Những chuyện khó tin ở “nghĩa địa” các vua Trần
02/06/2011 06:30
(VTC
News) - Các vị vua Trần, những người đã gây dựng nên một thời đại rực
rỡ nhất của nền văn minh Đại Việt, đã từng 3 lần đánh bại quân Nguyên
Mông, hiện đang bị người đời lãng quên – một sự lãng quên rất tủi.
Mới đây, nhà sử học Đặng Hùng (Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình) đã xuất bản cuốn sách: “Long Hưng – đất phát nghiệp Vương triều Trần”, rủ tôi về vùng Long Hưng xưa để viếng các vua Trần, tiện thể tham quan các công trình đền đài, di tích lịch sử có tuổi 700 năm.
Ông Hùng đã bỏ mấy chục năm nghiên cứu về đời Trần ở đất Thái Bình và không ít công trình của ông đã gây tranh cãi, chú ý lớn trên các diễn đàn lịch sử.
Giờ đây, vùng đất phát nghiệp của một triều đại rạng rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam chỉ còn lại những di tích ít ỏi là những ngôi chùa, đền thờ nhỏ bé, khiêm tốn sau lũy tre làng.
Đi qua cánh đồng làng Tam Đường (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình), tôi chợt sửng sốt khi tận mắt những “quả đồi” sừng sững nhô lên giữa cánh đồng. Thái Bình vốn là tỉnh duy nhất của đất nước không có đồi núi, vậy những “quả đồi” này ở đâu ra.
Tôi vốn có nhiều lần bỏ công sức nghiên cứu, tìm hiểu về những “quả đồi” như thế này ở giữa cánh đồng vùng Hải Dương, và tôi nghĩ ngay đến những ngôi mộ Hán.
Hải Dương vốn là vùng đất trung tâm của thời Bắc thuộc, nơi các thứ sử Giao Châu từ Trung Quốc cổ đại sang lập trang ấp, cai trị quận Giao Chỉ. Quan lớn, nhà giàu chết đi, họ xây dựng mộ gạch hoặc mộ cũi khổng lồ, đắp hàng ngàn khối đất trùm lên mộ thành những quả đồi lớn giữa cánh đồng.
Nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành (nguyên giám đốc Bảo tàng Hải Dương) bảo rằng, không cần phải là nhà sử học, cứ thấy giữa cánh đồng bằng phẳng vùng Hải Dương, có gò đất nổi lên khỏi mặt ruộng, cao vài mét, hoặc như quả đồi nhỏ, thì đích thị là mộ Hán, có thể là mộ gạch, hoặc mộ cũi (mộ xếp gỗ).
Liên tưởng đến câu chuyện về mộ Hán ở Hải Dương, tôi chỉ tay về phía những “quả đồi” giữa cánh đồng làng Tam Đường nói với nhà sử học Đặng Hùng rằng, đó chính là những ngôi mộ Hán. Chỉ có điều khó hiểu, là vùng đất Thái Bình gần 2000 năm trước, còn sình lầy, lau sậy, không hiểu sao đã có mộ Hán mọc lên? Nhà sử học Đặng Hùng cười bảo: “Không phải mộ Hán, mộ các vua Trần đấy!”.
Tôi lại chợt nhớ đến lời ông Tăng Bá Hoành, rằng hai loại mộ Hán, gồm mộ gạch và mộ cũi tồn tại ở Việt Nam đến tận thời Lý, thời Trần, chỉ có điều quy mô nhỏ hơn thời Bắc thuộc. Như vậy, có nghĩa là, có thể các vị vua Trần hiện đang nằm trong những ngôi mộ gạch hoặc mộ cũi xếp gỗ? Nhưng có điều khiến tôi băn khoăn, đó là, thời Trần, là thời kỳ thịnh hành của phật giáo, thì thường hỏa táng, nên chỉ còn tro cốt đặt trong các am tháp, chứ làm gì có mộ đắp đất hoành tráng như thế này? Những câu hỏi như thế thật thú vị, cứ ma mị, cuốn hút tôi đi tìm hiểu.
Theo nhà sử học Đặng Hùng, vùng đất Long Hưng, mà cụ thể là làng Tam Đường này, từng là nơi chôn cất, đặt cốt của các vị vua Trần. Ngay cả chuyện tổ chức tang lễ, chôn cất ngọc cốt của Điều Ngự Giác Hoàng (vua Trần Nhân Tông) ở lăng Quy Đức, tại Long Hưng cũng là điều có có thật. Mặc dù vua Trần Nhân Tông băng ở Am Ngọa Vân trên núi Yên Tử, nhưng xá lị của ngài cũng được an táng một phần ở đây.
Ngoài lăng mộ của vua Trần Nhân Tông, tại làng Tam Đường còn có phần mộ của Thái Tổ Trần Thừa, vua Trần Cảnh, Trần Thánh Tông. Sách "Kiến văn tiểu lục" của Lê Quý Đôn chép: "Thái Đường, huyện Ngự Thiên có bốn cái lăng: Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông, lại có lăng của bốn hoàng hậu".
Nhưng trải 700 năm, mưa nắng bào mòn, chiến tranh tàn phá liên miên, nên hiện ở làng Thái Đường chỉ còn lại 3 lăng mộ của các vua Trần. Nhân dân trong vùng gọi 3 gò mộ to như quả đồi này là “gò mả vua”, mỗi gò đều có tên riêng là Phần Bụt, Phần Trung, Phần Đa.
Cách đây mấy chục năm còn có ngôi mộ tên Phần Cựu, quy mô cực kỳ to lớn. Nhưng ngôi mộ này đã được khai quật. Theo ông Hùng, các nhà sử học đã xác nhận đó là mộ thời Trần, và ngôi mộ đó của Trần Thừa. Hiện quan tài, ngọc cốt vẫn giữ ở Bảo tàng Thái Bình.
Nhà nghiên cứu Đặng Hùng đoán rằng, ngôi mộ mà nhân dân gọi là Phần Bụt, có thể là mộ của vua Trần Nhân Tông. Ông lý giải thế này: Bụt có thể hiểu là Phật. Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong tác phẩm "Theo gót chân Bụt", thì lúc đầu, khi giác ngộ chân lý của đạo Phật, Đức Phật Tổ cho rằng đạo của người là đạo "Tỉnh thức". "Tỉnh thức" nói theo tiếng Magadhi là Budn (tức là Bụt).
Với những suy luận trên, ông Hùng cho rằng, rất có thể ngôi mộ có tên Phần Bụt theo cách gọi truyền miệng của nhân dân làng Tam Đường, chính là mộ của đức vua Trần Nhân Tông. Ngôi mộ trải 700 năm đã bị mài mòn khá thấp, nhưng mấy chục năm trước đã được nhân dân sửa sang, tôn đắp.
Trong cuộc khai quật ngôi mộ Phần Cựu, các nhà khoa học mô tả ngôi mộ như sau: Dưới cùng, trong lõi ngôi mộ là quách gỗ, gồm những súc gỗ lim lớn, xếp thành căn phòng nhỏ, kín khít trong lòng đất. Lớp đất sét được đắp kín quách gỗ. Trên lớp đất sét là vách đá. Hàng ngàn mét khối cát sỏi rải xung quanh và lấp kín vách đá. Trên lớp cát sỏi lại có một lớp đất sét dày, nện rất chặt.
Cho đến nay, dù cuộc khai quật đã trải qua 30 năm, song những bí ẩn trong ngôi mộ vua khổng lồ vẫn chưa được sáng tỏ, các tài liệu vẫn nằm im, phủ bụi trong bảo tàng. Các ngôi mộ vua vẫn nằm đó, trơ trọi giữa cánh đồng và cũng chưa chắc chắn là mộ của vị vua nào.
Lần giở các tài liệu lịch sử, mới biết, năm 1381, nhà Trần đã cho chuyển lăng mộ của các tiên đế từ Long Hưng (Thái Bình) về An Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh). Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Tháng 6, rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương (Nam Định), Thái Đường (Hưng Hà, Thái Bình), Long Hưng, Kiến Xương đưa về lăng lớn ở Yên Sinh để tránh nạn người Chiêm Thành vào cướp”.
Nhà sử học Đặng Hùng khẳng định rằng, cốt các vị vua vẫn nằm trong mộ ở Tam Đường, bởi khi đó nhà Trần chỉ rước tượng thờ về An Sinh mà thôi. Tuy nhiên, phần lớn các nhà sử học hàng đầu Việt Nam đều khẳng định nhà Trần đã đưa cốt các vua từ làng Tam Đường về xã An Sinh, rồi xây dựng khu lăng mộ lớn là Lăng Tư Phúc, xây dựng điện thờ lớn là điện An Sinh để thờ tự các vị vua này.
Như vậy, hài cốt (nếu còn), tro cốt, hoặc xá lị của các vị vua nằm trong các ngôi mộ khổng lồ này đã được quật lên chuyển về An Sinh dưới chân núi Yên Tử, là quê hương gốc gác của các vị vua Trần? Nếu như vậy thì những ngôi mộ này chỉ còn là đống đất, là xác mộ?
Tò mò với câu chuyện về lăng mộ các vua Trần, tôi tìm về xã An Sinh nằm dưới chân dãy núi Yên Tử.
Câu chuyện đi tìm lăng mộ những vị vua di chuyển từ Thái Bình ra Quảng Ninh đã đưa tôi đến rất nhiều bất ngờ. Tôi đã có những ngày tìm hiểu, chứng kiến, và nghe rất nhiều chuyện đau lòng. Các vị vua Trần, những người đã gây dựng nên một thời đại rực rỡ nhất của nền văn minh Đại Việt, đã từng 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông, hiện đang bị người đời lãng quên – một sự lãng quên rất tủi.
Còn tiếp…
Phạm Ngọc Dương
Mới đây, nhà sử học Đặng Hùng (Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình) đã xuất bản cuốn sách: “Long Hưng – đất phát nghiệp Vương triều Trần”, rủ tôi về vùng Long Hưng xưa để viếng các vua Trần, tiện thể tham quan các công trình đền đài, di tích lịch sử có tuổi 700 năm.
Ông Hùng đã bỏ mấy chục năm nghiên cứu về đời Trần ở đất Thái Bình và không ít công trình của ông đã gây tranh cãi, chú ý lớn trên các diễn đàn lịch sử.
Bìa cuốn sách viết về nhà Trần ở Thái Bình của nhà nghiên cứu Đặng Hùng. |
Giờ đây, vùng đất phát nghiệp của một triều đại rạng rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam chỉ còn lại những di tích ít ỏi là những ngôi chùa, đền thờ nhỏ bé, khiêm tốn sau lũy tre làng.
Đi qua cánh đồng làng Tam Đường (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình), tôi chợt sửng sốt khi tận mắt những “quả đồi” sừng sững nhô lên giữa cánh đồng. Thái Bình vốn là tỉnh duy nhất của đất nước không có đồi núi, vậy những “quả đồi” này ở đâu ra.
Tôi vốn có nhiều lần bỏ công sức nghiên cứu, tìm hiểu về những “quả đồi” như thế này ở giữa cánh đồng vùng Hải Dương, và tôi nghĩ ngay đến những ngôi mộ Hán.
Những ngôi mộ vua Trần ở Thái Bình. |
Hải Dương vốn là vùng đất trung tâm của thời Bắc thuộc, nơi các thứ sử Giao Châu từ Trung Quốc cổ đại sang lập trang ấp, cai trị quận Giao Chỉ. Quan lớn, nhà giàu chết đi, họ xây dựng mộ gạch hoặc mộ cũi khổng lồ, đắp hàng ngàn khối đất trùm lên mộ thành những quả đồi lớn giữa cánh đồng.
Nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành (nguyên giám đốc Bảo tàng Hải Dương) bảo rằng, không cần phải là nhà sử học, cứ thấy giữa cánh đồng bằng phẳng vùng Hải Dương, có gò đất nổi lên khỏi mặt ruộng, cao vài mét, hoặc như quả đồi nhỏ, thì đích thị là mộ Hán, có thể là mộ gạch, hoặc mộ cũi (mộ xếp gỗ).
Tượng thờ vua Trần ở đền An Sinh. |
Liên tưởng đến câu chuyện về mộ Hán ở Hải Dương, tôi chỉ tay về phía những “quả đồi” giữa cánh đồng làng Tam Đường nói với nhà sử học Đặng Hùng rằng, đó chính là những ngôi mộ Hán. Chỉ có điều khó hiểu, là vùng đất Thái Bình gần 2000 năm trước, còn sình lầy, lau sậy, không hiểu sao đã có mộ Hán mọc lên? Nhà sử học Đặng Hùng cười bảo: “Không phải mộ Hán, mộ các vua Trần đấy!”.
Tôi lại chợt nhớ đến lời ông Tăng Bá Hoành, rằng hai loại mộ Hán, gồm mộ gạch và mộ cũi tồn tại ở Việt Nam đến tận thời Lý, thời Trần, chỉ có điều quy mô nhỏ hơn thời Bắc thuộc. Như vậy, có nghĩa là, có thể các vị vua Trần hiện đang nằm trong những ngôi mộ gạch hoặc mộ cũi xếp gỗ? Nhưng có điều khiến tôi băn khoăn, đó là, thời Trần, là thời kỳ thịnh hành của phật giáo, thì thường hỏa táng, nên chỉ còn tro cốt đặt trong các am tháp, chứ làm gì có mộ đắp đất hoành tráng như thế này? Những câu hỏi như thế thật thú vị, cứ ma mị, cuốn hút tôi đi tìm hiểu.
|
Theo nhà sử học Đặng Hùng, vùng đất Long Hưng, mà cụ thể là làng Tam Đường này, từng là nơi chôn cất, đặt cốt của các vị vua Trần. Ngay cả chuyện tổ chức tang lễ, chôn cất ngọc cốt của Điều Ngự Giác Hoàng (vua Trần Nhân Tông) ở lăng Quy Đức, tại Long Hưng cũng là điều có có thật. Mặc dù vua Trần Nhân Tông băng ở Am Ngọa Vân trên núi Yên Tử, nhưng xá lị của ngài cũng được an táng một phần ở đây.
Ngoài lăng mộ của vua Trần Nhân Tông, tại làng Tam Đường còn có phần mộ của Thái Tổ Trần Thừa, vua Trần Cảnh, Trần Thánh Tông. Sách "Kiến văn tiểu lục" của Lê Quý Đôn chép: "Thái Đường, huyện Ngự Thiên có bốn cái lăng: Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông, lại có lăng của bốn hoàng hậu".
Du khách hành hương lên Chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử. |
Nhưng trải 700 năm, mưa nắng bào mòn, chiến tranh tàn phá liên miên, nên hiện ở làng Thái Đường chỉ còn lại 3 lăng mộ của các vua Trần. Nhân dân trong vùng gọi 3 gò mộ to như quả đồi này là “gò mả vua”, mỗi gò đều có tên riêng là Phần Bụt, Phần Trung, Phần Đa.
Cách đây mấy chục năm còn có ngôi mộ tên Phần Cựu, quy mô cực kỳ to lớn. Nhưng ngôi mộ này đã được khai quật. Theo ông Hùng, các nhà sử học đã xác nhận đó là mộ thời Trần, và ngôi mộ đó của Trần Thừa. Hiện quan tài, ngọc cốt vẫn giữ ở Bảo tàng Thái Bình.
Chùa Hoa Yên. |
Nhà nghiên cứu Đặng Hùng đoán rằng, ngôi mộ mà nhân dân gọi là Phần Bụt, có thể là mộ của vua Trần Nhân Tông. Ông lý giải thế này: Bụt có thể hiểu là Phật. Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong tác phẩm "Theo gót chân Bụt", thì lúc đầu, khi giác ngộ chân lý của đạo Phật, Đức Phật Tổ cho rằng đạo của người là đạo "Tỉnh thức". "Tỉnh thức" nói theo tiếng Magadhi là Budn (tức là Bụt).
Với những suy luận trên, ông Hùng cho rằng, rất có thể ngôi mộ có tên Phần Bụt theo cách gọi truyền miệng của nhân dân làng Tam Đường, chính là mộ của đức vua Trần Nhân Tông. Ngôi mộ trải 700 năm đã bị mài mòn khá thấp, nhưng mấy chục năm trước đã được nhân dân sửa sang, tôn đắp.
Trong cuộc khai quật ngôi mộ Phần Cựu, các nhà khoa học mô tả ngôi mộ như sau: Dưới cùng, trong lõi ngôi mộ là quách gỗ, gồm những súc gỗ lim lớn, xếp thành căn phòng nhỏ, kín khít trong lòng đất. Lớp đất sét được đắp kín quách gỗ. Trên lớp đất sét là vách đá. Hàng ngàn mét khối cát sỏi rải xung quanh và lấp kín vách đá. Trên lớp cát sỏi lại có một lớp đất sét dày, nện rất chặt.
Đền An Sinh thờ các vị vua Trần. |
Cho đến nay, dù cuộc khai quật đã trải qua 30 năm, song những bí ẩn trong ngôi mộ vua khổng lồ vẫn chưa được sáng tỏ, các tài liệu vẫn nằm im, phủ bụi trong bảo tàng. Các ngôi mộ vua vẫn nằm đó, trơ trọi giữa cánh đồng và cũng chưa chắc chắn là mộ của vị vua nào.
Lần giở các tài liệu lịch sử, mới biết, năm 1381, nhà Trần đã cho chuyển lăng mộ của các tiên đế từ Long Hưng (Thái Bình) về An Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh). Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Tháng 6, rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương (Nam Định), Thái Đường (Hưng Hà, Thái Bình), Long Hưng, Kiến Xương đưa về lăng lớn ở Yên Sinh để tránh nạn người Chiêm Thành vào cướp”.
Nhà sử học Đặng Hùng khẳng định rằng, cốt các vị vua vẫn nằm trong mộ ở Tam Đường, bởi khi đó nhà Trần chỉ rước tượng thờ về An Sinh mà thôi. Tuy nhiên, phần lớn các nhà sử học hàng đầu Việt Nam đều khẳng định nhà Trần đã đưa cốt các vua từ làng Tam Đường về xã An Sinh, rồi xây dựng khu lăng mộ lớn là Lăng Tư Phúc, xây dựng điện thờ lớn là điện An Sinh để thờ tự các vị vua này.
Khu Lăng mộ Thái sư Trần Thủ Độ ở xã Liên Hiệp huyện Hưng Hà mới được tôn tạo. |
Như vậy, hài cốt (nếu còn), tro cốt, hoặc xá lị của các vị vua nằm trong các ngôi mộ khổng lồ này đã được quật lên chuyển về An Sinh dưới chân núi Yên Tử, là quê hương gốc gác của các vị vua Trần? Nếu như vậy thì những ngôi mộ này chỉ còn là đống đất, là xác mộ?
Tò mò với câu chuyện về lăng mộ các vua Trần, tôi tìm về xã An Sinh nằm dưới chân dãy núi Yên Tử.
Câu chuyện đi tìm lăng mộ những vị vua di chuyển từ Thái Bình ra Quảng Ninh đã đưa tôi đến rất nhiều bất ngờ. Tôi đã có những ngày tìm hiểu, chứng kiến, và nghe rất nhiều chuyện đau lòng. Các vị vua Trần, những người đã gây dựng nên một thời đại rực rỡ nhất của nền văn minh Đại Việt, đã từng 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông, hiện đang bị người đời lãng quên – một sự lãng quên rất tủi.
Còn tiếp…
Phạm Ngọc Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét