Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2011

Bao giờ thì Biển Đông lặng sóng bành trướng ? Posted on 17.6.11 by truongthondlb

Bao giờ thì Biển Đông lặng sóng bành trướng ?

 Nguyễn Nghĩa 650 (danlambao) - Kể từ 9/2009 , khi Trung Quốc gửi lên LHQ tấm bản đồ "đường lưỡi bò" trên Biển Đông , đến nay họ đang đi vào giai đoạn hiện thưc ý đồ bành trướng này.

Nhìn vào bản đồ Biển Đông , ta thấy :

Đường lưỡi bò lấy tâm điểm , hay chính xác hơn điểm hạt nhân là Hoàng sa và Trường sa .

Nếu Hoàng sa và một số đảo Trường sa không thuộc Trung quốc quản lý như hiện nay, thì yêu sách đường lưỡi bò là hoàn toàn vô lý , không có một chút cơ sở pháp lý nào.

Ta hãy trở lại với việc Trung quốc tranh dành Hoàng sa , Trường sa với Việt nam ra sao, để hiểu rõ hơn kế sách mà Trung quốc đang tiến hành .

KẾ HIỂM "VÔ TRUNG SINH HỮU" : TRONG CÁI KHÔNG SINH CÁI CÓ.

Nếu chỉ kể từ thế kỷ thứ 19 đến nay, thì ngay từ năm 1816 Hoàng đế Gia Long Triều Nguyễn đã tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa sau khi triều đại này thành lập năm 1802. Năm 1930 Pháp tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa của An Nam, và chủ quyền đối với Trường Sa cho Pháp. Năm 1933 Pháp chính thức chiếm cứ một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa, trong đó bao gồm đảo Trường Sa, Ba Bình, Thị Tứ và Loại Ta.

Năm 1939, Phát xít Nhật chiếm toàn bộ Hoàng sa và Trường sa từ tay Pháp và Việt nam , biến 2 quần đảo ấy thành căn cứ quân sự trên Biển Đông , đối chọi với Hoa kỳ .

Năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật đã rút khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đặt các đảo vào tình trạng ‘không có người ở’ .

Năm 1946, lợi dụng Pháp đang gặp khó khăn trong việc chiếm lại Việt nam , Trung quốc cho quân lập sự hiện diện trên đảo Phú Lâm ( ở phía Đông của quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (Trường Sa).

 Bia chủ quyền trên đảo Hoàng Sa

Như vậy mặc dù từ không có gì , Trung quốc đã cố tình bỏ qua chủ quyền của Việt nam, thiết đặt sự hiện diện của mình tại Hoáng sa và Trường sa . Sự hiện diện này là trái với luật pháp quốc tế , xâm phạm chủ quyền của Việt nam . Sau khi đã có mặt trên một số đảo của Hoàng sa và Trường sa , Trung quốc bắt đầu xây dựng cơ sở pháp lý bằng tuyên bố chủ quyền của họ đối với Hoàng sa , Trường sa .

Kế biến không thành có của họ là như vậy .

Do sự nhận thức yếu kém của Việt nam về biển đảo. Do sự mù quáng , cả tin vào chủ nghĩa quốc tế vô sản , Việt nam đã đấu tranh không đủ mạnh cả về việc đưa ra công luận thế giới, cả đến việc cương quyết không chịu lùi một tất đất , tất biển của tổ tiên để lại .

Ngày hôm nay, toàn bộ Hoàng sa đã nằm trong quyền kiểm soát của Trung quốc sau việc dùng vũ lực 1974.

Một số đảo thuộc Trường sa cũng bị Trung quốc chiếm bằng hải chiến 1988.

Trên cơ sở này , Trung quốc dấn tiếp bành trướng ra Biển Đông băng đường chín khúc " lưỡi bò trung hoa ". Đặt Biển Đông vào quyền lợi cốt lõi của Trung quốc , ngụ ý sẽ dùng tất cả biện pháp kể cả vũ lực để bảo vệ "" cốt lõi" ấy. Trung quốc đang gây căng thẳng trên Biển Đông .

Đây cũng là một hình thức hợp pháp hóa cho cái gọi là "có" sau khi được hóa phép từ "không có".

Đường lưỡi bò là hậu quả nghiêm trọng của chính sách cầu hòa, quị lụy của chính phủ cộng sản Việt nam .

Việc để cho đất đai tổ tiên rơi vào tay Trung quốc mà không có đối sách rõ ràng, đã khuyến khích Trung quốc ngang ngược thực hiện kế hoạch bành trướng của họ ra Biển Đông .

Nguy hiểm hơn nữa , Trung quốc vẫn chưa chịu dừng ở vị trí này .

Họ còn muốn nhiều hơn nữa . Muốn chiếm hết cả Biển Đông . Cả vùng biển 200 hải lý tính từ đất liền của Việt nam.

Việc cắt cáp thăm dò dầu khí ngày 26/5/11 của tầu Bình minh 02, cắt cáp của tầu Viking II ngay 9/6/11 tại vùng biển 200 hải lý của VIỆT NAM, việc chính phủ Trung quốc tuyên bố đây là lãnh hải thuộc Trung quốc , đang được các nhà bình luận chính trị Việt nam và thế giới đánh giá là Trung quốc tiếp tục dùng mưu biến không thành có , biến vùng biển của Việt nam thành vùng biển của Trung quốc , biến vùng biển không tranh chấp thành vùng có tranh chấp. Đây là sự kiện chưa hề có trên thế giới . Hành động ngang ngược này của Trung quốc chứng tỏ dã tâm lớn của Trung quốc .

Đây là mưu cũ mà có nội dung mới . Chung qui vẫn chỉ là : cướp của Việt nam , to mồm la làng , dùng sức mạnh lấn lướt ép Việt nam chịu lép . Lâu ngày Việt nam phải thua , phải chịu chấp nhận hiện trạng .

Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia.

Biển Đông ngoài trữ lượng dầu hỏa , khí đốt, còn mang lại nguồn hải sản lớn lao . Thí dụ Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm). Một điều rất quan trọng là vị trí chiến lược của nó trong tranh dành quyền lực của Trung quốc với Hoa kỳ tại Châu á Thái bình dương.

Vì vậy việc hy vọng dùng lẽ phải, dùng luật quốc tế để thảo luận với Trung quốc cơ hồ đòi lại chủ quyền ở Hoàng sa , Trường sa là điều gần như không tưởng .

Vụ cắt cáp ngày 26/5 và 9/6 trong lãnh hải Việt nam là một bước tiến nguy hiểm của Trung quốc trong kế hoạch bành trướng của họ ra Biển Đông . Trong kế hoạch này , họ sẽ đưa tầu sân bay vào hoạt động trên Biển Đông , đưa đe dọa không lực tới gần vùng biển đang tranh chấp .Cũng trong giai đoạn này , Trung quốc sẽ đưa vào Biển Đông dàn khoan khổng lồ có khả năng khoan sâu 12 000 m, để khai thác dầu khí .

Nếu tính từ 1958, khi quốc hội Trung quốc tuyên bố chủ quyền của Trung quốc đối với Hoàng sa, Trường sa, đến 1974, khi Trung quốc dùng hải chiến chiếm Hoàng sa, là 16 năm. Nếu tính từ 9/2009, khi Trung quốc lấp lửng nói về đường lưỡi bò, đến ngày 29/5/11 khi người phát ngôn chính phủ Trung quốc tuyên bố việc tầu hải giám của họ vào sâu 80 hải lý hải phận Việt nam , cắt cáp thăm dò dầu khí, là việc làm bình thường trong lãnh hải Trung quốc, thì thời gian là chưa đến 2 năm .

Trung quốc đang rất cần dầu hỏa . Trung quốc đang bất chấp tất cả . Trung quốc đang " Biến không thành có " : đang biến không tranh chấp thành có tranh chấp. Đang biến vùng biển Việt nam thành vùng biển Trung quốc. Đang biến không có chủ quyền thành có chủ quyền.

Kế sách này do Quỷ cốc tử truyền dậy, có tên gọi là "Vô trung sinh hữu ": trong không biến thành có .

Trung quốc đã áp dụng một cách thành công kế sách này trong đàm phán biên giới trên bộ với Việt nam . Họ đã có kinh nghiệm trong đấu tranh dành phần lợi cho mình . Quả vậy , ta thấy Ải Mục nam quan , nơi Nguyễn Trãi gạt giọt lệ thương cha Nguyễn Phi Khanh , quay đầu , lấy kế sách đuổi giặc Minh làm "hiếu" , đã nằm trong đất Trung quốc . Thác Bản giốc, một phong cảnh tuyệt đẹp của rừng núi Việt nam, đã mất một nửa với lũ người tham lam này . Cao điểm 1509 Hà giang, năm 1984 còn chứng kiến sự hi sinh anh hùng của hơn 3770 chàng trai Việt, đã trở thành nơi chụp ảnh khoe khoang của bọn lính Trung quốc …

Ngày nay, họ định dựng chuyện hải phận 200 hải lý của Việt nam là của Trung quốc.

Họ định nói nhiều lần thì thế giới phải quen, Hoa kỳ phải quen. Sau đó, khi thơi cơ thuận lợi, sẽ tạo cớ để dùng vũ lực để đè bẹp Việt nam . Nếu Việt nam hèn kém , rệu rạo, không đủ sức chống lại thì vùng biển này sẽ là của Trung quốc . Nếu Việt nam có sức chống lại , nhưng đảng cộng sản Việt nam sợ nhân dân hơn sợ Trung quốc , họ sẽ hối lộ Bộ chính trị ĐCS VN, sẽ đề nghị “chia đôi” , hay “gác chủ quyền , cùng nhau khai thác” .

Đây chính là kế sách “trong không sinh có”, mà Trung quốc đang áp dụng .

Nhưng người việt nam không phải ai ai cũng là những "con cừu" . Thế giới không phải ai ai cũng khờ khạo để Trung quốc qua mặt . Bộ mặt của một anh “hàng xóm to xác nhưng xấu tính “, tham lam, nhỏ mọn, hay dùng mẹo bẩn, tiểu nhân... đã bị cả thế giới vạch trần .

Những sự kiện ngày 26/5/11 và 9/6 /11 đã bộc lộ hết bản chất xấu chơi , bành trướng quyết liệt , bất chấp thủ đoạn của ĐCS Trung quốc .

Đây là cột mốc để ĐCS VN , chính phủ Việt nam từ bỏ hợp tác chiến lược với Trung quốc , từ bỏ đường lối 16 chữ sảo trá , 4 tốt đểu giả , lật lọng , bước một bước mạnh sang cộng đồng các nước dân chủ trên thế giới .

Đây cũng là cột mốc đánh giá sự thất bại của một chính sách cầu hòa , một chính sách ngu muội đặt lợi ích đảng cộng sản việt nam lên trên lợi ích dân tộc Việt nam. Đây là sự xụp đổ của ảo vọng dựa vào các đồng chí Trung quốc , dựa vào tinh thần quốc tế vô sản của đảng cộng sản trung quốc, hòng nắm độc quyền lãnh đạo dân tộc, đất nước Việt nam của đảng cộng sản việt nam .

CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG CỘNG SẢN VIỆT NAM PHẠM VĂN ĐỒNG GỬI THỦ TƯỚNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC CHU ÂN LAI ngày 14 tháng 9 năm 1958.

Đây là lá bài tẩy duy nhất mà Trung quốc có thể dùng để đấu tranh chủ quyền ở Hoàng sa , Trường sa của họ . Cho đến nay , họ chưa công bố được một tài liệu có tính lịch sử nào, có thể chứng minh họ có quyền bàn luận về chủ quyền ở Hoàng sa , Trường sa .

Để bài viết có tính chặt chẽ , tôi xin trích dưới đây 2 văn kiện quan trọng :

1. Tuyên bố cua Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa .

Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc.

2. Trả lời của Thủ tướng Việt nam Phạm Văn Đồng .

Toàn văn :

“Thưa Ðồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Ðồng chí Tổng lý rõ :

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể

Chúng tôi xin kính gởi Ðồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Hà-Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958

Phạm Văn Ðồng (ấn ký)

Thủ tướng Chính phủ

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa

Kính gửi :

Ðồng chí Chu Ân Lai

Tổng lý Quân vụ viện”


Trang mạng BVN ngày 16/06/2011, có đăng bài "Có phải bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là lá bài tẩy trong tình hữu nghị Việt-Trung?" tác giả Đinh Kim Phúc đã phân tích chi tiết nội hàm của bức công hàm của Thủ tướng Việt nam gửi Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai .

Ở đây tôi xin đưa ra những lĩnh hội và ý kiến bản thân về bức Công hàm quan trọng này.

1. Công hàm đề ngày 14/9/1958. Trong công hàm của Thủ tướng Việt nam chỉ rõ là "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc."

Bản Tuyên bố của Trung quốc có 2 điểm chính mà ta phải để ý :

(1) Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý.

(2) Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

Việc Thủ tướng cộng sản Việt nam tán thành Tuyên bố của chính phủ Trung quốc chỉ là một cử chỉ có tính chính trị mà không có tính pháp luật .

Hòang sa , Trường sa lúc này đang thuộc chủ quyền của Việt nam cộng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm đứng đầu .

Vì thế mà Thủ tướng Việt nam không dám đả động một từ nào về Hoàng sa , Trường sa , ông ta chỉ viết :"Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt biển."

Trung quốc không thể coi đây là sự chấp nhận chủ quyền của Trung quốc tại Hoàng sa , Trường sa được .

Công hàm này chỉ có giá trị khi Việt nam chưa thống nhất . Từ 1975 trở lại đây , chính phủ của nước Việt nam thống nhất chưa hề tuyên bố nhất trí với tuyên bố của Phạm Văn Đồng .

Việt nam dân chủ cộng hòa không thể công nhận cho Trung quốc một điều mà bản thân mình không sở hữu : chủ quyền Hoàng sa , Trường sa đang thuộc về quốc gia khác: Việt nam cộng hòa .

Hơn nữa chủ quyền về Biển và đảo quyết không chỉ do một công hàm của Thủ tướng cộng sản quyết định .

Nó phải được một quốc hội Việt nam đại diện cho toàn dân tộc Việt nam quyết định . Ngay cả quốc hội hiện nay do 90% đảng viên đảng cộng sản Việt nam chiếm giữ, cũng không đại diện cho toàn bộ dân tộc Việt nam .
Người Trung quốc đã thừa biết như thế nào là những hiệp định, hiệp ước bất bình đẳng khi Trung quốc yếu, buộc phải ký với những nước mạnh hơn .

Họ không thể sử dụng công hàm ngày 14/9/1958 làm bằng chứng cho rằng chính phủ nước Việt nam đã công nhận chủ quyền của họ ở Hoàng sa , Trường sa .

Những người dân chủ Việt nam tuyên bố rằng : Toàn bộ quần đảo Hoàng sa là của Việt nam . Trung quốc phải trả lại Hoàng sa cho Việt nam. Trung quốc phải trả lại cho Việt nam những hòn đảo thuộc Trường sa mà họ đã dùng vũ lực đánh chiếm .Không những thế , trên bộ , Nhà nước cộng sản Việt nam đã ký hiệp ước bất bình đẳng với Trung quốc , để cho Trung quốc lấn chiếm Ải Mục Nam quan , thác Bản dốc , cao điểm 1509 Hà giang ...Những điểm bất bình đẳng này phải được xét lại trong tương lai dân chủ của Việt nam .

Kết thúc mục này, tôi đính kèm bản đồ "lưỡi bò trung quốc" .



Bạn đọc có thể thấy , nếu Việt nam đòi thành công Hoàng sa ,. Trường sa, thì đó cũng là lúc mộng bành trướng Biển Đông của người trung quốc tan vỡ . Họ sẽ phải quay trở lại, hài lòng với đường cong có thể sẽ nhiều hơn chín đoạn, chạy song song với bờ biển của họ .

Lúc đó cái lưỡi bò ấy sẽ không còn khuấy động được sóng nước Biển Đông nữa . Lúc đó Biển Đông sẽ lặng sóng bành trướng.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO DÂN TỘC CHỐNG LẠI BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC .

Trước hết sự yếu kém của ĐCS VN nằm ở chính học thuyết Quốc tế vô sản, một bộ phận của CN Mác -Lênin. Đảng cộng sản Việt nam không lĩnh hội được bản chất của CN quốc tế vô sản là dương ngọn cờ giai cấp, thông qua viện trợ gọi là vô tư “quốc tế vô sản”, mà các nước cộng sản lớn như Trung quốc , Liên xô khống chế , để lệ thuộc các nước đàn em vào phe cánh của mình .

Vì nhận viện trợ của Trung quốc mà Phạm Văn Đồng phải hạ bút ký Hiệp định Genève, 1954 chia cắt lãnh thổ Việt nam . Điều này chỉ có lợi cho Trung quốc : có một nước Việt nam yếu ớt bị chia cắt bên cạnh biên giới mình an toàn hơn một nước Việt nam thống nhất , hùng cường .

Vì viện trợ quốc tế vô sản mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng không dám mếch lòng Trung quốc trong công hàm ngày 14/5/1958. Đây là cớ để Trung quốc thực hiện các mưu kế " vô trung sinh hữu" đối với Hoàng sa , Trường sa .

Vì viện trợ quốc tế vô sản mà năm 1974 , khi Trung quốc đánh chiếm Hoàng sa từ tay Việt nam cộng hòa , chính phủ cộng sản Miền Bắc Việt nam không một lời phản đối .

Vì viên trợ quốc tế vô sản mà 1975 , quân đội Việt nam nhận được lệnh giải phóng các đảo do VNCH cai quản mà không dám động đến các đảo do Trung quốc đã cướp từ tay chính quyền Sài gòn 1974.

Vì viện trợ của Trung quốc bị bọn Việt nam phản bội mà Trung quốc gây chiến tranh biên giới 1979.

Vì tinh thần giai cấp anh em mà 1988 , khi Trung quốc hải chiến chiếm một số đảo tại Trường sa , Việt nam bỏ qua như không phải đảo biển của tổ tiên để lại .

Từ năm 1990 lại đây , ĐCS VN, chính phủ Việt nam đã hoàn toàn bất lực trước các thủ đoạn nham hiểm của Trung quốc . Sau khi bị mê hoặc bởi 16 chữ và 4 điều tốt , Đảng cộng sản Viẹt nam đã tạo điều kiện cho Trung quốc giăng thiên la địa võng trên tổ quốc yêu quí của chúng ta :

1. Trung quốc cho vay tiền, để làm những công trình có hại cho quốc phòng như Thủy điện Sơn la .Trường hợp xẩy ra chiến tranh với Trung quốc như 1979, thì việc dọa phá sập đập thủy điện này là một đòn cân não khủng khiếp. Bởi vì 9,3 tỷ m3 nước sẽ làm ngập lụt đồng bằng Bắc bộ từ 4m đến 60 m. ...

2. Đưa ô nhiễm môi trường vào Việt nam , thí dụ khai thác bôxit Tây nguyên. Những bể bùn đỏ bôxit khi bị vỡ sẽ gây ô nhiễm trầm trọng cho đồng bằng phía dưới Tây nguyên .

3. Đưa người trung quốc vào các địa bàn có tính chất an ninh chiến lược của Việt nam như Tây nguyên , rừng biên giới …

4. Trung quốc tạo các bẫy nợ nần về kinh tế , bẫy kinh tế Việt nam sa vào, như Dự án đường sắt cao tốc …

5. Trung quốc như tằm ăn rỗi , quyết tâm chinh phục Cămpuchia , Lào nhằm bao bọc Việt nam, cô lập Việt nam về mặt chiến lược . Gần đây nhất là chiến tranh Tây -Nam 1978 của Việt nam . Sự hi sinh của các chí nguyện quân Việt nam tại Lào , Cămpuchia đang trở thành vô nghĩa do sự bất tài chính trị của ĐCS VN .

Trung quốc đang dùng chiêu : trên cao thì Mác -Lênin giai cấp , dưới thấp thì bành trướng Đại Hán . Đảng cộng sản Việt nam đã khoanh tay chịu bất lực trước chiêu thức này, như con ếch nhỏ trước con rắn hổ mang hung tợn.

Các vụ ngày 26/5/11 và 9/6/11 vừa qua đã gây xúc động mạnh mẽ trong tình cảm yêu nước của dân tộc Việt nam . Các cuộc xuống đường tự phát ngày 5/6/11 và 12.6/11 đã bị chính phủ Việt nam đàn áp gián tiếp và trực tiếp. Thí dụ như việc bắt các blogers Người buôn gió , mẹ Nấm , Bùi Chát ...trước ngày 5/6/11, hay dùng lực lượng công an mật trấn áp những người tụ tập bột phát trong ngày 12/6/11.

Đây là một bước đi nguy hiểm của chính phủ cộng sản việc nam .

Việc sử dụng lực lượng mật vụ vào đàn áp những người yêu nước phản đối Trung quốc xâm phạm chủ quyền Việt nam là nuôi dường tinh thần sợ Trung quốc , cầu hòa với Trung quốc .

Các lực lượng an ninh này nếu nắm chính quyền, sẽ: ngoài thì thần phục Trung quốc , trong thì tàn sát người Việt nam yêu nước . Đây sẽ là giai đoạn đẫm máu của dân tộc Việt nam .

Đây chính là sự quay trở lại của chế độ diệt chủng Polpot áp dụng tại Việt nam.

Thử hỏi nếu Nhà Trần bức hại những người thích trên cánh tay hai chữ "SÁT THÁT" , thì liệu họ có lập nên trang sử 3 lần chiến thắng Nguyên - Mông không ?

Sợ nhân dân yêu nước , đặt quyền lợi của một nhóm chóp bu cộng sản lên trên quyền lợi dân tộc ,với đạo đức suy đồi , tham nhũng tràn lan khắp các cấp, Đảng cộng sản Việt nam đã không còn khả năng đoàn kết toàn dân tộc Việt nam chống bành trướng Trung quốc .

SỨC MẠNH CỦA TRUNG QUỐC NẰM Ở ĐÂU ?

Hơn 30 năm liên tục tăng trưởng , kinh tế Trung quốc đã đạt tầm cỡ của một nền kinh tế cỡ thứ 2,3 trên thế giới . Thật ra thì không phải đến bây giờ, mà trong quá khứ , kinh tế Trung quốc luôn là một nền kinh tế lớn trên thế giới.

Ta hãy xem sức mạnh của kinh tế trung quốc hiện đại này nằm ở đâu ?

Câu hỏi này , ai quan tâm đến kinh tế đều trả lời được : Nằm ở khâu xuất khẩu hàng hóa . Bối cảnh toàn cầu hóa phát triển mạnh đã vô hình chung giúp Trung quốc phát triển thành công mô hình xuất khẩu này .

Xuất khẩu trung quốc dưa trên :

a. Lao động công nhân rẻ mạt .

b. Nhà nước Trung quốc can thiệp vào trị giá đồng Nhân dân tệ, giữ cho nó có giá trị hối đoái thấp, làm đòn bẩy cho xuất khẩu .

Sự can thiệp này là trái với qui luật vận động tự nhiên của nền kinh tế,của đồng tiền. Khi kinh tế phát triển, xã hội sản xuất ra nhiều hàng hóa hơn thì kèm theo hiện tượng này là giá trị đồng tiền cũng tăng . Đây là tự nhiên , là bình thường.

Chính phủ Trung quốc đã cố tình giữ giá trị đồng tiền của mình ở mức thấp giả tạo, hòng kích hoạt sự tăng cường của xuất khẩu . Đây là sự cướp thành quả lao động của hàng trăm triệu lao động trung quốc . Chính phủ trung quốc biến sức lao động của người dân trung quốc thành hàng hóa giá rẻ , xuất khẩu , đưa đô la về làm dự trữ chiến lược , phục vụ bành trướng .

Câu hỏi đặt ra là : Việc hàng trăm triệu lao động trung quốc lao động kiệt sức mà không được hưởng thành quả của mình, có dẫn đến bất bình trong xã hội trung quốc, làm đảo lộn các kế hoạch bành trướng của Trung quốc hay không ?

Nói cách khác thì giới hạn sự nhẫn nhục chịu thiệt thòi của lao động trung quốc nằm ở mức độ nào ? Khi nào thì sự bất bình của lao động trung quốc sẽ trở thành một cuộc cách mạng ?

Trả lời câu hỏi này, ta phải trở lại lịch sử Trung quốc . Các chế độ phong kiến Trung quốc đều dùng hình phạt thảm khốc để duy trì chữ "sợ" mà thống trị dân chúng .Như chu di cửu tộc ...Chính phủ cộng sản Trung quốc cũng không ngoại lệ . Vụ đói nhân tạo do các chính sách sai lầm của Mao về kinh tế đã làm gần 40 triệu người trung quốc chết đói từ 1953-1957. Sau đó là tem phiếu với khẩu phần dành cho súc vật. Rồi sáo trôn xã hội trong Cách mạng văn hóa vô sản. Rồi xe tăng tiến vào Thiên an môn 6/1989.

Tất cả các sự kiện này đã đè đầu người lao động trung quốc xuống hàng nô lê hiện đại bởi chữ "sợ". Họ thần phục các ý chỉ của Đảng cộng sản Trung quốc .

Cũng còn một lý do quan trọng nữa là các lãnh đạo cao cấp nhất của Trung quốc còn trong sạch . Tham nhũng chưa đến gần được họ .

Việc đảng trị tất nhiên sẽ đưa đến tham nhũng đại trà . Khi tham nhũng là đa số thì cũng là lúc:

Thượng bất chính thì hạ tắc loạn , như Việt nam hiện nay.

Ngày ấy không xa đâu . Là con người , mức chịu đựng cám dũ của đồng tiền ,của phái nữ ...là có giới hạn .

Hàng trăm vị vua của Trung quốc , có bao nhiêu minh quân ?

Ngày ấy sẽ đến và Trung quốc sẽ rơi vào rối loạn .

Lúc này là lúc Việt nam phải thu lại Hoàng sa , Trường sa về Tổ quốc .

TÌNH HÌNH HIỆN TẠI VÀ ĐỐI PHÓ VỚI BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC .

Các vụ vào sâu lãnh hải Việt nam, cắt cáp của các tầu thăm dò dầu khí ngày 26/5 /11 ngày 9/6/11 là những màn kịch mà Trung quốc cố tình diễn :

1. Để thử phản ứng của chính phủ Việt nam , nhân dân Việt nam .

2. Để thử phản ứng của công luận Asean, thế giới , của Hoa kỳ .

3. Để chuẩn bị dư luận cho hơn 1300 triệu người dân Trung quốc hình ảnh Việt nam xâm phạm chủ quyền lãnh hải Trung quốc .

Sau khi có được kết quả phép thử , họ sẽ điều chỉnh kế hoạch lấn chiếm Biển Đông thích hợp hơn với tình huống hiện tại .

Việt nam phải làm gì trong tình huống này ?

Trước hết , ta bình tâm xét các sự kiện lịch sử liên quan đến dân tộc Việt nam thời cận đại .

+ Cuộc chiến tranh với Pháp , một nước mạnh hơn Việt nam .

+ Cuộc chiến tranh với Hoa kỳ , một nước mạnh gấp bội Việt nam

+ Cuộc chiến tranh tây- nam, Việt nam đưa quân sang Cămpuchia .

+ Cuộc chiến tranh biên giới với Trung quốc, một nước mạnh hơn Việt nam .

Truyền thông Trung quốc đang dựa vào dư âm những sự kiện trên để mô tả với thế giới , với nhân dân trung quốc hình ảnh hiếu chiến , tiểu bá của Việt nam . Họ mô tả Trung quốc như một nạn nhân của Việt nam hiếu chiến .Chính phủ Trung quốc mới đây tuyên bố không dùng vũ lực trong tranh chấp Biển Đông là nhằm mục đích này .Họ không thể không dùng bạo lực, khi bạo lực là con át chủ bài của Trung quốc . Có thể họ sẽ lừa chiêu , cài bẫy để Việt nam trúng kế.

Việt nam không nên rơi vào bẫy này .

Làm cho nhân dân trung quốc hiểu được thực chất sự bá quyền của Trung quốc trong tranh chấp Biển Đông là nhiệm vụ quan trọng của ngoại giao Việt nam .

Để làm việc này , Bộ ngoại giao VN cần ban hành ngay sách trắng về Hoàng sa , Trường sa . Các trang mạng về Hoàng sa , Trường sa cần có thêm tiếng trung quốc .

Trong tương lai gần , Trung quốc sẽ thường xuyên khiêu khích Việt nam như các vụ ngày 26/5/11 và 9/6/11 vừa qua .

Khi xẩy ra các vụ như vậy , cần cho phép nhân dân việt nam biểu tình tự phát . Các cuộc biểu tình này sẽ tăng cường quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc Việt nam . Việc đàn áp các cuộc biểu tình như vậy chỉ vạch cho Trung quốc biết chính phủ Việt nam sợ nhân dân Việt nam , không có hậu thuẫn ở nhân dân . Trung quốc sẽ lấn tới mạnh hơn .

Khi xẩy ra các vụ xâm phạm hiển nhiên chủ quyền lãnh thổ , lãnh hải Việt nam, chính phủ Việt nam phải bảo vệ được chủ quyền ấy bằng mọi phương tiện và lòng quyết tâm .

Chống bành trướng Trung quốc là thách thức tồn tại hay không tồn tại của dân tộc Việt nam . Việc chống bành trướng phải do một chính phủ được nhân dân việt nam tin tưởng , giao cho trọng trách nặng nề này .

Chúng ta đã chờ đợi sự cải cách của Đảng cộng sản Việt nam hơn 20 năm nay kể từ khi Liên-xô xụp đổ .

Chúng ta đã góp ý cho Đại hội 11 của Đảng cộng sản Việt nam về đa nguyên, dân chủ với tâm huyết nồng nàn của những người yêu nước .

Nhưng họ đã bỏ ngoài tai, khăng khăng độc quyền lãnh đạo .

Một chính đảng chỉ là một câu lạc bộ của một nhóm người .

Tổ quốc là không gian sinh tồn , văn hóa , tập tục của nhiều dân tộc sinh sống trên mảnh đất ấy .

Quyền lợi của đảng phái phải đặt dưới sự sinh tồn của tổ quốc .

Đây là giờ phút quyết định của Đảng cộng sản Việt nam .

Đây là giờ phút quyết định của dân tộc Việt nam .

Nguyễn Nghĩa 650

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét