hạn chế. Chính phủ nên giúp các công ty ở các cụm ngành nghề có thể cạnh tranh ở một mức độ cao chứ không phải là trốn tránh cạnh tranh.
Cơ sở hạ tầng đường bộ: chính phủ trong những năm gần đây đã gia tăng đầu tư vào hệ thống quốc lộ Bắc-Nam và nâng cấp hầu hết các tuyến đường nội đô, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Mức đầu tư vào cơ sở hạ tầng đường bộ là cao, ở tỉ lệ trên 10% GDP so với 7-8% ở Thái Lan và Trung Quốc. Song, do không có các giải pháp lựa chọn vận tải đa phương thức nên nhiều doanh nghiệp chắc chắn sẽ vẫn tiếp tục bị vướng mắc ở chi phí vận chuyển ngày càng tăng do giá xăng dầu leo thang.
Cảng biển và thương mại duyên hải: Tuy Việt Nam có những cảng biển quốc tế (ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng) có thể đón tàu trọng tải lớn nhưng dịch vụ của các cảng này không đáp ứng những yêu cầu của các nhà vận tải, còn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cảng biển không theo kịp với tăng trưởng xuất khẩu. Chẳng hạn, chi phí dịch vụ hiện nay là quá cao; thủ tục hải quan tốn quá nhiều thời gian, thông thường phải mất từ  3-7 ngày và có trường hợp lên tới một tháng (ở Singapore thì thời gian làm thủ tục hải quan chỉ mất trung bình 10 phút); Việt Nam đang còn thiếu một cảng trung chuyển công-ten-nơ quốc tế; đường sắt và đường bộ không kết nối với hệ thống cảng biển, điều này đang cản trở hiệu quả của thương mại duyên hải trong nước.
Hàng không: các cảng hàng không cũng đang vấp phải những rào cản công suất chuyên chở hành khách. Chất lượng dịch vụ không tốt, các chuyến bay quốc nội thường bị trễ. Thị trường chuyển chở hành khách nội địa chỉ là 9-10 triệu hành khách mỗi năm. Việt Nam có rất nhiều cơ hội để phát triển các kênh trung chuyển xuất khẩu và trung chuyển nội địa nếu viết tận dụng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không một cách có hiệu quả.
Đường sắt: Mặc dù  Việt Nam có 2.600 km đường sắt song cơ sở hạ tầng đã lạc hậu. Thị trường đường sắt do nhà nước độc quyền đã không đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng. Cho dù tuyến đường sắt Bắc-Nam (nối với Bắc Kinh) đang được nâng cấp song sự thực là việc không có hệ thống đường ray đôi có nghĩa là chỉ cần một chỗ bị tắc nghẽn nhẹ là có thể khiến cho toàn bộ tuyến đường bị dừng hoạt động. Không có các tuyến đường sắt kết nối với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng biển, Lào và Campuchia. Đường sắt khổ 1 mét xuống cấp đang hạn chế tốc độ chạy tàu; và quá nhiều đường ngang giao cắt với đường bộ chạy qua các khu dân cư đang thường xuyên gây ra những vụ tai nạn.
Bài viết Cạnh tranh Việt Nam nhận diện những khuyến nghị cụ thể về chính sách và một cơ cấu thực thi nhằm xây dựng những lợi thế cạnh tranh ngày càng tinh vi. Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, song à người ta đang thấy rõ một điều là Việt Nam vẫn còn cả một con đường dài phía trước phải đi.
Weekly Link là một diễn đàn được điều phối bởi Barry Elliott và Chris Catto-Smith CMC làm việc tại Viện Tư vấn Quản Lý tại Thái Lan. Diễn đàn này dành cho các chuyên gia trong các lĩnh vực của nền kinh tế. Diễn đàn hoan nghênh mọi đóng  góp, câu hỏi, phản hồi và tin tức gửi tới địa chỉ:  Barry.Elliott@inslo.com  hoặc cattoc@cmcthailand.org
Người dịch: Hiền Ba
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011

544. VỀ CUỘC TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG GIỮA ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC TẠI ẤN ĐỘ DƯƠNG

Đăng bởi anhbasam on 19/05/2011
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

VỀ CUỘC TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG GIỮA

ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC TẠI ẤN ĐỘ DƯƠNG

Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Ba, ngày 17/05/2011
TTXVN (Niu Đêli 12/5)
Trong lịch sử, Ấn Độ đã có mối liên hệ với các nước và nhân dân các nước khu vực ven Ấn Độ Dương qua ảnh hưởng tôn giáo, văn hoá cùng các mối quan hệ khác. Tuy nhiên, điều đó đã bị phá vỡ bởi các cuộc xâm lược của các cường quốc thực dân châu Âu sau thế kỷ 16. Sự ra đi của các nước thực dân Anh, Pháp, Hà Lan sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai đã buộc các nước khu vực Ấn Độ Dương thay đổi chính sách đối ngoại của mình xuất phát từ lợi ích dân tộc, các thực tế địa chính trị đang nổi lên và sự chấm dứt của Chiến tranh Lạnh. Những thực tế đó đã và đang đặt ra các thách thức đối với Ấn Độ.
Trong bài thuyết trình mang tên “Cuộc đấu tranh quyền lực ở khu vực Ấn Độ Dương” tại hội nghị chuyên đề mới đây ở trường Đại học Xítni (Ôxtrâylia), nhà nghiên cứu Ấn Độ Chandan Mitra đề cập về những thách thức đối với Ấn Độ ở khu vực này như sau:
Ấn Độ được xác định là trung tâm của các nước ven bờ Ấn Độ Dương đã chọn chính sách không liên kết làm chính sách đối ngoại của mình nhằm giữ cho Ấn Độ Dương trở thành “khu vực hoà bình”. Mặt khác, Ấn Độ bắt đầu thiết lập các mối quan hệ mới với các nước vùng duyên hải ở Ấn Độ Dương. Trong hơn 60 năm qua, Ấn Độ can dự nhiều hơn bao giờ hết ở khu vực thông qua quan hệ thương mại, viện trợ và giúp đỡ tài chính. Bất chấp các nỗ lực đã được thực hiện, vẫn còn rất nhiều điều cần phải làm và điều đó chỉ có thể xảy ra khi Ấn Độ chi tiền cho các nhu cầu của các nước khát khao phát triển ở khu vực. Là một cường quốc kinh tế và công nghệ đang nổi lên, Ấn Độ bắt đầu xem Ấn Độ Dương là vấn đề cốt lõi trong chính sách đối ngoại của mình, khôi phục lại và tăng thêm động lực cho chính sách đó.
Các mối đe doạ an ninh chủ yếu đối với Ấn Độ ở Ấn Độ Dương
Hiện nay, các mối đe doạ an ninh chủ yếu đối với Ấn Độ ở Ấn Độ Dương xuất phát từ 3 yếu tố; thứ nhất, đó là sự xói mòn dần dần ảnh hưởng chính trị của Niu Đêli ở khu vực; thứ hai, sự có mặt của Trung Quốc ngày càng gia tăng ở khu vực; và thứ ba, các hoạt động không kiểm soát được của cướp biển Xômali.
Sự xói mòn ảnh hưởng chính trị của Ấn Độ thể hiện rõ nhất tại Xri Lanca, nơi bất chấp sự giúp đỡ của Côlômbô giành thắng lợi trong cuộc nội chiến chống phiến quân “Những con hổ giải phóng Tamin” (LTTE), Niu Đêli đã không thể bảo vệ một cách phù hợp dù là lợi ích của người Tamin tại Xri Lanca hay tính mạng cũng như kế sinh nhau của ngư dân Tamin người Ấn Độ, mà số phận củahọ bị phó mặc cho Hải quân Xri Lanca. Các vấn đề tiêu cực mà Ấn Độ phải đương đầu với Xri Lanca hiện nay đang có nguy cơ lặp lại ở Manđivơ, Môrixơ và Xâysen trong những năm tới nếu ban lãnh đạo chính trị Ấn Độ không quyết đoán hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình tại các quốc đảo này.
May mắn là lợi ích của Ấn Độ vẫn còn chiếm ưu thế tại Manđivơ bất chấp mối quan hệ ngày càng tăng của nước này với Trung Quốc trong các lĩnh vực chính trị và kinh tế. Manđivơ tiếp tục muốn Ấn Độ giúp họ tăng cường khả năng đối phó với các mối đe doạ an ninh xuất phát từ các phần từ Hồi giáo cực đoan có căn cứ tại Pakixtan cũng như bọn cướp biển Xômali. Bởi vậy, nước này vẫn quan tâm tới lợi ích của Ấn Độ. Xâysen cũng như vậy. Mặc dù chấp nhận sự trợ giúp của Bắc Kinh để tăng cường khả năng chống cướp biển, song Victoria vẫn chấp nhận sự trợ giúp và đề nghị hợp tác của Niu Đêli như trước đây.
Tuy vậy, Ấn Độ có lý do để lo ngại về những diễn biến gần đây tại Môrixơ kể từ khi Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào thăm nước này vào tháng 2/2009. Trong chuyến thăm này, ông Hồ Cẩm Đào đã tuyên bố cho nước chủ nhà vay với lãi suất thấp 260 triệu USD để hiện đại hoá và mở rộng sân bay ở nước này. Ngoài ra, ông còn công bố khoản cho vay không tính lãi trị giá 5,9 triệu USD và viện trợ không hoàn lại 30 triệu nhân dân tệ. Thủ tướng Môrixơ Navinchandra Ramgoolam còn nói hai nước đã thảo luận khả năng trợ giúp tiếp theo để cải thiện điều kiện giao thông ra vào khu vực thủ đô thường xuyên bị tắc nghẽn của quốc đảo này.
Ông Hồ Cẩm Đào cam kết đẩy nhanh việc xây dựng khu vực kinh tế và thương mại trị giá 730 triệu USD do Trung Quốc cấp vốn ở khu vực phía Bắc Môrixơ. Dự án mang tên Tialy sẽ là dự án có vốn nước ngoài lớn nhất tại Môrixơ, tạo ra 40.000 việc làm. Từ năm 1972 tới chuyến thăm của ông Hồ Cẩm Đào 2/2009, tổng số tiền trợ giúpcủa Trung Quốc dành cho  Môrixơ là 117 triệu USD. Hiện có 13 công ty Trung Quốc hoạt động tại Môrixơ trong các lĩnh vực dệt, xây dựng và công nghệ thông tin.
Khu vực kinh tế và thương mại rộng 521 mẫu Anh tại Môrixơ được Trung Quốc coi là một phần quan trọng trong chính sách “đi ra bên ngoài” và chiến lược châu Phi của họ. Mục tiêu của Trung Quốc là sử dụng Môrixơ như một bàn đạp phục vụ cho các dự án xây dựng và kinh doanh tại miền Nam châu Phi. Đại bản doanh của các công ty Trung Quốc đang hoạt động tại khu vực miền Nam châu Phi dự kiến sẽ được đặt tại thành phố thương mại mới này, và sẽ do Trung Quốc xây dựng ở ngoại ô thủ đô Pot Lui (Port Luis như một phần của dự án nói trên.
Sau sự xói mòn ảnh hưởng về chính trị của Ấn Độ tại Xri Lanca, giờ đây người ta laị nhìn thấy tiến trình tương tự tại Môrixơ. Quốc đảo này từng chịu ảnh hưởng văn hoá và kinh tế của Ấn Độ. Giờ đây Môrixơ tiếp tục chịu ảnh hưởng của Ấn Độ về văn hoá, song về kinh tế họ ngày càng hướng về Trung Quốc mạnh mẽ hơn. Và điều hiển nhiên là khi có ảnh hưởng kinh tế ngày càng tăng, ảnh hưởng về chính trị của Trung Quốc đối với người Môrixơ cũng sẽ tăng lên.
Sự suy giảm ảnh hưởng của Ấn Độ về chính trị và kinh tế ở Ấn Độ Dương diễn ra cùng với sự hiện diện của Trung Quốc ở các nước khu vực này đang không ngừng tăng lên qua việc trợ giúp các nước này như phát triển cơ sở hạ tầng – sân bay, thành phố kinh tế và thương mại ở Môrixơ; xây dựng sân bay quốc tế và cảng thương mại Hambantota, mở rộng và hiện đại hoá cảng Côlômbô, sửa chữa và xây dựng đường bộ và đường sắt ở Xri Lanca; xây dựng hải cảng mới tại Kyaukryu tới tỉnh Vân Nam để có thể chuyển khí đốt và dầu mở sản xuất tại Mianma cũng như dầu mỏ do các tàu chở dầu chuyển từ khu vực Tây Á và châu Phi thẳng về Trung Quốc mà không cần phải đi qua eo biển Malắcca; và xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc kết nối Rănggun với Vân Nam. Trung Quốc cũng đang thương lượng với Bănglađét về hiện đại hoá cảng Chitagong và kết nối hệ thống đường sắt của Bănglađét với hệ thống đường sắt của Mianma.
Ưu thế của Trung Quốc đối với Ấn Độ
Để mở rộng và tăng cường ảnh hưởng chính trị và kinh tế tại khu vực Ấn Độ Dương, Trung Quốc có hai thứ vũ khi mà Ấn Độ không thể sánh kịp ở thời điểm hiện nay cũng như trong tương lai gần – nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ và ưu thế lớn về kỹ năng xây dựng. Trong khi đó, các nước khu vực này đang mong muốn phát triển hạ tầng cơ sở.
Dù có lực lượng hải quân tốt nhất thì ảnh hưởng cũng sẽ bị hạn chế một khi không có ảnh hưởng về chính trị và kinh tế ở các nước khu vực Ấn Độ Dương. Bằng cách tăng cường sự có mặt và ảnh hưởng trên đất liền ở các nước khu vực, Trung Quốc bước đầu thắng thế so với Ấn Độ. Hải quân Trung Quốc hiện vẫn chưa thể sánh với sự hiện diện trên biển của Hải quân Ấn Độ ở khu vực Ấn Độ Dương, tuy vậy sự có mặt và ảnh hưởng của Trung Quốc tại các nước khu vực sẽ tạo ra thách thức ngày càng tăng đối với chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
Những báo cáo mang tính giả thiết rằng lợi ích của Trung Quốc đòi hỏi họ phải sở hữu căn cứ quân sự – đặc biệt là căn cứ hải quân – ở khu vực Ấn Độ Dương là chưa có những bằng chứng xác đáng. Hiện tại, lợi ích của Trung Quốc là tăng cường sự có mặt về kinh tế. Khi sự có mặt về kinh tế tăng, lại có mặt về chính trị cũng sẽ tự động tăng lên. Đúng là Trung Quốc trong một thời gian dài đã phát triển thông qua việc quan hệ cung cấp vũ khí và thiết bị quân sự có ý nghĩa chiến lược cho Pakixtan, Xri Lanca và Mianma. Người ta cũng có thể thấy sự khởi đầu tương tự như vậy với Bănglađét.
Liệu các quan hệ như trên có hình thành một phần của chiến lược được vạch kế hoạch kỹ càng nhằm vươn tới sự có mặt về quân sự lâu dài ở Ấn Độ Dưoơg hay không? Hiện chưa có bằng chứng để khẳng định ý kiến này. Ở thời điểm hiện nay, Trung Quốc đang tập trung cho sự có mặt về kinh tế và ảnh hưởng chính trị. Ý định của Bắc Kinh tiến vào lĩnh vực cung cấp vũ khí và xây dựng quan hệ là một động thái mang tính chiến thuật nhằm đạt được hai mục tiêu này.
So với chiến lược hải quân của họ tại khu vực Thái Bình Dương, Trung Quốc rất ít nói về các đường nét chiến lược tại Ấn Độ Dương. Trung Quốc không có các nguồn lực cần thiết để có thể thách thức ưu thế do Hải quân Mỹ và Hải quân Ấn Độ nắm giữ tại Ấn Độ Dương. Lợi ích hiện tại của họ ở khu vực này là bảo vệ an ninh cho các tuyến đường cung cấp nhiên liệu và tăng cường sức mạnh cho Pakixtan làm đối trọng với Ấn Độ.
Việc các tàu Hải quân Trung Quốc tham gia hoạt động tuần tra chống cướp biển tại Ấn Độ Dương và vịnh Ađen không tạo ra bất kỳ phản ứng công khai nào ở khu vực cũng như ở phương Tây. Các nước khu vực cũng như phương Tây hiểu được nỗi lo ngại của Trung Quốc về mối đe doạ từ cướp biển Xômali. Các cuộc tuần tra thường xuyên chống cướp biển do các tàu của Hải quân Trung Quốc thực hiện cho phép họ làm quen với các điều kiện hoạt động, bắt đầu thiết lập quan hệ giữa hải quân – hải quân với các nước khác, và đề xuất việc trợ giúp trong khả năng xây dựng.
Liệu Trung Quốc có sử dụng hoạt động chống cướp biển làm nền tảng cho chiến lược lâu dài ở Ấn Độ Dương hay không? Trung Quốc tránh công khai thảo luận về vấn đề này để không gay ra những lo ngại không cần thiết ở khu vực về sự quyết đoán của Hải quân Trung Quốc ở Ấn Độ Dương. Các sĩ quan Hải quân Trung Quốc đã nghỉ hưu thường lên tiếng về sự cần thiết phải có căn cứ hải quân ở khu vực này nhằm bảo đmr việc cung cấp hậu cần cùng các nhu cầu khác cho hoạt động tuần tra chống cướp biển của tàu khiến Trung Quốc tại Ấn Độ Dương, song tiếng nói này không được Bắc Kinh và Đảng Cộng sản Trung Quốc khuyến khích. Trung Quôc chưa vạch ra chiến lược hải quân dài hạn tại khu vực này.
Trong bối cảnh trên, Ấn Độ – với khả năng hàng hải to lớn của mình – đã cố gắng đóng một vai trò “đòn bẩy kín đáo” và “cân bằng quyền lực” ở khu vực Ấn Độ Dương. Năm 2008, Ấn Độ đã tổ chức một hội nghị chuyên đề về hải quân khu vực Ấn Độ Dương với sự tham gia nhiệt tình của tất cả các nước ven bờ Ấn Độ Dương. Rất tiếc rằng việc tập trung thảo luận đã bị phân tán trong các hội nghị tương tự – nhất là trong hội nghị gần đây tại Arập Xêút./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét