Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Cái khổ nạn của một quốc gia nhược tiểu

Sông Hàn - Cái khổ nạn của một quốc gia nhược tiểu


Quá lo ngại việc Hoa Kỳ và Trung Quốc tranh dành ảnh hưởng, thậm chí là phát động chiến tranh nhằm vào nhau, đe dọa trực tiếp tới Úc Châu, Hungh White đã đề cập giải pháp “xử Hòa” theo đó Hoa Kỳ nên nhượng 3 nước Đông Dương cho Trung Quốc.

Nhượng ở đây là chấp nhận ba nước Đông Dương trở thành những vệ tinh của Trung Hoa, Hungh White hi vọng với giải pháp này China sẽ thỏa mãn và quyền lợi của Úc nhờ vậy được bảo đảm.
Liệt cường trao đổi trên đất Việt Nam

Trong suốt thời cận hiện đại, lịch sử Việt Nam đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc mua bán, đổi chác của liệt cường trên chính dải đất chữ S này. Thời Cận Đại, khi Trung Quốc (Thanh triều) và Pháp Quốc đụng nhau trên chiến trường Bắc Kỳ, người ta đã nghe tới giải pháp: Phân chia vùng đất này thành hai phần, theo đó Trung Quốc sẽ lấy Bắc Kỳ mỏ còn người Pháp thôn tính Bắc Kỳ gạo.

Rất may mắn cho Việt Nam cả khi đấy và tương lai trăm năm sau này đó là việc người Pháp đã không nỡ chối bỏ miếng bánh to. Quân Pháp tấn công quân Thanh trên toàn cõi Bắc Kỳ, hải chiến nổ ra khắp vùng biển Đông Nam Trung Hoa. Trên chiến trường Bắc Kỳ quân Thanh đại bại, hạm đội Phúc Kiến cũng bị người Pháp đánh cho tan nát, lãnh thổ Việt Nam được bảo tồn cho đến ngày nay.

Từ Giơ - ne – vơ (1954) cho chí Thượng Hải (1972) lần lượt VN DCCH rồi VNCH bị đem ra trao đổi hoặc phó mặc cho số phận đẩy đưa.
Trong vòng xoáy China

Biển Đông đã nổi sóng gió từ gần bốn chục năm nay và càng ngày càng xuất hiện nhiều những cuộc đua thể lực, những cựu thực lực ngày càng quan tâm và thậm chí sẵn sàng can dự vào khu vực. Còn về phía Việt Nam? Luôn đi sau về mặt nhận thức, Việt Nam đang phải chịu khuất lấp trước sức mạnh của con Rồng Trung Hoa.

Dư luận nhiều người bày tỏ quan ngại về việc Chính phủ cộng sản nhượng biển đảo, thậm chí cả đất liền cho Trung Quốc để đổi lấy quan hệ hữu hảo bốn tốt mười sáu chữ vàng. Thực hư chưa biết thế nào, nhưng công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng nói một cách khách quan thì vẫn cứ là nỗi nhức nhối khó xử cho Việt Nam

China hình như không cảm thấy cần có trách nhiệm với “bạn vàng”, quá thấu hiểu, họ liên tục gia tăng sức ép, thiết lập nên cái sợi thòng lọng quanh Việt Nam. Càng cố giẫy để cầu sống thòng lọng đó càng thít chặt lại và có thể nó chỉ lại một lỗ nhỏ cuống phổi đủ cho Việt Nam sống trong ốm đau, bệnh tật và lệ thuộc.

Gần đây, China đã chơi một nhát dao với Việt Nam và Phi Luật Tân khi Cam Bu Chia nắm giữ chức Chủ tịch ASEAn. Người Tầu cũng đã tràn lấp Thượng Lào, một phần tới Trung Lào. Lệnh cấm đánh bắt cá được người Trung Quốc đơn phương ban bố, tàu Hải Giám, Ngư Chính của nước này vần vũ trên biển Đông, bắt giữ, đánh đập ngư dân Việt Nam.

Biên giới trên biển thì đang được người Trung Quốc thiết lập bởi các dàn khoan di động và cả hạm đội hộ tống.

Mối họa về phụ thuộc kinh tế treo lơ lửng trên đầu mỗi người Việt Nam mà người ta có thể kể ra mấy ví dụ về nông nghiệp và dệt may. Sản phẩm nông nghiệp liên tục trồi trụt theo giá thu mua của nhà buôn Trung Quốc, Dệt may thì không hiểu vì lý do gì toàn bộ nguyên phụ liệu gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn hàng Made in China. Các nguyên phụ liệu xuất xứ Ấn Độ, Băng La Đét, Indonexia gần như không có cơ hội cạnh tranh với hàng Trung Quốc.

Không gian văn hóa – chính trị Đông Bắc Á ngày càng trở nên chật chội, bí bách, lạc hậu và kìm hãm sự phát triển của Việt Nam (thậm chí ngay cả đối với Trung Quốc). Muốn phát triển, muốn quốc gia phú cường mà bảo tồn hay cố sống trong không gian này là điều không thể.
Gồng mình chống đỡ

Điều kỳ lạ là Việt Nam vừa phải gồng mình chống lại áp lực từ phương Bắc nhưng lại không tỏ ra bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy mình muốn thoát khỏi vòng ảnh hưởng của thế lực ngàn năm này. Người dân gần như bơ ngơ, rợn ngợp và không có lối thoát khi đi giữa vòng xoáy Trung Hoa còn Nhà nước thì loay hoay vừa cố gắng chống đỡ vừa như muốn xin China để yên cho mình sống, cho doanh dự của chính mình.

“Sơn thủy tương liên
Văn hóa tương đồng
Lý tưởng tương thông
Vận mệnh tương quan”

Mấy câu đó vừa nói lên cái cốt cách của Văn hóa Đông Bắc Á, vừa có dụ ý cảnh báo Việt Nam về thứ vận mệnh – tồn vong đã gắn kết hai nhà nước Cộng Sản. Tứ tương (hay 16 vàng) này kỳ thực không khác gì thứ mà người ta gọi là “đồng bệnh tương lân”- Bệnh ngàn năm của Đông Á.

Mặc thế hai con bệnh này vẫn cứ phải đối kháng nhau bởi chính danh dự và vị thế chính danh của mỗi đảng cầm quyền. Trong bối cảnh eo hẹp kinh tế, Việt Nam phải gồng mình chống đỡ, một loạt doanh nghiệp được khuyến khích sang Lào đầu tư, một số cảng biển ở miền Trung được khai mở, Cảng Việt Lào (Vũng Áng – Hà Tĩnh) hình thành cận kề ngay ở khu gang thép Formosa (Kỳ Anh - Hà Tĩnh).

Việt Nam quyết giữ lại Trung và Hạ Lào nhằm bảo đảm chiều sâu phòng thủ của mình.

Hiện giờ đã hình thành các tuyến đường Quốc lộ 1A (đang nâng cấp mở rộng), đường Hồ Chí Minh, Quốc Lộ ven biển đang được nối liền (gấp rút thi công kể cả khi kinh tế be bét, xiết chặn đầu tư công), Đường vành đai biên giới cũng đang được hình thành. Miền Trung đã có bốn tuyến đường, hình thành bốn tuyến phòng thủ, tiếp cứu và hỗ trợ lẫn nhau khi có chiến sự. Mới đây một loạt các xã vùng núi của Nghệ An tập trận (Thường niên).

Một loạt các hợp đồng vũ khí được Việt Nam ký kết với Nga nhằm hiện đại hóa Hải Quân và gia tăng khả năng răn đe trên biển. Tuy nhiên sức mạnh tác chiến thực sự của hệ thống vũ khí này đặc biệt là của các hộ vệ hạm tên lửa Gepard (nhân tố trung tâm của hạm đội Việt Nam) vẫn là một dấu hỏi để ngỏ.

Nhưng chừng đấy chưa là gì với sức ép mạnh mẽ từ Trung Quốc.

Sự vụ Hải Dương Thạch Du 981 cho thấy Việt Nam vô kế khả thi trước thế lực phương bắc này. Lực lượng cảnh sát biển, Kiểm ngư không thể làm gì hơn ngoài việc đấu công suất loa và chạy trở về kêu la về việc bị tàu Trung Quốc húc bẹp. Căng thẳng kéo dài đến giờ mà nói nhiều người đã chán khi nghe nói về đấu tranh trên biển chống giàn khoan Trung Quốc hạ đặt trái phép.

Vậy ứng xử của các cường quốc thì thế nào, họ chờ gì ở Việt Nam hay chờ gì ở những động thái tiếp theo của Trung Quốc? Những điều đó còn để ngỏ.

Anh có thể còn nghèo nhưng anh hành xử như những kẻ nhược tiểu thì không xứng đáng để có đồng minh tin cậy và vì thế không chắc đã có thể tự định đoạt được chủ quyền. Cái ước mơ đứng một mình (độc lập) trong cảnh nghèo mà hạnh phúc chẳng khác gì một thứ hàng xa xỉ và viển vông.
Sông Hàn
 
(FB. Sông Hàn)

Một học giả Trung Quốc tiết lộ thêm về Công hàm Phạm Văn Đồng

Có lẽ rất ít người Việt Nam biết đến chi tiết sau đây, liên quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng, mà học giả người Trung Quốc Li Jianwei (Lý Kiến Vĩ) công bố trong bài viết mới đây cho RSIS (Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, trực thuộc ĐH Công nghệ Nanyang, Singapore). Đó là, vào năm 1977, trong một cuộc gặp với chủ tịch Trung Quốc (khi đó là phó thủ tướng) Lý Tiên Niệm, ông Phạm Văn Đồng đã nói: “Trong cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải đặt việc chiến đấu chống đế quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.
Chi tiết đó giờ đây đã được Li Jianwei mang ra sử dụng trong bài viết của bà, khẳng định Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc (!). Đây là một lập luận rất nguy hiểm cho việc bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam.
* * *
TRUNG QUỐC, VIỆT NAM VÀ HOÀNG SA: ĐÃ ĐẾN LÚC CÓ LỐI THOÁT?
 
Li Jianwei

Tóm tắt

Vụ đôi co kéo dài giữa Trung Quốc và Việt Nam xoay quanh giàn khoan dầu HYSY 981 gây thiệt hại cho mối quan hệ giữa hai nước. Cần có sự khôn khéo về ngoại giao, sao cho cả hai nước đều có thể điều chỉnh cách làm của họ để đưa tình hình về trạng thái kiểm soát được.

Bình luận

Bất đồng giữa Trung Quốc và Việt Nam về giàn khoan dầu HYSY 981 kéo dài tới nay đã được hơn 40 ngày (bài viết này đăng ngày 24/6 tại mục Publications của RSIS – ND). Đã đến lúc cả hai bên – vốn kiểm soát thành công những xung đột, mâu thuẫn nhạy cảm trong quá khứ – phải nghiêm túc xem lại những thủ đoạn mà họ sử dụng sau sự cố 981.

Suy cho cùng, tranh chấp hiện nay là có hại cho quan hệ song phương, và đó là điều mà chính phủ cả hai nước đều không muốn. Những căng thẳng phát sinh từ tranh chấp cũng đang gây bất ổn cho khu vực Đông Nam Á.

Lập trường của Trung Quốc

Ngày 8/6/2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra một tuyên bố, cùng với 5 tài liệu đi kèm, để làm rõ lập trường của họ với cộng đồng quốc tế về một số vấn đề liên quan đến hoạt động của giàn khoan dầu HYSY 981.

Vào tháng 5/2014, giàn khoan dầu HYSY 981 của một công ty Trung Quốc đã tiến hành khoan thăm dò trong vùng biển tiếp giáp với quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa). Giai đoạn 1 bắt đầu vào ngày 2/5 và giai đoạn 2 vào ngày 27/5. Hai địa điểm hoạt động nằm ở vị trí 17 hải lý tính từ đảo Trung Kiến (Zhongjian, tên quốc tế là Triton, tức đảo Tri Tôn – ND) thuộc quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa – ND) và tính từ đường cơ sở của lãnh hải của quần đảo Tây Sa, trong khi đó, cách bờ biển đất liền Việt Nam tới xấp xỉ 133-156 hải lý (tức là 239-280 km – ND).

Hoạt động của giàn khoan là sự tiếp tục quá trình thăm dò khai thác thường lệ của công ty Trung Quốc và diễn ra hoàn toàn trong vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc.

Nói về chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, mở mang, khai thác và thực thi quyền tài phán trên nhóm đảo này. Cho đến thời Bắc Tống (năm 960-1126 Công nguyên), nhà nước Trung Quốc đã xác lập quyền tài phán đối với quần đảo Tây Sa từ trước, và đã đưa hải quân đến tuần tra ở vùng biển này. Năm 1909, đô đốc Li Zhun (Lý Chuẩn), Tư lệnh hải quân Quảng Đông thời nhà Thanh, còn dẫn đầu một đội thanh tra đến quần đảo Tây Sa và tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ở đây bằng việc treo cờ và bắn súng chào trên đảo Vĩnh Hưng (Yongxing, tên quốc tế Woody Island, tức là đảo Phú Lâm – ND).

Năm 1911, chính quyền nước Cộng hòa Trung Hoa (Trung Hoa Dân Quốc) ra quyết định đặt quần đảo Tây Sa và vùng biển lân cận vào dưới quyền tài phán của huyện Ya thuộc đảo Hải Nam.

Trong suốt thời gian Thế chiến II, Nhật Bản chiếm hữu quần đảo Tây Sa. Sau Thế chiến, theo một loạt văn kiện quốc tế, chính quyền Trung Quốc đã cử các quan chức cao cấp đến quần đảo Tây Sa này trên tàu quân sự, vào tháng 11/1946, để cử hành nghi thức tiếp nhận đảo, và một bia đá đã được dựng ở đây để kỷ niệm ngày Nhật trao trả đảo cho Trung Quốc.

Sau ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, quyền tài phán của Trung Quốc vẫn tiếp tục. Năm 1959, chính quyền Trung Quốc thành lập Cơ quan Quản lý các quần đảo Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa (tức là Hoàng Sa, bãi Macclesfield, và Trường Sa – ND).


Quần đảo Hoàng Sa (Paracel, Trung Quốc gọi là Xisha [Tây Sa]), bãi Macclesfield (Trung Quốc gọi là Zhongsa [Trung Sa]), quần đảo Trường Sa (Spratly, Trung Quốc gọi là Nansha [Nam Sa]) trên Biển Đông.

Công hàm Phạm Văn Đồng

Trong các quan điểm về sự cố giàn khoan mới đây, một lần nữa, công hàm năm 1958 của cựu thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cựu thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai lại được đưa ra. Trong công hàm, Thủ tướng Đồng tuyên bố rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ra ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về lãnh hải của Trung Quốc” và “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy”.

“Quyết định ấy” là nói đến tuyên bố của Trung Quốc, ra ngày 4/9/1958. Trong tuyên bố này, Trung Quốc thông báo “bề rộng của lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý” và “điều này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm… quần đảo Tây Sa”.

Có thể hiểu được là, các đại diện của phía Việt Nam đã cố gắng làm giảm tầm quan trọng của công hàm Phạm Văn Đông và muốn đưa ra một lời giải thích khác về việc tại sao công hàm này không làm lung lay yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa. Tuy nhiên, có một sự thực là trong một cuộc gặp vào năm 1977, chính ông Phạm Văn Đồng đã giải thích cho một người khi đó là Phó Thủ tướng Trung Quốc, ông Lý Tiên Niệm (Li Xiannian); và cái sự thực này quả thật đã làm suy yếu những lập luận hiện nay của Việt Nam nhằm đánh lạc hướng nội dung của công hàm Phạm Văn Đồng. Ấy là bởi vì trong cuộc gặp, ông Đồng có nói: “Nên hiểu các tuyên bố của chúng ta, kể cả tuyên bố trong công hàm của tôi gửi Thủ tướng Chu Ân Lai, như thế nào? Nên hiểu nó trong bối cảnh lịch sử của thời đại”, và “trong cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải đặt việc chiến đấu chống đế quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.

Rõ ràng là ông Đồng đã công nhận mục đích của tuyên bố của ông về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng lại đòi Trung Quốc hiểu nó trong bối cảnh lịch sử. Lập luận này đi ngược với nguyên tắc quốc tế “estoppels”, theo đó: Trong một tranh chấp cụ thể, tại một thời điểm nào đó, nếu một bên có thỏa thuận/ nhất trí ngầm, hoặc công nhận chủ quyền của một bên khác đối với một vùng lãnh thổ đang tranh chấp, thì sự công nhận hoặc nhất trí đó có hiệu lực pháp lý.

Kết quả là, bên nào đã nhất trí hoặc đã công nhận chủ quyền đang tranh cãi, thì sẽ không thể bác bỏ chủ quyền của bên kia đối với vùng lãnh thổ đang tranh cãi, và phải tôn trọng quyền của bên kia. Ngoài ra, việc Phạm Văn Đồng là thủ tướng của nước Việt Nam thống nhất từ ngày thống nhất cho đến tận năm 1986 cũng là một thực tế làm suy yếu lập luận của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền này.

Một lưu ý tích cực

Trong một bài bình luận gần đây trên RSIS, nhan đề “Hoàng Sa 40 năm qua”, tác giả – học giả Việt Nam, TS. Nguyễn Thị Lan Anh – có đề cập đến một trường hợp phân định thành công biên giới trên biển, đó là hiệp định giữa Trung Quốc và Việt Nam về Vịnh Bắc Bộ, năm 2000. Bà Lan Anh cho rằng các nguyên tắc mà hai nước đã áp dụng trong vụ Vịnh Bắc Bộ cũng có thể được vận dụng cho vùng biển giữa bờ biển đất liền Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa, mà trong đó có đảo Tri Tôn.

Chắc chắn là trong vụ phân định Vịnh Bắc Bộ, các nhà đàm phán của cả hai nước đã tuân thủ các nguyên tắc của luật quốc tế, bao gồm cả Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS), là tiến tới một thỏa thuận công bằng mà cả hai bên đều chấp nhận được, có tính đến những yếu tố khác nhau có liên quan. Biên giới trong Vịnh Bắc Bộ là biên giới hàng hải đầu tiên của Trung Quốc, và cũng là biên giới trên biển đầu tiên giữa Trung Quốc và Việt Nam. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho những cuộc đàm phán trong tương lai của họ về các phần khác trên Biển Đông.

Trung Quốc thừa nhận rằng vùng biển nằm giữa quần đảo Tây Sa và và bờ biển đất liền Việt Nam hiện chưa được phân định, và cả hai nước đều có quyền đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, căn cứ vào UNCLOS. Tuy nhiên, Trung Quốc giữ quan điểm cho rằng vùng biển xung quanh đảo Tri Tôn không phải là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cho dù áp dụng nguyên tắc nào vào việc phân định biên giới trên biển đi chăng nữa. Khoảng cách và vị trí địa lý chẳng có ý nghĩa gì cả.

Đề xuất hai nước ngồi vào bàn đàm phán trực tiếp là một đề xuất tích cực và mang tính xây dựng. Trung Quốc sẽ đồng ý tham gia đàm phán trực tiếp với Việt Nam, về việc phân định ranh giới hàng hải trong khu vực nằm giữa bờ biển đất liền Việt Nam và quần đảo Tây Sa.

Nếu đạt được một giải pháp công bằng và hợp lý, thì điều đó sẽ góp phần củng cố và thắt chặt quan hệ giữa hai nước, đồng thời cũng góp phần quan trọng cho hòa bình và ổn định trên Biển Đông.

Phạm Đoan Trang chuyển ngữ và giới thiệu
Theo blog Đoan Trang

Bà Li Jianwei là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Biển, Viện Quốc gia Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc. Bài này được viết riêng cho RSIS.
Nguồn: http://www.rsis.edu.sg/publications/Perspective/RSIS1182014.pdf

Nên đọc: Chuyện cái khăn lạnh


Hình ảnh các học sinh Hàn Quốc cởi trần rèn luyện dưới trời tuyết âm mấy độ, chứ không ngồi uống chè, nhét 2 tay vào đùi kêu rét quá rét quá như ở ta

Lúc Vietnam Airlines (VNA) mở đường bay thẳng đi London, cũng trùng hợp đợt đó mình sang Anh họp. Đi cùng là 2 anh bạn người Nhật. Mình ép 2 anh bạn đi VNA, nên phải ghé Tp HCM transit, chứ nếu không thì 2 bạn ấy bay từ Tokyo bay thẳng London, nhưng mình ép quá nên đành chiều lòng. Vì tiền vé mạnh ai nấy trả nên mình đi hạng ghế phổ thông, 2 anh bạn Nhật đi hạng doanh nhân, giá mắc gấp 3 lần nên mình muốn tiết kiệm. Mình có gì nói đó, thiệt thà chứ không có sĩ diện, nên 2 bạn Nhật hết sức yêu mến. Nhiều người khuyên nói mày làm việc với Tây không hà, nên phải diện cho nó xứng đáng. Chứ toàn cái Vina Giày, quần áo tự may hay của Dệt May An Phước, hay nước hoa cũng mùi lúa mới của mỹ phẩm Sài Gòn, quê mùa, toàn đồ Việt Nam không có xứng, phải dùng hàng hiệu. Bỏ thêm ít tiền ngồi trên khoang doanh nhân luôn, chứ ngồi chi dưới khoang kia, nó coi thường thì sao. Tony thì không quan tâm mấy, miễn là thấy đẹp, thấy hợp gu là dùng, nhưng thật ra vẫn có sự ưu tiên hàng Việt, vì tinh thần dân tộc. Một công dân tự trọng với sản phẩm quốc gia họ sản xuất thì dân tộc đó mới tự cường. Mình nên chinh phục bạn bè quốc tế bằng vẻ đẹp của trí tuệ, vẻ đẹp của sự chân thành, còn ngoại hình thì tử tế, sạch sẽ, tươm tất là được. Trong điều kiện hiện nay của mình, sang trọng quá thành ra không hay, mình thấy có lỗi với đồng bào của mình đang vất vả kiếm cái đưa vào bao tử cho no bụng, cho hết 1 đời người, ngoài kia.

Tony cũng hay đi Hàn Quốc, Nhật và thực sự thích cách làm, cách phát triển của họ. Người Đức cũng vậy, họ rất ủng hộ sản phẩm của nước họ với 1 tinh thần dân tộc mạnh mẽ, đôi lúc cực đoan, nhưng phù hợp cho 1 giai đoạn phát triển nào đó. Papa Kim, tức cha nuôi người Hàn Quốc của mình kể, lúc ông ấy đi học, tức thập niên 60-70, Hàn Quốc nghèo, nghèo hơn cả miền Nam Việt nam. Tổng thống Park Chung Hee lúc đó mới suy nghĩ cách nào để phát triển kinh tế, nên mới gửi quân đi đánh thuê, kiếm tiền về làm đường sá. Phải bán máu lúc cần thiết. Người Hàn Quốc trở thành số 1 thế giới về thời gian xây dựng đường cao tốc, nhanh nhưng có chất lượng vì họ nghiêm khắc với bản thân mình. Ở Sài Gòn, có xa lộ Đại Hàn là của họ làm, với chất lượng tương đương với 1 đường băng Tân Sơn Nhất, máy bay có thể sử dụng để đáp xuống. Có con đường là có tất cả.

Tinh thần dân tộc họ mạnh mẽ đến mức, cứ vào lớp học, cô giáo sẽ kiểm tra cặp học sinh, những dụng cụ học tập nếu không phải của Hàn Quốc sản xuất sẽ bị phê bình, gửi thư về phụ huynh góp ý. Một thế hệ lớn lên trong sự quyết tâm cao độ, rằng sẽ thoát nghèo, sẽ cho thế giới biết trí tuệ dân tộc, sẽ trở nên văn minh...nên cái gì họ cũng xài của nội địa. Lòng dân thì quyết tâm nên các doanh nghiệp cũng quyết tâm không kém. Họ lùng sục đi mua các thiết bị, các sản phẩm của Nhật hay Âu Mỹ về, lục tung hết, nghiên cứu ngày đêm không ăn không ngủ để sản xuất y chang cho bằng được, thậm chí tốt hơn, rẻ hơn. Các du học sinh khi học xong, đồng lòng kéo nhau về đất nước dù Hàn Quốc đến bây giờ vẫn trong tình trạng chiến tranh với chế độ đi lính bắt buộc. Tất cả đều bảo nhau, hãy làm thêm, làm thêm. Những người con dân tộc mình đang bán máu, bán sinh mạng để gửi từng đồng đô la về xây dựng đất nước, hà cớ gì mình không thêm vài giọt mồ hôi? Những công trường rầm rập, những cao ốc văn phòng đèn sáng đến nửa đêm, những học sinh ở trần, lăn lê bò trườn dưới tuyết với 1 lời thề sẽ đưa đất nước tiến lên. Thư viện sáng đèn 24/24. Không nghỉ ngơi, giải trí gì hết, vì không được phép khi đất nước còn nghèo. Trên tivi là sự chia sẻ cách làm giàu, dạy ngoại ngữ, dạy đạo đức, dạy kiến thức... Cả xã hội lao vào học tập và làm việc như điên. Chỉ trong mười mấy năm, một kỳ tích sông Hàn ra đời, một Hàn Quốc kiêu hãnh với ô tô, xe máy, điện tử, hóa chất, đóng tàu, phim ảnh, thời trang...không thua một quốc gia tiên tiến nào. Thế vận hội năm 1988, Seoul đã trình cho thế giới thấy, với sự quyết tâm, không có gì là không thể. Cứ như 1 ngôn ngữ bất thành văn, 1 quốc gia phát triển kinh tế sẽ ra thế giới đệ trình bằng 1 cái Olympic. 20 năm sau, đến lượt người Trung Quốc với Olympic Bắc Kinh.

Từ nước chót bảng, Hàn Quốc thành nền kinh tế thứ 12 trên thế giới, dân Hàn Quốc được cả thế giới tôn trọng, hầu hết đều miễn visa cho họ, muốn đi đâu thì đi. Rảnh, nhức đầu thì đi Mỹ. Muốn ăn Pizza thì lên máy bay đi Ý....

Giờ đây những hình ảnh Hàn Quốc, gọi là làn sóng Hanlyu ( 한류), lan tràn khắp châu Á. Các ụ pa với vẻ đẹp đài các, kiêu sa và hay khóc, đã quảng cáo hiệu quả ngành mỹ phẩm và thời trang của nước này. Nhớ lần Jang Dong Gun qua Việt Nam, 1 nhãn hàng băng vệ sinh phụ nữ tài trợ với yêu cầu phải mua mấy chục gói mới đổi 1 tấm vé, tạo thành sự hỗn loạn tranh giành, 1 ngày bán hết veo. Giá vé chợ đen lên gấp mấy lần. Tony thấy cả có những nhà trọ, toàn con trai, nhịn tiền ăn cơm để mua băng vệ sinh. Chen lấn coi xong, về kể 3 ngày 3 đêm chuyện 1 tài tử đẹp trai cũng chưa hết. Còn đống băng vệ sinh thì không biết làm gì. Nhân dịp qua chơi nên tụi nó mới hỏi anh Tony ơi, anh thông minh anh nghĩ giúp tụi em, giờ làm gì với đống giấy này, không lẽ vứt? Mình nói thôi tụi mày bỏ vào ngăn đá tủ lạnh, lấy ra làm khăn lạnh lau cũng mát. Nhớ cho tao vài cái...

Gần đây, các ụ pa này sang nữa, vì hợp thị hiếu nên cứ sang hoài, kiếm khối tiền. Vừa xuống sân bay, dù 2h sáng cũng luôn có 1 nhóm nhốn nháo ngoài cửa đợi, băng rôn giơ cao, hình ảnh in ra cầm trên tay, khóc lên xỉu xuống. Ụ pa vừa họp báo đứng lên, lại có 1 nhóm học sinh khác lao đến, tranh giành đánh nhau để được hôn vào ghế...

Viết đến đây. Mồ hôi đầm đìa. Tí ơi, đưa dượng cái khăn lạnh.
Tony Buổi Sáng 
  (FB Tony Buổi Sáng)
 

Nhật thay đổi lớn về quốc phòng

Thủ tướng Shinzo Abe đã thúc đẩy thay đổi trong chính sách an ninh
Nội các Nhật Bản hôm 1/7 thông qua thay đổi lớn trong chính sách an ninh của nước này, mở đường cho việc quân đội Nhật tham chiến ở nước ngoài.

Theo hiến pháp của Nhật, Tokyo bị cấm sử dụng vũ lực để giải quyết xung đột, trừ trường hợp phòng vệ.
Nhưng việc diễn giải lại luật sẽ cho phép "phòng vệ tập thể" - dùng vũ lực để bảo vệ các đồng minh bị tấn công.

Các nhà lập pháp của liên minh cầm quyền thông qua thay đổi trên vào sáng thứ Ba và nội các sau đó cũng có bước đi tương tự trong cùng ngày.

Thủ tướng Shinzo Abe đã thúc đẩy mạnh mẽ cho thay đổi này, ông lập luận rằng Nhật cần phải thích nghi với môi trường an ninh đang thay đổi ở vùng châu Á - Thái Bình Dương.

Hoa Kỳ - quốc gia mà Nhật Bản có quan hệ đồng minh về an ninh từ hàng chục năm qua - cũng sẽ hoan nghênh bước đi này, tuy nhiên, Trung Quốc, nước vốn đang có quan hệ căng thẳng với Tokyo, sẽ rất tức giận.

Quyết định này cũng gây nhiều tranh cãi ở ngay trong nước Nhật.

Hôm Chủ Nhật, một người đàn ông tự thiêu ở trung tâm Tokyo để phản đối.
'Không cứu vãn'
 

Một người đàn ông đã tự thiêu tại trung tâm Tokyo hôm Chủ Nhật phản đối việc thay đổi chính sách quân sự

Ông Abe hồi tháng Năm đã hậu thuẫn cho thay đổi, sau khi ban cố vấn của ông ra bản phúc trình khuyến nghị thay đổi luật quốc phòng.

Nhật thông qua bản hiến pháp hòa bình sau khi đầu hàng hồi Thế chiến II. Kể từ đó, binh lính Nhật không tham gia vào các hoạt động chiến đấu, dẫu cho có một nhóm nhỏ tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc.

Nhật lâu nay giữ quan điểm rằng theo luật quốc tế, Nhật có quyền phòng vệ chung, nhưng cũng cho rằng không thể thực thi được quyền đó do những hạn chế trong hiến pháp.

Ban cố vấn của ông Abe khuyến nghị rằng nếu Nhật diễn giải lại hiến pháp để cho phép được phòng vệ chung, thì các điều kiện sẽ được áp dụng nhằm đảm bảo sức mạnh sẽ không bị lạm dụng.

Hôm thứ Hai, hàng ngàn người đã tham gia biểu tình phản đối tại Tokyo.

Những người chỉ trích ông Abe sợ rằng đây sẽ là bước đi đầu tiên tiến tới việc sửa đổi chính thức hoặc xóa bỏ Điều 9 Hiến pháp, là điều khoản tuyên bố từ bỏ chiến tranh.

"Tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi bây giờ không chặn chính phủ ông Abe thì sẽ không thể cứu vãn được," Étuo Nakashima, 32 tuổi, nói với hãng tin Reuters.

Nhưng những người khác tin rằng bản hiến pháp là di tích hậu chiến mà Hoa Kỳ áp đặt lên Nhật Bản, hạn chế việc Tokyo được có các hoạt động bình thường của một quốc gia hiện đại.

Trung Quốc, nước hiện đang có tranh chấp lãnh thổ gay gắt với Nhật, lên tiêng phản đối thay đổi, cáo buộc Nhật "tái quân sự hóa" trong thời ông Abe.

Nay, nội các đã chuẩn thuận bước đi; các sửa đổi pháp lý sẽ phải được quốc hội thông qua. Nhưng với việc diễn giải lại thay vì sửa đổi hiến pháp, ông Abe tránh được việc cần có trưng cầu dân ý.
  (BBC) 

'Hữu nghị, nhưng phải giữ chủ quyền'

Đây được xem là tuyên bố công khai quan trọng đầu tiên của Tổng Bí thư Việt Nam liên quan vụ giàn khoan

Việt Nam cần phải gìn giữ hữu nghị với Trung Quốc nhưng đồng thời cũng phải "giữ vững chủ quyền", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa khẳng định khi gặp cử tri tại Hà Nội vào sáng thứ Ba ngày 1/7.

Đây được xem là bình luận công khai đầu tiên của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi xảy ra biến cố giàn khoan Trung Quốc trên Biển Đông đầu tháng Năm.
Trước đó, các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có những tuyên bố phê phán Trung Quốc.

Nhưng một luồng dư luận của người Việt, bày tỏ qua mạng internet, phê phán vị Tổng Bí thư vì dường như ông chưa có bình luận về mối quan hệ căng thẳng với Trung Quốc.

Tại hội nghị Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri tại quận Tây Hồ, Hà Nội, ngày 1/7, ông Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu dài về biến cố giàn khoan và câu hỏi phải làm gì với Trung Quốc.
‘Hệ trọng, nhạy cảm’

Theo báo Dân Việt, ông Trọng nhấn mạnh quan hệ với nước láng giềng phương Bắc là "vấn đề rất lớn, quan trọng, hệ trọng và nhạy cảm".

"Lần này, ta lại phải tìm cách chung sống hòa bình, hữu nghị, thân thiện nhưng phải giữ được chủ quyền quốc gia. Cái khó là ở chỗ đó," ông nói.

Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi người dân "bình tĩnh, tỉnh táo, kiên quyết và đặc biệt là kiên trì để phát huy sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ".
"Lần này, ta lại phải tìm cách chung sống hòa bình, hữu nghị, thân thiện nhưng phải giữ được chủ quyền quốc gia. Cái khó là ở chỗ đó." - Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
"Chỉ cần sai một ly là đi một dặm,” ông nhấn mạnh quan điểm của Đảng Cộng sản về tình hình Biển Đông.

Trong khi đó, trang tin VnExpress dẫn một phần bình luận khác của ông Trọng trong buổi nói chuyện, nhắc rằng cần phân biệt người dân và chính quyền Trung Quốc.

"Những người đặt giàn khoan trong thềm lục địa của Việt Nam khác với 1,3 tỷ người dân Trung Quốc. Xây dựng tình hữu nghị đồng thời phải giữ được chủ quyền."

"Đấu tranh với Trung Quốc là việc lâu dài, chúng ta làm sao phải khẳng định được chủ quyền để lấy lại Hoàng Sa."

Ông nói phải "chuẩn bị mọi khả năng", kể cả chiến tranh, mặc dù "mong nó không xảy ra".

Trang tin VnExpress cho biết Tổng Bí thư Việt Nam nói "tiếp tục đấu tranh bằng mọi biện pháp, song đấu tranh hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, kể cả đấu tranh pháp lý".

Tuyên bố này trùng khớp với các bình luận tương tự của các ông Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang về khả năng Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc trước tòa quốc tế.

Nó dường như cho thấy đã có sự đồng thuận trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam rằng Việt Nam có thể tìm cách giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc thông qua con đường pháp lý, nếu cảm thấy đối thoại với Trung Quốc không đi đến đâu.

Trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc trên Biển Đông, người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam còn yêu cầu "phải giữ được ổn định, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân", theo báo Tiền Phong.

Ông Trọng cho biết Trung ương Đảng "đã họp, nghe báo cáo, tiến hành thảo luận và cũng có chủ trương" về hành động của Trung Quốc trên Biển Đông.
  (BBC)
 

Việt Nam không cần đồng minh? - Người Trung Quốc không chiếm thế giới: Họ mua thế giới!

Việt Nam không cần đồng minh?

Boxitvn
Tống Văn Công
Cuộc họp báo sau kỳ họp thứ 7 Quốc hội do ông Nguyễn Hạnh Phúc Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội chủ trì. Có phóng viên đặt câu hỏi:
- “Trong cuộc điện đàm mới đây với ngoại trưởng Mỹ, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh có nói, Việt Nam sẵn sàng phối hợp với Mỹ triển khai các biện pháp cụ thể nhằm tiếp tục thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Mỹ theo tinh thần quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước. Quan điểm của ông thế nào?”.
Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc trả lời:
- “Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là quan hệ với tất cả các nước trên thế giới. Vừa qua, với Mỹ hay Trung Quốc cũng thế. Sau 1975 thì quan hệ của chúng ta đã dần dần cải thiện và ngày càng tốt đẹp. Nhưng Việt Nam cũng là một nước độc lập, không liên minh, liên kết, đồng minh với nước nào, không dùng nước thứ ba, để chống lại nước khác. Quan điểm này đã được công khai nhiều lần”.


Đúng là quan điểm này đã được công khai nhiều lần, nhưng đó là ở thời đoạn mà Trung Quốc chưa đưa giàn khoan Hải Dương 981 cắm sâu vào trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, đưa hàng trăm tàu, có cả tàu chiến, máy bay có cả máy bay quân sự ngày đêm uy hiếp tàu cảnh sát biển và tàu cá ngư dân ta. Đó là thời đoạn chưa có chuyện Dương Khiết Trì sang Việt Nam mà theo Hoàn Cầu thời báo là nhằm răn dạy Việt Nam, “đứa con hoang đàng biết trở về”! Mới đây, Trung Quốc vừa công bố bản đồ mới “10 đoạn” bao gồm Hoàng Sa, toàn bộ Trường Sa và 80% Biển Đông. Vậy là họ chỉ còn chực chờ thời cơ để dùng vũ lực chiếm trọn những vùng biển đảo của Việt Nam. Đó là thủ đoạn ngàn đời của bọn bành trướng phương Bắc, từ Tàu Hoàng đế cho đến Tàu Tưởng, Tàu Mao. Hãy nhớ: Năm 1946 lợi dụng lúc chúng ta phải đối phó với Pháp, Tàu Tưởng chiếm đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, đảo Ba Bình thuộc Trường Sa. Năm 1950 Tưởng thua chạy rút bỏ cả hai nơi. Năm 1956, lợi dụng quân Pháp rút đi, Tàu Tưởng chiếm lại Ba Bình, Tàu Mao chiếm lại Phú Lâm. Tháng 1-1974, lợi dụng Việt Nam Cộng hòa suy yếu, Tàu Mao chiếm toàn bộ phần còn lại của Hoàng Sa. Năm 1988 lợi dụng chúng ta giúp bạn Campuchia, chúng tấn công Trường Sa giết 64 hải quân ta, chiếm 7 đảo và bãi đá thuộc Trường Sa.
Sau thỏa hiệp Thành Đô 1990, chúng ta cứ tưởng đã cầm chắc “16 chữ vàng” và “4 tốt” sẽ đảm bảo “Sau kiếp nạn anh em còn đó. Trông nhau cười thù oán sạch không” (Thơ Giang Vĩnh đời Thanh. Giang Trạch Dân đọc tặng Nguyễn Văn Linh tại Thành Đô). Quá vui mừng, Nguyễn Văn Linh đáp lại cả bốn câu thơ tiếng Tàu, câu thứ tư là: “Thiên tải tình nghị hựu trùng kiến”. (Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại). Nào hay đã bị chúng cho một quả lừa! Năm 2007, Trung Quốc bắt đầu bắn giết, bắt ngư dân ta đòi tiền chuộc. Ngày 26-5-2011, một bước ngoặt mới, chúng cắt cáp tàu Bình Minh 2 của Việt Nam đang thăm dò trong vùng biển đặc quyền kinh tế của mình. Tân Hoa Xã còn lớn tiếng: “Việt Nam láo xược xâm phạm vùng biển của Trung Quốc”. Thời báo Hoàn Cầu dọa sẽ “lấy máu Việt Nam tế cờ cho cuộc Nam tiến”.
Phản ứng hành động láo xược của Bắc Kinh, ngày 10 tháng 7-2011, hàng ngàn người Việt Nam, gồm các lão thành cách mạng, trí thức, đảng viên và nhân dân trong, ngoài nước ký “Bản kiến nghị về bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay.” Đề mục thứ nhất của Bản kiến nghị là “I- Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ đang bị đe dọa nghiêm trọng”. Câu kết của Đề mục là: “Việt Nam càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới!”.
Bản kiến nghị, đã mô tả rất rõ bộ mặt của kẻ thù. Tiếc thay, đám mây mù ý thức hệ vẫn che mắt nhiều người. Từ đó đến nay có thể kể không biết bao nhiêu lời hay ý đẹp của nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam ca tụng mối quan hệ Việt – Trung. Đáng lo nhất là từ năm 2009, mỗi năm Bộ Quốc phòng đều cử một đoàn sĩ quan cao cấp sang học tập ở Học viện chính trị Tây An của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Bởi đặt hết lòng tin vào “16 chữ vàng” và “4 tốt”, cho nên ngày 1-5-2014, khi Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ đặt xuống vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam thì chúng ta hoàn toàn bất ngờ! Phải mất đến 5 ngày sau, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mới có cuộc điện đàm với Bộ Ngoại giao Trung Quốc. Mất 6 ngày sau, chiều ngày 7-5, mới có cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao. Từ đó đến nay, báo chí và các phương tiện truyền thông đã có những lời vạch rõ mưu đồ xâm lược của Trung Quốc, mà chỉ mấy tháng trước đây thôi, nếu nói như vậy đã bị coi là có tội. Tuy vậy, lòng dân vẫn chưa yên, bởi còn quá nhiều âu lo chưa được giải tỏa:
Phát ngôn của những người có trọng trách rất so le nhau. Trong khi Thủ tướng nói rõ ràng, mạnh mẽ về chủ quyền bị xâm phạm thì Bộ trưởng Quốc phòng cho rằng “trong quốc gia, hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng huống chi là các nước láng giềng […] Việt Nam và nước bạn Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển đảo, nên đôi khi cũng có va chạm […]”. Người dân không khỏi đoán già đoán non: Liệu lãnh đạo nước ta có thống nhất với nhau, thực tâm kiện Trung Quốc, hay chỉ chống đỡ trước sự phẫn uất của nhân dân và bảo vệ tính chính danh của Đảng? Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, Chủ tịch Hội Khoa học, Kỹ thuật và Kinh tế biển TP HCM, đặt câu hỏi với Chủ tịch nước: “Nhân dân, đặc biệt là trí thức, đặt vấn đề Đảng, Nhà nước ta nhìn nhận quan hệ thực chất với Trung Quốc như thế nào? Có còn là đồng chí tốt, bạn bè tốt, láng giềng tốt, đối tác tốt nữa không? Hay đây là chiêu bài được nêu lên nhưng thực tế họ, Trung Quốc không có cái gì tốt đối với chúng ta cả?”. Chủ tịch nước có nhiều ý kiến tích cực khẳng định chủ quyền đất nước, nhưng cử tri chờ đợi và bị hẫng hụt bởi ông không trả lời câu hỏi rất quan trọng đó. Chủ tịch nước nhận định rất đúng rằng “tình hình sẽ còn gay gắt, phức tạp hơn chỉ trừ khi nào họ nói họ từ bỏ đường chín đoạn hoặc chúng ta từ bỏ chủ quyền – mà điều này chắc chắn không người dân Việt Nam nào chấp nhận”. Nhưng sau đó ông lại cho rằng: “Phải kiên trì đấu tranh, năm nay không xong thì năm tới, 10 năm này không xong thì 10 năm sau, đời ta không xong thì đến đời con cháu”. Thưa Chủ tịch, nói như vậy chỉ chứng tỏ được sự kiên trì, chứ không thực tế, do đó không đem lại hi vọng và niềm tin. Ông bà chúng ta có câu “Để lâu cứt trâu hóa bùn”. Và luật pháp quốc tế cũng thế, chúng ta chỉ còn 10 năm nữa là hết thời hiệu để kiện Trung Quốc đòi chủ quyền Hoàng Sa. Mọi người Việt Nam đang sống phải nhận lấy trách nhiệm của thế hệ mình đúng như lời dạy của Đức Trần NhânTôn: “Một tấc đất của tiền nhân để lại, quyết không để lọt vào tay kẻ khác”! Chúng ta không được phép trao gánh nặng lại cho con cháu đời sau để chúng phải bó tay, không thể giải quyết! Mới đây giáo sư Thayer cảnh báo: “Việt Nam phải lên tiếng ngay bây giờ, nếu không sẽ mất cơ hội mãi mãi”.
Chúng ta quá chừng mực, thậm chí e dè khi lên án hành động gây hấn, xâm lược của Trung Quốc, trong khi đó lại muốn các nước ASEAN, Mỹ và phương Tây phải lớn tiếng lên án Trung Quốc bênh vực Việt Nam. Ngày 5-6, tạp chí Cộng sản đăng lại bài “Cần có sự can thiệp của Mỹ trong tranh chấp ở Biển Đông” (năm ngày sau rút xuống). Ngày 24-6 nguyên đại sứ Việt Nam tại EU Tôn Nữ Thị Ninh nói với hãng tin Đức DW: “EU phải hiện diện, cất tiếng nói rõ ràng hơn, to hơn và ít nhất cũng gọi đúng tên các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông”. Bị cướp vào nhà, lại bảo chúng như người trong gia đình cũng có lúc bất hòa, nhưng lại đòi hàng xóm phải gọi chúng đúng là kẻ cướp và đuổi chúng giùm! Không muốn làm đồng minh với bất cứ nước nào, nhưng lại muốn các nước phải bảo vệ mình như một đồng minh! Làm được điều đó còn khó hơn là hái sao trên trời!
Vì sao Trung Quốc chọn thời điểm 1-5-2014 đặt giàn khoan vào sâu trong vùng đặt quyền kinh tế của Việt Nam? Trước đó không lâu, Trung Quốc gây căng thẳng với Philippines, rồi với Nhật ở biển Hoa Đông, làm như chiến tranh sắp nổ ra ở đó. Dương Đông kích Tây và đánh vào chỗ bất ngờ, vốn là binh pháp Tôn Tử của Tàu. Từ lâu chúng đã xác định hướng bành trướng là phía Nam, mấu chốt là Việt Nam. Lúc này Việt Nam đang lâm vào khủng hoảng, nguy hiểm nhất là khủng hoảng niềm tin, và về đối ngoại cũng là lúc cô đơn nhất. Mỹ đang bận rộn chuyện Ucraina. Mặc dù từ năm 2013, đã có lời mời của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, nhưng đến chuyến công du tháng 4-2014 tới bốn nước châu Á, Tổng thống Obama vẫn không đến Việt Nam và Mỹ vẫn chưa đồng ý bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Còn nước Nga mà Việt Nam coi như đồng minh cũ và đặt nhiều hi vọng được che chở thì đang khẩn trương chuẩn bị tập trận với Trung Quốc! Vậy thì Trung Quốc, đồng minh lớn nhất và duy nhất của Việt Nam, bất ngờ chĩa mũi giáo vào Việt Nam, đâu còn phải sợ ai!
Hai tháng qua, chúng ta trấn an mình bằng dư luận quốc tế, mà phần lớn người ta chỉ là yêu cầu hai bên giải quyết bằng biện pháp hòa bình và theo luật pháp quốc tế. Xưa nay bọn xâm lược không hề sợ dư luận, chúng chỉ sợ thua trận và thiệt hại kinh tế. Do đó, từ thượng cổ tới hiện đại, phương Đông cũng như phương Tây, trong tất cả các cuộc chiến tranh giành giật đất đai, người ta đều tìm kiếm đồng minh. Trung Quốc đã có những bậc thầy về tổ chức đồng minh với các chiêu “hợp tung”, “liên hoành”. Tôn Tử, tác giả bộ binh pháp lừng danh, là người giúp vua Ngô liên minh với hai nước nhỏ là Đường và Thái, nhờ đó chỉ với ba vạn quân, đã có thể đánh bại 25 vạn quân nước Sở. Ngày nay, dù xu thế của thế giới là hòa bình, hợp tác, nhưng ở các vùng nóng đều có thể thấy sự tìm kiếm đồng minh. Nước ta, ngay khi đang “một cổ hai tròng”, Việt Minh đã “gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít” nhờ đó mà có toán “Con nai” của Mỹ nhảy dù xuống Việt Bắc huấn luyện cho quân giải phóng của Võ Nguyên Giáp. Rồi cả hai cuộc kháng chiến, Việt Nam đều dựa vào đồng minh để giành được chiến thắng. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều bài học bổ ích trong việc chọn đồng minh của các nước láng giềng Nhật, Hàn, Philippines. Cuối thế kỷ trước, cả ba nước này đã từng muốn nới lỏng, hoặc thoát dần khỏi quan hệ đồng minh với Mỹ: Nhật đặt thời hạn cho Mỹ rút quân khỏi Okinawa. Hàn yêu cầu Mỹ có kế hoạch giảm số quân đang có mặt ở nước này. Phi đòi lại cảng Subic và các căn cứ quân sự. Nhưng khi Trung Quốc trỗi dậy, đe dọa với láng giềng thì lập tức cả ba nước nói trên đều nhanh chóng thay đổi quyết sách chiến lược, ráo riết mời Mỹ gấp rút trở lại. Do đó, Mỹ tuyên bố quần đảo Senkaku được che chở bằng thỏa thuận quân sự giữa Washington với Tokyo. Mới đây, Tổng thống Obama nói bất cứ nơi nào trên thế giới khi các đồng minh của chúng ta bị đe dọa thì quân đội Mỹ buộc phải can thiệp. Tháng 4-2014 Mỹ viện trợ cho Philippines 50 triệu USD, riêng hải quân được cho thêm 40 triệu USD và 3 tàu tuần tra lớn lớp Hamilton… Ba nước nói trên đâu có vì chọn đồng minh chiến lược mà họ bị mất độc lập dân tộc? Phải chăng đã đến lúc chúng ta không nên khư khư “Việt Nam không liên minh với một nước để chống nước thứ ba”? Tình thế đang đòi hỏi: “Việt Nam cần phải tìm mọi cách để liên minh được với các nước để chống lại kẻ nhất quyết sẽ xâm lược đất nước mình”.
Tuy nhiên chớ tưởng chỉ cần chúng ta muốn liên minh với nước nào đó thì ắt được người ta đón nhận. Từ ngàn xưa, các nhà chiến lược đều có tiêu chuẩn để chọn đồng minh. Tôn Tử cho rằng “chưa biết ý đồ chiến lược của một nước thì không thể tính đến chuyện kết giao. ” Ông cho rằng một quốc gia hùng mạnh không phải vì có một đội quân lớn mà là trước hết, phải là quốc gia biết lấy chữ “đạo” làm đầu, tức là có “Một nền chính trị hợp lòng dân, nhờ đó mà vua tôi đồng tâm, nhất trí”. Trần Hưng Đạo của ta nói “Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rể, bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước vậy”. Một người biết lắng nghe và coi trọng ý kiến của những nông dân đan giỏ, mò tôm, thuần hóa voi như với Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng thì chữ “sức dân” của ông phải được hiểu là gồm cả tâm, trí và lực. Ngày nay, Mỹ và các nước phương Tây đặt tiêu chuẩn cao nhất để chọn đồng minh là dân chủ và nhân quyền. Lắm khi vì lợi ích trên bàn cờ chính trị, các nhà cầm quyền đã châm chước khi xét tiêu chuẩn đối với các quốc gia mà họ cần lôi kéo, nhằm cô lập đối thủ nặng ký và hung bạo. Tuy nhiên điều ấy có thể bị nghị viện và nhân dân nước họ phát hiện, phản đối. Quan hệ hợp tác Việt – Mỹ đã phát triển nhiều mặt, nhưng cho đến nay, Mỹ vẫn chưa đồng ý bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, chưa công nhận Việt Nam thực sự có nền kinh tế thị trường. Vậy mà, Foreign Policy (Chính sách Ngoại giao), một tạp chí có tiếng của Mỹ, số ra ngày 1-2-2011 có bài: “Các đồng minh đáng xấu hổ của Hoa Kỳ”, chỉ trích chính phủ Mỹ quá dễ dãi đối với nhiều hành động vi phạm nhân quyền của Việt Nam! Tại sao vậy?
Bởi vì thật trớ trêu là chính sách đối nội và đối ngoại của nước ta giống hệt Trung Quốc, bệnh trạng tham nhũng của hai bên cũng hết sức giống nhau. Hai nước có chung một lập luận về “các thế lực thù địch từ Mỹ và phương Tây lợi dụng dân chủ và nhân quyền âm mưu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa”. Thật ra, không hề có cái gọi là dân chủ và nhân quyền của phương Đông, hoặc của riêng Trung Quốc và Việt Nam! Nước ta là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Nhà nước ta đã cam kết thực hiện Tuyên ngôn Nhân quyền và các Công ước của Liên Hiệp Quốc. Vấn đề là Việt Nam và Trung Quốc có cách hiểu các điều khoản của Tuyên ngôn và các Công ước của Liên Hiệp Quốc không giống cách hiểu của hơn 100 quốc gia khác trên thế giới. Rất dễ dàng để dẫn ra vô vàn ví dụ về các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội, biểu tình, bầu cử và ứng cử… Nhưng chỉ xin nêu một ví dụ về quyền tự do ngôn luận mà theo Voltaire “[…] là nền tảng của tất cả các quyền tự do khác. Không có tự do ngôn luận sẽ không có các quốc gia tự do”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (Nhà nước Việt Nam đã ký kết gia nhập ngày 24-9-1982. Nhà xuất bản TP HCM xuất bản năm 1997) ở Điều 19 với nội dung như sau:
1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.
2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.
3- Việc thực hiện những quyền quy định tại Khoản 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết để:
a/ Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
b/ Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”.
Hơn 100 quốc gia đều hiểu nội dung của Điều 19 là: Mọi công dân đều có quyền phát biểu quan điểm của mình đối với mọi học thuyết, mọi vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục mà không bị quy chụp, đàn áp, buộc tội. Tức là mọi người có quyền không đồng ý đối với một hệ tư tưởng, nghị quyêt của đảng cầm quyền, chính sách của chính phủ, khi nhận thấy nó có hại cho nhân dân, đất nước. Trong ngày nhận chức nhiệm kỳ đầu, Tổng thống Obama nói: “Một chính quyền không phải đối mặt với một giới truyền thông cương trực và mạnh mẽ, đó không phải lựa chọn của nước Mỹ!”. Mọi công dân đều có quyền tìm kiếm, nhận tin tức bao gồm những luận điểm mới, học thuyết mới và phổ biến cho mọi người bằng mọi hình thức. Mọi công dân đều có quyền xuất bản báo chí và báo chí chỉ trung thành với công chúng, với dân tộc, tôn trọng sự thật, không bị kiểm duyệt, không bị buộc phải viết theo định hướng, nghị quyết, không bị bưng bít thông tin vì lợi ích nhóm, vì lợi ích của đảng phái, kể cả Đảng cầm quyền. (Chỉ trừ hai điểm a và b nói trên).
Nhà nước Việt Nam và Trung Quốc có cách hiểu Điều 19 giống nhau: Mọi công dân phát biểu ý kiến không được trái với quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng lãnh đạo. Báo chí là công cụ của Đảng phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng lên trên hết, phải lấy nhiệm vụ tuyên truyền, cổ vũ và tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng làm thước đo hiệu quả của báo chí. Phó Trưởng ban Tuyên Giáo Trung ương Nguyễn Thế Kỷ nói trong cuộc hội thảo quốc gia về Đạo đức nghề báo: “Cần tăng cường giáo dục đạo đức cho sinh viên báo chí, cho phóng viên trẻ; nâng chất lượng đầu vào đối với sinh viên báo chí, thậm chí “phải xét cả yếu tố nhân thân tương tự như với sinh viên vào các trướng công an, quân đội””. (báo Tuổi Trẻ ngày 12-10-2012). Trong dịp kỷ niệm ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21-6 vừa qua, suốt một tuần, đài truyền hình HTV9 của TP HCM mở đầu bằng bài hát với điệp khúc: “Nhà báo, nhà báo Việt Nam, một lòng trung thành với Đảng!”. Tư nhân không được phép ra báo, vì e rằng sẽ làm rối dư luận xã hội. Ban Tuyên giáo của Đảng có trách nhiệm chỉ đạo báo chí thực hiện định hướng tuyên truyền từng thời kỳ, việc nào cần phải nói mạnh, nói kỹ, việc nào không nên nói, không được phép nói. Không chấp nhận có báo tư nhân.
Tình hình phát triển đất nước hiện nay, theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Động lực mà những cải cách trước đây đã không còn đủ mạnh để thúc đẩy phát triển” và “Nguồn động lực mới phải đến từ Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân”. Đúng vậy, vấn đề là phải dám quyết tâm thực hiện, bởi không còn thì giờ để chần chừ nữa! Nhà nghiên cứu người Pháp Valérie Niquet cho rằng Trung Quốc đang bị suy yếu từ bên trong, cho nên cố thực hiện bành trướng để kích thích chủ nghĩa dân tộc, hòng tìm lại tính chính đáng của Đảng Cộng sản đã bị hao mòn. Trong khi đó, tạp chí tình báo nổi tiếng của Anh (Jane’s Intelligence Weekly ngày 27-6-2014) lại có nhận định: “Tranh chấp Biển Đông sẽ thách thức sự ổn định của chính phủ Việt Nam”; bởi vì: “Tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam là dựa vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc”. Ngày nay, Đảng đang bị đứng trước một câu hỏi: “Phải chăng Đảng Cộng sản Việt Nam không có đủ khả năng đối phó với sự xâm lược của Trung Quốc?” Trong dân gian Việt Nam đang lan truyền hai câu có hàm ý như thế: “Đi với Tàu thì mất nước, nhưng còn Đảng. Đi với Mỹ thì còn nước, nhưng e sẽ mất Đảng”. Phải giải quyết dứt khoát vướng mắc tư tưởng này thì mới có thể yên lòng đổi mới thể chế, tìm được đồng minh vì sự nghiệp chống bành trướng Bắc Kinh, bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân bao giờ cũng rất tinh tường và công bằng, nếu một đảng dám đặt sự tồn vong của Tổ quốc lên trên vận mệnh của mình thì nhất định sẽ được nhân dân bảo vệ, tin yêu. Nhân đây xin nhắc lại, một chuyện rất đáng nhớ: Năm 2010, với cương vị Chủ tịch ASEAN, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tới Myanmar, chuyển thông điệp ASEAN cho các tướng lĩnh quân phiệt cầm quyền: “Mong muốn các nhà lãnh đạo Myanmar triển khai có hiệu quả lộ trình dân chủ, vì hòa bình, hòa hợp dân tộc, tổ chức bầu cử công bằng, dân chủ với sự tham gia của tất cả các đảng phái, qua đó sớm ổn định để phát triển đất nước”. Các tướng lĩnh cầm quyền Myamar đã nhanh chóng nhận thức, đó là con đường duy nhất để đưa đất nước thoát khỏi sự o ép của Trung Quốc. Họ không ngần ngại từ bỏ chế độ độc tài quân phiệt, đưa những tù nhân chính trị suốt hàng chục năm đối lập như bà Aung San Suu Ky lên địa vị đối tác, cùng ngồi với nhau bình đẳng bàn việc nước; quyết định xóa bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí, rồi cho xuất bản báo chí tư nhân; đặc biệt là quyết định hủy bỏ dự án đập thủy điện của Trung Quốc 3,6 tỉ USD. Sau cải cách vĩ đại nói trên, Myanmar được Tổng thống Obama và nhiều nguyên thủ quốc gia tới thăm, ký kết viện trợ.
Chẳng lẽ, một Đảng vốn “không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” mà ngày nay trước vận nước hiểm nguy lại không thể chọn một hành động cao cả ngang tầm với các tướng lĩnh độc tài quân phiệt Myanmar?
Ngày 30-6-2014
T. V. C.
Tác giả gửi BVN.

Giàn khoan HD 981 của Trung quốc chỉ là bước khởi đầu

Một tàu Trung Quốc ngăn chặn một tàu tuần tra của Cảnh sát biển  Việt Nam gần một giàn khoan HD 981 của Trung Quốc nằm trong vùng đặc khu kinh tế của VN hôm 28 tháng 5 năm 2014.
Giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc được hạ đặt và hoạt động trong vùng biển và thềm lục địa Việt Nam tròn hai tháng nay. Hành xử của Bắc Kinh tiếp tục ra sao? Phản ứng của Hà Nội thế nào? Và ước nguyện chính của người dân Việt Nam trước tình thế là gì?

Thêm giàn khoan- gấp rút xây căn cứ

Đến chiều ngày 30 tháng 6, tại thực địa khu vực giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc tiếp tục cho tàu của họ bảo vệ ở cự ly từ 10 đến 11 hải lý. Tin cho biết khi các tàu chấp pháp của phía Việt Nam cố tiếp cận tuyên truyền kêu gọi phải rút giàn khoan và các tàu đi, thì tàu Trung Quốc tăng tốc và áp sát không để tàu của Việt Nam tiến thêm.

Ngoài giàn khoan Hải Dương 981, Cục Hải Sự Trung Quốc hồi trung tuần tháng 6 loan báo giàn khoan Nam Hải số 9 được đưa vào hoạt động tại khu vực Cửa Vịnh Bắc Bộ trong gần hai tháng từ ngày 24 tháng 6 cho đến 20 tháng 8.

Về mặt ngoại giao, ngày 9 tháng 6 Trung Quốc đệ trình tuyên cáo lên Liên hiệp quốc nêu ra những chứng cứ mà Bắc Kinh nói chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa trước đây thừa nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là của Trung Quốc. Đồng thời Trung Quốc tố cáo ngược là tàu Việt Nam quấy nhiễu và đâm va 1400 lần vào tàu Trung Quốc. Số lần này sau đó còn tăng lên đến 1500 lần.

Một cán bộ Viện Nghiên cứu Quốc tế của Việt Nam trong một bài viết được đưa ra ngày 30 tháng 6 cho biết Trưởng ban Đối ngoại Trung Quốc đã gặp Trưởng ban Đối Ngoại Trung ương Việt Nam là ông Hoàng Bình Quân, sau khi giàn khoan Hải Dương 981 hoàn tất 2 mũi cắm vào lòng biển Việt Nam. Lần gặp đó được cho biết phía Trung Quốc đe dọa, yêu cầu Việt Nam chấm dứt quấy rối và chỉ trích phản ứng của Việt Nam là phá vỡ quan hệ hữu nghị giữa hai nước.
Trong khi hoạt động giàn khoan tiếp diễn bất chấp mọi yêu cầu từ phía Hà Nội, Bắc Kinh lại cho tiến hành hoạt động cải tạo và triển khai xây dựng căn cứ quân sự có đường băng máy bay tại đảo đá Gạc Ma mà họ chiếm của Việt Nam hồi năm 1988
Thế rồi ủy viên quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì đến Việt Nam vào trung tuần tháng 6. Chuyến đi của ông này theo báo chí quốc tế loan đi là nhằm kêu gọi ‘đứa con hoang trở về nhà’. Trong dịp này Tân hoa xã cũng công bố ‘4 không’ mà Bắc Kinh đưa ra với Hà Nội là không được quấy rối Trung Quốc, Hoàng Sa là của Trung Quốc không bàn cải, xung đột Biển Đông do lãnh đạo 2 nước bàn với nhau; Việt Nam không được kiện ra tòa án quốc tế; không được lôi kéo các nước vào câu chuyện này, không để Mỹ và Phương Tây lợi dụng diễn biến hòa bình phá hoại 2 nước. Trung Quốc đe dọa, nếu Việt Nam vi phạm nguyên tắc đó sẽ phải chịu hậu quả.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mạnh mẽ tố cáo Trung Quốc bất chấp đạo lý, pháp lý tại phiên họp thường kỳ tháng Sáu năm 2014 (Video clip-nguyentandung.org)
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mạnh mẽ tố cáo Trung Quốc bất chấp đạo lý, pháp lý tại phiên họp thường kỳ tháng Sáu năm 2014 (Video clip-nguyentandung.org)
Trong khi hoạt động giàn khoan tiếp diễn bất chấp mọi yêu cầu từ phía Hà Nội, Bắc Kinh lại cho tiến hành hoạt động cải tạo và triển khai xây dựng căn cứ quân sự có đường băng máy bay tại đảo đá Gạc Ma mà họ chiếm của Việt Nam hồi năm 1988. Đây là thông tin mà truyền thông Philippines loan tải. Phía Philipines gần đây cũng lên tiếng yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoạt động xây dựng trái phép như thế.

Theo nhiều người thì đây là mưu đồ chính của Trung Quốc, còn việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 chỉ là động thái ‘giương đông, kích tây’ mà thôi.

Ông Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung Tâm Minh Triết Việt, hồi ngày 14 tháng 6 nói về tầm quan trọng của căn cứ quân sự xây dựng tại Gạc Ma:

Tình hình nguy hiểm khi Trung Quốc làm một chốt quân sự ở đó. Một sân bay quân sự, một căn cứ quân sự ở đó nguy hiểm đối với Việt Nam về mặt an ninh hàng hải. Vì vậy đây vấn đề Gạc Ma rất lớn.

Tướng anh hùng quân đội của Việt Nam Lê Mã Lương nói về tham vọng của Trung Quốc đối với Biển Đông:

Trung Quốc vẫn nhất quán với chiến lược độc chiếm Biển Đông và sẽ tìm mọi cách đánh chiếm và làm chủ toàn bộ Hoàng Sa và tiến tới chiếm các đảo tại Trường sa của Việt Nam, của Việt Nam hay của nước nào mà Trung Quốc lấy được đều lấy bằng hằng động quân sự; bất chấp luật pháp, bất chấp dư luận quốc tế.
Tình hình nguy hiểm khi Trung Quốc làm một chốt quân sự ở đó. Một sân bay quân sự, một căn cứ quân sự ở đó nguy hiểm đối với Việt Nam về mặt an ninh hàng hải. Vì vậy đây vấn đề Gạc Ma rất lớn. - Ông Nguyễn Khắc Mai
Hà Nội chỉ lên tiếng

Trước những diễn biến suốt thời gian qua cho thấy rõ ý đồ muốn chiếm trọn Biển Đông của Trung Quốc như thế, một số lãnh đạo của Việt Nam đã lên tiếng.

Mới nhất trong phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 6 vào hai ngày 30 tháng 6 và 1 tháng 7, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lặp lại là Trung Quốc đã bất chấp đạo lý, pháp lý và quan hệ giữa hai nước khi đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Trước đó khi trả lời báo chí nước ngoài tại Philippines nhân chuyến thăm nước này và tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới từ 21 đến 22 tháng 5, ông Nguyễn Tấn Dũng nói rằng Việt Nam không sử dụng biện pháp quân sự để giải quyết căng thẳng tại Biển Đông, song Việt Nam không chấp nhận đánh đổi chủ quyền lãnh thổ, biển đảo thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viễn vông, lệ thuộc nào đó.

Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 7, quốc hội khóa 13 rằng độc lập, chủ quyền quốc gia, hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông bị đe dọa nghiêm trọng khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, khi được cử tri thành phố Hồ Chí Minh chất vấn hồi ngày 27 tháng 6 cũng cho rằng trước sau như một vấn đề chủ quyền là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, phải giữ gìn.

Ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại cuộc tiếp ủy viên quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì ở Hà Nội cũng nói rằng lập trường chủ quyền biển đảo của Việt Nam là nhất quán, không thay đổi và không thể thay đổi.
Mới nhất trong phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 6 vào hai ngày 30 tháng 6 và 1 tháng 7, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lặp lại là Trung Quốc đã bất chấp đạo lý, pháp lý và quan hệ giữa hai nước khi đưa giàn khoan HD 981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN
Còn Bộ trưởng Thông tin- Truyền Thông Nguyễn Bắc Son khi trả lời cử tri tại Hà Nội thì nói rằng vấn đề Biển Đông phải giải quyết trường kỳ, lâu dài, Việt Nam nhẫn nại, nhẫn nhịn nhưng không nhẫn nhục để giải quyết bằng giải pháp hòa bình.

Lòng dân muốn kiện

Nhiều người dân quan tâm đến tình hình đất nước lên tiếng yêu cầu chính phủ phải kiên quyết, mạnh mẽ hơn trong công cuộc đấu tranh với Trung Quốc hiện nay. Theo họ thì biện pháp trước mắt là phải khởi kiện về việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cũng như đưa ra đường đứt khúc 9 và 10 đoạn bao trọn đến gần 90% Biển Đông.

Luật sư Trần Quốc Thuận từ Sài Gòn nói về việc nên liên kết với Philippines kiện Trung Quốc về đường lưỡi bò đó:

Thôi cứ kiện cái đã để cho thế giới thấy. Trung Quốc nói rằng họ có 1000- 2000 năm thì cứ đưa ra để thế giới xem thấy có được không. Tại hội nghị Shangri-la ở Singapore nhiều học giả yêu cầu Trung Quốc giải thích thì đại diện Trung Quốc ăn nói lờ mờ rồi. Câu chuyện bây giờ phải để lên bàn nói cho thế giới và yêu cầu Trung Quốc là một trong 5 nước thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và nước ký vào công ước quốc tế phải giải thích lý do lịch sử…, xác định tọa độ. Theo tôi đó là cơ bản lớn và chính điều đó là có lợi, cả thế giới sẽ hậu thuẫn. Còn việc tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc như ở Hoàng Sa …, thì đó là những bước tiếp theo. Nhưng trước hết phải làm đường chín đoạn trước để tạo thế mạnh tốt hơn.

Tại cuộc họp báo gần nhất hồi chiều ngày 26 tháng 6 vừa qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết chính quyền Hà Nội đang cân nhắc thời gian khởi kiện Trung Quốc với thừa nhận đó là biện pháp hòa bình, văn  minh được luật pháp quốc tế và thế giới ủng hộ.
  Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok 
2014-07-01  
 

Hình ảnh Tây Tạng dưới ách thống trị của Trung Quốc – trông người mà ngẫm đến ta

***Dân Việt nam có ngày như thế này nếu thành một tỉnh của Trung cộng.

 Boxitvn

Bauxite Việt Nam tuyển chọn ảnh
clip_image001

clip_image002
Lửa và khói trên một con đường trong cuộc nổi dậy ở Lhasa, Tây Tạng, chụp lại từ màn hình phát chương trình Truyền hình CCTV của Nhà nước Trung Quốc ngày 14/3/2008. Nguồn: REUTERS
clip_image004
Quân đội Trung Quốc tuần tra trên đường phố Lhasa ngày 15/3/2008, một ngày sau khi cuộc phản kháng ở thủ đô Tây Tạng chuyển sang bạo lực. Nguồn: Financial Times
CHINA-TIBET-RELIGION-PROTEST-RIGHTS
Ngày 14/3/ 2008: Cảnh sát Trung Quốc trên xe chống bạo loạn ở một con đường thủ đô Tây Tạng sau khi nổ ra những cuộc phản kháng bạo lực. Nguồn: The Guardian
clip_image006
Cảnh sát bán quân sự đi tuần trên một con đường gần đền Jokhang ở Lhasa, thủ đô Tây Tạng, China Photo: AP. Nguồn: The Telegraph, ngày 13/3/2009
clip_image007
Lực lượng an ninh Trung Quốc ở Lhasa, Tây Tạng, ẩn nấp trong ngày phản kháng thứ năm. Biểu ngữ phía trên ghi: “Tăng cường quản lý an ninh công cộng, bảo vệ ổn định chính trị”. Bắc Kinh đang đối mặt với những cuộc biểu tình nghiêm trọng nhất ở Tây Tạng kể từ những năm 1980. Nguồn: The New York Times, ngày 15/3/2008 March
clip_image008
Hơn 20 người Tây Tạng đã tự thiêu trong năm qua để phản đối những nỗ lực của Trung Quốc mà họ cho là nhắm đàn áp tôn giáo và văn hóa của người Tây Tạng. Nguồn: VOA, ngày 5/11/2012
clip_image009
Ảnh một người Tây Tạng tự thiêu. Thông báo treo giải thưởng của Trung Quốc chỉ trích tự thiêu rằng ‘một hành vi cực đoan chống lại loài người, chống lại xã hội’. Nguồn: VOA, ngày 25/10/2012
clip_image010
Nhiều người Tây Tạng chọn hình thức tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp của Bắc Kinh – REUTERS /Jacky Chen. Nguồn: RFI, ngày 14/04/2014
clip_image011
Nguồn: ABC Radio Australia, ngày 21/11/2012
clip_image013
Cảnh sát ở Katmandu ngày 20/3/2008 bắt giữ các nhà sư Tây Tạng khi họ cố đi tới văn phòng Liên Hiệp Quốc để đệ đạt Thỉnh nguyện thư chống lại việc Trung Quốc đàn áp ở Tây Tạng. Nguồn: Financial Times
clip_image014
Xung đột đổ máu: Các nhà sư Tây Tạng bị thương trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Nguồn: Daily Mail, ngày 21/4/2008

Người Trung Quốc không chiếm thế giới: Họ mua thế giới!

TTCT - Tiếp theo câu chuyện “Làm ăn với Trung Quốc” (TTCT số 22, ngày 15-6-2014) với phân tích của các chuyên gia về cách thay đổi chất lượng mối quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc, cái nhìn rộng hơn ở khu vực châu Á cũng cho thấy nỗ lực tìm hướng thay đổi của các tập đoàn trong mối quan hệ làm ăn với Trung Quốc.


Không phải tự nhiên mà lời cảnh báo từ năm 2012 này được tờ báo uy tín Nga Luận Chứng Và Sự Kiện (AIF) dùng làm tiêu đề bài báo đánh giá hợp đồng khí đốt Nga vừa ký với Trung Quốc.

Sau chuyến đi của ông V. Putin tới Trung Quốc vào tháng 5-2014, với hơn 40 văn kiện được ký kết, trong đó có hợp đồng khí đốt trị giá 400 tỉ USD, Argumentiru.com tổ chức thăm dò độc giả với câu hỏi: “Ai có lợi hơn trong hợp đồng khí đốt Nga - Trung Quốc?”. Với 728 câu trả lời thu được đến ngày 29-5, hết 74% cho rằng Trung Quốc có lợi, trong khi chỉ 26% đáp là Nga.

Còn Hãng tin Vzglyad.ru hỏi độc giả: “Trung Quốc với Nga là 1) mối đe dọa; là 2) một khả năng hợp tác, hay là 3) cả hai - vừa đe dọa vừa là khả năng hợp tác?” thì nhận được câu trả lời như sau (đến ngày 29-5): trong 18.739 người trả lời thì 7,4% chọn phương án 1; 33,2% chọn phương án 2; nhưng tới 59,4% chọn phương án cả hai, vừa là đe dọa vừa là khả năng hợp tác!

Vì sao có tâm trạng mâu thuẫn này? Là bởi, như chuyên gia Hong Kong James Evergreen được bài báo trên dẫn lời (*), một Trung Quốc giàu có đang nguy hiểm hơn: “Họ đang nắm giữ các cổ phiếu của Chính phủ Mỹ. Các doanh nhân của họ đã mua những nhà máy châu Âu, các công ty thuốc lá và khai khoáng. Đồng nhân dân tệ 12 năm liên tục không bị mất giá so với đồng đôla, mà chỉ tăng giá.

Đến năm 2020, trong khuôn khổ chương trình vũ trụ của mình, Trung Quốc chuẩn bị xây cả cơ sở trên Mặt trăng”. James Evergreen cảnh báo: “Nếu chỉ nghĩ người Trung Quốc có khả năng may áo cho thế giới văn minh châu Âu mặc, chúng ta đã bỏ lỡ sự ra đời của một cường quốc có khả năng nuốt trọn thế giới”.

Từ Syria tới Cuba, Iraq đều có công nhân Trung Quốc xây cầu đường. Xe buýt, ôtô ở các nước này cũng từ Trung Quốc, khiến James Evergreen đưa ra hình ảnh Trung Quốc “đang trói thế giới quanh mình như mạng nhện”. Theo ông, khi phải kiếm từng chén cơm, người Trung Quốc chẳng nghĩ gì về sự vĩ đại. Nhưng khi đã giàu lên, họ bắt đầu nghĩ tới vai trò đất nước.

Đề tài khi nào Trung Quốc trở thành siêu cường không phải là hiếm. Người ta nghe thấy nó không chỉ ở trong bếp, mà cả trên xe buýt. “Chúng tôi không chiếm thế giới. Chúng tôi mua nó”, đó là ý tưởng chính của người Trung Quốc, James Evergreen kết luận trong bài báo.

Về thống kê dân số chính thức, đến năm 2010 có 28.943 người nhận mình gốc Trung Quốc (tuy nhiên các con số thực được cho là lớn hơn nhiều), và dự báo đến năm 2050 người Trung Quốc sẽ trở thành nhóm dân số lớn thứ hai sau người Nga. Hằng năm Trung Quốc đầu tư vào kinh tế Nga 12 tỉ USD.

Đường biên giới chung Nga - Trung Quốc dài 4.209km, khiến vùng Viễn Đông hẻo lánh của Nga trở thành nơi tiện lợi để di cư đến làm ăn, thay vì lặn lội đến một thị trường cũng hấp dẫn là Ấn Độ nhưng bị ngăn cách bởi núi non trập trùng, hay Nhật bị biển cản trở. Các nước Đông Nam Á khác cũng đã quá đông dân.

Hiện nay, về chính thức hằng năm có hơn 1 triệu người Trung Quốc tới Nga với tư cách du khách (dù các con số nói tới 2 triệu người). Với mức độ “đầu tư làm ăn” này, theo phó giám đốc Viện các phân tích quân sự và chính trị Alexandr Khramchikhin, nếu Nga không có các biện pháp thích ứng, chỉ 10 năm nữa, khi đến vùng Viễn Đông người Nga sẽ chủ yếu nói tiếng Hoa (**)!

Trong một bài báo khác trên aif.ru cũng thuộc chủ đề “hậu hợp đồng khí đốt”, Artem Lukin - giảng viên khoa quan hệ đối ngoại của Viện các nghiên cứu quốc tế và khu vực của Đại học liên bang Viễn Đông - thừa nhận một mặt Nga vẫn phải hướng đông bởi đây là thị trường tương lai.

Trung Quốc cũng cần hợp tác với Nga. Bởi theo ông, có cơ sở để tin rằng Trung Quốc đang muốn biến Đông Á thành khu vực ảnh hưởng của mình, đẩy dần Nhật và Mỹ ra khỏi đây. Do Trung Quốc đang tiến hành các chính sách rất hung hăng ở biển Hoa Đông và biển Đông, nên trong trường hợp quan hệ Trung - Mỹ căng thẳng, việc cung cấp năng lượng và nhiên liệu từ Nga sẽ vẫn đảm bảo nhu cầu của Trung Quốc.

Nhưng mặt khác, “Trung Quốc là một văn hóa khác và một logic khác, hiểu họ không đơn giản. Hiện nay các nhóm người Trung Quốc khác nhau đang cùng chung ý tưởng rằng sau một thời gian nghèo đói, yếu ớt và bị coi thường, Trung Quốc sẽ phải chiếm vị trí hàng đầu trên vũ đài thế giới.

Thử hỏi, chủ nghĩa dân tộc của họ sẽ hung hăng tới đâu sau 20 năm nữa?” - Artem Lukin đặt câu hỏi. Ông cảnh báo: Một khi đã yên ổn ở phía nam, biết đâu Trung Quốc nhớ ra rằng trước giữa thế kỷ 19, một không gian rộng lớn phía bắc sông Amur từng thuộc đế chế Trung Hoa, chứ không phải Nga?

Và cần nhớ là các công ty Trung Quốc được phép vào Nga làm ăn đang đưa nhân công của họ vào theo!
DUY VĂN
(Tuổi trẻ)

Đứa con Hoang đàng trong Nước lạ - Điều gì sẽ xảy ra khi Việt Nam kiện Trung Quốc?

Điều gì sẽ xảy ra khi Việt Nam kiện Trung Quốc?

"...Việc kiện Trung Quốc ra tòa cho Việt Nam khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến biển Đông hiện nay một cách khả thi, công bằng và hòa bình nhất..."
 
LTS: Cuối tuần rồi, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã chính thức đề nghị Chính phủ cần nhanh chóng khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Trong các cuộc tiếp xúc cử tri của đoàn ĐBQH TP.HCM, nhiều ý kiến của cử tri TP cũng ủng hộ việc này. Trước đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tại cuộc họp báo về tình hình biển Đông chiều 26-6 cũng cho hay đang cân nhắc kỹ thời điểm khởi kiện Trung Quốc. Vậy việc khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế trong bối cảnh hiện nay sẽ có những hệ quả gì? Pháp Luật TP.HCM giới thiệu bài viết của tác giả Lê Trung Tĩnh (Quỹ Nghiên cứu biển Đông) phân tích về vấn đề này.

Việc kiện Trung Quốc (TQ) ra tòa án quốc tế là một cách thức đấu tranh hòa bình được Điều 33.1, Hiến chương Liên Hiệp Quốc quy định.

Cách bảo vệ hòa bình và ngăn sự ngang ngược

Trước tham vọng độc chiếm biển Đông bằng “đường lưỡi bò” đã được TQ kiên trì theo đuổi và thực hiện càng ngày càng ngang ngược từ nhiều chục năm nay, kiện là một cách thức tiếp cận hiệu quả, khả thi hơn so với sự nhẫn nhịn bấy lâu nay của Việt Nam. Rõ ràng là khó có thể áp dụng các biện pháp truyền thống như bấy lâu nay với TQ để giải quyết các vấn đề chủ quyền trên biển Đông nói chung và vấn đề Hoàng Sa nói riêng vì nước này thậm chí còn không chấp nhận là có “vấn đề Tây Sa” như cách nói của họ.

Đến lúc này ta phải thấy rằng đấu tranh bằng biện pháp pháp lý, Việt Nam sẽ đạt được sự công bằng tương đối đối với TQ hơn so với các phương thức đấu tranh trên thực địa hay thậm chí đấu tranh học thuật và truyền thông trên các diễn đàn quốc tế như hiện nay.


Dưới ánh sáng của công lý và dư luận quốc tế, Trung Quốc không thể ngang ngược dùng vũ lực để uy hiếp lực lượng thực thi pháp luật trên biển và ngư dân Việt Nam như hiện nay. Trong ảnh:Vết tích của tàu Trung Quốc đâm tàu kiểm ngư 951 tại khu vực giàn khoan Hải Dương 981. Ảnh: Nguyễn Đông

Ngoài ra, việc kiện TQ ra tòa là một cách bảo vệ hòa bình và ngăn khả năng chiến tranh ở xa Việt Nam nhất. Vì sao khi mỗi lần Việt Nam nói về khả năng sử dụng biện pháp pháp lý thì TQ lại tức giận? Chắc chắn không phải vì sợ sứt mẻ tình hữu nghị giữa hai nước mà vì khi đưa sự vụ ra tòa, dưới ánh sáng của công lý và dư luận quốc tế, TQ không thể ngang ngược dùng vũ lực để uy hiếp lực lượng thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam, ngư dân Việt Nam và hung hăng đe dọa tiếp.

Về nội dung khởi kiện, Việt Nam cần phải nhanh chóng kiện việc TQ triển khai giàn khoan Hải Dương 981 với sự hộ tống của máy bay và tàu chiến ra một tòa trọng tài thành lập theo cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982). Đó có thể là Tòa Trọng tài Quốc tế về Luật Biển (International Tribunal for the Law of the Sea) ở Hamburg (Đức); Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice) tại La Haye (Hà Lan); hay một tòa trọng tài được thành lập đúng theo thủ tục của UNCLOS như cách Philippines đang làm.

Tòa này có thể phán quyết cách hành động liên quan đến giàn khoan trái phép Hải Dương 981 của TQ là vi phạm công pháp quốc tế và yêu cầu dừng các hoạt động này lại.

Cơ hội cho sự phát triển dài hạn

Tất nhiên việc khởi kiện TQ ra tòa đặt người Việt Nam trước một ứng xử mới với TQ. Việc kiện diễn ra trong thời gian dài sẽ đặt lại mối quan hệ giữa hai nước, các giá trị hữu nghị sẽ có những biến dạng nhất định và tất cả đều diễn ra trong hòa bình.

Nhưng khi chọn một vị thế rõ ràng hơn với TQ, Việt Nam sẽ có được sự hậu thuẫn lớn hơn của cộng đồng quốc tế. Việt Nam có cơ hội thoát khỏi ảnh hưởng của TQ, điều mà các cố gắng, kiên trì đang tiến hành hoặc sự đứt gãy từ chiến tranh không thể mang lại.

Khả năng đọc thấy được ngay là TQ có thể tiến hành các trả đũa kinh tế đối với Việt Nam và gây nên một số khó khăn trong ngắn hạn mà Việt Nam cần đối phó. Tuy nhiên, về trung hạn và dài hạn, đó sẽ là cơ hội để Việt Nam hướng đến những bạn hàng bình đẳng hơn, với cán cân thương mại thăng bằng hơn cho Việt Nam, ví dụ như Hoa Kỳ và EU và giảm sự phụ thuộc về kinh tế của Việt Nam vào TQ. Ngoài ra, Việt Nam cũng sẽ có cơ hội và ý chí để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc hợp tác kinh tế với TQ như quản lý chặt chẽ các dự án FDI hay chấm thầu nghiêm túc các dự án EPC (tổng thầu theo kiểu “chìa khóa trao tay”) liên quan đến TQ.

Trước tòa, Việt Nam và TQ đều phải trưng ra những bằng chứng lịch sử, pháp lý chính xác nhất. Khi câu chuyện lịch sử được nhắc đến một cách duy lý, rõ ràng, vì chủ quyền đất nước, vì những vấn đề hệ trọng của dân tộc, cần sự chia sẻ của nhiều người thì nó giúp người Việt vừa hiểu biết rõ về lịch sử, vừa hiểu nhau và dễ hòa giải với nhau hơn.

Quan trọng hơn, việc kiện giúp người Việt phần nào thoát ra khỏi chính mình và tiến đến với những giá trị phổ quát của nhân loại như “công bằng”, “hòa bình”, “duy lý”. Điều đó sẽ tạo nên sức mạnh thật sự cho Việt Nam.

Lê Trung Tĩnh
(Quỹ Nghiên cứu biển Đông)
Hy vọng khôi phục Hoàng Sa một cách công bằng và hòa bình

Song song với việc kiện như trên đã trình bày, Việt Nam nên yêu cầu chính thức TQ đưa tranh chấp Hoàng Sa ra giải quyết tại Tòa án Công lý Quốc tế. Điều kiện đủ để phiên tòa này diễn ra là các bên đồng thuận đưa tranh chấp này ra tòa.

Nếu TQ đồng ý ra tòa, chúng ta có hy vọng khôi phục Hoàng Sa một cách công bằng và hòa bình. Ít nhất là có hy vọng hơn là để tranh chấp Hoàng Sa không được quốc tế nhắc đến và TQ quản lý trên thực tế Hoàng Sa như hiện nay.

Các dấu hiệu gần đây cho thấy khả năng TQ chấp nhận ra tòa có thể cao hơn khi nước này gửi đến Liên Hiệp Quốc tài liệu nêu lên lập trường của họ: Khẳng định quản lý Hoàng Sa từ thời Tống và đưa ra các vấn đề như công hàm Phạm Văn Đồng, sách giáo khoa và bản đồ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi Hoàng Sa, Trường Sa là của TQ…

Nếu TQ không đồng ý ra tòa, quyết định này là một sự ngăn chặn việc TQ đang càng ngày càng lấn tới và ngang ngược trên biển Đông. Việc TQ từ chối ra tòa sẽ là bằng chứng hùng hồn trước quốc tế rằng Việt Nam là nước tôn trọng các giá trị tốt đẹp của nhân loại và TQ là nước coi thường công pháp quốc tế. Điều đó sẽ làm yếu đi đáng kể vị thế của TQ và bắt buộc họ phải kiềm chế khi hành xử trên biển Đông, không thể tiếp tục bắt giữ, xua đuổi, đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam; tôn trọng luật pháp quốc tế; tiến hành đàm phán phân chia ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tiến tới ký kết Bộ Quy tắc ứng xử COC nghiêm túc và công bằng hơn.
(PLO)

Chưa có "môn học lịch sử" trong nhà trường?


Từng là một giáo viên có thâm niên 35 năm dạy môn Sử Địa dưới hai chế độ giáo dục khác nhau, tôi không có gì để phải chọn một cái tựa “giật gân” như trên, nhưng thật sự tôi nghĩ môn học gọi là “lịch sử” hiện nay chưa phải đích thực môn học theo đúng nghĩa một khoa học về quá khứ với những quy luật riêng mà nó phải có.

Khoa học lịch sử ngay cả khi nó được thể hiện thành bài giáo khoa cho học sinh cũng nhất thiết phải mang các đặc điểm : chân thực, khái quát, khách quan và những sự kiện lịch sử phải mở ra cho người đọc, người học óc suy luận theo logique tư duy nguyên nhân – kết quả (cũng phải khách quan). Có sự thật là, thời kỳ trước 1975 ở miền Nam tuy môn lịch sử cũng được coi là môn phụ nhưng học sinh học rất thích thú, chúng hiểu rằng môn lịch sử (cùng với văn, ngoại ngữ…) là môn học học cung cấp kiến thức phổ thông (bên cạnh các môn tự nhiên cung cấp tri thức chuyên biệt) để khi lớn lên thành người trí thức cân đối.

Trở lại với môn lịch sử hiện nay, trước hết học sinh phải thuộc lòng là chính những con số mà có lẽ thiếu nó cũng “chẳng ảnh hưởng gì đến tình hình thế giới”, chẳng hạn kết thúc một trận đánh mà đếm có bao nhiêu xác chết, thu bao nhiêu súng. Có vẻ là tủn mủn chưa nói lên được cái lớn lao của một chiến thắng. Hơn nữa, đó lại chỉ là những tổn thất của đối phương làm cho học sinh thắc mắc mà không dám hỏi về tổn thất của ta, tức là bài học thiếu khách quan! Suy nghĩ này làm phát sinh một suy nghĩ khác rằng đã có sự biên tập theo một ý đồ quá rõ dễ nhận ra. Lịch sử thành ra chuyện đơn thuần của các trận đánh, lịch sử chiến tranh! Còn nữa, ngay cả khi đánh giá một sự kiện cũng lại được dọn sẵn và học sinh phải thuộc lòng một cách thụ động những gì đã được “áp đặt” chứ không phải những gì đã suy luận tìm ra! Thụ động làm cho ngán, ngán miết thành ra chán! Không có cái chán, ngán này ở những môn khoa học tự nhiên hay ngoại ngữ! Xin được thố lộ, 20 năm dạy sử tôi nhiều lần “chạy trời không khỏi nắng” trước những cặp mắt…không phục thầy nhưng không dám nói ra của học trò mình!

Trong một góc nhìn khác, dường như có sự nhầm lẫn giữa thời sự và sự kiện lịch sử, một thứ vừa xảy ra, thứ sau đã được sàng lọc, đánh giá bởi thời gian trở thành sụ kiện của quá khứ. Tôi còn nhớ, khoảng thời gian bên Liên Xô xảy ra cuộc đảo chánh dưới thời ông Gorbachov. Hôm ấy chúng tôi đang được triển khai bồi dưỡng sách giáo khoa mới, trong đó đề cao những gì Gorbachov làm được, tất nhiên lại là khen hết mình. Đùng một cái, chính ông GĐ Sở GD đi xe tới với khuôn mặt khá hớt hải, ông vào phòng nói “Ngưng lại các đồng chí ạ, “nó” bị lật đổ rồi”. Học viên chúng tôi hiểu ông GĐ nhận lệnh từ đâu, hôm sau “nó” không sao cả và chúng tôi lại tiếp tục được triển khai sách mới! Thật ra thì trong môn lịch sử không thể không có chính trị nhưng hàm lượng chính trị làm thống soái thì môn học không còn tính khách quan nữa, nó thành môn học khác và học sinh không thể không nhìn ra điều này, chúng chán học là…may cho xã hội bởi lớp trẻ mà không biết phán đoán cứ nhắm mắt nghe người lớn thì đó là con đường đi xuống!

Tôi nghĩ, qua các môn xã hội chúng ta có ảo tưởng muốn đào tạo ra những công dân theo một mô thức đồng loạt (và đồng phục?) thay vì ra những con người có tư duy độc lập, và môn lịch sử phải gánh trên vai nó gánh nặng oằn lưng này. Người gánh còn là đội ngũ thầy cô giáo bộ môn. Chương trình ấy, sách giao khoa ấy và cách ra đề thi chấm điểm ấy, làm sao thầy cô dạy theo phương pháp rèn luyện tư duy? Họ đứng giữa cái ranh giới khoa học và lợi ích của học sinh trong thi cử và đành phải chọn học sinh mình thôi! Và khó có cách nào khác hơn là nhồi nhét, trước ngày thi gọi là bồi dưỡng nhưng thực tế là thầy cô cứ “khảo” bài theo Đề cương ôn tập, Chuẩn kiến thức của Bộ bởi đề thi, đáp án nằm trong đấy!

Kỷ niệm “rùng mình” của thời đi học là bị nhồi nhét thuộc lòng, cho nên như đã xảy ra trong vài năm gần đây với môn lịch sử. Điểm thi môn Sử thấp đến tệ hại trong cả thi TNPT lẫn đại học và năm nay, khi quy chế thi chì có 2 môn bắt buộc là văn- toán, 2 môn còn lại thí sinh tự chọn thì câu trả lời đang xảy ra của học sinh không khác gì cuộc bỏ thăm bất tín nhiệm với môn học gọi là lịch sử hiện nay!

Thiết nghĩ đã tới lúc nhìn lại môn Sử một cách căn cơ, không nên quy trách nhiệm cho phương pháp dạy của thầy, cũng không nên đổ cho học sinh thực dụng chọn môn dễ có điểm cao, mà nên nhìn nhận lại nội dung môn học, quan điểm sử dụng môn lịch sử trong giáo dục con người hoàn chỉnh. Chữa gốc sẽ chẳng lo gì mà không có ngày học sinh của chúng ta quay trở lại yêu thích môn học rất thích thú này. Trả lịch sử vào đúng chỗ của nó và như nó có là cách cần làm để lấy lại lòng ham thích cuả học sinh với môn học và quá đó nâng cao hiệu quả giáo dục của môn học.

Lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc là một tình cảm thiêng liêng và không thể không có trong mỗi con người, mỗi thể hệ, chính vì thế giáo dục lòng yêu nước không thể hời hợt bằng một mệnh lệnh!
Cao Thoại Châu 
(Blog Lề Trái)

Việt Nam: Trả tự do cho người phụ nữ đấu tranh cho công đoàn là tích cực nhưng vẫn còn giam giữ rất nhiều người khác


Tổ chức Ân xá Quốc tế cho biết việc thả trước thời hạn cô Đỗ Thị Minh Hạnh, người phụ nữ hoạt động công đoàn và là một tù nhân lương tâm ở Việt Nam, là một bước tích cực nhưng nhà cầm quyền hiện nay phải tiếp nối hành động này bằng cách thả tất cả những người đấu tranh ôn hòa khác vẫn còn đang bị giam giữ trong tù.

Hạnh, 28 tuổi, đã được thả vào ngày 26 -06 bởi nhà chức trách Việt Nam và trở về nhà ngày hôm qua. Cô đã bị tuyên án tù bảy năm vào năm 2010 cho tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”, sau khi phân phát tờ rơi hỗ trợ cho người lao động đòi hỏi tăng lương và yêu cầu điều kiện làm việc tốt hơn.

“Chúng tôi tất nhiên rất vui mừng rằng Đỗ Thị Minh Hạnh đã được thả, nhưng cô đáng lẽ không phải bị tù ngày nào thì mới đúng. Kết án một người đến bảy năm tù vì phân phát tờ rơi là điều lố bịch, và là một bản cáo trạng buồn cho cuộc đàn áp kéo dài của nhà chức trách Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến”, ông Rupert Abbott, Phó Giám đốc khu vực châu Á Thái Bình Dương của tổ chức Ân xá Quốc tế cho biết.

“Các nhà chức trách Việt Nam hiện nay phải làm tiếp việc thả ngay lập tức và vô điều kiện cho tất cả những người khác đang bị giam cầm chỉ vì đã đấu tranh một cách ôn hòa cho nhân quyền của họ.”

Hạnh bị đối xử khắc nghiệt trong nhà tù và đã thường xuyên bị đánh đập bởi các tù nhân khác, những quản giáo coi tù đã không làm gì để ngăn chận việc này. Cô không được điều trị y tế đầy đủ và hiện nay trong tình trạng sức khỏe kém.

Một số tù nhân lương tâm khác đã được thả ở Việt Nam trong những tháng qua, bao gồm cả tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, blogger và nhà hoạt động ủng hộ dân chủ Nguyễn Tiến Trung, nhà văn Vi Đức Hồi và giáo viên Đinh Đăng Định, người đã chết ngay sau khi được thả.

Chính quyền Việt Nam tiếp tục sử dụng luật và các nghị định để hình sự hóa tự do ngôn luận, và đã trấn áp rất nặng tay với những người bất đồng chính kiến trong những năm gần đây. Trong một báo cáo năm 2013, Tổ chức Ân xá quốc tế ghi nhận con số các tù nhân lương tâm vẫn còn bị giam trên cả nước.

Ngoài Hạnh, ít nhất bốn phụ nữ khác hiện đang bị giam giữ vì “tuyên truyền chống nhà nước”, một tội trạng mơ hồ diễn đạt “hành vi phạm tội” mà chính phủ sử dụng để trừng phạt các nhà đấu tranh ôn hòa.

Danh sách này bao gồm Hồ Thị Bích Khương, một nhà hoạt động ôn hòa đã bị kết án năm năm tù giam vào tháng 12 năm 2011, và Tạ Phong Tần, một thành viên sáng lập Câu lạc bộ Nhà Báo Tự Do Việt Nam bị kết án 10 năm tù vào tháng 9 năm 2012. Gia đình Khương nói rằng cô đã bị đánh đập trong tù bởi các tù nhân khác và không được điều trị y tế cho thương tích của cô. Mẹ Tạ Phong Tần qua đời sau khi tự thiêu trong tháng 7 năm 2012 vì tuyệt vọng với thái độ đối xử của nhà cầm quyền với con gái bà.

Ít nhất là hai người phụ nữ khác đang chịu mức án khá dài khi bị kết tội là có mục tiêu “lật đổ” chính phủ, như nhà hoạt động xã hội Công giáo Nguyễn Đăng Minh Mẫn và người đấu tranh cho dân oan đòi đất thuộc giáo hội Phật giáo Hòa Hảo cô Trần Thị Thúy. Cả hai đều bị buộc tội đã liên kết với Việt Tân, một nhóm vận động cho dân chủ của Việt Nam ở hải ngoại.

“Chính phủ Việt Nam phải bãi bỏ luật pháp hà khắc mà họ vẫn đang tiếp tục sử dụng để trừng phạt những người bất đồng chính kiến đấu tranh ôn hòa,” ông Rupert Abbott cho biết.

“Chỉ khi chính quyền này thả tất cả những người đã bị bỏ tù vì đã lên tiếng phản kháng, thì đất nước này mới bắt đầu bỏ được cái danh là một trong những quốc gia có hành vi vi phạm tự do ngôn luận tồi tệ nhất ở Đông Nam Á”.

______________________________________

Vietnam: Release of woman labour rights activist positive but scores remain behind bars

Amnesty International - The early release of Do Thi Minh Hanh, a woman labour activist and prisoner of conscience, in Viet Nam is a positive step but authorities must now follow up and release the scores of other peaceful activists still behind bars, Amnesty International said.

Hanh, 28, was released on 26 June by Vietnamese authorities and arrived home yesterday. She had been imprisoned for seven years in 2010 for “conducting propaganda against the state”, after handing out leaflets in support of workers demanding better pay and conditions.

“We are of course delighted that Do Thi Minh Hanh has been released, but she should never have been locked up in the first place. Sentencing someone to seven years in prison for handing out leaflets is ludicrous, and a sad indictment of the Vietnamese authorities’ long-lasting crackdown on dissent,” said Rupert Abbott, Amnesty International’s Deputy Asia Pacific Director.

“The Vietnamese authorities must now follow up and immediately and unconditionally release all others who have been jailed for peacefully exercising their human rights.”

Hanh suffered harsh conditions in prison and was frequently beaten by fellow inmates, with guards apparently doing nothing to stop the abuse. She was not given access to adequate medical treatment and is reportedly in bad health.

Several other prisoners of conscience have been released in Viet Nam over the past months, including legal scholar Cu Huy Ha Vu, blogger and pro-democracy activist Nguyen Tien Trung, writer Vi Duc Hoi and teacher Dinh Dang Dinh, who died shortly after his release.

The Vietnamese authorities continue to use laws and decrees to criminalize freedom of expression, and have harshly repressed dissent in recent years. In a 2013 report, Amnesty International documented scores of prisoners of conscience who remain behind bars in the country.

Apart from Hanh, at least four other women are currently imprisoned for “conducting propaganda against the state”, a vaguely worded “offence” the government uses to punish peaceful activists.

These include Ho Thi Bich Khuong, a peaceful activist who was sentenced to five years’ imprisonment in December 2011, and Ta Phong Tan, a founding member of the Free Journalists Club of Viet Nam sentenced to 10 years in jail in September 2012. Khuong’s family say she has been beaten in prison by other prisoners and has not had medical treatment for her injuries. Ta Phong Tan’s mother died after setting herself on fire in July 2012 out of despair at the treatment of her daughter.

At least two other women are each serving long prison sentences after being convicted for aiming to "overthrow" the government – Catholic social activist Nguyen Dang Minh Man and Hoa Hao Buddhist and land rights activist Tran Thi Thuy. Both are accused of being associated with Viet Tan, an overseas based group campaigning for democracy in Viet Nam.

“Viet Nam’s government must repeal the draconian legislation that it continues to use to punish peaceful dissent,” said Rupert Abbott.

“Only once it does this and releases all those it has jailed for speaking out, will the country begin to shed its reputation as one of the worst violators of freedom of expression in South East Asia.”
Theo: Amnesty International 
Người dịch Ngọc Nhi Nguyễn 
  (DLB) 

’Tôi sẽ tiếp tục con đường mình đã chọn’

BBC


Bà Hạnh được trả tự do hôm 26/6
Nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh khẳng định sẽ tiếp tục con đường đấu tranh của mình, trong lúc Ân xá Quốc tế gọi quyết định trả tự do cho bà là một ‘bước đi tích cực’.
Bà Hạnh bị tuyên án 7 năm tù hồi năm 2010 vì hành vi “xúi giục” công nhân một nhà máy giày ở Trà Vinh đình công.
Bà được trả tự do hôm 26/6 sau khi nhận quyết định ‘đặc xá’.
Trả lời BBC ngày 1/7, bà Hạnh khẳng định đã được phóng thích ‘vô điều kiện’.
“Giấy xác nhận đặc xá không nêu lý do vì sao tôi được trả tự do,” bà cho biết.

“Họ nói là không hề có điều kiện nào cả”.
Khi được hỏi về điều kiện giam giữ, bà cho biết những năm qua đã bị một số trại giam “đánh đập, sử dụng bạo lực”.
“Nhà tù cộng sản Việt Nam vô cùng mất nhân đạo, đặc biệt là đối với những tù nhân chính trị, và tôi chỉ là một trong những người bị đối xử tàn bạo như vậy,” bà nói.

‘Không dừng lại’

Bà Hạnh, sinh năm 1985, bị bắt giữ hồi đầu năm 2010 cùng với hai người khác là các ông Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương.
Cả ba bị cáo buộc “xúi giục” công nhân của một công ty giày da tỉnh Trà Vinh tổ chức đình công.
Tòa sơ thẩm ngày 26/10/2010 tuyên án ông Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù giam, bà Đỗ Thị Minh Hạnh và ông Đoàn Huy Chương 7 năm tù giam vì tội ‘Phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân’ theo Điều 89 Bộ Luật Hình sự.
Tòa phúc thẩm tỉnh Trà Vinh sau đó quyết định y án đối với cả ba nhà hoạt động trong phiên tòa ngày 18/03.
“Thực sự tôi cảm thấy rất lo lắng cho cả hai anh”, bà Hạnh nói.
“Tuy nhiên, việc được trả tự do cũng nhóm lên cho tôi hy vọng rằng các anh sẽ sớm được chính phủ xem xét để trao trả tự do. Không những hai anh mà còn các tù nhân chính trị khác nữa.”
Bà cũng khẳng định những năm ở trong tù không làm bà thay đổi con đường mình đã chọn.
“Trước khi tôi được biết mình đặc xá, có hai người giấu tên của Bộ Công an xuống trại giam gặp tôi và đe dọa ‘nếu tiếp tục con đường này thì biết hậu quả xảy ra sẽ thế nào rồi đấy’.”
“Những tôi không bao giờ dừng lại trên con đường mình đã chọn. Vì nó đã ăn sâu vào trong máu, trong tim tôi.”
“Tuy nhiên, tôi cần có thời gian để thu thập, học hỏi những thông tin đã bỏ lỡ trong thời gian bị cầm tù để có định hướng chính xác nhất cho con đường của mình, nhằm góp phần xây dựng quê hương đất nước.”

‘Bước đi tích cực’


Nhiều nhà hoạt động vẫn đang bị giam giữ tại Việt Nam
Trong một tuyên bố ngày 30/6, tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế gọi quyết định trả tự do cho bà Hạnh là một ‘bước đi tích cực’.
Tuy nhiên, tổ chức này cũng nhấn mạnh nhà cầm quyền Việt Nam cần “tiếp tục trả tự do cho nhiều nhà hoạt động ôn hòa khác đang bi giam giữ”.
“Chúng tôi tất nhiên là phấn khởi trước việc trả tự do cho Đỗ Thị Minh Hạnh. Tuy nhiên việc bắt giữ bà lẽ ra không nên có ngay từ đầu,” ông Rupert Abbott, Phó giám đốc của Ân xá Quốc tế tại châu Á Thái Bình Dương nói.
“Thật quái gở khi một người bị tuyên án 7 năm tù vì rải truyền tờ rơi. Đó là một minh chứng đáng buồn về hành động đàn áp tiếng nói bất đồng đã có từ lâu nay của chính quyền Việt Nam.”
“Nhà cầm quyền cần tiếp tục trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho tất cả những người bị giam giữ chỉ vì đã thực thi quyền con người của mình một cách ôn hòa.”
Ông Abbott cũng kêu gọi Hà Nội “hủy bỏ những đạo luật hà khắc mà họ đang sử dụng để trừng phạt những tiếng nói bất đồng ôn hòa”.
“Chỉ sau khi chính quyền trả tự do cho những người mà họ đã cầm tù chỉ vì cất lên tiếng nói riêng, đất nước này mới có thể bắt đầu gỡ bỏ những tai tiếng của một trong những quốc gia đàn áp quyền tự do biểu đạt tồi tệ nhất Đông Nam Á,” tuyên bố của Ân xá Quốc tế nói.
 

Cô Đỗ Thị Minh Hạnh với hơn 4 năm tù ở 6 trại giam

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok

Cô Đỗ Thị Minh Hạnh và ba của cô
Cô Đỗ Thị Minh Hạnh và ba của cô  -Courtesy danlambaovn
Tù nhân Đỗ thị Minh Hạnh, người vừa được trả tự do trước thời hạn, chia sẻ đôi điều về thời gian sống trong các nhà tù suốt hơn 4 năm qua.

Đỗ thị Minh Hạnh: Thưa quí thính giả, thực sự Hạnh bị giam ở 6 trại chứ không phải 5 trại, có một trại trung chuyển nơi đó Hạnh ở 21 ngày là Trại giam Long An.

Có hai điều mà Hạnh rất nhớ, thứ nhất ở trại nào cũng rực lên tình yêu nước cháy bỏng của anh em cùng chiến đấu với mình. Ấn tượng mà Minh Hạnh nhớ nhất là ở Trại giam Trà Vinh, ba anh em ( Hạnh, Hùng và Chương) cùng khích lệ tinh thần cho nhau bằng ý chí kiên cường, quật khởi nhất; theo Hạnh nghĩ là vô cùng tuyệt vời. Và song song đó trải qua những trại giam mà Hạnh bị khủng bố tinh thần, bị đánh đập; họ sử dụng những tù nhân khác để đánh đập, xúc phạm và nhốt Hạnh trong một cái xe để thấy họ đối xử với Hạnh không phải như một con người.
Gia Minh: Ngoài tù nhân Mai thị Dung, Hạnh còn gặp những nữ tù nhân nào khác nữa?
Đỗ thị Minh Hạnh: Thực sự Hạnh cảm thấy vô cùng may mắn khi chuyển sang trại Xuân Lộc. Tuy bị đánh đập như thế, nhưng Hạnh luôn cảm thấy hạnh phúc vì gặp được những chị em tù nhân chính trị vô cùng quật cường, kiên cường là bà Dương thị Tròn, chị Mai thị Dung, chị Trần Thị Thúy và chị Tạ Phong Tần. Đó là những người mà Hạnh cảm thấy vô cùng tự hào
Hạnh bị khủng bố tinh thần, bị đánh đập; họ sử dụng những tù nhân khác để đánh đập, xúc phạm và nhốt Hạnh trong một cái xe để thấy họ đối xử với Hạnh không phải như một con người
Đỗ thị Minh Hạnh
Gia Minh: Tất cả bị giam chung và mọi người có thể chia sẻ, trao đổi quan điểm hay không?
Đỗ thị Minh Hạnh: Khi Hạnh nhập trại giam Xuân Lộc thì những tù chính trị đều bị giam riêng; họ không cho những tù chính trị khác tiếp xúc với Hạnh, cũng như  không cho Hạnh đến bên cạnh những người đấu tranh chính trị. Tuy nhiên sau một trận bạo loạn tại Trại giam Xuân Lộc, họ sắp xếp và chuyển tất cả tù nhân chính trị vào một phòng và các tù nhân chính trị là độc lập. Sau khoảng thời gian chừng 2 tháng, họ chuyền các tù nhân chính trị sang một khu độc lập, tách biệt với các tù khác. Tại đó các tù nhân chính trị sinh hoạt với nhau và không biết thế giới bên ngoài như thế nào.
Gia Minh: Trong thời gian đó bị bệnh tật, vậy sức chịu đựng của một người phụ nữ như Hạnh ra sao?
Đỗ thị Minh Hạnh: Thật sự mà nói, trong tù không phải chỉ riêng Hạnh mà rất nhiều người bị bệnh tật, mà nguyên nhân thì có nhiều lắm. Nhưng bệnh tật đối với Hạnh chỉ là vấn đề nhỏ thôi. Hạnh xác định vấn đề đó không quan trọng bằng tinh thần của Hạnh. Cho nên mọi vấn đề như thế nào đi nữa cũng luôn luôn vượt qua.
Không chỉ riêng Hạnh, có những trường hợp bệnh tật nằm một chỗ không thể đi được. Nhưng ý chí của các chị, các anh rất kiên cường, quật cường. Điều đó tạo cho Hạnh một sức mạnh, động lực để Hạnh càng kiên cường hơn nữa khi phải đối diện với những trận tra tấn bằng vũ lực, tinh thần như vậy.
Gia Minh: Có những lần gia đình đi thăm về cho biết Hạnh có những lần chống lệnh buộc phải đi lao động, những lần đó thế nào?
Đỗ thị Minh Hạnh: Có những lần bị tra tấn vì chống đối, thực sự Hạnh rất nhã nhặn với họ. Trước khi xảy ra những vụ bạo lực đối với Hạnh, Hạnh đã xin được gặp ban để trình bày một cách trực tiếp, trên tinh thần thiện chí. Thế nhưng họ đã không gặp gỡ Hạnh, mà lại ép các chị em khác phải bị phơi nắng, bị hành hạ bạo lực. Họ sử dụng những điều đó khiến các chị em bức xúc và từ chỗ bức xúc đó dẫn đến những hành vi, hành động bạo lực của họ đối với Hạnh.
Có những lần bị tra tấn vì chống đối, thực sự Hạnh rất nhã nhặn với họ. Trước khi xảy ra những vụ bạo lực đối với Hạnh, Hạnh đã xin được gặp ban để trình bày một cách trực tiếp, trên tinh thần thiện chí. Thế nhưng họ đã không gặp gỡ Hạnh, mà lại ép các chị em khác phải bị phơi nắng, bị hành hạ bạo lực
Đỗ thị Minh Hạnh
Gia Minh: Nay ra tù, Hạnh thấy có những thay đổi gì so với trước khi bị bắt?
Đỗ thị Minh Hạnh: Khi trở lại Hạnh thực sự thấy rất hứng khởi, vì Hạnh thấy xã hội bắt đầu thay đổi, bắt đầu chuyển hướng một cách tích cực sau 4 năm, 4 tháng, 3 ngày bị ở trong chốn lao lý, nhà tù cộng sản.
Thực sự mà nói điều hạnh phúc là những anh em, chiến hữu của Hạnh trước đây vẫn luôn luôn quật cường. Thứ hai, càng ngày càng nhiều những anh em đứng lên đấu tranh cho quê hương đất nước; đặc biệt là giới trẻ. Điều đó làm Hạnh vô cùng hạnh phúc. Giới trẻ càng phát triển hơn là động lực khuyến khích, làm Hạnh càng tự tin, càng vững mạnh bước tiếp con đường mà mình đã lựa chọn.
Gia Minh: Chắc chắn Hạnh phải dành thời gian để đi khám chữa bệnh, rồi mới tiếp tục công việc?
Đỗ thị Minh Hạnh: Vâng, có lẽ trong thời gian sắp tới gia đình sẽ sắp xếp cho Hạnh được đi khám để xem xét có bệnh hay không. Nếu không có bệnh thì thực sự vô cùng vui mừng; còn nếu có bệnh phải kịp thời điều trị.
Gia Minh: Và Hạnh còn điều gì nói với thính giả đang nghe Hạnh nói lúc này?
Đỗ thị Minh Hạnh: Thực sự hạnh rất hạnh phúc, cám ơn quí vị thính giả, tất cả anh, chị, em, cô chú, bác gần xa, trong và ngoài nước, các cơ quan thông tin ngôn luận, các cơ quan chính phủ các nước đã ưu ái giúp đỡ Hạnh trong thời gian qua.
Tất nhiên trong thời gian đầu về, Hạnh có nhiều thiếu sót, mong quí vị thông cảm cho.
Hạnh chỉ hy vọng rằng công cuộc đấu tranh của tất cả anh em, chiến hữu, của người dân Việt Nam sẽ phát triển luôn vững mạnh và trải rộng trên khắp đất nước Việt Nam để đất nước Việt Nam sẽ có được chiếu sáng rực rỡ nhất. Đó là điều Hạnh luôn mơ ước, luôn khát khao.
Gia Minh: Thay mặt quí thính giả của Đài Á Châu Tự Do. Cám ơn Hạnh đã dành cho Đài cuộc nói chuyện này.

Ân xá Quốc tế yêu cầu VN phóng thích tù nhân lương tâm


Nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh.

VOA

Nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh.
Hội Ân xá Quốc tế cho biết việc tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh được thả khỏi nhà tù trước thời hạn là một bước tích cực, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây cần phải thực hiện những bước tiếp theo để thả mấy mươi nhân vật tranh đấu ôn hòa vẫn còn bị giam cầm.

Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, 28 tuổi, đã được thả hôm 26 tháng 6, sau khi bị tuyên án 7 năm tù vào năm 2010 về tội gọi là “tuyên truyền chống nhà nước.” Cô đã bị bắt sau khi phát truyền đơn để bày tỏ ủng hộ cho việc công nhân đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc.
Trong thông cáo phổ biến hôm thứ hai, 30 tháng 6, tổ chức nhân quyền quốc tế này trích lời ông Rupert Abbott, Phó Giám đốc bộ phận Á châu Thái bình dương, nói rằng “Dĩ nhiên là chúng tôi vui mừng trước việc cô Đỗ Thị Minh Hạnh được thả, nhưng lẽ ra chính quyền không nên giam cầm cô ấy ngay từ lúc đầu. Tuyên án 7 năm tù cho một người phân phát truyền đơn là một việc hết sức vô lý và là một chứng cớ đáng buồn của sự đàn áp của nhà cầm quyền đối với những người bất đồng chính kiến.”
Ông Abbott nói thêm rằng giới hữu trách Việt Nam giờ đây cần phải trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho tất cả những người còn bị giam cầm vì hành sử một cách ôn hòa các quyền con người của mình.
Một số tù nhân lương tâm khác ở Việt Nam đã được thả trong vài tháng qua, trong đó có Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, nhà tranh đấu dân chủ Nguyễn Tiến Trung, nhà văn Vi Đức Hồi và nhà giáo Đinh Đăng Định. Ông Định đã qua đời không lâu sau khi ra khỏi tù.
Theo thông cáo của Hội Ân xá Quốc tế, ngoài cô Đỗ Thị Minh Hạnh, còn có ít nhất 4 phụ nữ khác –là Hồ Thị Bích Khương, Tạ Phong Tần, Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Trần Thị Thúy, đang bị cầm tù về tội gọi là tuyên truyền chống nhà nước, một tội danh mơ hồ mà Hà Nội lâu nay vẫn thường dùng để đàn áp những nhân vật tranh đấu ôn hòa.
Nguồn: Amnesty International’s PR/Nguoi Viet Online

Đứa con Hoang đàng trong Nước lạ

Kính Hòa, phóng viên RFA

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (phải) tiếp đón Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Nhà khách Chính phủ, Hà Nội, ngày 18/6/2014.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (phải) tiếp đón Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Nhà khách Chính phủ, Hà Nội, ngày 18/6/2014. AFP
Kính thưa quí vị và các bạn, kể từ tối nay Kính Hòa sẽ đến vớiquí vị và các bạn trong Tạp chí Điểm Blog hàng tuần mỗi tối thứ hai. Câu chuyện trên các blogs suốt một tháng qua không có gì khác ngoài những bi hùng ngoài biển Đông đang dậy sóng khi những chiếc tàu Việt nam nhỏ bé bị vùi dập bởi kẻ địch mạnh hơn, và cả những bi hài khi nơi hội trường Ba Đình, một không khí bình thường im lặng và im lặng.
Một chính sách ngoại giao trịch thượng

Câu chuyện giàn khoa Trung quốc trên thềm lục địa Việt nam vẫn chưa đến hồi chấm dứt. Những dòng dầu mỏ khoáng sản dưới thềm lục địa chưa thấy đâu nhưng đã thấy những dòng tình cảm sôi sục của người dân nước Việt trước họa phương Bắc. Như đổ thêm dầu vào dòng lửa tình cảm sôi sục đó, người đứng đầu ngành ngoại giao của đảng cộng sản Trung quốc Dương Khiết Trì nói với báo chí nước Trung Hoa cộng sản rằng Việt nam là một đứa con hoang đàng, rằng nên trở về theo tiếng gọi khổ đau của Trung quốc!
Câu nói của họ Dương nhanh chóng được các phương tiện truyền thông quốc tế loan tải, chỉ trong vài giờ đồng hồ cả thế giới này biết rằng Trung quốc không còn giấu diếm gì nữa, rằng Trung quốc tự coi mình là kẻ dạy bảo người khác, và nhất là dạy bảo kẻ láng giềng phương Nam cùng ý thức hệ cộng sản.
Và để làm rõ hơn những điều dấu giếm bao năm trường ấy, blogger nghệ sĩ Song Chi tìm lại những gì chính những người cộng sản Việt nam công bố trong những năm mà hai chính quyền cộng sản coi nhau như một mất một còn.
Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam VN, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore… Sau khi giành được ĐNCÁ, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…
Mao Trạch Đông
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore… Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…” Đây là câu nói của ông Mao Trạch Đông được Nhà xuất bản Sự Thật của đảng cộng sản Việt nam trích dẫn trong tài liệu “Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua” hồi năm 1979.
Tiếc thay Sự thật, như tên nhà xuất bản của đảng, lại biến đi đâu mất kể từ Hội nghị Thành Đô năm 1990. Kể từ khúc quanh lịch sử hãy còn nhiều bí ẩn ấy, quan hệ Việt nam Trung quốc lại được phủ dưới những câu thắm tình hữu nghị, bốn tốt 16 chữ vàng.
Phải chăng sự hữu nghị ấy cũng nằm trong ý tưởng tự giấu mình của những người kế tục sự nghiệp ông Mao Trạch Đông, đó là Thao quang dưỡng hối. Hãy nghe cựu Đại tá quân đội nhân dân Việt nam Bùi Tín trình bày.
Tôi nhớ là cách đây gần 30 năm, ông Đặng Tiểu Bình đã dặn Giang Trạch-Dân, rỉ tai dặn kỹ 4 chữ “Thao quang dưỡng hối” tức là 30 năm tới hãy tránh ánh sáng, dưỡng hối là nuôi dưỡng bóng tối, cái âm mưu bốn hiện đại ấy. Trong thời kỳ đó đừng lộ nanh vuốt vội, đừng vội mà bị chặn lại.
Nay có vẻ những người cộng sản Trung quốc không còn kiên nhẫn nữa. Từ Bốn tốt thắm tình đồng chí họ chuyển sang Bốn không được của người thầy đe nẹt tên học trò ngỗ nghịch. Hãy nghe Tân Hoa Xã, hãng tin của đảng cộng sản Trung quốc tuyên bố
“Thứ nhất, không được đánh giá thấp quyết tâm và năng lực bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc với các đảo trên Nam Hải; Thứ hai, không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu lịch sử” để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận Việt Nam về chủ quyền ở Tây Sa, Nam Sa; Thứ ba, không được lôi kéo các nước khác can thiệp vào Nam Hải; Cuối cùng là không được phá bỏ mối quan hệ Việt Trung sau 20 năm bình thường hóa quan hệ”.
Đến mức như thế này thì có lẽ như blogger Giang Nam Lãng tử viết trong một lời bình:
Xem ra tình hữu nghị ấy không chỉ “viển vông” mà còn rất độc hại đối với VN.
Thế mà vẫn còn người hy vọng sói có thể thành cừu. Còn anh Dove vẫn tin vào CNXH sẽ thắng lợi toàn cầu. Tư bản nhất định thất bại. Đó là điều tôi suy nghĩ mãi về một thế hệ như anh hay những kẻ bái vọng phương Bắc, quì mọp dưới chân họ, nhưng đâu có thoát khỏi chiến tranh bên miệng hố
blogger Hiệu Minh
Cái viễn vông ấy không phải Giang Nam Lãng tử là người nói đầu tiên mà là từ lời tuyên bố hùng hồn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, như để thỏa lòng mọi người dân Việt. Nhưng còn những người đồng chí phương bắc của ông thì sao? Mà đâu chỉ riêng ông, câu hỏi này nên đặt ra cho hơn ba triệu đảng viên cộng sản Việt nam vẫn còn đứng dưới bóng cờ đỏ búa liềm vàng với các đồng chí phương Bắc.
Trong một lời kêu gọi những người còn luyến tiếc ý thức hệ, trong bài Thư gửi anh Dove, blogger Hiệu Minh viết
Hôm nay quan hệ Việt Trung đã quá rõ, chiêu bài ý thức hệ chỉ là thứ họ mang lừa những người nhẹ dạ nghe theo..
Thế mà vẫn còn người hy vọng sói có thể thành cừu. Còn anh Dove vẫn tin vào CNXH sẽ thắng lợi toàn cầu. Tư bản nhất định thất bại. Đó là điều tôi suy nghĩ mãi về một thế hệ như anh hay những kẻ bái vọng phương Bắc, quì mọp dưới chân họ, nhưng đâu có thoát khỏi chiến tranh bên miệng hố.
Cuộc chiến sẽ không cân xứng
Chiến tranh thì đã xảy ra rồi, không phải chỉ trong hàng ngàn năm lịch sử mà các nhà sử học cộng sản có thể đổ cho sự hung hăng tàn ác của các chế độ phong kiến hai nước Việt Hoa, mà nó xảy ra ngay ở thời hiện đại này, khi mà cả hai đảng cộng sản Việt nam Trung Hoa đang cùng nhau xây dựng con đường xã hội chủ nghĩa, như lời tờ Hoàn cầu thời báo, tờ báo mang tư tưởng dân tộc chủ nghĩa của đảng cộng sản Trung quốc, tuyên bố ngay sau chuyến làm việc tại Việt nam của nhà ngoại giao họ Dương kết thúc.
Chiến tranh đã xảy ra năm 1979 trong một tháng máu nhuộm khắp núi rừng biên giới phía Bắc, máu của những người lính tay không đổ xuống nhuộm đỏ biển đảo Garma năm 1988.
Chính quyền của Việt Nam là một chính quyền độc tài, chính vì như thế nên trên trường quốc tế nó có ít sự ủng hộ. Và để đi đến 1 liên minh quân sự với Hoa Kỳ hay một nước khác bất kỳ thì đó là một điều khó khăn
Một bạn trẻ
Vâng chiến tranh! Chiến tranh là từ mà nhiều người Việt đã nhắc đến trong một tháng vừa qua, nhắc đến với sự lo ngại, lẫn sự hào hùng.
Nhiều người nhắc đến chiến tranh, nhưng chiến tranh làm sao với địch thủ mạnh hơn nhiều lần? Nhiều người nói rằng phải liên minh, liên minh với những người mạnh mẽ có thể kềm chế kẻ xâm lược kia. Nhưng liên minh làm sao với vị thế kẻ cô đơn ý thức hệ, và lại trớ trêu thay đồng sàng dị mộng với kẻ có thể đánh mình. Một bạn trẻ nói.
Cái chính sách quân sự của Việt Nam từ trước đến nay là làm bạn với tất cả các nước, không liên minh với nước này để chống nước khác. Theo em thì đó chỉ là một cách nói thôi, còn chính quyền của Việt Nam là một chính quyền độc tài, chính vì như thế nên trên trường quốc tế nó có ít sự ủng hộ. Và để đi đến 1 liên minh quân sự với Hoa Kỳ hay một nước khác bất kỳ thì đó là một điều khó khăn.
Nhưng lịch sử Việt nam hiện đại lại không thiếu nghi ngại với nước lớn Hoa Kỳ. Blogger Viết từ Sài Gòn hiến kế cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong bài Thư gửi Ngài thủ tướng
Nhưng, có một vấn đề này, ngài cần phải nhớ, Mỹ Quốc, nếu đứng trên phương diện địa cầu mà xét, họ mới là phương Bắc, họ là trợ lực của phương Bắc hiện tại. Điều này cho thấy họ cũng không tốt đẹp gì với một nước nhỏ như Việt Nam mà chính sách kinh tế, đối ngoại của họ cũng như lần bắt tay của họ với Trung Cộng để thả nổi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc năm 1974 đã chứng minh điều này. Nước Mỹ không bao giờ bỏ ra một đồng nào với ai nếu đồng đó không mang lại lợi nhuận cho họ (nhưng Trung Quốc thì càng ghê gớm hơn vì họ sẽ không bỏ bất kì xu nào với ai nếu nước đó không tan nát vì họ).
Và đã đến lúc ngài phải “dĩ độc trị độc” phải lấy nước trị nước, phải lấy phương Bắc lớn hơn để trị phương Bắc nhỏ hơn.
Và quan hệ với nước lớn Hoa Kỳ lại còn làm nhức đầu các nhà lãnh đạo ở Ba Đình hơn nữa với những đòi hỏi nhân quyền, dân quyền, minh bạch. Người bạn trẻ nói tiếp
Chỉ còn có Hoa Kỳ là một trong những nước đầu tiên lên án Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam. Em nghĩ là con đường như vậy thì có thể được nhưng để đạt được nó thì phải dân chủ hóa đất nước, chấp nhận đa nguyên đa đảng, thì khi ấy mới tiến được xa hơn.
Nhưng hãy trở lại với câu nói trịch thượng của họ Dương. Trong một chừng mực cay đắng nào đấy, blogger Cánh Cò viết:
Nhưng không ít người nghĩ ngược lại: Câu nói trên hoàn toàn chính xác. Không những chính xác, nó còn miêu tả chiều sâu thực trạng xã hội Việt Nam từ thượng tầng lãnh đạo quốc gia tới một người dân nghèo khó nhất, nếu người dân ấy chưa từng một lần chú ý tới các vấn đề xảy ra chung quanh mình.
Với thực trạng mà Cánh Cò đề cập đến, quả là khó lòng chiến thắng, mà chỉ có thể là một chiến thắng tưởng tượng như blogger Người Buôn Gió viết trong câu chuyện nước Vệ mới nhất của anh mang tựa đề Hải chiến liệt truyện. Trong câu chuyện ấy, sau khi nhìn thấy những chiến thuyền của nước Vệ hay nước Việt oanh liệt chiến thắng kẻ mạnh hơn, anh lại bừng tỉnh mà nói
Người đời sau gọi đấy là Giấc mộng Nam Kha.
Vâng Nam Kha chỉ là một giấc mộng.
Đến đây xin mời quí thính giả, qúi độc giả nhớ lại hai câu thơ của một nhà thơ cách mạng từng làm sôi động bao nhiều con tim trai trẻ cách đây mấy mươi năm
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn ngàn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Cũng nhớ lại hai câu thơ ấy trong lúc biển Đông dậy sóng, trong lúc Quốc hội Việt nam im lặng một cách lạnh lùng, nhà giáo Vũ Thị Phương Anh bùi ngùi cảm thán
Tổ quốc bao giờ Lạ thế này chăng?
Ai là đứa con hoang đàng, và đâu là Tổ quốc Lạ lùng? Có lẽ câu hỏi xin dành cho quí độc giả.