0. HỒI ỨC VÀ SUY NGHĨ
O. HỒI ỨC VÀ SUY NGHĨ
Trong 44 năm (1954-1997)
làm ngoại giao, trải qua những giai đoạn khác nhau, bản thân chứng kiến
và tham gia nhiều sự kiện ngoại giao đáng ghi nhớ của thời kỳ kháng
chiến và của thời kỳ hậu chiến như cuộc đàm phán hoà bình với Mỹ ở Paris
(1968-1973), đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ (1977 ở Paris,
1978 ở Nữu-ước), đấu tranh ngoại giao về vấn đề Campuchia và bình thường
hoá quan hệ với Trung Quốc, sở dĩ tôi chọn quãng thời gian 1975-1991
này để viết ký ức này vì nó chứa đựng nhiều diễn biến khúc mắc tế nhị về
đối ngoại, nhất là trong quan hệ của ta với ba nước lớn, dễ bị vô tình
hay cố ý làm “rơi rụng” để cho lịch sử được “tròn trĩnh”; khiến cho việc
đánh giá và rút bài học bị sai lệch, và đây cũng là giai đoạn mà mối
quan hệ của ta với các nước lớn có những điều đáng phải băn khoăn suy
nghĩ, không những cho hiện tại mà có thể cả cho tương lai…
Bối cảnh quốc tế lúc này
rất phức tạp, chiến tranh lạnh đã đi vào giai đoạn cuối, cả 3 nước lớn
Liên Xô, Mỹ, Trung Quốc đều có những chuyển đổi về chiến lược, từ chỗ
đối đầu quyết liệt với nhau chuyển sang hoà hoãn tay đôi rồi tay ba. Cục
diện chính trị luôn biến đổi ở châu Á – Thái Bình Dương tác động trực
tiếp đến tiểu khu vực Đông Nam Á và nước Việt Nam ta. Khu vực Đông Nam Á
lúc này cũng đang trong quá trình chuyển đổi từ quan hệ đối đầu sang
quan hệ đối thoại giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Hoàn cảnh này
đúng ra (đòi hỏi) Việt Nam phải mạnh dạn sớm đổi mới tư duy về đối ngoại
để có được một đường lối phù hợp với thực tiễn khách quan nhằm thoát ra
khỏi thế cô lập, hoà nhập được với đà phát triển chung của khu vực và
thế giới. Nhưng không ! Tư duy chính trị sơ cứng đã giam giữ nước ta
trong cảnh khó khăn một thời gian dài. Chính vì thế, ngoại giao quãng
thời gian này đã để lại trong tôi nhiều băn khoăn suy nghĩ về cái đúng,
cái sai cái nên làm và cái không nên làm. Tôi nghĩ rằng nếu nghiên cứu
một cách trung thực và có trách nhiệm những sự kiện của giai đoạn lịch
sử này thì từ đây có thể rút ra những bài học bổ ích và đích đáng cho
ngoại giao ta hiện tại và tương lai với mục đích tối cao là đảm bảo được
lợi ích của dân tộc trong mọi trường hợp.
Vì vậy tài liệu này tôi viết làm 2 phần: Hồi ức và Suy nghĩ. Phần Hồi ức cố
gắng ghi lại một cách khách quan và trung thực diễn biễn của các sự
kiện trong thời gian 1975-1991 trên cơ sở những tư liệu và nhật ký công
tác còn lưu giữ được. Còn phần Suy nghĩ dành cho những ý
nghĩ của riêng tôi, những điều trăn trở của tôi khi nghiền ngẫm lại các
sự việc đã trải qua. Những ý nghĩ hoàn toàn theo chủ quan, có thể sai
có thể đúng.
23.1.2001
Bản thảo này đã được bổ sung và hoàn chỉnh ngày 22.05.2003
Trần Quang Cơ1
1 Văn
bản này là tổng hợp của 2 văn bản: văn bản ngày 23.1.01 (gọi là Bản 01)
và văn bản ngày 23.5.03 (gọi là Bản 03). Nguyên bản là bản 01, những
phần bôi đen là bổ sung từ bản 03, những phần có trong bản 01 mà không
có trong bản 03 nhưng xét thấy bạn đọc có thể tham khảo thì biên tập
(BT) đưa xuống chú thích. Những chú thích có ghi (BT) là do biên tập bổ
sung. Riêng chương 17 và Phần Đại sự ký 1975-1991 thì trong bản 03 dã bỏ
đi.
Ngày 10.9.03
1. VIỆT NAM TRONG THẬP NIÊN 70 CỦA THẾ KỶ 20
1. VIỆT NAM TRONG THẬP NIÊN 70 CỦA THẾ KỶ 20
Nước Việt Nam ta trong
những năm 70 của thế kỷ 20 đã trải qua những sự kiện to lớn: Hiệp định
Paris 1973 về Việt Nam kết thúc cuộc đàm phán “ma-ra-tông” 1968-1973
giữa Việt Nam và Mỹ toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã
đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín quốc tế.
Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác
nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước
lớn mà còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á. Nể sợ
sức mạnh quân sự và ý chí kiên cường của Việt Nam, mặt khác lo ngại mối
đe doạ từ nước Trung Hoa khổng lồ tăng lên một khi Mỹ rút khỏi Đông Nam
Á, đồng thời lại có yêu cầu phát triển kinh tế, các nước ASEAN sốt sắng
bình thường hóa cải thiện quan hệ với Việt Nam; tổ chức liên minh quân
sự SEATO tan rã; xu hướng hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á phát triển. Sau
khi bị “gáo nước lạnh” ở Việt Nam Mỹ lo tháo chạy khỏi Đông Nam Á, song lại sợ tạo ra một “khoảng trống”
có lợi cho các đối thủ của mình. Một mặt sợ Liên Xô thừa thế mở rộng
ảnh hưởng ở Đông Nam Á và thế giới, mặt khác lo Trung Quốc phát huy vai
trò nước lớn Châu Á để lấp chỗ “trống” đó nên Mỹ vừa tìm cách
khai thác mâu thuẫn Xô – Trung vừa muốn có một nước Việt Nam độc lập cả
với Trung Quốc lẫn Liên Xô để duy trì thế cân bằng chiến lược giữa ba
nước lớn trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Trong tập “Tài liệu Lầu Năm Góc”2 của Mỹ có viết: “ Báo
cáo của đại sứ Mỹ tại Anh gửi Bộ Ngoại Giao Mỹ ngày 1.3.67 ghi lại một
đối thoại ngắn ngoại trưởng Anh Brown và ngoại trưởng Ba Lan Rapacski
tại Luân- đôn ngày 22.2.67. Khi Brown hỏi nhận định của Rapacski về mức
độ thế lực của Kossyguine (thủ tướng Liên Xô lúc đó) đối với Hà Nội.
Rapacski trả lời: “ Không kém của ông đối với Hà Nội”. Và khi Brown hỏi:
“Giữa Trung Quốc và Liên Xô nước nào có nhiều ảnh hưởng hơn đối với Hà
Nội ?” Rapacski trả lời: “Bắc Việt Nam”. Đường lối độc lập tự chủ đó của Việt Nam thể hiện rõ nét trong suốt thời gian đàm phán với Mỹ ở Paris.
Sau cuộc đàm phán với Mỹ
ở Paris, năm 1973 tôi được đề bạt làm vụ trưởng vụ Bắc Mỹ nên có đầy đủ
điều kiện trực tiếp theo dõi và xử lý mối quan hệ của nước ta với Mỹ
sau chiến tranh.
Vào quãng hơn một tháng sau khi giải phóng miền Nam, ta có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng “Lãnh
đạo Việt nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) tán thành có quan hệ tốt với Mỹ
trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự
kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở
trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng
làm moị sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai.
Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy
như vậy ở phía Mỹ”.
Ngày 12.6.75, Mỹ gửi đến sứ quán ta ở Paris bức thông điệp đáp lại: “Về nguyên tắc, Mỹ không thù hận gì VNDCCH. Đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên3. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào mà phía VNDCCH có thể muốn đưa ra”. Thông điệp này do Sứ quán Mỹ ở Paris gửi tới Sứ quán ta, nội dung không nói rõ là của Bộ Ngoại Giao Mỹ hay của cấp nào.
Ngày 11.7.75, ta gửi
thông điệp cho Mỹ, chủ yếu nhắc lại đoạn nói về Mỹ Trong báo cáo của
Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh đọc trước Quốc hội ngày 4.6.75: “Việc
Chính phủ Hoa kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt
Nam, từ bỏ hoàn toàn sự can thiệp vào công việc nội bộ miền Nam Việt
Nam, làm nghĩa vụ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và
công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh ở cả hai miền Việt Nam, sẽ tạo
điều kiện thiết lập quan hệ bình thường giữa VNDCCH và Hoa kỳ theo tinh
thần Điều 22 Hiệp định Paris về Việt Nam”.
Cuộc tiếp xúc đầu tiên
sau chiến tranh giữa ta và Mỹ diễn ra tại Paris ngày 10.7 ở cấp bí thư
thứ nhất đại sứ quán (Đỗ Thanh – Pratt) chủ yếu bàn về vấn đề MIA, cụ
thể phía Mỹ xin được trao trả một số hài cốt phi công Mỹ bị bắn rơi ở
miền Bắc. Đến cuộc gặp tiếp theo ngày 5.9.75, cũng vẫn giữa Đỗ Thanh và
Pratt, ta đồng ý sẽ giao cho Mỹ 3 bộ hài cốt “giặc lái”, song mãi tới tháng 12 ta mới cho phép một đoàn 4 hạ nghị sĩ Mỹ do Chủ tịch Uỷ ban POW/MIA4 G.V. Montgomery dẫn đầu vào Hà Nội nhận. Đoàn này đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp.
Sang năm 1976 Mỹ lại
thông qua Liên Xô thăm dò việc tiếp xúc với ta, song khẳng định sẽ không
thực hiện điều 21 của Hiệp định Paris. Công hàm ngày 26.3.76 của Henry
Kissinger – lúc này là ngoại trưởng – gửi ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh
cảm ơn ta đã đón tiếp đoàn Montgomery và sẵn sàng mở cuộc thảo luận về
việc thiết lập mối quan hệ giữa hai nước5.
Ngày 30.4 Bộ trưởng ngoại giao ta gửi công hàm trả lời, nêu lại những
vấn đề tồn tại giữa hai nước (vấn đề bồi thường chiến tranh và vấn đề
người Mỹ mất tích trong chiến tranh), trên cơ sở giải quyết 2 vấn đề đó
sẽ bình thường hoá quan hệ với Mỹ theo quy định của điều 22 Hiệp định
Paris. Ta sẵn sàng xem xét đề nghị cụ thể của Mỹ về việc mở thương lượng
giữa hai bên. Ta sẽ có trả lời không để quá lâu, song sẽ không trước
khi Quốc hội Mỹ bàn về việc bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Gần như đồng
thời với việc G. Ford bác kiến nghị của Quốc hội Mỹ yêu cầu tạm ngưng
trong 6 tháng lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam, Bộ Ngoại Giao Mỹ gửi
thông điệp khẳng định sẵn sàng sớm có thảo luận với Việt Nam, song nhận
xét quan điểm ta đặt thương lượng trên cơ sở “áp dụng một cách có chọn lọc các Hiệp định đã ký6” là không đem lại kết quả xây dựng; vấn đề “ kiểm điểm đầy đủ7” về MIA sẽ là một trong những vấn đề hàng đầu của Mỹ, chỉ khi nào vấn đề này được giải quyết “một cách cơ bản8 mới có thể tiến bộ thật sự tới bình thường hóa quan hệ giữa hai nước chúng ta. Đề nghị Việt nam xem lại một cuộc họp bàn
về các vấn đề tồn tại là có bổ ích hay không ?
Tình hình nhùng nhằng như vậy kéo dài cho tới
khi Jimmy Carter trúng
cử tổng thống thay Gerald Ford năm 1977. Chính quyền mới của Đảng Dân
chủ có quan điểm chiến lược khác và thái độ đối với Việt Nam mềm mỏng
hơn. Nguyên nhân quan trọng khiến chính quyền Carter quan tâm ngay từ
đầu đến việc thiết lập mối quan hệ mới với Việt Nam là lợi ích chiến
lược của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đại sứ Mỹ tại LHQ,
Andrew Young, đã nói rõ điều đó: “Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam
Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà
là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với
lợi ích quốc gia của Mỹ” (tháng 1.77).
Ngày 6.1.77, thông qua Liên Xô, Mỹ lại đưa ra một kế hoạch 3 bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam:
-
Việt Nam cho biết tin về những “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA).
-
Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam.
-
Mỹ có thể đóng góp khôi phục tại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khai thác.
Ngày 3/3/1977 chính
quyền Carter quyết định nới lỏng một phần cấm vận đối với ta, cho phép
tàu thủy và máy bay nước khác chở hàng sang Việt Nam được ghé các cảng
và sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu (nhưng vẫn cấm người Mỹ buôn bán với
Việt Nam, cấm tàu Mỹ đến Việt Nam đến cảng và sân bay Mỹ). Ngày 9.3.77,
Mỹ cho phép công dân Mỹ được đi thăm Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên,
Campuchia kể từ ngày 18.3.77.
Đến giữa tháng 3 ta nhận
tiếp đón Léonard Woodcock, đặc phái viên của tổng thống Mỹ Carter sang
Việt Nam. Ngày 17.3.77 Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tiếp L. Woodcock và 4
thành viên trong đó có Thượng nghị sĩ Mansfield – tại Chủ tịch phủ ở Hà
Nội. Ngày hôm đó, đoàn Mỹ cũng đã đến chào Ngoại trưởng Nguyễn Duy
Trinh.
Sau chuyến đi thăm mở
đường này, hai bên đã thoả thuận mở cuộc đàm phán về bình thường hoá
quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ tại Paris. Đoàn ta lúc đó do Thứ trưởng
Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, thành viên có tôi, vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ,
anh Vũ Hoàng, vụ trưởng vụ Lãnh sự và mấy cán bộ vụ Bắc Mỹ: (các) anh
Bùi Xuân Ninh, Cương, Hà Huy Tâm, Lê Mai. Anh Lê Mai khi đó là cán bộ vụ
Bắc Mỹ, làm phiên dịch cho trưởng đoàn. Sứ quán ta ở Pháp có anh Đỗ
Thanh, bí thư thứ nhất, và anh Nguyễn Thiện Căn, tùy viên báo chí, tham
gia đoàn. Phía Mỹ do R. Holbrooke làm trưởng đoàn. Cuộc đàm phán diễn ra
khá lâu, phải qua 3 vòng đàm phán trong tháng 5, tháng 6 và tháng 12
năm 1977. Địa điểm luân phiên ở đại sứ quán ta và đại sứ quán Mỹ tại
Pháp. Trong đàm phán vòng 1 (ngày 3-4.5.77), lập trường của Mỹ là hai
bên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện, còn những
vấn đề khác giữa hai bên để lại giải quyết sau; Mỹ sẽ không cản Việt Nam
vào LHQ. Còn về điều 21 (của Hiệp định Paris về VN), Mỹ có khó khăn về
pháp luật nên không thực hiện được, hứa sẽ thực hiện khi đã có quan hệ,
bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo. Theo chỉ thị đã nhận trước
khi đi, ta kiên quyết đòi phải giải quyết “cả gói”9 3
vấn đề: ta và Mỹ bình thường hoá quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận và
lập quan hệ ngoại giao đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA và Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây. Trở
ngại lớn nhất cho việc bình thường hoá quan hệ là việc ta đòi Mỹ viện
trợ 3,2 tỷ đô-la cho ta vì Quốc hội Mỹ khi đó dứt khoát không chấp nhận
viện trợ làm điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
Ngày 2-3.6, đàm phán vòng 2, Mỹ nêu lại các đề nghị hồi tháng 5. Ngày
19.7.77, tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (LHQ), Mỹ quyết định rút bỏ
việc phủ quyết Việt Nam vào LHQ. Sau vòng 2, anh Phan Hiền đã phải bay
về Hà Nội báo cáo và xin chỉ thị, thực chất là đề nghị trên nên có thái
độ thực tế và đối sách mềm dẻo hơn, nhưng nghe nói cả 4 vị lãnh đạo chủ
chốt của ta lúc đó đều nhất trí lập trường trên. Trước đòi hỏi kiên
quyết của ta, tại vòng 3 (19-20.12.78), Mỹ đề nghị nếu chưa thoả thuận
được về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng
Quyền lợi10 ở
thủ đô hai nước, nhưng như vậy thì chưa bỏ cấm vận được. Sau khi có
Phòng quyền lợi thì sẽ tuỳ tình hình mà xét bỏ cấm vận, song ta vẫn giữ
lập trường cũng nhắc đòi giải quyết “cả gói” 3 vấn đề.
Rõ ràng năm 1977 chính
quyền Carter thực sự muốn bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Ngoại
trưởng Mỹ C. Vance, ngày 10.1.77 tuyên bố: “ Việc tiến tới bình thường hoá quan hệ Mỹ – Việt nam phù hợp với lợi ích của hai nước” Năm 1977 đã có khả năng thực tế để ta bình thường hoá quan hệ với Mỹ nhưng ta đã bỏ qua. Trong
khi đó, theo sự xúi dục của Bắc Kinh, chính quyền Polpot bắt đầu chiến
tranh biên giới chống ta từ ngày 30.4.77 và đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31.12.77.
Từ đầu năm 1978, quan hệ
giữa 3 nước lớn Mỹ-Xô-Trung bắt đầu chuyển từ hình thái đối đầu từng
đôi một sang hình thái Mỹ-Trung cấu kết chống Liên Xô, Liên Xô nhân thế
yếu của Mỹ sau thảm bại ở Việt Nam ra sức tăng cường ảnh hưởng ở Á – Phi
và Mỹ Latinh bằng học thuyết “chủ quyền hạn chế” của Brejnev tại châu Á. Liên Xô đưa quân vào Afghanistan (1979), đồng thời thực hiện chính sách bao vây Trung Quốc. Việt Nam cũng bị coi là một mắt xích của vòng vây đó. Đặng Tiểu Bình, cuối tháng 2.79, có nói với các nhà báo ở Bắc kinh: “Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có 70% ảnh hưởng ở Việt nam, miễn là 30% còn lại dành cho Trung Quốc”
Cũng từ năm 1978, Mỹ đẩy
nhanh quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (từ tháng 2.73,
khi Kissinger đi thăm Bắc Kinh. Trung Quốc và Mỹ đã ký thoả thuận lập Cơ
quan liên lạc ở thủ đô 2 nước với quy chế như một sứ quán). Nước cờ
“chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” của cố vấn an ninh quốc
gia Z.Bzrezinski đã dần dần lấn lướt chủ trương của ngoại trưởng Cyrus
Vance và R.Holbrooke là “thúc đẩy song song việc cải thiện quan hệ với
Việt Nam và Trung Quốc”. Ngày 23.8.78, trong lúc Mỹ đàm phán về bình
thường hoá quan hệ với ta ở Paris, ngoại trưởng Mỹ C.Vance đã đi thăm
Bắc Kinh. Cho đến khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Trung Quốc là NATO phương
Đông” và “Việt Nam là Cuba phương Đông” (19.5.78) và Bizezinski đi thăm
Trung Quốc (20.5.78) thìchính quyền Carter đã chọn con đường
bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và gác sang bên việc bình thường
hoá quan hệ với Việt Nam.
Ngày 21.8.78, Quốc hội
Mỹ còn cử một đoàn 7 hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà do
hạ nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Uỷ ban POW/MIA, dẫn đầu
sang Việt Nam chủ yếu để trao đổi với thứ trưởng Phan Hiền về vấn đề tìm
kiếm “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA). Ta đã trao trả cho Mỹ
một số bộ hài cốt để tỏ thiện chí hợp tác trong vấn đề MIA. Và theo yêu
cầu của họ, tôi đã dẫn đoàn Montgomery đi miền Nam, thăm thánh thất Cao
Đài và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây
Ninh. Đấy là lần đầu tiên ta cho phép một đoàn Mỹ chính thức thăm thành
phố Hồ Chí Minh kể từ khi giải phóng miền Nam.
Sau đó đúng một tháng,
tôi sang Nữu-ước để tiếp tục cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ
với Mỹ. Cuộc đàm phán vòng 4 về bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Mỹ
không kéo dài như năm 1977 ở Paris. Lần này trưởng đoàn đàm phán của ta
là thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Còn phía Mỹ vẫn là
R.Holbrooke. Đến lúc này khi ta quyết định rút bỏ đòi hỏi “Mỹ phải bồi thường chiến tranh – viện trợ 3,2 tỷ đô la mới bình thường hoá quan hệ” và nhận công thức “bình thường hoá quan hệ không điều kiện”
của Mỹ thì đã muộn. Sở dĩ Mỹ tiếp tục đàm phán vấn đề bình thường hoá
với ta lúc đó là chỉ nhằm làm Việt Nam chập chững trong quan hệ với Liên
Xô và trong vấn đề Campuchia, trong khi đó Mỹ đã chuyển hướng sang phía
Trung Quốc. R.Holbrooke nói với ta: “Mỹ coi trọng châu Á; Mỹ cần bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Nhưng Mỹ lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh.”
Trong khi chờ đợi phía
Mỹ trả lời dứt khoát về vấn đề bình thường hoá quan hệ, khoảng hạ tuần
tháng 11, anh Thạch về Hà Nội trước; còn tôi vẫn ở lại Nữu-ước để giữ
cầu. Ngày 30.11.78, R.Oakley, trợ lý ngoại trưởng Mỹ, trả lời sự thúc
dục của tôi, còn nói: “Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hoá
quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề
Campuchia, Hiệp ước Việt-Xô và vấn đề người di tản Việt Nam”. Rồi
họ trao cho tôi tấm ảnh toà nhà của sứ quán nguỵ trên đường R. ở
Hoa-thịnh-đốn, nói là sẽ trao trả ta toà nhà đó làm trụ sở đại sứ quán,
và yêu cầu ta cung cấp sơ đồ ngôi nhà cũ của tổng lãnh sự quán Mỹ tại
đường Tràng Thi (?) Hà Nội.
Tôi ở lại Nữu-ước mãi
tới cuối tháng 1.79, sau khi ta đưa quân vào Campuchia giúp bạn đánh
đuổi Polpot giải phóng Nông-Pênh. Ngày 9.1.79, ngoại trưởng Mý Cyrus
Vance nói: “Các cuộc nói chuyện Mỹ – Việt Nam về bình thường hoá đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”.
Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình
thường hoá quan hệ với ta từ khi tham gia khỏi COMECON và ký Hiệp ước
hữu nghị với Liên Xô (3.11.78), để bắt tay với Trung Quốc chống Liên Xô ở
châu Á – Thái Bình Dương. Ngày 15.12.78, Mỹ và Trung Quốc đã ra thông
cáo chung chính thức công nhận nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao từ
ngày 1.1.79. Việc Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ (29.1 – 4.2.79) đánh dấu
việc bình thường hoá quan hệ Mỹ – Trung Quốc, cũng là chính thức xếp lại
việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Mỹ tới 17 năm sau. Khi ấy tôi
còn lưu lại ở Nữu-ước nên được chứng kiến cảnh Hoa kiều Nữu-ước đón
Đặng: trong khu người Hoa (Chinatown), dọc một đường phố treo toàn cờ đỏ
năm sao11, còn dọc một đường phố song song treo toàn cờ “thanh thiên bạch nhật”12 !
Trong khi gặp Carter ở Hoa-thịnh-đốn. Đặng Tiểu Bình đã tỏ ý sẽ tiến
công vào Việt Nam và không gặp phải phản ứng bất lợi nào từ phía Mỹ.
Theo Brezinski, trong cuộc hội đàm với Carter hôm 29.1, Đặng yêu cầu có
sự cộng tác giữa Mỹ và Trung Quốc để chống Liên Xô. Còn Carter có phần
thận trọng hơn, đồng ý cần có những cuộc tham khảo chặt chẽ giữa hai
nước để chặn chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô, nhưng thận trọng tránh
đề cập tới đề nghị của Đặng. Sau đó, ngày 16.2.79, Carter có nêu 6
nguyên tắc xử sự khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam: Mỹ không can thiệp
trực tiếp; khuyến khích các bên tự kiềm chế; Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia và Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam; cuộc xung đột không đe
doạ lợi ích trước mắt của Mỹ; không đặt lại vấn đề bình thường hoá với
Trung Quốc; quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe doạ. Cũng từ đó, cuộc
xung đột Campuchia và quan hệ với Việt Nam đã được đặt trong khuôn khổ
của mối quan hệ giữa 3 nước lớn Mỹ-Xô-Trung. Và cũng từ đó Mỹ gắn vấn đề
quan hệ Mỹ – Việt Nam với quá trình giải quyết vấn đề Campuchia.
Là nhân chứng lịch sử và
cũng là người trực tiếp tham gia các hoạt động ngoại giao này với tư
cách là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Bộ Ngoại giao, trực tiếp tham gia đoàn đàm
phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ ở Paris năm 1977, rồi ở Nữu-ước
năm 1978, tôi thật sự đau xót vị ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố
thế đứng của Việt Nam trong hoà bình để tập trung phát triển đất nước
sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước
cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình13, Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”.
Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hoá quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu
Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và
có dám đánh ta năm 1979 nếu như Việt Nam sau Chiến thắng 1975 có một
chiến lược “thêm bạn bớt thù” thực sự cầu thị hơn ? Việc bình thường hoá
quan hệ với Mỹ và việc gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995)
ta mới thực hiện được một cách khá chật vật.
Theo tôi, tư duy đối
ngoại có phần cứng nhắc của ta lúc ấy quả đã không theo kịp bước chuyển
biến của chính trị thế giới thể hiện qua sự điều chỉnh chiến lược của
các nước lớn sau sự kiện Việt Nam 1975, để dám có những quyết sách linh
hoạt kịp thời đem lại lợi ích to lớn lâu dài cho dân tộc ta. Ngược lại, việc ta bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ lúc này đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung Quốc đầy tham vọng.
Còn với Trung Quốc, sau
khi có Hiệp định Paris 1973, Trung Quốc có lợi ích duy trì nguyên trạng ở
Đông Dương, nhất là việc Việt Nam chia cắt thành hai miền dưới hai chế
độ chính trị khác nhau là phù hợp với ý đồ lâu dài của họ ở Đông Nam Á.
Sau khi đi thăm Trung Quốc về, thượng nghị sĩ Mỹ K.Mansfield báo cáo
trước Quốc hội Mỹ (1.2.75): “Trung Quốc tán thành để hai nước Việt
Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất,
trung lập là điều chủ yếu trong một Đông Dương ổn định.”
Từ 1973 đã xảy ra những
va chạm ở biên giới Việt-Trung. Năm 1974, Trung Quốc chiếm ngon lành nốt
phần còn lại ở quần đảo Hoàng Sa của ta. Có người cho rằng chỉ sau khi
ta ngã hẳn theo Liên Xô thì Trung Quốc mới chống ta. Song sự thật là các
hoạt động thù địch của Trung Quốc đối với Việt Nam đã xảy ra từ trước
khi Việt Nam tham gia khối SEV (tháng 6.78) và ký Hiệp ước hữu nghị với
Liên Xô (tháng 11.78). Tháng 12.75, sau khi thăm Trung Quốc qua Paris,
H.Kissinger nói: “Mỹ đang tính toán việc sử dụng Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực.”
Nét đặc trưng của giai
đoạn 1975-1978 là Campuchia trở thành tiêu điểm của sự đối đầu giữa một
bên là Trung Quốc và một bên là Việt Nam được Liên Xô ủng hộ. Sự đối đầu
ấy trở thành xung đột quân sự ngay từ tháng 5.75 và phát triển lên
thành cuộc chiến tranh biên giới Tây-Nam nước ta. Trong khi trả lời
phỏng vấn, ngày 8.1.78, Z. Brezinski, cố vấn an ninh của tôngt thống Mỹ,
đã nhận định: “Điều lý thú đây là trường hợp đầu tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác14 giữa Liên Xô và Trung Quốc: xung đột giữa Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và Campuchia được Trung Quốc ủng hộ.”
Như vậy chỉ hơn 4 năm
sau khi giải phóng được đất nước, ta lại bị xô đẩy vào cuộc chiến thảm
khốc ở Campuchia, đối đầu ngay với Trung Quốc, kẻ đã từng là đồng minh
chiến lược của ta trong 30 năm chiến đấu chống xâm lược phương Tây. Sau
hai cuộc kháng chiến gian khổ, dân ta mới chỉ được hưởng mùi vị của
chiến thắng và hoà bình êm ả chưa đầy 5 năm. Vết thương chiến tranh chưa
lành thì đã lâm vào cảnh nửa hoà bình nửa chiến tranh. Chiến tranh
chống Mỹ tuy gian khổ khốc liệt song Việt Nam còn có được mặt trận nhân
dân thế giới rộng lớn ủng hộ, còn trong cuộc chiến đấu chống diệt chủng Polpot thì Việt Nam hầu như hoàn toàn cô lập. Các nước cùng khu vực lo sợ Việt Nam sau khi “hạ xong” Campuchia sẽ phát huy sức mạnh quân sự ra cả Đông Nam Á. Còn Trung Quốc ra sức vu khống “Việt Nam xâm lược Campuchia” và có mưu đồ lập “Liên bang Đông Dương” để làm chủ cả Lào lẫn Campuchia, xoá mờ tính chất “chống diệt chủng” của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia.
Cùng thời gian này, do
những khó khăn kinh tế – xã hội chồng chất của thời kỳ chiến tranh chưa
được tháo gỡ, lại bị bao vây cấm vận bên ngoài nên trong nước đã nảy
sinh ra tình trạng “vượt biên” trốn ra nước ngoài của một bộ
phận dân chúng ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, tạo thêm gánh nặng về đối
ngoại cho ta, bôi đen thêm hình ảnh Việt Nam trên quốc tế. Vấn đề
Campuchia và vấn đề “thuyền nhân”15 lúc đó quả là gánh nặng trên mặt trận đối ngoại của ta trong thập niên 80 của thế kỷ 20.
Nửa cuối của thập kỷ 70
này là thời gian ta chồng chất nhiều sai lầm về đối ngoại nhất trong
suốt lịch sử dựng nước sau cách mạng (từ 1945 đến nay):
-
Ta không khôn ngoan duy trì quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, nhân tố cực kỳ quan trọng đảm bảo thắng lợi của ta trong kháng chiến chống Mỹ.
-
Bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ, năm 1977, khi chính quyền Carter đã chủ động đề nghị hai bên bình thường hoá quan hệ không điều kiện.
-
Đánh giá sai và không gia nhập khối ASEAN ngay từ 1976 khi cả 6 nước này đều mong muốn ta tham gia vì lợi ích của mỗi một quốc gia và của chung khu vực.
-
Dính líu quá sâu và quá lâu vào vấn đề Campuchia.
Những sai lầm này có hệ
quả liên quan chặt chẽ với nhau, gây thiệt hại lớn cho ta về đối ngoại
về an ninh-quốc phòng, về phát triển kinh tế trong một thời gian dài.
2. MỘT NHIỆM KỲ ĐẠI SỨ KHÔNG TẺ NHẠT
2. MỘT NHIỆM KỲ ĐẠI SỨ KHÔNG TẺ NHẠT
Tháng 10.82, tôi được bổ
nhiệm đi làm đại sứ tại Vương quốc Thái Lan – một điểm tiền tiêu của
mặt trận đối ngoại thời kỳ ấy vì chính quyền Thái Lan lúc đó gắn bó rất
chặt với Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng Polpot chống
Việt Nam. Không thể nói nhiệm kỳ đại sứ của tôi ở Thái Lan khi đó là
bình lặng hay tẻ nhạt. Hầu như không có tháng nào là không có những đám
đông biểu tình trước sứ quán hò hét phản đối Việt Nam “xâm lược”
Campuchia, xâm phạm lãnh thổ Thái. Thông thường những hoạt động này trở
nên náo nhiệt vào đầu mùa khô hàng năm, cùng lúc với các hoạt động quân
sự bắt đầu trên biên giới Campuchia – Thái. Đám “biểu tình” – có khi là dân “xám-lô”16,
có khi là tổ chức dân vệ Thái, có khi là đám người Việt phản động ở mấy
tỉnh Đông Bắc – thường tụ tập trong Công viên Lum-pi-ni ở gần đại sứ
quán ta trên đường Oai-rơ-lét17, để nhận tiền “biểu tình phí”.
Báo chí Thái Lan hồi đó
hình như rất khoái theo dõi phản ánh các hoạt động của đại sứ Việt Nam,
đặc biệt là những khi có cuộc gặp gỡ không lấy gì làm vui vẻ giữa Bộ
Ngoại giao Thái Lan và đại sứ Việt Nam. Phải nói rằng nhiệt độ không khí
“chuyện trò” giữa tôi với các vị quan chức ngoại giao Thái
phản ánh khá trung thành cường độ chiến sự ở vùng biên giới Campuchia
Thái Lan. Tôi không thể nào quên lời phát biểu đầy phẫn nộ của ngài Tư
lệnh lục quân đầy quyền uy Ac-thit Kham-lang-ec với báo chí: “Chẳng cần có đại sứ Việt Nam ở Thái Lan nữa”,
sau khi tôi đã lịch sự nhưng kiên quyết từ chối nhận hai bức công hàm
phản đối của ngoại trưởng Thái. Bức công hàm ngày 17.4.83 của Thái phản
đối quân đội Việt Nam đã bắn rơi chiếc máy bay trinh sát L19 làm chết
viên phi công lái máy bay đó, và sau đó lại bắn hỏng một chiếc trực
thăng của quân đội Thái. Còn công hàm ngày 1.5.84 phản đối quân đội Việt
Nam “pháo kích vào lãnh thổ Thái” thuộc tỉnh Surin làm chết và
bị thương một số dân làng. Tuyên bố giận dữ của tướng Ac-thit đã được
phụ hoạ bởi một số báo Thái, trong đó tờ nhật báo tiếng Anh “Daily News”18 có xã luận viết: “Chính
phủ (Thái Lan) cần yêu cầu Việt Nam thay ngay đại sứ của họ ở Bangkok
để phản đối việc ông này đã từ chối nhận công hàm phản kháng của Thái”. Sự việc đó xảy ra vào thời gian đầu mùa khô 1984-1985, lúc quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch đánh thẳng vào vùng “đất thánh”
và xoá sạch các căn cứ của 3 phái Khmer phản động nằm trên đường biên
giới Campuchia – Thái Lan và cắm sâu vào đất Thái Lan. Cũng thời gian đó
đã xảy ra những vụ tập kích và pháo kích của quân Trung Quốc vào mấy
tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để phối hợp cứu nguy cho bọn diệt chủng
Polpot ở mặt trận phía Tây nước ta.
Thông qua báo chí Thái,
tôi cũng đã có dịp làm cho nhân dân Thái Lan rõ sự thật về vấn đề
Campuchia trong khi trả lời phỏng vấn của tờ Kledlap19 ngày 15.4.84:
Hỏi: Ngài có tán
thành ý kiến cho rằng chiến tranh Campuchia là cuộc xung đột giữa Liên
Xô – Việt Nam một bên với Trung Quốc – Khmer Đỏ một bên, còn ASEAN và
các bên khác chỉ đóng vai trò phụ ? Nếu đúng như vậy, Ngài có ý kiến thế
nào về sáng kiến của ông Adam Malik về đàm phán Liên Xô – Việt Nam –
Trung Quốc để giải quyết vấn đề Campuchia ?
Trả lời: Thực chất của
cái gọi là vấn đề Campuchia hiện nay là việc Trung Quốc sử dụng một
trong những công cụ đắc lực nhất và cũng là thô bạo nhất của họ để can
thiệp và đe doạ an ninh của các nước Đông Dương, trước hết là Campuchia.
Nếu cho rằng đây là xung đột giữa Liên Xô – Việt Nam với Trung Quốc –
Khmer Đỏ thì là mắc bẫy Trung Quốc cả, đều là sai lầm nguy hiểm. Vì như
thế sẽ không thấy được mối đe doạ lớn đối với an ninh của tất cả các
nước khu vực này là chủ nghĩa bành trướng và bá quyền Trung Quốc, Liên
Xô từ trước đến nay chỉ giúp nhân dân ba nước Đông Dương bảo vệ độc lập
và xây dựng hoà bình đất nước mình, không đe doạ ai cả. Vì vậy, xin miễn
phát biểu về ý kiến của ông Adam Malik ở đây.
Hỏi: Chiến tranh ở Campuchia kéo dài sẽ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và ASEAN, không rõ ai sẽ chịu đựng được lâu hơn ai ?
Trả lời: Tôi nghĩ rằng
không nên đặt vấn đề như vậy, vì sẽ trúng hiểm kế của Bắc Kinh. Thủ đoạn
lớn của họ trong chính trị quốc tế xưa nay vẫn là “ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”20.
Nước chúng ta không lớn như họ, vì vậy ta cần phải thông minh hơn họ,
ít nhất cũng không mắc mưu họ. Lợi ích của nhân dân các nước Đông Nam Á
không cho phép chúng ta kéo dài tình hình đối đầu hiện nay để cho các
nước khác đứng ngoài hưởng lợi.
Trong chuyến đi
Inđônêxia tháng 3 vừa qua của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Việt Nam và
Inđônêxia đã nhất trí nhận định là để tình hình tiếp tục như hiện nay là
có hại cho các nước trong khu vực trong cố gắng xây dựng nền kinh tế và
cải thiện đời sống nhân dân mình. Hai bên đã thừa nhận là giải quyết
được tình hình này sẽ có lợi cho tất cả các nước Đông Nam Á. Nếu không
sẽ chỉ có lợi cho các bên thứ ba.
Hỏi: Không rõ Ngài có thể khẳng định được hay không rằng trong tình hình hiện nay quân Việt Nam sẽ không tràn qua biên giới Thái Lan.
Trả lời: Về điều này chúng tôi có thể đảm bảo chắc chắn rằng chúng tôi không xâm phạm lãnh thổ của Thái Lan.
Hỏi: Nhưng chính quyền và quân đội Thái Lan đã vạch rõ điều đã xảy ra. Một số phóng viên nước ngoài cũng đưa tin này.
Trả lời: Xin khẳng định
lại rằng trong đợt tấn công bọn Khmer Đỏ vừa qua, bọn này đã chạm vào
lãnh thổ Thái Lan. Lực lượng của chúng tôi đã dừng lại ở biên giới chứ
không xâm phạm lãnh thổ Thái Lan, mặc dù phía Thái Lan đã tạo điều kiện
cho bọn này chạy sang. Về tin nói rằng bắt được tù binh Việt Nam, có xác
binh sĩ và xe tăng Việt Nam trong đất Thái Lan là hoàn toàn bịa đặt.
Hỏi: Ngài Tư lệnh tối cao kiêm Tư lệnh Lục quân (Ac-thit Khăm-lang-ẹc) đã đưa ra tin này.
Trả lời: Chính Ngài Tư
lệnh tối cao quân đội khẳng định tin nói rằng quân đội Thái Lan đã sử
dụng máy bay A.37 ném bom phá huỷ kho vũ khí của Khmer Đỏ, cũng chưa rõ
kho này nằm trên đất Thái Lan hay trên đất Campuchia. Trong khi chiến sự
đang xảy ra ở biên giới, quân đội Thái Lan đã không tạo điều kiện cho
phóng viên nước ngoài vào làm tin ở khu vực đó. Nhiều phóng viên nước
ngoài rất bất bình về việc này và nói rằng quân đội Thái Lan đưa tin rất
lộn xộn, hôm nay nói thế này, ngày mai lại nói thế kia, không thống
nhất. Ví dụ như lúc đầu nói bắt được 40 tù binh Việt Nam, sau đó nói là
bắt được 41 người, tiếp đó nói chỉ bắt được 6 người, còn là người Khmer.
Hỏi: Không rõ Việt Nam sẽ có biện pháp sớm chấm dứt chiến sự như thế nào?
Trả lời: Theo ý kiến
riêng tôi, nếu chiến sự lần này chấm dứt càng sớm sẽ càng có lợi cho các
bên. Trước hết chúng tôi muốn giữ gìn mối quan hệ, muốn làm cho biên
giới Thái Lan – Campuchia có hoà bình ổn định và muốn cho Việt Nam và
Thái Lan sớm có quan hệ hữu nghị. Chúng tôi không muốn chiến tranh kéo
dài, nhưng cũng không sợ chiến tranh kéo dài.
Hỏi: Vấn đề không an
toàn hiện nay là quân đội Việt Nam đã áp sát biên giới Thái Lan. Nếu ở
vào cương vị Thái Lan thì Việt Nam cũng sẽ cảm thấy mình không an toàn
nếu như có lực lượng nước ngoài xâm phạm như vậy. Đây là điều suy nghĩ
hiện nay của Thái Lan.
Trả lời: Nếu như các ông
theo dõi kỹ vấn đề thì các ông sẽ thấy không phải là vấn đề gì mới mẻ
cả. Chúng tôi đã nhiều lần đưa ra nhiều sáng kiến: từ năm 1980 chúng tôi
đã đề nghị xây dựng khu an toàn dọc biên giới Thái Lan – Campuchia nhằm
bảo đảm an ninh ở khu vực này, để làm cho phía Thái Lan khỏi lo ngại
việc quân đội Việt Nam có mặt ở Campuchia. Nhiệm vụ của quân đội Việt
Nam ở Campuchia chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng Polpot. Chúng tôi đã nhiều
lần tuyên bố quân đội Việt Nam sẽ rút ngay khi nguy cơ đe doạ từ Trung
Quốc đã chấm dứt.
- – - – - – - – - – - – - – - – - – - – - – - – - – - – - – - – - -
Khi cho in bài phỏng vấn
này, Ban biên tập đã tự ý cắt bỏ không đăng trả lời của tôi nói về bằng
chứng là quân đội Thái đã giúp quân Polpot và đã xâm phạm lãnh thổ
Campuchia.
Trong khi Việt Nam đã
tiếp tục sa lầy vào Campuchia thì ba nước lớn trong tam giác chiến lược
Mỹ – Xô – Trung lại có sự điều chỉnh chiến lược để tập trung vào phát
triển kinh tế, đi vào xu thế hoà hoãn nhằm vừa tranh thủ vừa đấu tranh,
kiềm chế lẫn nhau. Vấn đề Campuchia bắt đầu được đưa vào chương trình
nghị sự của các cuộc đàm phán từng cặp một giữa ba nước lớn. Ngay từ khi
Trung – Xô khởi đầu quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ giữa hai
bên, tháng 10.82 ở Bắc Kinh, Trung Quốc đã nêu “trở ngại” cho
việc bình thường hoá quan hệ Trung – Xô là xung đột biên giới Trung –
Xô, vấn đề Campuchia, vấn đề Afghanistan, và trao bản yêu sách 5 điểm về
vấn đề Campuchia cho Liên Xô.
-
Liên Xô chấm dứt ủng hộ Việt Nam xâm lược Campuchia.
-
Việt Nam tuyên bố rút hết quân khỏi Campuchia. Đàm phán bình thường hoá quan hệ Trung-Việt sẽ bắt đầu sau khi những đơn vị quân Việt Nam đầu tiên rút.
-
Trung Quốc có những biện phạm cải thiện quan hệ với Liên Xô.
-
Lập chính phủ liên hiệp Campuchia đại diện cho tất cả các phe phái ở Campuchia (điều này có nghĩa là hợp pháp hoá phái Polpot diệt chủng).
-
Bảo đảm quốc tế cho một nước Campuchia độc lập và không liên kết.
Đến ngày 1.3.83, Trung
Quốc đưa ra công khai 5 điểm trên. Thực ra lúc đó Trung Quốc đưa ra lập
trường 5 điểm giải quyết vấn đề Campuchia chủ yếu để làm con bài mặc cả
với Liên Xô, và gây sức ép với Mỹ và ASEAN chứ chưa định giải quyết vì
Trung Quốc cho rằng ghìm chân Việt Nam ở Campuchia càng lâu càng có lợi
cho họ. Thời gian tôi làm đại sứ Việt Nam ở Thái Lan thì đại sứ Trung
Quốc ở Thái Lan là Trương Đức Duy, với Trương Thanh là tham tán. Những
nhân vật này tôi lại gặp lại sau này khi đàm phán với Trung Quốc về bình
thường hoá quan hệ giữa hai nước. Thời gian làm đại sứ ở Bangkok cũng
đã giúp tôi tìm hiểu được thêm về ý đồ lâu dài của Trung Quốc ở Đông Nam
Á và trong vấn đề Campuchia.
Vấn đề Hoa kiều cũng là
một đặc điểm mà Trung Quốc muốn khai thác để hòng giành thêm lợi thế
chính trị và kinh tế ở Đông Nam Á. Số lượng người Hoa ở Thái Lan cũng
như các nước Đông Nam Á khác đều khá lớn và nắm vai trò quan trọng trong
nền kinh tế địa phương. Nhưng ở các nơi khác cộng đồng người Hoa thường
tách biệt ra, còn ở Thái họ hầu như đã đồng hoá với dân địa phương. Rất
khó phân biệt người Thái gốc Hoa với người bản địa, nhất là trong tầng
lớp trung lưu trở lên, kể cả trong hoàng tộc.
Trong khi đó, người Việt
ở Thái Lan lại chịu một số phận hẩm hiu hơn nhiều. Ta quen gọi là Việt
kiều Thái Lan, nhưng chính quyền Thái Lan chỉ coi họ là những người “tị
nạn bất hợp pháp” của nước Việt Nam cộng sản, không coi là ngoại kiều
(không được cấp “tàng-đạo” – giấy chứng nhận là ngoại kiều)
cũng không được nhập quốc tịch Thái. Vì vậy nên hàng chục vạn người Việt
mặc dù đã làm an sinh sống trên đất Thái hàng chục năm vẫn bị “quản thúc”
ở mấy tỉnh miền Đông Bắc Thái Lan. Phải xin giấy phép của chính quyền
Thái nếu muốn ra khỏi nơi mình cư trú cũng như nếu muốn đến sứ quán ở
Bangkok những dịp Tết Nguyên đán hay ngày Quốc khánh. Ngược lại đại sứ
ta cũng không thể tới những tỉnh có đông người Việt ở Đông Bắc để thăm
hỏi bà con kiều bào mình. Người tiền nhiệm tôi, anh Hoàng Bảo Sơn, trước
khi kết thúc nhiệm kỳ đại sứ đã đặt vấn đề với Bộ Ngoại Giao Thái Lan
xin được đi Đông Bắc thăm và chào từ biệt kiều bào và đã nhận được câu
trả lời rất chi là “ngoại giao”: không đảm bảo an toàn trên đường đi. Để
vượt qua sự ngăn cản đó đến với kiều bào, vào trung tuần tháng 6 năm
1985, không báo trước cho Bộ Ngoại giao Thái nhưng có thông báo với ban
đại diện Việt kiều tỉnh, tôi cùng mấy anh em trong bộ phận lãnh sự đáp
máy bay nội địa đi thẳng đến Ubon Thani, tỉnh có đông Việt Kiều nhất
vùng Đông Bắc. Đến nơi bà con Việt kiều ở Ubon và các tỉnh lân cận tổ
chức đón tiếp cực kỳ nhiệt tình, bộc lộ tình cảm khát khao với quê hương
đất nước. Nhưng đồng thời, chính quyền và công an tỉnh cũng không kém
phần quan tâm đến chúng tôi. Họ chất vấn tôi ngay khi vào phòng khách
sạn: “Vì sao ngài đại sứ đi không báo cho Bộ Ngoại Giao ? Ngài đến Ubon có việc gì ?” Đã dự kiến trước tình huống này, tôi thản nhiên đáp: “Tôi
nhận được thiếp báo cưới con cháu gái hơi chậm nên vội đi. Hơn nữa đây
là chuyện riêng tư gia đình nên không muốn các ngài bận tâm đến.”
Đại khái câu chuyện trao đi đổi lại lúc đầu có vẻ căng thẳng nhưng đã
kết thúc khá êm thấm. Cuối cùng họ chỉ yêu cầu mỗi khi đại sứ đi đâu xin
cho hai xe mô tô đi trước và một xe ô tô công an đi sau hộ tống. Và
buổi lễ cưới hôm sau được biến thành một cuộc mít-tinh lớn tổ chức ở
ngoài trời chiếm cả một đường phố lớn để đông đảo Việt kiều được tham
dự. Sự kiện này là một kỷ niệm khó quên của tôi ở Thái Lan.
Tháng 10 năm 1986, vừa
tròn 4 năm ở Thái, tôi kết thúc nhiệm kỳ đại sứ, rời Bangkok về Hà Nội.
Ngay sau khi về nước, tôi được giao nhiệm vụ nghiên cứu giúp bạn Lào
trong cuộc đàm phán với Trung Quốc vào cuối năm 1986 theo yêu cầu của Bộ
Ngoại Giao Lào. Tôi đã sang Vientiane 3 lần trong mấy tháng 10, 11 và
12.86 để trao đổi ý kiến với bạn trong việc chuẩn bị nội dung chính trị
và kế hoạch tiến hành cuộc đàm phán. Việc Trung Quốc đáp ứng khá nhanh
lời tuyên bố của ngoại trưởng Lào – trong bản tuyên bố của Hội nghị bộ
trưởng ngoại giao 3 nước Đông Dương lần thứ 13 (tháng 8.86) – trong khi
họ vẫn từ chối đàm phán bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nhằm chia
rẽ ba nước Đông Dương, âm mưu bình thường hoá quan hệ riêng rẽ với Lào,
cải thiện quan hệ với Liên Xô và Đông Âu để gây sức ép với ta trong vấn
đề Campuchia. Vì vậy, trong đàm phán, Trung Quốc muốn kéo Lào đi vào bàn
các vấn đề cụ thể thuộc quan hệ song phương hai nước. Cụ thể Trung Quốc
nêu 4 vấn đề: lập lại quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, quan hệ mậu dịch,
thoả thuận những điểm tồn tại về biên giới, nhân dân vùng biên hai bên
qua lại tự do. Còn phía Lào nêu lại 3 vấn đề: tình hình căng thẳng ở
biên giới Lào – Trung Quốc, Trung Quốc nuôi dưỡng bọn Lào lưu vong, giải
quyết với cả 3 nước Đông Dương. Theo chủ trương đã nhất trí với ta là
“không giải quyết gì, chủ yếu để thăm dò đối phương và giữ cầu để tiếp
tục đàm phán”, Lào kéo Trung Quốc phải đi vào bàn những vấn đề có tính
chất nguyên tắc và phải đề cập đến những vấn đề mà Bắc Kinh muốn lẩn
tránh như vấn đề Campuchia, vấn đề quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Qua
đàm phán chính thức cũng như qua những cuộc trao đổi riêng, ta đã hiểu
rõ thêm được về ý đồ của Trung Quốc đối với khu vực này. Lúc này Trung
Quốc tuy chưa thay đổi chính sách đối với Đông Dương – Đông Nam Á, song
có khó khăn thúc bách về thời gian. Trước mắt họ còn muốn nắn gân cốt
ta, muốn thăm dò mức độ đoàn kết nhất trí giữa Việt Nam – Lào –
Campuchia, nhất là về vấn đề Campuchia. Thứ trưởng ngoại giao Lưu Thuật
Khanh, trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc, coi vấn đề Campuchia không liên
quan gì tới Lào cũng như tới quan hệ Trung Quốc – Lào, nhưng đồng thời
lại có ý qua Lào thăm dò ý đồ của ta trong vấn đề Campuchia.
Cuộc đàm phán không đem
lại kết quả. Lưu mời Lào sang Bắc Kinh bàn tiếp. Đối với tôi, đây cũng
là một dịp bản thân tôi được bổ sung thêm hiểu biết về chính sách của
Trung Quốc đối với Đông Dương và dụng ý sâu sa của họ khi tiếp tục tung
ra luận điệu “Việt Nam mưu đồ thiết lập Liên bang Đông Dương”.
3. ĐẠI HỘI “ĐỔI MỚI”
3. ĐẠI HỘI “ĐỔI MỚI”
Đại hội VI, mệnh danh là Đại hội “đổi mới”
của Việt Nam, thực chất bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế mà đi tới đối
mới tư duy đối ngoại. Đại hội diễn ra trong bối cảnh xu hướng hoà bình
ổn định trên thế giới đang phát triển, các nước lớn đi sâu vào quan hệ
hoà hoãn từng cặp Mỹ – Xô, Mỹ – Trung và Xô – Trung. Tác động mạnh nhất
và trực tiếp nhất tới vấn đề Campuchia và Việt Nam là hoà hoãn Xô –
Trung. Không phải ngẫu nhiên mà Nghị quyết 32/BCT21 ngày 9.7.86 quy định cần đặt giải pháp chính trị vấn đề Campuchia và đi vào bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (“giải pháp vấn đề Campuchia phải giữ vững thành quả cách mạng Campuchia, giữ vững đoàn kết 3 nước Đông Dương”)
lại ra đời ít ngày trước bài diễn văn của Gorbachov ở Vladivodstock
(28.7.86) trong đó Gorbachov công bố những nét lớn trong chính sách đối
ngoại mới của Liên Xô đối với châu Á – Thái Bình Dương: xích gần lại với
Trung Quốc, giải quyết “3 trở ngại” mà Trung Quốc nêu ra (rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Trung – Xô, giải quyết vấn đề Campuchia). Gorbachov tuyên bố: “Vấn
đề Campuchia không thể giải quyết ở các thủ đô xa xôi, kể cả ở Liệp
Hiệp Quốc, phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước XHCN
láng giềng”.
Cũng trong những năm
1986-1988, cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội ở nước ta lên tới đỉnh cao.
Trước thúc bách của hoàn cảnh thế giới và trong nước như vậy, về đối
ngoại, Đảng đã quyết định chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới trong
cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ để nhanh chóng phục hồi
kinh tế, phát triển trong hoà bình. Giai đoạn đấu tranh nhằm giành thắng
lợi hoàn toàn cho cách mạng CPC với ảo tưởng “tình hình không thể đảo
ngược”22 đã kết thúc, và ta phải chấp nhận thực tế đấu tranh từng bước để đạt một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Sau khi được đặc cử23 đi
dự Đại hội VI (tháng 12.86), tôi được bầu vào Trung ương khoá 6. Rồi
đến tháng 1.87, nhận chức thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, chuyên trách vấn đề
giải pháp
Campuchia.
Ngày 7.3.87, Bộ Chính trị (BCT)24 họp
xem xét đề án đấu tranh ngoại giao, nhận định Trung Quốc có hai mặt:
vừa tồn tại nhân tố XHCN, vừa có chính sách bá quyền. Đánh giá về chiến
lược của Trung Quốc đối với Đông dương, BCT nêu ba khả năng:
-
Tiếp tục đối đầu.
-
Cùng tồn tại hoà bình.
-
Hợp tác hữu nghị.
Trên tinh thần đó ta chủ
trương tấn công ngoại giao trên hai mũi: một mặt đề nghị Việt Nam-Trung
Quốc đàm phán bí mật tạo khuôn khổ cho giải pháp Campuchia; mặt khác
Campuchia ra tuyên bố về chính sách hoà hợp dân tộc. Ta chủ trương làm
với trung Quốc là chính, đồng thời thúc đẩy các diễn đàn khác.
Ngày 9.4.87, để giúp BCT
xúc tiến việc thực hiện Nghị quyết 32/BCT và Nghị quyết về đối ngoại
của Đại hội VI, Bộ Ngoại Giao đã ra quyết định thành lập Tổ nghiên cứu
nội bộ lấy ký hiệu là CP87 với nhiệm vụ:
- Nghiên cứu chủ trương
giải quyết các vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, vấn đề
Campuchia và hoà bình ở Đông Nam Á; chuẩn bị các phương án đấu tranh
trước, trong và sau khi có giải pháp;
- Nghiên cứu các diễn đàn có thể tác động tích cực tới phương hướng đó;
- Nghiên cứu nội dung phối hợp hoạt động với Liên Xô, Lào, Campuchia theo phương hướng đó.
Bộ phận thường trực CP87
gồm có: Trần Quang Cơ, Đặng Nghiêm Hoành (Vụ trưởng vụ Tổng hợp đối
ngoại), tổ phó; Nguyễn Phượng Vũ (Vụ trưởng vụ Trung Quốc); Trần Xuân
Mận (Vụ trưởng vụ Á châu II). Các thành viên không thường trực của CP87
có : anh Đặng Nghiêm Bái (Vụ trưởng vụ Bắc Mỹ), anh Tạ Hữu Canh (Vụ
trưởng vụ Liên Xô), anh Nguyễn Can (Vụ trưởng vụ Á châu III), anh Trịnh
Xuân Lãng (Vụ trưởng Vụ Báo chí)… Là thứ trưởng chuyên trách vấn đề
Campuchia, tôi có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo CP87.
Bộ Ngoại Giao CHND
Campuchia cũng thành lập bộ phận B1 có thứ trưởng Ngoại giao Dith Munty,
Sok An, Chom Prasit… làm đối tác của CP 87.
4. CP 87 VÀ BA TẦNG QUAN HỆ CỦA VẤN ĐỀ CAMPUCHIA
4. CP 87 VÀ BA TẦNG QUAN HỆ CỦA VẤN ĐỀ CAMPUCHIA
Trước tình hình quốc tế
và khu vực ngày càng rối rắm phức tạp, vấn đề Campuchia đã được quốc tế
hoá cao, chúng tôi không thể không cùng nhau rà lại những nhân tố cơ bản
trước khi đưa ra những phương án giải quyết. Qua phân tích tình hình,
chúng tôi thấy việc giải quyết vấn đề Campuchia nay đã quốc tế hoá cao
nằm trong lợi ích không những phe phái Campuchia mà còn đụng đến lợi ích
của các nước trong khu vực và chịu ảnh hưởng tính toán chiến lược của
các nước lớn trên thế giới nữa. Cho nên những lực lượng trực tiếp can dự
vào việc giải quyết vấn đề Campuchia có thể phân thành ba tầng:
Tầng 1 gồm 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An (P5), chủ yếu là 3 nước lớn: Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ.
Tầng 2 gồm các nước Đông Nam Á, chủ yếu là Việt Nam và Thái Lan.
Tầng 3 là các bên Campuchia gồm Nhà nước Campuchia (SOC) và 3 phái trong cái gọi là “Campuchia Dân chủ”.
Thoạt nhìn tưởng chừng
như các phe phái Campuchia và những nước kế cận phải giữ vai trò quyết
định vấn đề Campuchia vì có lợi ích “sát sườn”. Nhưng nếu suy xét thật
thấu đáo thì mới thấy giữ vai trò quyết định lại là các nước lớn.
Việc nghiên cứu giải pháp của chúng tôi tất nhiên phải tập trung vào
theo dõi sát những nhân tố trực tiếp trong tầng thứ ba, nhưng không thể
bỏ sót những động thái trong mối quan hệ giữa các nước thuộc tầng thứ
nhất, chiến lược của các nước lớn Mỹ, Liên Xô và nhất là Trung Quốc.
Chúng tôi thấy: khác với
Liên Xô và Mỹ, chiến lược của Trung Quốc luôn luôn thay đổi. Năm 1978
đánh dấu bước ngoặt trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc, chuyển từ
chiến lược ủng hộ cách mạng thế giới chống đế quốc Mỹ sang chiến lược
câu kết với Mỹ và các lực lượng phản động khác chống cách mạng thế giới.
Để tranh thủ Mỹ, với yêu cầu có vốn và kỹ thuật phương Tây để thực hiện
4 hiện đại, Trung Quốc đã có những bước đi rất quyết liệt về mặt đối
ngoại như năm 1978 cắt viện trợ cho Việt Nam, Anbani – hai nước chống đế
quốc mạnh nhất, đưa ra khẩu hiệu chống :đại bá Lên Xô”, “tiểu bá Việt
Nam”, tự xưng là NATO phương Đông và coi Việt Nam là “Cuba phương Đông”,
công nhận chế độ độc tài Pinoche vừa lật đổ Allende ở Chile, ủng hộ bọn
phản động châu Phi chống Angola, ủng hộ Thoả thuận trại Đa-vít giữa
Mỹ-Israel và Ai-cập chống lại lợi ích của nhân dân Ả-rập và Palestine.25 Còn
ở Đông Nam Á, Trung Quốc dùng vấn đề Campuchia để hình thành sự liên
kết với Mỹ, Nhật, ASEAN và các nước phương Tây bao vây, cô lập Việt Nam.
Trung Quốc sử dụng vấn đề Campuchia và việc đánh Việt Nam làm công cụ
chính trong việc thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, thay đổi bạn và
thù nhằm phục vụ mục tiêu “4 hiện đại”. Từ năm 1981, cả ba nước
Mỹ, Xô, Trung bắt đầu điều chỉnh chiến lược, cải thiện quan hệ từng đôi
một. Từ tháng 10.82, Trung Quốc nối lại đàm phán Trung-Xô. Đồng thời
Trung Quốc chuyển từ chỗ “chống bá quyền Liên Xô” sang chống cả “hai siêu”,
Mỹ và Liên Xô. Từ giữa năm 1984, Liên Xô bắt đầu điều chỉnh chính sách
về vấn đề Campuchia, thúc đẩy ta và Campuchia đi vào giả pháp chính trị
vấn đề Campuchia; gợi ý ta tiếp xúc với Sihanouk và bắt đầu thảo luận
với Mỹ và Trung Quốc về vấn đề Campuchia.
Trung Quốc không có lợi
ích chung với Việt Nam hay bất cứ nước XHCN nào khác trong sự nghiệp bảo
vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc. Trung Quốc tuyên bố bảo vệ chủ nghĩa
xã hội nhưng Trung Quốc không hề tuyên bố bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở các
nước trên thế giới. Điều đó có nghĩa là Trung Quốc chỉ bảo vệ chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc.
Để có được phương hướng hành động giữa lúc nhiều nhận thức về đối ngoại của ta khi đó còn trong tình trạng tranh tối tranh sáng, chúng tôi đã tổ chức những buổi thảo luận trong nội bộ CP 87 với tinh thần tự do tư tưởng để
cố nhìn thấu được thực chất của sự việc. Trong lúc nhận thức con người
về thế giới bên ngoài còn bị chi phối bởi cảm tính mạnh hơn lý trí,
người ta để xem nhẹ thực chất vấn đề mà hướng theo những hiện tượng nhất
thời. Sau sự kiện Trường Sa 1988 mà hải quân Trung Quốc đã gây tổn thất
khá nặng cho hải quân ta và việc Trung Quốc tiếp tục gây căng thẳng
trong quan hệ với ta, bác bỏ các đề nghị của ta cải thiện quan hệ giữa
hai nước, trong nội bộ ta đã xuất hiện những ý kiến khác nhau. Không khí
chung lúc đầu là không thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc theo tinh thần Nghị quyết 13 của BCT. Ta nhìn mặt bành trướng bá quyền của Trung Quốc đậm nét hơn mặt XHCN.
Nhiều ý kiến cho rằng trong khi Trung Quốc đang chống ta trong vấn đề
Campuchia và tìm cách lấn chiếm biên giới hải đảo của ta, việc ta quyết
định rút quân khỏi Campuchia, sửa Lời nói đầu của Điều lệ Đảng là hữu khuynh trong
quan hệ với Trung Quốc. Chủ trương của Bộ Chính trị về giảm tuyên
truyền chống đối Trung Quốc cũng không được thực hiện đầy đủ. Ngày
20.5.87, với tinh thần thực sự cầu thị. Bộ Ngoại giao làm tờ trình lên
BCT kiến nghị sửa Lời nói đầu của Hiến pháp, bỏ chỗ nói Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất như đã sửa Điều lệ Đảng, mãi tới 26.8.88 Quốc hội mới có nghị quyết thông qua việc sửa này. Có người còn nói mỉa: có phải Ngoại giao định quỳ gối trước Trung Quốc không ?”.
Nhưng rồi sang năm 1989,
khi bắt đầu cuộc khủng hoảng trong phe XHCN, một số ngành trong Trung
ương và ngay trong Bộ Chính trị lại xuất hiện những ý kiến khác nhau về
đánh giá sự kiện Thiên An Môn cũng như đánh giá tình hình Liên Xô - Đông Âu. Lúc này luận điểm được ưa dùng lại là “dù bành trướng thế nào Trung Quốc vẫn là một nước XHCN”.
Tôi và anh em trong bộ
phận thường trực CP 87 đã mất khá nhiều thời giờ tranh luận về thực chất
Trung Quốc là XHCN hay bành trướng bá quyền ? Mặt nào là chính trong
chính sách đối ngoại của Trung Quốc ? “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” cụ
thể là gì? Trung Quốc muốn gì trong vấn đề Campuchia? Muốn gì khi nuôi
dưỡng bè lũ Khmer Đỏ chống Việt Nam ? ý đồ của Trung Quốc đối với Việt
Nam ?
Chúng tôi thấy rằng:
Trung Quốc ngày nay có hai mặt, mặt XHCN mặt bành trướng bá quyền. Tính
chất XHCN thể hiện tương đối rõ nét hơn về chính sách đối nội, ở cơ cấu
xã hội, cơ cấu kinh tế của họ. Còn đường lối đối ngoại của Trung Quốc
lại mang tính chất cổ truyền của họ là bành trướng bá quyền. Cái bất biến của Trung Quốc là tham vọng bá quyền. Nhưng những cái mà Trung Quốc sử dụng làm công cụ để thực hiện chính sách đó lại là “vạn biến”.
Tuỳ theo lợi ích của họ trong từng lúc mà một nước nào đó có thể được
Trung Quốc coi là bạn hay là thù. Tại Đông Nam Á, khi Trung Quốc muốn
chống hay gây sức ép với chính quyền tư sản các nước này thì họ lập ra
hoặc giúp đỡ lập ra các đảng cộng sản Mao-ít ở Thái Lan, Miến Điện,
Mã-lai,… khi Trung Quốc thấy cần tranh thủ các chính quyền tư sản khu
vực này thì ta đã thấy các đảng cộng sản đó lần lượt tiêu tan để phục vụ
cho mục đích của Trung Quốc. Rồi sau sự kiện Thiên An Môn để xoa dịu
phản ứng của Mỹ và phương Tây, Trung Quốc hy sinh nốt Đảng Cộng sản
Mã-lai. Theo kênh của Bắc Kinh, TBT đảng này là Trần Bình, gốc Trung
Quốc, đã ra ký kết đầu hàng chính quyền Ma-lay-xi-a và giải tán đảng
Cộng sản.
Trường hợp Khmer đỏ sau này cũng vậy, theo tờ “ý thức Khmer” ngày 17.10.00 dưới đầu đề “Trung Quốc giết Polpot để đe doạ những chỉ huy Khmer đỏ còn lại buộc trở về với Hun-xen” viết: “Sau
khi đi gặp Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok, Polpot chết không phải do
bệnh tật cũng không phải do Hun-xen mà chết do thuốc độc của Trung Quốc (?). Bởi
vì Trung Quốc vận động các chỉ huy Khmer đỏ trở về với chế độ của Thủ
tướng Hun-xen không được nên đã giết Polpot để đe doạ những chỉ huy
Khmer đỏ khác… Sở dĩ Trung Quốc muốn các chỉ huy Khmer đỏ trở về với
Hun-xen vì Trung Quốc đã chọn Hun-xen làm con bài có lợi về chính trị
cho họ sau khi Polpot không còn ý nghĩa đối với họ nữa”.
Trong lịch sử 50 năm của nước CHND Trung Hoa thì có hơn 30 năm Trung Quốc hết chống Liên Xô lại
chống Việt Nam. Trên cơ sở đó, tôi hoài nghi là liệu có thể đứng trên
lý tưởng chung XHCN để tranh thủ Trung Quốc được chăng ?
Trong khi nghiên cứu ý
đồ Trung Quốc đối với Việt Nam và trong vấn đề Campuchia, chúng tôi đã
thử liệt kê những thay đổi trong lập trường của Trung Quốc về việc nối
lại đàm phán bình thường hoá quan hệ với ta trong thời gian
1980-1988. Kết quả cho thấy là từ khi Trung Quốc đơn phương chấm dứt
vòng 2 đàm phán Việt – Trung về bình thường hoá quan hệ hai nước vào ngày 8.3.80, Trung Quốc đã luôn luôn nâng cao điều kiện nối lại đàm phán với Việt Nam:
a. (80-9.85) Trung Quốc đòi ta rút hết quân khỏi Campuchia thì sẵn sàng nối lại đàm phán:
- Tháng 10.82, tại vòng 1 đàm phán Xô-Trung, Trung Quốc trao cho Liên Xô bản
đề nghị 5 điểm về vấn đề Campuchia trong đó điểm 2 nói: Việt Nam tuyên
bố rút hoàn toàn thì Trung Quốc sẽ tiến hành tham khảo với Việt Nam về
bình thường hoá quan hệ hai nước ngay sau khi Việt Nam rút những đơn vị đầu tiên. Tháng 3.83, Trung Quốc đưa ra công khai đề nghị này.
- Sau chiến dịch pháo
kích và tập kích quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới miền Bắc nước ta
kéo dài 3 tháng (tháng 4-6.84), Trung Quốc tuyên bố: chỉ cần Việt Nam hứa rút quân khỏi Campuchia thì hai bên sẽ mở đàm phán.
- Ngày 21.1.85, trả lời
thư 8.1.85 của ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đề nghị hai bên nối đàm
phán, ngoại trưởng Trung Quốc Ngô Học Khiêm viết: “Quan hệ Trung –
Việt xấu đi, vấn đề cốt lõi là quân đội Việt Nam xâm chiếm Campuchia…
Sau khi Việt Nam công khai cam kết và thực hiện rút quân khỏi Campuchia
thì đàm phán mới có ý nghĩa thực tế”.
b. Từ
tháng 9.85 đến cuối năm 1985 khi ta đã tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi
Campuchia trong năm 1990, Trung Quốc lại không nói “sẵn sàng đàm
phán”với ta nữa, mà chỉ nói sẽ nói chuyện với đại sứ hai bên.
- Ngày 6.9.85, đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội gửi công hàm trả lời công hàm ngày 21.8.85 của Bộ Ngoại Giao ta trong đó nói: “Việt
Nam tuyên bố thời gian rút quân kéo dài đến 1990 và đặt điều kiện vô lý
cho việc rút quân, như vậy là chưa có thiện chí. Đàm phán giữa hai nước
với bất cứ hình thức nào cũng khó đạt kết quả. Nếu Việt Nam có vấn đề
gì cần nói thì cứ chuyển qua đại sứ hai bên”.
c. Từ
cuối 1985 đến tháng 3.86, Trung Quốc một mặt vẫn đòi ta cam kết rút
quân nhưng đưa ra điều kiện là nếu Việt Nam không loại trừ lực lượng
Polpot thì Trung Quốc sẽ đàm phán ngay với Việt Nam.
- Ngày 18.12.85, lãnh tụ Rumani Ceaucescu sau khi thăm Trung Quốc thông báo với anh Hoàng Tùng để chuyển TBT Lê Duẩn: “Trung
Quốc sẽ đàm phán ngay với Việt Nam, nếu Việt Nam đồng ý không loại trừ
lực lượng Polpot. Đàm phán sẽ bắt đầu trong khi Việt Nam chưa rút quân
khỏi Campuchia, song cần cam kết rút hết”.
d. Từ
tháng 3.86 (khi 3 phái Khmer phản động đưa đề nghị 8 điểm) đến nay
(6.87), Trung Quốc đòi Việt Nam rút hết quân nhưng đòi Việt Nam nói
chuyện với “Chính phủ liên hiệp Campuchia dân chủ” và với Sihanouk còn
Trung Quốc chỉ đàm phán trực tiếp với Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia
được giải quyết theo cách của Trung Quốc.
- Ngày 25.8.86, thứ
trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói với Vũ Thuần, Vụ phó vụ
Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta: Trung Quốc không thể thay mặt Campuchia để
bàn với Việt Nam vấn đề Campuchia được, Việt Nam phải bàn với
“Campuchia Dân chủ.”
- Tháng 10.86, TBT Hồ Diệu Bang nói với Honecker, TBT Đảng Cộng sản Đức26 đang thăm Trung Quốc “Lúc
đầu Trung Quốc nghĩ có thể đàm phán (với Việt Nam) trước, rút quân sau.
Nhưng sau tính lại nhiều lần, Trung Quốc quyết định Việt Nam phải rút
quân trước, sau đó mới đàm phán. Đây là phương án tốt nhất, nếu không sẽ
tác động không tốt tới ASEAN và 3 phái (Sihanouk, Son San và Khmer đỏ)”.
- Ngày 14.5.87, Đặng Tiểu Bình tiếp Tổng thư ký LHQ De Cuellar và nhờ ông ta chuyển cho ta một “thông điệp miệng”27: “Chỉ
khi nào vấn đề Campuchia được giải quyết theo cách này (Việt Nam rút
quân khỏi Campuchia, lập chính phủ liên hiệp 4 bên gồm Sihanouk, Son
San, Khieu Samphon, Heng Xamrin; do Sihanouk đứng đầu) thì Trung Quốc
mới đàm phán trực tiếp với Việt Nam. Đàm phán như vậy sẽ bao gồm cả vấn
đề bình thường hoá quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Còn trước đó thì
mọi cuộc đàm phán trực tiếp đều không thể có được.”
- Ngày 26.7.87, anh Thạch gặp Đại sứ Trung Quốc chuyển “thông điệp miệng”
của Thủ tướng Phạm văn Đồng đề nghị hai nước đàm phán bí mật. Đến ngày
28.7.87, Ngoại trưởng Ngô Học Khiêm nói chưa trả lời thông điệp đó vì
Trung Quốc không muốn chấp nhận “sự đã rồi” ở Campuchia.
Như vậy là từ sau khi
đơn phương cắt đứt cuộc đàm phán (sau khi Trung Quốc gây chiến tranh xâm
lược Việt Nam tháng 2.79, ta đã có 2 vòng đàm phán với Trung Quốc: vòng
1 từ 18.4 đến 18.5.79 tại Hà Nội; vòng 2 từ 28.6.79 đến 6.3.80 tại Bắc
Kinh) từ năm 1980 đến cuối năm 1988 đã ngót hai chục lần Việt Nam gửi
thư hoặc công hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán nhưng đều bị
Trung Quốc bác với lý do này hoặc lý do khác. Và Trung Quốc nâng cao dần
điều kiện lên (về quân sự đòi Việt Nam rút quân, về chính trị đòi Việt
Nam chấp nhận sẽ lập chính phủ liên hiệp ở Campuchia, bao gồm cả Khmer
đỏ). Trong khi thoái thác đàm phán, Trung Quốc xúc tiến đàm phán bình
thường hoá quan hệ với Liên Xô (từ tháng 10.82) và Lào (từ cuối 1986) để cô lập và ép Việt Nam. Đặc biệt là thông qua đàm phán với Liên Xô. Sau khi Gorbachov lên làm TBT Đảng Cộng sản Liên Xô (11.3.85),
Xô-Trung bắt đầu bàn đến vấn đề Campuchia trong vòng đàm phán thứ 7 ở
Bắc Kinh (4-20.10.85), Trung Quốc thể hiện ngay thái độ làm cao, không
nói đến đàm phán với Việt Nam nữa để gia tăng sức ép đối với Việt Nam về
vấn đề Campuchia. Trong vòng 10 đàm phán Xô – Trung ở Mạc-tư-khoa
(7.2.87), Trung Quốc nêu lại “3 trở ngại” trong việc bình thường hoá
quan hệ với Liên Xô mà trở ngại lớn nhất là việc Việt
Nam xâm lược Campuchia. Và cũng từ đó, các lần gặp gỡ Xô – Trung đều tập
trung bàn vấn đề Campuchia và công khai hoá điều đó.
5. TỪ CHỐNG DIỆT CHỦNG ĐẾN “GIẢI PHÁP ĐỎ” !
5. TỪ CHỐNG DIỆT CHỦNG ĐẾN “GIẢI PHÁP ĐỎ” !
Rõ ràng Trung Quốc mưu
dùng vấn đề Campuchia để cải thiện thế đứng trong quan hệ với các nước
lớn, trước hết là trong quan hệ Trung – Xô và quan hệ Trung – Mỹ. Còn
Gorbachov cũng sẵn sàng dùng món quà Campuchia để sớm gặp được Đặng, cải
thiện quan hệ với Trung Quốc nhằm tác động đến quan hệ Mỹ – Xô. Chính
trong bối cảnh đó, đã ra đời cái gọi là “giải pháp đỏ”, xuất phát từ ý
tưởng của Gorbachov muốn vấn đề Campuchia được giải quyết giữa hai nước
XHCN, Việt Nam và Trung Quốc, cho nên định gán ghép hai lực lượng cộng
sản Khmer thù địch, Khmer đỏ của Polpot-Ieng Sary thân Bắc Kinh và Nhà
nước Campuchia thân Hà Nội, bắt tay nhau dưới cái mũ “hoà hợp dân tộc”.
Đầu tháng 3/1987, ngoại trưởng Liên Xô Shevardnadzé
đến PhnomPenh trong chuyến đi thăm 3 nước Đông Dương. Sau cuộc gặp
Shevardnadzé, Hunxen nói với anh Đỗ Chính, trưởng đoàn chuyên gia Việt
Nam ở Campuchia là: “Liên Xô có vẻ muốn thúc dục giải quyết nhanh
vấn đề Campuchia cũng như vấn đề Afghanistan, Liên Xô chắc đã chuẩn bị
một công thức giải pháp chính trị ở Campuchia, nhưng gạn hỏi không nói,
chắc Liên Xô sẽ nêu trong cuộc gặp Gorbachov – Nguyễn Văn Linh ở
Mạc-tư-khoa (tháng 5.87). Shevardnadzé nói đến hoà hợp dân tộc Campuchia
và hỏi ai trong Khmer đỏ còn có thể dùng được ?” Hunxen liên hệ chuyện này với phát biểu của Gorbachov ở Vladivodstock (28.7.86) và cho rằng có thể Liên Xô nghĩ
đến chuyện khuyến khích hai phái cộng sản Campuchia dàn xếp với nhau.
Khi thuật lại lời Schevardnadzé khuyên Campuchia thúc đẩy mạnh hoà hợp
dân tộc, Hunxen nói: “Chúng nó mà về thì chúng sẽ làm thịt những người tích cực, trước hết là bọn chúng tôi”.
Sau cuộc họp BCT 7.3.87,
Lê Đức Thọ sang trao đổi với BCT Lào, rồi đến cuối tháng 4.87, Lê Đức
Thọ lại cùng Lê Đức Anh bay sang Campuchia họp với những người lãnh đạo
PhnomPenh bàn việc thúc đẩy giải pháp chính trị Campuchia và quan hệ với
Trung Quốc, trong đoàn có tôi và anh Trần Xuân Mận của CP 87. Anh Lê
Đức Thọ khi đó đã đưa ra gợi ý “giải pháp Đỏ”. Bản thân tôi lần đầu mới
được biết tường tận về cái gọi là “giải pháp Đỏ”. Nói gọn lại, “giải
pháp đỏ” là một sản phẩm của mộng tưởng giải quyết cuộc xung đột
Campuchia bằng cách hoà giải PhnomPenh với bọn diệt chủng Polpot và lập
nên một nước Campuchia XHCN vừa làm vừa lòng Trung Quốc vừa hợp ý của
lãnh đạo ta. Trong thâm tâm chúng tôi – những anh em CP 87 – đều thấy
không thể chấp nhận được cái “sáng kiến” kỳ quái này. Phần vì quá ghê
tởm với tội ác của bọn Khmer đỏ đối với nhân dân Campuchia cũng như đối
với nhân dân ta để có thể nghĩ đến chuyện hợp tác với chúng; phần vì
nghĩ rằng khó có khả năng thực hiện được trò chơi nguy hiểm này. Quả
nhiên lãnh đạo PhnomPenh đã đón nhận những gợi ý này với một thái độ
lạnh nhạt. Họ chủ trương “ăn cả” bằng một giải pháp quân sự, coi Khmer
Đỏ lẫn Sihanouk và Son San đều là đối thủ phải loại trừ. Nhưng dưới sức
ép của hai đồng minh chính – Liên Xô và Việt Nam – trong cuộc họp giữa
các bên Campuchia ở Jakarta, Hunxen đã thử tiếp xúc với Khiêu Samphon
song tên đẩu sỏ Khmer Đỏ này chỉ đáp lại bằng một thái độ khinh miệt.
Ngày 22.12.87, cũng theo
gợi ý của Liên Xô, ta và bạn Campuchia tán thành Liên Xô gửi “Message
Oral” cho ngoại trưởng Trung Quốc đề nghị Liên Xô và Trung Quốc góp phần
dàn xếp một cuộc gặp gỡ giữa CHND Campuchia và Khmer Đỏ. Nếu Trung Quốc
đồng ý, Liên Xô sẵn sàng tiếp xúc với Trung Quốc ở cấp ngoại trưởng.
Trung Quốc đã không đáp ứng đề nghị đó. Trung Quốc chưa muốn giải quyết
vấn đề Campuchia, còn muốn dùng vấn đề này để mặc cả với Liên Xô và Mỹ,
dủng “3 trở ngại” để hãm phanh quan hệ với Liên Xô.
Ngày 30.7.88, trong buổi
thông báo kết quả cuộc Họp không chính thức ở Jakarta lần 1 (Jakarta
Informal Meeting –JIM 1) cho đại sứ, đại biện các nước XHCN ở Phnôm
Pênh, khi đại sứ CHDC Đức hỏi về khả năng lôi kéo Khiêu Samphon và những
nhân vật ôn hoà của Khmer Đỏ, Hunxen nói: “Bọn này là thú chứ không
phải là người. Cứ để chúng trong rừng, không có chúng, ta cũng giải
quyết được. Chúng không thay đổi, nhân dân Campuchia không chấp nhận
chúng. Chúng tôi rất hiểu Khmer Đỏ. Mong các đồng chí hiểu cho, bọn này
không chơi được. Nếu chỉ riêng Campuchia thôi thì Campuchia không cần
Khmer Đỏ. Nhưng Campuchia liên quan đến các nước xung quanh mà Việt Nam
lại cần bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nên chúng tôi chấp nhận
chúng về chính trị… Tôi cho rằng cứ để chúng ở ngoài rừng,
không sao cả ! Thái Lan đã trung lập thì Campuchia tranh thủ Sihanouk,
Son San để đánh Khmer Đỏ.
Ngày 12.10.89, tâm sự với đại sứ Ngô Điền, sau khi phê phán Liên Xô nhượng
bộ Trung Quốc, ép Campuchia thoả hiệp với Trung Quốc và Khmer Đỏ, đánh
đồng “tội phạm với phạm nhân”, không tôn trọng các nước bạn, Hunxen nói:
“Việt Nam cũng có đồng chí nói phải nhượng bộ cái gì để giữ thể
diện cho Bắc Kinh. Năm 1987 tôi cũng đã tính đến giải pháp đó. Bọn Khmer
Đỏ, trừ số đầu sỏ, có thể tham gia, chúng phải xin lỗi nhân dân rồi hoà
hợp dân tộc. Nay tôi đã suy nghĩ nhiều, tiếp xúc với dân ở nhiều nơi,
trực tiếp gặp bọn Khiêu Samphon, tôi nhận thức rõ là dứt khoát không
chơi với bọn này được, giải tán lực lượng của chúng”.
Tháng giêng 1989, Hunxen
xuất bản cuốn sách “Campuchia – con đường 10 năm”, có dành một đoạn dài
nói về “giải pháp Đỏ”, cho chủ trương đó là “sai lầm và nguy hiểm”, là “điều phi lý và trái đạo đức khi đánh đồng bọn tội phạm Polpot với nạn nhân của chúng”, rồi kết luận “giải
pháp Đỏ là con đường nguy hiểm rất lớn cho nhân dân Campuchia. Nó không
thể nào hình thành được, bởi vì chúng tôi không “Đỏ” như người ta hiểu
là có thể hoà đồng vào cái “Đỏ” của bọn Polpot được”.
Ngày 1.6.90, khi gặp anh Thạch ở sân bay Nội Bài trên đường đi Tokyo găpk Sihanouk, Hunxen nói: “ BCT Campuchia thấy giải pháp như đã thoả thuận giữa 3 đồng chí TBT28 cũng có nhiều khó khăn vì 3 nhân tố:
-
Bọn Polpot là bọn rất cực đoan về chủ nghĩa dân tộc.
-
Sau hơn 10 năm đánh nhau, việc hợp tác giữa hai quân đội không thể dễ dàng được.
-
Bọn Polpot sẽ cố gắng đưa một số đảng viên lớn hơn số đảng viên đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia để giành đa số trong một đảng hợp nhất.”
Chiều 22.6.90, anh Phun Sipasot, ngoại trưởng Lào, nói với đại sứ ta Nguyễn Xuân: “Giải
pháp Đỏ là không nên và không thể thực hiện, bất lợi cho ta. Trung Quốc
đang bị cô lập vì là nước duy nhất ủng hộ diệt chủng. Chắc Trung Quốc
không muốn Giải pháp Đỏ mà muốn giải pháp thực chất gồm 4 bên để duy trì
vai trò và vị trí của Khmer Đỏ mà không mang tiếng là ủng hộ diệt
chủng.”
Ngay chính phía Trung
Quốc cũng đã nhiều lần nhận xét thẳng với ta về sáng kiến “giải pháp
Đỏ”. Ngày 17.7.90, Lưu Thuật Khanh nói với Đại sứ Đặng Nghiêm Hoành: “ Việt
Nam vẫn chưa có quyết tâm, chưa dứt khoát trong việc giải quyết vấn đề
Campuchia. Chủ trương của Hunxen giải quyết với Sihanouk là không thực
tế. Chủ trương của Việt Nam hợp tác hai phái công sản Khmer cũng không
thực tế. Cần có cơ chế liên hiệp 4 bên do Sihanouk đứng đầu mới được
quốc tế công nhận”. Ngày 27.7.90, trong một cuộc chiêu đãi của sứ
quán Ai-cập tại Hà Nội, Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói rõ với Vụ
phó vụ Trung Quốc Vũ Thuần: “Giải pháp Đỏ là không thực tế vì làm
như vậy chẳng khác gì hút tất cả các mũi tên về mình, tự cô lập mình.
Hiện nay Trung Quốc chủ trương bảo vệ CNXH ở trong nước chứ không chủ
trương giương cao ngon cờ CNXH về mặt đối ngoại”.
[Vậy ai đã có sáng kiến
nghĩ ra cái quái thai này? Gorbachev chính là cha đẻ của nó. Còn Hunxen
không phải là không tính tới chuyện này. ngày 17.6.87, khi đi thăm Lào,
Hunxen có nói với Ngoại trưởng Lào Phun Sipasot: “Muốn liên hiệp với
phái Polpot không có Polpot hơn là với Sihanouk vì bọn Polpot có lực
lượng nhưng không có thế chính trị, còn Sihanouk ngược lại, không có lực
lượng nhưng có thế chính trị”. Song người “bảo dưỡng” Giải pháp Đỏ
chu đáo nhất lại là lãnh đạo Việt Nam. Trong lãnh đạo Việt Nam suốt
thời kỳ 1987-1991, có người vẫn coi Giải pháp Đỏ là nước bài hay]29,
cho rằng giải quyết vấn đề Campuchia theo cách đó sẽ làm hài lòng Trung
Quốc. Nhưng thực ra cái sáng kiến này chẳng hợp với đường lối “tranh thủ phương Tây vì mục tiêu 4 hiện đại”
của Đặng Tiểu Bình chút nào mà lại gây thêm sự nghi ngại của Nhà nước
Campuchia đối với ta, mà chính Trung Quốc đã đem chuyện này nói với Mỹ
và các nước phương Tây để chứng tỏ rằng Việt Nam luôn có thủ đoạn lắt
léo, là một đối tượng đàm phán không đáng tin cậy, bên ngoài thì hô to
“chống diệt chủng” bên trong thì ép PhnomPenh thoả hiệp với bọn Polpot.
Thật đáng tiếc, ảo tưởng
về “giải pháp Đỏ” này vẫn còn đeo đuổi khá lâu trong các tính toán của
ta về vấn đề Campuchia, thậm chí cả sau khi Trung Quốc đã nói thẳng với
ta trong cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô là họ không thể nuốt nổi “món quà”
đó !
29 Phần
[ ], bản 01 viết: [Những ai đã có sáng kiến nghĩ ra (cho đến nay tôi
cũng chưa biết được đích xác ai là tác giả của cái quái thai này. Liên
Xô? Việt Nam ? hay Hunxen ? Có điều chắc chắn là lãnh đạo Việt Nam trong
suốt thời kỳ 1987-1991 (vẫn coi đó là nước bài hay) hay tán thưởng
“giải pháp Đỏ” chắc]
6. MỘT BƯỚC TỰ CỞI TRÓI: ĐA DẠNG HOÁ ĐA PHƯƠNG HOÁ QUAN HỆ
6. MỘT BƯỚC TỰ CỞI TRÓI: ĐA DẠNG HOÁ ĐA PHƯƠNG HOÁ QUAN HỆ
Trong khi họp CP 87 sáng
14.5.87, chúng tôi thảo luận sôi nổi làm sao giành lại thế chủ động
trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Anh Thạch có ý kiến: “Không
nhất thiết ta chỉ làm với Trung Quốc. Phải thấy là ba nước lớn
Mỹ-Xô-Trung đang chụm lại với nhau trao đổi về cái khung giải pháp. Cần
nhớ kinh nghiệm những năm 1954, 1973, Trung Quốc vẫn phải tiếp tục lợi
dụng mâu thuẫn Mỹ-Xô, Trung-Xô không thể giải quyết với nhau qua đầu Mỹ,
phải thoả thuận cả với Mỹ. Cho nên ta chỉ húc đầu vào một con đường nói
chuyện với Trung Quốc là không đúng”. Bản thân tôi rất tâm đắc suy nghĩ đó. Lâu nay tôi thường cảm thấy ta chịu lệ thuộc hơi nhiều vào anh cả Liên Xô, anh hai Trung Quốc trong
tư duy và hành động nên đã tự hạn chế mình trong hoạt động đối ngoại
trên thế giới và ở khu vực Đông Nam Á. Muốn Trung Quốc mềm đi, phải cho
thấy ta ngày càng nhiều bạn. Ngược lại, nếu ta chỉ thấy có Trung Quốc
thôi và nếu Trung Quốc thấy ta yếu và đơn độc thì họ sẽ rất cứng rắn với
ta. Chính vì vậy mà Trung Quốc đã buộc ta phải có hết nhượng bộ nọ đến
nhượng bộ kia. Mặt khác, Gorbachov vì lợi ích nước lớn, không rõ vô tình
hay hữu ý, đã làm Việt Nam vào cái khung “phải giải quyết vấn đề Campuchia với Trung Quốc”.
Phải nói rằng với nếp
suy nghĩ quá thiên lệch, quá cứng nhắc về “hai phe” lúc đó, chỉ riêng
nghĩ đến chuyện quan hệ với các nước phương Tây đã gần như một điều huý
kỵ, nên việc Ngoại giao đề cập đến mở rộng tiếp xúc hợp tác ra ngoài thế
giới XHCN gần như là chuyện động trời. Người ta chấp nhận nó không phải
dễ dàng. Tư tưởng đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ đối ngoại đã đến với ta hơi chậm nhưng chưa muộn.
Theo hướng đó, ta đã nghiên cứu và mở đợt tấn công ngoại giao tháng 6-8.87 với đặc điểm:
- Không tấn công về nội dung giải pháp như mọi khi, mà tấn công về cơ chế giải quyết vấn đề;
- Thăm dò tất cả các
diễn đàn có thể đưa đến giải pháp, tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp tất
cả các đối phương (Trung Quốc, ASEAN, Mỹ);
- Phối hợp tốt với việc Campuchia ra “tuyên bố về chính sách hoà hợp dân tộc”.
Đợt tấn công đã đem lại
những kết quả mong muốn, làm bộc lộ hai xu hướng đi ngược chiều nhau
trong hàng ngũ đối phương, những mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương đã
nổ ra một cách công khai gay gắt (giữa Trung Quốc với ASEAN, Mỹ,
Sihanouk; trong nội bộ ASEAN, trong nội bộ 3 phái “Campuchia Dân chủ”).
Trong xu thế đối thoại
đang được đẩy mạnh giữa Xô – Mỹ, thông cáo 29.7.87 của cuộc gặp giữa
Việt Nam (Nguyễn Cơ Thạch) và Inđônêxia (Mochtar), đại diện cho hai nhóm
nước Đông Dương và ASEAN, thoả thuận dùng hình thức tổ chức “cocktail
party” để họp với các bên Campuchia bàn vấn đề Campuchia gắn với vấn đề
Đông Nam Á, việc Việt Nam công bố đợt rút quân 1987 có mời quan sát viên
nước ngoài đã làm chuyển động tình hình. Mỹ cử đặc phái viên của tổng
thống đến Việt Nam, Sihanouk tuyên bố tạm thôi chức chủ tịch Campuchia
Dân chủ và sẵn sàng gặp Hunxen.
Ngày 20.5.88, BCT ra
nghị quyết 13 chủ trương giải quyết vấn đề Campuchia trước năm 1990 và
phấn đấu bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. nghị quyết nói rõ: “Phấn
đấu bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc là một quá trình gay go,
phức tạp, đòi hỏi có thời gian. Sau khi bình thường hoá, quan hệ hai
nước khó trở lại ngay như những năm 50, 60. Cuộc đấu tranh tiếp tục dưới
nhiều hình thức khác, không như tình trạng đối đầu như hiện nay… chúng
ta phải luôn cảnh giác, chuẩn bị tốt về mọi mặt khi bước vào cuộc đấu
tranh mới, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn xấu hòng làm suy yếu ta,
“diễn biến hoàn bình”, chia rẽ, phá hoại nội bộ, chia rẽ 3 nước Việt
nam, Lào, Campuchia… Cần phòng ngừa, khắc phục những tư tưởng lệch lạc,
chỉ thấy giới hạn Trung Quốc là bá quyền, không thấy Trung Quốc là XHCN;
hoặc chỉ thấy Trung Quốc là XHCN mà không thấy bá quyền, bành trướng.” Đối với Lào và Campuchia, nghị quyết nêu rõ: “Việc
Lào và Campuchia sẽ đi lên XHCN hay phát triển theo con đường dân tộc,
dân chủ nhân dân là do Đảng và nhân dân hai nước đó quyết định, phù hợp
với điều kiện thực tế và nguyện vọng của nhân dân nước đó”…
Tất cả những động thái
đó đã tạo ra khả năng thực tế phá vỡ bế tắc về vấn đề Campuchia đã kéo
dài hơn 8 năm qua. Trung Quốc buộc phải tính toán lại, họ không còn khả
năng khống chế ASEAN cũng như Sihanouk nữa. Về phía các nước ASEAN, điều
khiến họ lo ngại Việt Nam nhất trong vấn đề Campuchia là việc Việt Nam
đưa quân sang Campuchia nay đang được dỡ bỏ với việc Việt Nam tuyên bố
rút quân khỏi Campuchia. Các diễn đàn mới về vấn đề Campuchia được mở ra
khiến cho sức ép của Trung Quốc đối với v bị hạn chế lại.
Trong hoà hoãn giữa ba
nước lớn, vai trò Trung Quốc lúc này vẫn lép nhất, hoà hoãn Xô – Mỹ phát
triển mạnh nhất. Xô – Mỹ đã thoả thuận giải quyết vấn đề Afghanistan là
một vấn đề châu Á mà không có vai trò của Trung Quốc. Trung Quốc lo
ngại với cái đà đó, Xô – Mỹ rồi sẽ giải quyết các vấn đề châu Á khác như
vấn đề Campuchia mà cũng không có vai trò Trung Quốc. Trung Quốc muốn
giữ vai trò một trong ba nước lớn giải quyết vấn đề Campuchia. Như thế
sẽ lợi cho Trung Quốc hơn là để vấn đề Campuchia được giải quyết giữa
người Campuchia với nhau, giữa ASEAN – Đông Dương, hay giữa Trung Quốc –
Việt Nam. Vì vậy Trung Quốc chống lại thoả thuận Việt Nam – Inđônêxia
29.7.87 ở thành phố Hồ Chí Minh, ra sức phá diễn đàn Hunxen – Sihanouk,
đòi Việt Nam đàm phán với Sihanouk, hỗ trợ Thái Lan gây xung
đột biên giới Thái – Lào, gây ra xung đột với hải quân ta ở Trường Sa
(3-4.88). Trong tình hình đó, Việt Nam và CHND Campuchia đã công bố đợt
rút quân tình nguyện Việt Nam lần thứ 7 khỏi Campuchia trong năm 1988.
Đây là đợt rút quân lớn nhất từ khi ta bắt đầu rút quân năm 1982. Việc
này đã làm tăng thêm khó khăn lúng túng cho Trung Quốc vì dư luận quốc
tế lại bắt đầu tập trung hướng về vấn đề xử lý bọn diệt chủng Polpot,
đồng thời làm tăng sự thúc bách sớm có một giải pháp chính trị cho vấn
đề Campuchia trước khi Việt Nam rút hết quân vào năm 1990 như đã tuyên
bố.
7. TRUNG QUỐC UỐN MÌNH ĐỂ THÍCH NGHI VỚI THẾ CỤC
7. TRUNG QUỐC UỐN MÌNH ĐỂ THÍCH NGHI VỚI THẾ CỤC
Ngày 6.12.88, sau chuyến đi Liên Xô của ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham, Liên Xô đã thông báo lại cho ta là “các
phát biểu của Tiền về vấn đề Campuchia đã có thay đổi chừng nào, chứng
tỏ Bắc Kinh đang dần dần nhận thức thấy việc đặt giải pháp cho vấn đề
Campuchia theo kịch bản của Trung Quốc là không thực tế và Trung Quốc
đang từ bỏ đường lối kéo dài cuộc xung đột”. Về giải pháp, Trung Quốc đồng ý với Liên Xô là việc rút quân Việt Nam là một bộ phận trong giải pháp; về các vấn đề nội bộ của Campuchia, Trung Quốc cho rằng “phải được giải quyết bởi bản thân nhân dân Campuchia trên cơ sở hoà hợp dân tộc, không có sự can thiệp từ bên ngoài”.
Song Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ về việc lập chính phủ liên
hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu, giảm dần đi đến giải tán quân
đội của cả 4 bên Campuchia; thực chất là xoá nguyên trạng ở Campuchia.
Ngày 24.12.88, trả lời
thư ngày 15.12 của Bộ trưởng ngoại giao ta, phía Trung Quốc mời một thứ
trưởng ngoại giao Việt Nam tới Bắc Kinh để trao đổi ý kiến giữa thứ
trưởng ngoại giao hai nước chuẩn bị cho cuộc gặp cấp ngoại trưởng
Trung-Việt. Sau 10 năm đối đầu gay gắt và sau 8 năm một mực từ chối đàm
phán với ta, đây là lần đầu Trung Quốc nhận đàm phán với Việt Nam về vấn
đề Campuchia và về bình thường hoá quan hệ hai nước, thực hiện
bước chuyển sách lược ở Đông Nam Á phục vụ cho việc chuyển chiến lược
chung của Trung Quốc trên thế giới và trong quan hệ với Xô, Mỹ. Sự điều
chỉnh chiến lược này đã được xác định tại Hội nghị Bộ Chính trị Đảng
Cộng sản Trung Quốc ở Bắc Đới Hà tháng 9 năm 1988, và được công khai hoá
tại Quốc hội Trung Quốc tháng 3.89. Sự điều chỉnh chiến lược lần này
diễn ra trong tình hình thế giới cũng như tình hình Đông Nam Á và
Campuchia đã có nhưng thay đổi to lớn, đặc biệt từ năm 1987. Quan hệ Xô –
Mỹ từ năm 1987 đã được cải thiện nhiều, hình thành thế hai cực giải
quyết công việc thế giới và cả châu Á. Trung Quốc không còn lợi dụng
được mâu thuẫn Xô – Mỹ như trước; đồng thời quan hệ Trung – Xô cải thiện
chậm so với quan hệ Mỹ – Xô, làm cho vị trí của Trung Quốc bị yếu trong
quan hệ giữa ba nước lớn. Mặt khác việc Xô – Mỹ giảm cam kết quân sự ở
bên ngoài đã thúc đẩy xu thế độc lập của các nước khác, làm tăng xu
hướng hợp tác khu vực để giải quyết các vấn đề khu vực. Quan hệ giữa các
nước Đông Nam Á từ 1987 đã từ tình trạng đối đầu chuyển từng bước sang
vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình. Các cuộc họp JIM 1
và JIM 2 đã giải quyết được mặt quốc tế của vấn đề Campuchia và tạo
khuôn khổ hợp tác giữa hai nhóm nước ở Đông Nam Á để giải quyết các vấn
đề khu vực. Đặc biệt chính quyền Chatichai ở Thái Lan lúc này quyết tâm tách khỏi chính sách đối đầu của Trung Quốc ở Đông Nam Á, thực hiện chính sách “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”.
Trong tình hình đó, việc Trung Quốc tiếp tục chính sách gây căng thẳng
trên bộ và trên biển ở khu vực này chỉ làm tăng mối lo ngại đối với nguy
cơ bá quyền của Trung Quốc. Với việc quân Việt Nam đã rút ba phần tư và
sẽ rút hết vào tháng 9.89, cốt lõi của vấn đề Campuchia không còn là
vấn đề rút quân Việt Nam nữa mà trở thành vấn đề làm sao loại trừ chế độ
diệt chủng Polpot. Những biến đổi to lớn này buộc Trung Quốc phải
chuyển từ chỗ kéo dài đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Liên Xô để
lợi dụng mâu thuẫn Xô – Mỹ và tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ sang xúc
tiến bình thường hoá toàn diện quan hệ với Liên Xô, giữ cân bằng giữa
quan hệ của họ với Xô và với Mỹ, đồng thời từng bước cải thiện quan hệ
với các nước láng giềng để tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc cải
thiện thế của Trung Quốc trên thế giới và châu Á.
Tháng 1.89, ta nối lại đàm phán với Trung Quốc để cố gắng bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc đồng thời khẳng định thái độ ủng hộ Nhà nước Campuchia giữ vững thành quả cách mạng.
Ngày 5.1.89, TBT Nguyễn
Văn Linh dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của Việt Nam sang PhnomPenh dự lễ
kỷ niệm 10 năm thành lập Cộng hoà Nhân dân Campuchia. Ngay chiều hôm đó
(16 giờ) TBT Nguyễn Văn Linh đã có cuộc hội đàm với Heng Somrin tại
Hoàng Cung. Heng Somrin thông báo: “Bộ Chính trị (Campuchia) đã nhất
trí sẽ tiếp tục tấn công ngoại giao trên cơ sở rút quân Việt Nam đồng
thời với việc ngăn chặn viện trợ quân sự nước ngoài giúp bọn Khmer đối
địch, chấm dứt mọi sự can thiệp vào cách mạng Campuchia… tạo điều kiện
thuận lợi cho hoà đàm Việt Nam – Trung Quốc, Liên Xô – Trung Quốc, đẩy
mạnh thương thuyết Campuchia – Thái Lan. Chúng ta phải có một lịch rút
quân mới, trong đó nếu có một giải pháp chính trị, ta sẽ tuyên bố rút
hết quân Việt Nam không chậm quá tháng 9.89. Nếu Việt Nam đồng ý, sẽ
tuyên bố trong diễn văn của tôi và của đồng chí ngày mai”. Nguyễn Văn Linh tán thành và đề nghị thông báo lại cho Liên Xôvà Lào biết. Ngay chiều tối hôm đó anh Linh đã bảo tôi sửa lại bài diễn văn của anh theo như hai bên đã thoả thuận.
Sáng 6.1.89, trong buổi mít tinh long trọng, TBT Heng Somrin tuyên bố: “Campuchia và Việt Nam đã thoả thuận là nếu có giải pháp chính trị thì quân Việt Nam sẽ rút hết, chậm nhất là vào tháng 9.90”. TBT Nguyễn Văn Linh cũng tuyên bố: “Việt
Nam hoàn toàn nhất trí với Campuchia sẽ rút toàn bộ quân Việt Nam còn
lại vào cuối tháng 9.90. Việc rút hết quân phải song song với việc chấm
dứt viện trợ của nước ngoài, chấm dứt việc sử dụng lãnh thổ nước ngoài
chống Campuchia, tiến hành dưới sự kiểm soát quốc tế.”
Qua những cuộc trao đổi
giữa ta với bạn, là một thành viên trong đoàn Việt Nam, tôi đã dự cảm
chừng nào những khó khăn khi đi sâu vào giải pháp. Lãnh đạo Campuchia có
phần quá tự tin, muốn ta hoàn toàn ủng hộ bạn ăn cả; còn ta lại thiên
về giải quyết vấn đề Campuchia một cách thuận lợi cho cải thiện quan hệ
Việt-Trung.
Trong nửa đầu năm 1989,
đã có hai vòng đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao giữa ta với Trung Quốc
(Đinh Nho Liêm và Lưu Thuật Khanh) tại Bắc Kinh. Vòng đầu (16-19.1.89).
Trung Quốc chỉ trao đổi lướt qua về quan hệ hai nước rồi tập trung đàm
phán vấn đề Campuchia. Hai bên thoả thuận tương đối nhanh mấy vấn đề về
mặt quốc tế của giải pháp Campuchia (rút quân Việt Nam, giám sát quốc
tế, chấm dứt viện trợ quân sự, tổng tuyển cử). Hai bên đồng ý thúc đẩy
các bên Campuchia thương lượng để sớm đạt giải pháp về Campuchia, Trung
Quốc cho là mặt quốc tế cơ bản đã xong, muốn ta thoả thuận hướng giải
quyết mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, chủ yếu là vấn đề chính quyền
và vấn đề quân đội của các bên Campuchia trong thời kỳ quá độ (thời gian
ngừng bắn cho đến tổng tuyển cử), cho rằng có thoả thuận và đạt kết quả
về 2 vấn đề này thì mới có giải pháp, nếu không thì mặt quốc tế có thoả
thuận cũng không giải quyết được, và khó bàn quan hệ hai nước. Lập
trường của ta là các vấn đề nội bộ Campuchia phải do các bên Campuchia
giải quyết. Đáng chú ý là Tiên Kỳ Tham khi tiếp Đinh Nho Liêm có nói: “4
nước Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam, Thái Lan là những nước có liên quan
trực tiếp, có trách nhiệm về vấn đề Campuchia, cần thoả thuận với nhau
về chính quyền lâm thời 4 bên Campuchia trong thời kỳ quá độ thì mới
giải quyết được vấn đề Campuchia”. Họ nói đã bàn với Liên Xô và Liên Xô đã nhất trí nguyên tắc này.
Ngày 11.2.89, BCT họp bàn đề án đấu tranh về vấn đề Campuchia theo hướng:
-
Tách và giải quyết từng bước mặt quốc tế và mặt nội bộ của vấn đề Campuchia;
-
gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với yêu cầu kiến lập hoà bình ở Đông Nam Á;
-
triển khai các diễn đàn: Việt–Trung (vòng 2), JIM 2, 4 bên Campuchia, Thái–SOC, Việt–Thái, Việt–Mỹ.
Trên tinh thần đó, ngày 15.2.89, tôi cùng mấy cán bộ CP87 bay đi Jakarta họp Nhóm làm việc30 để
chuẩn bị cho cuộc họp JIM 2 (19-21.2.89) với thành phần cũng như JIM 1
(các bên Campuchia, Việt Nam, Lào và 6 nước ASEAN). Hội nghị khẳng định
lại kết quả đạt được năm trước ở JIM 1 (25-28.7.88) và nhất trí là vấn
đề Campuchia phải được giải quyết bằng một giải pháp chính trị, góp phần
vào việc thiết lập khu vực hoà bình ổn định Đông Nam Á. Mục tiêu cuối
cùng là xây dựng một nước Campuchia độc lập, có chủ quyền, hoà bình,
trung lập và không liên kết trên cơ sở quyền tự quyết và hoà hợp dân
tộc. Hội nghị nhất trí cần triệu tập Hội nghị quốc tế về Campuchia để
bàn và đi đến một giải pháp chính trị toàn diện, công bằng và hợp lý cho
vấn đề Campuchia.
Ngày 14.3.89 BCT họp quyết định rút hết quân khỏi Campuchia vào cuối tháng 9.89 và thúc đẩy diễn đàn Hunxen – Sihanouk.
Sang vòng 2 đàm phán
Việt-Trung (8-10.5.89) vẫn tại Bắc Kinh, cuộc đàm phán vấp ngay vào hai
tảng đá lớn: vấn đề diệt chủng và việc xử lý các vấn đề nội bộ Campuchia
(lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu, đông kết
và giảm quân đội của 4 bên Campuchia). Đàm phán kết thúc mà không đi đến
kết quả gì. Phía Trung Quốc đề nghị tạm thời chưa tính đến đàm phán
vòng 3. Tiền Kỳ Tham nói với Đinh Nho Liêm rồi sau đó công bố: “bình thường hoá quan hệ hai nước chỉ có thể thực hiện sau khi vấn đề Campuchia đã được giải quyết, không phải là trước đó”. Sau này Trung Quốc đã nói toạc ra rằng: “Việt
Nam không những phải rút hết quân ra khỏi Campuchia mà còn có trách
nhiệm giải quyết những hậu quả của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia,
cụ thể là xoá chính quyền và quân đội CHND Campuchia đã được hình thành
sau khi quân Việt Nam vào PhnomPenh đánh đuổi bọn Polpot”.
Việc Trung Quốc nối lại đàm phán với Việt Nam lúc này, mà phía Trung Quốc gọi là “gặp gỡ nội bộ”, theo tôi, mục đích chính là để biểu diễn cho thế giới thấy là Trung Quốc đã nắm con chủ bài giải quyết vấn đề Campuchia.
8. HIỆP MỘT CỦA HỘI NGHỊ QUỐC TẾ PARIS VỀ CAMPUCHIA
8. HIỆP MỘT CỦA HỘI NGHỊ QUỐC TẾ PARIS VỀ CAMPUCHIA
Hai tháng sau, Hội nghị
quốc tế Paris về Campuchia (30.7-30.8.89) được triệu tập. Hội nghị tuy
chưa giải quyết được vấn đề Campuchia nhưng có thể nói đã mở ra giai
đoạn kết thúc. Sau JIM, đây là đỉnh cao của các diễn đàn và là cuộc hội
nghị quốc tế đầu tiên bàn về vấn đề Campuchia. Hội nghị tiến hành ngoài
khuôn khổ của LHQ tuy có mặt De Guellar, Tổng thư ký LHQ, và bộ trưởng
ngoại giao 5 nước thành viên Hội Đồng Bảo An. Tổng Thư ký LHQ dự hội
nghị chỉ với tư cách một thành viên của hội nghị. Trong hội nghị này,
lần đầu các bên Campuchia đối địch ngồi sát cạnh nhau, dưới một cái biển
ghi tên chung là Campuchia. Ngoài đại diện của 4 phái Campuchia: Hunxen
(CHND Campuchia), Khiêu Samphon (Khmer Đỏ), Ranarit (phái Sihanouk),
Son Soubert (con Son San), có các đoàn đại biểu của 17 nước do bộ trưởng
ngoại giao dẫn đầu: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, Úc, Ấn
Độ, Canada, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Inđônêxia, Singapore,
Malaysia, Philippin, Brunei. Phong trào Không Liên Kết do ngoại trưởng
Zimbawe đại diện. Ngoại trưởng Pháp Roland Dumas và ngoại trưởng
Inđônêxia Ali Alatas là đồng chủ tịch hội nghị.
Sáng 28.7.89, tôi cùng
đại bộ phận đoàn ta tới Paris. Đoàn có các anh Lê Mai, Đặng Nghiêm
Hoành, Ngô Điền, Hà Văn Lâu, Trần Huy Chương, Lê Công Phụng, Huỳnh Anh
Dũng, chị Tôn Nữ thị Ninh. Thiếu tướng Phi Long được Bộ Quốc Phòng cử đi
tham gia đoàn. Ngày 29.7 anh Nguyễn Cơ Thạch đến nơi. Hội nghị khai mạc
chiều 30.7. Thành phần hội nghị tuy xem như không có lợi cho ta, song
ta đến hội nghị với thế mạnh của Tuyên bố rút hết quân vào cuối tháng
9.89 mà CHND Campuchia vẫn tỏ ra vững vàng tự tin.
Ngay từ đầu Hội nghị đã
vạch ra chương trình phải họp cả tháng – từ 30.7 đến 30.8.89 – vì vấn đề
rất phức tạp mà lập trường giải pháp của các bên lại còn khá xa nhau.
Suốt thời gian hội nghị nổi cộm lên hai vấn đề lớn:
-
Loại trừ hay chấp nhận bọn diệt chủng Polpot;
-
Duy trì hay xoá bỏ nguyên trạng chính trị và quân sự ở Campuchia.
Cuộc đấu tranh diễn ra
gay gắt trong suốt quá trình hội nghị. Đối phương dùng áp lực của 5 nước
lớn và đa số trong hội nghị đòi áp đặt việc lập Chính phủ liên hiệp lâm
thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu và đòi lập bộ máy kiểm soát quốc tế của
LHQ. Còn phía ta đòi loại trừ bọn diệt chủng Polpot, đòi tôn trọng
nguyên tắc nước ngoài không được can thiệp vào công việc nội bộ
Campuchia, tôn trọng nguyên trạng ở Campuchia có hai chính quyền, tôn
trọng quyền của nhân dân Campuchia tự quyết định chế độ chính trị của
mình và lập chính phủ của mình thông qua tổng tuyển cử tự do. Phía ta
chấp nhận vai trò của LHQ nếu LHQ chấm dứt những nghị quyết thiên vị,
ủng hộ một bên chống một bên.
Phát biểu của ta tại
phiên họp toàn thể tập trung lên án diệt chủng Polpot, khẳng định kết
luận của JIM về hai vấn đề then chốt (rút quân Việt Nam và lên án diệt
chủng) và nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ Campuchia, đề
cao vị trí của Nhà nước Campuchia. Các ngoại trưởng chỉ dự các phiên họp
toàn thể hội nghị trong 3 ngày đầu và 2 ngày cuối của hội nghị, còn
phần lớn thời gian dành cho các buổi họp các uỷ ban: ủy ban 1 (về kiểm
soát ), uỷ ban 2 (về bảo đảm quy chế), uỷ ban 3 (về người tị nạn và vấn
đề tái thiết Campuchia), uỷ ban ad hoc (gồm các bên Campuchia
để bàn các vấn đề thuộc nội bộ Campuchia) và uỷ ban Phối hợp, có nhiệm
vụ thảo luận thực chất nội dung của giải pháp.
Cũng trong thời gian
này, ta tranh thủ tiếp xúc riêng các đoàn. Ngày 3.8, thứ trưởng ngoại
giao Liên Xô Rogatchev cho biết: phó đoàn Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói
do không có thời gian nên Tiền Kỳ Tham không gặp được đồng chí Nguyễn
Cơ Thạch; nhưng Tiền lại nói nếu đồng chí Trần Quang Cơ yêu cầu thì có
thể gặp (?). Hôm sau Lưu Thuật Khanh lại nhắn qua Rogatchev: Chưa thấy đồng chí Cơ yêu cầu gặp, nếu yêu cầu thì sẽ nhận lời.
Đến sáng 7.8.89, ta đặt vấn đề với phía Trung Quốc: Nguyễn Cơ Thạch và
Trần Quang Cơ đề nghị gặp quyền trưởng đoàn Trung Quốc Lưu Thuật Khanh
(Tiền Kỳ Tham đã về nước) để trao đổi ý kiến. Lưu Thuật Khanh nhận lời
ngay. Cuộc gặp diễn ra tại sứ quán Trung Quốc ở Paris ngay 4 giờ chiều
ngày hôm đó. Thái độ của Lưu tỏ ra nhã nhặn tuy lập trường Trung Quốc
chưa có gì khác. Lưu nói nếu Việt Nam đồng ý có chính phủ lâm thời 4 bên
Campuchia (tức là có cả Khmer đỏ như một thành viên ngang với 3 bên
kia) thì vấn đề Campuchia coi như giải quyết, và thanh minh là Trung
Quốc không muốn phía 3 phái chiếm 3/4 chiếc bánh, chỉ cần có sự tham gia
của cả 4 bên Campuchia, còn chia phần như thế nào là tuỳ họ. Nếu chỉ 2
bên, 3 bên thì không thực tế và không chấp nhận được. Lưu đề nghị ta
không dùng từ “diệt chủng”; vấn đề diệt chủng là việc nội bộ Campuchia,
do họ tự giải quyết.
Sở dĩ Trung Quốc đến Hội
nghị Paris trong khi chưa sẵn sàng giải quyết vấn đề Campuchia là vì họ
đang cố gắng gỡ thế cô lập sau sự kiện Thiên An Môn và trong lúc nội bộ
họ vẫn đấu tranh gay gắt về các vấn đề đối nội và đối ngoại. Trung Quốc
bất chấp tình hình thực tế, đưa ra đòi hỏi rất cao là xoá nguyên trạng ở
Campuchia trước tổng tuyển cử, chia sẻ quyền lực cho 4 phái, làm suy
yếu cách mạng Campuchia, chia rẽ 3 nước Đông Dương. Mỹ, phương Tây,
ASEAN mâu thuẫn với Trung Quốc về vấn đề Khmer Đỏ, nhưng thống nhất với
Trung Quốc trong việc không chấp nhận nguyên trạng ở Campuchia, và có
lợi ích không làm xấu thêm quan hệ với Trung Quốc.
Chiều 10.8, trợ lý ngoại
trưởng Mỹ Lambertson cùng 4 người trong đoàn Mỹ tới phòng làm việc của
đoàn ta ở Trung tâm hội nghị Kléber, yêu cầu gặp tôi để trao đổi về vấn
đề Campuchia. Tôi cùng anh Lê Mai đã tiếp họ trong 1 tiếng. Họ trình bày
quan điểm của Mỹ về vấn đề Campuchia: cần có giải pháp toàn bộ, không
nhận giải pháp bộ phận; có sự chia sẻ quyền lực thật sự cho các phái
Khmer không cộng sản và trao thực quyền cho Sihanouk, chứ không phải
tượng trưng, mong Việt Nam tác động để Hunxen mềm dẻo hơn. Về vấn đề
diệt chủng và Khmer Đỏ, họ vẫn giữ lối nói nước đôi. Họ nói đến triển
vọng quan hệ tốt giữa Mỹ và Việt Nam, nhưng không quên vấn đề MIA. Ngày
11.8.89 anh Thạch về nước, đến 25.8 mới trở lại. Còn cả đoàn ở lại, chia
nhau đi họp các uỷ ban
Tuy ta cố tránh tranh
cãi với đoàn Trung Quốc trong các buổi họp chung như đã thoả thuận với
Lưu Thuật Khanh, nhưng trong buổi họp uỷ ban 1 (Uỷ ban về kiểm soát quốc
tế) ngày 16.8 bàn vấn đề diệt chủng, sau khi tôi phát biểu lên án Khmer
Đỏ, vạch tội ác diệt chủng, đại biểu Trung Quốc đã phản bác: Việt
Nam đòi kết tội diệt chủng là để che dấu hành động xâm lược, thoái thác
trách nhiệm, viện cớ chống diệt chủng để đưa quân trở lại Campuchia; kết
tội diệt chủng thì Khmer Đỏ sẽ không được tham gia chính quyền, sẽ vào
rừng tiếp tục đánh nhau, do đó sẽ không có hoà bình ở Campuchia; và
đổ tội cho Việt Nam sẽ phải chịu trách nhiệm về thành công hay thất bại
của hội nghị. Tôi không thể không phát biểu đập lại các luận điệu đó,
khẳng định phải giải quyết vấn đề ngăn chặn diệt chủng mới giải quyết
được các vấn đề khác. Tôi vạch rõ sự thật lịch sử là những năm 1975-1978
là thời gian chế độ diệt chủng Polpot hoành hành thì Việt Nam không có
mặt ở Campuchia, lúc đó chỉ có cố vấn Trung Quốc mà thôi.
Sau phát biểu của ta về
vấn đề diệt chủng, trừ Trung Quốc và Singapore, không còn ai nói cắt bỏ
từ “genocide” (diệt chủng). Sihanouk tuyên bố không cho Khmer Đỏ đại
diện cho 3 phái, các uỷ ban đều phải ghi nhận và bàn vấn đề diệt chủng,
những kẻ đòi không dùng từ “diệt chủng” cũng phải thừa nhận sự tàn bạo
của Khmer Đỏ.
Ngày 29.8.89, theo
chương trình đã định, các ngoại trưởng, trừ ngoại trưởng Mỹ và ngoại
trưởng Trung Quốc, trở lại Paris để họp phiên kết thúc hội nghị. Ngày
30.8, sau khi trao đổi với hai đồng chủ tịch hội nghị về dự thảo tuyên
bố của hội nghị quốc tế, anh Thạch chờ ở phòng họp đến 12 giờ trưa, vì
tình hình sức khoẻ phải trở về sứ quán để nghỉ. Ta báo Ban Thư ký hội
nghị là thứ trưởng Trần Quang Cơ sẽ là quyền trưởng đoàn Việt Nam dự
phiên họp cấp bộ trưởng bế mạc hội nghị.
Cuộc họp hẹp không chính
thức ở cấp bộ trưởng bắt đầu từ khoảng 14 giờ kéo dài gần 5 tiếng. Vì
là họp hẹp, mỗi đoàn chỉ có 2 người dự, nên chỉ có tôi và anh Lê Mai
trong phòng họp. Cuộc họp này chủ yếu tranh cãi về điều bổ sung vào dự
thảo Tuyên bố hội nghị của trưởng đoàn Canada dựa theo ý của Trung Quốc,
mang hàm ý phủ nhận kết luận của JIM về 2 vấn đề then chốt của giải
pháp. Do chưa hiểu hết ý đồ của đối phương, anh Hunxen đã phát biểu chấp
thuận bổ sung này. Để tránh chỗ sơ hở này và không để đối phương có thể
khai thác sự khác nhau giữa ta và Campuchia, tôi đã yêu cầu chủ tịch
cuộc họp ngừng cuộc họp ít phút để trao đổi riêng giữa 3 đoàn Việt Nam,
Campuchia và Lào. Sau khi phân tích để bạn thấy được ý định nguy hiểm
của đối phương trong điểm bổ sung này, tôi đề nghị cả 3 đoàn gặp 2 đồng
chủ tịch yêu cầu sửa lại bổ sung này, không để cho đối phương có thể lợi
dụng câu chữ mập mờ để nói là Hội nghị Quốc tế Paris đã phủ nhận kết
luận của JIM về chống diệt chủng.
Sau khi dự thảo Tuyên bố
của Hội nghị được thông qua, mới đi vào phiên họp chính thức để bế mạc
Hội nghị sau một tháng làm việc liên tục. Tuyên bố chung ngắn gọn của
Hội nghị Quốc tế Paris về Campuchia ghi nhận Hội nghị này là một bước
tiến có ý nghĩa. Hội nghị tạm ngừng, kêu gọi các bên Campuchia và các
nước có liên quan tiếp tục cố gắng để đi tới một giải pháp toàn bộ.
Kết quả rất hạn chế của
Hội nghị phản ánh tính chất vô cùng phức tạp của vấn đề Campuchia. Việc
Việt Nam rút hết quân vào tháng 9.89 và triển vọng Nhà nước Campuchia
vẫn đứng vững đã thúc ép đối phương phải có hội nghị này, song chưa tới
mức họ phải chấp nhận nguyên trạng chính trị quân sự ở Campuchia. [Hội
nghị không thành công do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là
Trung Quốc và đối phương muốn giải quyết trên cơ sở xoá bỏ Nhà nước
Campuchia, Mặt khác Trung Quốc còn hy vọng làm thay đổi được tình hình
sau khi Việt Nam rút quân. Về phía Nhà nước Campuchia, sau chuyến đi
Thái Lan ngày 25.1.89 của Hunxen theo lời mời của Thủ tướng Chatichai và
sau những lần tiếp xúc với nhóm Chaovalit từ tháng 6.88, Bạn Campuchia
có phần ảo tưởng ở Thái Lan và đánh giá không đúng lực lượng của bản
thân mình nên tại Hội nghị TƯ lần thứ 9 tháng 7.89 ngay trước Hội nghị
Paris, đã quyết tâm “ăn cả” bằng một giải pháp quân sự. Lúc này tình
hình Đông Âu có những diễn biến phức tạp bắt đầu từ việc Công đoàn Đoàn
kết lên cầm quyền ở Ba Lan.]31
Ngày 5.10.89, trong khi đã trả lời phỏng vấn báo chí, tôi đã nói về nguyên nhân khiến hội nghị quốc tế Paris chưa thành công:
“Ngay từ những ngày
đầu, dư luận trong và ngoài Hội nghị đều đã thấy vật cản chính và duy
nhất cho khả năng tiến triển cuả Hội nghị là nhóm đại diện của Polpot
được sự khuyến khích và phụ hoạ chủ yếu của một số nước vì lợi ích riêng
tư của họ. Càng về cuối Hội nghị, điều này càng thành sự thực hiển
nhiên.
Để lấp liếm trách nhiệm, họ đã vu khống Việt Nam và Nhà nước Campuchia quá cứng rắn khiến Hội nghị bế tắc.
Làm sao chúng ta có
thể đi đến thoả thuận được trong khi đối phương ngoan cố tới mức tự mâu
thuẫn một cách trắng trợn trong lập trường cũng như các lập luận của họ ?
Họ nói tôn trọng nguyên tắc chủ quyền của nhân dân Campuchia nhưng họ
lại đòi phải để các nước ngoài tham gia giải quyết các vấn đề nội bộ
Campuchia, lại áp đặt cho nhân dân Campuchia phải chấp nhận một chính
phủ theo hình thức họ định ra trước; họ nói họ vô cùng phản đối tội ác
giết người của bọn Polpot nhưng họ lại đòi hợp pháp hoá tổ chức diệt
chủng và đòi cho chúng được chia quyền cai trị đất nước Campuchia.
Cộng đồng quốc tế có
trách nhiệm loại trừ hiểm hoạ diệt chủng này. Đặc biệt là những nước
xưa nay lớn tiếng doạ Việt Nam rút quân trong khi đó lại lẩn tránh lên
án diệt chủng, thì nay đến lượt họ phải có trách nhiệm ngăn diệt chủng
gây nội chiến ở Campuchia.
Về triển vọng quan
hệ giữa các nước khu vực với đà tiến triển của vấn đề Campuchia còn tuỳ
thuộc các nhân tố chủ quan cũng như khách quan, trong đó có khả năng của
ta chuyển hoá các nhân tố khách quan có lợi hơn cho việc thực hiện mục
tiêu của ta. Chẳng hạn như khả năng thực hiện phương châm “thêm bạn bớt
thù” trong đối ngoại đòi hỏi có được một ý niệm rộng rãi hơn về bạn. Tất
nhiên mở rộng việc kết bạn không có nghĩa là thủ tiêu đấu tranh và phải
trên cơ sở bảo vệ tốt lợi ích an ninh quốc gia của ta”.
Cũng nên biết đối với
vấn đề diệt chủng ở Campuchia, Liên Xô vì lợi ích chiến lược của mình,
nên chủ trương hầu như không khác gì Trung Quốc. Trong cuộc gặp anh
Nguyễn Văn Linh ở Hà Nội tối 5.9.89, Heng Somrin cho biết anh vừa đi
nghỉ ở Liên Xô về và kể rằng:
“Trước khi đi, tôi
nêu yêu cầu được gặp Gorbachov để thông báo tình hình Campuchia và trao
đổi một số vấn đề, Liên Xô đồng ý. Nhưng khi đến Liên Xô, đồng chí
Gorbachov không gặp tôi mà để đồng chí uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị,
phó chủ tịch Xô Viết tối cao gặp. Tôi hiểu rằng vì hội nghị quốc tế ở
Paris chưa có kết quả gì nên Gorbachov không gặp tôi. Trong khi gặp tôi,
phía Liên Xô nói thẳng là chúng tôi phải chấp nhận lập chính phủ liên
hiệp 4 bên, cho cả Khmer Đỏ vào và để Sihanouk làm chủ tịch. Chính phủ
đó và Sihanouk có thực quyền. Liên Xô giải thích là trong Khmer Đỏ chỉ
có Polpot và vài người theo Polpot là xấu thôi, còn lại thì PhnomPenh
nên chấp nhận cho họ tham gia chính phủ. Lập trường này của Liên Xô,
chúng tôi không đồng ý”.
Vậy là đến lúc này cả
Liên Xô lẫn Trung Quốc vì lợi ích của mình cùng nhất trí trong hành động
dùng sức ép nước lớn can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền
của Campuchia.
9. ĐẶNG TIỂU BÌNH TIẾP KAYSONE PHOMVIHAN ĐỂ NÓI VỚI VIỆT NAM
9. ĐẶNG TIỂU BÌNH TIẾP KAYSONE PHOMVIHAN ĐỂ NÓI VỚI VIỆT NAM
Những biến động lớn
trong tình hình thế giới bên ngoài lúc này đã tác động mạnh mẽ tới suy
nghĩ của lãnh đạo ta về phương hướng chiến lược đối ngoại. Cuộc khủng
hoảng chính trị tại nhiều nước theo chế độ XHCN đã bùng nổ từ năm 1989
và đang có chiều hướng lan rộng ra. Tháng 6.89 xảy ra vụ Thiên An Môn ở
Trung Quốc. Cũng trong năm 1989, chế độ XHCN ở các nước Đông Âu như CHDC
Đức, Ba Lan, Rumani, Hung, Tiệp, Ba Lan đều đã sụp đổ. Đầu tháng 10.89,
TBT Nguyễn Văn Linh đi dự kỷ niệm 40 năm Quốc khánh CHDC Đức, khi về
đến Hà Nội thì bức tường Berlin đổ, Honecker bị lật. Lãnh tụ Rumani
Ceaucescu, người mà khi ở Berlin anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong
việc bàn chuyện tâm huyết cữu vãn sự nghiệp XHCN thế giới đang lâm nguy,
vừa chân ướt chân ráo về đến Bucarest thì bị truy bắt. Với “tư duy mới”
của Gorbachov, tình hình Liên Xô ngày càng trở nên lộn xộn.
Trước tình hình ấy,
trong nội bộ lãnh đạo ta đã nảy sinh những ý kiến khác biệt trong nhận
định về sự kiện Thiên An Môn cũng như về những biến đổi dồn dập tại các
nước XHCN Đông Âu và Liên Xô. Nổi lên là ý kiến nhấn mạnh mặt XHCN của
Trung Quốc, phải bằng mọi giá bắt tay ngay với Trung Quốc để bảo vệ chủ
nghĩa xã hội, để chống Mỹ và các thế lực đế quốc khác. Chính điều đó đã
tạo nên bước ngoặt khá đột ngột trong thái độ của ta đối với Trung Quốc.
Suy nghĩ đơn giản của ta là không có lý gì Việt Nam lại ngủng ngỉnh với
Trung Quốc trong khi Liên Xô đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc từ tháng 5.89. Lào cũng đã thoả thuận trao đổi đại sứ trở lại với Trung Quốc và bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, đánh dấu bằng cuộc đi thăm chính thức Trung Quốc của Kayson Phomvihan, TBT Đảng NDCM Lào, tháng 10.89.
Chính là thông qua cuộc
nói chuyện với Kayson ngày 7.10.89 ở Bắc Kinh mà Đặng Tiểu Bình đã bộc
lộ rõ phần nào những tính toán sâu xa của mình đối với Việt Nam: phân
hoá Việt -Lào, Việt – Campuchia, Việt – Xô và phân hoá cả nội bộ Việt
Nam. Đặng nói với Kayson rằng: Việt Nam đã có biểu hiện chống Trung
Quốc từ khi Hồ Chí Minh còn sống; rằng sau khi thắng Mỹ, Lê Duẩn trở mặt
chống Trung Quốc, xâm lược Campuchia, Việt Nam đi theo Liên Xô, đưa
quân vào Campuchia, nên mới có chuyện Trung Quốc đánh Việt Nam. Lúc đầu
Trung Quốc cho là vì Brejnev xúi giục nên Việt Nam xâm lược Campuchia,
nhưng chính là do Việt Nam có ý đồ lập Liên bang Đông Dương, không muốn
Lào, Campuchia độc lập. Việt Nam chống Trung Quốc vì Trung Quốc là trở
ngại cho việc lập Liên bang Đông Dương… Trong khi không tiếc lời
phê phán Lê Duẩn, Đặng đã hết lời ca ngợi Nguyễn Văn Linh. Đặng kể lại
khi làm TBT Đảng Cộng sản Trung Quốc, năm 1963, đã tổ chức đưa Nguyễn
Văn Linh từ miền Nam sang Hồng Kông để đi Bắc Kinh gặp nhau, khen anh
Linh là “người tốt, sáng suốt và có tài”; nhờ Kayson chuyển lời hỏi thăm
anh Linh; khuyên Nguyễn Văn Linh nên giải quyết dứt khoát vấn đề
Campuchia, nếu làm được việc này thì sẽ khôi phục được uy tín của Việt
Nam. Cho đây là việc Việt Nam phải làm, vì những gì Việt Nam đang làm là
sai lầm; mong muốn bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trước khi ông ta nghỉ hưu… Về điều kiện bình thường hoá quan hệ Trung
– Việt, Đặng nhấn mạnh Việt Nam phải rút hết quân, rút triệt để, rút
thật sự khỏi Campuchia thì sẽ có bình thường hoá quan hệ (tuy lúc đó ta đã kết thúc đợt rút quân cuối cùng khỏi Campuchia từ ngày 26.9.89).
Theo thông báo của đại
sứ Lào tại Trung Quốc, trong 70 phút nói chuyện với Kayson, Đặng nói về
Việt Nam và quan hệ Trung – Việt tới 60 phút.
Ngày 21.10.89 BCT ta đã họp để nhận định về phát biểu của Đặng Tiểu Bình khi tiếp Kayson cuộc họp đã đi đến kết luận là: trong lúc Trung Quốc đang còn găng với ta, ta cần có thái độ kiên trì và thoả đáng, không cay cú, không chọc tức nhưng cũng không tỏ ra nhún quá. Cần tiếp tục thực hiện đường lối Đại hội VI và Nghị quyết 13 của BCT, cần thấy cả mặt XHCN và mặt bá quyền nước của Trung Quốc. Trong
khi cố kéo Trung Quốc, ta cần đồng thời hoạt động trên nhiều hướng;
củng cố kết chặt chẽ với Lào; phân hoá Mỹ, phương Tây, ASEAN với Trung
Quốc.
Theo phương hướng đó,
ngày 6.11.89, anh Thạch đã chuyển qua đại sứ Trung Quốc thông điệp miệng
của TBT Nguyễn Văn Linh gửi Đặng Tiểu Bình, ngỏ ý mong sớm có bình
thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ba tuần sau,
anh Thạch lại gửi thư cho Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp ngày 6/11 và
đề nghị phía Việt Nam sẵn sàng gặp lại phía Trung Quốc ở cấp bộ trưởng
hoặc thứ trưởng ngoại giao tại Hà Nội hoặc Bắc Kinh trong tháng 12.89.
Nhưng Trung Quốc không trả lời thông điệp của TBT ta lẫn thư của anh
Thạch.
Mãi đến ngày 12.12.89,
Đại sứ Trung Quốc mới gặp anh Thạch chuyển thông điệp miệng của Trung
Quốc trả lời TBT Nguyễn Văn Linh, vẫn đặt điều kiện cho việc nối lại đàm
phán với ta: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo khác của
Trung Quốc chân thành mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ Trung –
Việt. Vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ yếu làm cho quan hệ hai nước
xấu đi đến nay chưa được cải thiện. Việc khôi phục quan hệ hữu nghị giữa
hai nước chưa có thể cải thiện nếu bỏ qua vấn đề Campuchia. Đồng chí
Đặng Tiểu Bình có nêu ra là việc Việt Nam rút quân sạch sẽ, triệt để và
việc Campuchia lập Chính phủ Liên hiệp Lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng
đầu là hai vấn đề hạt nhân thiết thực cần đồng thời giải quyết. Phía
Trung Quốc sẵn sàng suy xét đề nghị của Việt Nam về việc mở vòng thương
lượng mới ở cấp thứ trưởng nếu Việt Nam chấp nhậnmột cơ chế giám sát
quốc tế do LHQ chủ trì có 4 bên Campuchia tham gia để kiểm chứng việc
rút quân Việt Nam và lập chính phủ 4 bên do Sihanouk đứng đầu trong thời
kỳ quá độ”.
Ngày 11.11.89, BCT họp
bàn và thông qua đề án đấu tranh ngoại giao về vấn đề Campuchia. Trên cơ
sở đánh giá tình hình quân sự, chính trị trên chiến trường và xu thế
chung trên thế giới, ta chủ trương cần phấn đấu đạt một giải pháp chính
trị về vấn đề Campuchia. Để ra 4 phương án về cơ quan quyền lực ở
Campuchia trước tổng tuyển cử. Phương án thấp nhất là giữ nguyên bộ máy
của hai chính phủ đang tồn tại, lập chính phủ liên hiệp hai bên ở trung
ương để tổ chức tổng tuyển cử và thực hiện những điều thoả thuận.
Ngày 2.12.89, anh Thạch
sang bàn với BCT Campuchia, phân tích chiến tranh ở Campuchia là một
cuộc nội chiến, Việt Nam không thể đưa quân trở lại (4 ngày sau khi Việt
Nam rút quân đợt cuối, lực lượng Son San đã đánh chiếm Thmar Ponk; ngày
22.10.89, Khmer Đỏ đánh chiếm Pailin và uy hiếp thị xã Battambang, theo
yêu cầu của Bạn, ta phải đưa lực lượng đặc biệt lên giúp), nói kỹ về
tính chất quốc tế của vấn đề Campuchia và xu thế trên thế giới. Bàn với
Bạn cần đấu tranh để đạt một giải pháp chính trị để giành giật thắng lợi
từng bước. BCT Bạn hoàn toàn nhất trí và thấy cần sử dụng vai trò LHQ
như sáng kiến của Ngoại trưởng Úc G. Evans ngày 24.11.89.
Cuộc họp BCT ta ngày
6.12.89 đã bàn về sáng kiến của Úc và nhất trí về việcsử dụng vai trò
LHQ. Sau khi trao đổi, BCT Campuchia hoàn toàn đồng ý với ý kiến của BCT
ta. Từ ngày 10-25.1.90, Bạn triệu tập Hội nghị TƯ 10 để bàn đi vào giải
pháp chính trị. Ngày 18.1.90, quốc hội Campuchia đã thông qua việc để
LHQ tổ chức tổng tuyển cử, uỷ quyền cho Hunxen đàm phán về vấn đề này.
Việc ta và Bạn Campuchia
chấp nhận sử dụng vai trò LHQ và xem xét sáng kiến của Úc để giải quyết
vấn đề phân chia quyền lực bị bế tắc ở Hội nghị quốc tế Paris đã thúc
đẩy mạnh mẽ các diễn đàn bàn về vấn đề Campuchia: cuộc họp IMC ở Jakarta
ngày 26.3.90, các cuộc họp P5, cuộc họp Hunxen-Sihanouk vòng 6 ở
Bangkok ngày 22.2.90
Từ 26.2 đến 1.3.90 tại thủ đô Inđônêxia đã họp Hội nghị không chính thức về Campuchia (IMC)32.
Dự họp ngoài các bên Campuchia, Việt Nam, Lào và 6 nước ASEAN (như họp
JIM), còn có thêm đại diện Tổng Thư ký LHQ, Pháp và Úc. Hội nghị không
ra được tuyên bố chung vì Khmer Đỏ dùng quyền phủ quyết.
Thất bại của Mặt trận
Giải phóng Sandino trong cuộc tổng tuyển cử ở Nicaragua ngày 25.2.90 và
thất bại của cuộc họp IMC về vấn đề Campuchia ở Jakarta ngày 28.2.90 đã
tác động mạnh vào lãnh đạo ta về phương hướng giải quyết vấn đề
Campuchia.
Ngày 8.3.90, cố vấn Lê
Đức Thọ cho gọi tôi và anh Đinh Nho Liêm đến nhà riêng ở số 4 Nguyễn
Cảnh Chân nói mấy ý kiến về vấn đề Campuchia: Cần có chuyển hướng
chiến lược trong đấu tranh về vấn đề Campuchia. Phải giải quyết với
Trung Quốc, nếu không thì không giải quyết được vấn đề Campuchia. Không
thể gạt Khmer Đỏ. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, có thể nói “không để
trở lại chính sách sai lầm trong quá khứ”. Không chấp nhận LHQ tổ chức
tổng tuyển cử. Cần nêu phương án lập chính phủ liên hiệp lâm thời hai bên bốn phái để tổ chức tổng tuyển cử ở Campuchia. Phải giải quyết một bước cơ bản vấn đề Campuchia trước Đại hội VII để khai thông những vấn đề khác.
Hai hôm sau anh lại nói
với Nguyễn Cơ Thạch những ý đó. Sự việc này khiến tôi suy nghĩ: tại sao
lại thay đổi phương hướng đối sách trước khi đại hội Đảng họp ? Tại sao
lại chỉ nói với anh Thạch sau khi đã nói với chúng tôi ?
Từ ngày 8-20.3.90, Heng
Somrin nghỉ ở Hà nội, có dịp gặp gỡ TBT Nguyễn Văn Linh, Cố vấn Lê Đức
Thọ, Cố vấn Phạm Văn Đồng, Lê Đức Anh trao đổi về tình hình Liên Xô Đông
Âu, Nicaragua và tất nhiên về tình hình Campuchia. TBT Nguyễn Văn Linh
và Lê Đức Anh nói cần phải cảnh giác với LHQ, không thể để LHQ tổ chức
tổng tuyển cử ở Campuchia. Từ đấy Bạn Campuchia chuyển sang phương án
SNC tổ chức tổng tuyển cử, không tán thành để LHQ tổ chức tổng tuyển cử
nữa. Sau này, ngày 11.8.90, khi nhắc lại vấn đề này, Hunxen than phiền
với anh Ngô Điền, Đại sứ ta ở PhnomPenh: “Khi anh Heng Somrin đi
nghỉ ở Hà nội, đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Lê Đức Anh gặp anh
Heng Somrin tỏ lo ngại về việc sử dụng vai trò LHQ. Anh Heng Somrin về
nói lại cái này. Tôi có nói là giao cho LHQ có mặt phức tạp nhưng giao
cho SNC phức tạp hơn vì nó có hệ thống, người nhiều mà ta còn phải lo
đối phó với cả LHQ nữa. Cái này làm tôi rất khó. Quyết định của hai đồng
chí TBT làm tôi rất khó. Không nên để có ý kiến khác nhau giữa TBT và
Thủ tướng. Tôi phải làm theo ý kiến nhất trí… Việc sử dụng vai trò LHQ
hay SNC là bộ phận quan trọng của quyết định chiến lược có đi vào giải
pháp chính trị hay không. Dùng SNC rất phức tạp. Campuchia không đủ
người và khả năng tham gia các uỷ ban của SNC để đối phó với bọn kia.”
Hunxen còn cho biết ngày 20-21.5.90, khi 3 TBT Việt Nam, Lào, Campuchia
gặp nhau tại Hà nội nhân dịp 100 năm ngày sinh Hồ Chủ tịch, bàn việc
không để LHQ tổ chức tổng tuyển cử ở Campuchia, TBT Đảng Lào Kayson băn
khoăn điều này và nói: “ Ta nhận rồi tâ lại thôi. Ta trèo cao rồi, nếu tuột xuống dễ ngã đau”.
Đến ngày 3.4.90, Trung
Quốc đột nhiên lại biểu thị hoan nghênh việc thứ trưởng Đinh Nho Liêm
đến Bắc Kinh “kiểm tra sứ quán” và công bố tin Trung Quốc sẽ đàm phán
với thứ trưởng ngoại giao Việt Nam về vấn đề Campuchia.
Lúc này CP 87 đã giải
thể. Các thành viên thường trực của CP 87 đều đã được bổ nhiệm đi nhận
các trọng trách ở nước ngoài. Anh Đặng Ngiêm Hoành đã nhận quyết định đi
Đại sứ ở Trung Quốc. Anh Trần Xuân Mận nhận chức Đại sứ ở Angiêri. Anh
Nguyễn Phượng Vũ trên đường đi nhận chức Đại sứ ở Philipin, đã chết
trong tai nạn máy bay trên bầu trời Thái Lan . Thay vào đó, Bộ Ngoại Giao đã lập Nhóm ad hoc về giải
pháp Campuchia với nhiệm vụ cụ thể hơn vì vấn đề Campuchia đã đến lúc
giải quyết. Nhóm vẫn do tôi phụ trách, có các anh Trần Huy Chương, Lê
Công Phụng, Huỳnh Anh Dũng, Nguyễn Can tham gia.
Nhóm nghiên cứu giải
pháp Campuchia chúng tôi nhận định có mấy lý do đã khiến Trung Quốc mềm
mỏng hơn trong thái độ đối với Việt Nam về vấn đề Campuchia:
- Quan hệ Mỹ – Xô đang
có chuyển động mạnh. Chỉ trong vòng 6 tháng, từ tháng 12.89 đến tháng
5.90, đã có 2 cuộc gặp cấp cao Xô – Mỹ. Trong khi đó quan hệ của Trung
Quốc với Mỹ và các nước phương Tây chậm khôi phục sau vụ Thiên An Môn.
- Giữa Trung Quốc với
Mỹ, ASEAN, phương Tây đang nảy sinh những mâu thuẫn mới về vấn đề
Campuchia, chủ yếu trong vấn đề đối xử với Khmer Đỏ. Trong các cuộc họp 5
nước thường trực Hội Đồng Bảo An tháng 2 và tháng 3.90, Trung Quốc ở
thế bị cô lập đã buộc phải có nhân nhượng và phải chấp nhận vai trò lớn
của LHQ.
- Đàm phán Sihanouk –
Hunxen có tiến triển. Ngày 9.4.90 Sihanouk có phần nhượng bộ khi đưa ra 9
điểm giải pháp, nhận lập Hội đồng Dân tộc Tối cao (SNC33)
gồm số đại diện bằng nhau của hai chính phủ, 6 của Chính phủ PhnomPenh
và 6 của “Chính phủ Campuchia Dân chủ” như Hunxen đề nghị; không đòi
giải tán Nhà nước Campuchia (SOC), tuy đòi thực quyền cai quản Campuchia
trong thời kỳ quá độ phải là cơ cấu quyền lực của LHQ.
Ngày 10.4.90, BCT họp
bàn phương hướng thúc đẩy giải pháp chính trị vấn đề Campuchia. Đề án
đấu tranh sách lược về vấn đề Campuchia do Bộ Ngoại Giao dự thảo: dùng
công thức LHQ nói về vấn đề diệt chủng và cho Khmer Đỏ vào chính phủ
liên hiệp Campuchia, nhận vai trò Sihanouk. BCT thấy không nên giao cho
LHQ tổ chức tổng tuyển cử mà nên trở lại phương án 4 mà BCT thông qua
ngày 6.12.89 (lập chính phủ liên hiệp để tổ chức tổng tuyển cử.) Đại đa
số BCT đồng ý. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng,
Đồng Sĩ Nguyên còn nhấn vào âm mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng
chính trị ở Đông Âu. TBT có ý kiến: “Việt Nam và Trung Quốc là hai
nước XHCN cùng chống âm mưu đế quốc xoá bỏ CNXH, phải cùng chống đế
quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa 2 nước. Các vấn đề khác
giải quyết sau… một Campuchia thân thiện với Trung quốc, thân thiện với
Việt Nam là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề
Campuchia có lợi cho Campuchia… Phương án 4 là tốt. Không để LHQ nhúng
tay vào vì LHQ là Mỹ, Thái lan là Mỹ”.34
Riêng Nguyễn Cơ Thạch
nói rõ quan điểm của Bộ Ngoại giao là cần tranh thủ Trung Quốc, song
đồng thời phải chuẩn bị có 3 khả năng về thái độ của Trung Quốc.
khả năng 1: Trung Quốc cùng ta bảo vệ chủ nghĩa xã hội;
khả năng 2: Trung Quốc cấu kết với Mỹ chống ta như trước;
khả năng 3: Trung Quốc vừa bình thường hoá quan hệ với ta, vừa tranh thủ Mỹ, phương Tây là chính.
Lúc đó tôi có cảm giác nhiều uỷ viên BCT không tán thành quan điểm này vì đã có định hướng “cùng Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc”.
Ngày 16.4.90, thực hiện
quyết định của Bộ Chính trị theo hướng sớm làm lành với Bắc Kinh, anh
Nguyễn Cơ Thạch đi PhnomPenh gặp 4 người chủ chốt trong BCT Campuchia:
Heng Somrin, Chia Xim, Hunxen và Sor Kheng để cố thuyết phục bạn nên
tính tới bước sách lược về vấn đề diệt chủng và không gạt Khmer Đỏ.
Nhưng Bạn Campuchia không đồng ý và tỏ ra muốn giữ đường lối độc lập
trong việc giải quyết vấn đề Campuchia, không muốn ta đàm phán với Trung
Quốc về các vấn đề nội bộ của Campuchia. Bạn tỏ ra rất găng về vấn đề
diệt chủng, nói nếu bỏ ta sẽ không còn vũ khí gì chống lại các luận điệu
của đối phương vu cáo “Việt Nam xâm lược Campuchia”, “chính quyền PhnomPenh do Việt Nam dựng lên”. Hơn nữa chính lúc này phương Tây lại đang khơi lên vấn đề lên án diệt chủng.
Phải nhận rằng ta khuyên
bạn Campuchia đi vào “giải pháp Đỏ” (từ năm 1987), việc ta thuyết phục
Bạn chấp nhận vai trò của LHQ (tháng 12.89) rồi lại bảo Bạn bác vai trò
của LHQ (tháng 3.90), khuyên Campuchia đi vào phương án 4 (lập chính phủ
liên hiệp 2 bên) (tháng 4.90) đã gây nghi ngờ trong lãnh đạo Campuchia
đối với Việt Nam. Việc lãnh đạo Campuchia không chấp nhận gợi ý của BCT
ta trong cuộc hội đàm ngày 17.4.90 đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ
Việt Nam-Campuchia sau khi Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia.
Ngày 2.5.90 dưới danh
nghĩa “đi kiểm tra sứ quán”, anh Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh để có cuộc
“trao đổi ý kiến không chính thức” với Trung Quốc. Lần này đối tác không
phải thứ trưởng Lưu Thuật Khanh mà là trợ lý bộ trưởng Từ Đôn Tín. Phụ
tá cho anh Liêm là anh Đặng Ngiêm Hoành, lúc này đã là đại sứ Việt Nam ở
Trung Quốc từ tháng 2.90. Cuộc đàm phán [có vài tiến triển nho nhỏ.]35
Nội dung cuộc trao đổi ý
kiến chủ yếu về vấn đề Campuchia. Ta tỏ ra mềm dẻo hơn, nói có thể trao
đổi ý kiến về một giải pháp toàn bộ, nhưng không thể quyết định về các
vấn đề nội bộ Campuchia. Từ nhắc lại lời Đặng Tiêu Bình: Để giải quyết
vấn đề Campuchia cần phải thực hiện 3 điểm: một là, Việt Nam thực sự
rút quân, rút “sach sẽ, triệt để”, đó là tiền đề cho việc giải quyết
vấn đề Campuchia; hai là, sau khi Việt nam rút quân, 4 bên Campuchia cần
thực hiện liên hiệp; ba là, chính phủ liên hiệp phải do hoàng thân
Sihanouk đứng đầu, Polpot không được mà Hunxen cũng không được. Nếu
những vấn đề trên được giải quyết thì có thể nói là chúng ta đã kết thúc
quá khứ, tiếp đó sẽ mở ra tương lai.
Lần này phía Trung Quốc
đi vào những vấn đề thuần tuý nội bộ của Campuchia, đòi ta đàm phán về
phạm vi quyền lực của SNC và về việc xử lý quân đội “4 bên” Campuchia.
Về vấn đề chính quyền Campuchia trong thời kỳ quá độ (từ khi Việt Nam
rút hết quân đến khi tổng tuyển cử), Từ nói Trung Quốc thấy tốt nhất là
thành lập một chính phủ liên hiệp 4 bên – gọi là Hội đồng Dân tộc Tối
cao cũng được – băng không thì phải chọn phương án giao quyền cho LHQ.
Chính quyền thời kỳ quá độ này phải bao gồm cả 4 bên Campuchia (với hàm ý
Khmer Đỏ được chính thức coi là một bên tham chính) mới thể hiện được
tinh thần hoà giải dân tộc. Nếu các đồng chí thấy nói 4 bên có khó khăn thì nói là các bên Campuchia
cũng được. Không gạt một bên nào, không bên nào nắm độc quyền. Trong
buổi làm việc với anh Đặng Ngiêm Hoành sáng 4.5.90, Vụ phó Trương Thanh
cũng nhắc lại ý này: Hội đồng này bao gồm đại diện của 2 chính phủ, 4
bên hay các bên Campuchia đều được. Từ nói: “Nếu so sánh giữa phương
án chính phủ liên hiệp lâm thời do Trung Quốc đề ra và phương án LHQ
quản lý thì chúng tôi vẫn thấy phương án Trung Quốc là tốt hơn”. Về
vấn đề diệt chủng, Từ nói có ý đe doạ là nếu cứ khẳng định Khmer Đỏ
phạm tội thì phía bên kia sẽ nói Việt Nam là xâm lược và PhnomPenh là
nguỵ quyền, cho nên, không nên nói đến vấn đề đó nữa.
Trong đàm phán, phía
Trung Quốc để lộ rõ ý đồ muốn SNC thực tế sẽ thay thế chính phủ
PhnomPenh; còn quân đội của “4 bên” Campuchia phải tập kết vào những địa
điểm được chỉ định rồi giải giáp toàn bộ; ít nhất là lúc đầu giảm quân
số tới mức tối đa. Mục đích là tước bỏ thế mạnh cả về chính quyền lẫn về
lực lượng vũ trang của Nhà nước Campuchia. Cách làm của Trung Quốc đúng
là “một mũi tên bắn hai đích”, vừa xoá sạch thành quả cách mạng
Campuchi, vừa phân hoá quan hệ Việt Nam-Campuchia. Để tránh đi ngay vào
chuyện hóc búa này, anh Liêm nói sẽ đem hai vấn đề này về nghiên cứu
thêm rồi sẽ phát biểu. Đồng thời theo chỉ thị trên, ta đã nhận Việt Nam
không nói tới từ “diệt chủng” nữa; ta tán thành không nói tới quá khứ
nhưng phải đề cập về tương lai và sẽ tìm một công thức khác thích hợp để
nói về vấn đề đó. Phía Trung Quốc còn đề nghị lãnh đạo Việt Nam nên gặp
Sihanouk như Sihanouk ngỏ ý, để “tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy giải
pháp”. Đáng chú ý là Từ Đôn Tín đã gợi ý là sau khi Việt Nam và Trung
Quốc nhất tríd được về giải pháp Campuchia thì 3 nước Trung Quốc, Việt
nam và Thái Lan sẽ họp lại. Điều này chứng tỏ là Thái Lan giữ một vai
trò không nhỏ trong việc cùng Trung Quốc nuôi dưỡng Khmer Đỏ và làm chảy
máu Việt Nam bằng vấn đề Campuchia.
Về bình thường hoá quan hệ hai
nước, phía Trung Quốc không mặn mà gì với gợi ý của ta về việc xích lại
gần hơn giữa hai nước XHCN để cứu vãn sự nghiệp XHCN chung trên thế
giới đang lâm nguy. Trung Quốc chỉ đặt quan hệ với Việt Nam trong khuôn
khổ chung sống hoà bình như với các nước láng giềng khác.
Phần vì tình thế thúc
bách đẩy nhanh giải pháp Campuchia, phần vì hài lòng với cuộc gặp ấy,
Tiền Kỳ Tham đồng ý đầu tháng 6 sẽ cử Từ Đôn Tín sang Hà nội với danh
nghĩa “khách của đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội” để tiếp tục trao đổi ý kiến
với ta. Đây là lần đầu tiên trong 10 năm qua phía Trung Quốc nhận sang
Hà Nội đàm phán với ta, trong khi tuyệt đại đa số các đợt đàm phán Việt –
Trung đều tiến hành ở Bắc Kinh. Đồng thái độ này đã được lãnh đạo ta
hiểu như một cử chỉ thiện chí đặc biệt của Trung Quốc đối với Việt Nam.
10. THUỐC ĐẮNG NHƯNG KHÔNG DÃ ĐƯỢC TẬT
10. THUỐC ĐẮNG NHƯNG KHÔNG DÃ ĐƯỢC TẬT
Sáng 30.5.90, BCT họp
bàn về đàm phán với Trung Quốc, TBT Nguyễn Văn Linh thông báo với Bộ
Chính trị về cuộc họp với 2 TBT đảng Lào và đảng Campuchia ngày 20-21.5,
nói ra dự định sẽ gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà
Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và một số trong BCT tỏ ý phải thận trọng trong
xử sự với Trung Quốc. Anh Tô nói: Mấy nghìn năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả tin. Ta cần thăm dò thúc đẩy nhưng phải cảnh giác, đừng để hớ. Đỗ
Mười cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín
trước cuộc đàm phán. Nhưng Lê Đức Anh lại tỏ ra đồng tình với dự định
của anh Linh, cho rằng phải thăm dò và phân tích chiến lược của Trung
Quốc, xử lý mối quan hệ của 3 nước lớn và 5 nước thường trực HĐBA, tranh
thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước XHCN. Đa số trong BCT đều cho rằng
không nên nói đến “giải pháp Đỏ” với Trung Quốc nữa. Cuối cùng TBT
Nguyễn Văn Linh kết luận lại là anh sẽ chỉ gặp đại sứ Trung Quốc, còn
không gặp Từ Đôn Tín; về phía lãnh đạo ta, chỉ có anh Thạch tiếp Từ.
Nguyễn Văn Linh còn nói khi gặp Trương Đức Duy anh sẽ chỉ nói về hợp tác
hai nước và đề nghị gặp cấp cao, không nói đến “giải pháp Đỏ”. Nhưng
trên thực tế trong cuộc gặp đại sứ Trung Quốc vài hôm sau, Nguyễn Văn
Linh đã lại nêu vấn đề đó.
Ngày 5.6.90, vài ngày
trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ
Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương
Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng thị đối với Bắc Kinh.36 Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói “Trong
quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc
sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa”. Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội” vì “đế
quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội… chúng âm mưu diễn biến hoà
bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN , nhưng
lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân
chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc
gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các
đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn
cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin”. Về vấn đề Campuchia, anh Linh đã gợi ý dùng “giải pháp Đỏ” để giải quyết: “Không
có lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng
sản được”, “họ gặp Sihanouk còn được huống chi là gặp lại nhau”.
Sáng 6.6.90, Bộ trưởng
Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy.
Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất
thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc
gặp này mãi đến ngày 19.6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán
11-13.6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức
Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc hôm
trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội;
hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau). Nhưng trước đó, từ
ngày 6.6, phía Trung Quốc (tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ
Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương
Đức Duy. Còn đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ Trung
Quốc biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6.6, anh Lê Đức Anh đã nói khá
cụ thể về “giải pháp Đỏ”: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng,
danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng
Somrin và lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với
bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn
đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở
Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt
động ngoại giao vẫn như thường… Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của
tôi…”
Trưa ngày 9.6.90, Đại sứ
Trương Đức Duy nói với Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta rằng, trong cuộc
gặp TBT Nguyễn Văn Linh, phía Trung Quốc rút ra được 3 ý kiến:
-
Đồng chí Nguyễn Văn Linh nói về quan hệ hai nước rất đậm đà. Nói 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái sai như lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa. Muốn gặp cấp cao Trung Quốc để trao đổi những vấn đề lớn trong quan hệ hai nước.
-
Về tình hình quốc tế: tình hình Liên xô, Đông Âu có nhiều thay đổi. Liên Xô trước đây là thành trì của CNXH, nay thành trì này cũng lung lay rồi. Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ CNXH, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Những mgười cộng sản chân chính phải đoàn kết để bảo vệ CNXH. Chủ nghĩa đế quốc luôn tấn công vào CNXH. Chúng tuyên bố đến cuối thế kỷ này sẽ làm cho CNXH biến mất.
-
Về Campuchia: tại sao những người cộng sản không hợp tác với nhau ? Polpot và Hunxen phải hợp tác với nhau.
Chiều 10.6.90, Bí thư thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn nói với anh Vũ Thuần, Vụ phó vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao: “Từ
Đôn Tín tuy là trợ lý ngoại trưởng nhưng là người có thực quyền trong
việc giải quyết các vấn đề châu Á. Trên khía cạnh nào đó có thể nói còn
có thực quyền hơn cả cấp thứ trưởng. Việc Từ sang Việt Nam lần này là có
sự quyết định của cấp cao nhất của Trung Quốc, chứ không phải Bộ Ngoại
giao.”
Theo Hồ Càn Văn, ngày
23.5.90 Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã
mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến để thông báo là TBT
Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín
khi Từ đến Hà Nội. Chính những động thái bất thường và vượt ra ngoài
khuôn khổ ngoại giao này của ta đã làm cho Trung Quốc hiểu rằng nội bộ
Việt Nam đã có sự phân hoá và vai trò của Bộ Ngoại Giao không còn như
trước.
Ngày 8.6.90, khi được
biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra thay anh Đinh Nho Liêm đàm phán
với Từ Đôn Tín. Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh còn điện thoại dặn tôi
tránh chủ động nói đến “giải pháp Đỏ”: Việc hai bên Đỏ tiếp xúc với
nhau là chuyện lâu dài, cần cho ổn định lâu dài. Trung Quốc sẽ tác động
với phía Campuchia thân Trung Quốc, ta sẽ tác động với phía Campuchia
thân ta để hai bên kiềm chế việc thù địch nhau. Việc này phải có thời
gian, không thể nhanh được, không thể đòi họ trả lời ngay. Đừng thúc họ,
cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được thì họ trả lời… Phải rất bí
mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói khi đàm
phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề với đại sứ Trương Đức Duy nói
sẵn sàng đi Trung Quốc gặp cấp cao nhất, cũng không nên hỏi lại nếu họ
chưa nói tới.” Những lời dặn dò này đối với tôi thực ra là không
cần thiết, không phải vì tôi sẵn ý thức bảo mật cao, mà bởi vì ngay từ
đầu tôi đã khó chịu với cái ý nghĩ gọi là “giải pháp Đỏ”, với ý nghĩ bắt
tay với bọn diệt chủng – dù chỉ là gián tiếp – để làm vừa lòng Trung
Quốc. Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11.6.90 sau đàm phán
phiên đầu với Từ Đôn Tín tôi về Bộ Ngoại Giao hội báo lại với anh Thạch.
Anh Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá tình hình Đông
Âu – Liên Xô. Nghe tôi phản ánh tình hình đàm phán xong, anh liền gạn
hỏi tôi có nói với Từ về “giải pháp Đỏ” không. Tôi nói: “Đồng chí Lê Đức Anh đã dặn phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán.” Anh Thạch vặn lại: “Vậy đồng chí nghe theo ý kiến bộ trưởng Quốc phòng hay ý kiến bộ trưởng Ngoại giao ?”. Tôi đáp: “Là cán Bộ Ngoại Giao, tôi sẵn sàng chấp hành ý kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói với tư cách là uỷ viên Bộ Chính trị”. Lúc ấy tôi thật bất ngờ trước phản ứng của anh Thạch, nhưng đồng thời cũng cảm nhận được vết rạn nứt trong BCT đã khá sâu.
Phía Trung Quốc tất nhiên không để lọt hiện tượng này vì chính họ đang muốn tác động vào nội bộ ta. Chính thái độ quá đặc biệt, quá nhún mình và cũng quá sơ hở của
lãnh đạo ta ngày 5 và 6.6.90 đã gây khó khăn không nhỏ cho ngoại giao
ta trong đợt đàm phán này. Ngay từ hôm đầu đến Hà Nội và trong suốt mấy
ngày đàm phán, Từ Đôn Tín luôn giở giọng cao ngạo, dùng uy lực của chính
lãnh đạo ta để gây sức ép với cán bộ ngoại giao ta. Ngay trong lời đáp
từ tại buổi tiệc của tôi chiêu đãi đoàn Trung Quốc tối 9.6.90, Từ đã
nói: “Sau khi nghe đại sứ Trương Đức Duy báo cáo lại, tôi càng tăng
thêm lòng tin tưởng, tôi tin rằng đồng chí thứ trưởng Trần Quang Cơ và
các đồng chí ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nhất định sẽ tuân theo ý nguyện và
tinh thần của các đồng chí lãnh đạo Việt Nam, cụ thể hoá vào cuộc trao
đổi với chúng tôi để chúng ta nhanh chóng giải quyết xong vấn đề”.
Vào phiên đàm phán đầu
tiên, sáng 11.6.90, Từ đã tìm cách ghim lại những điểm có lợi cho Trung
Quốc hoặc ít nhất cũng hợp với ý đồ của họ bằng cách nêu ra “5 nhận thức chung rất bổ ích” mà hai bên đã đạt được trong cuộc gặp ở Bắc Kinh đầu tháng 5.90:
-
“Hai bên đều cho rằng vấn đề Campuchia cần đạt được một giải pháp toàn diện, công bằng và hợp lý.
-
Phía Việt Nam bày tỏ đã rút hết quân khỏi Campuchia, chấp nhận sự kiểm chứng của LHQ và cam kết sẽ không quay lại Campuchia.
-
Hai bên đều cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở Campuchia sau khi Việt Nam rút hết quân, chấm dứt viện trợ bên ngoài và thực hiện ngừng bắn, cần thành lập Hội đồng toàn quốc tối cao. Về nguyên tắc, hai bên chúng ta đều tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao phải là cơ cấu quyền lực có thực quyền. Còn việc tổ chức Hội đồng đó thế nào, ý kiến của hai bên cơ bản nhất trí với nhau. Ứng cử viên của Hội đồng đó cụ thể là ai thì phải do các bên Campuchia lựa chọn. Trung Quốc, Việt Nam tôn trọng sự lựa chọn đó. Chúng ta tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao không loại trừ bất cứ bên nào, cũng không để bên nào nắm độc quyền. Về Hoàng thân Sihanouk, hai bên đều chủ trương Hoàng thân Sihanouk làm Chủ tịch Hội đồng toàn quốc tối cao.
-
Vấn đề quân sự trong thời kỳ quá độ, hai bên đều cho rằng để tránh xảy ra nội chiến và giữ hoà bình ở Campuchia, cần có sự sắp xếp thoả đáng quân đội 4 bên Campuchia. Dĩ nhiên sắp xếp như thế nào, hai bên chúng ta cần bàn thêm.
-
Còn một điểm nữa, các đồng chí Việt Nam bày tỏ từ nay về sau sẽ không nhắc đến vấn đề diệt chủng, kể cả trong các văn kiện quốc tế cũng không nêu nữa”.
Vì vậy Từ đề nghị tập
trung bàn hai điểm tồn tại của lần gặp trước là vấn đề phạm vi quyền lực
của SNC và vấn đề lực lượng vũ trang của các bên Campuchia trong thời
kỳ quá độ. Trong 3 ngày đàm phán, mỗi khi phía Trung Quốc thấy ta không
chấp nhận yêu sách vô lý của họ về hai vấn đề thuộc nội bộ Campuchia
này, nhất là khi ta kiên trì công thức “hai bên Campuchia” – tức là hai
chính phủ PhnomPenh và chính phủ Campuchia Dân chủ, hoặc có thể nói “các
bên Campuchia”, nhưng dứt khoát bác công thức “4 bên Campuchia” của họ
mang hàm ý chấp nhận vai trò hợp pháp của bọn Khmer đỏ và nhắc đến thoả
thuận Tokyo, thì Từ lại lên giọng chê trách tôi làm trái ngược ý kiến
của lãnh đạo Việt Nam. Y đưa ra lập luận là lãnh đạo Việt Nam đã đưa ra ý
“hợp tác giữa 2 phái cộng sản Khmer” tức là37 nhận từ “4 bên Campuchia” (có nghĩa là đưa Khmer đỏ lên ngang với Chính phủ PhnomPenh). Từ nói: “Phát
biểu của các đồng chí không nên trái ngược với các đồng chí lãnh đạo
Việt Nam. ý kiến của Bộ Ngoại giao nên nhất trí với ý của lãnh đạo cấp
cao, không nên có hai tiếng nói trái ngược”. Tôi phải đưa Từ trở về vị trí của y:
“Đồng chí có thể yên tâm, không cần lo hộ chúng tôi là Bộ Ngoại giao có
tiếng nói khác Trung ương. Đảng chúng tôi nhất trí từ trên xuống dưới.
Bộ Ngoại giao là một bộ phận chịu sự lãnh đạo chặt chẽ của Bộ Chính Trị
chúng tôi”.
Về vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia, Trung Quốc kiên trì 3 điểm:
a. SNC phải là cơ quan
chính quyền tối cao hợp pháp duy nhất, đại diện cho độc lập, chủ quyền,
thống nhất của Campuchia. Về mặt đối ngoại, đại diện cho Campuchia trên
quốc tế, giữ ghế của Campuchia ở LHQ; về mặt đối nội, thực hiện quyền
lập pháp và quản lý hành chính, trực tiếp nắm các ngành quan trọng ảnh
hưởng đến tổng tuyển cử tự do, công bằng gồm quốc phòng, ngoại giao, nội
vụ, tuyên truyền, tài chính (với hiểu ngầm là xoá 5 bộ này của chính
quyền PhnomPenh).
b. Không loại bên nào (tức là không loại Khmer Đỏ), không bên nào độc quyền.
c. Thành phần, số lượng
do 4 bên Campuchia bàn bạc và quyết định. Sihanouk làm chủ tịch SNC
(thực chất là bác bỏ Thông cáo chung Tokyo đã thoả thuận là Hội đồng gồm
12 người, chia đều cho 2 bên, mỗi bên 6 người).
Tôi khẳng định SNC có
trách nhiệm và quyền lực trong việc thực hiện các hiệp định được ký kết
về Campuchia, về hoà giải dân tộc và về tổng tuyển cử; hai chính quyền
hiện tồn tại không được làm việc gì cản trở trách nhiệm và quyền lực
trên đây của SNC. Còn việc các bên Campuchia chấp nhận ý kiến của Trung
Quốc đến đâu là quyền của các bên Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc
không thể thay các bên Campuchia sắp đặt việc nội bộ của Campuchia.
Về vấn đề lực lượng vũ
trang, Trung Quốc đòi ghi vào biên bản thoả thuận: quân đội của 4 bên
Campuchia phải tập kết vào những địa điểm của uỷ ban giám sát của LHQ
chỉ định. Còn việc giảm quân hay giải pháp thì để cho SNC hoặc chính phủ
sau bầu cử quyết định.
Tôi nói: “Việt Nam
tôn trọng thoả thuận giữa các bên Campuchia ở Tokyo là lực lượng vũ
trang ở đâu đóng đó. Nguyên tắc về lực lượng vũ trang các bên Campuchia
là chấm dứt nội chiến càng sớm càng tốt, duy trì ngừng bắn, không can
thiệp vào đời sống chính trị, không can thiệp vào tổng tuyển cử để bảo
đảm cho tổng tuyển cử được thực sự tự do và công bằng. Còn các biện pháp
để thực hiện các nguyên tắc trên sẽ do các bên Campuchia thoả thuận với
nhau”.
Sau khi tỏ phản ứng về lập trường của ta, Từ nói: “Tôi
muốn nói thật rằng nếu lần này chúng ta đi một bước không hay thì sẽ có
hậu quả sau này. Không những hai chúng ta thất vọng mà kết quả còn trái
ngược với nguyện vọng của đồng chí TBT Nguyên Văn Linh và các đồng chí
lãnh đạo khác nói với chúng tôi. Chúng ta đang ở ngã ba đường, lựa chọn
thế nào ? Thời gian không cho phép. Trung tuần tháng 7, 5 nước Hội đồng
bảo an họp lại. Trung Quốc không thể không tỏ thái độ. Nếu Trung Quốc và
Việt Nam không đạt được kết quả giải quyết vấn đề Campuchia thì lòng
mong muốn của chúng ta sẽ chịu hậu quả lớn.”
Như để thuyết phục ta chấp nhận lập trường của họ, Từ đưa ra dự kiến của Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước:
-
Trung – Việt đạt được thoả thuận về giải pháp vấn đề Campuchia và ghi nhận lại bằng một biên bản nội bộ;
-
Họp ngoại trưởng 5 nước Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Lào và ra tuyên bố chung;
-
Họp hội nghị có tính chất khu vực giữa 5 nước trên và 4 bên Campuchia;
-
Họp 5 nước Hội đồng Bảo an và 4 bên Campuchia.
-
Họp hội nghị quốc tế Paris về Campuchia.
Từ nói chỉ trao đổi nội
bộ với ta dự kiến này ở đây, không nói với 4 nước uỷ viên thường trực
HĐBA, cũng không nói với Liên Xô để tránh sự quấy nhiễu của bên ngoài.
Tôi tránh bình luận cụ thể, chỉ nói đây là một gợi ý thú vị, rất đáng
suy nghĩ, song cần làm sao cho bước khởi động của chúng ta ở đây có kết
quả thì toàn bộ kế hoạch mới có khả năng triển khai được.
Chiều ngày 12.6.90, theo
yêu cầu của phía Trung Quốc, đã có cuộc họp hẹp giữa hai trưởng đoàn.
Qua đó Từ nhờ tôi chuyển tới lãnh đạo Việt Nam trả lời của lãnh đạo
Trung Quốc về những ý kiến mà Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã nói với
đại sứ Trung Quốc ngày 5 và 6.6.90: “Lãnh đạo Trung Quốc rất coi
trọng quan hệ Trung – Việt, Lãnh đạo Trung Quốc cũng rất coi trọng những
ý kiến TBT Nguyễn Văn Linh và đồng chí Lê Đức Anh đã nói với đại sứ
Trương Đức Duy. Phía Trung Quốc cho rằng quan hệ Trung–Việt sớm muộn
cũng sẽ bình thường hoá. Hai bên đều cần cùng nhau cố gắng để thực hiện.
Vấn đề Campuchia, cuộc chiến tranh Campuchia đã kéo dài hơn 10 năm. Đây
là vấn đề toàn thế giới quan tâm, các nước trong khu vực, nhất là
ASEAN, cũng rất quan tâm. Đối với hai nước Trung Quốc và Việt Nam, nhiệm
vụ cấp bách cần giải quyết hiện nay là trên cơ sở những nhận thức chung
đã đạt được, tiếp tục trao đổi ý kiến về hai vấn đề tồn tại (vấn đề
quyền lực của Hội Đồng tối cao và việc xử lý quân đội của các bên
Campuchia), làm sao cho có tiến triển hai vấn đề này. Nếu được như vậy,
chúng ta sẽ góp phần vào việc thực sự giải quyết vấn đề Campuchia. Bước
đi này là hết sức quan trọng. Chỉ có đi xong bước này, chúng ta mới có
thể suy nghĩ đến những bước sau. Cũng có nghĩa là chỉ có đi xong bước
này lãnh đạo Trung Quốc mới suy nghĩ về việc gặp cấp cao và việc thúc
đẩy hai phái cộng sản Khmer hoà giải với nhau”.
Nghe Từ đọc xong, tôi hỏi lại: “Như
vậy có phải là chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề quyền lực của SNC và
vấn đề lực lượng vũ trang Campuchia thì Trung Quốc mới nghĩ đến việc gặp
cấp cao ?” Từ khẳng định đúng là như vậy và nói thêm: “Giải
quyết hai vấn đề đó có nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam đã nhất trí cơ
bản về việc giải quyết vấn đề Campuchia, sẽ làm thành biên bản chung ghi
các điều đã nhất trí làm cơ sở để thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia,
tác động đối với bạn bè mỗi bên và mở đầu quá trình bình thường hoá
quan hệ hai nước”. Từ nói: “Nhất quyết phải giải quyết xong hai
điểm tồn tại đó để có được giải pháp toàn bộ, không nên vượt qua vấn đề
Campuchia. Giải quyết xong vấn đề Campuchia thì các bước tiếp theo về
gặp gỡ cấp cao và bình thường hoá quan hệ giữa hai nước sẽ dễ giải quyết”.
Ngay sau đó, tôi sang
gặp thủ tướng Đỗ Mười báo cáo tình hình cuộc đàm phán để chuẩn bị cho
việc anh ấy tiếp Từ Đôn Tín chiều hôm sau như đã dự định. Tôi nói: “Chỉ
với việc anh Linh và anh Lê Đức Anh gặp Trương Đức Duy trước khi Từ Đôn
Tín tới Hà Nội đã làm cho phía Trung Quốc lên giọng trong đàm phán, nay
nếu anh Linh hoặc anh Mười lại tiếp hắn nữa thì rất không nên”. Nghe
tôi trình bày xong, Đỗ Mười bảo sở dĩ anh nghĩ đến chuyện gặp Từ là vì
sáng 10.6.90, Lê Đức Anh đến yêu cầu Đỗ Mười gặp Từ, nay như vậy thì
không cần gặp nữa. Đỗ Mười bảo tôi cùng đi ngay sang báo cáo sự tình với
TBT Nguyễn Văn Linh vì anh Linh cũng dự định tiếp Từ. Sau khi nghe tôi
trình bày, có một phút lặng đi, tôi nghĩ bụng TBT chắc bị bất ngờ về
những câu trả lời quá ư lạnh nhạt của lãnh đạo Trung Quốc đối với những
điều tâm huyết mà anh và Lê Đức Anh đã thổ lộ với đại sứ Trương Đức Duy.
Rồi anh Linh cho ý kiến là trong tình hình này anh Mười hoặc một cấp
cao khác của ta không cần tiếp Từ Đôn Tín nữa.
Ba ngày đàm phán với Từ
nói chung là căng, nhưng giông tố chỉ nổ ra khi Từ Đôn Tín đến chào Bộ
trưởng Nguyễn Cơ Thạch chiều 13.6.90 trước khi đoàn Trung Quốc rời Hà
Nội. Ngay từ đầu không khí trò chuyện đã không lấy gì làm mặn mà lắm.
Nhưng đến khi Từ nói: “Các đồng chí nói chúng ta nên khuyên hai phái
cộng sản Campuchia hoà giải với nhau, [nói đó là mong muốn chân thành
của Việt Nam. Nhưng trên thực tế, các đồng chí cố sức tiêu diệt Khmer
Đỏ. Nếu lãnh đạo Việt Nam muốn có sự hoà giải giữa hai nhóm cộng sản
Khmer thì lẽ dĩ nhiên phải chấp nhận “4 bên”.]38 Chúng
tôi không thể hiểu được trong hai giọng nói đó, cái nào là thật, cái
nào là giả. Nghe tiếng nói này thì tiếng nói kia là giả dối, nghe tiếng
nói kia thì tiếng nói này là giả dối. Mong rằng sau này các đồng chí
không nên làm như vậy”, anh Thạch đã phản ứng mạnh: “Chúng tôi
không đòi các đồng chí nói chỉ có hai bên Campuchia; các đồng chí cũng
không thể đòi chúng tôi nói 4 bên. Chúng tôi nói các bên, không loại bỏ
bên nào là đủ rồi. Nếu nói khác đi là chống lại Hội nghị Tokyo. Tôi nói
thật, dùng thủ đoạn xuyên tạc thì rất khó đàm phán… Tôi rất trọng đồng
chí nhưng rất không hài lòng với những điều đồng chí nói vì đồng chí có
những xuyên tạc. Như thế rất khó đàm phán”. Cuộc nói chuyện kết thúc bằng câu “Chào Ngài ! ” của Từ Đôn Tín. Và anh Thạch cũng đáp lại bằng từ đó thay vào từ “đồng chí”.
Tôi không có mặt trong
buổi anh Thạch tiếp Từ Đôn Tín, nhưng khi nghe kể lại chuyện đó tôi
không hề ngạc nhiên. Tôi nhớ như in cái giọng ngạo mạn kiểu “sứ giả thiên triều” của Từ trong buổi gặp ngày 13.6.90: “Lần này tôi sang Hà Nội chủ yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng tôi đã chuẩn bị ý kiến về quan hệ hai nước Trung Quốc – Việt Nam”. Khi nói “nguyện vọng của các đồng chí” là
Từ muốn nói đến những điều mà Anh Linh và Lê Đức Anh đã nói với đại sứ
Trung Quốc Trương Đức Duy ngày 5 và 6.6.90. Đây là cuộc đàm phán giữa
hai quốc gia bình đẳng, làm sao Trung Quốc có thể nói đến chuyện “xem
xét nguyện vọng” của lãnh đạo Việt Nam được. Thêm vào đó, tâm trạng Bộ
trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong những ngày này lại đang nặng chĩu những suy
tư khác.
Sau khi xảy ra va chạm
giữa Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và trưởng đoàn Trung Quốc Từ Đôn Tín, sức
ép vào nội bộ ta càng mạnh hơn: suốt nửa cuối 1990 đến 1991, Trung Quốc
phớt lờ Bộ Ngoại giao, chỉ làm việc với Ban Đối ngoại; Ngoại trưởng
Tiền Kỳ Tham từ chối gặp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tại kỳ họp Đại hội
Đồng LHQ ở Nữu-ước tháng 9.90. Trước đó, ý đồ Trung Quốc phân hoá nội
bộ ta đã bộc lộ rõ: muốn ta phải thay đổi Bộ trưởng Ngoại giao. Không
chỉ thế, Trung Quốc còn lợi dụng sự cả tin của lãnh đạo ta để phá hoại
uy tín đối ngoại của ta bằng cách dùng thủ đoạn cố ý lộ tin ra với các
nước.
Liều thuốc của thày Tàu bốc cho ta thật là đắng, thế nhưng đâu có dã được tật !
11. BỘ CHÍNH TRỊ ĐÁNH GIÁ CUỘC ĐÀM PHÁN THÁNG 6.90
11. BỘ CHÍNH TRỊ ĐÁNH GIÁ CUỘC ĐÀM PHÁN THÁNG 6.90
Ngày 19.6.90, BCT đã họp
để đánh giá cuộc đàm phán. Rất tiếc không hiểu vì sao ngay sáng hôm họp
BCT, anh Linh lại đi vào thành phố Hồ Chí Minh và nhắn qua anh Nguyễn
Thanh Bình đề nghị BCT cứ họp nhưng chưa bàn về phương hướng tới.
Là người trực tiếp đàm
phán với Trung Quốc, tôi đã trình bày trước BCT bản báo cáo của Bộ Ngoại
Giao trong đó có nhận định về ý đồ của Trung Quốc qua cuộc đàm phán
này:
* Ý đồ Trung Quốc về vấn
đề quan hệ với Việt Nam và về vấn đề Campuchia, qua cuộc gặp này đã bộc
lộ rõ. Chiến lược của Trung Quốc là đặt ưu tiên cao nhất vào việc tranh
thủ Mỹ, phương Tây, ASEAN để phục vụ mục tiêu “4 hiện đại hoá”. Chính
sách đối với Việt Nam, cũng như với Liên Xô và các nước khác đều phải
phục tùng lợi ích tối cao này, không được gây nên bất kỳ ảnh hưởng xấu
nào cho quan hệ của Trung Quốc với Mỹ, phương Tây, ASEAN. Chính vì vậy
Trung Quốc đã không đáp ứng những đề nghị mà TBT Nguyễn Văn Linh và39 Lê Đức Anh nói với Đại sứ Trung Quốc trước cuộc đàm phán này:
a. Về việc ta đề nghị
gặp cấp cao nhất của 2 nước càng sớm càng tốt, Trung Quốc trả lời chỉ
sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia thì lãnh đạo Trung Quốc mới suy
nghĩ đến việc này, cũng như mới có thể bàn vấn đề bình thường hoá quan
hệ hai nước.
b. Về việc ta đề nghị
hai nước đoàn kết để bảo vệ chế độ XHCN, họ nói rõ họ coi quan hệ với
Việt Nam sau này cũng chỉ nằm trong phạm vi quan hệ giữa hai nước láng
giềng, trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Họ còn nói quan hệ
Việt Nam – Trung Quốc không thể làm cho Mỹ và ASEAN lo ngại.
c. Về việc ta đề nghị
hai nước cùng thúc đẩy 2 phái cộng sản Khmer hoà giải với nhau, họ cũng
chỉ trả lời là phải giải quyết xong vấn đề Campuchia thì lãnh đạo Trung
Quốc sẽ tính về việc này. Thực chất phương án giải quyết vấn đề
Campuchia của Trung Quốc là nhằm xoá đi chính quyền và lực lượng quân sự
của Nhà nước Campuchia để giao thực quyền cho SNC do Sihanouk chủ trì.
Hai chính quyền hiện nay – Nhà nước Campuchia và Campuchia Dân Chủ – đều
do hai lực lượng cộng sản kiểm soát là chính, và các lực lượng quân sự
Campuchia mạnh nhất cũng là của hai nhóm cộng sản Khmer. Trung Quốc đòi
cho Sihanouk và lực lượng thân phương Tây vị trí ưu thế bao trùm ở
Campuchia, được lực lượng quân sự của LHQ hỗ trợ hoặc đòi để LHQ cai trị
hoàn toàn Campuchia. Để thực hiện tính toán chiến lược của họ, Trung
Quốc sẵn sàng ngả theo phương án của Mỹ và phương Tây, trái với suy tính
của ta.
* Trung Quốc không đáp
ứng các đề nghị của lãnh đạo ta, đồng thời họ lại đánh giá sai lầm là
Việt Nam yếu, có nhiều khó khăn do tình hình bản thân Việt Nam và do tác
động của tình hình Liên Xô, Đông Âu nên quá lo sợ bị đế quốc diễn biến
hoà bình như đối với các nước Đông Âu, do đó Việt Nam rất cần Trung
Quốc. Vì vậy họ đã lợi dụng lòng khát khao hợp tác với Trung Quốc của
lãnh đạo ta để gây sức ép mạnh với ta trong đàm phán. Đồng thời, từ khi
có cuộc gặp không chính thức với ta ở Bắc Kinh cho đến nay, Trung Quốc
không ngừng đưa tin về các hoạt động của Trung Quốc ở Trường Sa và Hoàng
Sa với lý do vừa gây sức ép với ta vừa làm cho Mỹ, ASEAN yên tâm là
quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam chẳng phải có sự ưu ái gì hơn mối
quan hệ của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á khác.
* Trung Quốc ép ta chấp
nhận lập trường của họ về 2 vấn đề thuộc phạm vi nội bộ Campuchia còn
nhằm mục đích chia rẽ ta với bạn Campuchia, sau khi Trung Quốc đã cố
gắng tranh thủ Lào nhằm tách Lào khỏi Việt Nam và Liên Xô.
* Trung Quốc không hài
lòng về Thông cáo chung Tokyo vì nó đề cao vai trò Nhật ở châu Á đồng
thời xoá bỏ vai trò Khmer đỏ, con chủ bài của Trung Quốc trong vấn đề
Campuchia… Ngày 4 và 5.6.90 ở Tokyo đã có cuộc họp giữa các bên
Campuchia và đã ra được Thông cáo chung Hunxen–Sihanouk thoả thuận một
cuộc ngừng bắn tự nguyện đồng thời với việc lập ra SNC gồm số người của 2
bên ngang nhau (6+6), nhưng Trung Quốc không dám công khai phản đối nên
cố kéo ta cùng có lập trường khác với Thông cáo Tokyo.
* Trung Quốc đưa ra dự
kiến giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước nhằm giành cho Trung Quốc
vai trò trung tâm và chủ động trong cả quá trình giải quyết vấn đề
Campuchia, qua đó khẳng định các vấn đề châu Á không thể chỉ Mỹ và Liên
Xô giải quyết mà không có Trung Quốc. Trung Quốc xem đàm phán với ta là
bước mở đầu có tính quyết định của “kế hoạch 5 bước” để giải quyết vấn
đề Campuchia, vì Trung Quốc cho rằng Liên Xô không ép được Việt Nam, chỉ
có Trung Quốc dùng đòn bẩy về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam mới ép được Việt Nam xoá bỏ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất chính quyền PhnomPenh.
* Trong quan hệ với ta,
Trung Quốc luôn có hai giới hạn: một đàng là Trung Quốc muốn không làm
gì với Việt Nam gây ảnh hưởng bất lợi đến quan hệ với Mỹ, phương Tây,
ASEAN; một đàng là Trung Quốc cũng không muốn tỏ ra quá căng với Việt
Nam làm cho vấn đề Campuchia không thể sớm giải quyết được, đồng thời
duy trì quan hệ căng thẳng với Việt Nam không phù hợp với lợi ích của
Trung Quốc lúc này là tạo hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho việc ổn định
nội bộ thực hiện “4 hiện đại”.
Nghe xong bản báo cáo và
kiến nghị của Bộ Ngoại giao, BCT chưa có ý kiến ngay mà bàn tới diễn
biến của cuộc đàm phán vừa qua. Về vụ to tiếng giữa anh Thạch và Từ Đôn
Tín chiều 13/6, anh Đào Duy Tùng nói “Cần phải nói lại mạnh mới được”. Còn anh Đồng Sĩ Nguyên nói “Nếu anh không phản ứng mạnh thì chúng tôi không thể hiểu nổi”. Về việc [anh Linh và Lê Đức Anh]40 gặp Trương Đức Duy trước khi ta và Trung Quốc đàm phán, anh Tô phát biểu: “Trong
cuộc họp BCT bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã nói 3 lần là không
được hớ, phải rất thận trọng với Trung Quốc. Đằng này anh lại ngửa bài
trước để họ biết hết và kết quả là cái gì đã xảy ra. Trung Quốc họ nghĩ
theo kiểu Đại hán của họ và kết quả là họ ép mình. Ngoại giao là một vũ
đài, phải giữ thế, không phải lúc nào cũng lật hết lá bài ra. Không thể
đưa ngực ra cho nó đấm”. Khi anh Lê Đức Anh nói có ý thanh minh sở
dĩ anh nói “giải pháp Đỏ” với đại sứ Trung Quốc là vì BCT Campuchia nhờ
ta thăm dò Trung Quốc, anh Võ Văn Kiệt nói: “Nhưng ta thăm dò thật thà quá”. Anh Võ Chí Công nói: “Trung
Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi ích chung
của CNXH. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không chịu đâu.
Không nên ảo tưởng”. Anh Lê Đức Thọ, ngày 12.6, khi nghe báo cáo
nội dung trả lời của Trung Quốc về các đề nghị của anh Nguyễn Văn Linh
và anh Lê Đức Anh, đã có ý kiến: “Việc anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh gặp đại sứ Trung Quốc đã làm cho Trung Quốc cứng lên. Đáng lẽ không nên gặp” (Anh Lê Đức Thọ lúc này đang ốm nặng, nằm ở nhà).
Ngày 22.6, khi dặn dò anh Đặng Ngiêm Hoành, đại sứ ta ở Trung Quốc, anh Lê Đức Anh lại nói: “Anh Linh nói chuyện với Trương Đức Duy cũng có đôi chỗ thật lòng quá. Nhưng cũng không phải vì thế mà nó cho là mình yếu”41.
Tôi nghĩ, xét cho cùng
nội bộ ta lúc này đã có hai cách đánh giá về Trung Quốc, cũng như có hai
cách đánh gía về cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô nên đã
có hai cách xử sự khác nhau. Từ Đôn Tín nói ta có “hai tiếng nói trái
ngược”, “không biết cái nào giả, cái nào thật” và khuyên “Bộ Ngoại Giao
nên nhất trí với ý kiến của lãnh đạo cấp cao”, như thế có nghĩa là Trung
Quốc đã biết nội bộ ta đã có kẽ hở mà họ không dại gì bỏ qua không lợi
dụng để giành lợi cho họ.
Ngày 25.6.90 TBT Nguyễn
Văn Linh từ thành phố Hồ Chí Minh điện ra cho BCT nói đã đọc biên bản
cuộc họp BCT ngày 19.6.90, có một số ý kiến sẽ phát biểu sau. Anh không
đồng ý thông báo cho Trung ương và các cấp uỷ về điều tối mật (tức là
những điều Lê Đức Anh đã nói với Trương Đức Duy ngày 6.6.90) mà chỉ
thông báo rằng cuộc họp Việt – Trung vừa qua không kết quả là do Trung
Quốc phá. Ngoại giao cần có cách giải thích cho dư luận theo hướng trên.
Đề nghị anh Sáu Nam (Lê Đức Anh) đi ngay Campuchia thông báo cho Bạn.
Ngoại giao theo dõi bên Trung Quốc lộ ra những điều mà ta đã lấy tình
bạn nói với họ thì phủ nhận ngay, không để chậm 2-3 ngày.
Đợt đàm phán tháng 6.90
không kết quả, nhưng Trung Quốc không cắt cầu như các lần trước mà đề
nghị ta trao đổi với họ qua con đường đại sứ. Như vậy, sau khi đàm phán
thất bại đã có hai loại hoạt động tiến hành song song: hai bên vừa tiếp
tục nói chuyện với nhau, vừa công kích nhau trên mặt trận dư luận.
Để giành chủ động trong
việc tranh thủ dư luận quốc tế, ngày 21.6.90, dưới hình thức trả lời
phỏng vấn của Việt Nam Thông tấn xã, tôi đã nêu rõ nguyên nhân khiến
cuộc nói chuyện với Trung Quốc không tiến triển được chỉ vì Việt Nam
kiên quyết tuân thủ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ
Campuchia; cản trở chính cho giải pháp Campuchia là việc Trung Quốc vẫn
cố bám giữ bọn diệt chủng Polpot. Song điều khiến Trung Quốc cay cú nhất
là tôi đã vạch “Trung Quốc không tán thành Thông cáo chung Tokyo
nhưng không muốn đơn phương một mình chống lại. Họ muốn Việt Nam và
Trung Quốc cùng có một lập trường trái với Thông cáo chung Tokyo”.
Vì vậy ngay sau đó, tờ Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh ngày 5.7.90 đã có ngay
bài “Kế hoạch một hòn đá ném hai đích của Hà Nội” của Thái Tích Mai,
Tân Hoa Xã phản ứng ngay về bài đó, nói Trần Quang Cơ định “dụ dẫn nhân dân thế giới vào cái bẫy của họ bằng hàng loạt sách lược một hòn đá nhằm hai cái đích”. “Ý
đồ thứ nhất của Hà Nội thông qua việc ngừng bắn tại chỗ để che đậy về
việc quân đội Việt Nam vẫn có mặt ở Campuchia. Ý đồ thứ hai của Hà Nội
là thành lập SNC trong khuôn khổ PhnomPenh. Ý đồ thứ ba là lấy cuộc đối
thoại giữa hai chính quyền thay thế nguyên tắc 4 bên”.
Hiểm độc nhất là Trung
Quốc đã thông báo khá rộng rãi với các nước những điều Nguyễn Văn Linh
và Lê Đức Anh nói riêng với Trương Đức Duy về “giải pháp Đỏ” và đoàn kết
XHCN, nhằm gây ấn tượng xấu về ta đối với các nước quan tâm đến vấn đề
Campuchia, kể cả Liên Xô và các nước bạn khác của ta.
Ngày 22.6.90, tại Bắc
Kinh, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã thông báo cho Đại sứ các nước EEC
(Khối thị trường chung châu Âu) về cuộc đàm phán Trung-Việt ở Hà Nội, và
nhận xét là Việt Nam hết sức nóng lòng bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc vì lo sợ sự suy yếu của Liên Xô và tình hình hỗn loạn ở Đông
Âu. Nói là Việt Nam rất xảo trá, rất cứng rắn. Sáng 26.6.90, đại sứ CHLB
Đức khi gặp Vụ Châu Âu II Bộ Ngoại giao ta, cũng cho biết là ngày 22/6
Trung Quốc đã thông báo cho đại sứ các nước Thị trường chung châu Âu ở
Bắc Kinh nội dung cuộc hội đàm giữa Từ Đôn Tín và tôi và đưa ra kết
luận: “Việt Nam là những người rất xảo trá, rất xấu xa và rất cứng
rắn. Họ chỉ muốn Hunxen độc quyền. Họ không chịu nhân nhượng bất cứ điều
gì… Ông Nguyễn Cơ Thạch là người xảo quyệt, rất cứng rắn và căm thù
Trung Quốc cao độ”. Ngày 26.6.90, Đại sứ Úc tại Hà Nội nói với
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch: “Trung Quốc đã thông báo cho Thủ tướng
Thái Lan là Việt Nam đề nghị Trung Quốc và Việt Nam hợp tác với nhau về
vấn đề Campuchia. Việt Nam đề nghị Trung Quốc cùng Việt Nam tham gia một
giải pháp XHCN về Campuchia”
Tuy nhiên, theo chủ trương kiên trì thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc vì lợi ích chiến lược của ta, trong thời gian này hàng tuần
tôi vẫn gặp trao đổi ý kiến với đại sứ Trung Quốc để giữ cầu.
12. MỘT SỰ CHỌN LỰA THIẾU KHÔN NGOAN
12. MỘT SỰ CHỌN LỰA THIẾU KHÔN NGOAN
Trong cuộc gặp tôi ngày
25.6.90 ở Bộ Ngoại giao, không hiểu sao Trương Đức Duy đã đọc lại toàn
văn trả lời của lãnh đạo Trung Quốc gửi lãnh đạo Việt Nam và nói là bản
này “chính xác hơn”(so với bản mà Từ Đôn Tín đã chuyển ngày 12.6), trong
đó đoạn cuối về Campuchia đã sửa lại là: “Vấn đề Campuchia đã kéo
dài 11 năm, trở thành vấn đề quốc tế trọng đại mà cộng đồng quốc tế, đặc
biệt là các nước ASEAN, rất chú trọng. Chúng tôi cho rằng việc này cần
làm gấp. Trước mắt là hai bên Trung Quốc – Việt Nam nên đến thoả thuận
càng sớm càng tốt về một số mặt quan trọng trong giải pháp chính trị về
vấn đề Campuchia để thúc đẩy và tăng cường hơn tiến trình giải quyết
toàn diện vấn đề Campuchia. Bước này đi tốt thì có lợi cho việc suy tính
những vấn đề của bước sau và tạo điều kiện cần thiết cho cuộc gặp cấp
cao Trung Quốc – Việt Nam, và tạo sự hoà giải nội bộ Campuchia”. Thực ra nội dung không có gì khác, chỉ là lời lẽ được sửa lại cho bớt giọng xấc xược ngạo mạn.
Ngày 2.8.90, trước khi
họp BCT, TBT hỏi Nguyễn Cơ Thạch có nên nhắc lại Trung Quốc về gặp cấp
cao và nói “giải pháp Đỏ”. Vào cuộc họp, Thạch nói Trung Quốc đã 3 lần
bác bỏ “giải pháp Đỏ”. Anh Võ Chí Công nói thêm: “đó chỉ là ảo tưởng, ngây thơ”.
Trong cuộc gặp Trương
ngày 5.8.90, tôi đã nêu lại những điểm mà hai bên đã có được sự nhất trí
và những điểm tồn tại về vấn đề Campuchia, đồng thời nói rõ lập trường
của Việt Nam về vấn đề vai trò LHQ và về việc lập SNC. Tôi nhấn mạnh lập
trường nguyên tắc của Việt Nam là công việc nội bộ của Campuchia chỉ có
thể do người Campuchia quyết định. Trương Đức Duy đồng ý là những vấn
đề nội bộ Campuchia phải thuộc chủ quyền của Campuchia, nhưng lại cho
rằng nếu không sự can thiệp của bên ngoài thì sẽ khó có được giải pháp
toàn diện. Qua trao đổi, đại sứ Trung Quốc đã phải thừa nhận là các nước
khác có thể bàn nhưng phải là người Campuchia quyết định thì mới thực
hiện được. Về quan hệ hai nước, Trương đọc bản đã viết sẵn: “Chúng
tôi cho rằng hiện nay tình hình quốc tế chuyển biến rất nhanh, không chờ
đợi chúng ta. Mong phía Việt Nam nắm vùng thời cơ, sớm hạ quyết tâm, có
quyết sách loại trừ chướng ngại, tạo điều kiện cho việc sớm bình thường
hoá quan hệ hai nước”, và nói thêm “Trung Quốc coi trọng quan hệ Trung Quốc – Việt Nam nhưng phải làm từng bước một”.
Đến cuộc gặp ngày
13.8.90, theo lời dặn của TBT Nguyễn Văn Linh trong cuộc họp BCT 12.8,
sau khi tỏ ý hoan nghênh tuyên bố của Lý Bằng ở Singapore 12.8 (“Trung
Quốc hy vọng sắp tới đây sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và sẽ
bàn bạc với Việt Nam những vấn đề có tranh chấp như quần đảo Trường Sa”), tôi nói: “Lãnh
đạo chúng tôi rất vui mừng vì hai bên có suy nghĩ gặp nhau, chúng tôi
cho rằng hai nước chúng ta cần có sự hợp tác với nhau trước mắt cũng như
lâu dài, về những vấn đề cụ thể như vấn đề Campuchia cũng như các vấn
đề rộng lớn hơn mà hai nước cùng có sự quan tâm giống nhau”. Trương
Đức Duy trình bày 7 điểm lập trường của Trung Quốc về vấn đề Campuchia,
trong đó có việc lập SNC gồm 4 bên Campuchia do Sihanouk đứng đầu,
thành phần và số lượng do các bên Campuchia quyết định và là cơ chế hợp
pháp duy nhất. Các điểm khác không có gì mới. Để gây tác động làm giảm
sức ép của Trung Quốc, tôi đã thông báo cho Trung Quốc cuộc nói chuyện
giữa ta và Mỹ lại Nữu-ước ngày 6.8.90 về vấn đề Campuchia (trong cuộc
gặp này Mỹ chủ yếu thăm dò, vận động ta chấp nhận 2 văn kiện của P5 về
giải pháp Campuchia), Việt Nam và Mỹ sẽ còn tiếp tục nói chuyện.
Tháng 8.90, tình hình
quốc tế cũng như vấn đề Campuchia tiếp tục diễn biến phức tạp. Từ đầu
1990 mở đầu thời kỳ hoà hoãn giữa 3 nước lớn, đồng thời 3 nước lớn bắt
đầu dùng cơ chế 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An (P5) giải quyết vấn
đề 42vấn
đề vùng Vịnh. Từ khi Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia và càng đi
gần vào giải pháp thì lợi ích của Campuchia và của ta càng kênh nhau43.
Chúng ta đứng trước tình hình 5 nước lớn quyết tâm đạt thoả thuận về
một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia. Còn Campuchia lại đang
trước một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Khó kéo dài nội chiến vì khó
khăn kinh tế chính trị trong nước và trên thế giới, mà đi vào giải pháp
chính trị thì lo thất bại trong tuyển cử. Mặt khác, thái độ của Mỹ có
đổi khác: ngày 18.7.90 ngoại trưởng James Baker tuyên bố Mỹ thôi không
công nhận Campuchia Dân chủ (tức chính quyền 3 phái do Sihanouk đứng
đầu), lên án Khmer Đỏ, nhận đối thoại với Việt Nam qua phái đoàn ở
Nữu-ước. Ngày 6.8.90, ta với Mỹ tiếp xúc ở Nữu-ước, Mỹ chủ yếu thăm dò
thái độ ta về văn kiện khung của LHQ về giải pháp Campuchia.
Ngày 8.8.90 Bộ Ngoại
Giao trình BCT đề án về vấn đề Campuchia theo hướng phân rõ mặt quốc tế
và mặt nội bộ của giải pháp. Về mặt quốc tế, góp ý với bạn nên đồng ý
phương án của P5, còn mặt nội bộ phải do bạn Campuchia quyết định, ta
tôn trọng.
Chiều 8.8.90, tôi đến gặp Cố vấn Phạm Văn Đồng xin ý kiến về đề án này. Anh nói: Tình
hình hiện nay tạo cơ hội thuận lợi cho giải pháp Campuchia. Cần tận
dụng cơ hội mới này trong khi ta còn sử dụng được. Phải dám chơi với
LHQ, với Hội Đồng Bảo An, với Mỹ và phương Tây. Cần tranh thủ nhân tố Mỹ
trong tình hình mới… Đề án về lý thuyết thì tốt nhưng làm sao thực hiện
được… Không nên đặt yêu cầu quá cao “giữ vững thành quả cách mạng
(Campuchia)”… Đi vào tổng tuyển cử bạn giành được 50% là lý tưởng…”
Ngày 12.8.90, BCT họp về đề án Campuchia do Bộ Ngoại Giao thảo. Sau khi thảo luận, anh Linh kết luận: Với
Mỹ, ta tiếp tục đối thoại như BCT đã cho ý kiến với Trung Quốc trong
cuộc gặp 13/8 giữa tôi và Trương Đức Duy, ta nên nói là 2 nước XHCN Việt
Nam và Trung Quốc nên hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia để có một
nước Campuchia hữu nghị với các nước láng giềng, trước hết là Việt Nam,
Trung Quốc, Lào. Ta không nói Việt Nam và Trung Quốc là hai nước XHCN
cần đoàn kết chống đế quốc chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Nhưng rồi cuộc gặp Thành
Đô đã làm lãnh đạo Việt Nam xa rời quan điểm thực tế này mà ngã hẳn
theo Trung Quốc, thậm chí còn định ép PhnomPenh chấp nhận đòi hỏi quá
đáng của Bắc Kinh về vấn đề SNC Campuchia.
13. CUỘC GẶP CẤP CAO VIỆT – TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ
13. CUỘC GẶP CẤP CAO VIỆT – TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ
Ngày 29.8.90, đại sứ
Trương Đức Duy xin gặp gấp TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười
chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời TBT
Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành
Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về
vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước.
Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô. Trung Quốc còn
lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận hội) nên không
gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được vì khó giữ được bí mật, mà
gặp ở Thành Đô.
Đây quả là một sự chuyển
biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc nói không chỉ
sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn
vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm ngày trước – ngày 24.8.90 –
Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp cao
trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn
đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ.
Thái độ “thiện chí” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách:
a. Tất cả những hoạt
động đối ngoại và đối nội của Trung Quốc trong hơn 10 năm qua khẳng định
chiến lược nhất quán của họ là kiên quyết thực hiện “4 hiện đại”, biến
Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu trên thế giới, đồng thời xác
định vị trí nước lớn của mình trước hết ở Đông Nam Á và châu Á – Thái
Bình Dương. Vì lợi ích chiến lược đó, Trung Quốc kiên trì tranh thủ Mỹ,
Nhật, phương Tây, đồng thời bình thường hoá quan hệ với Liên
Xô. Nhưng sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa, tình hình chính trị, xã hội
và kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn. Sau sự kiện Thiên An Môn, mục
tiêu chiến lược đó đang bị đe doạ nghiêm trọng. Về đối ngoại, bị Mỹ,
Nhật và phương Tây thi hành cấm vận. Trong khi đó, quá trình cải thiện
quan hệ Mỹ – Xô tiến triển rất nhanh44.
Xô – Mỹ hợp tác chặt chẽ giải quyết các vấn đề thế giới và khu vực
không kể đến vai trò của Trung Quốc. Ngay trong vấn đề Campuchia, vai
trò Trung Quốc cũng bị lấn át (Xô – Mỹ tiếp xúc trao đổi chặt chẽ về vấn
đề Campuchia, cuộc gặp Sihanouk – Hunxen ở Tokyo là do sự dàn xếp của
Mỹ, Nhật và Thái, ngoài ý muốn của Trung Quốc). Phương Tây tiếp tục đòi
Trung Quốc thực hiện dân chủ và giải quyết vấn đề Campuchia trên cơ sở
kiềm chế Khmer Đỏ.
b. Chuyến đi Đông Nam Á
của Lý Bằng (6-13.8.90) nằm trong yêu cầu chiến lược của Trung Quốc
tranh thủ hoàn cảnh quốc tế hoà bình để thực hiện “4 hiện đại”, diễn ra
trong bối cảnh liên minh Trung Quốc xây dựng ở Đông Nam Á trong 10 năm
qua để chống Việt Nam đang tan vỡ sau khi Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia và sau khi Mỹ đã điều chỉnh chính sách. Cuộc đi thăm của Lý đã
bộc lộ những điểm đồng và bất đồng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN.
Các nước ASEAN vẫn rất lo ngại lý do bành trướng của Trung Quốc. Trung
Quốc buộc phải cam kết nội bộ các nước trong khu vực, ủng hộ các đảng
cộng sản và vấn đề Hoa kiều, tuyên bố sẵn sàng thương lượng và hợp tác
về vấn đề Trường Sa. Tiếp tục đối đầu với Việt Nam không còn phù hợp với
chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lúc này nữa.
c. Sau khi Việt Nam đã
hoàn tất việc rút quân khỏi Campuchia, các nước phương Tây, Mỹ, Nhật,
ASEAN đi vào cải thiện quan hệ với ta theo hướng không có lợi cho tính
toán của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước tình hình đó, Trung Quốc không
muốn chậm chân.
d. Về thời điểm: trong
cuộc họp ngày 27 và 28.8.90 tại Nữu-ước, P5 đã thoả thuận văn kiện khung
về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia (gồm các vấn đề: các lực
lượng vũ trang Campuchia, tổng tuyển cử dưới sự bảo trợ của LHQ, nhân
quyền và bảo đảm quốc tế đối với thể chế tương lai của Campuchia). Văn
kiện về nhân quyền không đề cập trực tiếp đến vấn đề diệt chủng, chỉ nói
Campuchia sẽ “không trở lại chính sách và hành động trong qúa khứ”. Còn
Trung Quốc buộc phải nhân nhượng không còn đòi lập chính phủ liên hiệp 4
bên ngang nhau, phải chấp nhận vai trò lớn của LHQ. P5 thoả thuận lịch
giải quyết vấn đề Campuchia: trong tuần từ 3.9 đến 9.9 họp các bên
Campuchia ở Jakarta để lập SNC trước phiên họp Đại hội đồng LHQ, tiếp đó
họp mở rộng với các nước trong khu vực (có Trung Quốc), đến khoảng
tháng 10-11.90 họp uỷ ban Phối hợp Hội nghị Paris về Campuchia để soạn
thảo Hiệp định trên cơ sở văn kiện khung do P5 vạch ra, các ngoại trưởng
ký Hiệp định; 15 nước trong Hội đồng Bảo An thông qua. Trung Quốc đặt
cuộc gặp cấp cao Trung – Việt trong cái khung thời gian này. Tuy nhiên
Bắc Kinh dấu không cho ta biết gì về những thoả thuận giữa họ và các
nước lớn trong Hội đồng bảo an, mặt khác cũng giữ kín cuộc hẹn gặp ta ở
Thành Đô vì không muốn làm cho phương Tây và ASEAN lo ngại khả năng đoàn
kết hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Ngày 30.8.90, Bộ Chính
trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Quốc. Anh Linh nêu ý kiến là sẽ
bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ CNXH chống đế quốc, và hợp tác giữa
PhnomPenh và Khmer đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia, mặc dù trước đó
Bộ Ngoại Giao đã trình bày đề án nêu rõ là rất ít khả năng thực hiện
phương án này vì phương hướng chiến lược của Trung Quốc vẫn là tranh thủ
phương Tây phục vụ “4 hiện đại”. Anh Lê Đức Anh bổ sung ý anh Linh: “Phải nói về hoà hợp dân tộc thực sự ở Campuchia. Nếu không có Polpot thì vẫn tiếp tục chiến tranh”. Anh Võ Chí Công không đồng ý, nói: “Trung Quốc sẽ không nghe ta về hợp tác bảo vệ CNXH. Trung Quốc muốn tranh thủ phương Tây”. Anh Thạch cảnh giác: “Vẫn
có 3 khả năng về quan hệ giữa ta và Trung Quốc, không phải chỉ là khả
năng tốt cả. Dự kiến Trung Quốc sẽ nêu công thức “SNC 6+2+2+2” để nhấn
rõ là có 4 bên Campuchia (trong đó Khmer đỏ là 1 bên), xoá vấn đề diệt chủng…” Sự thực sau này cho thấy Trung Quốc còn đòi cao hơn thế !
Ngày 2.9.90, ba đồng chí
lãnh đạo cao cấp của ta đến Thành Đô đúng hẹn. Tháp tùng có Hồng Hà –
Chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn – Trưởng ban Đối ngoại, và
Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đáng chú ý là trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Sau 2 ngày nói chuyện
(3-4.9.90), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là “Biên bản tóm
tắt” gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy
có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện
quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ Trung
Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc. Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm
có tính chất chung về mặt quốc tế mà 2 bên đang còn tranh cãi (giải
pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia; rút hết quân Việt Nam ở
Campuchia có dẫn chứng), còn 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của
Trung Quốc. Không có điểm nào theo yêu cầu của ta cả. Trong bản thoả
thuận, vấn đề nổi cộm nhất là điểm 5 về việc thành lập SNC. Lãnh đạo ta
đã thoả thuận dễ dàng, không do dự (!), công thức “6+2+2+2+1” (phía
PhnomPenh 6 người; phía “3 phái” 7 người; 2 của Khmer đỏ, 2 của phái Son
San, 2 của phái Sihanouk và bản thân Sihanouk) mà Từ Đôn Tín vừa đưa ra
ở Hà Nội và bị tôi bác. Công thức này bất lợi cho PhnomPenh, với công
thức “6+6” hay “6+2+2+2”, tức là hai bên có số người ngang nhau mà
Sihanouk và Hunxen đã thoả thuận ở Tokyo.
Về sáng kiến “giải pháp
Đỏ” cho vấn đề Campuchia mà lãnh đạo ta đưa ra, tưởng như phía Trung
Quốc sẽ nhiệt liệt hoan ngênh, song Lý Bằng đã bác đi: “Các đồng chí
nói cần thực hiện 2 đảng cộng sản hợp tác với nhau để phát huy hơn nữa.
Tôi đồng ý một phần và không đồng ý một phần. Bốn bên Campuchia, xét về
lực lượng quân sự và chính quyền, mạnh nhất là hai đảng cộng sản, có
vai trò nhiều hơn. Nhưng phần tôi không đồng ý là ở campuchia không chỉ
có hai đảng cộng sản mà còn có các thế lực khác là lực lượng của
Sihanouk và lực lượng của Son San. Lực lượng của họ không lớn lắm nhưng
họ được quốc tế ủng hộ. Bài xích họ thì cô lập SNC, không thể đoàn kết
Campuchia. Cần phải để cho hai bên kia phát huy tác dụng ở Campuchia”. Và Giang Trạch Dân cùng nói thêm: “ Các
nước phương Tây rất chú ý tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến
đây, cho đến nay các nước không ai biết, cũng không cho các bên
Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề này. Họ cho rằng Việt nam
XHCN, Trung Quốc XHCN đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, họp với nhau bàn
cái gì đây ? Vì vậy chúng tôi giữ kín chuyến đi này. Tình hình quốc tế
hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi
cho chúng ta”.
14. THÀNH ĐÔ LÀ THÀNH CÔNG HAY LÀ THẤT BẠI CỦA TA ?
14. THÀNH ĐÔ LÀ THÀNH CÔNG HAY LÀ THẤT BẠI CỦA TA ?
Ngay say khi ở Thành đô
về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và Lê Đức Anh,
đã bay sang PhnomPenh thông báo lại với BCT Campuchia nội dung cuộc gặp
gỡ cấp cao Việt-Trung. Để thêm sức thuyết phục PhnomPenh nhận Thoả thuận
Thành đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải thấy giữa
Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải
có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến
mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc.” Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ
và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu.
Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù
trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung
Quốc.”
Nhưng câu trả lời của Heng Somrin, thay mặt cho lãnh đạo Campuchia, vẫn là: “Phải
giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Những
vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải
quyết”. Về “giải pháp Đỏ”, PhnomPenh nhận định: “Trung Quốc
không muốn hai phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp
cho quan hệ của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy
rằng khó có thể thực hiện “giải pháp Đỏ” vì “giải pháp Đỏ” trái với lợi
ích của Trung Quốc”. Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục Bạn: “ Ta
nói “giải pháp Đỏ” nhưng đó là “giải pháp Hồng”, vừa xanh vừa đỏ. Trước
mắt không làm được nhưng phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con đường,
làm bằng thực tế. Các đồng chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc với
Khmer Đỏ. Vấn đề tranh thủ Khmer Đỏ là vấn đề sách lược mang tính chiến
lược… Nên kiên trì tìm cách liên minh với Trung Quốc, kéo Khmer Đỏ trở
về… Ta đừng nói với Trung Quốc là làm “giải pháp Đỏ”, nhưng ta thực hiện
“giải pháp Đỏ”; có đỏ có xanh…nhưng thực tế là hợp tác hai lực lượng
cộng sản”. Nguyễn văn Linh bồi thêm: “Xin các đồng chí chú ý
lợi dụng mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ. Trung Quốc muốn đi với Mỹ, nhưng
Mỹ ép Trung Quốc nên Trung Quốc cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt
Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược
tốt thì ta có giải pháp Đỏ.”
Theo báo cáo của đại sứ
Ngô Điền, thái độ của bạn Campuchia đối với ta từ sau Thành Đô có đổi
khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt nam. Trên cơ
sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định lấy đối sách, không
trao đổi trước với ta, hoặc quyết định trái với sự gợi ý của ta trên
nhiều việc.
Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm:
* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước;
* Trung Quốc nói mập mờ
là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái
“mối” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao.
* Trung Quốc nói giữ bí
mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả
các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông baó nội
dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.
Ngày 7.9.90 BCT đã họp
thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao Việt – Trung và cuộc gặp cấp cao
Việt – Campuchia sau đó, và quyết định ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ
Trung Quốc thông báo lại lập trường của Campuchia; đồng thời thông báo
với Liên Xô, Lào như đã thông báo với Campuchia. Nếu có ai hỏi về công
thức “6+2+2+2+1”, nói không biết.
Nhưng Báo Bangkok Post
ngày 19.9.90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công khai hoá bản Thoả
thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về thành phần
SNC của Campuchia sẽ gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của Khmer đỏ,
2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk, thành viên thứ 13 là Hoàng
thân Sihanouk giữ chức Chủ tịch Hội đồng. Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (FEER)
số 4/10 (10.10.90) đăng bài “Củ Cà-rốt và cái gậy” viết về cuộc gặp gỡ
cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô giưa TBT Đảng và Thủ tướng hai nước, cho
biết hai bên đã thoả thuân công thức “6+6+1” về việc lập SNC. Phía Việt
Nam có nhượng bộ nhiều hơn. Việc Ngoại trưởng hai nước khong dự họp cấp
cao là đáng chú ý. Bên trong, Trung Quốc nói họ coi ông Thạch là người
có quan điểm cứng rắn về vấn đề Campuchia cũng như đối với Trung Quốc.
Ngày 12.10.90, nhà báo Nayan Chanda nói với anh Thạch: “Trung Quốc
đang tuyên truyền rộng rãi là lãnh đạo Việt Nam đánh lừa mọi người, họ
ký kết với lãnh đạo Trung Quốc về thành phần SNC nhưng đã không thực
hiện thoả thuận cấp cao Việt-Trung. Việt Nam lại còn xúi dục chính quyền
PhnomPenh chống việc bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC và đưa ra hết điều
kiện này đến điều kiện khác.” Ngày 5.10.90, anh Nguyễn Cơ Thạch gặp
Ngoại trưởng Mỹ Baker. Baker cho biết là sau khi cuộc họp các bên
Campuchia ở Bangkok vừa qua thất bại, Trung Quốc rất bất bình với lãnh
đạo Việt Nam. Trung Quốc cho rằng lãnh đạo cấp cao của Việt nam đã hoàn
toàn đồng ý với đề nghị của Trung Quốc về con số 13 thanh viên của SNC
nhưng lại nói với PhnomPenh là công thức đó là ý kiến riêng của Trung
Quốc, đã không làm gì để thúc đẩy PhnomPenh thực hiện thoả thuận giữa
cấp cao hai nước. Không thể tin được ngay cả lãnh đạo cấp cao nhất của
Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao Việt Nam. Baker còn nói rằng Trung Quốc
đã bác bỏ đề nghị của lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam là Việt Nam và
Trung Quốc đoàn kết bảo vệ CNXH chống âm mưu của đế quốc Mỹ xoá bỏ CNXH
cũng như đề nghị của Việt Nam về giải pháp dựa trên liên minh giữa
PhnomPenh và Polpot.
Còn Lý Bằng trong khi
trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post
tại Bẵc Kinh, ngày 24.10.90, đã xác nhận có một cuộc gặp bí mật giữa
lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9 và cho biết kết quả cuộc
gặp đã được phản ảnh qua cuộc họp giữa các bên Campuchia ngày 10.9.90
tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía Việt Nam đã cố gắng
thuyết phục PhnomPenh đến đâu, Lý nhận định là Hà Nội chắc chưa làm đủ
mức. Điều đó có thể thấy được qua việc PhnomPenh đã có “một thái độ
thiếu hợp tác45”.
Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc
lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là
Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa
vững chắc cho cách mạng Việt Nam và CNXH thế giới, chống lại hiểm hoạ
‘diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó
đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm ““giải pháp Đỏ”.
Sau Thành Đô, trong BCT
đã có nhiều ý kiến bàn cãi về chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội
VII, khi BCT họp (15-17.5.91) thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình
hình thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và
phương hướng tới”, cuộc gặp cấp cao Việt Nam – Trung Quốc ở Thành Đô mới
lại được đề cập tới khi bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại Giao có câu
“có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về
vấn đề Campuchia”. Cuộc họp này đầy đủ TBT Nguyễn văn Linh; các cố vấn
Phạm văn Đồng, Võ Chí Công; các uỷ viên BCT Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn
Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng
Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình.
Anh Tô nói: Có thời
giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để nhận định sâu
sắc thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận về thái độ của
mình. Nói là tự kiểm điểm thì tự kiểm điểm. Tôi ân hận là ở hai chỗ. Lúc
ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói là anh Linh. Anh
Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng trình
bày phương án “6+2+2+2+1” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội
đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn đề).
Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói: tôi
không nghĩ phương án 13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng… Tôi ân
hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối. Nhưng
tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh bên Ban Đối
Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được nguyên
tắc “consensus” (nhất trí), còn con số không quan trọng. Tôi nghe hơi
yên tâm nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa ký bản
thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung
trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp
đầu, sau khi Lý bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì ta có thể có cách
bàn thêm với họ. Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thoả
thuận, các đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt
gì trước khi ký. Nghĩ lại, khi họ mời TBT, Chủ tịch HĐBT ta sang gặp
TBT, Chủ tịch Quốc vụ viện, lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không
chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn, nên đi.
Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản
ứng của Bạn Campuchia, rất gay gắt. Tôi hiểu là Bạn khá bất bình, thậm
chí là uất nhau. Cho ta là làm sau lưng, có hại cho người ta.”
Anh Linh: “ Anh Tô
nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói ta nghiên cứu xem xét và
cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia… Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế
là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình chấp nhận phương án 13… Vấn
đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tính đến chiến lược và sách
lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có nhiều
biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã
hội ở châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi,
nay chuyển sang phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khmer Đỏ nắm
Campuchia. Song dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước
XHCN.”
Anh Thạch: “ Về
chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với
lãnh đạo ta ở Thành Đô cho PhnomPenh. Hunxen nói là trong biên bản viết
là “hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1” nhưng
băng ghi âm lại ghi rõ anh Linh nói là “không có vấn đề gì”. Tôi xin
trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu. Tại Tokyo tháng
6.90, Sihanouk và Hunxen đã thoả thuận thành phần SNC gồm hai bên ngang
nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang hà nội, ép ta nhận công thức 6+2+2+2+1
không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang
PhnomPenh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc
consensus trong SNC, anh Hunxen nói riêng với tôi: chúng tôi thắng mà
phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì mang tiếng
Campuchia bị Việt nam và Trung Quốc ép. Như vậy, dù là consensus cũng
không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể nhận 12 hoặc
14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là PhnomPenh thắc
mắc nhiều với ta. Liên xô, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ đều cho ta biết là Trung
Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô và nói với họ là
lãnh đạo Việt nam không đáng tin cậy. Trung Quốc đã sử dụng Thành Đô để
phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta…”
Hôm sau, BCT họp tiếp, anh Mười nói: “
Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao, Hunxen làm
phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc Tối cao làm nguyên
tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh Thạch đi Thanh Đô thì
tốt hơn…”
Anh Tô: “Vấn đề chủ
yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô như anh Mười nói, mà là kết
quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta như thế nào ? Ở Thành Đô,
điều ta làm có thể chứng minh được nhưng Campuchia cho là ta giải quyết
trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận là về sau này sẽ để lại
hậu quả.”
Anh Mười: “ Với tinh
thần một người cộng sản, tôi cho là ta không sai. Ban Campuchia nghĩ gì
về ta là quyền của họ. Với tinh thần một người cộng sản, ta không bao
giờ vi phạm chủ quyền của bạn.”
Anh Thạch: Họp Bộ
Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói thẳng. Có phải khi đi Thành Đô
về, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh nhận hơi sớm. Anh Linh
nhận công thức 13 và anh Tô nhận consensus” (nguyên tắc nhất trí).
Anh Võ Văn Kiệt: Trong
thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có
gặp anh Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi
biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý, không
có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm
bẫy.”
Vốn là người điểm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu: Mình
hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được
hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó, nhưng tôi không nghĩ
như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.
Thoả thuận Việt Nam –
Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại đã để lại một ấn tượng
không dễ quên đối với PhnomPenh. Trong phiên họp Quốc hội Campuchia ngày
28.2.91, Hunxen phát biểu: “Như các đại biểu đã biết, vấn đề SNC
này rất phức tạp. Chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm
mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng hộ chúng không đâu. Mặc dù Hội đồng đã được
thành lập trên cơ sở 2 bên bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến thành
4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng
không hoạt động được”.
Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở PhnomPenh, ngày 28.9.90, Hunxen đã có những ý khá mạnh về việc nối về thoả thuận Thành Đô: “Khi
gặp Sok An ở Bangkok hôm 17.9, Trung Quốc doạ và đòi SOC phải công nhận
công thức mà Việt Nam và Trung Quốc đã thoả thuận. Nhưng PhnomPenh độc
lập. Sok An đã nói rất đúng khi trả lời Trung Quốc là ý này là của Việt
Nam không phải của PhnomPenh.“
Cuộc hội đàm Thành Đô
tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện
tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng
cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô
nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc kinh nhưng
trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề
Campuchia và do đó làm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.
Việc ta đề nghị hợp tác
với Trung Quốc bảo vệ CNXH chống đế quốc Mỹ, thực hiện “giải pháp Đỏ” ở
Campuchia là không phù hợp với Nghị quyết 13 của BCT mà còn gây khó khăn
với ta trong việc đa dạng hoá quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ,
phương Tây, ASEAN, và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và
đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia. Trung Quốc một mặt
bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề
nghị đó chơi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức
ép với ta và Campuchia.
Cùng với việc ta thúc ép
PhnomPenh đi vào “giải pháp Đỏ”, việc ta thoả thuận với Trung Quốc công
thức SNC tại Thành Đô là không phù hợp với nguyên tắc nhất quán của
Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn đề nội bộ của
Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của Campuchia đối với ta, đi
ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ với ta với
Campuchia và Lào.
15. AI LÀ NGƯỜI ĐÁNG LÝ RA PHẢI NHỚ DAI ?
15. AI LÀ NGƯỜI ĐÁNG LÝ RA PHẢI NHỚ DAI ?
Sau cuộc gặp cấp cao ở
Thành Đô, yêu sách chính của Trung Quốc đối với ta trong vấn đề
Campuchia tập trung chủ yếu vào việc đòi ta thực hiện thoả thuận Thành
Đô, tác động với PhnomPenh theo hướng: “nhận bầu Sihanouk làm chủ tịch
SNC gồm 13 thành viên của 4 bên Campuchia; chấp nhận văn kiện của 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an về vấn đề Campuchia.
6 giờ sáng ngày 9.9.90,
đại sứ Trung Quốc đến Ban Đối ngoại (chứ không đến Bộ Ngoại giao) gặp
Hồng Hà trao thông điệp báo các bên Campuchia sẽ họp ngày 10.9 tại
Jakarta để bàn việc lập SNC và nhấn mạnh yêu cầu Việt Nam tác động theo
hướng đã thỏa thuận tại Thành Đô. Ngay sau đó BCT đã họp trao đổi về
thông điệp đó và quyết định cử tôi đi Jakarta. Trong cuộc họp này BCT đã
quyết định từ nay các tiếp xúc đối ngoại về mặt Nhà nước đều phải qua
Bộ Ngoại Giao và phải báo cáo với anh Thạch và bộ trưởng Quốc phòng Lê
Đức Anh (?) vì cách làm của đại sứ Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại Giao một
cách quá lộ liễu.
Trưa ngày 9.9.90 tôi
cùng anh Huỳnh Anh Dũng đáp máy bay qua đường Bangkok sang thủ đô
Inđônêxia để theo dõi cuộc họp của các bên Campuchia bàn về việc thành
lập SNC. Không có “cẩm nang” nào kèm theo chỉ thị đó cả, chỉ có lời dặn
ngắn gọn của TBT Nguyễn Văn Linh là cố lập được SNC.
Chiều tối 10.9.90, vừa
chân ướt chân ráo từ sân bay về đến sứ quán ta ở Jakarta, tôi đã nhận
được một cú điện thoại từ sứ quán Trung Quốc gọi tới. Trương Thanh gọi
điện thoại đến nói là chào trước khi rời Jakarta và cảm ơn tôi đã tác
động tích cực khiến cho cuộc họp các bên Campuchia này đạt được một số
kết quả (!). Tôi trả lời là tôi không dám nhận sự biểu dương đó, nếu như
cuộc họp kết quả tốt thì đó là do thiện chí của Nhà nước Campuchia.
Chả là lúc tôi xuống sân
bay Jakarta cũng là lúc cuộc họp giữa các bên Campuchia vừa bế mạc sau
khi đã thoả thuận lập SNC gồm 12 thành viên, chức chủ tịch còn để trống
và tuần tới sẽ họp phiên đầu tại Bangkok để giải quyết nốt vấn đề chủ
tịch SNC. Bản tuyên bố chung của cuộc họp có ghi “Các bên Campuchia chấp nhận toàn bộ văn kiện khung của P5 làm cơ sở để giải quyết cuộc xung đột Campuchia”.
Tôi nghĩ rằng Bộ Chính trị bảo tôi sang Jakarta có thể là một động tác
sách lược để tỏ ra với Trung Quốc là ta tích cực thực hiện thoả thuận
Thành Đô. Còn Trương Thanh gọi điện cảm ơn tôi thực ra cũng là một sự vỗ
về của Trung Quốc để khuyến khích tôi tiếp tục cố gắng thực hiện thoả
thuận Thành Đô ! Nhưng sự khuyến khích đó lại có tác dụng trái ngược
lại, làm thức tỉnh cái con người bướng bỉnh trong tôi. Từ đầu, tôi và số
anh em chuyên nghiên cứu vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc
trong Bộ Ngoại Giao đã rất không thông với thoả thuận Thành Đô vì nhiều
lẽ, nay tôi càng thấy mình không thể hành động trái với điều mình cho là
lẽ phải.
Ngày 13.9.90 tôi lại
được trong nước chỉ thị đi thẳng từ Jakarta sang Bangkok để theo dõi
phiên họp đầu tiên của SNC ở đó. Sáng 14.9.90 Bí thư thường trực Bộ
Ngoại Giao Thái Kasem mời tôi tới Bộ Ngoại giao Thái Lan nói
chuyện. Chủ đề câu chuyện vẫn là vấn đề Campuchia. Kasem hỏi dò tôi về
thoả thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc về cơ chế SNC. Tôi trả lời đó chỉ
là những tin đồn không căn cứ, không nên tin. Trưa hôm đó, Sok An, thứ
trưởng ngoại giao Campuchia, tìm đến gặp tôi. Anh hỏi ý kiến về cuộc họp
SNC ở Bankok sắp tới, thái độ ta nên như thế nào nếu đối phương đòi đưa
Sihanouk làm chủ tịch SNC và là thành viên thứ 13 cuả SNC ? Tôi gợi ý
cần giữ vững nguyên tắc hai bên ngang nhau. Để thiện chí, một lần nữa,
ta có thể nhận cho đối phương thêm một người nhưng bên ta cũng phải thêm
một người (mỗi bên 7 người). Không 12 thì 14 chứ không nhận 13. Sau đó
tôi lại được anh Sok An cho biết là Kraisak, con trai Thủ tướng
Chatichai và là thành viên trong nhóm cố vấn của Thủ tướng Thái, đã bảo
anh rằng ông ta được Bộ Ngoại giao Thái thông báo là Việt Nam cũng ủng
hộ việc lập SNC với 13 thành viên do Sihanouk đứng đầu. Tôi nói với Sok
An đấy là điều bịa đặt và tôi sẽ gặp Kraisak dể nói lại. Chiều hôm khi
gặp Kraisak, tôi nói khá thẳng rằng: “Không thể coi ông Sihanouk là
ông chủ ở Campuchia, là vua trên tất cả. Vấn đề thành phần cũng như chức
chủ tịch SNC phải do người Campuchia quyết định. Việt Nam và Trung Quốc
không có quyền bỏ phiếu về vấn đề đó”. Sau đó Kraisak kể
lại cả cho Kasem. Kết quả là cuộc họp SNC phiên đầu tiên 17.9.90 tại
Bangkok đã tan vỡ vì Hunxen không chấp nhận công thức “6+2+2+2+1”, cự
tuyệt bầu Sihanouk làm chủ tịch với tư cách là thành viên thứ 13 của
SNC. Hẳn Trung Quốc đã gắn trách nhiệm hoặc ít ra cũng là một phần trách
nhiệm về thất bại đó cho tôi.
Hạ tuần tháng 9.90,
Trung Quốc đón Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp thăm Trung Quốc và dự lễ
khai mạc Á Vận Hội (ASIAD) 11 với tư cách là “khách mời đặc biệt của
Chính phủ Trung Quốc” (tuy nhiên báo chí Trung Quốc vẫn đưa tin việc
Trung Quốc mời Võ Nguyên Giáp là thể theo yêu cầu của ta, dù rằng ngày
4.9.90 khi tiếp đoàn cấp cao của ta ở Thành Đô chính Giang Trạch Dân đã
nói sẽ mời anh Giáp dự khai mạc ASIAD như một cử chỉ thiện chí của họ).
Ngày 24.9.90 khi tiếp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Lý Bằng có
nói: “Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, cuộc họp Jakarta kết quả tốt,
đã ra được tuyên bố SNC 13 người. Song đến khi họp SNC ở Bangkok thì
không tốt. Xin nói thẳng thắn với đồng chí là chúng tôi thấy Thứ trưởng
Trần Quang Cơ có tác dụng xấu trong việc này. Khi Kasem hỏi có phải thực
sự giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận lập SNC gồm 13
người hay không? Trần Quang Cơ đã đáp rằng hoàn toàn không có việc đó;
đó hoàn toàn là những điều dối trá. Chúng tôi không biết tại sao Thứ
trưởng Trần Quang Cơ lại nói những lời như vậy, hoàn toàn truyền đạt
thông tin không đúng đắn”. Anh Giáp đáp: “Khi về tôi sẽ hỏi lại
về phát biểu của đồng chí Cơ. Nếu có như vậy thì đây không phải là ý
kiến của Trung ương chúng tôi. Tôi không biết việc này vì tôi không phụ
trách công tác ngoại giao”.
Tiện đây tôi thấy cũng
nên ghi lại một chuyện có thể giúp cho chúng ta hiểu thêm đặc điểm của
người Trung Quốc: sau khi đến Bắc Kinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đề
nghị gặp một số tướng lĩnh trong quân đội Trung Quốc như Dương Đắc Chí
(Dương là tổng chỉ huy cuộc chiến tranh đánh Việt Nam năm 1979). Nhưng
Dương nói một cách bực tức: “Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mộ của các cán bộ chiến sĩ còn chưa xanh cỏ !”.
Ngày 1.10.90 Dương cùng một số tướng lĩnh khác còn gọi điện thoại thăm
hỏi động viên sĩ quan binh lính ở Vân Nam, Quảng Tây. Nhà văn quân đội
Lý Tôn Bảo tác giả cuốn “Vòng hoa dưới chân núi cao” viết về cuộc tấn công vào Việt Nam tháng 2.79, phát biểu: “Xem
tin Lý Bằng tiếp Võ Nguyên Giáp mà trong lòng tôi cảm thấy bứt rứt. Giờ
đây chúng ta phải xem xét lại xem có gây ra cuộc chiến tranh đó không?
Chẳng những phần lớn sĩ quan binh lính dưới đơn vị không thông ngay cả
một số tướng lĩnh cao cấp cũng không thông nổi”.
Tư liệu trên đây tôi lấy ở bài “Võ Nguyên Giáp thăm Bắc Kinh gây chấn động”
của Quan Nghiệp Thành đăng trên báo “Tranh Minh” xuất bản ở Hồng Kông
tháng 11.90. Từ đó đến nay, tôi vẫn phân vân là giữa người Việt Nam và
người Trung Quốc đáng lý ra ai là người phải nhớ dai hơn về sự kiện
tháng 2.79 ?
16. MÓN NỢ THÀNH ĐÔ
16. MÓN NỢ THÀNH ĐÔ
46[Từ
tháng 9.90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô,
đòi ta thực hiện thoả thuận đó,] cụ thể là tác động với PhnomPenh nhận
SNC có 13 thành viên và do Sihanouk làm Chủ tịch47.
Với cách làm đó, họ khơi sâu thêm bất đồng trong nội bộ ta… Trung Quốc
thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ
Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn. Đại sứ
mới của Malaysia ngày 3.10.90 đến chào xã giao, nói với tôi là ở Bắc
Kinh người ta đưa tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và lãnh đạo
Đảng về chủ trương đối ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp cấp
cao Trung Quốc không có ông Nguyễn Cơ Thạch. Sau Thành Đô, trong khi ta
nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam thì phía Trung Quốc
lại tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công kích lãnh đạo Bộ Ngoại giao
Việt Nam; hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở Bắc Kinh, không sắp xếp Đại
sứ ta tham dự vào cuộc Lý Bằng tiếp anh Võ Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử
cán bộ cấp thấp tiếp và làm việc với Đại sứ ta. Trung Quốc một mặt khẳng
định là vấn đề Campuchia chưa giải quyết thì quan hệ Trung – Việt “chỉ
có bước đi nhỏ”, mặt khác thăm dò và tích cực tác động đến vấn đề nhân
sự và phương án chuẩn bị Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ họp
vào giữa năm 1991. Từ tháng 3.91, tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc khoá 7,
Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Trung – Việt đã tan băng” và có một
số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề Campuchia. Về vấn đề SNC của
Campuchia. Trung Quốc không cố bám giữ con số 13, tạm gác vấn đề chủ
tịch, phó chủ tịch, đưa ra công thức “Sihaouk chủ trì các cuộc họp SNC”.
Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3 phái, sau cuộc gặp SNC ở Pattaya (Thái
Lan), Trung Quốc chuyển sang quan hệ trực tiếp với Nhà nước Campuchia,
mời Hunxen thăm Bắc Kinh trong 3 ngày (22-24.7.91).48
Chiều chủ nhật 18.11.90
họp BCT về vấn đề Campuchia. Từ sau khi P5 thoả thuận về văn kiện khung
(28.8.90) cuộc đấu tranh về vấn đề Campuchia đi vào giai đoạn cuối, gay
gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ Ngoại giao, tôi trình bày đề án về nguyên
tắc đấu tranh về văn kiện khung của P5 và về vấn đề SNC để BCT cho ý
kiến. Khi tôi trình bày xong, anh Thạch đề nghị BCT khẳng định 2 điểm:
1. Vấn đề SNC là vấn đề nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng chủ quyền của bạn;
2. Về văn kiện khung, ta
phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ. Nếu không sau này có ảnh
hưởng đến vấn đề xử lý Trường Sa… Ta thấy rõ Trung Quốc và Mỹ đều nhất
trí xoá Nhà nước Campuchia bằng cách khác nhau.
Cuối cuộc họp, TBT Linh kết luận: về
SNC ta không thể góp ý với bạn được… Nếu nói Trung Quốc và Mỹ như nhau
thì tôi không đồng ý. Sau hội nghị Trung ương, BCT sẽ đánh giá lại một
số vấn đề liên quan đến Ngoại giao như nhận định về Trung Quốc thế nào,
tuyên bố hoặc nói về Trung Quốc như thế nào ? Nguyễn Cơ Thạch nói luôn:Đồng ý đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô.
Dự thảo Hiệp định toàn
bộ về Campuchia ngày 26.11.90 do P5 thảo ra đã được các thành viên SNC
Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở Paris ngày 23.12.90. Chủ
trương của ta là giải pháp chính trị về Campuchia, nhất là những vấn đề
nội bộ Campuchia, phải do bạn tự quyết định và chịu trách nhiệm với dân
tộc Campuchia. Ta hết sức giúp đỡ họ, gợi ý để họ tránh được những thất
bại không đáng có, nhưng ta không thể làm thay. Như vậy ta vừa hết lòng
giúp bạn vừa không để Việt Nam một lần nữa bị sa lầy vào cuộc đấu tranh
nội bộ của Campuchia. Không để vấn đề giải pháp chính trị về Campuchia
lại một lần nữa trở thành vấn đề lịch sử trong quan hệ Việt Nam –
Campuchia.
Theo yêu cầu của bạn,
ngày 14.1.91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê Công Phụng, Vũ Tiến
Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang PhnomPenh làm việc với
bạn với mục đích:
a. Tìm hiểu suy nghĩ và ý
định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi bạn đã chấp nhận văn kiện
khung của P5 tại cuộc họp Jakarta 10.9.90 và chấp nhận về cơ bản dự thảo
Hiệp định 26.11 của P5 tại cuộc họp Paris 23.12.90;
b. Thuyết phục bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền Campuchia để chỉ thaỏ luận và giải quyết trong SNC;
c. Thoả thuận kế hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.
Khi tiếp tôi, anh Hunxen nói: “Trong
nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh nhất là muốn có một giải pháp chính trị
giữ được thành quả cách mạng, không để cho Polpot quay trở lại… Tình
hình hiện nay rất tế nhị. Tình hình phức tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận
một giải pháp vô nguyên tắc. Chỉ cần chấp nhau một giải pháp như vậy thì
nội bộ Campuchia đã hỗn loạn rồi chứ chưa nói là ký kết. Ta giữ lập
trường cứng như vừa qua là tốt. Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh
tiến trình giải pháp.
Như vậy, qua các cuộc
gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, thứ trưởng Dith Munty và thứ trưởng Sok An,
nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hunxen chiều 16.11, có thể thấy được
chủ trương của bạn cố kéo dài trạng thái đánh đàm hiện tại vì nhiều yếu
tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu vì trong nội bộ lãnh đạo
bạn xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp còn rất mạnh. Hunxen cho biết
theo quyết định của BCT Campuchia, trong cuộc họp Trung ương ngày
17.1.91, ông ta sẽ thông báo cho Trung ương là “năm 1991 sẽ chưa có giải pháp”.
Tuy nhiên, tôi lại có cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động
lãnh đạo Campuchia đang có nhiều mâu thuẫn lúng túng, chưa xác định được
cho mình một đường lối rõ ràng mạch lạc, mà chỉ lo đối phó từng bước
với những vấn đề trong nội bộ cũng như với đối phương.
Trong lần gặp Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24.2.91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn cố ép bạn “cần
thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn mạnh vấn đề
diệt chủng, nên SNC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ tịch”.
Heng Somrin về nói lại với BCT Đảng Campuchia thì tất cả đều băn khoăn
và ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt nên nghe có thể sai sót.
Thực ra, như Hunxen nói với anh Ngô Điền, khi nghe Heng Somrin nói lại
những ý kiến của anh Linh, BCT Campuchia rất lo vì thấy Việt Nam khác
Campuchia nhiều quá. Ngày 13.3.91 Hunxen nói với anh Thạch: “Có thể
có sách lược phân hoá Khmer đỏ, nhưng dứt khoát không thể bỏ vấn đề diệt
chủng. Nếu bỏ sẽ có 3 mối nguy hiểm: sẽ mất con bài mặc cả trong đàm
phán ngay từ đầu; mất lợi thế trong tổng tuyển cử; kẻ thù sẽ có lợi
trong việc vu cáo Việt Nam là mọi chuyện xảy ra 12 năm qua đều do Việt
Nam gây ra cả. Số lượng thành viên SNC có thể là 12 hoặc 14, không thể
chấp nhận con số 13, sẵn sàng cho Sihanouk làm chủ tịch, Hunxen làm phó,
không đòi chức chủ tịch luân phiên hay đồng chủ tịch nữa”.
Trong cách làm này của
ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là có lợi ích đối với ta
mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi ích của bạn không. Cách
làm đó tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó lâu nay giữa ta với
PhnomPenh.
Đầu năm 1991, BCT đã có
cuộc họp tại T78 thành phố HCM (24-25.1.91) để bàn về vấn đề Campuchia.
Tôi trình bày chủ trương tách mặt quốc tế với mặt nội bộ của giải pháp
Campuchia, đồng thời báo cáo ý kiến của Hunxen cho biết là BCT Campuchia
quyết định không đi vào giải pháp trong năm 1991. BCT quyết định cần
thăm dò khả năng họp BCT 3 nước để hướng Campuchia đi vào giải pháp, họp
có tính chất trao đổi, gợi ý chứ không quyết định, ta không thể ép bạn,
đồng thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc làm ta bị cô lập.
Nhân dịp này, tôi đã ngỏ
ý với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương khoá tới. Anh Thạch tỏ ý
không tán thành. Đến tháng 2.91, khi có cuộc bầu đại biểu ở các tỉnh để
đi dự Đại hội VII, tôi đã gửi thư cho anh Nguyễn Đức Tâm, trưởng ban Tổ
chức Trung ương, xin rút khỏi danh sách dự Đại hội VII. Lúc này tinh
thần tôi đã có phần mệt mỏi vì những sự việc trong thời gian qua. Nhưng
yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tôi nhận được giấy đi dự Đại hội
tỉnh Đảng bộ Sơn la và được bầu vào Đoàn đại biểu tỉnh Sơn la đi dự Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.Tháng 6.91, tôi có giấy đi dự Đại hội
Đảng với tư cách đại biểu tỉnh Sơn La rồi tiếp
tục tham gia Trung ương khoá VII.
Tình hình bất đồng ý
kiến trong BCT càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay gắt. Ngày 13.4.91,
trong cuộc họp BCT bàn về tình hình thế giới và đường lối đối ngoại để
chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về
“Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”,
Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày
về tình hình thế giới và mưu đồ đế quốc”. Nghe xong, TBT Nguyễn Văn
Linh phát biểu: “Chủ quan tôi nghĩ giữa bản trình bày sáng nay (của
Bộ Ngoại Giao) và bản trình bày tình hình quân sự chiều nay của Bộ Quốc
phòng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương thì phải thảo luận tìnhhình trước, nhưng cách đánh gia tình hình còn khác nhau”
Cố vấn Phạm Văn Đồng: “Nói
khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng ta cần cố gắng làm việc đúng
lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm của mình. BCT đã giao cho 3
đồng chí phụ trách 3 ngành làm nhưng lại chưa làm”.
Lê Đức Anh: “BCT nên
nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong nước chúng ta cũng đánh giá khác
nhau. Căn cứ vào đánh gía chung, mỗi ngành có đề án riêng, không làm
chung được”. Nguyễn Cơ Thạch đồng ý 3 ngành thảo luận để đi tới nhất trí về tình hình, còn công tác thì mỗi ngành làm.
Trên tinh thần đó, ngày
2.5.91, đã có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh và Quốc phòng để thống
nhất nhận định tình hình thế giới. Dự họp về phía Quốc phòng có: Lê Đức
Anh, Trần Văn Quang, Đại tá Lân (thường gọi là Lân thọt), Bộ Nội vụ có:
Mai Chí Thọ; Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch và 4 thứ trưởng. Còn 3 phó
ban đối ngoại: Nguyễn Thị Bình, Trịnh Ngọc Thái, Nguyễn Quang Tạo. Thu
hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí trong
nhận định tình hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung chung.
Chỉ còn một tháng đến
ngày họp Đại hội VII, BCT họp liền gần 3 ngày (15,16 và 17.5.91) để thảo
luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và việc thực hiện đường
lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”. BCT có mặt đông đủ.
Theo dõi cuộc họp ở ghế dự thính. Số dự thính lúc đầu có 10 người, từ
chiều 16.5 khi đi vào kiểm điểm việc thực hiện các Nghị quyết về đối
ngoại của Đại hội VI thì dự thính thu hẹp lại chỉ còn có Hồng Hà, Hoàng
Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và tôi). Từ đầu đến cuối, tôi đã nhận rõ sự đấu
tranh giữa hai quan điểm về mặt quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm
điểm thực hiện đường lối đối ngoại, nói đến vấn đề Campuchia và quan hệ
với Trung Quốc. Bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có nêu “đã có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung Quốc có sự thay đổi qua 2 giai đoạn (trước và sau năm 1989) trái với Nghị quyết 13 của BCT (20.5.88)”, 49“giữa ta và bạn Campuchia50 đã bộc lộ sự khác nhau khá rõ rệt”, về đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu bình tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô…; đã bỏ lỡ cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời
Thủ tướng Đỗ Mười sang thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn
Độ rồi mới đi Thái), đã làm nảy sinh tranh cãi khá căng, đặc biệt khi
bàn đến đúng sai trong chuyện gặp cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng
9.90 và vấn đề chống diệt chủng và “giải pháp Đỏ”.
Anh Võ Chí Công: “Về
Trung Quốc rất phức tạp… BCT đã đánh giá Trung Quốc có hai mặt XHCN và
bá quyền. Về XHCN cũng cần thấy là trong “nháy nháy”… Khó khăn là chưa
bình thường hoá quan hệ… Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng trăm năm
không giải quyết nổi. Ví dụ như chuyện “Liên bang Đông Dương”, họ biết
ta không có ý đồ đó song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và
Campuchia, gạt ta ra… Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được, vì
như vậy thì có nghĩa là Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ
trương của họ là tranh thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện
đại hoá, còn gì là Trung Quốc nữa ?
Tới cuối cuộc họp, Nguyễn Đức Tâm còn nói: “Chưa
làm dự thảo Nghị quyết ngay được vì qua thảo luận thấy ý kiến BCT còn
khác nhau về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Đại hội
đến nơi, sau Đại hội không còn BCT này nữa, tuy một số đồng chí còn ở
lại… Mặc dù vậy Nguyễn Thanh Bình chủ trì cuộc họp vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về đối ngoại.
17. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÌNH HÌNH QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CÒN CÓ TRANH LUẬN
17. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÌNH HÌNH QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CÒN CÓ TRANH LUẬN
1. Về tình hình quốc tế:
do tác động của cách mạng KHKT, khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc
gia ngày càng lớn. Thách thức lớn nhất của nước ta là nguy cơ tụt hậu về
kinh tế, yếu tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của quốc gia hiện
nay chủ yếu là kinh tế.
a. Có tranh luận: nguy
cơ diễn biến hoà bình hơn thách thức tụt hậu về kinh tế. Từ đó có ý kiến
cho của quốc gia là sức mạnh an ninh quốc phòng là chủ yếu chứ không
phải chủ yếu là sức mạnh kinh tế – xã hội trong mỗi nước.
b. Về mâu thuẫn thời
đại: nhiều ý kiến cho rằng những biến đổi lớn trong cục diện thế giới đã
làm thay thứ tự quan trọng cuả các mâu thuẫn lớn, mâu thuẫn chính chi
phối quan hệ quốc tế ngày nay không còn là mâu thuẫn Đông – Tây mà là
mẫu thuẫn Tây – Tây. Nhưng có ý kiến cho mâu thuẫn Tây – Tây vẫn là quan
trọng.
c. Về tập hợp lực lượng:
ý kiến chung chủ trương đa dạng hoá quan hệ. Nhưng còn tranh luận là
tập hợp lực lượng theo ý thức hệ hay theo lợi ích dân tộc, hoặc nói đa
dạng hoá nhưng nhấn ý thức hệ, cần tìm đồng minh chiến lược.
2. Về ý đồ và chính sách của các nước lớn và ASEAN:
Mỹ: Về câu hỏi “Cục diện thế giới mới tạo cho Mỹ thời cơ hay thách thức?” (Mỹ mạnh lên hay yếu đi)
Có ý kiến cho rằng Mỹ
đang tranh thủ lợi thế để thiết lập trật tự một cục do Mỹ chi phối, ý
kiến khác cho rằng đang hình thành “trật tự đa cực”, “đa trung tâm”, hay
trật tự thế giới đang trong quá trình hình thành, đang có sự cân bằng
giữa các nước lớn.
Mục tiêu chiến lược toàn cầu của Mỹ là xoá sạch các nước XHCN còn lại hay là kiềm chế các trung tâm kinh tế tư bản khác?
Lý giải hiện tượng các
nước khu vực mong muốn Mỹ tiếp tục có mặt sẽ giúp ổn định khu vực, còn
Việt Nam cho Mỹ là mối đe doạ nguy hiểm nhất.
Trung Quốc:
Vì sao các nước khu vực đều lo ngại Trung Quốc còn Việt Nam đặt hy vọng vào Trung Quốc (đồng minh chiến lược)?
Mặt bành trướng bá quyền
của Trung Quốc là chính hay mặt XHCN là chính? Thực chất của “chủ nghĩa
xã hội mang màu sắc Trung Quốc”?
Về quan hệ Mỹ – Trung Quốc (liên quan đến Việt Nam):
Dư luận chung: Mỹ lo
kiềm chế Trung Quốc ở châu á – Thái Bình Dương và mong Việt Nam góp vào
đó. Nhưng có ý kiến cho Mỹ và Trung Quốc thoả hiệp bất lợi cho Việt Nam.
Vì Mỹ dặt ưu tiên quan hệ với Trung Quốc cao hơn nên Mỹ sẵn sàng khi
Việt Nam cho ưu tiên đó.
Đánh gía về ASEAN:
Có ý kiến cho ASEAN là
tổ chức có tiếng nói, có sức sống, biết lợi dụng mâu thuẫn các nước lớn
và lợi ích quốc gia vì lợi ích nhóm nước khu vực mình. Việt Nam cần sớm
gia nhập tổ chức này.
3. Về chiến lược đối ngoại của ta:
Vị thế của Việt Nam có gì khác trước?
Đe doạ chính đối với an
ninh và phát triển của ta nay là gì? Nguy cơ tụt hậu về kinh tế hay nguy
cơ diễn biến hoà bình là đe doạ chính?
Biện pháp đối phó với đe doạ và thực hiện mục tiêu của ta? (“đồng minh chiến lược”, “quan hệ đặc biệt”).
Tập trung phát triển
kinh tế có phải là lối thoát duy nhất để củng cố ổn định, ra khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội trong nước và nâng cao vị thế và vai trò nước ta
trên quốc tế, đối phó “diễn biến hoà bình” có hiệu quả nhất hay không?
Ta đã đặt ưu tiên cao nhất cho phát triển kinh tế hay chưa?
Trong thực tế đối ngoại, thường có sự lúng túng ngập ngừng về ưu tiên trong các mối quan hệ sau:
+ giữa phát triển kinh
tế và bảo đảm an ninh chính trị (giữa nguy cơ tụt hậu về kinh tế và nguy
cơ chệch hướng XHCN, nguy cơ bị diễn biến hoà bình).
+ Lợi ích dân tộc và
nghĩa vụ quốc tế. Tập hợp lực lượng và phân biệt bạn – thù theo quan
điểm ý thức hệ hay theo lợi ích dân tộc.
18. ĐẠI HỘI VII VÀ CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CHO VIỆC BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC
18. ĐẠI HỘI VII VÀ CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CHO VIỆC BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC
Từ 17 đến 27.6.91 Đảng
Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan
trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT; Lê Đức Anh nay
nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, Uỷ viên thường trực BCT kiêm
bí thư trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng – an ninh – ngoại giao
và lên chức Chủ tịch nước. Võ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà nước cử
làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ
ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ
Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi
chức uỷ viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị
và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao… (thực ra những thay đổi
về nhân sự trong BCT đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đã biết). Dư luận quốc tế xôn xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà là phụ thuộc hoá quan hệ.
Trước hết vấn đề đặt ra
là ai sẽ thay anh Thạch giữ chức bộ trưởng ngoại giao ? Từ đầu tháng 7,
tôi đã nhiều lần được triệu tập lên gặp TBT Đỗ Mười và Trưởng ban tổ
chức trung ương Lê Phước Thọ (người thay Nguyễn Đức Tâm), để được thông
báo và đả thông về dự định đưa tôi làm Bộ trưởng ngoại giao. Lần gặp
sáng ngày 10.7.91, thấy tôi vẫn từ chối, Đỗ Mười đã hiểu lầm tưởng tôi
không nhận vì chưa được vào BCT như Bùi Thiện Ngộ – người thay Mai Chí
Thọ làm Bộ trưởng Bộ Nội Vụ – nên hứa sẽ giải quyết chuyện đó sau khi
nhận chức Bộ trưởng ngoại giao. Tôi nói chỉ vì lý do “sức khoẻ” mà xin
không nhận: “45 năm nay tôi liên tục công tác, cố gắng làm tốt các
công việc được giao, không từ nan. Song lần này không thể nhận. Tôi chỉ
có nguyện vọng và làm nốt công việc thứ trưởng ngoại giao. Đề nghị các
anh quyết định theo phương án chúng tôi đề nghị ngày hôm qua: cử anh Vũ
Oanh hay anh Vũ Khoan. Nhân đây tôi xin phản ảnh tư tưởng chung của anh
em cán bộ nhân viên Bộ Ngoại giao là có sự đối xử chưa công bằng với
Ngoại giao”.
Vì sao tôi được người ta
chọn để thay Nguyễn Cơ Thạch tuy biết rõ tôi có cùng quan điểm về chính
trị đối ngoại với anh Thạch ? Tôi nghĩ có 2 lý do: một là, che đậy ý
nghĩa chính trị của việc [thay thế anh]52 Nguyễn
Cơ Thạch; hai là, cơ chế mới về đối ngoại sau Đại hội VII có khả năng
vô hiệu hoá hoàn toàn mới chủ trương và hành động sai khác với quan điểm
của mấy vị trong Ban Thường trực BCT mới.
Sau khi tôi được miễn,
đã có một cuộc vânh động khá sôi nổi quanh vấn đề này. Những tên tuổi
như Vũ Oanh, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Vũ Khoan, Nguyên Dy Niên… được nói
tới. Cuối cùng Nguyễn Mạnh Cầm, lúc đó đang là Đại sứ ta tại Liên Xô
được chọn, mặc dù khi ấy ânh còn rất lưỡng lự.
Sau Đại hội VII, mọi vấn
đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do Hồng Hà, bí thư TƯ, phụ
trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên
được sự tán thưởng của TBT Đỗ Mười, quyết định. Những phần công việc xưa
nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại
chủ trì. Một thí dụ điển hình về vì ý đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh
dự và quốc thể: Ngày 5.8.91, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà
tuyên bố: ‘Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập
trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ
quán Việt Nam ở Bắc Kinh’. Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung
Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương có đề nghị: vì lý do kỹ
thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Hôm sau, Hồng
Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại tiếp Đại sứ Campuchia Ouch Borith,
đã thông báo: “Theo sự phân công của BCT Việt Nam, từ nay đồng chí
Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp
Campuchia và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo Campuchia muốn bàn các
vấn đề trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí
đó.
Ngày 9.7.91, vừa được
bầu làm TBT, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử
đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về
quan hệ giữa hai nước. Trước đó ít ngày–ngày 11.6.91 – Bộ Ngoại Giao ta
cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp thứ trưởng
ngoại giao hai nước. Ngày 17.7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp thứ
trưởng ở Bắc Kinh từ 5.8 đến 10.8. Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng
ý việc ta cử đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp
cuộc gặp đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao… Việc
làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác
muốn dùng những thoả thuận với cấp đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp
cấp thứ trưởng ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã
đề nghị thay chữ “đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2 thành
viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà. Hồng Hà lúc đó là bí thư TƯ, phụ trách
đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng.
Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một thứ trưởng ngoại giao là
uỷ viên TƯ đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp
thứ trưởng ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận.
Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự
các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam,
Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại
Trung Quốc.
Ngày 28.7.91, đoàn đã
đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang
Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII. Thông báo cả những ý
kiến khác nhau quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những
vấn đề quan trọng trong Đại hội, và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành TƯ
mới…, Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có
ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng
8.91, Giang tỏ ý hài lòng: “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.
Đặc biệt mặc dù chuyến
đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo về Đại hội VII và bàn
quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà đã chủ động xin gặp Từ Đôn
Tín tới 2 lần, chiều 29.7 và tối 31.7 để tạ lỗi (?). Mở đầu cuộc gặp
chiều 29.7, Lê Đức Anh đã nói: “Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín
sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi
gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này,
chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng
chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi… Tình hình trục trặc trong quan
hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc
cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”. Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng Ngiêm Hoành: “Một
năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc chiêu đãi.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái”
(sự thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong
cuộc đàm phán tháng 6.90 ở Hà Nội). Từ không quên nhắc đến điều kiện
không thể thiếu có thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: “Tôi
rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà là từ nay không
nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp Campuchia đề nghị các đồng
chí cũng nói ý này… Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc
mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân. Mong
vấn đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ chúng
tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.
Để dọn đường cho cuộc gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng 8.91, tối 31.7 Hồng Hà đảm bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng chí Lê Đức Anh và tôi sẽ làm việc trực tiếp với thứ trưởng Nguyễn Dy Niên (người được chỉ định đi đàm phán với Trung Quốc chỉ vì chưa có “tiền sử” với Trung Quốc) trước
khi đồng chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi phải báo cáo với BCT để có ý
kiến chỉ đạo không những về nội dung mà cả về tinh thần và thái độ làm
việc. Tinh thần của chúng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”. Sau khi đã cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi
muốn hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là
vấn đề quân đội các bên Campuchia và vai trò LHQ thì phương hướng giải
quyết nên thế nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ
trưởng Việt – Trung ở Bắc Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”. Xin ý kiến
đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán,
thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại !
Sau khi ở Trung Quốc về,
ngày 4.8.91, Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp tôi và Nguyễn Dy Niên tại Văn
phòng TƯ Đảng để chuẩn bị cho Niên đi đàm phán với Trung Quốc. Sau khi
anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại Giao, tôi nói: “Anh Hoành (đại sứ ta ở Trung Quốc) vừa
điện về phía Trung Quốc thông báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có
thể làm một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng
ta phải thoả thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước P5, ASEAN và
bạn Campuchia. Ta sẽ ở vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu
ta đòi sửa văn bản của Trung Quốc thì sẽ không ra được văn bản, đàm phán
sẽ thất bại. Chúng tôi đã xem lại biên bản thấy Trung Quốc gắn rất chặt
vấn đề Campuchia với việc bình thường hoá quan hệ, vẫn coi Campuchia là
điều kiện. Trung Quốc rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung vào vấn
đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta
phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc nhưng không được phá quan hệ với Campuchia và
không được để thế giới thay anh Việt Nam là người tráo trở”.Biết
tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thoả hiệp vô nguyên tắc với
Trung Quốc, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi Bắc
Kinh vừa qua. Hồng Hà nói: “Tinh thần tôi nắm được là ý Trương Đức
Duy và Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp thứ trưởng thất bại. Từ có hỏi: Không
biết đồng chí thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không ?” Tôi liền bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không thể chấp nhận được”. Hồng Hà nói: “Tôi hiểu họ muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ lo”. Tôi đáp: “Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam mót bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn.” Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: “Chuyến
đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh
Niên cũng là nhân vật mới, không có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6.90
họ rất cay cú”. Lê Đức Anh thêm vào: “Sau tháng 6.90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên nên càng tích tụ thêm, gắng thêm”. (ý
nói đến lần sau đàm phán tháng 6.90, giữa tôi và Từ Đôn Tín có sự phê
phán nhau trên báo chí). Và đến chiều, khi họp Thường trực BCT bàn về
việc đàm phán với Trung Quốc họ chỉ triệu tập anh Niên, không triệu tập
tôi.
Được biết trong cuộc họp
này TBT Đỗ Mười đã khẳng định là không nên vì vấn đề Campuchia mà cản
trở việc bình thường hoá quan hệ của ta với Trung Quốc. Về vấn đề
Campuchia, họ chỉ thị cho anh Niên thoả thuận với phía TQ:
1. Không nói về vấn đề diệt chủng. Lê Đức Anh nói phải dứt khoát thôi vấn đề diệt chủng. Và TBT Đỗ Mười nhấn thêm: “Nếu nói vấn đề diệt chủng từ là đồng minh với Mỹ chống Trung Quốc” (!)
2. Nâng cao vai trò SNC Campuchia, hạ thấp vai trò LHQ.
3. giảm quan các bên Campuchia 50%
Để đảm bảo cuộc đàm phán
không đi chệch khỏi quỹ đạo đã dàn xếp trước với Trung Quốc. Hồng Hà
còn để Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại, ở lại Bắc Kinh để tham gia
đoàn đàm phán, thực chất để giám sát Nguyễn Dy Niên có theo đúng những
điều họ đã thoả thuận trước với Trung Quốc không.
Ngày 10.8.91, sau khi cái gọi là cuộc đàm phán này đạt
kết quả đúng ý Trung Quốc (hoan nghênh Sihanouk giữ chức chủ tịch SNC,
ủng hộ văn kiện khung của LHQ về giải pháp Campuchia), vào đúng ngày
Quốc hội Việt Nam thông qua việc bổ nhiệm Nguyễn Mạnh Cầm thay Nguyễn Cơ
Thạch làm bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham
nhận tiếp Nguyễn Dy Niên và ngỏ lời mời tân Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh
Cầm thăm Trung Quốc ngày 16.9.91 để chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao Trung –
Việt ở Bắc Kinh.
Ta đã dự kiến sau cuộc
đàm phán ở Bắc Kinh sẽ sang PhnomPenh thông báo cho bạn Campuchia nhưng
tối 18.8.91 Hồng Hà lại gọi điện chỉ thị: “Theo ý kiến đồng chí Lê
Đức Anh, anh Niên không phải đi Campuchia thông báo với bạn nữa và cũng
không thông báo cho bất cứ ai về cuộc đàm phán ở Bắc Kinh vừa qua” (mặc dù phía TQ đã thông báo cho các nước ASEAN và các nước phương Tây rồi). Và còn nói thêm: “Từ nay trở đi, trên giấy trắng mực đen dùng ghi ý đồ của Trung Quốc nữa (?) vì vấn đề này BCT đã nắm rồi.”
Nói chung, từ sau Đại
hội VII, tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Trung Quốc như cỗ
máy đã được tra dầu đầy đủ, diễn biến trơn tru theo trình tự đã định.
Ngày 5-10.11.91, sau khi Hiệp định về Campuchia được ký kết ở Pari, TBT
Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức CHND Trung Hoa để hoàn
thành việc bình thường hoá mối quan hệ bị trục trặc lớn từ tháng 2.79.
Nhưng trong khi lãnh đạo ta ôm kỳ vọng cùng Trung Quốc “bảo vệ CNXH chống đề quốc” thì họ đã xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đầu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau).
Trung Quốc nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh
thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta.
19. HIỆP 2 CỦA HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ CAMPUCHIA
Với đà tiến triển nhanh chóng qua các
cuộc họp SNC tại Jakarta (6.91), Bắc Kinh, Pattaya (Thái Lan) và Nữu
Ước (9.91), P5 quyết tâm giải quyết nhanh gọn vấn đề Campuchia làm đà
giải quyết các cuộc xung đột khu vực khác, đặc biệt là Trung Đông. Cả
Liên Xô lẫn Trung Quốc đều có lợi ích đồng tình với phương Tây – chủ
yếu là Mỹ – gạt nốt những vướng mắc cuối cùng trong việc thông qua các
văn bản dự thảo Hiệp định 28.11.90 của P5.
Cuối tháng 9.91, tôi dẫn đầu đoàn đại
biểu nước ta đi Nữu Ước dự khoá họp thứ 10 Đại hội đồng LHQ. Khác với
năm 1988, khi tôi đại diện Việt Nam dự Đại hội đồng LHQ khoá thứ 43,
lần này vấn đề Campuchia đã đi sát đến giải pháp. Trong thời gian ở Nữu
Ước, tôi đã tranh thủ tiếp xúc với Hunxen đang họp SNC ở đó để tìm hiểu
thái độ bạn Campuchia về dự thảo Hiệp định. Tôi được biết ngày 21.9.91,
Nhà nước Campuchia cuối cùng đã buông thả rất nhanh tất cả các điểm yêu
cần sửa dự thảo Hiệp định. Như vậy, chỉ còn lại một mình Việt Nam là
nước duy nhất đòi bổ sung dự thảo về 4 điểm liên quan đến Việt Nam. Tôi
vội thông báo tình hình này về nước để nhà sớm có quyết sách đích đáng
cho đoàn đại biểu ta đi dự Hội nghị quốc tế Pari về Campuchia. Ngày
13.10.91 bộ phận thường trực và sau đó các đồng chí khác trong BCT đã
thông qua chủ trương Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định với 2 phương án
đấu tranh về 4 điểm bổ sung của ta. Sáng 14.10, anh Võ Văn Kiệt đã gặp
tôi ở Văn phòng Hội đồng bộ trưởng để cho ý kiến về 2 văn bản do Bộ
Ngoại giao chuẩn bị cho cuộc họp về vấn đề Campuchia ở Pari. Sau khi
nghe tôi trình bày, anh Kiệt tán thành Tờ trình BCT về phương án đấu
tranh của ta tại Hội nghị quốc tế Pari, và góp ý kiến sửa lại 2 chỗ
trong bản dự thảo Tuyên bố Chính phủ.
Ngày 16.10, trên đường đi Pari, tôi
được điện của của Bộ báo cho biết cả Levitte, thứ trưởng Ngoại giao
Pháp và Từ Đôn Tín, lúc này đã là thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc, đều
muốn gặp tôi sớm, trước ngày họp Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị. Trên cơ
sở phán đoán là cả hai đều muốn gặp để thương lượng và thúc đẩy Việt
Nam rút các yêu cầu sửa đổi dự thảo Hiệp định để bảo đảm cho cuộc họp
Uỷ Ban Phối hợp khỏi gặp trắc trở, tôi đã quyết định gặp Levitte trước,
sau đó mới gặp Từ. Suy nghĩ của tôi là: Pháp là nước đồng chủ tịch và
là nước đăng cai hội nghị, rất muốn hội nghị đạt kết quả. Đề cao được
vai trò Pháp trên quốc tế, đồng thời gặp Pháp trước sẽ tỏ rõ được thiện
chí và tính độc lập của ta, nếu gặp Trung Quốc trước gặp Pháp sau thì
sẽ chịu tiếng bị sức ép của Trung Quốc mà phải nhượng bộ.
Ngày 18.10, ngay sau khi đến Paris,
tôi đã gặp Levitte thảo luận. Đúng như đã phán đoán, Pháp tha thiết
mong Việt Nam có thái độ mềm dẻo đối với dự thảo Hiệp định. Cuối cùng,
để tỏ thiện chí, tôi đã thoả thuận với Pháp về cách làm như sau: trong
báo cáo của Tổng Thư ký LHQ trước Hội Đồng Bảo An sẽ có giải thích
những điểm mà Việt Nam yêu cầu làm rõ. Và ngay trong cuộc họp Uỷ ban
Phối hợp ngày 21.10.91, trong bản trình bày của Phó tổng thư ký LHQ
Ahmed Rafeuddin cũng phải nêu đầy đủ các giải thích này, đồng thời
Levitte nhân danh chủ tịch Uỷ ban sẽ tuyên bố hoan nghênh thiện chí hợp
tác của Việt Nam đã thôi không đưa các bổ sung dự thảo Hiệp định nữa vì
đã có những giải thích thích đáng của Phó Tổng thư ký LHQ. Tôi cũng
thoả thuận với Levitte sẽ có cuộc gặp tay ba với Ahmed để có thoả thuận
cuối cùng.
Hôm sau, tôi gặp Thứ trưởng ngoại giao
Trung Quốc Từ Đôn Tín. Từ cũng có mục đích thuyết phục ta thôi không
đưa các yêu cầu bổ sung nữa, nói nếu Việt Nam đưa bổ sung thì các nước
khác cũng đòi bổ sung để cân bằng lại, Mỹ sẽ đòi hoãn việc ký kết và đổ
trách nhiệm cho Việt Nam.
Ngày 20.10.91, như đã thoả thuận với
Pháp, ngay sau khi Phó Tổng thư ký LHQ đến Paris, đã có cuộc họp tay ba
giữa Việt Nam, Pháp và Phó Tổng Thư ký LHQ Ahmed. Ahmed thoả thuận cách
làm như ta đã bàn với Pháp hôm 18.10 và cho trợ lý của ông ta ghi lại
các câu chữ mà ta yêu cầu nói rõ khi ông giải thích về mấy điểm bổ sung
của ta. Như vậy thực chất là đã vượt mức yêu cầu của ta, nhưng để giữ
cao giá, tôi nói sơ bộ thoả thuận như vậy song tôi còn phải xin chỉ thị
Hà Nội, sẽ khẳng định lại trong sáng 21.10 trước khi bắt đầu họp Uỷ ban
Phối hợp.
Sáng 21.10.91, khi đoàn Việt Nam đến
Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber, có một đoàn viên của đoàn Trung Quốc
ra mời tôi gặp Từ Đôn Tín có việc gấp cần trao đổi trước khi họp. Từ
yêu cầu gặp riêng tôi nói chuyện bằng tiếng Tàu không qua phiên dịch,
cho biết Mỹ định đưa bổ sung vào Định ước một đoạn lên án diệt chủng và
yêu cầu tôi cho biết ý kiến. Tôi trả lời: “chuyện này bây giờ
chủ yếu là vấn đề của người Campuchia, nên để các bên Campuchia có ý
kiến. Còn quan điểm của Việt Nam là đến lúc này không nên để bất cứ một
vấn đề nào gây trở ngại cho việc ký kết.” Từ xem ra hài lòng
về cách tỏ thái độ của ta. Nhưng cuối cùng hình như đã có sự thoả hiệp
giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ rút bỏ từ “diệt chủng”
trong đoạn bổ sung và chỉ nói chung chung về “nhân quyền”
và các quyền tự do cơ bản của người Campuchia cần được các nước tôn
trọng.
Sau đó đã tiến hành phiên họp thứ 8
của Uỷ ban Phối hợp của Hội nghị quốc tế Paris về Campuchia53
(PICC) để thông qua lần cuối các văn kiện đưa ra Hội nghị cấp bộ
trưởng. Sự việc đã diễn ra hoàn toàn đúng như đã thoả thuận giữa ta với
Pháp và Phó tổng thư ký LHQ. Sau lời khai mạc của hai đồng chủ tịch
Pháp và Inđônêxia, Phó Tổng thư ký LHQ Ahmed đọc bản trình bày tình
hình chuẩn bị triển khai việc thi hành Hiệp định sẽ được ký kết và đọc
đầy đủ những lời giải thích về 4 điểm mà ta yêu cầu bổ sung (việc đưa
trở lại hay đưa quân của bất cứ nước
ngoài nào vào Campuchia sẽ là vi phạm Hiệp định;
các thông tin cần cung cấp cho UNTAC chỉ liên quan đến các
lực lượng nước ngoài còn có mặt ở Campuchia khi ký kết Hiệp định này;
sự có mặt của sĩ quan liên lạc UNTAC ở thủ đô Việt Nam, Lào và Thái Lan
không có hàm ý mở rộng quyền hạn UNTAC
sang các nước láng giềng của Campuchia... phải tôn trọng đẩy đủ chủ
quyền của các nước này). Đáp lại, tôi đã phát biểu
hoan nghênh và ghi nhận những lời giải thích của Phó tổng thư ký LHQ.
Levitte, đồng chủ tịch cuộc họp, biểu thị cảm ơn Việt Nam vì thiện chí
hợp tác.
Kết quả cả 4 văn kiện để ký kết đều đã
được nhất trí thông qua trong Uỷ ban Phối hợp, không có sự tranh cãi
nào về thực chất cả, kể cả những vấn đề ta đã dự phòng như: vấn đề tù
binh, vấn đề Việt kiều ở Campuchia, vấn đề biên giới Việt Nam -
Campuchia... đều không có đoàn nào nêu ra. Giờ đây chỉ còn là công việc
ký kết Hiệp định của anh Nguyễn Mạnh Cầm tối 23.10.91.
Sáng 22.10.91, Đài RFI (Pháp) đã xin
gặp tôi và đặt câu hỏi: “Ông tới Paris với tư cách là đại biểu
của Việt Nam tham dự Hội nghị hoà bình về Campuchia, và hôm qua ông đã
tham gia thông qua văn bản cuối cùng của Hiệp định hoà bình. Trước hết
xin ông cho biết cảm tưởng về việc ký kết văn bản này, khi mà sau mười
mấy năm chiến tranh ác liệt, nay ở Campuchia đã có hoà bình thực sự ?”
Câu trả lời của tôi lúc đó là: “Cảm tưởng của tôi đối với việc
một hai ngày nữa sẽ ký kết Hiệp định hoà bình về Campuchia là cảm tưởng
của một người sau nhiều ngày luồn rừng leo núi đã tới được quãng đường
rộng thảnh thơi, và cũng là cảm tưởng của một người qua nhiều ngày đi
trên sa mạc sắp đến trạm nghỉ, tuy nhiên đây không phải là trạm nghỉ
cuối cùng, mà là nghỉ để tiếp tục một chặng đường mới với những thách
thức mới, nhưng chắc chắn có nhiều điều hứa hẹn tốt đẹp hơn”.
20. KẾT THÚC MỘT CHẶNG ĐƯỜNG NHƯNG LỊCH SỬ CHƯA SANG TRANG
20. KẾT THÚC MỘT CHẶNG ĐƯỜNG NHƯNG LỊCH SỬ CHƯA SANG TRANG
Sau 12 năm ròng rã, đối
với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết thúc và đã trở thành một
hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nhưng những bài
học của 12 năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất thời sự, nhất là bài học về
chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.
Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5.11.91, TBT Đỗ Mười và
thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm chính thức nước CHND Trung Hoa,
đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. “Quan hệ
Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau… Quan hệ Việt – Trung không phải là quan hệ đồng
minh, không trở lại quan hệ như những năm 50-60…”
Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại
dồn dập diễn ra những sự kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước,
tập trung gay gắt nhất là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ
vùng biên giới Hà Giang tháng 2, 3, 4.92; vụ nối lại đường xe lửa Liên
vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12.91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh
tháng 5.92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công
khai hoá việc ký kết họp đồng thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng
lượng Mỹ Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam
(bãi Tư Chính).
Vì sao Trung Quốc tăng
cường lấn ép ta vào thời điểm này ? Vì Trung Quốc cho rằng tình hình đó
đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và
lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000 kilôton, thi hành chiến
lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ
và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa –
mà ta gọi là biển Đông – thành vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ
đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.
1. Trật tự thế giới cũ
không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành. Các đối thủ chính của
Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn, Liên Xô vừa
tan rã. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là thách thức đáng kể, Mỹ
đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á – Thái Bình Dương, tránh can
thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến.
2. Đông Nam Á mới bắt
đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm nước đối đầu
cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi đối với ý
đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở ngại (nghi ngờ nhau do
khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái Lan đối với
Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn tranh thủ
thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương, chủ yếu
là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở
Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở Campuchia và
Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.
3. Bản thân Việt Nam còn
đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng minh, vấn đề tập
hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình mới sau khi Liên Xô tan
rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hoá, Trung Quốc muốn đi vào bình
thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.
Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa xiết chặt
bên trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ. Cả hai mặt
đều nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là thuộc khu vực
ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới
bên ngoài.
*
* *
Ngày 29.11.93, tại cuộc
họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận định tình hình và bàn về ảnh hưởng
tới, với dự tính sẽ xin rút khỏi Trung ương trong kỳ họp Trung ương
giữa nhiệm kỳ tới, tôi đã tranh thủ nói rõ quan điểm của tôi trước phiên
họp toàn thể Trung ương dưới dạng trình bày những suy nghĩ của mình về
“Thời cơ và những thách thức”.
Tôi cho rằng cục diện
mới lúc này có mặt thuận lợi là đang nảy sinh những xu thế phù hợp với
yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh tế–chính trị quốc tế của ta,
đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà bình và phát triển của nước
ta.
Đó là:
-
Xu thế độc lập tự chủ, tự lực tự cường của những nước nhỏ và vừa, có ý thức về lợi ích dân tộc của mình, cưỡng lại chính trị cường quyền áp đặt của nước lớn.
-
Xu thế đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường ngoại gia đa phương do nhu cầu đẩy mạnh giao lưu kinh tế và an ninh tập thể.
-
Xu thế giữ hoà bình ổn định thế giới và khu vực nhằm bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho tập trung phát triển kinh tế.
-
Xu thế liên kết khu vực về kinh tế và an ninh khu vực.
Đồng thời, cũng có những thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của ta, cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài:
-
Thách thức bên trong là tệ nạn tham ô và nhũng nhiễu đang huỷ hoại sức để kháng vật chất cũng cũng tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ của ta đối với các thách thức bên ngoài.
-
Diễn biến hoà bình – một dạng biểu hiện của mâu thuẫn Đông – Tây sau chiến tranh lạnh.
-
Tình hình Campuchia còn đầy bất chắc với Khơ me đỏ còn đó, cộng với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Campuchia.
Trên cơ sở nhận định về thời cơ và nguy cơ như vậy, tôi đã đưa ra kiến nghị:
-
Cần nhìn tổng thể tình hình khách quan và chủ quan, đối chiếu các thách thức với khả năng các mặt của ta để chọn cách xử lý sát thực tế, vừa sức.
-
Trước hết xử lý thách thức nào trong tầm tay của ta, tập trung chống tham nhũng để bảo tồn và tăng cường sức đề kháng phòng ngừa thách thức bên ngoài.
-
Ưu tiên cho liên kết khu vực (Đông Nam Á). Liên kết không phải để đối đầu chống nước nào.
-
Đối với các nước lớn, quan hệ hữu hảo, không đối đầu nước nào, nhưng đều giữ khoảng cách nhất định.
-
Song song với việc kết bạn, không lơ là với việc đấu tranh khi cần thiết. Song luôn giữ giới hạn. không gây nguy cơ mất ổn định khu vực.
-
Tránh không làm gì có thể dồn hai hoặc ba đối thủ câu kết lại vơi nhau chống ta.
Những ý kiến trên đây có thể dùng làm đoạn kết cho phần hồi ức này của tôi, vì phản ảnh khá đầy đủ quan điểm của tôi và cho đến nay (năm 2000)55 xem ra nó chưa phải đã lỗi thời.56
56 bản
01 thêm: Trước đây, ngày 4.6.93 theo yêu cầu của Thường trực BCT, tôi
đã viết ngày 20.6.93 đã gửi các đồng chí Thường trực BCT tài liệu “Những
thách thức đối với an ninh và sự phát triển của ta. Một số kiến nghị
đối sách” (xem phụ lục của Hồi ức) thẳng thắn nêu ý kiến của mình về mấy
vấn đề lớn: những thách thức, đe doạ đối với an ninh và phát triển của
ta có thể xuất xứ từ đâu, dưới những dạng nào ?
21. PHỤ LỤC – NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TA
Phụ lục
NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TA
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI SÁCH
(Viết theo yêu cầu của Thường trực BCT và đã gửi các đồng chí Thường trực BCT ngày 20.6.1993)
Những biến đổi lớn trong
chính trị thế giới những năm gần đây cũng như những biến đổi lớn của
tình hình kinh tế thế giới và những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ
thuật đã tác động tổng hợp vào sự hình thành cục diện chiến lược ngày
nay với những xu thế mới ngày càng thể hiện rõ nét.
Bối cảnh chung này đã
thúc đẩy tất cả các nước lớn nhỏ, đã phát triển hay đang phát triển,
phải điều chỉnh lại chiến lược, điều chỉnh lại thứ tự ưu tiên các mục
tiêu chiến lược của mình sao cho phù hợp đặc điểm tình hình thế giới mới
và những xu thế chung hiện nay.
Một vấn đề lớn đặt ra
cho mỗi nước là sớm xác định được những cơ hội và nhất là những thách
thức trở ngại cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Đối với
ta, trong khi phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược là sớm đưa đất nước
“ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế – xã hội, phấn đấu
vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển cải thiện đời sống của
nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát
triển với nhịp độ mới vào đầu thế kỷ 21”, để bảo đảm hoà bình và
ổn định chúng ta cần tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề cấp bách
là: hiện nay về mặt đối ngoại đất nước ta đang đứng trước những thách
thức, đe doạ chủ yếu gì? có thể từ đâu đến và dưới dạng nào ? Đâu là mối
đe doạ trực tiếp nhất, thúc bách nhất cần đối phó ? Phương hướng xử lý,
trong đó có vấn đề tập hợp lực lượng để đối phó với những đe doạ, thách
thức đó sao cho phù hợp với khả năng còn rất hạn chế về mọi mặt của ta ?
I. Những thách thức đe doạ an ninh và phát triển của ta có thể xuất xứ từ đâu và dưới những dạng nào ?
Hơn 2 năm qua kể từ Đại
hội Đảng lần thứ 7, trên cơ sở những thành tựu trong công cuộc Đổi mới
trong nước, việc triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá
quan hệ theo hướng “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chúng ta đã
cải thiện một bước đáng kể vị trí nước ta trên quốc tế. Quan trọng nhất
là ta đã phá được một bước quan trọng thế bị cô lập về chính trị, tạo
môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho việc giữ vững hoà bình và đẩy mạnh
phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, trong tình
hình quan hệ đối ngoại của ta đã bị đảo lộn ghê gớm với sự tan rã của hệ
thống các nước bạn bè ở Liên Xô và Đông Âu thì những kết quả này mới
chỉ là bước đầu và chưa thật vững chắc. Về chính trị, ta chưa tạo được
hậu thuẫn quốc tế thay thế cho những chỗ dựa truyền thống mà ta vừa mất
đi. Về kinh tế, đất nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về kinh tế, KHKT so
với nhiều nước trong khu vực và chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh
tế – xã hội. Ngày nay quan hệ giữa ta và các nước chủ yếu dựa trên cơ sở
lợi ích tương đồng, trên từng mặt, từng vấn đề; hoàn toàn khác với
phương thức tập hợp lực lượng truyền thống trước đây và đối với bất cứ
đối tác nào cũng đều có hai mặt hợp tác và đấu tranh rất phức tạp. Trong
khi đó, những đe doạ thách thức đã và đang nảy sinh từ những phía khác
nhau, trước mắt và trong tương lai gần.
Trên cơ sở dự báo chiến
lược, những đối tượng chính trước mắt hoặc sau này có thể tạo nên những
đe doạ thách thức chủ yếu đối với sự nghiệp an ninh và phát triển của ta
là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Thái Lan .
Sau đây là những dạng thách thức đe doạ mà mỗi đối tượng có thể gây ra đối với ta:
1. Trung Quốc: Sau
hơn 1 năm bình thường hoá, quan hệ Việt –Trung có nhiều mặt được thúc
đẩy như trao đổi đoàn qua lại, mở một số cửa khẩu, buôn bán biên giới…
Song mặt tiêu cực và hạn chế đang nổi lên, nhiều hiệp định đã ký kết và
nhiều thoả thuận ở cấp cao chưa được thực hiện. Đặc biệt từ đầu năm
1993, Trung Quốc dùng nhiều biện pháp tổng hợp để tăng sức ép và tạo
thêm nhiều khó khăn cho ta, gây tình hình không ổn định cho ta cả bên
trong lẫn bên ngoài nhằm làm chậm đà phát triển kinh tế của ta và kìm
hãm việc mở rộng quan hệ đối ngoại của ta trước hết là ở khu vực Đông
Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương. Những thách thức và đe doạ của Trung
Quốc đối với ta đang được thể hiện ngày càng rõ nét dưới các dạng chính
sau đây:
a. Xâm phạm chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của ta trên bộ và trên biển: trong khi trên bộ, Trung
Quốc không có dấu hiệu nào muốn giải quyết các vấn đề tồn tại về biên
giới, lại còn làm xấu thêm tình hình (xâm canh xâm cư, xây kè cống làm
thay đổi dòng chảy các sông suối biên giới có lợi cho Trung Quốc, lấn
sang phía ta) thì trên biển Trung Quốc liên tiếp có những bước leo thang
nghiêm trọng từ tranh chấp ngoài biển Đông, Trung Quốc đã từng bước
ngày càng lấn sâu vào thềm lục địa, ngay trong khu vực ta đã phân lô ký
kết với các công ty nước ngoài và đang thăm dò khai thác dầu khí (đầu
tháng 5.93, Trung Quốc cho tàu “FENDOU 4” vào thăm dò địa chấn ở khu vực
lô 6 nằm sâu trong thềm lục địa của ta) bộc lộ ý đồ biến một số khu vực
trong thềm lục địa của ta thành vùng tranh chấp, đang chuẩn bị dư luận
để đưa đảo Bạch Long Vĩ vào diện tranh chấp.
b. Phá môi trường quốc
tế hoà bình ổn định của Việt Nam với những hoạt động: ở Campuchia, thông
qua Khmer Đỏ khuấy động vấn đề người Việt Nam ở Campuchia đồng thời làm
cho tình hình Campuchia khó đi vào ổn định; lôi kéo 3 nước (Thái, Miến,
Lào) thành một cụm liên kết kinh tế ở Đông Nam Á lục địa thượng lưu
sông Mêkông gắn với Trung Quốc, tách rời Việt Nam; khủng hoảng biển Đông
kéo dài cũng có tác động phá môi trường phát triển của Việt Nam.
c. Gây mất ổn định chính
trị, kinh tế bên trong Việt Nam: nêu trở lại “vấn đề người Hoa”, đẩy số
người Hoa đã bỏ về Trung Quốc từ những năm 78, 79 trở lại Việt Nam;
thông qua Khmer Đỏ dồn đuổi Việt kiều ở Campuchia về nước; gây sức ép
với Hồng Kông đưa toàn bộ số thuyền nhân ở đó về Việt Nam trước năm
1997; để hàng lậu từ Trung Quốc tuồn vào Việt Nam qua con đường tiểu
ngạch bán hàng vào Việt Nam với giá rất rẻ gây rối loạn thị trường, gây
ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất ở nước ta.
d. Kìm hãm phát triển
kinh tế đối ngoại của Việt Nam: tiếp tục bắt giữ tàu thuyền của ta (số
lượng nhiều hơn 1992: 28 chiếc); chống việc ICAO trả lại vùng FIR Hồ Chí
Minh cho Việt Nam.
2. Mỹ có thể thách thức đe doạ an ninh và
phát triển của Việt Nam qua các dạng:
a. Mỹ là nước lớn duy nhất hiện nay chưa bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam và còn tiếp tục chính sách cấm vận gây trở ngại cho các tổ
chức quốc tế (Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới…) và các nước khác
trong việc viện trợ tài chính và hợp tác với ta phát triển kinh tế.
b. Tiến hành diễn biến
hoà bình: thông qua những cái gọi là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân
quyền ép ta đa nguyên, đa đảng; kích động các vấn đề tôn giáo, dân tộc
thiểu số để gây tình hình phức tạp làm mất ổn định chống ta.
c. Nuôi dưỡng những phần
tử phản động hoặc thoái hoá biến chất còn lại ở Việt Nam và các lực
lượng phản động người Việt đang ở nước ngoài khi có điều kiện thuận lợi
thì gây bạo loạn, lật đổ như đã làm ở một số nước.
3. Nhật Bản trước
mắt là một đối tượng hợp tác chính của ta để thực hiện yêu cầu phát
triển nhanh kinh tế Việt Nam, song ta vẫn phải dự phòng về lâu dài những
khả năng xấu từ phía Nhật:
a. Trước hết là cùng với
việc tăng cường đầu tư viện trợ, Nhật sẽ từng bước thao túng kinh tế
Việt Nam và đưa Việt Nam và cả Đông Nam Á vào quỹ đạo Nhật Bản phục vụ
cho tham vọng bá quyền khu vực và thế giới của Nhật Bản về kinh tế cũng
như về chính trị.
b. Mặt khác, cùng với
tham vọng về chính trị và kinh tế được thực hiện từng bước, chủ nghĩa
quân phiệt Nhật có thể được phục hồi nhằm trở thành một siêu cường toàn
diện ở khu vực và trên thế giới. Nguy cơ này sẽ có hậu quả trực tiếp tới
khu vực Đông Á trong đó có Việt Nam.
4. Thái Lan hiện
là một bộ phận của ASEAN mà ta đang tích cực tranh trủ hợp tác cả về
kinh tế lẫn chính trị. Nhưng chủ nghĩa “Đại Thái” xưa nay là nguy cơ
truyền thống đối với an ninh và phát triển của Việt Nam, hiện vẫn tồn
tại và đầy tham vọng.
Thái luôn coi Việt Nam
là một đối thủ tiềm tàng về kinh tế cũng như về chính trị. Vì vậy thách
thức của Thái đối với ta có thể đến từ hai phía:
a. Về kinh tế, Thái có
lợi ích kiềm chế nhịp độ phát triển của Việt Nam (vấn đề Uỷ ban Mêkông,
FIR Hồ Chí Minh) đồng thời tận dụng được Việt Nam như một thị trường
tiêu thụ hàng Thái và một nguồn cung cấp nguyên liệu (lâm
sản, hải sản, khoảng sản).
b. Về chính trị, quân
sự, Thái có lợi ích biến Lào và Campuchia từ những đồng minh của Việt
Nam thành vùng chịu ảnh hưởng Thái nhiều hơn. Đồng thời Thái vẫn có thể
cung cấp căn cứ địa cho các lực lượng phản động Việt Nam thâm nhập phá
hoại nội địa ta.
II. Nguy cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe doạ an ninh và phát triển của ta là từ đâu ?
Trong 4 đối tượng có thể
tạo nên nguy cơ đe doạ ta, có những nước lớn cỡ toàn cầu hoặc khu vực
như Mỹ, Trung Quốc, Nhật; riêng Thái Lan là nước ngang tầm với
ta nên mức độ thách thức đối với ta không so được với các nước lớn.
Trong các dạng thách thức khác nhau của cả 4 đối tượng, có nhiều điều
mới trên cơ sở giả định hoặc dự phòng để cảnh giác, song có những điều
đang là hiện thực, đang là những vấn đề thực tế và thúc bách đặt ra
trước mắt ta. Vì vậy với khả năng rất hạn hẹp về mọi mặt của ta, ta cần
phân biệt rõ đâu là nguy cơ lớn nhất trực tiếp đe doạ những lợi ích sống
còn của dân tộc Việt Nam để tập trung trí lực và vận dụng cao độ sách
lược đối ngoại đối phó lại. Trước hết chắc chắn đó không phải là Nhật
hay Thái Lan. Đó chỉ có thể là Mỹ hay Trung Quốc.
1. Chiến lược của Mỹ và ý đồ Mỹ đối với Việt Nam
Sau sự tan rã của Liên
Xô và sự kết thúc chiến tranh lạnh, Mỹ gặp phải nhiều thách thức hơn là
cơ hội. Thách thức bởi những vấn đề kinh tế – xã hội cấp bách trong
nước, thách thức bởi những đối thủ vốn là đồng minh cũ của Mỹ trong
chiến tranh lạnh như Nhật, EC. Vì vậy, mục tiêu chiến lược của Mỹ phải
điều chỉnh lại một cách thực tế và khiêm tốn hơn: cố gắng duy trì vị trí
số một trên thế giới và ở châu Á – Thái Bình Dương, hiện đang trở thành
vũ đài chính của thế giới. Trước thách thức ngày càng lớn của các trung
tâm kinh tế phương Tây, việc xoá CNXH ở châu Á chưa phải là ưu tiên
hàng đầu của Mỹ hiện nay.
Khoảng cách về so sánh
lực lượng giữa Mỹ và các cường quốc khác không còn quá lớn như trước, để
thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, phương hướng của Mỹ chủ yếu là
tạo một cân bằng lực lượng giữa các đối thủ có tiềm năng đe doạ vị trí
số một thế giới của Mỹ, dùng đối thủ này kiềm chế đối thủ kia, thông qua
hợp tác để kiềm chế các đối thủ, tăng cường vai trò các thể chế quốc tế
(như LHQ) trong việc xử lý các xung đột khu vực, tạo thành một thế ổn
định chung có lợi cho Mỹ.
Ở châu Á – Thái Bình
Dương cũng vậy, Mỹ đang cô lập nên trật tự khu vực mới trên cơ sở tam
giác chiến lược mới Mỹ – Nhật – Trung thay cho tam giác Mỹ – Xô – Trung
ngày trước, trong đó Mỹ vừa tranh thủ và họp tác với Trung Quốc mà chủ
yếu là với Nhật, vừa cảnh giác kiềm chế cả hai, chủ yếu là Trung Quốc.
Riêng với Trung Quốc, Mỹ
rất coi trọng vai trò của đất nước có hơn 1 tỷ dân này trong kế hoạch
tạo lập một trật tự quốc tế mới. Mỹ cần thúc đẩy và tranh thủ sự hợp tác
của Trung Quốc trong nhiều vấn đề, nhất là trong việc xử lý các cuộc
xung đột khu vực trong Hội đồng Bảo an LHQ mà Trung Quốc là một thành
viên có quyền phủ quyết. Vì vậy chắc chắn Mỹ sẽ không vì Việt Nam mà làm
ảnh hưởng xấu đến quan hệ với Trung Quốc. Mỹ sẽ không trực tiếp can
thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc nếu
tranh chấp đó không đụng chạm đến lợi ích của Mỹ và đến ổn định của cả
khu vực.
Song cũng vì lợi ích
chiến lược của Mỹ, Mỹ không thể khuyến khích hoặc làm ngơ để Trung Quốc
tự do bành trướng xuống Đông Nam Á. Trong chiến lược châu Á – Thái Bình
Dương của Mỹ, chính quyền Clinton đã tỏ ra coi trọng vai trò Đông Nam Á
hơn trước. Có thể vì đây là một vùng khá năng động về phát triển kinh
tế, đồng thời lại có một cơ chế tiểu khu vực có sức sống và gắn bó với
lợi ích kinh tế của Mỹ. Song mặt khác vì đây đang là hướng bung ra của
Trung Quốc trong ý đồ lấp “khoảng trống quyền lực” sau khi Liên Xô tan
rã và Mỹ thu bớt sự có mặt quân sự ở Đông Nam Á. Lợi ích của Mỹ là tạo
ra được ở đây một Đông Nam Á ổn định và đủ mạnh để cản bước Trung Quốc
trong chiến lược “biên giới mềm” và “mở rộng không gian sinh tồn”. Ý đồ
của Mỹ là từng bước thúc đẩy việc mở rộng ASEAN thành một tổ chức chung
cho cả 10 nước Đông Nam Á, có khả năng trở thành một đối trọng đáng kể
đối với Trung Quốc bảo đảm ổn định khu vực. Trong kế hoạch tạo lập một
cơ chế an ninh khu vực của châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ, Nhật và phương
Tây nói chung đều đã lấy ASEAN làm cốt lõi về tổ chức. Hội nghị thường
niên giữa ASEAN và 6 nước đối tác đang trở thành diễn đàn trao đổi về an
ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nga cũng tỏ thái độ ủng hộ
phương hướng này. Riêng Trung Quốc không mặn mà.
Vậy có khả năng Mỹ đồng tình hay cấu kết với Trung Quốc chống Việt Nam không
? Trước đây Mỹ và Trung Quốc hợp lực chống Việt Nam trong vấn đề
Campuchia là vì cả hai cùng có yêu cầu chung là đánh vào Liên Xô và xoá
bỏ ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Nay Liên Xô đã sụp đổ, thế chiến
lược ở châu Á – Thái Bình Dương đã thay đổi, nếu Mỹ lại đi với Trung
Quốc chống Việt Nam thì chẳng khác gì là đẩy Việt Nam vào tình thế hoặc
chủ động liên minh với Trung Quốc hoặc phải khuất phục trước sức mạnh
của Trung Quốc, từ đó tạo điều kiện cho Trung Quốc từng bước khống chế
cả Đông Nam Á một cách dễ dàng và nhanh chóng trở thành một trong những
đối thủ đe doạ vị trí số 1 của Mỹ trên toàn cầu. Điều này hoàn toàn
ngược lại mục tiêu chiến lược của Mỹ.
Mặt khác, một nước Việt
Nam đổi mới, độc lập với Nga, Trung Quốc cũng như không chịu sự chi phối
của Nhật, cải thiện quan hệ và hoà nhập với các đồng minh của Mỹ ở Đông
Nam Á là phù hợp với lợi ích của Mỹ về hoà bình, ổn định, nhằm duy trì
ảnh hưởng của Mỹ và hạn chế các thách thức nổi lên đối với vị trí của Mỹ
ở khu vực. Việt Nam tuy không có một vị trí quan trọng trong chiến lược
toàn cầu của Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn là một nhân tố mà Mỹ không thể
không tính đến trong chiến lược của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương và
Đông Nam Á. Hơn nữa về kinh tế Mỹ có lợi ích tranh thủ thị trường và
nguồn nhiên liệu của Việt Nam. Mỹ không muốn vắng mặt trong khi các đối
thủ của Mỹ đi mạnh vào thị trường Việt Nam.
Bên cạnh những lợi ích
có phần nào trùng hợp với ta như trên, mặt tiêu cực trong chính sách của
Mỹ đối với ta không nhỏ. Mỹ không thể từ bỏ ý đồ diễn biến hoà bình với
ta. Tuy nhiên Mỹ có làm được hay không chủ yếu còn tuỳ thuộc vào khả
năng giữ vững ổn định chính trị trong nước của ta, tức là tuỳ thuộc vào
bản lĩnh chính trị của Đảng ta và sự vững vàng cảnh giác của cán bộ và
nhân dân ta và sự gắn bó giữa dân với Đảng. Ở đây nhân tố vững mạnh bên
trong có ý nghĩa quyết định. Thắng lợi của công cuộc Đổi mới, sự ổn định
về kinh tế – xã hội ở nước ta và việc không ngừng nâng cao cảnh giác
cách mạng trong quá trình đa dạng hóa và mở rộng quan hệ quốc tế sẽ là
đảm bảo tốt nhất hạn chế tác động của mọi thủ đoạn diễn biến hoà bình.
Mặt khác cũng phải thấy rõ không phải Mỹ tập trung chống phá Việt Nam
với bất cứ giá nào vì Mỹ có những ưu tiên chiến lược lớn hơn và hơn nữa
hiện nay Mỹ đang có những lợi ích trùng hợp với ta ở khu vực mà ta có
thể tranh thủ lợi dụng để phục vụ hữu hiệu cho mục tiêu chiến lược của
ta.
2. Chiến lược của Trung Quốc và ý đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam
Trái với Mỹ, Trung Quốc
thấy ở những biến đổi lớn trong cục diện thế giới ngày nay, một “cơ hội
ngàn năm có một”. Đối với Trung Quốc cơ hội đang tăng lên, còn thách
thức giảm đi. Trong khi Mỹ cảm thấy cần co bớt lại để củng cố và phòng
ngự là chính thì Trung Quốc nuôi tham vọng lớn là muốn vươn lên trở
thành một cực trong trật tự thế giới đa cực mới. Trong khi hiện đại hoá
trên 4 mặt vẫn là cứu cánh chính để thực hiện mục tiêu đó, Trung Quốc
không ngừng tranh thủ mọi cơ hội có được để thực hiện kế hoạch bành
trướng, gây mất ổn định của nước khác (Campuchia, Myanmar) để mưu lợi
cho mình. Do hiện nay thế cũng như lực chưa đủ mạnh, nên họ thực hiện ý
đồ một cách tính toán thận trọng tuỳ theo diễn biến của tình hình khu
vực, phản ứng của các đối thủ và thực lực của chính họ.
Trước mắt Trung Quốc
đang ra sức thực hiện ý đồ nhanh chóng trở thành một cường quốc ở châu Á
– Thái Bình Dương, có địa vị ngang hàng với Mỹ, Nhật ở khu vực này.
Trung Quốc đặt mục tiêu lấn chiếm toàn bộ biển Đông ở vị trí ưu tiên
hàng đầu. Trung Quốc coi trọng vị trí chiến lược của biển Đông, vì kiểm
soát được biển Đông tức là khống chế được cả Đông Nam Á và cả con đường
giao lưu huyết mạch từ Thái bình dương qua Ấn Độ Dương, và cũng là khu
vực giầu tài nguyên nhất là dầu khí (trữ lượng dầu ở khu vực này ngang
Vịnh Ba Tư) mà Trung Quốc đang cần để đẩy nhanh tốc độ phát triển.
Đáng chú ý là trong khi
Trung Quốc mở một chiến dịch hoạt động ngoại giao rộng lớn nhằm tranh
thủ tăng cường quan hệ hợp tác phát triển với tất cả các nước công
nghiệp hoá phương Tây, tranh thủ các nước đang phát triển và không liên
kết hòng khôi phục vai trò lãnh đạo thế giới thứ ba, cải thiện quan hệ
với các nước láng giềng cùng chung biên giới, đặc biệt là gần đây tăng
cường lôi kéo các nước khu vực Đông Nam Á để phá thế “quần lang đấu hổ”,
thì Trung Quốc luôn tập trung mũi nhọn gây sức ép và lấn dần Việt Nam
trên mọi vấn đề, mặc dù ta đã dùng đủ phương sách để tỏ rõ thái độ cầu
hoà và hữu hảo với họ. Phải chăng vì Trung Quốc cho rằng Việt Nam là
điểm yếu và dễ tính để lấn nhất lúc này (khó về quân sự, nghèo về kinh
tế, đơn độc về chính trị) mà lại chiếm một vị trí chiến lược quan trọng ở
Đông Nam Á và là trở ngại lớn nhất cho kế hoạch biển Đông của Trung
Quốc.
Những hoạt động bất lợi
đối với Việt Nam của Trung Quốc sẽ không dừng lại ở trạng thái hiện nay
mà sẽ còn được tiếp tục đẩy tới vì Trung Quốc cho rằng tình thế hiện tại
đang rất thuận lợi cho việc Trung Quốc lấn ép Việt Nam mà chỉ gặp phải
phản ứng quốc tế ở mức thấp nhất vì Mỹ chưa bỏ cấm vận Việt Nam; quan hệ
hợp tác, đầu tư giữa các nước và Việt Nam còn chưa phát triển; vấn đề
Campuchia đang còn thu hút nhiều sự chú ý của dư luận quốc tế; cơ chế an
ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương chưa hình thành. Trung Quốc đặt
năm 1997 thành một mốc thời gian quan trọng trong quá trình xây dựng sức
mạnh mọi mặt của Trung Quốc: năm 1997 là năm Trung Quốc thu hồi Hồng
Kông và cũng có thể là năm thực hiện một bước kế hoạch hình thành “vành
đai kinh tế Đại Trung Hoa” bao quanh Đông Nam Á; năm 1997 là năm quân
đội Trung Quốc sẽ được trang bị hàng không mẫu hạm và các trang bị tối
tân khác, đặc biệt về hải không quân để có thể vươn ra khắp biển Đông;
có tin Trung Quốc đang cố rút ngắn mục tiêu của năm 2000 xuống năm 1997
sẽ tăng tổng sản phẩm quốc dân lên gấp 4 lần. Sức ép của Trung Quốc đối
với ta sẽ phát triển thuận chiều với sự phát triển các mặt của Trung
Quốc.
3. Những phân tích tình
hình trên đây có thể dẫn đến kết luận: Trước mắt cũng như trong tương
lai dự báo được, Trung Quốc là nguồn xuất xứ chính của những thách thức
đe doạ đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như đối với an ninh
và phát triển của Việt Nam. Những thách thức đe doạ trên nhiều mặt của
Trung Quốc đối với ta đều đang là những vấn đề hiện thực, đang xảy ra và
ta đang phải xử lý, khác với những thách thức đe doạ của các đối tượng
khác, kể cả Mỹ, có phần nào còn là giả định và dự phòng. Những mâu thuẫn
về lợi ích trên các mặt giữa ta với Trung Quốc có nhiều hơn với các đối
tượng khác.
III. Kiến nghị đối sách
1. Xét về so sánh lực
lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam là nước nhỏ so với Trung
Quốc là nước lớn, có trọng lượng và ảnh hưởng chính trị rộng lớn hơn ta
nhiều. Nếu tách riêng mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc với những vấn đề
tranh chấp hiện có cũng như tiềm tàng thì tình hình hoàn toàn bất lợi
cho ta. Nhưng nếu gắn mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trong tổng
thể quan hệ quốc tế của thế giới và khu vực, thì ta có khả năng vận dụng
được những xu thế lớn của thời đại, như tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu được quốc tế hoá cao và xu thế
chung muốn duy trì và củng cố hoà bình và ổn định để đẩy mạnh phát triển
kinh tế, để cải thiện thế chính trị của ta trong cuộc đấu tranh nhằm
giải quyết các vấn đề tranh chấp với Trung Quốc bảo vệ lợi ích chính
đáng của ta.
Vì bên cạnh những chỗ
mạnh so với ta trên mặt trận đối ngoại Trung Quốc có những điểm yếu cơ
bản mà ta có thể và cần biết cách khai thác để có thể hạn chế Trung Quốc
trong chính sách lấn ép ta trên nhiều mặt. Những điểm yếu đó là:
a. Để thực hiện ưu tiên
tối cao là đẩy nhanh hiện đại, Trung Quốc cần Mỹ hơn là Mỹ cần Trung
Quốc. Do đó tuy giữa Mỹ – Trung Quốc có đấu tranh và thoả hiệp, nhưng rõ
ràng Trung Quốc ngại phản ứng của Mỹ, không dám thách thức Mỹ trong khi
thế và lực của Trung Quốc còn có hạn. Thế giới cũng như các nước khu
vực đều coi Mỹ là đối trọng có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế Trung
Quốc. Cũng vì thế Trung Quốc rất không muốn Mỹ cải thiện quan hệ và đi
tới bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
b. Trong lúc chưa xây dựng được lực lượng
kinh tế cũng như quân sự
đủ mạnh, Trung Quốc rất ngại các nước khu vực Đông Nam Á – đối tượng
bành trướng trước mắt của Trung Quốc – liên kết với nhau, đặc biệt là
giữa ASEAN và Việt Nam, thành thế “quần lang đấu hổ” chống lại nguy cơ
chung. Chính vì vậy mà Trung Quốc đang tìm mọi cách lôi kéo phân hoá
Đông Nam Á thành những mảnh riêng biệt, thậm chí có thể chống đối nhau.
c. Trước xu thế mạnh mẽ
của chung trên thế giới và trong khu vực muốn có ổn định để tập trung
ganh đua phát triển kinh tế, Trung Quốc rất ngại bị dư luận quốc tế,
trước hết là dư luận khu vực, coi là “nhân tố gây mất ổn định” ở châu Á –
Thái Bình Dương và thế giới. Cuộc vận động của Mỹ, Nhật, nhất là ASEAN,
nhằm từng bước thúc đẩy việc hình thành một diễn đàn và tiến tới một cơ
chế về an ninh tập thể khu vực châu Á – Thái Bình Dương hiện nay chính
là nhằm kiềm chế Trung Quốc.
2. Để có thể tận dụng
những điểm yếu của Trung Quốc vào việc cải thiện thế chính trị trong
cuộc đấu tranh không cân sức này, ta nhất thiết cần phải chọn lựa và
hình thành một chiến lược đối ngoại hết sức linh hoạt phù hợp với chiều
hướng diễn biến chung của chính trị và kinh tế thế giới, thích ứng với
những đặc điểm lớn của cục diện quốc tế hiện tại. Cuộc đấu tranh chống
lại những thách thức đe doạ của đối tượng đặc biệt này là một nhiệm vụ
hết sức thúc bách, đòi hỏi những biện pháp tổng hợp song điển và trên
mặt trận ngoại giao là chính.
Với sự kết thúc trạng
thái thế giới phân thành 2 cực đối lẫn nhau, do tính tuỳ thuộc lẫn nhau
ngày càng tăng giữa các nước trên toàn cầu và trong mỗi khu vực, việc
không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng
hoá để hoà nhập vào đời sống chung của cộng đồng quốc tế là rất quan
trọng cả về chính trị lẫn kinh tế. Đồng thời trong bối cảnh quốc tế hiện
nay, an ninh của một nước tuỳ thuộc rất lớn và trước hết vào mối quan
hệ với các nước trong khu vực. Đặc biệt việc xử lý các vướng mắc trong
quan hệ quốc tế và khu vực của ta vừa qua cho thấy việc xử lý tốt mối
quan hệ với các nước lớn là cực kỳ quan trọng đối với lợi ích an ninh và
phát biểu của nước ta. Kinh nghiệm xương máu của dân tộc ta trong những
thập kỷ qua cho thấy cần có chính sách quan hệ cân bằng giữa các nước
lớn, khôn khéo lợi dụng những sai khác về lợi ích giữa họ với nhau, và
tuyệt đối không để bên ngoài hiểu là Việt Nam có ý đồ đi với nước lớn
này chống nước nọ, gần lợi ích của ta với lợi ích an ninh và phát triển
của các nước láng giềng trong khu vực để taọ cho nước ta một thế quốc tế
thuận lợi hơn.
3. Những trọng điểm
trong chiến lược đối ngoại của ta phải là các nước lớn trong tam giác
chiến lược châu Á – Thái Bình Dương và khối các nước ASEAN, những nhân
tố có khả năng tác động nhiều tới Trung Quốc.
a. Với Mỹ:
Quan hệ với Mỹ là một bộ
phận quan trọng trong chính sách đa dạng hoá quan hệ đối ngoại của ta.
Hiện nay Mỹ là nhân tố duy nhất có khả năng làm đối trọng và kiềm chế
Trung Quốc, do đó ta cần kiên trì và quyết tâm kéo Mỹ đi vào bình thường
hoá quan hệ. Kéo Mỹ vào vấn đề Mỹ có lợi ích trực tiếp ở Việt
Nam, nhất là lợi ích trong lĩnh vực dầu khí ngoài khơi Việt Nam, khiến
Mỹ không thể làm ngơ trước tình hình “bất ổn định” do Trung Quốc khiêu
khích, xâm lấn gây ra. Một nhà nghiên cứu Mỹ về châu Á đã đánh giá “một
dàn khoan của Công ty Mobil Oil (Mỹ) ở biển Đông có giá trị ngang với cả
một Hạm đội 7”.
Thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với
Mỹ trước hết là việc bỏ cấm vận có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu
cầu an ninh, ổn định và phát triển kinh tế của ta, giúp ta cải thiện với
các đối tượng khác và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ta đối phó với
các thách thức hiện nay. Triển khai mạnh mẽ quan hệ với Mỹ cũng như với
các đối tượng khác không phải để tạo một tập hợp lực lượng chống Trung
Quốc vì điều đó trái với phương châm đối ngoại “làm bạn với tất cả” của
ta, cũng không phù hợp với các tính toán chiến lược của Mỹ cũng như của
các nước khác.
Việc ta vừa giữ hoà khí
với Trung Quốc vừa có quan hệ bình thường với Mỹ và thúc đẩy quan hệ với
Nhật, phương Tây và ASEAN và các nước khác sẽ tạo ra cho ta thế mạnh
trong quan hệ cân bằng với các đôí tượng.
Trong tình hình hiện nay
việc hợp tác giải quyết tốt vấn đề POW/MIA là khâu thiết yếu để tháo gỡ
trở ngại cho quan hệ Việt – Mỹ. Đồng thời đẩy mạnh công tác vận động
trong nội bộ Mỹ (lobby) với khẩu hiệu có tính sách lược dễ tranh thủ dư
luận Mỹ thúc đẩy Mỹ sớm bỏ cấm vận, thu hút các công ty Mỹ vào làm ăn ở
Việt Nam vừa tạo áp lực vừa tạo điều kiện cho chính quyền Mỹ đi vào bình
thường hoá quan hệ với ta sớm nhất. Mặt khác ta cần quan tâm
có chủ trương, chính sách và biện pháp thích đáng để vô hiệu hoá ý đồ
của Mỹ và các nước phương Tây dùng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” gây sức
ép với ta.
Song song với các bước
cải thiện quan hệ Việt Nam và Mỹ, cần kết hợp mở rộng đường lối “hoà hợp
dân tộc” bằng những chính sách cụ thể đối với Việt kiều ở Mỹ và các
nước khác nhằm chuyển họ thành những lực lượng mạnh mẽ hỗ trợ cho công
cuộc hiện đại hoá nền kinh tế và KHKT của nước nhà. Việc làm này tất
nhiên sẽ tác động trở lại đối với việc tăng cường quan hệ hợp tác của ta
với Mỹ và các nước có người Việt sinh sống.
b. Với ASEAN:
ASEAN hiện được coi là
tổ chức khu vực có sức sống mạnh nhất mà các nước lớn, trong đó có Trung
Quốc, phải tính đến trong chính sách châu Á – Thái Bình Dương của họ.
Giữa ta và các nước ASEAN có nguyện vọng chung là hoà bình, ổn định và
phát triển, đồng thời cũng phải lo đối phó với thách thức bên ngoài, từ
Trung Quốc và Nhật Bản. Tăng cường hợp tác khu vực vừa phù hợp với xu
thế hiện nay vừa tạo thế cho ta trong quan hệ với các nước lớn ngoài khu
vực, nhất là Trung Quốc. Để thúc đẩy quan hệ này, ngoài việc tăng cường
quan hệ song phương bằng các biện pháp xây dựng lòng tin, cần sớm gạt
những tồn tại trong quan hệ tay đôi giữa ta và một số nước ASEAN qua
việc hợp tác giải quyết vấn đề vùng chồng lấn với Inđônêxia, Malaysia,
Thái Lan,… cần có các bước đi mạnh mẽ tham gia các cơ chế hợp tác khu
vực vì an ninh và phát triển phù hợp với khả năng và lợi ích của ta; đặc
biệt là cần tích cực tham gia quá trình trao đổi về cơ cấu an ninh khu
vực và sớm tính việc tham gia ASEAN. Nói chung ta cần tích cực, chủ động
tăng cường các điểm đồng giữa ta và các nước ASEAN, xử lý khéo léo
những khác biệt, tránh để những khác biệt ảnh hưởng tới quan hệ hợp tác.
c. Với các nước và các đối tượng khác, đặc biệt là với Nhật Bản, Nga, Cộng đồng châu Âu,… ta
cần tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt nhằm tận dụng tối
đa khả năng hợp tác kinh tế, KHKT, kinh nghiệm quản lý của các nước này
cho công cuộc phát triển đất nước và qua đó góp phần tạo thế cân bằng
lực lượng có lợi cho ta ở khu vực, tranh thủ tập hợp dư luận rộng rãi hỗ
trợ cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của ta, tạo nên một
mạng lưới lợi ích kinh tế – chính trị, che chắn thêm cho ta trước mưu đồ
xâm lấn của Trung Quốc.
d. Với Trung Quốc:
- Bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc là một yêu cầu chiến lược của ta. Do Trung Quốc thi hành
chính sách 2 mặt nên đối sách của ta cũng gồm 2 mặt vừa hợp tác vừa đấu
tranh, vừa chủ động thúc đẩy quan hệ trên cơ sở những thoả thuận đã đạt
được, vừa kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đồng thời giữ vững phương
châm không để trở lại tình trạng đối đầu với Trung Quốc cũng như không
đặt các nước trước sự lựa chọn hoặc Việt Nam hoặc Trung Quốc. Biện pháp
tối ưu lúc này là chủ động tạo nên cục diện các nước lớn và ASEAN có lợi
ích kinh tế, an ninh ngày càng lớn trong quan hệ với Việt Nam. Cục diện
đó cộng với sự lớn mạnh càng nhanh càng tốt của bản thân chúng ta sẽ là
sự răn đe có hiệu quả nhất đối vơí mọi hoạt động lấn chiếm của Trung
Quốc.
- Kiên quyết đấu tranh
hạn chế ý đồ lấn chiếm của Trung Quốc ở biển Đông, đặc biệt ở vùng thềm
lục địa của ta; áp dụng các biện pháp khôn khéo nhưng có hiệu quả ngăn
chặn hoạt động của Trung Quốc mà không dẫn đến đối đầu về quân sự.
- Xúc tiến việc xác định
phạm vi của quần đảo Trường Sa để xem xét khái niệm “khai thác chung”,
phá ý đồ Trung Quốc lợi dụng vấn đề này chia rẽ phân hoá giữa ta và
ASEAN.
- Chuẩn bị khả năng đưa ra toà án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế vấn đề Trung Quốc vi phạm thềm lục địa của ta.
- Đến một lúc nào đó ta
nên tính đến khả năng mở cảng Cam Ranh thành một thương cảng cho các tàu
quốc tế ra vào, kể cả tàu Mỹ, tạo sự có mặt của nhiều quốc gia ở khu
vực biển Đông, ngăn ý đồ độc chiếm của một nước. Song tất nhiên ta phải
có chính sách và luật pháp chặt chẽ để bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc
gia.
ĐẠI SỰ KÝ 1975 – 1991
(Dùng cho Hồi ức và Suy nghĩ)
1975
01.02
|
TNS M. Mansfield báo cáo trước Quốc hội Mỹ sau khi đi
thăm Trung Quốc về: Trung Quốc tán thành để 2 nước Việt Nam tiếp tục
tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất trung lập là
điều chủ yếu trong một Đông Dương ổn định.
|
17.04
|
Giải phóng PhnomPenh.
|
30.04
|
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Giải phóng Sài gòn.
|
04.05
|
Quân Polpot tấn công đảo Phú Quốc và từ đó liên tiếp tấn công biên giới trên bộ và trên biển của ta.
|
05.05
|
H. Kissinger: với việc mất Việt Nam, sẽ có sự sắp xếp
lại lực lượng quan trọng ở Đông Nam Á, Campuchia và Lào sẽ là chư hầu
của Hà Nội, còn Thái Lan và Inđônêxia sẽ tự động liên minh với Việt Nam. Trung Quốc sẽ giữ không cho Việt Nam có bất kỳ hành động quyết liệt nào.
|
?.05
|
Thông điệp miệng của ta nhờ Liên Xô chuyển tới Mỹ tỏ ý muốn hai bên có quan hệ tốt.
|
12.06
|
Mỹ gửi đến Đại sứ quán ta tại Paris thông điệp: “Về
nguyên tắc, Mỹ không hận thù gì Việt Nam, đề nghị trên cơ sở đó tiến
hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào
đó Việt Nam đưa ra”.
|
11.07
|
Thông điệp ta trả lời: nhắc Mỹ nghĩa vụ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh.
|
10.07 và 05.09
|
Tiếp xúc giữa bí thư thứ nhất ĐSQ Việt Nam Đỗ Thanh và bí thư thứ nhất ĐSQ Mỹ Pratt ở Paris.
|
27-29/07
|
Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu đi thăm Campuchia.
|
09.08
|
Vụ Watergate – Nixon từ chức. Phó tổng thống G.Ford lên thay.
|
11.08
|
Tại Hội đồng Bảo an, Mỹ phủ quyết Việt Nam vào LHQ
|
07.12
|
G. Ford công bố “học thuyết Thái Bình Dương mới” gồm 6
phương hướng chính: sức mạnh Mỹ đã cân bằng lực lượng ở Thái Bình
Dương, liên minh với Nhật, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, quan hệ mạnh với ASEAN, giải quyết xung đột khu vực, hợp tác kinh tế trong vùng.
|
21.12
|
Đoàn hạ nghị sĩ Mỹ do G. V. Montogomery vào Hà Nội nhận 3 bộ hài cốt giặc lái Mỹ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp đoàn.
|
tháng 12
|
H. Kissinger phát biểu ở Paris sau khi đi thăm Trung
Quốc: Mỹ đang tính toán việc sử dụng Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của
Việt Nam ở khu vực.
|
1976
|
|
10.01
|
Mỹ thông qua Liên Xô thăm dò việc tiếp xúc với ta, song khẳng định không thực hiện Điều 21 (bồi thường chiến tranh)
|
26.03
|
H. Kissinger gửi công hàm cho bộ trưởng ngoại giao
ta: Mỹ sẵn sàng thảo luận với Việt Nam để phát triển quan hệ mới giữa
hai nước.
|
10.04
|
Bộ trưởng Ngoại giao ta trả lời: nêu lại những vấn đề
tồn tại giữa hai nước (điều 21 và vấn đề MIA). Trên cơ sở giải quyết
những vấn đề đó sẽ bình thường hoá quan hệ với Mỹ.
|
07.05
|
Tổng thống G. Ford bác kiến nghị của quốc hội Mỹ yêu cầu tạm thời ngừng cấm vận buôn bán với Việt Nam trong 6 tháng.
|
08.05
|
Công hàm của ngoại trưởng Mỹ H. Kissinger gửi Ngoại
trưởng Nguyễn Duy Trinh: sẵn sàng mở cuộc thảo luận về việc thiết lập
mối quan hệ mới giữa hai nước, song chỉ khi nào vấn đề MIA được giải
quyết về thực chất thì mới có tiến bộ đi tới bình thường hoá quan hệ.
|
19.06
|
Thông điệp của BNG ta phê phán Mỹ “đơn phương tuyên
bố xoá bỏ Hiệp định”, lẩn tránh nghĩa vụ đối với điều 21 đồng thời lại
đòi Việt Nam thi hành điều 8b của Hiệp định: nhắc lại lập trường ta gắn 2
vấn đề với nhau. Bước đầu sẵn sàng gặp đại diện Mỹ ở Paris để trao đổi ý
kiến.
|
19.07
|
Mỹ gửi thông điệp trả lời đồng ý mở cuộc thảo luận tại Paris giữa người thứ 2 của hai sứ quán
|
01.08
|
Ta trao trả Mỹ tất cả 27 người Mỹ bị kẹt lại ở Nam Việt Nam sau ngày 30.4.75
|
27.08
|
Thông điệp của ta gửi Mỹ xác định người gặp (tham tán Trần Hoàn) và nói gặp (luân phiên giữa hai sứ quán tại Paris).
|
Tháng 11
|
Tổng tuyển cử Mỹ – Jimmy Carter (Dân chủ) trúng cử Tổng thống
|
Tháng 12
|
Đại hội IV với luận điểm “3 giòng thác cách mạng trong thế tiến công”
|
1977
|
|
06.01
|
Mỹ thông qua Liên Xô đưa ra kế hoạch 3 bước bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam: Việt Nam cho biết tin về MIA ở Việt Nam; Mỹ chấp nhận Việt
Nam vào LHQ và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao cũng như bắt đầu buôn bán
với Việt Nam; Mỹ có thể đóng góp khôi phục Việt Nam bằng cách phát
triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khác.
|
11.01
|
Ngoại trưởng C.Vance: Việc tiến tới bình thường hoá quan hệ Mỹ – Việt Nam là phù hợp với lợi ích của hai nước.
|
03.3
|
Chính quyền J. Carter quyết định nới lỏng cấm vận với Việt Nam.
|
09.03
|
Mỹ cho phép công dân Mỹ đi thăm Việt Nam, Campuchia, Bắc Triều Tiên, Cuba, kể từ 18.3.77.
|
17.03
|
Uỷ ban của tổng thống Mỹ do Leonard Woodcock dẫn đầu sang thăm Việt Nam.
|
30.04
|
Polpot bắt đầu chiến tranh biên giới chống ta.
|
03-04.05
|
Vòng 1 đàm phán Việt Nam – Mỹ tại Paris về bình thường hoá quan hệ hai
nước: Mỹ đề nghị lập ngay quan hệ ở cấp đại sứ, trao đổi sứ quán có
quan hệ lãnh sự; Mỹ không cản Việt Nam vào LHQ; Mỹ có khó khăn về mặt
pháp luật nên không thực hiện Điều 21 được mà hứa sẽ thực hiện khi có
quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo.
|
02-03.06
|
Vòng 2 đàm phán Việt – Mỹ tại Paris. Mỹ nêu lại các đề nghị đã nói ở vòng 1.
|
19-20.12
|
Vòng 3 đàm phán Việt Nam – Mỹ tại Paris, Mỹ đề nghị
nếu hai bên chưa lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng
quyền lợi (Interest Section), nhưng như thế thì chưa bỏ cấm vận được.
Song ta vẫn giữ lập trường “cả gói” 3 vấn đề: quan hệ ngoại giao, bồi
thường và MIA.
|
-tháng 12
|
Liên Xô đưa quân vào Afghanistan – đỉnh cao của quá trình Liên Xô bành trướng, cả thế giới bên ngoài.
|
31.12
|
Chính quyền Polpot đơn phương cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
|
1978
|
|
08.01
|
Z.Brezinski: Điều lý thú là đây là trường hợp đầu
tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác (proxy war) giữa Liên
Xô và Trung Quốc, Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và Campuchia được Trung
Quốc ủng hộ.
|
05.05
|
Phó tổng thống Mỹ W.Mondale phát biểu khi đi thăm 5 nước ASEAN: “Mỹ sẽ đẩy mạnh việc bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc vì nó giữ thế ổn định khu vực: Chính sách của Trung Quốc ở
Đông Nam Á về một số mặt là song hành với Mỹ. Mỹ đã đưa ra đề nghị hợp
lý với Việt Nam và vẫn giữ lập trường thiết lập quan hệ mà không có điều
kiện tiên quyết. Họ vẫn giữ lập trường là Mỹ trước hết phải cam kết
viện trợ. Nhân dân, Quốc hội và chính quyền Mỹ không cho phép làm điều
đó.”
|
11.05
|
R.Oakley, trợ lý ngoại trưởng Mỹ: “Việt Nam, với 50
triệu dân, là quốc gia cộng sản lớn thứ 3 trên thế giới và mạnh nhất về
quân sự ở Đông Nam Á. Thái độ Việt Nam với các nước khác là quan trọng
trong các thập niên tới. Quan hệ ngoại giao và sự có mặt của Mỹ ở Hà Nội
có thể phục vụ lợi ích bạn bè Mỹ ở châu Á cũng như lợi ích của Mỹ và
Việt Nam.”
|
19.05
|
Đặng Tiểu Bình tuyên bố: “Trung Quốc là NATO phương
Đông” (có công giữ 40 sư đoàn Liên xô tại biên giới Xô-Trung), “Việt Nam
là Cuba phương Đông.”
|
29.06
|
Việt Nam tham gia khối COMEON.
|
05.07
|
Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền nói tại Tokyo: Việt Nam sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với Mỹ không có điều kiện tiên quyết.
|
20.05 (7?)
|
Brezinski cố vấn an ninh của tổng thống Mỹ đi thăm Trung Quốc.
|
27.07
|
Nghị quyết TƯ.09 (khoá IV): Trung Quốc là kẻ thù trực
tiếp và nguy hiểm nhất. Mỹ là kẻ thù cơ bản và lâu dài, quyết tâm đánh
đổ chế độ diệt chủng Polpot.
|
21.08
|
Đoàn 7 hạ nghị sĩ Mỹ do G.V.Montgomery sang Việt Nam về vấn đề MIA.
|
22-27.09
|
Vòng 1 đàm phán Việt Nam – Mỹ (Nguyễn Cơ Thạch –
R.Holbrooke) tại New york. Ta chấp nhận đề nghị của Mỹ đưa ra tháng
5.77, tức là bình thường hoá quan hệ không điều kiện. Việc ta chuyển đổi lập trường quá muộn nên không đem lại kết quả.
Holbrooke nói: Mỹ coi trọng châu Á lo sợ việc Liên Xô đã cản trở Cam Ranh.
|
01.10
|
Việt Nam tuyên bố bác đề nghị của Polpot ngày
29.9.98, đòi Campuchia ngừng bắn và rút khỏi biên giới trước rồi mới có
thể bắt đầu thương lượng.
|
03.11
|
Việt Nam và Liên Xô ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác.
|
30.11
|
R. Oakley gặp Trần Quang Cơ tại Nữu ước nói: Mỹ không
thay đổi lập trường bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nhưng phải
chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề Campuchia, hiệp ước Việt – Xô và vấn đề
người di tản Việt Nam.
|
15.12
|
Trung Quốc và Mỹ ra thông cáo chung chínn thức công nhận nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1.1.79.
|
16.12
|
M.Mansfield đại sứ Mỹ ở Nhật: “chỉ sau khi những khó
khăn giữa Trung Quốc và Việt Nam được giải quyết mới có lý do chính đáng
để hy vọng giaỉ quyết quan hệ ngoại giao Mỹ – Việt Nam.”
|
1979
|
|
07.01
|
Ta giúp bạn đánh đuổi Polpot và giải phóng PhnomPenh.
|
11.01
|
Thành lập nước CHND Campuchia.
|
29.01 – 04.02
|
Đặng Tiểu Bình đi thăm chính thức Mỹ, Hội đàm J. Carter – Đặng
|
16.02
|
Carter nêu 6 nguyên tắc sử xự khi Trung Quốc xâm lược
Việt Nam: không can thiệp trực tiếp, khuyến khích các bên kiềm chế,
Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam;
xung đột không đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ; không vì Việt Nam xâm
lược Campuchia mà đặt lại vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc;
quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe doạ.
|
17.02
|
Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. “Dạy cho Việt Nam một bài học” (lời Đặng Tiểu bình).
|
17.02
|
Bộ ngoại giao Mỹ ra tuyên bố phản đối cả 2 cuộc xâm
lược (Việt Nam vào Campuchia, Trung Quốc vào Việt Nam) và kêu gọi 2 bên
rút quân ngay.
|
18.02
|
Chính phủ Liên Xô ra tuyên bố phản đối Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
|
19.02
|
Ký hiệp ước hoà bình, Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam – Campuchia tại PhnomPenh.
|
Cuối tháng 2
|
Đặng nói với các nhà báo ở Bắc Kinh: “Chúng tôi
có thể dung thứ việc Liên Xô có ở Việt Nam 70% ảnh hưởng, miễn là 30%
còn lại dành cho Trung Quốc”.
|
05.03
|
Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam.
|
Tháng 3
|
Trung Quốc tuyên bố huỷ Hiệp ước Hữu nghị, đồng
minh tương trợ Trung – Xô ký 15.2.1950 giữa Chu Ân Lai và Krourchev dịp
Mao thăm Liên Xô.
|
Tháng 4
|
Đàm phán vòng 1 Việt Nam – Trung Quốc tại Hà Nội
|
Tháng 4
|
L. Breinev làm TBT. Đại hội ĐCS Liên Xô thứ 26
|
07.10
|
Sihanouk gửi 2 thư và 1 điện (ngày 7, 23/10 và 11/11). Ta không trả lời.
|
Tháng 10
|
Bộ Ngoại Giao phát hành cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”.
|
10.12
|
LHQ quyết định vẫn để Khmer đỏ giữ ghế của Campuchia tại LHQ.
|
1980
|
|
05.01
|
Hội nghị ngoại trưởng 3 nước Việt Nam – Lào –
Campuchia lần thứ 1 tại PhnomPenh. Đàm phán vòng 2 Việt Nam – Trung Quốc
tại Bắc Kinh. Không kết quả. Trung Quốc cắt cầu đàm phán. Từ đó đến
cuối năm 1988, ta nhiều lần gửi công hàm hoặc thư đề nghị nối lại đàm
phán, song Trung Quốc đều bác bỏ.
|
29.7
|
Đại sứ Mỹ ở Thái Abramowitz: Mỹ không bao giờ công
nhận chế độ Polpot; tuy nhiên gạt Polpot ra khỏi LHQ chỉ càng làm tăng
vị thế của Việt Nam. Quan điểm của Mỹ và Trung Quốc về Campuchia có khác
nhau. Mỹ nhìn vấn đề về mặt chiến lược, đặc biệt lo ngại biên giới
Campuchia – Thái Lan.
|
1981
|
|
19.01
|
Tổng thống mới R.Reagan: Quan hệ Mỹ – Trung dưới thời Carter là không có lợi. Mỹ phải trả giá.
|
19.02
|
Đại sứ Mỹ ở Thái Abramowitz trao ta bản ghi nhớ: Đáng
tiếc Việt Nam, Liên Xô đã phá vỡ ổn định, ngạc nhiên việc Việt Nam cho
Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh: không hài lòng việc giải quyết vấn đề MIA
trong 2 năm rưỡi qua.
|
18.05
|
Nghị quyết 39 BCT: đấu tranh chống chủ nghĩa Mao trên
mọi hình thái của nó; chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn;
liên minh và hợp tác toàn diện với Liên Xô.
|
13.07
|
Hội nghị quốc tế về Campuchia ở Nữu ước. Ngoại trưởng Mỹ A.Haig nói Mỹ không có ý định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam còn đang chiếm đóng Campuchia, làm mất ổn định Đông Nam Á.
|
12.12
|
Đặng Tiểu Bình tuyên bố với nghị sĩ Italia
Colombo: “Cả Mỹ và Liên Xô đều là những tên bá quyền”. Từ đó Trung Quốc
chuyển từ “chống bá quyền Liên Xô” sang “chống bá quyền” của “hai siêu”.
|
1982
|
|
14.01
|
Sứ quán Mỹ ở Bangkok gửi message cho ta qua Lê Văn
Hoá: Mỹ muốn một giải pháp chính trị về Campuchia. Mỹ không nhấn việc
đòi Việt Nam rút quân ngay, rút hết mà chỉ đàm phán rút một phần và có 1
lịch rút quân. Một nước Việt Nam độc lập với Liên Xô và Trung Quốc là phù hợp với lợi ích của Mỹ. Muốn biết ý kiến Việt Nam về lực lượng giữ gìn hoà bình của LHQ.
|
16-17.02
|
Hội nghị 3 ngoại trưởng Việt Nam – Lào – Campuchia lần thứ 5 tại Vientiane.
|
24.03
|
Brejnev tuyên bố ở Taskent: Liên Xô chưa hề phủ nhận
chế độ xã hội chủ nghĩa đang tồn tại ở Trung Quốc. Mong muốn cải thiện
quan hệ với Trung Quốc.
|
07.07
|
Hội nghị 3 ngoại trưởng Việt Nam – Lào – Campuchia
lần thứ 6 tại TP. Hồ Chí Minh tuyên bố: Việt Nam và Campuchia thoả thuận
đi bước trước, quyết định sẽ rút một số quân Việt Nam khỏi Campuchia
trong tháng 7.82 và có thể xem xét rút thêm căn cứ vào tình hình biên
giới Campuchia – Thái và sự đáp ứng của Thái Lan.
|
02.10
|
Đàm phán Xô – Trung lần thứ nhất. Trung Quốc đưa
ra 5 điểm về Campuchia và quan hệ Trung Quốc – Việt Nam: Việt Nam tuyên
bố rút quân vô điều kiện khỏi Campuchia; nếu Việt Nam quyết định rút hết
quân khỏi Campuchia thì sau đợt rút quân đầu, Trung Quốc sẵn sàng đàm
phán với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ.
|
?.10
|
R.Childress, cố vấn chính trị–quân sự Hội đồng An
ninh Quốc gia Mỹ nói với Nguyễn Cơ Thạch: đề nghị đoàn chuyên viên cấp
cao nhất vào Việt Nam để thảo luận vấn đề MIA. Mỹ không muốn Việt Nam
rút quân Campuchia để Polpot quay trở lại.
|
10.11
|
Brejnev chết. Trung Quốc cử ngoại trưởng Hoàng
Hoa sang viếng. Khi đi Đặng dặn: phải khéo léo nói quan hệ hai nước xấu
đi từ sau năm 50 để chỉ Kroutchev, từ sau năm 65 xấu đến mức nghiêm
trọng để chỉ Brejnev; tránh nói tên.
|
1983
|
|
23.02
|
Hội nghị cấp cao Việt Nam – Lào – Campuchia họp ở
Viêng chăn. Tuyên bố của Việt Nam và Campuchia: hàng năm sẽ rút một số
quân Việt Nam khỏi Campuchia; tất cả quân tình nguyện Việt Nam sẽ rút
hết về nước khi mối đe doạ đối với CHND Campuchia chấm dứt.
|
01.03
|
Đàm phán Xô – Trung lần thứ 2. Trung Quốc nêu
việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia là 1 trong 3 trở ngại cho bình thường
hoá quan hệ Trung – Xô.
|
01.03
|
Bộ Ngoại Giao Trung Quốc: Việt Nam rút đơn vị đầu tiên khỏi Campuchia, Trung Quốc sẽ nối lại đàm phán.
|
12.04
|
Hội nghị bất thường 3 ngoại trưởng Việt Nam – Lào –
Campuchia tại PhnomPenh tuyên bố rút quân Việt Nam lần thứ 2 vào tháng
5.83. Rút 1 binh đoàn.
|
02.05
|
Lễ tiễn quân tình nguyện Việt Nam rút đợt 2.
|
19-20.07
|
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam – Lào – Campuchia lần
thứ 7 tại PhnomPenh khẳng định: quân tình nguyện Việt Nam sẽ được rút
hết khỏi Campuchia khi Trung Quốc chấm dứt đe doạ.
|
1984
|
|
28-29.04
|
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam – Lào – Campuchia lần thứ 8 tại Vientiane.
|
Tháng 4
|
Chiến dịch mùa khô đánh vào các Khmer đỏ trên đường biên giới Campuchia – Thái Lan.
|
21-23.06
|
Đợt rút quân thứ 3 của quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
|
1985
|
|
Liên Xô: Gorbachov lên, bắt đầu điều chỉnh chính
sách đối nội, ngoại. Nhiều lần nói mong muốn cải thiện, quan hệ Xô –
Trung, song không đả động đến “3 trở ngại”, đặc biệt là việc rút quân
Việt Nam khỏi Campuchia.
|
|
08.01
|
Nguyễn Cơ Thạch thư cho Ngô Học Khiêm đề nghị nối lại đàm phán.
|
28-29.01
|
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam – Lào – Campuchia lần
thứ 10 tại TP. Hồ Chí Minh tuyên bố: quân đội Việt Nam sẽ tiếp tục rút
dần hàng năm và sẽ rút hết khỏi Campuchia vào năm 1990.
|
21.01
|
Ngô Học Khiêm thư trả lời: sau khi Việt Nam công khai
cam kết và thực hiện rút quân khỏi Campuchia thì đàm phán mới có ý
nghĩa thực tế.
|
23.01
|
Ngoại trưởng Trung Quốc Ngô Học Khiêm đi các nước
Đông Nam Á. Khi đến Singapore nói: “Trung Quốc sẽ “dạy cho Việt Nam bài
học thứ hai”.
|
02.04
|
Đợt rút quân thứ 4 của Việt Nam khỏi Campuchia.
|
15.05
|
Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Armacost: Về vấn đề
Campuchia, Mỹ sẽ để ASEAN, Trung Quốc đi trước, Mỹ muốn dùng vấn đề
Campuchia để ngăn Trung Quốc và Liên Xô cải thiện quan hệ.
|
1986
|
|
23-24.01
|
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam – Lào – Campuchia lần thứ 12 tại PhnomPenh.
|
07-10.04
|
Đàm phán Xô – Trung vòng 8 tại Matxcơva, Trung
Quốc vẫn nêu “3 trở ngại”, Liên Xô đề nghị gặp cấp cao (Gorbachov –
Đặng). Trung Quốc từ chối.
|
28.05
|
Đợt rút quân tình nguyện Việt Nam thứ 5 khỏi Campuchia.
|
08.07
|
Nghị quyết 32 BCT: chuyển sang giai đoạn đấu tranh
mới dưới hình thức cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ; giải
quyết hoà bình vấn đề Campuchia.
|
28.07
|
Diễn văn của Gorbachov ở Vladivodstock nêu những
nét lớn của chính sách đối ngoại mới của Liên Xô đối với châu Á – Thái
Bình Dương: xích dần lại với Trung Quốc, giải quyết “3 trở ngại” để bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc (rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt
xung đột biên giới Xô – Trung, giải quyết vấn đề Campuchia). Với Mỹ,
Liên Xô có thể có “cử chỉ đáp ứng” (responsive gesture) về vịnh Cam Ranh
nếu Mỹ rút các căn cứ quân sự ở Philippin.
|
05-15.10
|
Vòng 9 đàm phán Xô – Trung tại Bắc Kinh. 70% thời gian bàn vấn đề Campuchia.
|
19.10
|
Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan.
|
Tháng 12
|
Đại hội VI. Nguyễn Văn Linh được bầu làm TBT. Đỗ Mười
làm thủ tướng. Sửa Lời nói đầu của Điều lệ Đảng, xoá chỗ nói về Trung
Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”.
|
1987
|
|
07.02
|
Vòng 10 đàm phán Xô – Trung tại Matxcơva. Trung
Quốc lại nêu “3 trở ngại” cho việc bình thường hoá quan hệ Trung – Xô,
trở ngại lớn nhất là việc “Việt Nam xâm lược Campuchia”.
|
Đầu th. 3
|
Ngoại trưởng Liên Xô Schevarnadzé đến PhnomPenh thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia.
|
26.03
|
Bộ Ngoại Giao thành lập CP87 chuyên trách nghiên cứu giải pháp Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
|
19-20.04
|
Lê Đức Thọ gặp Hunxen, Heng Somrin và Chia Xim ở
PhnomPenh, khuyên Campuchia thoả hiệp với diệt chủng Polpot, thực hiện
“giải pháp Đỏ”.
|
08.05
|
Họp BCT về vấn đề Campuchia (sau khi Lê Đức Thọ đi PhnomPenh, trước khi TBT Linh đi Liên Xô.
|
20.05
|
Bộ Ngoại giao kiến nghị BCT sửa Lời nói đầu của Hiến pháp chỗ nói về Trung Quốc (đến 27.8.88 mới thực hiện).
|
10.06
|
Phó tổng thư ký LHQ Ahmed chuyển tới ta 4 điểm của Đặng Tiểu Bình.
|
17.06
|
Hunxen (đi thăm Lào) nói với Ngoại trưởng Lào Phun:
muốn liên hiệp với phái Polpot không có Polpot hơn là với Sihanouk với
lý lẽ là bọn Polpot có lực lượng nhưng không có thế chính trị, còn
Sihanouk ngược lại không có lực lượng nhưng có thế chính trị.
|
26.06
|
Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc chuyển thông
điệp miệng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi lãnh đạo Trung Quốc đề nghị
mở đàm phán bí mật hai nước.
|
29.07
|
Thông cáo chung Việt Nam – Inđônêxia sau cuộc gặp
Nguyễn Cơ Thạch – Mochtar tại TP. HCM. Thoả thuận dùng hình thức
“cocktail party” để các bên liên quan gặp nhau bàn giải pháp Campuchia.
|
22.08
|
Thư của Ngô Học Khiêm gửi Nguyễn Cơ Thạch nói Trung
Quốc chưa thể trả lời thông điệp của ta vì Trung Quốc không muốn chấp
nhận việc đã rồi ở Campuchia.
|
27.08
|
Chính phủ CHND Campuchia công bố chính sách 5 điểm về hoà hợp dân tộc.
|
02.10
|
Thông điệp miệng của ta nhờ Liên Xô chuyển cho Trung Quốc nhân cuộc gặp vòng 11 Liên Xô – Trung Quốc tại Mạctưkhoa ngày 6.10.
|
06.10
|
Đàm phán vòng 11 Xô – Trung tại Bắc Kinh. Đưa công khai việc bàn vấn đề Campuchia vào thông cáo báo chí.
|
29.11
|
Đợt rút quân thứ 6 của quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
|
12.12
|
Hội đàm Hunxen – Sihanouk lần thứ 1 tại
Fère-en-Taidenois (Pháp). Thông cáo chung thoả thuận: giải quyết xung
đột Campuchia bằng biện pháp chính trị; vấn đề Campuchia do nhân dân
Campuchia giải quyết; triệu tập Hội nghị quốc tế để bảo đảm thoả thuận
giữa các bên Campuchia. Gặp lại vòng 2 ở Paris và vòng 3 ở Bình Nhưỡng.
|
22.12
|
Việt Nam và Campuchia tán thành gợi ý của Liên Xô để
Liên Xô gửi thông điệp cho ngoại trưởng Trung Quốc đề nghị Liên Xô cùng
Trung Quốc dàn xếp một cuộc gặp giữa CHND Campuchia và Khmer Đỏ, Trung
Quốc không đáp ứng.
|
30.12
|
BCT quyết định đổi mới quan hệ giữa ta với Lào và
Campuchia, rút chuyên gia, cố vấn ta ở Lào và Campuchia giải tán đoàn
chuyên gia Việt Nam ở Campuchia.
|
1988
|
|
20-22.01
|
Vòng 2 Hunxen – Sihanouk tại Paris. Không có thông
cáo chung. Hai bên nhất trí: chế độ chính trị ở Campuchia do nhân dân
Campuchia quyết định qua tổng tuyển cử có giám sát quốc tế; triệu tập
hội nghị quốc tế về Campuchia theo kiểu Hội nghị Genève 1954 về Đông
Dương.
|
20-29.01
|
Cuba, Angola và trợ lý ngoại trưởng Mỹ họp ở Luanda đã thoả thuận việc rút toàn bộ quân Cuba khỏi Angola.
|
01.02
|
Thư Sihanouk gửi thủ tướng Phạm Văn Đồng: Mối quan
tâm luôn luôn giành cho việc khôi phục quan hệ hữu nghị hai nước láng
giềng anh em chúng ta. Như vậy thì giải pháp này sẽ tới gần.
|
08.02
|
Gorbachov tuyên bố quân đội Liên Xô sẽ rút khỏi Afghanistan trong 10 tháng kể từ ngày 15.5.88.
|
14-16.03
|
Đụng độ giữa hải quân Việt Nam và hải quân Trung Quốc ở Trường Sa.
|
20.05
|
Nghị quyết 13 BCT: giải quyết vấn đề Campuchia trước 1990, phấn đấu bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
|
26.05
|
Bộ Ngoại Giao Việt Nam tuyên bố rút quân đợt 7 gồm
50.000 quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện; số quân còn lại sẽ rút sâu
vào 30km tronglãnh thổ Campuchia dọc biên giới Campuchia – Thái Lan.
|
Cuối th.5
|
Họp cấp cao Xô – Mỹ Gorbachov – Reagan tại Matxcơva, có bàn vấn đề Campuchia.
|
13-20.06
|
Đàm phán Xô – Trung tại Matxcơva. Hai bên bàn tỉ
mỉ vấn đề Campuchia. Liên Xô rút ra 5 điểm đồng với Trung Quốc về vấn đề
Campuchia.
|
28.06
|
Quốc hội ra nghị quyết sửa Lời nói đầu của Hiến pháp
(bỏ câu “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”). Chính thức
thông qua ngày 27.8.88.
|
15.07
|
Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc nêu một loạt
biện pháp làm giảm căng thẳng quan hệ hai nước, đề nghị hai bên nối lại
đàm phán ở bất cứ cấp nào.
|
25-26.07
|
Họp JIM 1 (Jakarta Infornal Meeting) tại Bô-go
(Inđônêxia). Cuộc họp tiến hành làm 2 bước: bước đầu chỉ có 4 phái
Campuchia; bước sau có thêm Việt Nam, Lào và 6 nước ASEAN. Mục đích: tạo
một khuôn khổ cho các cuộc thảo luận không chính thức, giữa các bên
liên quan trực tiếp và các nước hữu quan trong việc tìm kiếm một giải
pháp toàn diện, đúng đắn và lâu dài cho vấn đề Campuchia. Cuộc họp đã
khẳng định 2 vấn đề then chốt: việc rút quân Việt Nam trong khuôn khổ
một giải pháp chính trị và việc ngăn chặn sự trở lại của chế độ diệt
chủng Polpot.
|
07.11
|
Vòng 3 Hunxen – Sihanouk tại Paris. Chủ yếu bàn
chương trình nghị sự họp cấp cao 3 bên (Hunxen – Sihanouk – Son San ngày
8.11.88).
|
01.12
|
Hoàn thành đợt rút quân Việt Nam thứ 7 khỏi Campuchia gồm 50.000 quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia.
|
1989
|
|
05.01
|
TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và
Chính phủ Việt Nam đi PhnomPenh dự lễ kỷ niệm 10 năm Quốc khánh CHND
Campuchia.
|
06.01
|
Tuyên bố của Nguyễn Văn Linh và của Heng Somrin là sẽ
rút hết quân Việt Nam khỏi Campuchia trong khuôn khổ một giải pháp
chính trị vào tháng 9.89.
|
09.01
|
Cuba bắt đầu rút quân khỏi Angola theo Hiệp định 12.8.88 giữa Cuba, Angola và Nam Phi.
|
09.01
|
Ngoại trưởng Thái Siddhi Savetsila đến Hà Nội.
|
16-19.01
|
Đàm phán Việt Nam – Trung Quốc cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước.
|
01.02
|
Ngoại trưởng Schevarnadzé đến Bắc Kinh hội đàm với Tiên Kỳ Tham về vấn đề Campuchia.
|
15.02
|
Liên Xô hoàn thành việc rút quân khỏi Afghanistan.
|
11.02
|
Họp BCT bàn việc tách và giải quyết từng bước một mặt
quốc tế và mặt nội bộ của vấn đề Campuchia; triển khai các diễn đàn
Việt – Trung (vòng 2), JIM 2, Việt – Thái, Việt – Mỹ…
|
16-18.02
|
Họp trù bị (Working group) JIM 2. Ta đưa ra 3 bước
rút quân Việt Nam khỏi Campuchia gắn với 3 bước chấm dứt viện trợ quân
sự của nước ngoài cho các bên Campuchia.
|
19-21.02
|
Họp JIM 2. Khẳng định lại 2 vấn đề mấu chốt của giải
pháp cho vấn đề Campuchia là rút quân Việt Nam trong khuôn khổ một giải
pháp chính trị và ngăn ngừa sự quay trở lại chính sách và những hành
động diệt chủng của chế độ Polpot; chấm dứt mọi sự can thiệp của nước
ngoài và sự giúp đỡ về quân sự cho các phái đối lập Khmer.
|
14.03
|
Họp BCT: quyết định rút hết quân khỏi Campuchia vào cuối tháng 9.89; thúc đẩy diễn đàn Hunxen – Sihanouk.
|
22.02-03.03
|
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch thăm Singapo, Malayxia và Thái Lan.
|
23.02
|
Trung Quốc – Inđônêxia bình thường hoá quan hệ.
|
25.02
|
Mỹ – Trung Quốc: Bush đến Bắc Kinh gặp Đặng Tiểu Bình.
|
13.03
|
Xô viết tối cao Liên Xô thông qua nghị quyết lập chức tổng thống Liên Xô Gorbachov được bàn giữ chức vụ này.
|
15.03
|
Tiếp và làm việc với Phó tổng thư ký LHQ Ahmed tại Hà Nội về vấn đề Campuchia.
|
15.04
|
Ba chính phủ Việt Nam, Campuchia, Lào ra tuyên bố: sẽ rút hết quân Việt Nam khỏi Campuchia tháng 9.
|
30.04-01.05
|
Quốc hội Campuchia họp phiên bất thường: sửa hiến
pháp, đổi tên nước CHND Campuchia thành Nhà nước Campuchia (State of
Campuchea), thay quốc kỳ
|
02-03.05
|
Vòng 4 Hunxen-Sihanouk tại Jakarta. Sihanouk hoan
ngênh việc đổi tên nước, quốc kỳ và nhiều sửa đổi quan trọng trong hiến
pháp Campuchia; nói có thể chấp nhận về nước (nhưng khi về tới bangkok,
Sihanouk lại đổi ý. Từ đó, quan hệ Hunxen-Sihanouk rất xấu)
|
08-10.05
|
Đàm phán Việt Nam – Trung Quốc cấp thứ trưởng ở Bắc
Kinh. Trung quốc vẫn đòi ta thoả thuận về nguyên tắc thiết lập chính phủ
liên hiệp 4 bên Campuchia do Sihanouk đứng đầu, đông kết và giảm hoặc
giải thể lực lượng quân sự của các bên Campuchia. Về quan hệ 2 nước, lập
trường của Trung quốc vẫn là giải quyết xong vấn đề Campuchia thì mới
cải thiện được quan hệ với Việt nam; tạm thời chưa tính đến tiếp tục đàm
phán với ta
|
15-16.05
|
Hội đàm cấp cao Trung-Xô (Gorbachev-Đặng) tại Bắc kinh
|
03-04.06
|
Sự kiện Thiên An Môn
|
04.06
|
Ban Lan: Công đoàn Đoàn kết thắng tuyệt đối tổng tuyển cử
|
24.07
|
Vòng 5 Hunxen-Sihanouk tại Paris. Không đạt thoả
thuận nào. Sihanouk bác bỏ thoả thuận của JIM 1 và 2, đòi xoá SOC lập
chính phủ 4 bên Campuchia
|
30.07-30.08
|
Hội nghị quốc tế về Campuchia tại Paris: việc rút
quân Việt nam không còn là vấn đề lớn ở hội nghị mà vấn đề lớn nổi lên
là Diệt chủng. Hội nghị không đạt được một giải pháp chính trị, bế tắc ở
vấn đề chia quyền giữa các bên Campuchia trong thời kỳ quá độ. Song đã
thông qua được tuyên bố chung ghi nhận hội nghị là một bước tiến có ý
nghĩa và sẽ họp lại.
|
07.08
|
Gặp Thứ trưởng Lưu thuật Khanh (Phó trưởng đoàn Trung quốc tại PICC) ở Paris.
|
07.08
|
Hung: Đảng Công nhân XHCN đổi tên; Hung gia nhập EC
|
05.09
|
TBT Nguyễn Văn Linh gặp Heng Somrin ở Hà nội chuyển
lời Liên Xô khuyên PhnomPenh nên nhận chính phủ 4 bên gồm cả Khmer Đỏ,
do Sihanouk làm chủ tịch.
|
21-26-09
|
Đợt rút quân Việt nam cuối cùng khỏi Campuchia
|
30.09
|
Họp BCT nhận định về kết quả hội nghị Paris về Campuchia
|
07.10
|
Kayson Phonvihan thăm chính thức Trung quốc đánh dấu
việc bình thường hoá quan hệ Lào-Trung quốc. Đặng nói với Kayson: Nếu
Việt nam rút triệt để khỏi Campuchia thì sẽ bình thường hoá quan hệ với
Việt nam.
|
06.11
|
Thông điệp miệng của Nguyễn Văn Linh gửi Đặng Tiểu
Bình: mong sớm bình thường hoá quan hệ với Trung quốc; mong sớm có dịp
gặp lại Đặng
|
09.11
|
Đông Đức: Bức tường Berlin sụp đổ, kết thúc chiến tranh Lạnh
|
20.11
|
Tiệp: Biểu tình lớn ở Praha. Husak từ chức. Lập chính phủ mới trong đó đảng Công sản chỉ là thiểu số.
|
21.11
|
5 nước thường trực HĐBA LHQ (P5) chấp nhận phương án
giải quyết vấn đề Campuchia của Úc trong đó đề cao vai trò của LHQ ở
Campuchia trong thời kỳ quá độ.
|
28.11
|
Thư Nguyễn Cơ Thạch gửi Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông
điệp miệng của Nguyễn Văn Linh gửi Đặng và khẳng định lại “ phía Việt
nam sẵn sàng gặp phía Trùn quốc ở cấp Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng Ngoại
giao tại Bắc kinh hoặc Hà nội trong tháng 12.89 để bàn các bước bình
thường hoá quan hệ hai nước”.
|
02.12
|
TBT đảng Cộng sản Mã lai Trần Bình ký thoả thuân
với chính quyền Malaysia và Thái Lan giải tán đảng Cộng sản và rút về
sống ở Hadyai (nam Thái Lan)
|
10.12
|
Bulgaria: Biểu tình lớn ở Sofia
|
12.12
|
Đại sứ Trung quốc thông báo trả lời của Trung quốc
cho thông điệp ngày 6.11 của Nguyễn Văn Linh: đặt điều kiện cho việc mở
lại đàm phán cấp thứ trưởng Ngoại giao với ta (Việt nam phải chấp nhận
sự giám sát của LHQ về việc rút quân khỏi Campuchia; phải chấp nhận việc
thành lập chính phủ 4 bên Campuchia do Sihanouk làm chủ tịch)
|
1990
|
|
09.02
|
Đại sứ Mỹ ở Thái Lan Dônhue chuyển thông điệp của Mý:
gợp ý của Việt Nam về một cuộc gặp gỡ giữa bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch
hoặc Thứ trưởng Trần Quang Cơ với trợ lý Ngoại trưởng Solômn là quá sớm.
Hai bên cần làm rõ các vấn đề cần thảo luận và các khả năng lựa chọn,
sau đó Solômn sẵn sàng gặp phía Việt nam. Mỹ hiện vẫn sẵn sàng tiếp tục
trao đổi qua hai Đại sứ ở Bangkok
|
21.02
|
Vòng 5 Hunxen-Sihanouk tại Bangkok. Thoả thuận về
nguyên tắc: sự có mặt của LHQ ở mức độ thích hợp của Campuchia là cần
thiết; cần thành lập một cơ chế quốc gia tối cao để thực hiện chủ quyền
quốc gia và thống nhất dân tộc của Campuchia.
|
25.02
|
Nicaragua: Mặt trận Sandino thất bại trong tổng tuyển cử
|
26.02-01.03
|
Họp Hội nghị không chính thức về Campuchí (IMC) ở
Jakarta. Ngoài thành phần như JIM (Campuchia, Việt nam, Lào và 6 nước
ASEAN) còn có thêm đại diện Tổng Thư ký LHQ, Pháp và Úc. IMC không đưa
ra được tuyên bố chung vì Khmer Đỏ dùng quyền phủ quyết.
|
08.03
|
Lê Đức Thọ gặp Đinh Nho Liêm và Trần Quang Cơ (và
ngày 10.3 gặp Nguyễn Cơ Thạch) đưa ý kiến: cần có chuyển hướng chiến
lược trong đấu tranh về vấn đề Campuchia; phải giải quyết vấn đề
Campuchia với Trung quốc, không thể gát Khmer Đỏ; không thể chấp nhận
LHQ tổ chức tổng tuyển cử tại Campuchia, lập chính phủ 2 bên 4 phái
Campuchia để tổ chức tổng tuyển cử…
|
10.04
|
Họp BCT bàn đề án đấu tranh ngoại giao về vấn đề
Campuchia trong tình hình thế giới có biến đổi. TBT Nguyễn Văn Linh, Lê
Đức Thọ, Đào Duy Tùng, Đồng Sỹ Nguyên nhấn mạnh cần liên kết với Trung
quốc bảo vệ CNXH vì lợi ích chung của cả 2 bên.
|
16.04
|
Nguyễn Cơ Thạch đi PhnomPenh thuyết phục SOC mềm dẻo
trong vấn đề diệt chủng, chấp nhận Khmer Đỏ tham gia chính quyền liên
hiệp trong thời kỳ quá độ…
|
30.04
|
TBT Nguyễn Văn Linh nói tại Tp HCM nhân dịp kỷ niệm 15 năm giải phóng Sài gòn:
- Nên quên cuộc chiến tranh đi mặc dù đã có biến cố lớn trong quá khứ.
- Việt nam cảm thấy có tình hữu nghị với nhân dân Mỹ.
- Tôi muốn thấy bình thường hoá quan hệ Việt-Mỹ tuy đó là một tiến trình lâu dài
|
03-08.05
|
Vòng 3 đàm phán Việt – Trung cấp thứ trưởng ở Bắc
Kinh. Trung quốc nói roc ý họ về các vấn đề thuộc mặt nội bộ trong giải
pháp Campuchia và đòi ta tán thành: SNC nên là một cơ cấu có tính chất
chính quyền lâm thời, có chức năng lập pháp và hành chính; quân đội các
bên Campuchia nếu chưa giải giáp thì tập kết vào một số điểm nhất định
và giảm quân.
|
20-21.05
|
Họp 3 TBT Việt-Lào-Campuchia tại Hà nội nhân kỷ niệm
100 năm ngày sinh Hồ chủ tịch. Quyết định cần thực hiện “Giải pháp Đỏ”
để giải quyết vấn đề Campuchia.
|
04-05.06
|
Hunxen và Sihanouk đại diện cho 2 chính phủ Campuchía
họp tại Tokyo. Ký tuyên bố chung thoả thuận lập SNC với số thành viên 2
bên bằng nhau (6+6) tượng trưng cho chủ quyền quốc gia và thống nhất
dân tộc Campuchia
|
05.06
|
Lần đầu TBT Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung quốc Trương Đức Duy
|
06.06
|
Bộ trưởng quốc phòng Lê Đức Anh tiếp và mời cơm thân mật Đại sứ Trung quốc
|
11-13.06
|
Vòng 4 đàm phán Việt – Trung (Trần Quang Cơ – Từ Đôn
Tín). Ta không chấp nhận việc can thiệp vào vấn đề nội bộ Campuchia như
Trung quốc đề nghị. Đàm phán không kết quả
|
13.06
|
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tiếp Từ Đôn Tín. Giọng điệu cao ngạo của Từ bị Nguyễn Cơ Thạch phê phán mạnh.
|
19.06
|
BCT họp đánh giá vòng 4 đàm phán Việt – Trung (vắng mặt TBT Nguyễn Văn Linh)
|
25.06
|
Đại sứ Trương Đức Duy gặp Thứ trưởng Trần Quang Cơ chuyển thông điệp của Lãnh đạo Trung quốc (có sửa lại) gửi lãnh đạo Việt nam
|
16-17.07
|
Họp P5 về vấn đề Campuchia tại Paris
|
18.07
|
Ngoại trưởng Mỹ Baker tuyên bố chính sách mới của Mỹ
về vấn đề Campuchia: Mỹ thừa nhận Việt nam đã rút quân khỏi Campuchia;
chính quyền PhnomPenh hiện là lực lượng chủ yếu có khả năng ngăn Khmer
Đỏ trở lại cầm quyền. Vì vậy, Mỹ quyết định rút bỏ việc công nhận chính
phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ (của 3 phái) tại LHQ; sẵn sàng thảo luận
với Việt nam và SOC để thúc đẩy giải pháp cho vấn đề Campuchia.
|
06.08
|
Đối thoại Việt-Mỹ vòng 1 (Trịnh Xuân Lãng-Kenenth
Quinn) tại Nữu ước về vấn đề Campuchia và bình thường hoá quan hệ
Việt-Mỹ. Mý yêu cầu ta: cam kết chấp thuận và thúc đẩy Campuchia chấp
nhận văn kiện khung P5; tuyên bố hoan ngênh LHQ kiểm chứng rút nhân viên
quân sự còn lại ở Campuchia; cho biết ý kiến về SNC và vai trò của LHQ ở
Campuchia
|
12.08
|
BCT họp bàn vấn đề Campuchia. TBT Nguyễn Văn Linh kết
luận: Những vấn đề tồn tại hiện nay thuộc nội bộ và chủ quyền của
Campuchia phải do các đồng chi Campuchia tự quyết định. Việt nam tôn
trọng những quyết định của các đồng chi Campuchia về những vấn đề này.
|
12.08
|
Thủ tướng Lý Bằng tuyên bố khi đến thăm Singapore: Hy
vọng sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt nam và hai bên sẽ thảo luận
các vấn đề khác như tranh chấp Trường sa…
|
13.08
|
Thứ trưởng Trần Quang Cơ tiếp Đại sứ Trung quốc biểu
thị hoan ngênh tuyên bố của Lý Bằng ở Singapore, nhắc lại mong muốn sớm
có gặp cấp cao hai bên.
|
27-28.08
|
Họp P5 lần thứ 6 về Campuchia đi đến thoả thuận:
những dàn xếp quân sự trong thời kỳ quá độ ở Campuchia; tuyển cử dưới sự
bảo trợ của LHQ; bảo vệ nhân quyền; vấn đề bảo đảm quốc tế. Hoàn thành
toàn bộ 5 văn kiện khung về giải pháp Campuchia
|
29.08
|
Đại sứ Trung quốc gặp Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười
chuyển lời của Giang Trach Dân và Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, thủ
tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang hội đàm bí mật với lãnh đạo
Trung quốc tại Thành Đô vào ngày 3.9.90
|
30.08
|
Họp BCT bàn về gặp cấp cao Trung quốc tại Thành đô
|
31.08
|
Đối thoại Việt-Mỹ vòng 2 tại Nữu ước. Mỹ đề nghị Việt
nam và PhnomPenh chấp nhận khung giải pháp Campuchia của P5, đề nghị
SOC đi họp ở Jakarta để lập SNC trên cơ sở thoả thuận của P5. Mỹ coi đây
là điều kiện để Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt nam và để Mỹ gặp
Hunxen
|
01.09
|
Xô – Trung họp cấp Ngoại trưởng tại Cáp Nhĩ Tân bàn về vấn đề Campuchia
|
03-04.09
|
Cuộc gặp cấp cao Trung –Việt tại Thành đô (thủ phủ
tỉnh Tứ Xuyên). Nguyễn Văn Linh chấp nhận công thức lập SNC của Trung
quốc (6+2+2+2+1 và Sihanouk làm chủ tịch)
|
05.09
|
Nguyễn Văn Linh đi PhnomPenh thông báo lãnh đạo
Campuchia về cuộc gặp Thành đô, thuyết phục PhnomPenh nhận công thức lập
SNC của Trung quốc. Campuchia phản đối.
|
07.09
|
Ngoại trưởng Mỹ thông báo Mý quyết định mở đối thoại trực tiếp với PhnomPenh
|
10.09
|
BCT cử Trần Quang Cơ đi Jakarta theo dõi cuộc họp của
các bên Campuchia bàn về việc thành lập SNC, dưới sự chủ trì của Pháp
và Indonesia – 2 đồng chủ tịch PICC. Các bên Campuchia ra tuyên bố chung
“chấp nhận toàn bộ văn kiện khung của P5 làm cơ sở cho việc giải quyết
xung đột Campuchia”, thành lập SNC.
|
10.09
|
Phó trợ lý Ngoại trưởng Mý K. Quinn thông báo: Mỹ
quyết định nói chuyện với trưởng đoàn ta tại Đại Hội đồng LHQ về bình
thường hoá quan hệ giữa hai nước.
|
14-18.09
|
(Trần Quang Cơ) đi Bangkok để theo dõi tiếp cuộc họp của các bên Campuchia giải quyết nốt vấn đề chủ tịch SNC.
|
17.09
|
Các bên Campuchia họp tại Bangkok để hoàn tất việc
lập SNC. Cuộc họp thất bại do không nhất trí trong việc cử đoàn đại biểu
SNC đi dự Đại Hội đồng LHQ và nhất là do SOC (Hunxen) không chấp nhận
việc cử Sihanouk làm chủ tịch và thành viên thứ 13 của SNC.
|
20.09
|
HĐBA LHQ thông qua nghị quyết 608 ghi nhận SNC đại diện cho Campuchia về mặt đối ngoại và giữ ghế của Campuchia tại LHQ.
|
24.09
|
Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp sang Trung quốc dự lễ
khai mạc ASIAD. Thủ tướng Lý Bằng tiếp, nói về quan hệ 2 nước, nhận xét
Trần Quang Cơ là “nhân tố tiêu cực” trong việc thúc đẩy giải pháp
Campuchia
|
29.09
|
Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker. Mỹ nói
muốn bình thường hoá quan hệ với Việt nam trong khung cảnh một giải pháp
chính trị về Campuchia, đồng thời tốc độ và qui mô bình thường hoá quan
hệ tuỳ thuộc vào tiến bọ trong vấn đề MIA và các vấn đề nhân đạo khác.
|
18.11
|
BCT họp bàn về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện chung P5 và vấn đề chức chủ tịch SNC.
|
26.11
|
P5 và Indonesia họp tại Paris thoả thuận dự thảo Hiệp định Paris về Campuchia
|
21.12
|
Họp SNC tại Paris với sự tham gia của 2 đồng chủ tịch PICC và đại diện Tổng Thư ký LHQ
|
1991
|
|
15-16.01
|
(Trần Quang Cơ) Họp với bộ phận B1 Bộ Ngoại giao Campuchia chuẩn bị cho cuộc họp Uỷ ban phối hợp PICC. Nhận định về Trung quốc
|
16.01
|
Hunxen nói với Trần Quang Cơ: khả năng năm 91 chưa có
giải pháp chính trị. Cuộc gặp Paris vừa qua chỉ là diễn đàn dư luận,
không phải thương lượng. Vì vậy chúng tôi chưa nêu tách mặt nội bộ và
quốc tế.
|
24-25.01
|
Họp BCT ở Tp HCM thảo luận “Đường lối đối ngoại phục
vụ thực hiện mục tiêu chiến lược của nước ta đến năm 2000” do Bộ Ngoại
giao dự thảo và vấn đề Campuchia
|
02.02
|
(Trần Quang Cơ) xin rút khỏi danh sách đề cử TƯ khoá VII. Không được chấp nhận.
|
24.02
|
Nguyễn văn Linh gặp Heng Somrin tại Hà nội, lại
thuyết phục PhnomPenh nhận công thức 6+2+2+2+1 để thúc đẩy chính sách
hoà hợp dân tộc theo ý của Trung quốc trong cuộc gặp Thành đô ngày
3.9.90
|
09.04
|
Đối thoại Việt-Mỹ vòng 5 tại Nữu ước. Trợ lý Ngoại
trưởng R. Solomon đưa ra lộ trình 4 bước gắp quá trình giải quyết vấn đề
Campuchia với các bước cải thiện quan hệ Mỹ-Việt
|
13.04
|
BCT họp nhận định tình hình thế giới và bàn chính
sách đối ngoại. Yêu cầu phối hợp tốt hơn giữa 3 ngành Ngoại giao-Quốc
phòng-An ninh trong ngiên cứu các vấn đề quốc tế.
|
08.05
|
Họp 3 ngành Ngoại giao-Quốc phòng-An ninh nhận định tình hình thế giới
|
15-17.05
|
BCT thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế
giới, việc thực hiện đường lối đối ngoại của đậi hội VI và phương hướng
tới”; tiếp tục đánh giá về cuộc gặp cấp cao với Trung quốc tgáng 9.90
tại thành đô.
|
15-19.05
|
Giang Trạch Dân thăm Liên Xô – Chuyến thăm Liên
Xô đầu tiên của cấp cao nhất Trung quốc trong 34 năm qua. Thông cáo
chung 2 bên nói nhiều đến vấn đề Campuchia
|
02-04.06
|
Họp SNC tại Jakarta. Ngoài các bên Campuchia, có 2
đồng chủ tịch PICC (Pháp và Indonesia), đại diện Tổng Thư ký LHQ.
Sihanouk cũng có mặt với danh nghĩa là khách mời của Suharto. Cuộc gặp
không đạt kết quả gì đáng kể.
|
05.06
|
Hunxen và Sihanouk gặp riêng để thảo luận về chức Chủ
tịch và Phó Chủ tịch SNC, kéo dài ngừng bắn tới khi có tổng tuyển cử,
Sihanouk về PhnomPenh, kêu gọi ngừng viện trợ quân sự nước ngoài cho các
bên Campuchia
|
17-27.06
|
Đại hôi VII Đảng CS Việt nam. Đỗ Mười thay Nguyễn Văn
Linh làm TBT, Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước. Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi BCT
và TƯ
|
09.07
|
|
10.07
|
Đỗ Mười gặp Đại sứ Trung quốc đặt vấn đề cử đặc phái viên sang thông báo lãnh đạo Trung quốc về đại hội VII
|
28.07-02.08
|
Lê Đức Anh và Hồng Hà sang Trung quốc với danh nghĩa
“Đoàn đại diện đặc biệt của TƯ đảng CS Việt nam” để thông báo lãnh đạo
Trung quốc về Đại hội VII đảng CS Việt nam. Cả hai đã gặp Từ Đôn Tín xin
lỗi (về vụ to tiếng với bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch)
|
Tháng 8
|
Quốc hội khoá 8 họp kỳ 9 thông qua danh sách chính phủ mới. Nguyễn Mạnh Cầm nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao thay Nguyễn Cơ Thạch
|
08-10.08
|
Vòng 5 đàm phán Việt – Trung cấp thứ trưởng tại Bắc kinh về bình thường hoá quan hệ.
|
09-14.08
|
Ngoại trưởng mới Nguyễn Mạnh Cầm thăm Trung quốc
|
23.10
|
Hội nghị quốc tế về Campuchia tại Paris. Ký kết hiệp định hoà bình Campuchia
|
05-10.11
|
TBT Đỗ Mười và Thủ tướng Võ văn Kiệt thăm chính thức Trung quốc. Thông cáo chung về bình thường hoá quan hệ hai nước
|
14.11
|
Sihanouk trở về PhnomPenh sau 13 năm lưu vong
|
25.12
|
Gorbachev từ chức. Cờ búa liềm trên nóc điện
Kremli bị hạ xuống thay bằng lá cờ 3 màu của nước Nga đánh dấu việc Liên
bang Xô viết chấm dứt tồn tại
|
1993
|
|
24.11-01.12
|
Hội nghị giữa nhiệm kỳ của BCH TƯ khoá VII. (Trần Quang Cơ) Tự nguyện xin rút khỏi TƯ.
|
Nguồn: Diễn đàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét