Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

Năm con rồng khuấy động biển cả

nguon: http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/1377-nam-con-rong-khuay-dong-bien-ca-thach-thuc-va-co-hoi-trong-viec-nang-cao-kha-nang-thuc-thi-tham-quyen-hang-hai-cua-trung-quoc

Năm con rồng khuấy động biển cả

Email In PDF.
Bài viết của Lyle J. Goldstein, Trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ phân tích, đánh giá chi tiết  chức năng, nhiệm vụ của 5 đơn vị mà tác giả gọi là “Năm con rồng” hình thành nên lực lượng chấp pháp trên biển của Trung Quốc .



Trong thời đại mà sự phô trương lực lượng giữa các cường quốc diễn ra rất tinh vi, bảo vệ bờ biển có vai trò mới và quan trọng trên vũ đài thế giới. Khi Washington muốn thể hiện sự hối lỗi và muốn tiếp viện Gru-di-a đang bị bao vây mà không làm gia tăng căng thẳng vốn đã nóng bỏng ở quanh Hắc Hải, USCGC Dallas, một tàu tuần duyên lớn của Mỹ đã được phái đi.1 Xu hướng này đã trở nên rõ ràng từ lâu ở châu Á. Lần sử dụng các lực lượng chết người rộng rãi nhất của Tokyo sau chiến tranh thế giới II là hành động của lực lượng tuần duyên Nhật Bản chống lại một tàu thăm dò Bắc Hàn.2 Gần đây hơn, một tàu tuần duyên Nhật Bản đã đánh chìm một tàu cá Đài Loan trong một vụ va chạm gần đảo Senkaku/Điếu Ngư Đài đang tranh chấp ở vùng biển Hoa Đông, châm ngòi cho những tranh chấp ngoại giao tương đối nghiêm trọng.3 Những lực lượng tuần duyên hùng mạnh nhất châu Á này đang đặt ra một tiền lệ xấu. Ví dụ, Ấn Độ đã thông báo một vụ mua máy bay chiến đấu dài hạn táo bạo phục vụ cho việc tuần tra biển vào mùa thu 2008.4 Đội tuần duyên đã được cải thiện của Hàn Quốc, trong khi đó, đã mời các phóng viên nước ngoài tiến hành một chuyến du lịch gần các đảo do Hàn Quốc quản lý nhưng Nhật Bản cũng tuyên bố chủ quyền, làm cho chuyến tham quan mang ý nghĩa hiếu chiến.5

Với những thông tin trên, cùng với sự đồng thuận rộng rãi rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là một trong những hiện tượng quan trọng nhất ảnh hưởng đến an ninh quốc tế trong thế kỷ 21, điều lạ lùng là cơ cấu tổ chức, khả năng, văn hóa dịch vụ hay triển vọng của lực lượng tuần duyên Trung Quốc này hầu như không được biết đến. Trong khi lực lượng tuần duyên Nhật Bản đã thu hút đáng kể sự chú ý gần đây của giới học giả trong lĩnh vực này, những sự phát triển tương tự của Trung Quốc đã không được chú ý, mặc dù những tài liệu nguồn về vấn đề này ở Trung Quốc là rất dồi dào.6 Đáng chú ý là một chuyên gia hàng đầu về “phòng vệ biên giới” của Trung Quốc gần đây đã nhận định rằng công trình của ông “chỉ xem xét cách tiếp cận của Trung Quốc trong việc bảo vệ biên giới đất liền của nước này…Những nghiên cứu trong tương lai nên nghiên cứu cách tiếp cận của Trung Quốc đối với việc phòng vệ biển.”7 Tất nhiên, các học giả cũng đã tương đối chú ý đến sự phát triển của hải quân Trung Quốc, và điều này là hoàn toàn hợp lý.8 Tuy nhiên, những nghiên cứu về sự phát triển của hải quân Trung Quốc có xu hướng tập trung vào những tình huống tranh chấp xa bờ và căng thẳng, bao gồm những cuộc khai phá dưới biển và những cuộc tập trận đổ bộ, cũng như những tiềm năng trong tương lai với việc bảo vệ đường biển mở rộng, triển khai sức mạnh và răn đe hạt nhân. Một vụ việc được biết đến rộng rãi năm 2009 liên quan đến tàu do thám Mỹ và các tàu hải giám của Trung Quốc (cùng với các tàu đánh cá Trung Quốc) cũng đã làm rõ hơn sự hiểu biết về khả năng giám sát hàng hải phi quân sự của Trung Quốc.
Nhìn chung, các vấn đề bảo vệ bờ biển và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến cái được gọi là an ninh phi truyền thống đã không được xem xét đầy đủ trong bối cảnh hàng hải Trung Quốc. Nếu nhận thức của Trung Quốc về vấn đề quản lý và giám sát bờ biển, an ninh cảng, cướp biển, buôn lậu ma túy, bảo vệ môi trường, tìm kiếm và giải cứu tiếp tục ít được biết đến bên ngoài Trung Quốc, hợp tác giữa các cường quốc biển Đông Á có thể cũng sẽ tiếp tục kém phát triển.9 Việc triển khai quân chưa từng có tiền lệ tháng 12 năm 2008 của hải quân Trung Quốc cùng với các lực lượng hải quân khác ở Vịnh Aden trong hoạt động chống cướp biển, không còn nghi ngờ gì nữa, là một bước tiến rõ rệt theo đúng hướng. Tuy nhiên, còn rất nhiều điều có thể và nên được thực hiện để tìm ra điểm chung với Trung Quốc trong việc đối phó với các mối đe dọa phi truyền thống.

Ngày nay, Trung Quốc còn khá yếu trong lĩnh vực trung tâm cực kỳ quan trọng - sức mạnh hàng hải, là sự kết hợp giữa năng lực thương mại và sức mạnh quân sự cứng và liên quan đến quản lý hàng hải, tức là thực thi luật pháp của một quốc gia và đảm bảo “trật tự tốt đẹp” ngoài khơi của quốc gia đó.10 Mặc dù đã có những tiến bộ lớn lao trong thập kỷ vừa qua, các cơ quan cưỡng chế hàng hải Trung Quốc vẫn chia rẽ và tương đối yếu. Nhiều chuyên gia Trung Quốc đã miêu tả tình trạng này một cách khá châm biếm là có quá nhiều “những con rồng khuấy động biển cả.”11 Ở Đông Bắc Á, khả năng tuần tra hàng hải yếu của Trung Quốc là ngoại lệ, đặc biệt nếu đem so sánh với khả năng tuần duyên của Nhật Bản (hay ở ngoài khu vực là Mỹ). Thật vậy, lực lượng tuần duyên của Nhật Bản gần đây đã được miêu tả là gần như, nếu không muốn nói là hoàn toàn, là hải quân thứ hai của Tokyo.12


Sự yếu kém tương đối của Trung Quốc trong lĩnh vực này là một điều bí ẩn và đã đặt ra câu hỏi nghiên cứu của bài này. Tình trạng yếu kém tương đối này được nêu ở phần một của nghiên cứu. Phần hai lần lượt miêu tả và phân tích tình trạng hiện tại của năm bộ máy thẩm quyền chịu trách nhiệm giám sát và quản lý hàng hải ở Trung Quốc ngày nay. Phần ba đưa ra câu hỏi là các cơ quan này, và bất kỳ một lực lượng tuần duyên thống nhất nào của Trung Quốc trong tương lai, có mối quan hệ như thế nào đối với hải quân Trung Quốc. Trước khi đưa ra tác động và triển vọng, phần bốn sẽ đi sâu phân tích một loạt những lý giải vĩ mô cho sự yếu kém của các cơ quan tuần tra bờ biển Trung Quốc hiện nay. Phần năm phân tích các khả năng cho việc hợp tác an ninh hàng hải trong tương lai, bằng cách xem xét kỹ sự tham gia hàng hải dân sự Mỹ-Trung giữa các thực thể tuần duyên trong thập kỷ vừa qua. Phần cuối cùng làm rõ ba gợi ý chiến lược khả thi cho việc tăng cường khả năng tuần duyên của Trung Quốc. Toàn bộ nghiên cứu này dựa trên hàng trăm nguồn tài liệu tiếng Trung, các cuộc phỏng vấn tại Trung Quốc, và đặc biệt là một điều tra rất chi tiết và cực kỳ trung thực vào năm 2007 của giáo sư He Zhonglong và ba thành viên khác tại Học viện cảnh sát tuần tra biển Trung Quốc tại Ninh Ba.13

Sự phát triển đang diễn ra của các thực thể tuần duyên Trung Quốc thành những cơ quan quản lý hàng hải đồng bộ và hiệu quả đặt ra cả thách thức và cơ hội cho an ninh và ổn định ở Đông Á. Việc mở rộng khả năng sẽ tự nhiên dẫn đến sự thực thi chặt chẽ hơn các tuyên bố biển của Trung Quốc trước các nước láng giềng.14 Tuy nhiên, một kết quả triển vọng tốt đẹp hơn là việc tăng cường khả năng quản lý hàng hải của Trung Quốc sẽ dẫn đến việc Bắc Kinh sẽ sẵn sàng ủng hộ các quy tắc an ninh và an toàn hàng hải như một “nhân tố hàng hải” đủ năng lực và thiết yếu.
Sự yếu kém tương đối trong môi trường láng giềng mạnh
Những yếu kém của lực lượng tuần duyên Trung Quốc là nguồn tư liệu phong phú cho các nhà phân tích về biển Trung Quốc. Xem xét quy mô phát triển hàng hải của Trung Quốc, những nhà phân tích này cho rằng tiềm lực của lực lượng tuần duyên nước này là nhỏ bé và rời rạc. He Zhonglong và những cộng sự của ông viết: “Các lực lượng cảnh sát biển của chúng ta…không tương xứng với vị thế và hình ảnh của một siêu cường”.15 Ông và các tác giả nói thêm: “Hiện nay, trong hải đội của lực lượng tuần duyên, đa số là các tàu tuần tra có trọng tải nhỏ hơn 500 tấn, và con số trực thăng hải vận càng cho thấy lực lượng này không đạt đến những yêu cầu của một lực lượng chấp pháp trên biển toàn diện”.16 Các giáo sư của Học viện Cảnh sát Biển Ninh Ba cũng khẳng định rằng tình hình hiện nay là không thể chấp nhận được: “Trung Quốc là quốc gia có dân số đông, và các nguồn tài nguyên trên đất liền của nước này là không đủ. Các đại dương có thể thay thế và bổ sung không gian cho đất liền, và đối với các nguồn tài nguyên thì biển cũng có trữ lượng tiềm năng khổng lồ cùng với ý nghĩa chiến lược.”17
Ngược lại, những cường quốc ở Thái Bình Dương khác, đặc biệt là Mỹ và Nhật, duy trì các lực lượng tuần duyên rất mạnh. Các nhà phân tích hàng hải Trung Quốc ghi nhận đầy đủ và thấu hiểu thực tế so sánh bất lợi này. Quả thật, mức độ hiểu cặn kẽ của phía Trung Quốc về tiềm lực tuần duyên Mỹ và Nhật là rất ấn tượng, điều này ngay lập tức gợi cho người ta đồng thời sự đố kỵ lẫn ngưỡng mộ.19 Ví dụ như, để minh họa cho sự yếu kém của lực lượng tuần duyên Trung Quốc, He Zhonglong đã chỉ ra rằng Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ (USCG) được trang bị 250 máy bay các loại, trong khi phía Nhật có 75 máy bay. Các đơn vị tuần duyên Trung Quốc, với tiềm lực không quân trực thuộc kém phát triển hơn, chắc chắn không thể triển khai nhiều hơn 36 máy bay các loại.20 Máy bay rất quan trọng một mặt trong việc tuần tra tầm xa và mặt khác trong các nhiệm vụ cứu hộ phức tạp. Hơn nữa, những yêu cầu mang tính chuyên nghiệp đòi hỏi lực lượng tuần duyên của một quốc gia phải duy trì các đơn vị không quân mạnh là rất lớn. Do đó, các con số kể trên phản ánh được khoảng cách rất lớn giữa lực lượng tuần duyên Trung Quốc và lực lượng tuần duyên của các quốc gia Thái Bình Dương khác, điều này được ghi nhận rõ ràng bởi các nghiên cứu của Học viện Ninh Ba.21 Bảng 1 minh họa rằng dù các đơn vị tuần duyên của CHND Trung Quốc (PRC) có tương đối nhiều tàu tuần tra loại nhỏ và rất nhỏ (dưới 1,500 tấn), Bắc Kinh vẫn có ít hơn cả Washington và Tokyo về số tàu loại vừa (1,500 – 3,000 tấn) và loại lớn (trên 3,500 tấn).22 Nghiên cứu của Học viện Ninh Ba chỉ thêm rằng Hàn Quốc (ROK) đã tiến hành thành công vào năm 1996 chiến dịch thống nhất các đơn vị chấp pháp trên biển riêng lẻ thành một Lực lượng tuần duyên Hàn Quốc thống nhất, hùng mạnh theo mô hình của Mỹ và Nhật.23
Bảng 1: So sánh Lực lượng tuần duyên ở Châu Á Thái Bình Dương
Quốc gia
Trung Quốc
Hàn Quốc
Nhật Bản
Mỹ
Chiều dài bờ biển
18,000
11,542
30,000
160,550
Tàu tuần tra loại lớn (trên 3,500 tấn)
8
5
11
12
Tàu tuần tra loại vừa (trên 1500 tấn)
19
9
37
32
Tàu tuần tra loại nhỏ (trên 500 tấn)
149
66
82
44
Thuyền nhỏ (trên 100 tấn)
304
111
107
258
Nguồn: He Zhonglong và các cộng sự, Nghiên cứu về việc xây dựng lực lượng tuần duyên Trung Quốc, tr. 142–43.
Động lực để Bắc Kinh nâng cấp năng lực tuần duyên của mình rõ ràng liên quan đến mục tiêu chiến lược tổng thể của nước này là tăng cường tiềm lực hàng hải nói chung và do đó, hoàn toàn phù hợp với sự phát triển nhanh của hải quân Trung Quốc. Quả thực, tác động của sáng kiến này đối với an ninh Đông Á là rất quan trọng và sẽ được phân tích ở phần kết luận của bài nghiên cứu này. Sắc thái trong các bài phân tích của Học viện Ninh Ba rõ ràng gợi cho chúng ta thấy tầm quan trọng của yếu tố an ninh quốc gia trong tư tưởng của người Trung Quốc về tiềm lực tuần duyên. Ví dụ, những tác giả của phân tích kể trên nhìn nhận rằng “ngày nay, tư duy có từ thời Chiến tranh Lạnh vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia… Vẫn có những thái độ thù địch”24. Xét đến vấn đề nhạy cảm liên quan đến chủ quyền ở Biển Đông, phân tích kể trên chỉ ra rằng: “Một mặt, Trung Quốc và 10 quốc gia thuộc khối ASEAN đã ký Quy tắc ứng xử trên Biển Đông ở Phnôm Pênh, [nhưng] ở mức độ nào đó, những gì đã diễn ra đó là chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc đang tiếp tục bị xâm phạm nghiêm trọng”25. Động cơ kể trên hoàn toàn không có gì bất ngờ và phù hợp trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc đang tồn tại mạnh mẽ trong giới trí thức Trung Quốc và trong các phân tích về chính sách nói chung.
Tuy nhiên, một luồng tư tưởng lớn khác liên quan đến việc xây dựng tiềm lực tuần duyên của Trung Quốc đang tồn tại rõ rệt mà nhận thức rõ về quá trình toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau càng nhiều giữa các quốc gia. Theo luồng tư tưởng này, cũng có thể tìm thấy rõ ràng và chi tiết trong phân tích của Học viện Ninh Ba, chúng ta có thể nhận thấy một khái niệm tinh tế và đáng khích lệ rằng lực lượng tuần duyên, dựa trên tính chất linh hoạt của nó, có thể hoạt động như một bước đệm giữa các lực lượng hải quân khác, hỗ trợ trong việc làm dịu đi tranh chấp giữa các quốc gia có thể xảy ra tại Đông Á. Theo dòng tư tưởng đó, khái niệm này càng được củng cố thêm, He Zhonglong và các cộng sự kết luận: “Mọi người sống với nhau trên cùng một hành tinh, và cùng đương đầu với những đe dọa chung, và có cùng những lợi ích chung”26. Một phân tích khác cũng chỉ ra tương tự rằng những mối quan hệ quốc tế mà các lực lượng tuần duyên khác đã gầy dựng được “rất nhiều lần thành công trong việc đẩy lùi các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia”.27 Nghiên cứu của Học viện Ninh Ba cuối cùng cũng chỉ ra nguyên nhân nằm ở yếu tố tổ chức khi giải thích các yếu kém của lực lượng chấp pháp biển Trung Quốc. Như các tác giả của bản nghiên cứu viết:
“Mô hình tổ chức quản lý trên biển của Trung Quốc là chưa lý tưởng. Trong khoảng thời gian rất lâu, đã tồn tại một tình trạng “nhóm rồng lũng đoạn vùng biển”: trong tất cả các tình huống, luôn có rất nhiều bên tham gia, mỗi bên có quyền lực riêng của mình, với thẩm quyền chồng chéo, cũng như những lỗ hổng rõ ràng. Về mặt bên trong, điều này gây ra những vấn đề trong việc thi hành pháp luật sao cho phù hợp, trong khi xét về bên ngoài, không thấy có sự thống nhất trong các nỗ lực. Kết quả là cho ra đời một lực lượng thụ động, yếu kém và không hiệu quả.28
Trong khi bản thân lý giải này đã là khá thuyết phục, bài phân tích sẽ xem xét thêm một số nguyên nhân tiềm năng của sự yếu kém này, bên cạnh việc nghiên cứu những triển vọng cho việc cải tổ, tiềm năng cho việc phát triển xa hơn nữa hợp tác quốc tế về an ninh biển, và các gợi ý mang tính chiến lược liên quan đến an ninh Đông Á.
Phần tiếp theo Lực lượng Cảnh sát Biển của Cục Quản lý Biên phòng (BCD)
Lyle J. Goldstein, Trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ
Hiếu Minh, Ngọc Trang, Hà Tuyên (dịch)
Đỗ Thị Thủy (hiệu đính)
Bản  gốc tiếng Anh "Five Dragons Stirring Up the Sea - Challenge and Opportunity in China's Improving Marritime Enforcement Capabilities ", Tạp chí Nghiên cứu biển Trung Quốc, số 5, tháng 4/2010, Trường Cao đẳng Hải chiến, Newport, Rhode Island, Hoa Kỳ

Đề nghị chỉ được dẫn đường link mọi thông tin, bài viết  trên www.nghiencuubiendong.vn, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập NCBĐ
CHÚ THÍCH
* Quan điểm trình bày trong bài này là của riêng tác giả và không phản ánh quan điểm của Hải quân hay các cơ quan khác của Chính phủ Hoa Kỳ.
** Các bức ảnh lấy từ Diễn đàn Quốc phòng Trung Quốc đã được cho phép sử dụng. Các bức ảnh khác lấy từ các ấn phẩm chính thức của Hoa Kỳ và Trung Quốc.
1.  Tara Bahrampour and Philip Pan, “U.S. Military Ship Delivers Aid to Georgia,” Washington Post, ngày 28 tháng 8 năm 2008, trang A14.
2.  “Japan Says ‘Spy Ship’ Fired Rockets,” BBC, ngày 25 tháng 12 năm 2001, news.bbc.co.uk/1/hi/world/asia-pacific/1727867.stm.
3.  “Japan Admits Coast Guard ‘Partially at Fault’ in Fishing Boat Sinking,” Weekly Japan Update ngày 20 tháng 6 năm 2008, có tại địa chỉ www.japanupdate.com/?id=8741.
4.  Vivex Raghuvanshi, “Indian Coast Guard to Buy Six New Aircraft,” Defense News, ngày 9 tháng 9 năm 2008, trang 30.
5.  Choe Sang-hun, “Desolate Dots in the Sea Stir Deep Emotions as South Korea Resists a Japanese Claim,” New York Times, ngày 31 tháng 8 năm 2008.
6.  Richard J. Samuelson, “New Fighting Power: Japan’s Growing Maritime Capabilities and East Asian Security,” Journal of Strategic Studies 32, số 3 (Mùa đông 2007/08), trang 84-112.
7.  M. Taylor Fravel, “Securing Borders: China’s Doctrine and Force Structure for Frontier Defense,” Journal of Strategic Studies 30, số 4–5 (tháng 8-10), trang 709.
8.  Một số sách quan trọng nhất viết về việc triển khai hải quân Trung Quốc bao gồm Bruce Swanson, Eighth Voyage of the Dragon: A History of China’s Quest for Seapower (Annapolis, Md.: Naval Institute Press, 1982); John Wilson Lewis và Xue Litai, China’s Strategic Seapower: The Politics of Force Modernization in the Nuclear Age (Stanford, Calif.: Stanford Univ. Press, 1994); Bernard D. Cole, The Great Wall at Sea: China’s Navy Enters the 21st Century (Annapolis, Md.: Naval Institute Press, 2001); and Andrew S. Erickson, Lyle J. Goldstein, William S. Murray, và Andrew R. Wilson, China’s Future Nuclear Submarine Force (Annapolis, Md.: Naval Institute Press, 2007). Một số báo cáo của chính phủ cũng  hữu ích, đặc biệt là Ronald O’Rourke, China’sNaval Modernization: Implications for U.S. Navy Capabilities: Background and Issues for Congress, Báo cáo cho Quốc hội, Mã đăng ký RL33153 (Washington, D.C.: Cơ quan Nghiên cứu thuộc Quốc hội, ngày 18 tháng 11 năm 2005 (bản báo cáo này liên tục được cập nhật trong những năm gần đây); và Bộ Hải quân Mỹ, Hải quân của Trung Quốc năm 2007 (Suitland, Md.: Office of Naval Intelligence, 2007).
9. Một bài viết đáng biểu dương nhằm hiểu rõ về cách tiếp cận của Trung Quốc đối với các vấn đề an ninh phi truyền thống là Susan L Craig, Chinese Perceptions of Traditional and Nontraditional Security Threats (Carlisle, Pa.: U.S. Army War College, 2007). Tuy nhiên, bài viết này không bàn tới cảnh sát biển, hoặc các vấn đề an ninh biển nói chung.
10.  Thuật ngữ này được sử dụng để mô tả chức năng của các cảnh sát biển trong cuốn sách của Geoffrey Till, Seapower: A Guide for the Twenty-first Century (London: Frank Cass, 2004), trang 333.
11. Cần chú ý rằng vấn đề các cơ quan cạnh tranh nhau trong lĩnh vực quản lý biển không chỉ xảy ra với Trung Quốc. Thậm chí ở Mỹ, Biên phòng và Hải quan (Customs and Border Protection), Cơ quan Đánh cá Biển Quốc gia (National Marine Fisheries Service) và Cục Quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia Mỹ cũng bố trí các tàu để nghiên cứu và quản lý biển. Tuy nhiên, khác biệt cơ bản là các cơ quan thẩm quyền biển của Mỹ hoạt động như là “trung tâm trọng lực” của quốc gia cho việc đảm bảo chính sách về biển và việc thực thi các chính sách này. Để biết thêm chi tiết về cuộc tranh luận về  những sự khác nhau liên quan đến cách thức tổ chức, xem Bernard Moreland [Capt, USCG], “U.S.-China Civil Maritime Engagement” (bản thảo, Hội nghị thường niên lần thứ 3 của Viện nghiên cứu biển Trung Quốc, trường Cao đẳng Hải chiến Mỹ ( U.S. Naval War College), báo cáo, R.I., ngày 6 tháng 12 năm 2007) trang 1–2.
12.  Samuelson, “New Fighting Power,” trang 99–102. Bản phân tích này nêu lên các khả năng ấn tượng của cảnh sát biển của Nhật Bản nhưng cũng có một số hạn chế nổi bật (ví dụ, trong cuộc chiến chống tàu ngầm và triển khai sức mạnh trên bờ)
13.  何忠, 任兴平, 冯水利, 罗宪芬, 刘景鸿 [Hà Trung Long - He Zhonglong, Nhiệm Hưng Bình - Ren Xingping, Phùng Thủy Lợi - Feng Shuili, La Tiên Phân - Luo Xianfen, và Lưu Cảnh Hồng - Liu Jinghong- nd], 中国海岸警卫队组建研究 [Nghiên cứu về việc Phát triển Lực lượng tuần duyên Biển Trung Quốc] (Bắc Kinh: Báo Hải Dương, 2007). Tầm quan trọng của quyển sách này được củng cố bằng việc xuất hiện một số lượng lớn các bài báo của cùng tác giả hoặc gần như của cùng các tác giả trong một loạt các tạp chí dân sự và quân sự biển chuyên nghiệp về vấn đề phát triển lực lượng tuần duyên biển Trung Quốc. Ví dụ, các bài báo sau được xuất bản trong tập san của Cục quản lý Hải Dương học Quốc gia: 忠龙, 任兴平, 冯水利 [Hà Trung Long - He Zhonglong, Nhiệm Hưng Bình - Ren Xingping, Phùng Thủy Lợi - Feng Shuili-nd ], “我国海上综合执法 的特点及对策” [Việc đảm bảo thực thi luật biển toàn diện của đất nước chúng ta: Đặc điểm và Giải pháp], 海洋开发与管理 [Phát triển và Quản lý Đại dương] 25, số 1 (2008), trang 100–102; và 何忠龙, 任兴平, 冯永利 [Hà Trung Long - He Zhonglong, Nhiệm Hưng Bình - Ren Xingping, , và Phùng Vĩnh Lợi - Feng Yongli-nd], “我国海岸警卫队组建模式探讨”[Điều tra việc phát triển Cảnh sát Biển Quốc gia của chúng ta], 海洋开发与管理 [[Phát triển và Quản lý Đại dương] (tháng 6, 2006), trang 112–13. Bài này đặc biệt có ý nghĩa vì ở một chừng mực nhất định, nó nêu lên ý nghĩa rằng các nhà tư tưởng trong các cơ quan Chính phủ Trung Quốc đang vượt ra ngoài khuôn khổ tổ chức của mình và lên tiếng với một cộng đồng rộng lớn hơn bao gồm các nhà làm chính sách về biển. Các bài viết khác cũng của nhóm nghiên cứu này bao gồm 何忠龙, 任兴平, 冯永利 [Hà Trung Long - He Zhonglong, Nhiệm Hưng Bình - Ren Xingping, , and Phùng Vĩnh Lợi - Feng Yongli-nd], “组建中国海岸警卫队初探” [Nghiên cứu sơ bộ về việc xây dựng/thành lập cảnh sát biển của Trung Quốc], 事学术 [Nghệ thuật Quân sự] (tháng 11, 2006), trang 52–53; và 何忠龙, 赵久利, 任兴平 [Hà Trung Long - He Zhonglong, Nhiệm Hưng Bình - Ren Xingping, Phùng Thủy Lợi - Feng Shuili-nd], “中国海岸警卫队兵力部署综合评定指标体系研究” [Nghiên cứu về Hệ thống Hướng dẫn Toàn diện để đánh giá việc bố trí cảnh sát Biển của Trung Quốc], 装备指挥技术学院学报 [tập san của Học viện Điều khiển thiết bị và Công nghệ] (tháng 12, 2006), trang. 1–5.
14.  Một biểu hiện khác của thách thức về vấn đề bộ máy tổ chức của Bắc Kinh liên quan đến vấn đề biên giới biển của Trung Quốc là tuyên bố tháng 3 năm 2009 về việc thành lập Vụ Biên giới và Đại dương trực thuộc Bộ Ngoại giao. Động thái này có vẻ phản ánh một quan điểm rộng hơn rằng Trung Quốc thiếu một cơ quan có thẩm quyền, dẫn đầu về cả năng lực kỹ thuật và thẩm quyền để thể hiện quan điểm rõ ràng của Bắc Kinh trong vấn đề biên giới biển. Xem “New Chinese Government Agency to Manage Land, Maritime Disputes,” Kyodo World Service, ngày 5 tháng 5 năm 2009.
15.  Hà Trung Long  cùng các cộng sự, Nghiên cứu về việc phát triển cảnh sát Biển Trung Quốc, trang 69.
16.  Như trên, trang 145.
17.  Như trên, trang 3.
18.  Xem, ví dụ 白俊丰 [ Bạch Tuấn Phong - Bai Junfeng-nd], “中国海洋警察建设构想” [Quan niệm liên quan đến việc xây dựng cảnh sát biển của Trung Quốc], 海洋管理 [Quản lý biển] (tháng 3, năm 2006), trang 35.
19.  李培志 [Lí Bồi Trí - Li Peizhi-nd], 美国海岸警卫队 [Lực lương phòng vệ biển của Mỹ] (Bắc Kinh: Viện Khoa học Xã hội, 2005)  là một nghiên cứu đáng tin cậy của Trung Quốc về cảnh sát biển của Mỹ. Về cảnh sát biển của Nhật Bản, xem, ví dụ, 方新洲 [Phương Tân Châu - Fang Xinzhou-nd], 本海上保安厅概览” [Tổng quan về Cơ quan An ninh Biển của Nhật Bản], 海事达观 [Viễn cảnh về các vấn đề biển] (tháng 5, năm 2005), trang 33–37; 候建军 [Hầu Kiến Quân - Hou Jianjun], “日本第二支海上力量: 海上保安厅” [Lực lượng Biển thứ 2 của Nhật Bản: Cơ quan An ninh Biển], 舰船知识 [Tàu Hải quân và Tàu buôn] (tháng 10, 2006), trang 24–28; và 间舞 [Gian Vũ - Jian Wu-], “专盯钓鱼岛的日本海上保安厅第11管区” [Đơn vị thứ 11 của Cơ quan An ninh Biển Nhật Bản: Tập trung vào quần đảo Sensuka/Điếu Ngư Đài], 环球军事 [Các vấn đề Quân sự Toàn cầu] (tháng 7, năm 2008), trang 14–17.
20.  Thảo luận với các cán bộ liên kết của MSA và SOA, Thanh Đảo, tháng 4, 2008.
21.  Hà Trung Long - He Zhonglong cùng các cộng sự Nghiên cứu về việc Phát triển Cảnh sát Biển Trung Quốc, trang 36.
22.  Như trên, trang 142. Tập tài liệu về các thống kê này cho thấy tiềm lực của Trung Quốc nhỏ hơn so với khi tính số lượng của tàu và tải trọng đối với mỗi km2 biển trong vùng đặc quyền kinh tế.
23.  Như trên, trang 26.
24.  Như trên, trang 14.
25.  Như trên, trang 13.
26.  Như trên, trang 14.
27.  Bai Junfeng, “Quan niệm liên quan đến việc xây dựng Cảnh sát Biển của Trung Quốc,” trang 38.
28.  Hà Trung Long - He Zhonglong cùng các cộng sự,  Phát triển/Xây dựng Cảnh sát Biển Trung Quốc, trang 4.


Tin cũ hơn:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét