CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ QUAN HỆ VIỆT - TRUNG
CÓ PHẢI BỨC CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG
LÀ LÁ BÀI TẨY TRONG TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT-TRUNG?
LÀ LÁ BÀI TẨY TRONG TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT-TRUNG?
Đinh Kim Phúc
Theo tờ Xinhua ngày 14-6-2011, dẫn theo tờ Quân Giải phóng hàng ngày cho biết chính phủ Trung Quốc phản đối nỗ lực để quốc tế hóa vấn đề biển Đông, mà chỉ nên giải quyết song phương thông qua hiệp thương hữu nghị giữa các bên tham gia.
Trong bài báo này có đoạn viết:
“Trong
một tuyên bố chính thức vào năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố
rõ ràng các đảo ở biển Nam Trung Hoa như là một phần của lãnh thổ chủ
quyền của Trung Quốc, và sau đó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng
bày tỏ sự thỏa thuận”.(1)
Những luận cứ và luận chứng của chính phủ Trung Quốc không có gì mới.
Ngày
17-11-2000, Bộ Ngoại giao Trung Quốc phát đi bản tin với cái gọi là “Sự
thừa nhận của quốc tế về chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Trường
Sa”:
“ 5. Việt Nam
a) Thứ
trưởng ngoại giao Dung văn Khiêm [Ung Văn Khiêm] của Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại sứ Trung Quốc
tại Việt Nam đã nói rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam, hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là môt bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung Quốc”.
Ông Le Doc [Lê Lộc], quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao
Việt Nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng “xét về mặt lịch sử thì
các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung Quốc từ thời nhà Ðường”.
b)
Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản
ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung Quốc,
rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải
lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung Quốc,
bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm
đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công
hàm gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam
“nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên bố của Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa trong vấn đề lãnh hải”.
c)
Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý
của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường
Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường
phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa”(2).
Ở đây chúng ta phải hiểu vấn đề này như thế nào?
Cần nhắc lại rằng ngày 4 tháng 9 năm 1958, trong bối cảnh của thời kỳ chiến tranh lạnh, lúc
bấy giờ đang xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan. Đài
Loan lúc đó còn giữ hai đảo nằm giáp lãnh thổ Trung Quốc là
Kim Môn và Mã Tổ. Hải quân Mỹ đến vùng eo biển Đài Loan, khiến
Trung Quốc lo sợ rằng Mỹ có thể tấn công xâm phạm chủ quyền
của Trung Quốc. Trung Quốc phải lập tức ra tuyên bố lãnh hải của mình là 12 hải lý.
Sau đây là toàn văn tuyên bố:
“Tuyên
bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải (Ðược
thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường vụ Đại hội đại biểu Nhân
dân toàn quốc ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa nay tuyên bố:
(1)
Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý.
Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài
Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các
đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần
đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2)
Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và
các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải
dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý
tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên
trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng
nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo
Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và
Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội
hải Trung Quốc.
(3)
Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất
cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận
Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài
nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ
liên hệ của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
(4)
Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận,
quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa,
quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài
Loan và Bành Hồ hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động
bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được chiếm lại. Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các
phần đất này trong tương lai. Các nước ngoài không nên xen vào các vấn
đề nội bộ của Trung Quốc”.
Phê chuẩn của hội nghị lần thứ 100 của Ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc ngày 4-9-1958
(Nguồn: http://law.hku.hk)
Đáp lại tuyên bố này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi bức công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai nguyên văn như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.(3)
Theo Tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á đang sống ở Hungary đã giải thích: “Trong
các năm 1955-1958, ban lãnh đạo Bắc Việt chưa đạt tới mục tiêu thống
nhất đất nước vì phải đối phó với khó khăn nội bộ và thiếu ủng hộ của
quốc tế. Đồng minh chính của họ lúc này là Trung Quốc. Trong hoàn cảnh
này, Hà Nội không thể hy vọng xác lập quyền kiểm soát đối với Hoàng Sa
và Trường Sa trong tương lai gần, và vì vậy họ không thể có sự bất đồng
lớn với Trung Quốc về các hòn đảo. Lúc này, chính phủ Bắc Việt tìm cách
có được giúp đỡ của Trung Quốc, và họ chỉ cố gắng tránh đưa ra tuyên bố
công khai ủng hộ những tuyên bố chủ quyền cụ thể của Trung Quốc hay ký
vào một văn kiện bắt buộc mà sẽ công khai từ bỏ chủ quyền của Việt Nam
đối với các đảo này.
Sang
năm 1974, tình hình hoàn toàn khác. Việc thống nhất Việt Nam không còn
là khả năng xa vời. Giả sử Trung Quốc có không can thiệp, Hà Nội có thể
dễ dàng lấy các đảo cùng với phần còn lại của miền Nam. Từ 1968 đến
1974, quan hệ Việt - Trung đã xuống rất thấp, trong khi Liên Xô tăng
cường ủng hộ cho miền Bắc. Trong tình hình đó, quan điểm của Bắc Việt dĩ
nhiên trở nên cứng cỏi hơn trước Trung Quốc so với thập niên 1950.
Vì những lý do tương tự, thái độ của Trung Quốc cũng trở nên cứng rắn hơn. Đến năm 1974, Bắc Kinh không còn hy vọng Hà Nội sẽ theo họ để chống Moscow. Thực sự vào cuối 1973 và đầu 1974, Liên Xô lại cảm thấy sự hòa hoãn Mỹ - Trung đã không đem lại kết quả như người ta nghĩ. Washington không từ bỏ quan hệ ngoại giao với Đài Loan cũng không bỏ đi ý định tìm kiếm hòa hoãn với Liên Xô. Ngược lại, quan hệ Xô - Mỹ lại tiến triển tốt. Vì thế trong năm 1974, lãnh đạo Trung Quốc lại một lần nữa cảm thấy bị bao vây. Vì vậy họ muốn cải thiện vị trí chiến lược ở Đông Nam Á bằng hành động chiếm Hoàng Sa, và tăng cường ủng hộ cho Khmer Đỏ và du kích cộng sản ở Miến Điện.
Tiến
sĩ Balazs Szalontai phân tích tiếp hoàn cảnh ra đời của bức công hàm mà
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi cho Chu Ân Lai: “Trước tiên, ta nói về
tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ
dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc,
cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta
có tuyên bố của Trung Quốc tháng 9 năm 1958.
Như
tôi nói ở trên, trong những năm này, Bắc Việt không thể làm phật ý
Trung Quốc. Liên Xô không cung cấp đủ hỗ trợ cho công cuộc thống nhất,
trong khi Ngô Đình Diệm ở miền Nam và chính phủ Mỹ không sẵn sàng đồng ý
tổ chức bầu cử như đã ghi trong Hiệp định Geneva. Phạm Văn Đồng vì thế
cảm thấy cần ngả theo Trung Quốc.
Dẫu vậy, ông ấy có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
Dù
sao trong tranh chấp lãnh thổ song phương này giữa các quyền lợi của
Việt Nam và Trung Quốc, quan điểm của Bắc Việt, theo nghĩa ngoại giao
hơn là pháp lý, gần với quan điểm của Trung Quốc hơn là với quan điểm
của miền Nam Việt Nam.
Còn
lời phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm đưa ra năm 1956,
Tiến sĩ Balazs Szalontai đã có ý kiến: “Theo trang web của Bộ Ngoại giao
Trung Quốc, vào giữa năm 1956, Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm
thời của Trung Quốc rằng Hoàng Sa và Trường Sa về mặt lịch sử đã thuộc
về lãnh thổ Trung Quốc. Ban đầu tôi nghi ngờ sự chân thực của tuyên bố
này. Năm 2004, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thậm chí xóa đi những chương
tranh cãi của lịch sử Triều Tiên khỏi trang web của họ. Tức là họ sẵn
sàng thay đổi quá khứ lịch sử để phục vụ cho mình.
Tôi
cũng chấp nhận lý lẽ rằng nếu ông Khiêm quả thực đã nói như vậy, thì có
nghĩa rằng ban lãnh đạo Bắc Việt thực sự có ý định từ bỏ chủ quyền của
Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng nay tôi nghĩ khác, mà một
lý do là vì tôi xem lại các thỏa thuận biên giới của Mông Cổ với Liên
Xô.
Tôi
nhận ra rằng tuyên bố của Ung Văn Khiêm thực ra không có tác dụng ràng
buộc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố của một quan chức như ông Khiêm
được coi như đại diện cho quan điểm chính thức của ban lãnh đạo. Nhưng
ban lãnh đạo cũng có thể bỏ qua ông ta và những tuyên bố của ông ta bằng
việc sa thải theo những lý do có vẻ chả liên quan gì. Đó là số phận của
Ngoại trưởng Mông Cổ Sodnomyn Averzed năm 1958. Trong lúc đàm phán về
biên giới Liên Xô – Mông Cổ, ông ta có quan điểm khá cứng rắn, và rất có
thể là vì ông ta làm theo chỉ thị của ban lãnh đạo. Nhưng khi Liên Xô
không chịu nhả lại phần lãnh thổ mà Mông Cổ đòi, và chỉ trích “thái độ
dân tộc chủ nghĩa” của Averzed, Mông Cổ cách chức ông ta.
“Trong
trường hợp Ung Văn Khiêm, ông ta khi ấy chỉ là thứ trưởng, và chỉ có
một tuyên bố miệng trong lúc nói riêng với đại biện lâm thời của Trung
Quốc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố miệng không có cùng sức mạnh như
một thông cáo viết sẵn đề cập đến các vấn đề lãnh thổ. Nó cũng không có
sức nặng như một tuyên bố miệng của lãnh đạo cao cấp như thủ tướng,
nguyên thủ quốc gia hay tổng bí thư. Rõ ràng các lãnh đạo Bắc Việt không
ký hay nói ra một thỏa thuận nào như vậy, vì nếu không thì Trung Quốc
đã công bố rồi.
Vậy thì, bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có ý nghĩa pháp lý nào không?
Tiến
sĩ Balazs Szalontai bày tỏ: “Nó khiến cho quan điểm của Việt Nam bị yếu
đi một chút, nhưng tôi cho rằng nó không có sức nặng ràng buộc. Theo
tôi, việc các tuyên bố của Trung Quốc nhấn mạnh nguyên tắc “im lặng là
đồng ý” không có mấy sức nặng. Chính phủ miền Nam Việt Nam đã công khai
phản đối các tuyên bố của Trung Quốc và cố gắng giữ các đảo, nhưng họ
không ngăn được Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Trung Quốc đơn giản bỏ mặc sự
phản đối của Sài Gòn. Nếu Hà Nội có phản đối lúc đó, kết quả cũng sẽ
vậy thôi.
Tiến
sĩ Balazs kết luận, do lá thư của Phạm Văn Đồng chỉ có giá trị pháp lý
hạn chế, nên một sự thảo luận công khai về vấn đề sẽ không có hại cho cả
Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng dĩ nhiên chính phủ hai nước có thể nhìn
vấn đề này theo một cách khác.(4)
Còn
theo Tiến sĩ Luật Từ Đặng Minh Thu của Đại học Sorbonne, Pháp Quốc, thì
cho rằng những lời tuyên bố trên của Thủ tướng Phạm văn Đồng không có
hiệu lực vì trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý
những đảo này. Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của Việt Nam
Cộng hòa; mà các chính phủ Việt Nam Cộng hòa luôn luôn khẳng định chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng không tuyên bố điều gì có thể làm hại
đến chủ quyền này cả. Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đã viết như sau:
“Dans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement competent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité…”
(Có thể dịch là: “Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…”).
Một
lý lẽ thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần pháp lý, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là một quốc gia trong cuộc tranh
chấp. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung
Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời
tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của một quốc
gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.
Nếu
đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng
không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đã nêu thuyết “estoppel” để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”. Điều 38 Quy chế Tòa án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là “one cannot at the same time blow hot and cold.” Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó.
Thuyết
estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập
vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc
gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây
thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện
chính:
1. Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch (clair et non equivoque).
2. Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là “reliance”.
3. Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó.
4. Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ. Thí dụ: bản án “Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án “Ngôi đền Preah Vihear”,…
Ngoài
ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc
gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải
thực sự có ý định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi
hành lời hứa đó.
Thuyết
estoppel với những điều kiện trên đã được án lệ quốc tế áp dụng rất
nhiều. Trong bản án “Thềm lục địa vùng biển Bắc” giữa Cộng hòa Liên bang
Đức và Đan Mạch, Hà Lan, Tòa án quốc tế đã phán quyết rằng estoppel
không áp dụng cho Cộng hòa Liên bang Đức, mặc dù quốc gia này đã có
những lời tuyên bố trong quá khứ nhằm công nhận nội dung của Công ước
Genève 1958 về thềm lục địa, vì Đan Mạch và Hà Lan đã không bị thiệt hại
khi dựa vào những lời tuyên bố đó.
Trong
bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua” giữa
Nicaragua và Mỹ, Toà đã phán quyết như sau: “… ‘Estoppel’ có thể được
suy diễn từ một thái độ, những lời tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp
nhận một tình trạng nào đó; thái độ hoặc lời tuyên bố không những phải
được phát biểu một cách rõ rệt và liên tục, mà còn phải khiến cho một
hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó mà thay đổi hoạt động, và do đó phải
chịu thiệt hại”.
Áp
dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở
trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ
nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Và Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị
thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó. Lúc đó hai
dân tộc Việt Nam và Trung Hoa rất thân thiện, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Những lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn do tình hữu nghị Hoa-Việt.
Hơn
nữa, lời văn của bản tuyên bố không hề nói rõ ràng minh bạch là công
nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa. Bức công hàm chỉ nói:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy (quyết
định ấn định lãnh hải 12 dặm của Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho các cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc…”.
Lời
tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiểu là một lời hứa
đơn phương, một lời tuyên bố ý định sẽ làm một việc gì (declaration d’intention).
Thật vậy, đây là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết định của Trung Quốc
trong việc ấn định lãnh hải của Trung Quốc, và một lời hứa sẽ ra lệnh
cho cơ quan công quyền của mình tôn trọng lãnh hải đó của Trung Quốc.
Một
lời hứa thì lại càng khó ràng buộc quốc gia đã hứa. Tòa án Quốc tế đã
ra thêm một điều kiện nữa để ràng buộc một lời hứa: đó là ý chí thực sự
của một quốc gia đã hứa. Nghĩa là quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng
buộc bởi lời hứa của mình hay không. Để xác định yếu tố “ý chí” (intention de se lier), Toà xét tất cả những dữ kiện xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát biểu trong bối cảnh, trong những điều kiện nào (circonstances).
Hơn nữa, nếu thấy quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng cách ký
thoả ước với quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là thừa, và Tòa sẽ kết
luận là quốc gia phát biểu không thực tình có ý muốn bị ràng buộc khi
phát biểu lời tuyên bố đó. Vì vậy, lời tuyên bố đó không có tính chất
ràng buộc.
Trong
bản án “Những cuộc thí nghiệm nguyên tử” giữa Úc, New Zealand và Pháp,
Pháp đã tuyên bố là sẽ ngừng thí nghiệm nguyên tử. Toà án đã phán quyết
rằng Pháp bị ràng buộc bởi lời hứa vì Pháp thực sự có ý muốn bị ràng
buộc bởi lời hứa đó.
Trong trường hợp Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi tuyên bố sẽ tôn trọng lãnh hải của Trung Quốc, không hề có ý định nói đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên trong tình trạng khẩn trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Ông đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc nhằm gây một lực lượng chống đối lại với mối đe doạ của Mỹ.
Lời
tuyên bố năm 1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như vậy.
Động lực của lời tuyên bố đó là tình trạng khẩn trương, nguy ngập ở
Việt Nam. Đây là những lời tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải
pháp lý.
Nếu
xét yếu tố liên tục và trường kỳ thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa cũng không hội đủ tiêu chuẩn này. Estoppel chỉ đặt ra nếu
chấp nhận giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một; và cả Pháp trong thời kỳ thuộc địa, và Việt Nam
Cộng hòa trước năm 1975 cũng là một đối với Việt Nam hiện thời. Nếu xem
như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia riêng biệt với Việt Nam
hiện thời, thì estoppel không áp dụng, vì như đã nói ở trên, lời tuyên
bố sẽ được xem như lời tuyên bố của một quốc gia không có quyền kiểm
soát trên lãnh thổ tranh chấp. Như vậy, nếu xem Việt Nam nói chung như
một chủ thể duy nhất từ xưa đến nay, thì ba lời tuyên bố của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa chỉ là một sự phát biểu có ý nghĩa chính trị trong đoản
kỳ thời chiến, so với lập trường và thái độ của Việt Nam nói chung từ
thế kỷ XVII đến nay.
Tóm
lại, những lời tuyên bố mà chúng ta đang phân tích thiếu nhiều yếu tố
để có thể áp dụng thuyết estoppel. Yếu tố “reliance” (tức là quốc gia
kia có dựa vào lời tuyên bố của quốc gia này mà bị thiệt hại), và yếu tố
“ý chí” (tức là quốc gia phát biểu lời hứa có ý muốn bị ràng buộc bởi
lời hứa đó) rất quan trọng. Không có “reliance” để giới hạn sự áp dụng
của estoppel thì các quốc gia sẽ bị cản trở trong việc hoạch định chính
sách ngoại giao. Các quốc gia sẽ phải tự ép buộc cố thủ trong những
chính sách ngoại giao lỗi thời.
Khi điều kiện chung quanh thay đổi, chính sách ngoại giao của quốc gia kia thay đổi, thì chính sách ngoại giao của quốc gia này cũng phải thay đổi. Các quốc gia đổi bạn thành thù và đổi thù thành bạn là chuyện thường.
Còn
những lời hứa đơn phương trong đó quốc gia không thật tình có ý muốn bị
ràng buộc, thì nó chẳng khác gì những lời hứa vô tội vạ, những lời hứa
suông của các chính khách, các ứng cử viên trong cuộc tranh cử. Trong
môi trường quốc tế, nguyên tắc “chủ quyền quốc gia” (état souverain) rất quan trọng. Ngoại trừ tục lệ quốc tế và những điều luật của Jus Congens,
không có luật nào ràng buộc quốc gia ngoài ý muốn của mình, khi mà quốc
gia này không gây thiệt hại cho quốc gia nào khác. Vì vậy ý chí của
quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định tính chất
ràng buộc của một lời hứa đơn phương.(5)
Ông
Lưu Văn Lợi, cựu Chánh văn phòng-Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng
ban Biên giới thuộc Hội đồng Bộ trưởng (1978-1989) đã nhận xét: “Công
hàm của ông Phạm Văn Đồng chỉ là một cử chỉ tốt đẹp về
tình hữu nghị, ủng hộ Trung Quốc trong lúc Mỹ đưa hạm đội 7
tới eo biển Đài Loan mà thôi”.(6)
Từ
những phân tích trên, theo chúng tôi là xác đáng nhưng cần phải nhấn
mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm văn Đồng
không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách
mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm và đã trả giá trong bàn đàm phán
Geneve năm 1954, khi bàn về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa
bình ở Đông Dương. Nhưng kinh nghiệm ấy cũng không ngăn ông được khi
giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ với Trung Quốc vì Việt Nam đã
tạo nên ấn tượng rằng Việt Nam đã tự nguyện chấp nhận những hy sinh vì
lợi ích của đường lối chung về “cùng tồn tại hòa bình” đang thịnh hành
trong thế giới xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ.
Nhưng
quan trọng hơn hết, từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Quốc hội nước Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và
sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt và hiện
nay là là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra
nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng
Sa-Trường Sa.
Tất cả những chứng cứ mà phía Trung Quốc đưa ra đều vô hiệu!
Chú Thích:
(1) Nguồn:
(2) www.fmprc.gov.cn, ngày 17/11/2000
(3) Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt-Trung về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Công an, Hà Nội, 1995, trang 105.
(4) BBC ngày 24-1-2008 và tổng hợp ý kiến của Tiến sĩ Balazs
(5)
Từ Đặng Minh Thu,Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa-Thử
phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc,Thời Đại Mới, Số
11/7/2007).
(6) BBC Vietnamese.com ngày 18/09/2008. Bài “Trung Quốc xuyên tạc cử chỉ hữu nghị”.
*Bài viết do nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
10 nhận xét:
-
Theo tôi dù sao Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã quá chủ quan khi tuyến bố như vậy!
-
Việt nam cần nhiều luật sư giỏi về luật quốc tế và hàng hải quốc tế +
thông thạo ngoại ngữ. Nếu không thì lấy ai mà cãi lại TQ trước tòa QT.
ZZ
-
Có lần em đã nằm mơ thấy Trung Quốc trả lại Hoàng Sa cho Việt Nam.
-
Chết thật đến thế này thì không còn gì để nói nữa rồi bác Diện ơi: Bản
tin cuối ngày 15-6-2011 lúc 23h đêm của VTV1, BTV Xuân Sơn đọc trong mục
nói về một trung tâm kĩ năng sống FDic (tôi không nhớ rõ) tổ chức cho
các em học viên nhỏ tuổi đến Văn Miếu để thắp hương cho Đức Khổng Tử mà
tuyệt nhiên không thấy nói thắp hương cho cụ Chu Văn An, mặc dù ai cũng
biết rằng Văn Miếu không chỉ thờ có Khổng Tử mà còn thờ các vị thánh
hiền khác trong đó có Đức Chu Văn An danh sư của Việt Nam, điều chắc
chắn là các em có thắp hương cho danh sư Chu Văn An nhưng không được nói
trong chương trình. Phóng sự do hai phóng viên Đình Khoa và Văn Quyến.
Đề nghị lãnh đạo đài THVN kỉ luật ngay người viết lời bình, hai phóng
viên này và đạo diễn cũng như BTV Xuân Sơn. Nếu không có lời xin lỗi thì
người xem có thể đã rõ và có suy nghĩ tiêu cực về Đài THVN.
-
Bài này đầy đủ, sâu sắc nhất trong các bài tôi đã được đọc phân tích bức
công hàm 1958 của TT Pham Văn Đồng, đặt trong khuôn khổ của luật Quốc
tế. Yên tâm lắm rồi :-)
Nhiều người cần đọc bài này!
-
1 giờ sáng 16.6. Vietnamnet đăng tin này: Bảo vệ chủ quyền: Công khai để
thống nhất lòng dân "... Thêm nữa, việc công khai thông tin là để thế
giới hiểu rõ hơn lập trường, quan điểm của chúng ta. Đôi khi bạn bè thế
giới đã ngộ nhận về một Việt Nam là đồng chí của Trung Quốc. Lâu nay, để
giữ hòa hiếu với Trung Quốc nên ta đã chấp nhận là một người "đồng
chí". Nhưng xin nhắc lại là một Trung Quốc có hai chế độ thì họ không có
nhu cầu quan tâm đến chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản ở Việt
Nam. Mục đích của họ là lợi dụng luận điểm rằng cả Việt Nam và Trung
Quốc đều có Đảng cộng sản để dễ bề qua mắt người dân Việt Nam rằng ta là
đồng chí của họ. Trong khi đó, họ lại gặm nhấm từng mẩu đất..."
-
Bác nào nhón tay dịch bài nay sang tiếng Anh thì hay quá.
-
Đây là một sai lầm Của Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi công bố Công Hàm
-
Nhưng vấn đề là chính phủ Hà nội không lên tiếng bác bỏ luận cứ này của TQ
-
Công hàm chỉ là cái cớ thôi. Không có công hàm TQ cũng bịa ra cái khác thôi. Lý của kẻ mạnh cơ mà.
DBND
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét