Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Bài viết đáng chú ý

Giải thích số liệu của Hội đồng Vàng

image
Báo cáo “Xu hướng nhu cầu vàng trong cả năm 2012” của Hội đồng Vàng Thế giới cho biết nhu cầu tiêu thụ vàng thỏi của Việt Nam trong năm 2012 là 65,6 tấn, bên cạnh đó còn có 11,4 tấn vàng nữ trang (tổng cộng 77 tấn). Con số này của năm 2011 lần lượt là 87,8 tấn và 13 tấn (tổng cộng 100,8 tấn).
“Nhu cầu tiêu thụ vàng” này thực chất là gì mà đã gây khó cho phóng viên báo Thanh Niên?
Định nghĩa đi kèm với báo cáo cho biết: “Nhu cầu tiêu thụ [vàng] là tổng lượng vàng nữ trang và vàng thỏi tiêu thụ trong một nước hay nói cách khác, đó là tổng lượng vàng các cá nhân mua trực tiếp”.
Nghe cũng rõ ràng rồi.
Nhưng ở các nước khác, người tiêu dùng thường mua vàng, chủ yếu là vàng nữ trang và giữ lâu dài. Còn ở Việt Nam, người dân có thể mua bán vàng nhiều lần với cùng số vàng đó. Ví dụ, trước đây một người có thể lấy tiền mặt mua 100 lượng vàng để thanh toán tiền mua nhà. Sau đó chủ nhà lại bán 100 lượng vàng này ngay, cứ thế 100 lượng vàng này có thể xoay vòng nhiều lần tạo ra một doanh thu lớn cho các công ty kinh doanh vàng bạc. Vì thế, câu hỏi đặt ra là khảo sát của Hội đồng Vàng Thế giới đã tính đến yếu tố này chưa khi nói về nhu cầu vàng của Việt Nam? Liệu có khả năng tính trùng lắp không?
Tôi liên lạc với Hội đồng Vàng Thế giới ở Luân Đôn và nhận được câu trả lời: Dữ liệu và thông tin trong báo cáo “Xu hướng nhu cầu vàng trong cả năm 2012” là do bộ phận nghiên cứu Thomson Reuters GFMS cung cấp.
Liên lạc tiếp với Thomson Reuters GFMS ở Luân Đôn thì được chuyển về chi nhánh của họ tại Úc và một chuyên viên phân tích cao cấp của GFMS tại Úc cho biết xét về mặt tiêu thụ, họ đã cố gắng tính toán để có được con số “ròng”, tức là đã loại trừ yếu tố mua đi bán lại sau khi thu thập số liệu thông qua các hãng vàng lớn.
Chuyên viên này, bà Cameron Alexander, chuyên trách nghiên cứu thị trường Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác, cho biết thêm “Một số lượng lớn vàng nhập vào Việt Nam là theo cách phi chính thức. Trước đây khi có một vài công ty sản xuất vàng miếng, hầu hết hàng nhập khẩu được dập thành vàng mang tính đầu tư. Tuy nhiên, ngày nay khi chỉ có SJC được quyền sản xuất vàng miếng thì vàng nhập được dùng để chế tác nữ trang”.
Bà Alexander không muốn đưa ra con số phỏng đoán là bao nhiêu phần trăm nhu cầu tiêu thụ vàng được đáp ứng bằng vàng nhập theo con đường phi chính thức nhưng nói rõ: “Các bằng chứng riêng lẻ cho thấy vàng vẫn đang được nhập không chính thức vào Việt Nam”. Bà nói thêm là do tiến hành nghiên cứu các thị trường lân cận nên biết rõ chuyện mua bán xuyên biên giới này.
Nguyễn Vạn Phú

Cuộc chiến 3-4: Ma San đã đầu tư 500 triệu USD vào dự án Núi Pháo

Masan Group cam kết sẽ đầu tư tất cả khoảng 621 triệu USD cho dự án này. Sáng 27/4, tại Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2013 của Công ty cổ phần Tập đoàn Ma San .MSN được tổ chức tại Thái Nguyên, về lý do đầu tư dự án Núi Pháo (Thái Nguyên), ông Dominic Heaton, Tổng giám đốc của Masan Resources cho biết, hiện trên thế giới không nhiều mỏ tiềm năng giống như mỏ Núi Pháo.
"Khi thực hiện dự án chúng tôi phải di dời hơn 2.000 hộ gia đình để thực hiện. Thời điểm tiếp quản dự án, giá vonfram tăng trưởng 6-9 tháng trước đó, sau đó lại rơi vào đà giảm, nhưng chúng tôi vẫn không mất đi niềm tin để tiếp tục đầu tư phát triển dự án", ông Dominic chia sẻ.

Bản đồ mỏ Núi Pháo tại Thái Nguyên (Nguồn: Masan Group)
Lãnh đạo Masan Consumer - người phụ trách phát triển dự án Núi Pháo cho biết, hiện Masan Group đã đầu tư gần 500 triệu USD cho dự án Núi Pháo.
Ông cũng cho biết thêm rằng, việc thực hiện đầu tư đều có sự hậu thuẫn của Masan Group thông qua các hỗ trợ tài chính như cầm cố tài sản để thực hiện dự án. Và để hỗ trợ tài chính cho dự án Núi Pháo, Masan Group cam kết sẽ đầu tư tất cả khoảng 621 triệu USD cho dự án này.
"Chúng tôi đã dành 4 năm vừa qua để xây dựng nền tảng huy động cũng như phân bổ vốn tại Masan Group để huy động được vốn cho dự án trong mọi điều kiện kinh tế", ông này nói.
Theo kế hoạch đưa ra trước đó vào trung tuần tháng 4, dự án Mỏ đa kim Núi Pháo sẽ hoàn thành và đi vào sản xuất. Dự án sẽ hoạt động trong vòng khoảng 20 năm, kể từ năm 2014 đơn vị sẽ đầu tư chế biến sâu trước khi xuất khẩu.
Trữ lượng mỏ Núi Pháo
Trữ lượng mỏ Núi Pháo

Trong năm 2013, công ty TNHH khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 100 triệu USD, giải quyết việc làm cho khoảng trên 1000 lao động, nộp ngân sách cho tỉnh Thái Nguyên khoảng 1.000 tỷ đồng mỗi năm.
Theo đánh giá của Ma San, Núi Pháo là một trong những mỏ có trữ lượng vonfram (được sử dụng trong thép, siêu hợp kim trong công cụ cắt, tuabin, sợi tóc bóng đèn) lớn nhất thế giới, chỉ sau những mỏ tại Trung Quốc.
Tập đoàn này ước tính, khi đi vào sản xuất, Núi Pháo sẽ tạo ra doanh thu khoảng 400-500 triệu USD và lợi nhuận trước thuế, lãi và khấu hao (EBITDA) khoảng 250-300 triệu USD mỗi năm. Trong suốt vòng đời dự án, Núi Pháo dự kiến mang lại doanh thu khoảng 6 tỷ USD và EBITDA hơn 3 tỷ USD (dựa trên giá cả, chi phí thiết kế và tỷ lệ thu hồi vào tháng 12/2011). 

(Gafin)
-----------------


Massan: Kẻ cướp tay không bắt Núi Pháo

Như trước đây chúng tôi đã có bài viết vạch trần việc  Nguyễn Tấn Dũng ngay sau khi được lên giữ chức vụ Thủ Tướng đã cất công lên 'thăm' núi Pháo tại Thái Nguyên. Một mỏ Vonfram thuộc loại lớn thứ 2 Thế giới với trữ lượng do chính Tập đoàn Masan công bố 52 triệu tấn! Ngay sau chuyến 'viếng thăm' bắt bình thường của Thủ Tướng thì hợp đồng của cô con gái Rượu Nguyễn Tanh Phượng và Tập đoàn Masan đã có tác dụng: Các Bộ ngành doạ thu hồi dự án Núi Pháo của nhà đầu tư nước ngoài và 'lùa' vào giỏ của Masan, cuối cùng các nhà đầu tư nước ngoài không còn con đừng nào thoát thân đã phải 'bán' lại cho Tập đoàn Masan! Mua như ăn cướp một dự án đang niêm yết hơn 1 tỷ USD, nhưng chỉ phải trả lại 250 triệu trong đó lại có tới 83 triệu USD nguồn vốn đã được các nhà đầu tư thu xếp sẵn sàng cho dự án! Nguồn vốn này sau khi chuyển sang cho Tập đoàn Masan đã được Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng bảo lãnh vay!
Một điều bất thường nữa là ngay sau khi cướp được dự án Núi Pháo Chính Phủ Dũng thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam - Một ngân hàng chính sách chuyên tài trợ cho các dự án phát triển nông thôn và dụ án hạ tầng, gần 2400 tỷ đồng, tương đương 130 triệu USD với thời hạn 08 năm và lãi suất gần như cho KHÔNG!!!
Chưa hết, ngay sau đó ngân hàng BIDV, Vietcombank đã đồng bảo lãnh cho Tập đoàn Masan phát hành trái phiếu 100 triệu USD để triển khai mua máy móc thiết bị...
Như vậy, rõ ràng Chính Phủ Nguyễn Tấn Dũng không những 'cướp' núi pháo theo đúng nghĩa đen và bóng giao cho Masan, rồi lạ lấy tiền của và uy tín của nhân dân để bảo lãnh cho Masan cũng không khác gì Vinashin thứ 2. Vinashin còn là Tập đoàn nhà nước, còn Masan hoàn toàn là của Nguyễn Đăng Quang - Hồ Hùng Anh - Nguyễn Văn Hưởng & Nguyễn Thanh Phượng. Thực tế mang tiếng là công ty đại chúng và Nguyễn Đăng Quang hầu như không nắm cổ phiếu, song thực chất nếu công an thực sự mở chuyên án điều tra sẽ thấy thực trạng: Nguyễn Đăng Quang biết rõ những trò làm ăn phi pháp của mình nên y đã tính xa: Không đứng tên cổ phiếu để nếu tình huống xấu nhất cúng không ai thu hồi gì được của y và đồng bọn! Qua đó càng thấy mưu mô có chủ ý của Nguyễn Đăng Quang ngay từ đầu!
Thử hỏi: Nếu không có sự bảo lãnh củ các ngân hàng thương mại Quốc doanh như NH Phát triển Việt Nam, BIDV, Vietcombank thì Masan có vay được nhiều trăm triệu - trên 300 triệu USD - để thực hiện dự án Núi Pháo????
RÕ RÀNG MASAN CHÍNH LÀ KẺ CƯỚP TAY KHÔNG BẮT GIẶC!  Hoàn toàn KHÔNG có gì ngoài hợp đồng 'tư vấn' và khoản lót tay 250 triệu USD cho Nguyễn Thanh Phượng là khoản Nguyễn Đăng Quang sau khi bán 40% cổ phần của Núi Pháo thu về 600 triệu USD, trừ phần đã chia cho Nguyễn Thanh Phượng thì Tập đoàn Masan mà Nguyễn Đăng Quang - Hồ Hùng Anh & Nguyễn Văn Hưởng vẫn đã bỏ túi 350 triệu Mỹ kim cùng hơn 300 triệu USD do chính Nhà nước thông qua các NH Quốc doanh bảo lãnh!!!!
Tại sao có một điều vô lý đến như vậy??? Tài nguyên thiên nhiên khoáng sản quý giá của nhân dân, của đất nước lại rơi vào tay của một nhóm Mafia như vậy? Tội này là của ai???
CHÍNH LÀ NGUYỄN TẤN DŨNG!
(QLB)
 

Viết tiếp bài “chết để con được học”: Lẽ ra người mẹ ấy không chết

 ông Nguyễn Tiến Hải: “Một trường hợp quá đau lòng. Tôi đã chỉ đạo đào sâu, làm rõ. Nhất là trách nhiệm của chính quyền địa phương”.

Như chúng tôi đã thông tin, chiều 24-4, chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 48 tuổi, ngụ ấp 5, xã An Xuyên, TP Cà Mau đã chọn cái chết như một việc làm kiếm tiền cuối cùng để giúp chồng bớt khổ, các con được tiếp tục đi học. 
Sau khi Pháp Luật TP.HCM đăng bài viết “Chết để con được học” (ngày 27-4), bạn đọc khắp nơi đã lên tiếng chia sẻ với gia đình chị Nhân. Cũng có nhiều ý kiến chỉ trích trách nhiệm chính quyền địa phương và hành động dại dột, tiêu cực của chị.
Thực sự trước khi chọn cái chết, chị Nhân đã nỗ lực bằng tất cả tâm sức của mình để duy trì cuộc sống gia đình, việc học của các con. 
Trong tay không ruộng đất, không vốn liếng, vợ chồng chị đầu tắt mặt tối làm thuê. Năm 2011, khi nghe có chính sách hỗ trợ sinh viên học các ngành liên quan hóa chất độc hại, chị thúc con trai Đinh Công Bằng, khi ấy mới vào cao đẳng năm đầu tìm hiểu và làm hồ sơ rồi chị đến các cơ quan chức năng để chứng nhận và gửi hồ sơ này. Trước đó, năm 2010, khi Bằng sắp hết cấp 3, chị đã đi tìm hiểu về chính sách cho sinh viên vay tiền học tập. Khi ngân hàng chính sách đòi hỏi phải có sổ hộ nghèo hoặc cận nghèo mới được vay, chị ra ấp, lên xã xin được cấp sổ hộ nghèo, cận nghèo. 
Anh Bảo, chồng chị, kể lại: “Túng quá tôi chỉ biết đem chó, đem gà, vịt chưa đủ lớn đi bán. Còn vợ tôi biết đi chơi hụi, xin vay ở hội phụ nữ ấp, hội cựu chiến binh… Vợ tôi đã cố gắng hết sức mình rồi”. 


Anh Bảo kể rằng trước khi chết,  nhiều lần chị Nhân ôm anh và nói: “Em thương anh nhiều lắm, tha lỗi cho em phải bỏ anh”.
Bà Nguyễn Thị Nhu, Chi hội trưởng Cựu chiến binh ấp 5, xã An Xuyên, kể: “Ngày 18-11-2012, khi họp dân ấp nhân ngày Đại đoàn kết và xét chọn hộ nghèo, cận nghèo, Mỹ Nhân có đến dự, nó nói: “Hoàn cảnh tôi quá khó khăn, xin được cấp sổ hộ nghèo để vay tiền cho các con ăn học”. Khi đó, trưởng ấp ghi nhận nhưng chỉ hứa là sẽ xem xét sau, vì đã qua đợt xét hộ nghèo. Hiểu hoàn cảnh của nó, tôi đã từng cho nó mượn 1 triệu đồng để đóng học phí cho con. Sau đó tôi còn cho nó vay 1,6 triệu đồng tiền quỹ cựu chiến binh, vì chồng nó là cựu chiến binh”. 
Anh Từ Văn Nguyễn, Trưởng Công an ấp 5, cho biết thêm: “Cách đây một tháng, chị Nhân đi kêu bà C. để bán nhà và đất đang ở. Bà C. trả lời là để bàn lại với người thân chứ đất đai đâu phải nói mua là mua liền. Chị Nhân năn nỉ bán trả chậm, 2 triệu đồng một tháng cũng được để có tiền đóng học phí cho các con và nói nếu không bán được chắc chết.
Chị cũng đã từng đi hỏi vay tiền nóng, chấp nhận mức lãi suất 30%/tháng nhưng thấy hoàn cảnh của chị giới cho vay nặng lãi cũng không dám cho vay. 
Chị Phạm Thị Hồng Hà ở ấp 2, xã An Xuyên kể thêm: Cách đây nửa tháng, Mỹ Nhân đến nhà chơi, tôi mời ăn cơm. Đang ăn tôi thấy nước mắt Mỹ Nhân rớt vô chén cơm. Tôi hỏi, nó bảo là cùng đường rồi, chắc chết. Tôi khuyên nó hết lời, tưởng đã ổn, ai dè…


Đinh Công Bằng xót xa nhớ lại người mẹ chưa có một ngày sung sướng của mình.

Danh sách ủng hộ gia đình chị Nhân
Trong hai ngày qua, báo Pháp Luật TP.HCM đã nhận được 47.200.000 đồng từ quý bạn đọc hảo tâm chia sẻ với khó khăn của gia đình chị Nhân. Gồm:
Ông Lâm Tấn Lợi, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Duy Lợi: 30 triệu đồng; cô Nguyễn Phương Trang (Nhà Bè): 1 triệu đồng; một nhà báo nữ xin giấu tên: 1 triệu đồng, đồng thời tài trợ toàn bộ sách vở, quần áo cho một trong số ba người con của chị Nhân học hết THPT; Facebooker Mẹ Bống: 2 triệu đồng; Facebooker PhoebeThai: 1 triệu đồng; luật sư Đoàn Thị Ngọc Linh: 2 triệu đồng; chị Nguyễn Thị Ngọc Lan (Bình Thạnh): 2 triệu đồng; anh Nguyễn Ngọc Hiến (quận Tân Phú, TP.HCM): 500.000 đồng; em Phan Lê Bảo Trâm (học sinh lớp 10D8 Trường THPT Nguyễn Hiền, quận 11, TP.HCM): 500.000 đồng; chị Nguyễn Thị Minh Truyền (Tân Bình) : 200.000 đồng; em Nguyễn Trường Gia Minh (lớp 10D5 Trường Lê Quý Đôn, TP.HCM): 3 triệu đồng; một phóng viên báo Tuổi Trẻ: 1 triệu đồng; thân hữu của chị Thủy Cúc báo Tuổi Trẻ: 1 triệu đồng; Văn phòng Luật sư Người nghèo: 1 triệu đồng.
Ngoài ra, nhà thơ Hoàng Hạc (235/50/7/16 đường Trục 30, phường 13, quận Bình Thạnh, TP.HCM) hứa từ tháng 4-2013 sẽ hỗ trợ cho gia đình chị Nhân mỗi tháng 1 triệu đồng.
Mọi giúp đỡ, ủng hộ gia đình chị Nhân xin gửi về: Ban Công tác bạn đọc, báo Pháp Luật TP.HCM, cao ốc 34 Hoàng Việt, phường 4, quận Tân Bình, TP.HCM.
Hoặc chuyển khoản:


Tài khoản: 1607201005173 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi nhánh Phan Đình Phùng, TP.HCM. Chủ tài khoản: Báo Pháp Luật TP.HCM.

Nội dung chuyển khoản xin ghi rõ: Giúp gia đình chị Nhân, nhân vật trong bài Chết để con được học.

Ông Trần Đại Đoàn, Bí thư xã An Xuyên, xác nhận thêm rằng trước khi chị qua đời ba ngày, chị có đến gặp ông để xin sổ hộ nghèo. Ông Đoàn ghi nhận và hứa sẽ xem xét.
Những lời hứa “sẽ xem xét” được cán bộ nói đi nói lại nhưng rồi cứ biệt tăm. 
Trao đổi với PV, ông Trần Đại Đoàn, Bí thư Đảng ủy xã An Xuyên, nhìn nhận: “Chúng tôi nhìn nhận có sự quan tâm thiếu sâu sát với hoàn cảnh khó khăn của chị Nhân. Chúng tôi sẽ kiểm điểm nghiêm túc về trách nhiệm của mình trước cái chết của chị Nhân”. 
Chính quyền địa phương xác nhận chị Nhân đã báo trước cái chết từ một tháng trước, với những lý do đúng như trong thư tuyệt mệnh chị để lại. Thời điểm này, áp lực đóng học phí 4 triệu đồng cho con trai Đinh Công Bằng đè nặng lên cơ thể yếu, gầy, bệnh hoạn của chị, trong khi đúng vào lúc chị vừa mất việc giúp việc nhà, căn bệnh lại nặng thêm. Chị đi chích thuốc ở xã gần 10 ngày, mỗi ngày tốn 50.000 đồng nhưng bệnh tình vẫn không giảm. Anh Bảo kêu chị phải đi ra bác sĩ Út ở TP Cà Mau chích. Nhưng chích ở đây hai ngày, chị quyết định không chích nữa, vì mỗi ngày 140.000 đồng, quá tốn kém. Ngưng chích một ngày, chị thắt cổ chết. Hôm đó chị mượn một cây viết của đứa học trò gần nhà, nói là để viết thư gửi cho chương trình Khát vọng sống (một chương trình từ thiện có tiếng ở Cà Mau) nhưng hóa ra là chị viết tuyệt mệnh thư.

Chính quyền nói gì?
Ông VÕ VĂN NHU, Bí thư Chi bộ ấp 5, xã An Xuyên:
Chúng tôi có khuyết điểm là chưa gần dân
Lúc chị Nhân nói tại cuộc họp dân về hoàn cảnh gia đình khó khăn, đề nghị cấp sổ hộ nghèo thì gia cảnh chưa khó khăn như bây giờ. Lúc đó, trong ấp chỉ xét cấp cho năm hộ nghèo, 10 hộ cận nghèo, toàn những hộ có hoàn cảnh khó khăn hơn chị Nhân. Chúng tôi ghi nhận và có báo về xã nhưng sau đó không nghe xã chỉ đạo gì thêm. 
Chính quyền ấp 5, xã An Xuyên ngồi lại kiểm điểm về cái chết của chị Nhân.
Tuy nhiên, sau cái chết của chị, chúng tôi hoàn toàn thấy được khuyết điểm của mình là chưa thực sự nắm bắt sâu, sát đời sống của người dân. Chúng tôi nghiêm túc rút kinh nghiệm để không bao giờ xảy ra trường hợp tương tự”.
Ông NGUYỄN TIẾN HẢI, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau:
Bài học đau xót
Tôi rất đau xót trước cái chết của chị Nhân. Giận chính quyền sở tại để xảy ra chuyện đau lòng này. Chúng tôi đã chỉ đạo TP Cà Mau khẩn trương rà soát, kiểm tra trách nhiệm chính quyền địa phương ấp 5 và xã An Xuyên và cả phía lãnh đạo Ngân hàng Chính sách của TP Cà Mau.
Tôi cũng đề nghị báo Pháp Luật TP.HCM tiếp tục thông tin sâu, đầy đủ, nhiều chiều câu chuyện này. Theo tôi, đây là một bài học cần rút kinh nghiệm sâu sắc về tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân ở cấp chính quyền cơ sở.
Ông HỒ TRUNG VIỆT, Chủ tịch UBND TP Cà Mau:
Chính quyền có lỗi
Tôi mới về nhậm chức đúng một ngày thì xảy ra câu chuyện chị Nhân. Trước mắt, tôi đã chỉ đạo Hội Khuyến học TP Cà Mau đến hỗ trợ ngay 3 triệu đồng cho anh Bảo và tìm hiểu cặn kẽ gia cảnh của anh. Tôi xem đây là một bài học cho chính quyền địa phương về việc quan tâm sâu sát đến đời sống, tâm tư nguyện vọng của người dân. 
Trước mắt, chính quyền địa phương đã có lỗi khi không quan tâm sâu sát đến đời sống, những khó khăn, tâm tư nguyện vọng của chị Nhân”. Về quy trình xét hộ nghèo, chúng tôi đang rà soát, chưa có kết luận đúng hay sai”.

(PLTP) 

Song Chi - 30 Tháng Tư, vì sao chưa thể quên?

30 Tháng Tư 1975-30 Tháng Tư 2013. Cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc đã 38 năm rồi, nhưng dường như nó vẫn chưa bao giờ thật sự trở thành “một chương đã qua, đã xong” trong lòng đa số người dân Việt Nam trong và ngoài nước.
Ðối với “bên thắng cuộc” là đảng và nhà nước cộng sản, cuộc chiến tranh ấy tiếp tục được họ nhắc đi nhắc lại vào những ngày lễ 2 Tháng Chín, 30 Tháng Tư, cùng vô số ngày kỷ niệm khác, vẫn được tổ chức tưng bừng.
Khi những thất bại của mô hình thể chế chính trị hiện tại và trong toàn bộ sự điều hành lãnh đạo đất nước của nhà cầm quyền ngày càng không thể che giấu trước mắt người dân Việt và thế giới, họ càng cố bám víu vào những “hào quang xưa cũ” từ cuộc chiến. Họ càng cố “ăn mày dĩ vãng” để níu kéo lòng tin đã cạn kiệt của nhân dân và biện minh cho sự tồn tại của đảng, của chế độ.
Ðối với “bên thua cuộc”, lúc đầu chỉ là những người trực tiếp và gián tiếp liên quan đến chế độ miền Nam Cộng Hòa, tiếp theo là hàng triệu người bỏ nước ra đi vì không chịu nổi chế độ mới sau “giải phóng”... nhưng dần dần, cả dân tộc cay đắng nhận ra nhân dân Việt Nam chính là bên thua cuộc.
Và khi cuộc chiến càng lùi xa, những sự thật càng được sáng tỏ, cùng với sự thối nát của chế độ này ngày càng lộ rõ, thì tất cả nguyên nhân, diễn biến của cuộc chiến tranh đã qua cùng với cái kết thúc ngày 30 Tháng Tư 1975 lại được nhớ lại. Trở thành nỗi day dứt đối với tất cả những ai quan tâm đến số phận đất nước, dân tộc.
Những câu nói “Nếu như... giá như...” lại dằn vặt người Việt Nam.
Khi từng ngày từng giờ chứng kiến thực trạng xã hội Việt Nam ngày hôm nay, sau gần 4 thập kỷ thống nhất đất nước.
Khi nhìn sang những quốc gia láng giềng như Thái Lan, Singapore, Indonesia, Nam Hàn... mà ở thời điểm cách đây 38 năm, về nhiều mặt còn thua hoặc không hơn miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ bao nhiêu, nay đã đi được một chặng đường rất dài. Trở thành những quốc gia thịnh vượng và khoảng cách với Việt Nam bây giờ là hàng chục năm, thậm chí cả trăm năm.
Những quốc gia Ðông Âu cũ một thời cũng do các đảng cộng sản lãnh đạo, nay đã thay đổi rất nhiều chỉ sau hai thập niên đổi sang mô hình tự do dân chủ.
Và nhìn rộng ra trên toàn thế giới, để thấy vị trí của Việt Nam ở đâu, đời sống vật chất tinh thần của người dân Việt Nam so với người dân ở các quốc gia phát triển ra sao.
Có nhiều người tự hỏi vì sao người Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đã kết thúc từ lâu?
Không có gì là khó hiểu. Ðối với nhà nước Cộng Sản Việt Nam, tuy tưởng là thắng cuộc nhưng càng ngày họ càng nhận ra họ không thể thu phục được nhân tâm “bên thua cuộc” cũng như lòng tin của nhân dân.
Càng ngày họ càng nhận ra họ không thể chiến thắng trong thời bình. Không thể đưa đất nước thành một quốc gia giàu mạnh, không thực hiện được khẩu hiệu “độc lập-tự do-hạnh phúc”, còn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thì lại càng xa vời vợi.
Cho dù mù quáng, bảo thủ đến đâu, tự sâu trong thâm tâm, họ hẳn phải nhìn ra con đường mà họ đi là sai lầm, sự chọn lựa của họ là sai lầm và có tội với đất nước, dân tộc.
Lịch sử rồi sẽ phán xét công tội rõ ràng của đảng Cộng Sản Việt Nam.
38 năm sau ngày hân hoan mừng chiến thắng và ở trên đỉnh cao của sự kiêu ngạo, giờ đây, những gì người ta có thể nhận thấy ở nhà nước Cộng Sản Việt Nam là sự hoang mang, bế tắc, khủng hoảng về mọi mặt.
Ðối ngoại, hèn nhát, bất lực trước âm mưu bành trướng bá quyền xâm lược Việt Nam ngày càng lộ rõ của Trung Quốc. Ðối nội, bế tắc, bất lực trong điều hành quản lý về kinh tế, xã hội, trong cuộc chiến chống tham nhũng, chỉnh đốn đảng, kể cả những cuộc tranh giành đấu đá nhau giữa các phe phái để giành ghế.
Sự lúng túng, mất phương hướng còn thể hiện qua hàng loạt động thái giả như kêu gọi sửa đổi Hiến pháp, đổi tên nước, trong khi vẫn ra sức đàn áp, ngăn chặn mọi tiếng nói đối lập, mọi sự thay đổi theo chiều hướng dân chủ hóa trong xã hội.
Ðối với “bên thua cuộc” và cả nhân dân Việt Nam, nếu như sau 38 năm, đảng cộng sản đã thành công trong việc đưa đất nước trở thành một quốc gia hùng cường, độc lập về chính trị, bảo vệ toàn vẹn toàn lãnh thổ lãnh hải, đem lại cuộc sống tự do, no ấm, công bằng cho nhân dân... Có lẽ nỗi đau về sự thua cuộc và cái giá quá lớn phải trả cho cuộc chiến sẽ qua đi.
Những người cùng khổ kiếm không đủ ăn vẫn chiếm đại đa số ở Việt Nam trong khi một thiểu số ăn trên ngồi trốc thì tiền thừa mứa, bận rộn chuyện mua vàng cất giữ, nhập cảng xe hơi bằng máy bay ở cái nước gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa”. (Hình: AFP/Getty Images)
Ngược lại, cuộc chiến tranh sẽ tiếp tục còn là nỗi ám ảnh khi Việt Nam vẫn còn là một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, khi nhân dân Việt Nam chưa thật sự được hưởng quyền tự do, dân chủ, sự bình an trong đời sống.
Một nguyên nhân khác khiến cho quá khứ khó quên, là từ trong chính tính cách của người Việt Nam.
Không chỉ riêng nhà cầm quyền là những kẻ bảo thủ và không muốn thay đổi, dường như cái tính ít chịu thay đổi, thiếu rộng lượng, khoan dung cũng nằm trong mỗi người Việt Nam. Cứ nhìn cách người Việt chúng ta hành xử với nhau trong đời thường hay quan điểm của chúng ta trước hầu hết mọi vấn đề trong cuộc sống thì rõ.
Sở dĩ như vậy cũng bởi vì chúng ta phải sống quá lâu trong một chế độ độc tài ngu dân. Ðặc biệt khi chế độ đó lại kết hợp trong nó những cái tồi tệ nhất của chủ nghĩa phong kiến hủ lậu, chủ nghĩa tư bản thời man rợ và chủ nghĩa cộng sản khát máu, vô thần, như ở Việt Nam hay Trung Quốc.
Cái thiện, nhân tính trong từng con người bị hủy hoại đến tận cùng. Sự chia rẽ, nghi kỵ, thiếu khoan dung, vô cảm, tàn ác... những sản phẩm của một chế độ không tin ở con người, không tôn trọng con người, cũng vì thế mà nảy nở sinh sôi.
Ðã nhiều lần nhà cầm quyền nhắc đến cụm từ hòa giải hòa hợp dân tộc. Và cứ mỗi khi ngày 30 Tháng Tư trở về, vấn đề này lại được xới lại.
Thiết nghĩ, cách hòa giải hòa hợp hiệu quả nhất không phải nằm trên bề mặt ngôn từ hay một vài hành động tỏ ra thiện chí từ phía nhà cầm quyền, mà là hãy dũng cảm thay đổi. Dứt khoát chọn lựa một con đường đi đúng đắn để vực dậy đất nước khỏi sự tụt hậu, bế tắc, cả nguy cơ đánh mất chủ quyền và độc lập vào tay bá quyền phương Bắc.
Một khi Việt Nam đã thoát ra khỏi thời kỳ do đảng cộng sản lãnh đạo để xây dựng lại đất nước, vết thương về cuộc chiến tranh tức khắc sẽ lành.
Bởi không còn có cảnh cứ vào mỗi ngày 30 Tháng Tư người thì tiếp tục ăn mừng ngày giải phóng, ngày chiến thắng, người cay đắng gọi là ngày Quốc Hận, Tháng Tư Ðen. Sẽ không còn có những cuộc tranh cãi bất tận về cờ vàng cờ đỏ, ai mới thật sự giải phóng ai hay tên gọi đúng nhất của cuộc chiến là gì, v.v...
Quá khứ chỉ có thể qua đi khi hiện tại cả dân tộc đã ở trên một nấc thang khác, một bước phát triển khác.
Song Chi

“Chợ trời thật giả đâu chân lý?”

Hôm nay được tin đại gia, hoa hậu quí bà Trương Thị Tuyết Nga bị cơ quan công an khởi tố bắt tạm giam vì tội lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm tỉ đồng, bỗng nhớ câu thơ của Tố Hữu: “Chợ trời thật giả đâu chân lí ?”.
Quả thực, dường như bây giờ mọi giá trị đều bị đảo lộn, thực hư khôn lường. Mới hôm qua còn tràn ngập trên mặt báo, trên mạng những lời ngợi ca không ngớt, những hình ảnh tươi roi rói thế mà hôm nay bỗng chốc thần tượng sụp đổ, lớp mặt nạ bong tróc, thiên hạ mới ngã ngửa ra rằng bên trong toàn những thứ rác rưởi. Có vị đại quan, cả tỉnh “sợ” một phép bởi cái oai như một ông vua con, bỗng sáng mai ngủ dậy, thần dân ngỡ ngàng, không tin ở tai mắt mình khi trên đài, trên báo đồng loạt loan tin ngài bị kỉ luật, bị bãi chức vì đủ thứ tội. Có vị đại gia, sau một đêm bỗng thành tỉ phú, thành điển hình doanh nhân giỏi, lên truyền hình, nhận giải thưởng…, thì cũng loáng một cái, sau giấc ngủ trưa lộ nguyên hình là kẻ lừa đảo, trùm băng nhóm mafia. Có kẻ thật xứng danh anh hùng, nhưng bảng vàng chưa kịp trương lên đã phải gỡ xuống vì là anh hùng dởm. Và bây giờ đến lượt hoa hậu quí bà…
Còn bao nhiêu kẻ nữa, vẫn đang lộng lẫy trong lớp áo lụa là, oai phong trong lớp phấn son lòe loẹt làm lóa mắt thiên hạ ?

Chợ trời thật giả, biết là làm sao !

27-4-2013

Nguyễn Duy Xuân
(nguyenduyxuan.net

Chuyện làng ngày ấy & đền Hùng hôm nay

Ở làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn gì để phục hồi nữa.
Võ Văn Trực
May mà Bắc Ninh, Phú Thọ … thuộc vùng Pháp chiếm đóng nên Chùa Dâu, Ðền Hùng … mới còn tồn tại. 
Nguyễn Thanh Giang
den hung
Trước hết, xin nghe qua về những chuyện ở Đền Hùng hôm nay – theo như tường thuật của phóng viên Tiền Phong Online, vào hôm 13 tháng 4 năm 2013:

Những ngày này, cư dân mạng xôn xao về một “hòn đá lạ” đặt tại Đền Thượng, Đền Hùng, Phú Thọ. “Hòn đá lạ” có kích thước cao khoảng 50cm, bề rộng nhất khoảng 35cm, hình cánh buồm, ngụ trên bệ được gia cố khá đẹp, đặt trong Đền Thượng phía bên cánh trái theo lối đi vào Đền.

Mặt trước và sau của hòn đá có ký tự cổ, dấu ấn vuông, họa tiết phức tạp khó hiểu. Nhiều người đồn thổi rằng, “hòn đá lạ” này là một dạng bùa yểm không tốt.

Có mặt tại Đền Thượng sáng 10/4 (tức 1/3 âm lịch) để tìm hiểu rõ thực hư, phóng viên Tiền Phong thấy khá nhiều người đi lễ Đền đầu tháng đang vây quanh “hòn đá lạ”. Có người xì xào bàn tán, có người chụp ảnh, chạm sờ, có người lại thận trọng đứng từ khoảng cách vài mét nhưng đứng quan sát hòn đá khá lâu.

Trao đổi với PV Tiền Phong, ông Nguyễn Xuân Các, Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng nói, hòn đá này, do một người tên Khảm ở Hà Nội cung tiến lên Đền Hùng năm 2009, khi đó là thời kỳ tôn tạo, tu sửa Khu di tích.

Một ông tên Nguyễn Minh Thông (là một đại tá quân đội, kiêm cán bộ của một đơn vị thuộc UNESCO Việt Nam) đã lên đây làm lễ. Hòn đá có ý “là để trấn giữ quốc gia”.

Ông Các báo cáo lên lãnh đạo chuyện dư luận trên mạng interrnet về “hòn đá lạ”, lãnh đạo tỉnh cũng đã biết chuyện cư dân mạng xôn xao nên đã chỉ đạo ông Các xem xét, cho hướng đề xuất xử lý sau Lễ hội này.Thời kỳ ông Nguyễn Văn Khôi là Giám đốc Ban quan lý Khu di tích (nay về hưu) đã đồng ý cho người cung tiến đặt hòn đá ở đây. Và chính ông Khôi đã phải làm giải trình lên UBND tỉnh Phú Thọ về “hòn đá lạ”.

Nhưng viên đá này tốt, hay xấu, hiện ông Các chưa thể đưa ra nhận định gì. Ông Các cho biết, có lãnh đạo tỉnh đã đồng ý sẽ lập hội đồng khoa học để “nghiên cứu” và đưa ra kết luận khoa học. 

"Hòn đá lạ" ở Đền Thượng, Đền Hùng đang gây xôn xao cư dân mạng.  Ảnh và chú thích: Tùng Duy.
“Hòn đá lạ” ở Đền Thượng, Đền Hùng đang gây xôn xao cư dân mạng. - Ảnh và chú thích: Tùng Duy.
Hội Đồng Khoa Học chưa lập, nghĩa là “hòn đá lạ” chưa được nghiên cứu gì ráo trọi thì vô số những blogger đã nhào vào bàn loạn cào cào. Mà toàn là bàn (ra) không hà. Lão Phạm là một trong những người như thế:

Dư âm sự kiện tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng nhận sắc phong từ những ông Tây chẳng biết Vua Hùng là ai còn chưa kịp lắng xuống thì các chức sắc văn hóa tỉnh Phú Thọ lại phải đau đầu bởi một hòn đá. Hòn đá chỉ là một hòn đá với dăm ba dòng chữ loằng ngoằng nhưng dọa được khối người.

Đem một hòn đá lên bàn thờ tổ tiên để ngày đêm khấn vái mà không hề biết gì về nó là một việc có lẽ chỉ nên xảy ra vào thời… các vua Hùng.

Khi đó, người Việt còn xăm mình vì tưởng có thể dọa dẫm cá sấu với thuồng luồng.

Khi đó hòn đá mà người ta vô tình vấp chân hai lần trong một ngày sẽ trở thành totem.

Khi mà mọi sự bất thường trong thiên nhiên đều khiến người ta sợ hãi bởi sự vô minh thì việc mang hòn đá vô tri lên bàn thờ là điều dễ hiểu.

Nhưng không thể hiểu được sự vô minh đó có thể kéo dài mãi đến 4000 năm.

Càng không thể hiểu được việc thờ cúng hòn đá vô tri đó đã được kéo dài suốt ba năm ở di tích cấp Quốc gia, và những chức sắc ở di tích này hầu như đều đã tốt nghiệp đại học, tức đã học thuộc lòng chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Bọ Lập thì chê ỏng chê eo là thông tin về “hòn đá lạ” này … rất tù mù:

Hòn đá này là đá trấn yểm hay hòn đá mê tín dị đoan? Phải gọi cho đúng tên chứ không thể gọi là hòn đá lạ được. Cũng như năm 2010, người ta tổ chức nghi lễ đúc tim tượng cho tượng đài Thánh Gióng, có người nói tim đó là tim lạ. Người khác cãi, nói tim do người cộng sản tạo ra thì gọi đó là tim cộng sản. Chỉ có người cộng sản mới nghĩ ra chiêu độc đúc tim cho tượng, ngoài ra không có ai nghĩ ra được cái chiêu đó.

A, phải rồi. Sự tích hòn đá bắt đầu từ chủ trương của “lãnh đạo Phú Thọ” cụ thể là ông Nguyễn Hữu Điền (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ) chắc chắn là một người cộng sản, đến ông thấy bùa yểm là đại tá quân đội Nguyễn Minh Thông, ông này không đảng viên sẽ không có quân hàm đại tá, tóm lại thầy phá thế yểm Nguyễn Minh Thông đích thị là một người cộng sản. Hòn đá sinh ra trong thời cộng sản được chế tạo bởi những người cộng sản. Thế thì hòn đá này cũng được gọi là hòn đá cộng sản chứ còn gì nữa.
Ai dám bảo cộng sản vô thần nào? Bịp bợm!

Bác Đào Tuấn, xem ra, cũng chả bàn (vô) một lời nào nghe cho …  tử tế:

Đến hôm qua, khi người đặt đá, một cựu quan chức của ngành văn hóa Phú Thọ lên tiếng, người ta mới biết chuyện hòn đá bắt đầu từ chuyện… viên gạch. Cụ thể: năm 2009, người ta phát hiện một viên gạch lạ có in chữ Hán. Nhiều nhà văn hóa cho rằng có thể là bùa yểm trong đó. Để phá thế yểm, Ban quản lý đã phải mời các pháp sư, nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm “vào cuộc”. Có hẳn “hội thảo nhiều lần” được tổ chức, khẳng định viên gạch trên ghi “Đánh đổ đức sáng Vua Hùng” này có từ cuối thời Trần, do đạo sỹ của quân Nguyên Mông mang đến đặt. Và để phá thế yểm của các đạo sĩ “lạ”, pháp sư Việt Nam đã đặt hòn đá như một đạo bùa lành.

Nghe chuyện, cứ ngỡ như nghe chuyện Cao Biền.

Chuyện “Cao Biền” ra sao, nói thiệt, tui hơi bị dốt nên không biết rõ gì cho lắm nhưng Chuyện Làng Ngày Ấy (*) thì tôi có được xem qua. Xin ghi lại một vài đoạn ngắn để rộng đường dư luận:

Hôm nay cả làng nghỉ lao động để làm một trong những việc trọng đại nhất trong lịch sử làng: tập trung tổ tiênPhong tục hình thành bền vững hàng ngàn năm, nhưng “cách mạng” cái phong tục này lại quá đơn giản, tập trung bà con để giải thích ý nghĩa của công việc. Sáng hôm sau, từng gia đình đã phải rước tổ tiên đến nhà thờ họ. Rồi từ nhà thờ họ, tổ tiên lại được rước đến nhà thờ đại tôn. Như vậy là cả làng chỉ có một nơi thờ tự, tất cả mọi bàn thờ cá thể bị phế bỏ

Riêng nhà tôi, cha đã sửa soạn từ chiều hôm trước. Để bà con láng giềng không biết, mãi đến tối mịt cha mới đem trưng ra tất cả những đồ tế khí vốn chỉ dùng trong ngày tết như đũa sơn, bát trái hồng, đĩa cây trúc, đĩa con phượng, đôi hạc đồng ngậm hoa sen, mâm đồng Tôi xúng xắng bên cạnh cha, cũng soạn cái này sửa cái kia để làm vừa lòng cha. Tẩn mẩn tôi hỏi: Đến mai là tết à cha?” Cha lặng lẽ trả lời:“Ông bà tổ tiên chỉ được hưởng những thứ này lần cuối cùng thôi. Sáng mai ông bà đi tập trung rồi, có về nhà mình nữa đâu…”

Sau cuộc rước tổ tiên tập trung về một nơi, tất cả các nhà thờ họ trong làng đều bị phá. Có nhà thờ biến thành địa điểm hội họp. Có nhà thờ biến thành kho phân. Hầu hết các nhà thờ đều dỡ ra, cùng với những đồ tế tự, đem chia đều cho mọi người: người được gạch, người được cái cột gỗ, người được cái xà ngang, người được cái án thư. Người được cái trướng, người được chục bát…
vovantruc

Thế là thôi, hết thờ tự, hết nơi sum họp huyết tộc. Các dòng họ bỗng dưng ly tán.
Cả làng chỉ còn lại một cái nhà thờ đại tôn… Nhiều cụ thấy tình cảnh vậy, chán nản không muốn đến ngày giỗ Tổ. Nhà thờ đại tôn ngày càng hoang vắng. Ngói vỡ. Tường gạch loang lổ từng mảng. Câu đối bị đánh cắp. Trẻ em viết nguệch ngoạc, bậy bạ lên cánh cửa!
Đùng một cái, ông Bí thư Đảng ủy xã quyết định lấy nhà thờ đại tôn của họ Võ làm… kho thóc. Các cụ không thể ngồi yên bàn với nhau: “Cả làng chỉ còn lại một nhà thờ mà ông Đảng cũng đòi chiếm làm kho thóc thì thờ cúng vào đâu? Con cháu vô ơn bội nghĩa với tổ tiên à? Phải kêu lên tận Đảng ủy. Lời tai đụng vào tai ông bí thư, ông đanh mặt nói như búa bổ:”Đồng bào miền Nam hy sinh xương máu không tiếc, bà con ta ngồi ở hậu phương lại tiếc cái nhà thờ Tổ? Các cụ ấm ức, nhưng đành phải  buông tay xót xa nhìn ngôi nhà thờ biến thành kho thóc
(Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. NXB Tạp Chí Văn Học: California, 2006. 61-67)

Và đó mới là màn “dạo đầu,” càng về sau chính quyền cách mạng còn “bồi” thêm nhiều “cú” ngoạn mục khác nữa – theo như nguyên văn cách dùng từ của nhà văn Võ Văn Trực:

Trời ơi, cái cú tập trung  ông bà, ông vải, tổ tiên đã làm cho mọi người choáng váng, bồi thêm cái cú tập trung thần thánh này nữa có thể làm cho dân làng bị ngất!
Thần đã đi rồi. Thánh đã đi rồi. Phật đã đi rồi. Nhưng ngôi đền, ngôi chùa, ngôi miếu như cái xác không hồn... Dân tứ chiếng tranh nhau cướp giật mang đi: người được hòn đá tảng, người được cái cửa vọng, người được viên ngói viên gạch, người được cái cửa gỗ…
Ôi tan hoang đến tột cùng tan hoang sau các cuộc rước các thánh các thần về thế giới đại đồng. Tại nhà thờ thánh, tượng Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương chết đường chết chợ, bị trẻ con ném cứt vào mặt. Tại ngôi chùa Trang Hà, hàng chục pho tượng đổ ngổn ngang, bị lũ mục đồng ném bùn lấm láp nướcsơn. Cái giếng hình bán nguyệt trước cổng chùa đẹp thế mà cũng bị phá phách cầy xới để trồng lúa. Mấy tấm đá ghép cầu bị bê làm hố tiêu. Mấy chiếc bia lớn nhà thờ chánh tổng, cái thì bị đem bắc cầu, cái thì bị bọn mục đồng khiêng đi làm trò chơi rồi ỉa đái vung vãi trên mặt bia. (Sđd 70-75).

Bọn mục đồng trong Chuyện Làng Ngày Ấy nay (không chừng) đã trở thành những quan chức lãnh đạo tỉnh Phú Thọ và rất nhiều địa phương khác nữa. Bởi vậy, việc chúng khuân “một hòn đá lạ” về thờ ở Đền Hùng, hay lũ lượt lái xe (biển xanh) đi cúng bái lậy lục ở khắp các đền chùa trên toàn quốc không có gì là lạ. Cái lũ chăn trâu (chăn bò) này giờ mới chợt ân hận vì đã ỉa đái vung vãi” trên mặt mộ bia và thần thánh nên hốt hoảng thờ cúng lung tung cho nó đỡ … run vậy mà. Có tin có thiêng, có kiêng có lành chớ bộ.

© Tưởng Năng Tiến

© Đàn Chim Việt
---------------
(*) Chuyện Làng Ngày Ấy do NXB Lao Động phát hành tháng 6 năm 1993 – nhà văn Xuân Cang chịu trách nhiệm xuất bản, nhà văn Ma Văn Kháng chịu trách nhiệm bản thảo – và đã bị cấm lưu hành tại Việt Nam. Tác phẩm này được Tạp Chí Văn Học (California) in lại năm 2006.

Muốn hội nhập, nợ công cần tuân theo luật chơi quốc tế

Nếu tính theo tiêu chuẩn quốc tế thì nợ công của Việt Nam 2011 sẽ cao gấp 2 lần con số do Bộ Tài chính công bố, tương đương 106% GDP! Sự khác biệt này nằm ở chỉ tiêu về nợ công của Việt Nam so với các tiêu chuẩn thế giới. Tuy nhiên, các ý kiến tại hội thảo khoa học “Khủng hoảng nợ công ở Liên minh châu Âu và những vấn đề gợi mở tới Việt Nam”, do Viện hàn lâm Khoa học Việt Nam tổ chức ngày 25/4 cho thấy, muốn hội nhập, Việt Nam cần tuân theo luật chơi quốc tế.
Tại hội thảo, các chuyên gia đưa ra hai con số thống kê nợ công năm 2011 hoàn toàn cách biệt. Theo đó, nợ công của Việt Nam do Bộ Tài chính công bố chỉ vào khoảng 66,8 tỉ USD, tương đương 55% GDP 2011. Tuy nhiên, nếu tính theo chuẩn quốc tế, TS Lưu Bích Hồ, nguyên viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược (Bộ KH-ĐT) đã chỉ ra rằng con số này phải lên tới 128,9 tỉ USD, tương đương 106% GDP.


Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch tuyệt đối trên, theo TS Nguyễn Trọng Hậu, Đại học Almamer, Ba Lan, là do Việt Nam đã lược bớt một số chỉ tiêu nợ công so với các nước khác, trong đó có 2 chỉ tiêu quan trọng là nợ của doanh nghiệp nhà nước và khoản Nhà nước vay của quỹ hưu trí. TS Hậu dẫn chứng, trong khi ở nước ngoài, bất kỳ một doanh nghiệp nào có cổ phần của Nhà nước khi vay nước ngoài cũng được tính vào nợ công. Trong khi đó, ở Việt Nam, điển hình như trường hợp vay cả tỷ USD như của Vinashin cũng không được tính vào nợ công.
Nhiều ý kiến tại hội thảo cho rằng việc đánh giá thực trạng nợ công của Việt Nam thực sự gặp khó khăn khi các số liệu vừa thiếu, vừa không đủ tin cậy. Trong khi nhiều nước trên thế giới, con số nợ công được cập nhật tới từng quý, nghĩa là ở thời điểm hiện tại, nhiều quốc gia đã biết được nợ công chính xác của nước mình tính đến hết quý I/2013, thì ở Việt Nam tính cập nhật rất yếu. Tính đến nay, con số báo cáo nợ công chính thức mới được Bộ Tài chính công bố đến năm 2010. Con số nợ công củanăm 2011 mới chỉ là ước tính.
Một lần nữa, tính minh bạch thông tin, điều mà giới đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài quan ngại, lại ám mầu lên chất lượng báo cáo chỉ số kinh tế quan trọng này. Càng nhiều chỉ số bị liệt vào dạng thiếu minh bạch, tính cạnh tranh về môi trường đầu tư của Việt Nam càng thấp trong con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài.
Cho rằng tình trạng nợ công của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với nợ công của EU, PGS, TS Lưu Ngọc Trịnh, Viện Kinh tế Chính trị Thế giới nhận định, điểm chung của các quốc gia này là kỷ luật tài khóa lỏng lẻo. Nó thể hiện rõ ở Việt Nam khi chi ngân sách cuối năm luôn vượt xa Nghị quyết của Quốc hội về chi ngân sách theo công bố đầu năm.Bên cạnh đó, việc phân bổ nguồn vốn dễ bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu chính trị hơn là các mục tiêu kinh tế. Và khi thu không đủ bù chi, Việt Nam nhiều khả năng sẽ bị rơi vào “vòng xoáy nợ công” giống như Hy Lạp thời gian qua.
Trong khuôn khổ cuộc hội thảo, có một số ý kiến bày tỏ sự quan ngại trước thực trạng nợ công hiện nay. Cụ thể, TS Nguyễn Trọng Hậu cho rằng cần đề phòng trước khả năng các khoản nợ tư được biến thành nợ công. Khi các tập đoàn kinh tế tư nhân vay vốn từ nước ngoài và phát triển lên quy mô lớn, và nếu bị đổ vỡsẽ tạo ra hệ lụy sâu sắc cho nền kinh tế. Do đó, trong nhiều trường hợp, Nhà nước lại phải đưa tay ra cứu.
Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ công hiện nay, GS.TS Đỗ Hoài Nam, Chủ tịch Hội đồng Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã đề cập vềkhả năng mô hình tăng trưởng kinh tế quá nóng, dựa quá nhiều vào vốn và phát triển theo chiều rộng. Trong khi đó, để xử lý được vấn đề nợ công, PSG.TS Nguyễn An Hàcho rằng trước hết cần sự minh bạch đối với các con số trong hoạt động này, tiếp đến là cùng tham gia theo luật chơi quốc tế, một khi đã muốn hội nhập quốc tế. Như vậy, sẽ phải điều chỉnh, bổ sung thêm các chỉ tiêu về nợ công so với tiêu chuẩn hiện tại của Việt Nam.
Hiện không chỉ có nợ công, mà nhiều chính sách điều hành kinh tế, thị trường khác ở Việt Nam cũng đang trong thời kỳ được xem xét và có khả năng điều chỉnh cho phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, tính minh bạch là điều kiện tiên quyết trong bất kỳ một hoạt động quản lý vĩ mô nào, nếu định hướng đến tính hiệu quả và lợi ích chung.
Trường Giang
tổng hợp
(Sống mới)
 

Bắt giám đốc doanh nghiệp vận tải biển giúp Dương Chí Dũng bỏ trốn

Quyết định truy nã Dương Chí Dũng

Nguyễn Hồng Vinh, giám đốc một doanh nghiệp vận tải biển ở TPHCM đã cùng bàn bạc kế hoạch và trực tiếp giúp nguyên Cục trưởng Hàng hải Dương Chí Dũng bỏ trốn khi bị truy nã.
Hôm qua, Cơ quan an ninh điều tra cho biết đã tống đạt quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam Nguyễn Hồng Vinh (36 tuổi, ngụ P.Nguyễn Thái Bình, Q.1, TP.HCM).
Theo điều tra, Vinh đã cùng Dương Tự Trọng (nguyên phó giám đốc Công an Hải Phòng) và Vũ Tiến Sơn (nguyên phó phòng CSHS Công an Hải Phòng) lên kế hoạch giúp Dương Chí Dũng chạy trốn truy nã. Khi Dương Chí Dũng vào đến TPHCM, Vinh đã dùng ô tô đưa Dũng ra biên giới Tây Ninh để trốn ra nước ngoài.
Đến nay đã có nhiều người bị phát giác có liên quan đến việc Dương Chí Dũng bỏ trốn, trong đó cơ quan An ninh điều tra đã lần lượt khởi tố, bắt giam Dương Tự Trọng, Vũ Tiến Sơn và Phạm Minh Tuấn, giám đốc một doanh nghiệp vận tải ở TP.Hải Phòng.
(Thanh Niên) 

Xã hội dân chủ truyền thông và cuộc đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam

Một năm trước, người viết bài này đã dự báo về “truyền thông VN hậu Tiên Lãng” ghi nhận tác động không thể phủ nhận của truyền thông “lề trái” đối với đời sống xã hội chính trị của nước này. Cho đến hôm nay, có thể khẳng định rằng một mạng lưới truyền thông “lề trái” (cũng được gọi là “lề dân”) đã hình thành vững chắc ở VN, bất chấp mọi cố gắng ngăn chặn và đánh phá của an ninh, nhiều lúc vượt mặt cả hệ thống truyền thông “lề Đảng” trong cuộc đua “không sòng phẳng” nhất là khi xử lý những đề tài “nhạy cảm”: một bên có “trăm tay nghìn mắt vạn đầu”, mà mỗi hình ảnh con mắt ghi nhận trực tiếp mỗi ý tưởng bộc phát trong đầu lập tức được bàn tay nhắp chuột tung lên tờ đại báo có phạm vi toàn cầu; bên kia là sáu, bảy trăm tờ báo chỉ có một cái đầu, bị xiềng bởi một hệ thống kiểm duyệt chìm và nổi, ngày càng bộc lộ sự thiểu năng trong chính lý do tồn tại của truyền thông: tiếp cận và loan truyền sự thật.
Vậy là trên thực tế, trong khi nhiều quyền dân chủ còn bị nhà nước toàn trị hạn chế hết sức và thậm chí tước đoạt, người dân VN đã tự tạo lập cho mình một XÃ HỘI DÂN CHỦ TRUYỀN THÔNG dưới sự “lãnh đạo” của Internet (thay vì “Internationale”!).
Một số người từng bĩu môi cho rằng “ăn thua gì vì đó chỉ là ảo”, nay chắc phải xem lại suy nghĩ ấy: những thực tế diễn biến của Tiên Lãng, Văn Giang, Bauxite, Sửa Hiến pháp… đã chứng tỏ tác động của thế giới “ảo” đối với thế giới “thực” như thế nào :
“Từ trong thế giới ảo
ta xây đắp con đường
trở về SỰ THẬT
trở về SỰ SỐNG
trở về TỰ DO”
(Bài ca nối mạng – HH 2011)
Chợt nhớ nhà thơ Xuân Diệu sinh thời hay dẫn câu thơ của ai đó trả lời những người chế diễu “nhà thơ thì ở trên mây ấy mà” rằng : “nhưng ở trên mây có sấm sét”. Thế giới ảo đang chứa đầy sấm sét cho chế độ toàn trị VN.
Đây chính là xuất phát điểm, là cơ sở đầu tiên cho cuộc đấu tranh dân chủ, vì, trước hết quả thực “dân chủ là để cho người dân được mở miệng” như Hồ Chí Minh từng nói (nói nhưng có làm hay không, đó là chuyện tạm thời chưa bàn ở đây). Có điều, người dân hôm nay đã không chờ ai “cho” họ “được” mở miệng!
Một đặc điểm chưa từng có của xã hội dân chủ truyền thông hôm nay là: Cơ hội “mở miệng” đến với từng cá nhân (tất nhiên mới hạn chế trong số những người quen Internet, song con số gần 9 triệu thuê bao đến tháng 2/2013 - nguồn: Cục Viễn thông - có ý nghĩa rất lớn), không cần phải được ai “tổ chức” và “lãnh đạo”. Tức là trong khi từng cá nhân có điều kiện tham khảo vô cùng rộng rãi, thì cũng từ đó tính độc lập (tương đối) của từng ý kiến cá nhân lại được bảo đảm khá cao. Đặc tính này của sự cộng thông trên mạng dường như tôi đã đúc kết trong hai câu thơ:
Từ một nơi này ta ôm hoàn vũ
Không cô đơn cũng không bày đàn
(Bài ca nối mạng – HH 2011)
Cũng có nghĩa là trong xã hội dân chủ truyền thông hôm nay, khó có ai thành công thật sự (dù có thể thành công nhất thời bằng những thủ đoạn mị dân, lừa bịp) trong việc “dẫn dắt dư luận” theo “định hướng” của mình, dù là định hướng theo “lề Đảng” hay “lề trái”.
Trong văn học nghệ thuật, người ta coi “phi tập trung hoá” là đặc điểm của tinh thần “hậu hiện đại”, thì truyền thông hôm nay thể hiện rõ nhất tinh thần này.
Phải chăng những người đấu tranh cho dân chủ cũng nên nhận rõ đặc điểm này của xã hội dân chủ truyền thông để không lấn cấn trong não trạng bị điều kiện hoá quá lâu bởi truyền thống phi dân chủ mà tinh thần “tập trung”, “thống nhất”, “đồng thuận” luôn được đặt lên đầu?
Huống hồ, trong tổng phổ dân chủ hôm nay có rất nhiều âm giọng khác biệt: các cựu “cận thần” của ĐCS đang tỉnh thức, các trí thức tự do không ăn lộc của cơ chế, những người đã từng trải nghiệm một chế độ tuy chịu sự cai trị của “đảng kaki” nhưng đã có được thiết chế dân chủ căn bản với tam quyền phân lập và tự do báo chí, những tinh hoa của lớp trẻ ít bị ràng buộc bởi những giáo điều từng ngự trị con tim khối óc đại đa số người dân trong quá khứ, những trí thức đã mang quốc tịch khác nhưng vẫn ngày đêm ngóng về quê hương với góc nhìn từ những xã hội đã có trình độ dân chủ cao...
Với cách nhìn về xã hội dân chủ truyền thông như đã nêu, tôi nghĩ những ý kiến khác biệt về phương pháp đấu tranh, những lời phê bình có lúc có vẻ như gay gắt, thiếu “thông cảm” với một phát ngôn nào đó của những nhân vật nào đó, xuất phát từ nhận thức, quan điểm riêng, là hoàn toàn tự nhiên, chẳng đáng băn khoăn, lại càng chẳng nên phẫn nộ, phản ứng, suy diễn động cơ tiêu cực… Những ý kiến như thế thực tế sẽ làm cho chân lý sáng tỏ dần từ nhiều góc độ. Chỉ có sự tranh luận thẳng thắn, có trách nhiệm, không định kiến và bình đẳng mới đưa đến sự đồng thuận tự nguyện, thực chất, tạo nên sức mạnh của một tập thể tự giác, tỉnh táo, không sa vào những cơn “lên đồng tập thể” quá quen biết trong quá khứ.
Đặc biệt trong quá trình dân chủ hoá lâu dài và vô cùng gian khó ở nước ta, tôi cho rằng nhiệm vụ “khai dân trí” (bao gồm “khai quan trí” và cả “tự khai trí”) vẫn đang chiếm vị trí trọng yếu hàng đầu (dĩ nhiên việc này luôn diễn ra song song với và được thực hiện ngay trong các cuộc vận động dân chủ nhân quyền cụ thể). Vì thế, những tranh luận để sáng tỏ chân lý hết sức bổ ích, và chân lý phải được diễn đạt minh bạch, rốt ráo, không thể bị mờ nhoà bởi những lợi ích giai đoạn mang tính “chiến thuật” kiểu “tuyên giáo” quen thuộc của cộng sản. Cũng bởi, một nét mới của xã hội dân chủ truyền thông hôm nay là mọi lời nói, mọi bài viết đều sẽ được lưu lại, tra cứu, “soi” đến từng chi tiết, không cách nào tùy tiện chối cãi hoặc biện bác theo lối “cứ nói thế cho được việc lúc này”.
Dĩ nhiên cuộc đấu tranh nào cũng cần đến sự liên kết, tổ chức, thống nhất. Nhưng bản chất của sự liên kết, tổ chức, thống nhất hôm nay hình như đã khác hẳn truyền thống: đó là sự liên kết, tổ chức, thống nhất MỞ lấy cứu cánh của cuộc đấu tranh: MỘT XÃ HỘI TỰ DO DÂN CHỦ PHÁP QUYỀN làm mục tiêu duy nhất. Cũng vì thế, nhiều khi nó mang tính tự phát trong từng hoàn cảnh cụ thể nhiều hơn là một kế hoạch tỉ mỉ được vạch sẵn từ một số cái đầu nào đó; và các “lãnh tụ” cũng xuất hiện một cách gần như ngẫu nhiên như trường hợp Vaclav Havel trong Cách mạng Nhung của Tiệp, thậm chí gần như không có “lãnh tụ” như trong Cách mạng Hoa nhài Ả Rập. Ở nước ta, việc xuất hiện bất ngờ của các trang mạng như boxitvn, quechoa, xuandien, Huỳnh Ngọc Chênh,… hay của Điếu Cày, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Đắc Kiên… những tên tuổi trước khi “nổ lớn” thì chẳng mấy ai biết đến, cũng thể hiện bản chất này.
Phải chăng đó cũng chính là lợi thế của xã hội dân chủ truyền thông trước nỗ lực trấn áp của chính quyền? Làm sao chặt được hàng vạn cái đầu - những cái đầu có phép mọc lại ngay sau khi bị chặt, chưa kể cái đầu này bị chặt liền có hàng chục cái đầu khác thế chỗ? Đó chẳng phải “quyền lực mềm” của xã hội dân chủ truyền thông đã và sẽ vô hiệu hoá “quyền lực cứng” của nhà tù và sung đạn hay sao?
Phải chăng tính đa nguyên của xã hội mà chúng ta hướng tới đang được thực tập trong ngay xã hội dân chủ truyền thông hôm nay?
Phải chăng một xã hội công dân trưởng thành một cách vững chắc qua dân chủ truyền thông sẽ tránh cho chúng ta trượt vào vết xe đổ của những nước Nga từ toàn trị cộng sản chuyển thành độc tài Putinist?
Trên đây là một vài suy nghĩ chủ quan của một người không hiểu biết nhiều về chính trị, nhưng có chút thực tế tham gia xã hội truyền thông,mong được các bậc cao minh chỉ giáo.
Hoàng Hưng
27.04.2013
 

Nữ dược sĩ đấu tranh chống tiêu cực bị đồng nghiệp đánh vỡ sọ!

Dược sĩ Trần Thị Kiều Oanh (SN 1983- nhân viên Phòng Giám định y khoa, thuộc Sở Y tế tỉnh Bình Phước) bị nam y sĩ làm chung phòng dùng ghế đánh vào đầu gây thương tích. Nguyên nhân xuất phát từ việc nữ dược sĩ Oanh dám đứng ra tố cáo, chống tiêu cực xảy ra ngay tại Phòng Giám định y khoa tỉnh này.
Hôm nay (26.4), TAND thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đã ban hành thông báo thụ lý vụ án để gửi Viện KSND cùng cấp và bị đơn là y sĩ Nguyễn Xuân Đô (SN 1984, nhân viên Phòng Giám định y khoa- Sở Y tế tỉnh Bình Phước). Nguyên đơn vụ kiện này là nữ dược sĩ Oanh- nạn nhân bị y sĩ Đô tấn công bằng cách phang ghế sắt vào đầu ngay tại phòng làm việc, làm nạn nhân bị nứt sọ não vào ngày 26.6.2012.

Nữ dược sĩ đấu tranh chống tiêu cực bị đồng nghiệp đánh vỡ sọ!
Dược sĩ Oanh đi cấp cứu vì bị y sĩ Nguyễn Xuân Đô dùng ghế sắt đánh nứt sọ não. Ảnh: P.B
Tuy nhiên, theo dược sĩ Oanh cho biết, trong đơn khởi kiện ông Đô, chị chỉ đòi lại công bằng, công lý và danh dự; yêu cầu tòa xét xử, buộc ông Đô công khai xin lỗi chị Oanh tại nơi chị bị nạn là Phòng Giám định y khoa tỉnh Bình Phước và chỉ đòi bồi thường… 1 đồng!
Song song với việc TAND thị xã Đồng Xoài thụ lý đơn khởi kiện của nữ dược sĩ Oanh, Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Bình Phước cũng thụ lý đơn của dược sĩ Oanh tố cáo bác sĩ Đoàn Đức Loát - Trưởng phòng Giám định y khoa tỉnh Bình Phước - đã có hành vi “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế” trong việc chia tiền ngân sách nhà nước tiết kiệm được cho một số “quan chức” của phòng trong dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ - 2013.
Trước khi bị đánh, nữ dược sĩ Oanh đã tố cáo một số y - bác sĩ tại Phòng Giám định y khoa câu kết với bác sĩ Đoàn Đức Loát - trưởng phòng - nhận tiền đút lót của bệnh nhân, khiến ông Đô cùng một số nhân viên khác đã nhiều lần nhục mạ dược sĩ Oanh và hăm dọa. Nghiêm trọng hơn là vào hồi 16h30 phút ngày 26.6.2012, khi nữ dược sĩ Oanh chuẩn bị rời phòng làm việc thì bất ngờ bị y sĩ Đô dùng ghế sắt tấn công, đập thẳng vào đầu nhiều phát làm dược sĩ Oanh gục tại chỗ, bất tỉnh nhân sự.
Để mặc cho nạn nhân nằm trên sàn phòng làm việc, ông Đô bỏ đi chỗ khác. Nhẫn tâm hơn cả, những “đồng nghiệp” đều làm ngơ khi thấy nạn nhân bị đánh gục bất tỉnh. Đến khi chị Oanh tỉnh lại, nhưng không thể nào đứng dậy được, chị đã gọi điện thoại cho gia đình đến đưa đi cấp cứu.
Theo kết quả chụp phim, nữ dược sĩ Oanh bị nứt sọ não. Sau khi vụ đánh người xảy ra, cũng như các cơ quan chức năng trước đó đã nhận được đơn tố cáo tiêu cực, tham nhũng xảy ra tại Phòng Giám định y khoa tỉnh Bình Phước, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy khối cơ quan Dân-chính-đảng tỉnh Bình Phước vào cuộc xác minh và mới đây đã có kết luận “Dược sĩ Oanh tố cáo đúng sự thật. Số tiền bác sĩ Loát cùng các nhân viên dưới quyền tham nhũng hơn 143 triệu đồng”.
Phùng Bắc
(Lao Động)

Bùi Công Tự - Đôi điều suy nghĩ về hòa hợ, hòa giải Dân tộc

Nhớ lại 37 năm trước, ngày 30 tháng Tư năm 1975, tôi hòa trong dòng người Hà Nội trôi bồng bềnh trên các đường phố với một niềm vui sướng tưởng như bất tận: Sài Gòn giải phóng rồi ! Cả Hà Nội đổ ra đường. Một hãng thông tấn nước ngoài đưa tin: Hôm nay Hà Nội là thành phố vui nhất thế giới!
Niềm vui nào rồi cũng qua đi… cho đến bây giờ. Nhân kỷ niệm ngày 30 tháng Tư, chương trình thời sự VTV lại vang lên giai điệu hào hùng của bài ca “giải phòng Miền Nam” quen thuộc tự thuở nào. Nhưng lòng tôi thì đã lạnh lùng. Tôi đang là công dân của Sài Gòn. Và tôi thấu hiểu câu nói của ông Võ Văn Kiệt – người con ưu tú của miền Nam: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Ông Võ Văn Kiệt được dân Sài Gòn – nhất là giới trí thức, văn nghệ sĩ – yêu mến, kính trọng nhiều hơn bởi câu nói đầy “chất Người” đó. Còn tôi, tôi muốn gọi ông là “người Cộng Sản có trái tim”.

Hai người lính trẻ từ hai chiến tuyến
Thế hệ những người như tôi sinh ra cùng Cách mạng tháng Tám, cùng nhà nước Dân chủ Cộng hòa. Cả một thời lịch sử oanh liệt và bi thương đi qua mái tóc bạc cùng cả một đời mong mỏi. Thời kháng chiến 9 năm thì mong đến “Ngày Độc lập”, sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 thì lại mong đến “ngày Thống nhất”. Rồi ngày ấy cũng đến, ngày 30 tháng Tư năm 1975 được coi là ngày thống nhất đất nước.
Báo chí ngày ấy nhắc đi nhắc lại câu: “Non sông đã thu về một mối”. Nhưng ít người để ý rằng “lòng người còn trăm mối ngổn ngang”. Người giải phóng trong cơn say chiến thắng cứ đinh ninh nghĩ rằng mình “chiến đấu và chiến thắng kẻ thù” mà có biết đâu là mình “chiến đấu và chiến thắng đồng bào của mình”.
Tôi viết đến đây thì bỗng nghe trong một chương trình truyền hình Trọng Tấn đang hát bài “Đất nước trọn niềm vui”. Tôi muốn hỏi nhạc sĩ Hoàng Hà – tác giả ca khúc này – phải chăng ông đã viết ra nhạc phẩm ấy trong một tâm trạng phấn khích ngây thơ? Vì ông ở trong phe chiến thắng nên ông không nhận ra “có hàng triệu người đang buồn” và thế nên “đất nước chưa trọn niềm vui”.
Tôi cứ tự hỏi tại sao ngày ấy chúng ta phải giam giữ hàng vạn đồng bào (sỹ quan binh lính Việt Nam cộng hòa) khi họ đã buông súng đầu hàng? Những nhà tù được gọi là “trại cải tạo” ấy chẳng những không “cải tạo” được ai mà còn chuốc thêm thù oán. Tại sao chúng ta lại để cho hàng triệu đồng bào phải bỏ nước ra đi khiến ngôn ngữ loài người có thêm từ ngữ “thuyền nhân”? Tại sao chúng ta lại chiếm đoạt các nhà máy, cửa hàng… của các công dân trong cái gọi là “cải tạo tự bản tư doanh”?
Tại sao?
Lại nghĩ, nếu như lúc ấy trong tư thế người chiến thắng, chúng ta hành xử với các đồng bào của mình (những người ở phía bên kia) được như người Tây Đức đối đãi với người Đông Đức sau khi bức tường Berlin sụp đổ thì tình thế có lẽ đã khác biết bao? Nhưng chúng ta đã không đủ văn hóa để ứng xử văn minh như người Đức. Thực tế là chúng ta đã hành xử hà khắc nếu không muốn nói là vô luân. Và vì thế mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc càng thêm căng thẳng.
Tuy thế vấn đề hòa hợp dân tộc cũng đã được đặt ra. Nhà nước Việt Nam cũng đã có những chính sách ngày càng cởi mở hơn, tạo điều kiện cho kiều bào đóng góp với quê hương đất nước. Nhưng những gì đã có là chưa đủ. Đâu đó vẫn còn những quy định, những phát ngôn, những việc làm chưa thấu suốt tinh thần hòa hợp.
Theo thiển nghĩ của tôi, chỉ trừ những kẻ phản quốc, còn tất cả những người có huyết thống thuộc 54 dân tộc Việt Nam, dù ở trong nước hay ở nước ngoài, đều là thành viên của nhân dân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
Không thể có chuyện tất cả 90 triệu nhân dân đều có chung một quan điểm chính trị, đều có chung một cách nhìn nhận. Ngay cả lòng yêu nước cũng có nhiều cách thể hiện khác nhau. Cho nên để hòa hợp dân tộc thì phải chấp nhận sự khác biệt, vượt lên trên những khác biệt, kể cả sự khác biệt về chính kiến, để tất cả mọi công dân đều có cơ hội chung sức chung lòng xây dựng đất nước Việt Nam.
Sự hòa hợp dân tộc trong một quốc gia còn thể hiện ở chỗ đại bộ phận nhân dân ủng hộ chính quyền, ủng hộ người lãnh đạo mình.
Muốn đạt được như vậy thì chính quyền phải đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, không có cách hành xử chống lại nhân dân. Những vụ việc không tốt đẹp xảy ra ở Tiên Lãng, Văn Giang và nhiều nơi khác vừa qua đã làm cho lương tâm nổi giận, sẽ tiếp tục dẫn đến sự đối đầu trái với tinh thần hòa hợp dân tộc mà tất cả mọi người dân đều tha thiết.
Hòa hợp dân tộc chỉ có thể có được trong một chính thể cởi mở, có nhiều tổ chức xã hội quy tụ nhân dân. Chính quyền và nhân dân cùng phấn đấu cho một mục tiêu chung. Nó đòi hỏi phải có sự minh bạch để nhân dân tin tưởng là chính quyền trong sạch, tin tưởng sự đóng góp của mình là để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là để giúp đỡ cộng đồng chứ không phải để nuôi béo một nhóm người. Do đó hòa hợp dân tộc còn dựa trên tinh thần phản biện để tìm ra chân lý, tránh mê tín, sùng bái cá nhân hoặc tâm lý “đám đông”.
Hòa hợp dân tộc là con đường sáng, là nguyện vọng của toàn dân. Hòa hợp dân tộc chỉ có “được”. Nhưng chỉ những ai không sợ “mất” thì mới mong muốn thôi. Đúng thế không các bạn ?

Bùi Công Tự
(Blog Tễu) 

Vì sao Quý bà thành đạt Tuyết Nga bị bắt?

Quý bà Tuyết Nga
Chiều 27-4, Cục Điều tra hình sự, VKS nhân dân tối cao đã tống đạt các quyết định khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam, khám xét nơi ở, nơi làm việc của bà Trương Thị Tuyết Nga về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bà Trương Thị Tuyết Nga (52 tuổi, người đoạt giải Quý bà thành đạt năm 2009) hiện là  tổng giám đốc Công ty TNHH Bệnh viện đa khoa quốc tế Vũ Anh, Q.Gò Vấp, TP.HCM.
Theo nguồn tin của Tuổi Trẻ, tháng 10-2012 quý bà thành đạt Trương Thị Tuyết Nga bị bà D.M.L. (ngụ Q.3, TP.HCM) tố cáo tới Viện Kiểm sát nhân dân tối cao việc bà Nga lừa đảo chiếm đoạt của bà L. số tiền tương đương 3,1 triệu USD, thông qua việc ký hợp đồng ghi nhớ chuyển nhượng quyền sử dụng một lô đất 30.000m2 tại P.Bình Khánh, Q.2.
Mục đích của việc chuyển nhượng này là để bà L. thực hiện dự án đầu tư xây dựng căn hộ cao cấp và trung tâm thương mại với tổng giá trị tới 54 triệu USD, tuy nhiên bà Nga đã lừa đảo bà L. chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên, ngoài ra còn chiếm đoạt của một số người khác nhiều tỉ đồng.
Một lô đất bán cho nhiều người
Có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm?
Thông tin từ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho biết trong vụ việc này, bị hại D.M.L. đã có đơn gửi văn phòng Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an (C44). Tuy nhiên sau khi xác minh đơn, cơ quan này không xử lý hành vi tội phạm của bà Trương Thị Tuyết Nga là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm nên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam để giao Cơ quan điều tra Bộ Công an điều tra theo thẩm quyền. G.M. - M.Q.
Sau khi xác minh đơn tố cáo, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xác định: tháng 12-2007 và tháng 1-2008, bà Trương Thị Tuyết Nga và bà D.M.L. ký hợp đồng và bản ghi nhớ chuyển nhượng lô đất trên. Theo hợp đồng và bản ghi nhớ, bà D.M.L. đặt cọc 2 triệu USD cho bà Nga với thỏa thuận trong 18 tháng (kể từ ngày ký hợp đồng và bản ghi nhớ), bà Nga có trách nhiệm xin được giấy phép đầu tư xây dựng căn hộ cao cấp và trung tâm thương mại tại khu đất này chuyển cho bà L. và làm thủ tục pháp lý sang tên cho bà L. toàn bộ diện tích đất như trên.
Nếu quá thời gian thỏa thuận, bà Nga không thực hiện được các điều kiện nêu trên phải trả lại 2 triệu USD tiền cọc và bồi thường thêm 2 triệu USD cho bà L.. Trong hợp đồng, hai bên đã ghi rõ bà Nga không được chào bán, cầm cố, sang nhượng, thế chấp hoặc góp vốn hợp tác kinh doanh... diện tích đã thỏa thuận khi chưa được sự đồng ý của bà L..
Sau khi nhận 2 triệu USD đặt cọc, bà Nga giao cho bà L. bản photocopy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên năm người, tổng cộng được 16.000m2 tại địa điểm thỏa thuận.
Dù giao cho bà L. các giấy chứng nhận này nhưng chỉ một ngày sau khi ký hợp đồng, bản ghi nhớ với bà L., bà Nga cùng chồng là ông Vũ Văn Hải tiếp tục ký hợp đồng bán cho ông T.V.M. hơn 2.900m2 đất nằm trong số đất thỏa thuận với bà L. để lấy 1,45 tỉ đồng.
Phần đất vợ chồng bà Nga bán cho ông T.V.M. đã bị UBND Q.2 từ chối tách thửa, cấp chủ quyền do nằm trong khu quy hoạch ga Thủ Thiêm, không được mua bán, chuyển nhượng và xây dựng trái phép trên khu đất này. Do không tách thửa, sang tên được, vợ chồng bà Nga làm giấy ủy quyền cho ông T.V.M. có toàn quyền quyết định như chủ sử dụng lô đất này (có chứng thực của phòng công chứng).
(Tuổi trẻ) 
 

Phan Bội Châu - Tân Việt Nam, Mười điều sung sướng lớn (1)

PhanBoiChau.JPG
Cụ Phan Bội Châu
Nếu như mà đường sắt dài muôn dặm làm rồi thì công việc buôn bán, trong chốc lát có thể tập trung đầy đủ được; từ các đô thị thôn ấp lớn có thể nối liền và đi tới khắp mọi nơi nhanh chóng. Ngồi ung dung nơi lầu chạm chiếu hoa mà có hiệu quả như vượt núi qua sông, thật sung sướng biết chừng nào! Được như vậy mà ban đầu không chịu khó nhọc kinh doanh, xây đắp thì thành sao được? Bây giờ nói đến những việc phải khó nhọc gian nan như thế sao lại chùn tay lè lưỡi? Vì chưa biết rằng sau khi đường sắt làm rồi là sướng đó thôi!
Nếu như mà lầu cao muôn trượng xây rồi thì sao trời, trăng biển bên cửa sổ ngắm như ở trong bàn tay, khí mát gió trong vờn quanh dưới gót. Ngạo nghễ nơi cửa cao ghế đá mà nhìn thấy được ba đảo năm châu, sướng biết chừng nào! Được như vậy mà ban đầu không chịu phí tổn, trù hoạch, khó nhọc thì thành sao được? Bây giờ nói đến việc làm những công trình lớn lao như thế sao lại cúi đầu thất sắc? Vì chưa biết rằng sau khi lầu cao đá xây rồi là sướng đó thôi! Biết sau này có sự ngọt bùi khôn cùng, thì cái cay đắng hôm nay phải chịu đựng chỉ là cái điểm tiến tới cái ngọt bùi đó, ta nguyện nếm cái cay đắng ấy. Biết sau này có sự vui mừng khôn cùng thì cái gian lao hôm nay là cái cơ sở dẫn đến sự vui mừng đó, ta nguyện nhận cái gian lao ấy. Biết sau này có cái sự lợi khôn cùng thì cái phí tổn hôm nay là cái vật gốc dẫn đến cái lợi đó, ta nguyện dùng những phí tổn ấy.
Bây giờ tôi xin nói cùng với đồng bào rằng: muốn tạo dựng được một nước Việt Nam mới có đường sắt muôn dặm và nhà cao muôn trượng như thế thì tất phải nếm chịu những cay đắng như vậy, nhận sự gian lao như vậy, và tất cả những phí tổn như vậy. Đồng bào ta há sợ cực khổ lắm sao? Nếu quả có thế là vì chưa biết rằng nước Việt Nam ta sau khi đã duy tân rồi là rất sướng, rất vui và có lợi không lường hết được đó thôi.
Bây giờ tôi xin thưa với đồng bào rằng: nước Việt Nam mới có 10 điều sung sướng lớn như sau:
  1. Không có cường quốc nào bảo hộ
  2. Không có bọn quan lại hại dân
  3. Không có người dân nào mà không được thỏa nguyện
  4. Không có người lính nào mà không được vinh hiển
  5. Không có loại thuế nào mà không công bằng
  6. Không có hình pháp nào mà không thỏa đáng
  7. Không có sự giáo dục nào mà không hoàn thiện
  8. Không có nguồn địa lợi nào mà không được khai thác
  9. Không có ngành công nghệ nào mà không phát đạt
  10. Không có ngành thương nghiệp nào mà không được mở mang.
Diện tích nước ta có 25 vạn dặm vuông Anh, không phải là rộng sao? Dân số nước ta hơn 50 triệu tráng đinh [1] không phải là đông sao? Đất đai mầu mỡ phì nhiêu, sản vật dồi dào, non sông tươi đẹp, nếu đem so sánh với các nước mạnh trong năm châu không thua kém mấy ai. Thế thì sao ta lại cam chịu để cho nước Pháp bảo hộ? Than ôi! Căn tính nô lệ đã ăn sâu, thói ỷ lại quá nặng rồi! Mấy ngàn năm cam bề nội thuộc các triều Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh[2] xưng tôi tớ không còn có khí người. Giặc Pháp gian giảo, khinh ta yếu, dối ta ngu, thừa lúc con sư tử đương ngủ say mà nghiễm nhiên lấn át chủ nhà, giầy xéo con em ta, bắt cha anh ta làm kiếp trâu ngựa, lấy thành trì nước ta làm sào huyệt của chúng, moi hút máu mỡ dân ta. Thế mà chúng lại còn dám ngạo mạn công bố với thế giới rằng: nước Pháp là nước thống trị cõi Đông Dương. Chao ôi! Đồng bào ta ôi! Nước ta là nước ta, dân ta là dân ta, nước Pháp-lan-tây có gì ở đây mà trái lại chúng lại còn bảo hộ nước ta?
Từ khi người Pháp bảo hộ cho đến bây giờ, chúng nắm giữ hết thảy mọi quyền trong tay, muốn làm sống, làm chết ai cũng được. Tính mạng của muôn người nước Nam chẳng bằng một con chó Tây. Kìa những người mắt biếc xanh, râu sắc hồng, bay chẳng phải là cha anh ta, chẳng phải là thầy dạy của ta mà sao lại ngồi chồm chỗm, ỉa đái trên đầu ta? Đường đường các bậc nam nhi của nước Nam lẽ nào lại không biết xấu hổ, nhục nhã, phẫn uất giết bọn giặc được hay sao? Thân ta hãy còn thề phải dẹp bằng lớp sóng biển lớn, quyết giết chết bọn giặc ấy, để tỏ rõ khí tiết giống da vàng.
Khi đã duy tân rồi, tư cách nội trị do ta sắp đạt, quyền lợi ngoại giao tự ta nắm giữ. Sự nghiệp văn minh ngày càng tiến bộ, phạm vi thế lực ngày một mở mang. Ta sẽ có 300 vạn lục quân mạnh như cọp ngó nhìn bốn cõi; 50 vạn thủy quân dữ như cá kình thét trong biển lớn. Rồi ta phái các công sứ đi tới các nước mạnh ở Châu Âu, Châu Mỹ. Các nước mạnh như Nhật, Mỹ, Đức, Anh đều liên kết với nước Việt Nam ta, coi ta là đồng minh bậc nhất. Các nước Tiêm La [3], Ấn Độ và các nước ở quần đảo Nam Dương đều tôn nước ta làm minh chủ. Nước lớn nhất ở Châu Á là Trung Quốc cũng sẽ là nước anh em thân thiết với ta. Nước thù cũ của ta là nước Pháp-lan-tây cũng phải sợ ta, nghe theo ta và nguyện nhận sự bảo hộ của ta. Cờ nước Việt Nam ta phần phật, bay trên nóc thành Ba Lê và dung mạo nước ta lừng lẫy chói lọi ở hoàn cầu. Đến lúc ấy, người Việt Nam ta chỉ sợ không rảnh mà bảo hộ cho nước khác, lại sợ không dư sức lấy con gái nước Pháp, và sự nhục nhã vì người khác bảo hộ trước đây như là một phương thuốc hay để hoàn thành công việc duy tân đó mà thôi.
Đài kỉ niệm xây cao, muôn ngọn đuốc dẫn đường trong đêm tối. Gió tự do thổi mạnh, một luồng vui thấu tận trời xanh. Chúng ta ưu thắng đến thế, sung sướng biết chừng nào! Cái nọc độc hàng nghìn năm nay của bọn chuyên chế hại dân ấp ủ từ bên nước Thanh nhiễm sang nước ta để mà một tên độc phu [4] khống chế vài vạn kẻ dung nhân [5] làm cá thịt ức vạn dân ta. Rồi vài vạn tên dung phu lại thờ phụng một tên độc phu làm cá thịt ức vạn dân ta. Thế mà dân ta ngu muội không biết giành lấy dân quyền, không biết giữ lấy quốc mệnh, chỉ ngày đêm đem hết máu mỡ khô kiệt của mình cung đốn cho bọn độc phu và dung nhân uống nuốt. Than ôi! Thật đáng thương thay!
Khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ mở mang nhiều, dân khí sẽ lớn mạnh hơn, dân quyền tất phải phát đạt lớn; vận mệnh nước ta tất do toàn dân nắm giữ. Thủ đô nước ta đặt một tòa nghị viện lớn, tất cả những việc chính sự đều do công chúng quyết định. Thượng Nghị viện tất phải đợi Trung Nghị viện đồng ý. Trung Nghị viện tất phải đợi Hạ Nghị viện đồng ý. Hạ Nghị viện là nơi đa số công chúng có quyền phê chuẩn công việc của Thượng Nghị viện và Trung Nghị viện. Phàm đã là người dân nước ta, không kể sang hèn, giầu nghèo, lớn bé đều có nghĩa vụ bỏ phiếu bầu cử. Vua nên để hay nên phế, quan lại nên truất hay nên thăng, dân ta đều có quyền quyết định cả. Tất cả những tên vua bạo ngược, quan lại ô trọc không hợp với công đạo thì dân ta khi khai họp trong nghị viện cùng nhau bàn bạc quyết định thi hành trừng phạt chúng theo hiến pháp. Đến lúc ấy, bọn quan lại hại dân tất bị chôn vùi tiệt nọc mãi mãi không còn trên trời đất nữa. Đến lúc ấy, người nước ta chỉ ca múa thái bình, ngậm cơm vỗ bụng mà thôi. Ngẩng đầu thấy mặt trời, tiếng ca vui muôn năm còn vọng mãi: tiếng vỗ tay như sấm, điệu múa hay nghìn thu vẫn còn khen. Chúng ta vinh thịnh đến thế, sướng biết chừng nào!
Người Pháp cướp nước ta, khóa kín miệng ta, trói buộc chân tay ta, bịt kín tai mắt ta. Những việc như xuất bản, sách báo, hội họp luận bàn không kể ngày đêm, không kể đông hay ít, lớn hay nhỏ đều bị người Pháp áp chế ngặt nghèo. Người Pháp mà tức giận bắt ta phải coi cha làm thù; người Pháp mà ưa thích đặt chó làm vua cũng phải chịu. Ngay đến họ vua, nhà quan, kẻ giầu người giỏi nếu không được giấy của người Pháp cấp cho thì một bước cũng chẳng dám ra khỏi cửa. Không được người Pháp cấp thuế bài thì chủ nhà cũng giống như trộm cướp. Kìa những con chó Tây, ngựa Tây, vợ Tây và những kẻ bồi Tây thung dung tự do muốn nạt ai thì nạt theo ý mình so với người nước ta thật là khác biệt nhau như thiên đường, địa ngục. bất bình đẳng đến như thế, không công đạo đến như thế, hỏi nỗi oan khuất trong thế giới này còn có đâu hơn thế nữa hay không? Lẽ nào ta lại ngồi yên, không dám đứng lên mà réo muôn tiếng chuông độc lập. Đè nén cong nhiều tất phải bật thẳng, phải bẻ gãy vòng cường quyền áp chế mới thôi.
Khi đã duy tân rồi thì uy quyền nước ta, ta nắm trong tay; cái đạo của ta, ta cân nhắc. Nền văn minh rạng rỡ khắp nơi. Cửa tự do rộng mở không cùng, báo chí đầy đường, sách mới đầy ngõ. Người dân nghèo tha hồ kiện tụng, tiếng nói vang lên như sấm; kẻ văn sĩ được thả bút luận bàn chính sự. Bao nhiêu ẩn tình của chú phu xe, của người lính ngựa, của người mẹ góa, của đứa con côi, hết thảy đều đạt tới tai vua. Đến khi ấy, người nước ta yêu mến nước ta như biển lớn vô bờ mắt thu khó hết, lạ vì trời xanh sao quá thấp như chạm vào đầu. Chúng ta vẻ vang đến thế, sướng biết chừng nào!
Người nước ta khi chưa duy tân, thói dã man nhiễm đã quá thịnh, chí tiến thủ đã mất đi, tôn hư văn làm thánh làm thần, coi thực nghiệp như cỏ như rác. Từ vua cho đến quan lại xem tướng tá như con vật bỏ đi, coi ba quân khác chi chó dại, xem võ quan như vật để sai khiến chà đạp. Dân ta thì kiến thức ấu trĩ, tai mắt ngu tối, thấy người trên bỉ bác thì dưới xóm thôn cũng khinh rẻ. Khi sống làm lính chạy trước ngựa, bỏ xương chốn sa trường, khi chết làm quỷ ở ven đường, vùi danh nơi hoang vắng. Làm người lính đã vất vả nghèo hèn, phải chịu tiếng vô phúc như thế thật đáng thương thay! Đáng chán lắm thay! Đã đáng thương, đáng chán như thế thì ai muốn đi lính nữa, mà không ai muốn đi lính thì lấy ai ra giữ nước? Đến khi nước mất biết để lỗi cho ai? Than ôi! Vận mệnh một nước phần nhiều gửi gắm, trông mong ở ba quân, người lính tức là nước nhà ta vậy. người lính bị khinh rẻ đến thế, hỏi nước nhà còn tồn tại được không? Xe trước đổ gương còn soi đó, gọi to hồn người ném đá bắn tên [6]; tương lai kia hãy còn dài, đánh tiếng trống làm khí thiêng sông núi. Người lính ơi, người lính! Xin hãy xem từ nay về sau mình sẽ thế nào.
Khi đã duy tân rồi thì võ quan một đường, vua dân một thể. Nước nhà trông cậy và người lính bảo vệ, người lính được kính trọng vô cùng. Tôi cùng đồng bào cả nước đều biết rằng, nước là nước chung của tất cả mọi người thì ai ai cũng phải có trách nhiệm giữ gìn đất nước. Mọi người đều có trách nhiệm giữ nước thì ai ai cũng phải có nghĩa vụ vào lính. Mọi người có nghĩa vụ vào lính thì ai ai cũng phải có tấm lòng trọng người lính. Trong nước từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài đã là có tai có mắt, không ai là không chú trọng tới người lính. Có bút mà viết, có lưỡi để nói, không thể nào nói hết, viết hết về cái hay của người lính. Người lính khi sống làm cho quốc sĩ được mở mày, gây oai hùng trong thế giới, đến khi chết làm quốc linh, hồn phách mãi mãi trường tồn với núi sông. Người trong nước đem máu thịt của mình mà sùng phụng những người chết vì Tổ quốc là người lính, vua trong nước lên tận đàn tế mà bái chúc những người hi sinh vì Tổ quốc là người lính (ở Đông Kinh nước Nhật Bản có lập một đàn tế gọi là “Tịnh quốc Thần xã” để tế những người lính tử trận, mỗi năm hai kì Thiên Hoàng phải thân hành đến tế lễ ở đàn ấy. Sau khi duy tân rổi ta cũng sẽ lễ theo cách đó). Kho tiền công, kho chứa lúa của Nhà nước phải được dùng đề nuôi nấng vợ con người lính chết trận. Triều đình và xã hội phải bảo toàn, lo lắng đến gia đình, họ hàng những người lính chết trận. Tượng đồng nguy nga ngất trời dành riêng để đúc chân dung người lính: mộ đá nhấp nhô trên mặt đất để dành đắp cho nơi yên nghỉ của người lính. Người lính ơi! Người lính! Vinh hiển trong nước thực chẳng ai bằng, danh dự muôn đời thực chẳng hề phai. Lúc bấy giờ, người nước ta chỉ có mở mắt mà ngắm trời đất, khen ông cha ta trước từng làm người lính mở đường, quay lại nhìn thôn xóm mới buồn rằng mình phải chết già dưới cửa sổ thật là như kẻ vô duyên vậy. Chúng ta hoan hỉ đến thế, sướng biết chừng nào.
Các triều đại vua trước ở nước ta, thu thuế của dân có phần khoan nhẹ, nhưng chưa thoát khỏi chế độ chính trị dã man như:
-          Một là tệ quan lại tham lam gian trá
-          Hai là tệ cường hào tàn ác hách dịch
-          Ba là tệ hương lí lộng hành.

Trăm mối phiền nhiễu, dân không chịu nổi. Nhưng dù sao vẫn còn nhân đạo ít nhiều. Đến như người Pháp hiện nay thì coi dân ta như súc vật, trâu ngựa để buôn bán mà thôi. Xin hỏi các bậc cha anh, chú bác, con em dòng họ nước ta rằng: giặc Pháp thu dân ta mỗi người một năm phải nạp thuế công sưu hoặc 2 đồng, 3 đồng hoặc 4, 5 đồng thì so với một con trâu, con ngựa, con gà phải nạp bao nhiêu tiền hỏi có khác gì không? Than ôi! Người nước ta bị vắt kiệt đến hết cả mỡ màng, huyết mạch để cung đốn cho các ông Tây, bà đầm, chó Tây một năm biết mấy nghìn ức vạn. Tất cả vật gì có thể dùng để ăn uống được cũng đều phải có thuế. Bao nhiêu sự sinh sống gì cũng đều phải đóng thuế, bao nhiêu những nơi sinh hoạt, nơi nào cũng phải đóng thuế. Cho đến cái thân ta là do đất trời sinh thành, cha mẹ tổ tiên ta để lại: mỏi chân tay, hao tâm huyết để cung phụng, nuôi nấng bọn giặc Pháp mà rồi mỗi năm phải bỏ ra 4, 5 đồng bạc để chuộc tấm thân bảy thước của mình! Than ôi! Cái tấm thân ta! Thật chẳng bằng con trâu, con ngựa, con chó, con gà. Thật đáng thương thay! Thật đáng thương thay! Người nước ta bị giặc làm nhục đến thế mà còn không biết tự mình phấn kích lên là tại làm sao? Công sưu, thuế thân là những thứ thuế mà các nước trong địa cầu chẳng nước nào có cả, chỉ riêng có ở nước ta thôi. Người nước ta không phải gỗ, đá, đồng bùn mà sao cam chịu nhục hèn đến thế? Con thú kia khi khốn quẫn còn biết cắn mổ giương lông giương vuốt. Con sâu khi bị nhốt còn biết cách vươn mình tìm trốn thì con người phải biết tính sao đây để có ngày mở mày mở mặt?
Khi đã duy tân rồi về lâu dài phải trừ bỏ ngay những tệ phiền toái cũ kéo đến mấy triều vua trước, trước mắt phải sửa đổi, tẩy sạch hết phép chính trị hà khắc của người Pháp. Công sưu, thuế thân chẳng những không còn, mà tất cả những thứ thuế khác nữa đều phải xin nghị viện phê chuẩn. Việc thu các loại thuế, các khoản quyên tiền cứu trợ đều phải được nhân dân công nhận, coi đó là nghĩa vụ cần kíp để giúp đỡ cho công ích. Sau đó chính phủ mới được sức giấy xuống để trưng cầu ý của dân. Dân ta dù thiệt một đồng tiền, góp một hạt thóc đều vui vẻ thoải mái, xuất phát từ lòng yêu nước mà đóng góp hết sức nhiệt thành, không hề có một tí gì gọi là dã man cưỡng bức. Trời cao biển rộng ai ai cũng như thấy mình bay nhảy khôn cùng. Ngày ấm gió hòa, ai nấy đều vui vẻ, tự do nhảy múa. Chúng ta vui vẻ, có lợi đến thế, sướng biết chừng nào!
Hình luật nước ta trước kia, tay chân bị gông cùm, thân thể bị đè nén. Thân muốn động mà không dám động, miệng muốn nói mà không dám nói. Người tù khi ăn uống, thức ở so với con trâu ngựa, gà lợn không có gì khác biệt. Than ôi! Phàm đã là đồng bào ta đều là con em ta cả, ai mà không cùng chung cốt nhục với mình. Sự nhẫn nhục chịu cảnh khổ cực cũng không có lòng nào khác, việc xây dựng một đất nước, cũng đều không ngoài mục đích là được sinh ra và làm ăn trên đất nước của mình. Người nước ta ơi! Người nước ta ơi! Xin xem hình pháp sau khi duy tân.
Khi đã duy tân rồi thì trong cả nước không một người nào là không có lòng yêu nước, không một người nào là không phụng sự việc công, không một người nào là không thương yêu nhau, không một người nào là không phục tùng theo phép tắc văn minh. Như vậy, cần gì phải có những hình pháp lôi thôi nữa. Tuy nhiên, nếu không may mà có một vài người phạm tội, tất cũng phải xử lí theo khuôn khổ hình pháp văn minh. Trong thời đại duy tân, hình pháp cũng bắt chước theo các nước như Nhật Bản và Châu Á. Tại kinh đô lập ra một Viện Cảm hóa có viên tài phán ở đại học đứng ra phụ trách. Phàm những người phạm tội, lập ra cho họ một trường học riêng khiến cho họ khi vào học ở đó sẽ mở mang lương thiện, tu dưỡng tư cách của một người dân; lập một xưởng thợ riêng, khi họ vào học, tùy theo sở trường của từng người mà dạy họ các nghề ở đó để họ có đủ tư cách làm việc trong khuôn khổ cuộc sống, khiến họ không thể tái phạm lầm lỗi nữa. Lại đặt một người thẩm phán công minh, những nhà giáo hiền lành có trách nhiệm, hàng ngày vào nhà giam mà thuyết giáo những điều phải trái, khiến cho phạm nhân biết ăn năn hối cải. Đến khi hết hạn giam, họ cũng như người vô tội, mọi thứ dân quyền đều được bình đẳng. Khi đương bị giam thì họ là con em thụ giáo, khi ra khỏi nhà giam thì là dân một nước cùng làm những việc hay giỏi, tự do như ngọn gió xuân thổi khắp trong ngoài có bệnh tật gì rồi cũng được mạnh khỏe. Đến lúc bấy giờ dân ta chỉ còn biết trị hóa mà không hề biết gì đến hình pháp. Đau đớn bệnh tật nhờ thuốc trời mà chữa khỏi, lòng dữ như con cọp beo, chim cú nhờ có nước thánh mà bị tiêu tán hết. Chúng ta sinh sống đến thế, sướng biết chừng nào!

Tháng 4 27, 2013

Phan Bội Châu
Võ Văn Sạch dịch
(Còn tiếp 1 kì)
--------------
Nguồn: Phan Bội Châu, Tân Việt Nam. Bản điện tử được thực hiện từ ấn bản của Cục Lưu trữ Nhà nước năm 1989, do Võ Văn Sạch dịch và chú thích, Đinh Xuân Lâm viết lời giới thiệu, tr. 19-28

[1] Dân số nước ta lúc đó có lẽ chỉ khoảng 25 triệu dân.
[2] Ở đây cụ Phan Bội Châu không nhắc tới nhà Thanh. Chúng tôi cũng chưa rõ vì lí do gì. Nhưng có thể do nhà Thanh chưa đặt được ách nô lệ trên nước ta, hoặc do Phan Bội Châu có ý tránh không đụng chạm đến Trung Quốc ở đó đang có nhiều người yêu nước Việt Nam hoạt động.
[3] Chỉ nước Thái Lan ngày nay
[4] Chỉ tên vua
[5] Chỉ bọn quan lại
[6] Chỉ người lính đánh thành
(Pro&contra) 

Đồng cốt giữa chốn "Cung Vua"

Cách đây hơn nửa thế kỷ, phong trào chống mê tín dị đoan rầm rộ, chẳng khác nào cái lối “cách mạng van hóa” bên Tàu. Người ta coi việc đập nát những di sản văn hoa thời vua chúa phong kiến để lại là một chiến công, là lập thành tích về “tinh thần hăng hái cách mạng, ý chí triệt để cách mạng”.
               
Hình minh họa
Không ít cán bộ trình độ văn hoa thấp, hoặc mới lập bập biết đọc biết viết qua lớp bổ túc xóa mù tại xóm, nhưng hung hăng tinh thần phá đền chùa, đình làng, nên được coi là cách mạng chí cốt, leo lên cán bộ xã, lên huyện, rồi lên cán bộ tỉnh, có vị còn leo lên tận Trung ương, nhưng chữ ký có khi còn quên! Thậm chí, người dân nào mà thờ cúng thì bị quy là mê tín dị đoan, tàn dư chế độ cũ, bị công an, chính quyền mời lên kiểm điểm, răn đe, giáo dục... Chẳng thế mà thông tin đối trọng (phía “địch”) phương Tây và nhiều luồng khác gọi cộng sản là ‘vô thần’. Vậy mà, chắc là không còn tin ở chính mình, không còn tin vào đời, không tin đồng chí mình, và nhất là không tin ở lý tưởng hay nghị quyết đảng lãnh đạo…nay nhiều vị lãnh đạo, nhiều vị trong giới cầm quyền, các đại gia lại đổ xô đi cúng bái, cầu hồn, đồng cốt, thậm chí yểm bùa. Có những vị tiền kho vàng đống, do tham nhũng mà có (là chính) nghĩ hết cách tiêu tiền rồi thì dồn cả chục tỉ, trăm tỉ xây nhà thợ họ, xây miếu này miếu kia, đi cũng chùa rất "sộp"; cái ý xin xá tội nhiều hơn lòng thành kính! Nhưng, nếu tổ tiên ông bà vốn phẩm hạnh, trung chính  và linh thiêng, "cho" tiền nhiều , xây cao sang quy mô như kiểu "chia tiền", kéo tiền bối cũng dính vào "nhóm lợi ích" như thế, thì có thiêng nữa không? Nhiều khi còn bị phạt chịu cái "thẻ đỏ ra sân", quả báo nhãn tiền là cái chắc. Trong những chuyện này, vai trò chủ xướng và tổ chức thực thi của các phu nhân trong "bộ phận không nhỏ" này không phải là nhỏ.
           
Lạ! Cũng là đảng ta, chính cương, cương lĩnh, đường lối ấy, hoặc lý luận hơn thì cùng "ý thức hệ" ấy, mà sao khi quá tả, khi quá hữu; khi thì cực đoan, lúc lại cực lực; thích kiểu gì làm kiểu đó, chẳng biết lối nào mà lần? Nói ra công khai và nhãn quan cái thể chứng bên ngoài thì có vẻ "nội nộ đoàn kết nhất trí cao", nhưng xem ra cũng đấu đá nhau chí chóe, tranh ghế tranh quyền tréo ngoe, thấy chưa ăn nhằm gì, dân sờ sờ cả mấy chục triệu thì chả thèm nhờ, cho là nguy, rách chuyện, lại đi nhờ đến thần linh, ma quái! Thế thì đảng gì? Đảng nào? Cái bản chất cộng sản truyền thống gốc gác nay con mấy phần trăm? Hay như TBT Nguyễn Phú Trong đúc kết: "Ra đường, thấy đảng viên nhan nhản, cộng sản được mấy người"?! Không biết bao nhiêu sự biến tướng, di dạng những "cái ổ con tò vò"!? Ở đâu ra tình trạng “mã đáo dị đoan” như thế? Chắc là mỗi người có một cách lý giải, suy đoán, phân tích. Nhưng cái chuyện làm đến Ủy viên Bộ Chính trị của một đảng cộng sản mệnh danh là chính hiệu và duy nhất ‘vĩ đại”, đảng “đạo đức –văn minh” lại đi làm chuyện dưới đây thì quả là hiếm hoi và rất chi là phát …nực cười:
Bùi Văn Bồng 

----------
Hai Ủy viên Bộ chính trị đối đầu trong cuộc chiến tâm linh tại đàn Xã Tắc

 - 1
Đàn Xã Tắc là nơi linh địa
Đường vành đai 1 Kim Liên – Ô Chợ Dừa đoạn qua đàn Xã Tắc là nơi linh địa. Giới đồng cốt tin rằng lập đàn thờ tế ở đây có thể hô phong, hoán vũ, điều khiển được trời đất, đảo được vận người. Hai Ủy viên Bộ Chính trị cừu hận đã lâu nay sử dụng âm binh âm tướng để hạ gục nhau. Chiến cuộc bước vào hồi kịch tính với việc huy động Cảnh sát trật tự cùng Thanh tra giao thông ra quân trong chiến dịch chớp nhoáng nhằm dẹp bỏ điện cầu của đồng chí Trưởng ban Tổ chức TW ngay trên nền đất thiêng. 
Hà Nội đầu năm 2010, chỉ ngót 1 năm nữa là đến ĐH Đảng 11. Đồng chí Hồ Đức Việt trưởng ban Tổ chức Trung ương lúc bấy giờ nằm trong danh sách được cơ cấu lên cao (ít nhất Chủ tịch QH, có thể còn lên Tổng Bí thư). Đồng chí cùng phu nhân nổi tiếng là mê tín, tin vào thánh thần, đồng cốt. Một mặt trau dồi lý tưởng, bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, mặt khác đồng chí không ngừng tìm kiếm sự bảo hộ về tâm linh.

Lên đồng
Khi thi công con đường vành đai 1, vị trí đàn Xã Tắc phát lộ. Đồng chí Trưởng ban Tổ chức cùng phu nhân sai ngay Phó Chủ tịch thành phố Nguyễn Văn Khôi đích thân xuống trông nom việc lập điện cũng như đảm bảo “trật tự trị an” khu vực này. Sở dĩ quan “thổ địa” Nguyễn Văn Khôi phải khổ sở đi làm cái việc bất đắc dĩ của một ông từ đền bởi lẽ nhờ có sự trợ giúp của đồng chí Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đồng chí Khôi “nghẹo” (cổ và đầu bị dị tật luôn nghẹo sang một bên) mới có thể nhảy từ Giám đốc sở GTVT lên Phó Chủ tịch Hà Nội (thay Đỗ Hoàng Ân) mặc dù đồng chí Khôi còn đang dính bê bối 600 triệu đô-la tại dự án thoát nước mà do cái bê bối này, Hà Nội bị ngập to năm 2008 (đ/c Khôi trước làm sếp Ban quản lý Thoát nước HN). Việc đề bạt Nguyễn Văn Khôi nằm ngoài sự “sắp xếp” của đồng chí Ủy viên BCT, Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị.
Tết nguyên đán cận kề, quan thổ địa Hà Thành cùng Phu nhân Trưởng ban Tổ chức kíp kén 1 toán thợ khéo cùng tay thày nổi tiếng Hà Thành dựng một điện, ngày đêm cầu đảo đất trời để có thể điều khiển được vận hạn phục vụ thăng quan tiến chức của đồng chí Trưởng ban Tổ chức trong đại hội 11.
Chẳng dè, tay thày này lại là chỗ đi lại thường xuyên của Phạm Quang Lợi, phụ thân Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị. Câu chuyện phút chốc đến tai Bí thư Thành ủy.
Mặc dù năm hết Tết đến, Bí thư vẫn dành thời gian ít ỏi quan tâm đến câu chyện tâm linh này. Đồng chí lệnh khẩn cấp thành lập Tổ công tác liên ngành đặc biệt gồm Công an và Thanh tra giao thông do đích thân tướng Nhanh và Nguyễn Quốc Hùng (giám đốc Sở GTVT, đệ cứng của đ/c Nghị) chỉ huy. Tổ công tác này chỉ nhận lệnh và chấp hành mệnh lệnh trực tiếp từ Bí thư Thành ủy.
Đúng nửa đêm, khi “tổ công tác” tâm linh đang lên đồng tới độ phê nhất thì một toán Công an, Thanh tra GTVT xông vào phá và tịch thu hết bàn thờ, đồ cúng tế. Đồng chí Trưởng ban Tổ chức TW và đ/c Phó chủ tịch thành phố nhảy ngay ra quát nạt, Công an và Thanh tra chùn tay thì được tướng Nhanh và Nguyễn Quốc Hùng thúc giục rằng Tổ công tác liên ngành đang thi hành mệnh lệnh đặc biệt từ đích thân Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị, mọi mệnh lệnh khác đều không có hiệu lực.
Đối với Trưởng ban Tổ chức TW, việc phá đền này không thể tha thứ được. Nó góp phần vào thổi bùng ngọn lửa hận thù giữa hai đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị mà đỉnh điểm là tại ĐH 11 của Đảng, đồng chí Hồ Đức Việt bị mất ghế do mời thày về yểm vận mạng của đ/c Nghị và một đ/c Ủy viên Bộ chính trị khác. Không may cho đ/c Việt là tay thày kia lại là đặc tình của an ninh làm việc cho tướng Nhanh. Toàn bộ kịch bản ám sát “tâm linh” được an ninh tố lên Bộ Chính trị trước sự bẽ bàng của đ/c Trưởng Ban Tổ chức Trung ương.

23/04/2013
Cầu Nhật Tân
(Blog Bùi Văn Bồng) 

Việt Nam khó làm đối tác chiến lược với Mỹ vì nhân quyền?

Các cuộc đối thoại nhân quyền giữa Mỹ và Việt Nam vẫn có những khác biệt hoàn toàn, cho người ta cảm tưởng hai nước khó trở thành đối các chiến lược.
Ngày 19-4-2013, Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Daniel Baer đến Hà Nội đã có cuộc đối thoại về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Nội dung cuộc đối thoại có kết quả gì không, không thấy ông trình bày lại trong cuộc họp báo sau đó.
Nhưng ngày hôm sau, ông có hẹn gặp hai nhà đấu tranh nhân quyền, vận động dân chủ hóa Việt Nam là LS Nguyễn Văn Đài và BS Phạm Hồng Sơn. Cả hai người này đều bị ngăn chặn, mỗi người một cách khác nhau.

Một nữ cảnh sát CSVN đưa tay ngăn chặn nhiếp ảnh viên AFP chụp hình ở khu vực gần tòa án Hải Phòng, ngày 2/4/2013, nơi diễn ra phiên xử anh em ông Đoàn Văn Vươn bị vu cho tội “giết người”. Phiên tòa “công khai” nhưng rào cản chặn khắp các ngả đường cấm mọi người dân đến dự phiên xử. (Hình: CAT BARTON/AFP/Getty Images)
BS Phạm Hồng Sơn khi vừa ra khỏi nhà để đến nơi hẹn thì bị một nhóm Công an xốc nách lôi về trụ sở giam giữ. LS Nguyễn Văn Đài thì bị một đoàn đông đảo khoảng 50 người gồm cả công an, dân phòng canh giữ, không cho ra khỏi nhà. Trước nhà ông, nhà cầm quyền dựng bảng khu vực hạn chế, cấm chụp hình, quay phim.
Đặc biệt, nhà cầm quyền CSVN còn sử dụng khoảng một chục phụ nữ lớn tuổi, một số người được phát thêm gậy như của Công an cảnh sát hay dân phòng, làm công việc ngăn chặn xe của tòa đại sứ tới đón LS Đài.
Trước cuộc tiếp xúc được Tòa Đại Sứ Mỹ sắp xếp, một tướng Công an đã cam kết với ông Baer là “ông muốn gặp ai thì gặp”, theo lời tường thuật của LS Đài với báo Người Việt. Sự ngăn chặn này chứng tỏ chế độ Hà Nội vẫn nói một đàng làm một nẻo.
Nó cũng là dấu hiệu cho thấy quan niệm nhân quyền giữa Hoa Kỳ và chế độ Hà Nội vẫn khác nhau rất xa. Điều này cho người ta thấy cái mối quan hệ “đối tác chiến lược” giữa hai nước về mọi mặt khó mà “lên tầng cao mới” như thứ ngôn ngữ Hà Nội vẫn dùng để tuyên truyền cho các hoạt động ngoại giao.
Những năm qua, Hoa Kỳ và CSVN có cuộc đối thoại hàng năm về nhân quyền nhằm giúp cải thiện mối bang giao.
“Hiển nhiên điều này (sự ngăn chặn LS Đài và BS Sơn) làm bẩn toàn thể chuyến đi (đối thoại) của tôi” và nêu nghi ngờ về các cam kết cải thiện nhân quyền của nhà cầm quyền Hà Nội. Ông Baer nói với hãng thông tấn AP qua điện thoại khi ông ghé Oslo (Na Uy) trên đường từ Hà Nội về Mỹ.
“Những gì dùng làm nền tảng cho một sự chuyển biến (quan hệ đối tác chiến lược) hiện đang bị che phủ bởi hành vi mà nảy ra các câu hỏi về sự thành tâm cam kết (muốn cải thiện nhân quyền) như họ đưa ra.” Ông nói.
Trong chính sách ngoại giao nhấn mạnh về Á châu, Hoa Kỳ muốn quan hệ chặt chẽ hơn với Việt Nam về cả ngoại giao, kinh tế và an ninh. Nhưng Hoa Thịnh Đốn cũng từng nói rõ là họ muốn nhìn thấy tiến bộ nhân quyền tại Việt Nam để điều đó xảy đến nhanh hơn.
Theo AP, trong khi một số đảng viên CSVN có dấu hiệu muốn công khai thảo luận về sự thay đổi từ từ, các lãnh tụ của họ thì chẳng nghe ai. Họ lo sợ mất quyền lực và từ đó, sợ mất quyền nắm chặt lấy các đặc quyền đặc lợi béo bở dành cho “các lợi ích nhóm” trong nền kinh tế.
Theo ghi nhận của AP, cuộc đối thoại nhân quyền giữa hai nước đã bị trì hoãn nhiều tháng vì Hoa Kỳ thấy cuộc đối thoại ở Hoa Thịnh Đốn vào Tháng 11-2013 đã không đem đến sự cải thiện nhân quyền nào đáng kể. Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (HRW) nói có ít nhất 40 người bất đồng chính kiến ở Việt Nam bị kết án tù trong năm 2012. Thêm 40 người khác đang nằm chờ bản án.
Ông Baer cho hay ông được gặp khoảng một giờ rưỡi với thân nhân của LS Lê Quốc Quân đang bị giam giữ chờ ra tòa và thân nhân tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đang ở tù với bản án 7 năm.
Một số nhà báo chính thống của nhà cầm quyền đến dự cuộc họp báo của ông Baer tại Hà Nội nhưng không báo nào viết một chữ. Báo Nhân Dân, cơ quan tuyên truyền chính thức của đảng CSVN, thì viết bài đả kích ông Baer là “không chỉ đưa ra các đánh giá tiêu cực, phản ánh không trung thực về thực tế vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, mà còn coi nhân quyền như là điều kiện để phát triển quan hệ giữa hai nước - một quan niệm rất vô lý, không thể là cơ sở cho việc giải quyết các quan hệ quốc tế.”
Báo này còn đổ cho ông cái tội “nhìn vần đề nhân quyền qua con mắt của những người Mỹ gốc Việt chống Cộng cực đoan”.
Khi chủ tịch nước CSVN Trương Tấn Sang tới Honolulu, Hawaii dự Hội Nghị APEC, hồi tháng 11-2011 , TTXVN tường thuật cuộc tiếp xúc bên lề hội nghị giữa ông Sang và ngoại trưởng Hillary Clinton: “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ với Mỹ như một đối tác hàng đầu có ý nghĩa chiến lược; đánh giá cao sự đóng góp của Ngoại trưởng Clinton đối với sự phát triển quan hệ Việt-Mỹ thời gian qua.
Ông Sang bày tỏ vui mừng trước sự phát triển sâu rộng của quan hệ hai nước, trên cả bình diện song phương và đa phương, tạo cơ sở quan trọng để đưa quan hệ Việt-Mỹ lên một tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực và trên thế giới.”
Liệu mối quan hệ giữa hai nước lên nổi “tầm cao mới” không, hay vẫn bị tình trạng nhân quyền ngày một tồi tệ hơn ở Việt Nam chặn đường?
Tin tức gần đây cho hay Hà Nội rất muốn mua máy bay tuần biển, săn tàu ngầm P-3 Orion của Hoa Kỳ trong lúc rất cần phương tiện đối phó với chính sách bá quyền bành trướng của Bắc Kinh.
Bán võ khí trang bị quốc phòng cho nước ngoài đòi hỏi sự chấp thuận của Quốc hội Hoa Kỳ. Người ta chờ xem nếu việc mua bán này xảy ra hay không. Hoặc là Hoa Thịnh Đốn cũng nói một đàng làm một nẻo hay vẫn giữ nguyên tắc nhân quyền là trọng tâm trong mới quan hệ với Hà Nội.
(Người Việt)

Hàng không Việt Nam ‘thua trên sân nhà’

Lần đầu tiên tại Việt Nam, một hội nghị quốc tế về vận tải hàng hóa hàng không được tổ chức sáng ngày 25 tháng 4 quy tụ đông đảo đại diện ngành hàng không các quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên, cũng là lần đầu tiên, đại diện ngành hàng không Việt Nam đã phải “trân mình” nghe những lời phê phán “đã bỏ trống thị trường vận chuyển hàng hóa, nhường sân cho người ngoại quốc”.
Theo báo Tuổi Trẻ, vận tải hàng không vốn là thị trường hết sức béo bở, nhưng Việt Nam đã phó mặc cho các hãng ngoại quốc tha hồ khai thác. Hiện nay, thị trường này nằm trong tay một số hãng hàng không Châu Âu, Bắc Á và Nam Á.
Một số đại diện tham dự hội nghị này còn thẳng thắn nói rằng “Việt Nam chưa có phi đội vận chuyển hàng hóa là điều hết sức đáng tiếc.”

Hàng không Việt Nam đang nắm ưu thế vận chuyển hành khách nội địa và bỏ “phế” vận chuyển hàng hóa hàng không. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)
Cũng theo báo Tuổi Trẻ, đại diện Bộ Giao Thông-Vận Tải Cộng Sản Việt Nam tham dự hội nghị nói trên nhận định rằng sự có mặt của 50 hãng hàng không quốc tế tại Việt Nam là “một khởi đầu tốt đẹp để ngành hàng không Việt Nam đón đầu sự phát triển”.
Báo Tuổi Trẻ còn cho hay, một nghị định mới vừa được nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam ban hành, sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 6 tới đây, tăng vốn tối thiểu để thành lập công ty vận chuyển hàng không.
Số vốn này theo qui định mới, từ mức tối thiểu là 300 tỉ đồng, tương đương 15 triệu đô cho tới 700 tỉ đồng, tương đương 35 triệu đô; tăng thêm khoảng 1 triệu đô so với qui định cũ.
Mặt khác, vốn tối thiểu để thành lập hãng hàng không thương mại cũng sẽ tăng, từ 600 tỉ đồng, tương đương 30 triệu đô cho hoạt động nội địa và 1,000 tỉ đồng, tương đương 50 triệu đô cho đường bay quốc tế tăng lên 700 tỉ đồng, tương đương 35 triệu đô và 1,300 tỉ đồng, tương đương 65 triệu đô.
Dư luận cho rằng với mức “điều chỉnh” này, Việt Nam càng hạn chế tầm hoạt động của các công ty hàng không nội địa. Việt Nam hiện có hãng hàng không cổ phần Vietnam Airlines đang hoạt động trong thế độc quyền, trong đó sở hữu nhà nước chiếm 50%. Từ năm 2007, nhà nước Cộng Sản Việt Nam cấp giấy phép cho 5 hãng hàng không tư nhân hoạt động.
Tuy nhiên, sau 6 năm, các hãng này suy sụp dần, đến nay chỉ còn một hãng hoạt động cầm chừng là Vietjet Air. Hãng hàng không Indochina Airlines đã phá sản; hãng Trãi Thiên bị khai tử từ lâu; hãng Blue Sky bị quên lãng chóng vánh và hãng Air Mekong đang đối diện với “cái chết thấy trước”.
Ðặc biệt, hãng hàng không tư nhân Trãi Thiên được cấp phép vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không nội địa từ tháng 10 năm 2009 với số vốn quy định là 500 tỉ đồng, tương đương 25 triệu đô. Tuy nhiên, chỉ một năm sau đó, hãng này bị rút giấy phép hoạt động vì “không có dấu hiệu cho thấy khả năng cất cánh” trong khi bị tố nợ lương cán bộ, nhân viên.
(Người Việt)
 

Điều tra, xét xử lại từ đầu vụ "tổ quỷ" matxa Tân Hoàng Phát

Ngày 27-4, lãnh đạo TAND tối cao cho biết hội đồng thẩm phán TAND tối cao vừa xét xử giám đốc thẩm vụ bắt giữ người tại cơ sở matxa Tân Hoàng Phát (quận Thủ Đức, TP.HCM) và quyết định hủy cả hai bản án: sơ thẩm (của TAND TP.HCM), phúc thẩm (của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM), đồng thời giao hồ sơ về Viện KSND tối cao để điều tra lại từ đầu.

Phan Cao Trí (giữa) cùng đồng phạm tại tòa phúc thẩm - Ảnh: C.Mai
Theo hội đồng thẩm phán, việc hơn 100 nhân viên nữ tại các cơ sở matxa Tân Hoàng Phát bị bắt giữ trái pháp luật trong một thời gian dài đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự xã hội, gây bất bình dư luận.
Hành vi phạm tội của các bị cáo (gồm vợ chồng ông chủ Tân Hoàng Phát là Phan Cao Trí, Phan Thị Yến và bốn nhân viên quản lý) gây hậu quả nghiêm trọng.
Bản án sơ thẩm (27-1-2011) tuyên phạt Phan Cao Trí 12 năm tù, Phan Thị Yến 6 năm tù, hai quản lý là Phan Việt Hậu (em ruột Yến) 10 năm tù, Phan Quốc Cường (9 năm tù).
Tuy nhiên, bản án phúc thẩm (ngày 12-12-2011) chỉ xác định có một bị hại bị bắt giữ và tám người bị cưỡng đoạt tài sản, nên tuyên giảm án đồng loạt cho tất cả bị cáo. Phan Cao Trí chỉ bị xử 5 năm tù, Phan Thị Yến 3 năm tù và được hưởng án treo, Phan Việt Hậu còn 4 năm 6 tháng và Phan Quốc Cường 4 năm tù.
Việc xét xử quá nhẹ cho các bị cáo đã khiến dư luận phản ứng. Vì thế, chánh án TAND tối cao đã ký quyết định kháng nghị giám đốc thẩm lại vụ án này.
(Tuổi trẻ)

3 vấn đề của Chủ tịch Sang

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
Theo tin từ báo chí, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có buổi gặp mặt các cử tri TP.HCM, trong đó ông giải trình và trấn an người dân các vấn đề: Chủ quyền quốc gia là bất khả xâm phạm, dự án Boxit là của VN, quản lý vàng.
Về vấn đề chủ quyền, ông cho biết:
"Chúng ta chọn con đường hòa bình, hữu nghị, có nguyên tắc. Mục tiêu cuối cùng là độc lập, chủ quyền phải giữ. Nhưng phải bình tĩnh. Bình tĩnh không phải là chần chừ để người ta lấn lướt. Khi khó khăn, bên ngoài chưa giải quyết xong mà trong nội bộ mình nghe có vẻ rối là không nên”.
Nghe ông nói và xem hành động của người đứng đầu một quốc gia !
Sau khi nghe tin tàu cá VN bị bọn TQ bắn cháy cabin ngài đã có buổi làm việc tại huyện đảo Lý Sơn.
Trong đó, ngoài tháo gỡ khó khăn, chủ tịch Sang khuyến khích ngư dân ra khơi bám biển, nhưng chưa đầy 48 giờ sau một tàu lạ lại đâm chìm tàu Việt Nam ngay tại vùng biển Bà Rịa, Vũng Tàu. Ngài Chủ tịch ngậm hột thị làm ngơ, cho đến tận bây giờ không ai biết chiếc tàu là kia là của nước nào hay đó là đòn dằn mặt ngài của anh bạn vàng 4 tốt!
Chủ tịch Sang vẫn kiên định đường lối ngoại giao đã được thống nhất cùng các quan lại chóp bu:
"Chủ trương của ta là mọi tranh chấp phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế. Có thể nước lớn phớt lờ luật pháp quốc tế vì họ mạnh. Nhưng chúng ta không bao giờ và không được từ bỏ công cụ là luật pháp quốc tế. Lập trường này được Asean và các nước đồng tình, ủng hộ".
Thật buồn cười cho cái suy nghĩ của giới chức cầm quyền VN !
Một kẻ thì ỷ mạnh lấn tới, ức hiếp ngư dân mình, chiếm đất chiếm đảo sẳn sàng dạy cho VN một bài học mà chúng ta vẫn luôn mong muốn hòa bình.
Mình muốn nhưng nó đâu có chịu ?
Rồi ngài tuyên bố dựa trên cơ sở luật quốc tế, thế thì sao VN không khởi kiện bọn bá quyền TQ ra tòa án Liên Hợp Quốc?
Nói cho vui với người dân vậy thôi chứ làm sao mà dám thưa, khi bàn tay nhám nhúa của TQ đã nắm hết từ BCT cho tới các lĩnh vực quan trọng khác.
Và người dân cũng chán nãn khi thấy nước VN có đội ngũ lãnh đạo bạc nhược chỉ mong vinh thân phì gia.
Nếu nói về trường phái bồ câu và diều hâu của một quốc gia thì :
- Giới lãnh đạo VN đã và đang theo đuổi trường phái bồ câu thành ra biến tướng thành con rùa rụt cổ.
- Người dân VN với quá khứ hào hùng của cha ông để lại đều chọn trường phái diều hâu, nhưng đều vấp phải sự cản trở ngu dốt và phi lý của nhà cầm quyền !
Về vấn đề Boxit Tây nguyên ngài chủ tịch cho biết đó là chủ trương của nước VN nhưng không lý giải tại sao chỉ có 350 công nhân Việt và 600 người TQ (!)
Những kiến nghị về hậu quả sau này, thế hệ con cháu phải gánh chịu như nạn bùn đỏ tại Hungary của các nhân vật như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Thị Bình đều bị bỏ ngoài tai. Thậm chí còn bị bắt như Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, sao ngài chủ tịch không nhận thấy sai lầm đó trả lời cùng phóng thích cho họ ?
Vấn đề bauxite còn nguy hại gấp trăm ngàn lần cải cách ruộng đất, vì nó hủy diệt cả dân tộc ta như các nhà khoa học đã dự báo. Mười năm nữa sông Đồng Nai và những con sông khởi nguồn từ Tây Nguyên bị nhiễm bùn đỏ thì cả miền Trung, Đông Nam Bộ và TP.HCM lấy gì mà uống, những bà mẹ sẽ đẻ ra toàn quái thai.
Về vấn đề vàng, ngài chủ tịch lý giải làm sao khi vàng ở đâu ra mà bán cho người dân với số lượng hàng chục tấn, báo Thanh niên có bài lên tiếng chỉ trong thời gian ngắn đã bị gỡ xuống, có phải vàng từ quỹ dự trữ quốc gia hay là Thống đốc cho phép các ngân hàng ra nước ngoài mua về bán lại đầu cơ trên đầu bọn dân đen?
Ngài có số liệu nào về quỹ dự trữ vàng của VN hay không?
Nếu những vấn đề trên Chủ tịch Trương tấn Sang chỉ nói cho qua thì niềm tin ít ỏi còn sót lại trong con mắt người dân hoàn toàn bị mất vì:
- Một đội ngũ cầm quyền không biết bảo vệ quốc gia dân tộc.
- Các nhà lãnh đạo có cái nhìn thiển cận, độc tài.
- Giới chức cầm quyền hiện nguyên hình là kẻ đầu cơ.
Đó là một trong nhiều thắc mắc mà không được giải quyết thỏa đáng của người dân VN, nếu ngài đúng là Chủ tịch nước VN thì hãy công khai trả lời các vấn đề trên.
Dĩ nhiên người dân họ cũng không chờ vì họ biết thư trả lời của ngài sẽ không bao giờ đến.
Nguyên Anh
(DLB)
 

Nền kinh tế phải trả 480 ngàn tỷ lãi ngân hàng trong năm 2012

Nền kinh tế phải trả lãi ngân hàng bao nhiêu?
Nền kinh tế phải trả lãi ngân hàng bao nhiêu?Thứ trưởng Bộ Tài chính công bố con số thực nền kinh tế đã trả lãi ngân hàng các năm gần đây...
Theo thông tin được đăng tải ở  một số tờ báo từ giữa tháng ba năm nay, qua tính toán của TS.Trần Du Lịch, mỗi năm nền kinh tế phải trả lãi cho ngân hàng 20 tỷ USD.
480 ngàn tỷ trả lãi ngân hàng trong năm 2012 là con số được Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn công bố tại phiên họp toàn thể của Ủy ban Kinh tế ngày 26/4.
"Mỗi năm nền kinh tế phải trả lãi bao nhiêu là câu hỏi đại biểu Trần Du Lịch, thành viên của Ủy ban có đề nghị Bộ Tài chính trả lời, sau khi tranh luận trên báo chí", ông Tuấn nêu lý do.
Ông Tuấn không nêu con số cụ thể tại cuộc tranh luận này, song theo thông tin được đăng tải ở  một số tờ báo từ giữa tháng ba năm nay, qua tính toán của TS.Trần Du Lịch, mỗi năm nền kinh tế phải trả lãi cho ngân hàng 20 tỷ USD. Tuy nhiên, một số chuyên gia ngân hàng lại đưa ra con số khác thấp hơn.
Và, để trả lời câu hỏi này, người của Bộ Tài chính đã tiếp cận 66 ngân hàng thương mại lấy từng con số ngồi cộng lại.
Theo đó thì số phải trả từ khu vực doanh nghiệp của năm 2010 là 202 ngàn tỷ, đến 2011 phải trả 401 nghìn tỷ, còn năm 2012 vừa cộng xong kết quả thì khoảng 480 ngàn tỷ, ông Tuấn cho biết.
Cứ lấy dư nợ khoảng 3 triệu tỷ đồng lãi suất khoảng 13% là ra số phải trả, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Mai Xuân Hùng bình luận.
"Chúng tôi cứ tiếp cận lấy số từng cái ngồi cộng, rồi trừ số các ngân hàng cho vay lẫn nhau trong hệ thống ra, để được các con số đó, trả lời anh Lịch xem các doanh nghiệp đang trả lãi bao nhiêu", ông Tuấn trả lời.
Vẫn liên quan đến băn khoăn về con số thực của nợ xấu và giảm nợ xấu của Phó chủ nhiệm Mai Xuân Hùng tại phiên họp này, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn nói cũng mừng là “việc giảm nợ xấu tôi xác nhận là đúng, vì có số mà. Hai năm nay mỗi năm xử lý từ 60 - 63 nghìn tỷ tính vào chi phí”.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Tuấn nhấn mạnh, “nhưng cái quan trọng là 60 - 63 ngàn tỷ đó ai phải chịu, chia cho ai, có phải chia cho người gây ra nợ xấu hay chia vào các doanh nghiệp đang kinh doanh bình thường”.
"Giả sử là 300 nghìn tỷ nợ xấu được xử lý xong thì bao nhiêu do bán tài sàn, bao nhiêu tính vào chi phí và chi phí của họ rải đều vào các doanh nghiệp, mỗi năm 60 - 63 nghìn tỷ", ông Tuấn băn khoăn.
"Với góc độ người làm tài chính nhìn vào đó thì vừa mừng vừa lo", Thứ trưởng Tuấn bày tỏ.

 

Chống “ngoại xâm” bằng “ngoại nhân”

(Cách nay 38 năm, chiến tranh Việt Nam kết thúc với chiến thắng thuộc về những người Cộng sản)
Cuộc chiến kéo dài 21 năm, do những người Cộng sản miền Bắc tiến hành, được cho là cuộc chiến “chống giặc ngoại xâm”, dần dần cho thấy, thực chất đây không phải là mục đích của cuộc chiến.
Câu hỏi được đặt ra, vì sao những người cộng sản chiến thắng? Ngoài những sai lầm của chính quyền miền Nam và đồng minh Hoa Kỳ mà giới phân tích đã nêu ra từ trước tới nay, còn có nguyên nhân nào khác?

000_APP2000051812935-305.jpg
Tàu hải quân HQ-504 đến cảng Vũng Tàu, miền Nam Việt Nam chở người tị nạn tại biến cố 30/4/1975 - AFP photo
Đánh tráo mục đích cuộc chiến
Cuộc chiến Bắc – Nam được những người Cộng sản gọi là chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”, “giải phóng dân tộc”, nhưng gần đây, qua các tài liệu mới được giải mật, ai cũng có thể thấy, về thực chất, đó chỉ là cuộc chiến của những người Cộng sản, muốn biến Việt Nam thành một quốc gia Xã hội Chủ nghĩa.
Có nhiều bằng chứng cho thấy, khi phát động cái gọi là cuộc chiến “chống ngoại xâm”, những người lãnh đạo Cộng sản đều hiểu rằng, sự hiện diện của người Mỹ ở miền Nam chỉ nhằm ngăn chặn Chủ nghĩa Cộng sản, chứ hoàn toàn không phải để chiếm miền Nam làm thuộc địa như những gì mà họ tuyên truyền.
Có thể dùng chính các ý kiến của ông Hồ Chí Minh để dẫn chứng về việc giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam hiểu một cách tường tận tại sao người Mỹ có mặt và hỗ trợ chính quyền miền Nam Việt Nam.
Ngay từ năm 1944, ông Hồ Chí Minh đã từng hợp tác với Sở Hành động Chiến lược (OSS) và Sở Thông tin Chiến tranh (OWI) của Hoa Kỳ, và phía Mỹ đã từng giúp quân du kích Việt Minh chống lại Nhật.
Qua các tuyên bố của chính phủ Mỹ, lãnh đạo miền Bắc, Việt Nam hiểu rất rõ Hoa Kỳ không có ý định chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Sách “Hồ Chí Minh Toàn tập”, tại trang 90, tập 4, đã đăng bài trả lời báo chí về các tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman, liên quan đến các nước Đông Nam Á, ngày 2 tháng 11 năm 1945, ông Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Điểm thứ nhất ‘Hoa Kỳ không nghĩ tới một sự mở mang bờ cõi nào vì những mục đích ích kỷ’. Về điều này từ trước đến nay dân tộc Việt Nam đã hiểu rõ chính sách quang minh của Mỹ, nhất là từ ngày Mỹ thừa nhận Phi Luật Tân độc lập, thì dân VN càng tin tưởng chính sách rộng rãi của Mỹ”.
Không những ông Hồ Chí Minh hiểu rõ điều đó, mà chính ông Hồ Chí Minh đã từng xác nhận rằng, Hoa Kỳ luôn bênh vực cho tự do, độc lập của các dân tộc khác trong khu vực. Báo Cứu quốc, cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh, hôm 31 tháng 12 năm 1945 có đăng bài “Thế giới với Việt Nam”, trong đó ông Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta không thể quên nước bạn của chúng ta là nước Mỹ, một nước dân chủ bao giờ cũng bênh vực sự tự do, độc lập cho các dân tộc nhỏ yếu. Thấy bọn thực dân Pháp và Hà Lan đang hoành hành ở miền Nam, Á châu, Tổng thống Tơruman (Truman) lên tiếng cảnh cáo bằng lời tuyên bố trong ngày Hải quân ở Nữu Ước: 'Tất cả các dân tộc đã bị vũ lực đè nén đều được giải phóng nếu sự thay đổi ấy thích hợp với quyền lợi của họ. Tất cả các dân tộc đều được tự trị lấy xứ sở mình. Họ phải có một chính phủ tự trị của họ’.”
Sau khi hiệp định Geneva được ký, nhận ra Việt Nam xung phong làm tiền đồn của khối Cộng sản ở Đông Nam Á, quyết tâm giúp Liên Xô truyền bá Chủ nghĩa Cộng sản trong khu vực, Hoa Kỳ mới hỗ trợ cho chính phủ miền Nam Việt Nam, chống lại sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản trên toàn Việt Nam.
Tuy hiểu rõ lập trường của Mỹ trong vấn đề hỗ trợ miền Nam, thế nhưng, lúc phát động chiến tranh, giới lãnh đạo Cộng sản vẫn đánh tráo mục đích cuộc chiến. Trong tuyên truyền, họ bảo: "Mỹ là một tân đế quốc, can thiệp vào miền Nam để biến miền Nam thành thuộc địa, một căn cứ quân sự của Mỹ”, và kêu gọi toàn dân đứng lên “giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ”.
Chính lối tuyên truyền đó đã kích động hàng triệu người Việt không tiếc máu xương, không ngại hy sinh mạng sống của mình, bởi họ tin rằng, cần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Hàng triệu người đó không hề biết rằng, họ đã chiến đấu và hy sinh cho sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản, nay đã bị phá sản gần như trên toàn thế giới.
Trong một lần trả lời phỏng vấn Đài Á châu Tự do, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ, bút danh Hà Sỹ Phu – một trong những người  sống cùng thời với hàng triệu người chấp nhận hy sinh để Việt Nam trở thành một quốc gia Cộng sản – nhận định: “Chủ nghĩa Cộng sản đã lẻn vào Việt Nam qua cổng chống ngoại xâm, chứ nó không vào theo cổng chính của đất nước, thông qua vọng gác của trí tuệ. Cho nên giới khoa học, tức là giới tinh hoa của đất nước, từ trước tới nay không đủ năng lực để rà soát chủ nghĩa đó về mặt trí tuệ. Trái lại nó đã bị chủ nghĩa đó lôi cuốn, biến thành kẻ tòng phạm đắc lực”.
Dùng “ngoại nhân” để chống “ngoại xâm”
Tuy là phía phát động cuộc chiến “chống ngoại xâm”, thế nhưng giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đã bí mật cho phép rất nhiều “ngoại nhân” từ Liên Xô, Trung Quốc và một số quốc gia Cộng sản khác đến Việt Nam tham chiến, chống lại đồng bào của mình. Hàng loạt tài liệu mới được giải mật trong thời gian vừa qua cho thấy, tuy giới lãnh đạo Cộng sản miền Bắc lên án kịch liệt về sự hiện diện của lính Mỹ ở miền Nam, nhưng ngay tại miền Bắc, luôn có rất nhiều lính Liên Xô, Trung Quốc.
Sử gia Dan Ford dựa trên một số tài liệu, cho biết, ngoài 320.000 người Trung Quốc có mặt ở Việt Nam mà các nhà sử học nhắc tới, có khoảng 22.000 người Liên Xô đã từng phục vụ ở Việt Nam với vai trò cố vấn và tham gia lực lượng phòng không, không quân. Sự hiện diện của những người lính Liên Xô này đã bị cả giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam lẫn giới lãnh đạo Cộng sản Liên Xô phủ nhận cho đến khi chế độ cộng sản ở Liên Xô sụp đổ.
Năm 2008, Đài truyền hình Nga, Russia Today, cho biết, đã có hàng ngàn binh lính Liên Xô tham gia chiến đấu tại miền Bắc Việt Nam. Ông Nikolay Kolesnik, một cựu chiến binh Liên Xô đã từng chiến đấu ở miền Bắc Việt Nam, cho biết: "Chúng tôi chính thức được mọi người biết đến như là một nhóm chuyên gia quân sự. Người chỉ huy đơn giản được gọi là chuyên gia cao cấp. Như vậy, về mặt kỹ thuật, không có đơn vị Liên Xô nào tại Việt Nam. Điều duy nhất chúng tôi biết rằng chúng tôi là dân Liên Xô, binh lính Liên Xô, và chúng tôi phải làm bất cứ điều gì để ngăn chặn các cuộc không kích. Đó là những gì chúng tôi đã làm".
Đáng nói là ngay vào lúc những người lãnh đạo chính quyền Cộng sản ở miền Bắc cho phép sự hiện diện của các cố vấn, chuyên gia quân sự, cũng như binh lính nước ngoài cầm vũ khí vào Việt Nam, thì họ vẫn lên án sự có mặt của các cố vấn Mỹ ở miền Nam. Ông Hồ Chí Minh đã từng phản đối chính phủ Hoa Kỳ, về các cố vấn Mỹ ở miền Nam. Ông nói: "Danh từ 'cố vấn' dùng để ngụy trang số binh sĩ Mỹ, không lừa bịp được ai cả".
Sau khi có khá nhiều tài liệu liên quan đến sự tham gia của quân đội Liên Xô vào cuộc chiến Việt Nam được Nga bạch hóa, cách nay vài năm, báo chí Việt Nam cũng bắt đầu xác nhận về sự hiện diện của quân đội Liên Xô trong cuộc chiến Việt Nam. Một trong những bài báo này đã giới thiệu nhật ký của một đại tá Liên Xô, nguyên văn như sau: “Ngày 24-7-1965, trong vùng rừng núi, chúng tôi triển khai tên lửa SAM. Vừa ngụy trang xong, chúng tôi phát hiện máy bay Mỹ bay về hướng Hà Nội, theo hai tuyến, chỉ cách trận địa tên lửa 10km. Đơn vị tên lửa AA bên cạnh nổ súng đầu tiên và họ đã thành công: hai tên lửa bắn trúng đích. Chúng tôi cũng hạ được một máy bay và sau đó còn đánh gục được một máy bay trinh sát không người lái”.
Tháng 4 năm 1975, cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Chứng kiến thực tế Việt Nam, không ít người đã từng cầm súng hoặc hy sinh cho công cuộc “chống ngoại xâm”, may mắn còn sống, bắt đầu tự hỏi về sự cần thiết của cuộc chiến được gọi là “chống ngoại xâm”, kéo dài trong 21 năm, cũng như mục tiêu của cuộc chiến. Đã có rất nhiều người trong số họ cảm thấy hối tiếc và phản kháng về những bất toàn của một chính thể, hình thành bởi máu xương của hàng triệu triệu người.
Ngọc Trân, thông tín viên RFA
2011-04-29
 

Trương Thái Du - Trả lời tác giả “Bố tôi chết vì ung thư tử cung”!

IMAG0251

Hai năm rưỡi nay tôi hầu như không viết gì, lâu lâu copy và paste những điều lý thú trên mạng hoặc từ email của bạn bè khắp nơi chia sẻ. Hôm nay giật mình khi nhận được thị phi ở đây:
“Thứ hai là ông Trương Thái Du, một con người điển hình của nói năng điềm đạm, nho nhã, nhưng thật ra vô cùng thâm hiểm. Tôi thấy ông Trương Thái Du chỉ thỉnh thoảng đi đâu đó nói câu này câu kia ra cái vẻ khách quan lắm, như là chỉ phê phán tôi vừa phải thôi, nhưng tôi cũng là người biết quan sát, tôi biết ông Trương Thái Du hả hê lắm. Bởi thật ra, trước đó, đã có lần ông Trương Thái Du nhờ tôi đọc rồi nhận xét hộ truyện ngắn cho ông, thì tôi đã từ chối thẳng. Tôi biết với ông, như thế là một sự sỉ nhục, nhưng tôi xin lỗi, với tôi, sẽ là sỉ nhục nếu phải đọc văn ông. Tôi là người không bao giờ để lộ ra các chi tiết liên quan đến nghề nghiệp, nhưng tôi xin phá lệ một lần để nhận mình chính là người từng bỏ phiếu chống đăng truyện của ông trên một trang web, khi tôi ở trong ban biên tập tại đó. Đến bây giờ, tôi vẫn giữ nguyên quan điểm, văn chương Trương Thái Du là văn chương tôi không thể đọc được.”
Thật là rầy rà và quá đỗi ngạc nhiên.
Là một người viết không chuyên, vô danh, hoạt động chủ yếu trên mạng, điều tôi nhớ rất rõ là tôi từng nhiều lần, ở nhiều thời điểm, gửi bản thảo của mình cho rất nhiều địa chỉ email. Đó có thể là email của một NXB, một chủ trang web, một người hoạt động trong giới văn chương .v.v… Phần lớn các email ấy không được trả lời, một số ít phản hồi, để cuối cùng tôi chỉ có được hơn chục truyện ngắn đăng ở báo Văn Nghệ, Tuổi Trẻ; hai quyển sách ở NXB Lao Động và NXB Văn Học; góp mặt trong một hai tuyển tập của NXB Trẻ.
Điều tôi không thể nhớ rõ là đã email thẳng cho Cao Việt Dũng hoặc là email đến NXB do Cao Việt Dũng phụ trách.
Do đó rất dễ hiểu, tôi không thể có tư thù với Cao Việt Dũng vì anh ta từ chối đọc bản thảo của tôi.
Tôi chỉ mới biết Cao Việt Dũng vài năm trở lại đây, qua các bài lăng xê trên báo và một hai bản dịch. Có lần tôi chê một nhà văn nữ, và được bạn đọc nhắc nhở đó là vợ anh ấy:
“Nhiều cách sống” thì thất bại thảm hại. Vừa đọc vừa chê và quyết tâm gấp chéo những chỗ “lưu ý” để “nhặt sạn”, nhằm hóa cải một quyển sách dở thành “bài học nên tránh”… Phải chăng đây là cách “tiết kiệm” hiệu quả tiền bạc lẫn thời gian?
Tựa sách: Hóa ra là xén một câu của nhà văn hạng hai Nhật Bản Murakami.
Tên nhân vật chính: Lâm Lâm nhé. Bỗng nhớ đến chị hai sến nhão “Em xinh không?” mới đổi bút danh thành Đình Đình. Cảm giác như là bị ép dùng con xe máy Hongda Tàu giả Honda Dream Nhật đi du lịch liên tỉnh vậy.
Nội dung: Nhạt từng xăng ti mét. Hư cấu rất giả tạo từ sự kiện đến tình tiết. Chẳng hạn trang 36, cô gái ngồi ghế trước taxi bốn chỗ (cạnh lái xe) có thể nhìn qua kính chiếu hậu (dành cho lái xe) mà tả cảnh ở băng sau như phim hành động USA.”
Cái kiểu “bẻ kính chiếu hậu” của Nguyễn Quỳnh Trang, gần đây tôi thấy rất giống “Đánh dấu mạn thuyền” của Phan Việt.
“Phan Việt. Tiếng Người (Kindle Locations 2220-2223). trongtk2305@gmail.com (TVE).
Những chiếc côngtennơ đung đưa trong không trung theo chiều xoay của những cánh tay cẩu dài. Mực nước buổi chiều trên sông Sài Gòn xuống thấp, để lộ vạch nước bám trên thân con tàu và hàng chữ ASEAN PREMIER ở mũi. Mũi tàu dốc đứng, vát một vạt nước chéo trên mặt nước đục.”
“Bố tôi chết vì ung thư tử cung” nằm trong hệ thống sai lỗi điển hình của các tác phẩm văn chương Việt Nam, đó là thiếu vốn sống phổ thông.
Nếu đủ vốn sống thì Nguyễn Quỳnh Trang đã biết rằng gương chiếu hậu một chiếc xe hơi chỉ dành cho tài xế chứ không phải người ngồi bên cạnh.
Nếu đủ vốn sống thì Phan Việt phải hiểu rằng con tàu nổi trên nước, cho nên nước lên hay xuống thì cũng là ngấn nước ấy, nó không thể làm lộ cái gì ra cả.
Nếu đủ vốn sống thì Cao Việt Dũng không thể lướt qua câu văn “Bố tôi chết vì ung thư tử cung” một cách cẩu thả như thế.

IMAG0252

“Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, thế mà trong entry dài dằng dặc đã dẫn, chúng ta chỉ thấy Cao Việt Dũng “trách nhân”. Thật đáng tiếc. Đáng tiếc hơn nữa là đã đưa tên một kẻ vô danh vào cuối bảng phong thần để trách, để quảng cáo không công cho nó!
Tất cả những nhận xét đây đó của tôi về anh Cao Việt Dũng, đều xuất phát từ tâm thế một người đọc mà thôi. Những người đọc bình thường như tôi, một khi đã nhìn thấy cái sai lỗi mang tính hệ thống của tác giả – dịch giả, thì hận lắm, đau lắm. Vì mình đã tốn tiền (mua sách), tốn thời gian với những thứ không đáng bận tâm.
Acsimet đã nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng quả đất lên”. Cao Việt Dũng nên tựa vào một lời xin lỗi bạn đọc cả nước, bước qua định kiến, tiếp tục làm việc để trở thành một dịch giả lớn.
Nếu không có dũng khí như Dostoevsky, so sánh Raskolnikov với Napoleon, để đưa “Tội ác và trừng phạt” lên tầm nhân loại; thì cũng nên bình thản chơi đùa với “Trái cóc xanh” nhằm tự giễu cợt mình, nhắc nhở mình trên con đường văn chương “Đắc thất thốn tâm tri”!
Trương Thái Du

Nhận diện nhóm lợi ích

“Hiện tượng giàu lên rất nhanh, có nhiều nhà đất và có khối lượng lớn về tài sản, tiền bạc của một số cán bộ có chức, có quyền trong một số cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng càng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân không khỏi nghi ngại là có việc làm ăn, có lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm”, đó là nhận định của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng trong một đề tài nghiên cứu mới đây, được công bố hồi đầu tháng 4 tại Đà Nẵng.
Những hình ảnh về “khu dinh cơ đồ sộ” của nguyên Chủ tịch tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô được báo chí đăng tải gần đây đã gây bão trong dư luận. Khu dinh cơ là sự tương phản gay gắt với cuộc sống của phần lớn người dân đang sống dưới ngưỡng đói nghèo ở tỉnh miền núi xa xôi này. Đã không có lời giải thích nào được chủ nhân đưa ra, song, nếu có cũng sẽ không thuyết phục. Hà Giang vẫn đang phụ thuộc rất lớn vào ngân sách trung ương, còn nhiều doanh nghiệp trong tỉnh vẫn đang là nạn nhân của thời kỳ “đại công trường” của tỉnh này chỉ vài năm trước. Bằng cách nào mà vị cựu quan chức có thể xây một dinh cơ như vậy?
Câu chuyện trên chỉ là một trong danh sách dài các câu chuyện không có hồi kết về cuộc sống xa hoa của rất nhiều người sau khi nghỉ hưu, hay thậm chí còn đương chức. Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng ghi nhận hiện tượng này trong một đề tài nghiên cứu: “Trong khi mặt bằng kinh tế chung còn thấp mà trong xã hội có một số người chơi ngông, xài sang hơn cả ở các nước phát triển thì đó là điều khó chấp nhận, đa phần là những người có được nhiều tiền nhờ sự kiếm chác một cách khuất tất, mờ ám… Thói hưởng lạc, sống gấp, hợm hĩnh, vênh vang về đồng tiền có được của không ít người là nhờ các mối quan hệ không bình thường với cán bộ, đảng viên có chức, quyền trong các cơ quan công quyền, hoặc có thể là do tham nhũng, ăn cắp, nhận hối lộ”. “Hiện tượng giàu lên rất nhanh, có nhiều nhà đất và có khối lượng lớn về tài sản, tiền bạc của một số cán bộ có chức, có quyền trong một số cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng càng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân không khỏi nghi ngại là có việc làm ăn, có lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm”.

Sân golf Đồi Cù, Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Ảnh: Kinh Luân.
Đề tài nghiên cứu trên nhận xét, kể từ khi đổi mới vào năm 1986 đến nay, nạn tham nhũng của quan chức tăng lên rất nhanh, trong đó gần 32% liên quan đến doanh nghiệp. Tình trạng quan chức thông đồng với doanh nghiệp để vụ lợi ngày càng nhiều, có dấu hiệu trầm trọng hơn trong tất cả các lĩnh vực. Ủy ban Kiểm tra Trung ương liệt kê hàng loạt các hình thức sau.
Nhóm thân hữu. Ở Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp bắt đầu quan tâm đến nhóm lợi ích trong việc vận động điều chỉnh chính sách. Không có bằng chứng pháp lý về nhóm thân hữu, nhưng trong thực tế, xung quanh một số nhân vật chủ chốt có vai trò quan trọng trong các quyết sách về kinh tế của Nhà nước đã thấp thoáng sự hiện diện của các doanh nhân thuộc các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Thậm chí, có một số tin đồn rằng, doanh nhân nào đó có thể dễ dàng ra vào nhà của một số nhân vật có quyền lực ở trung ương và địa phương. Nhóm thân hữu manh nha này có quan hệ hai chiều trong việc quan chức dàn xếp để doanh nghiệp nhận được ưu đãi, ngược lại, doanh nghiệp hoặc là đóng góp vào sự phát triển của địa phương để làm nổi bật thành tích của quan chức, hoặc là cung cấp cho bản thân quan chức các phương tiện để có thể leo cao hơn, để lo lót, chạy chọt khi doanh nghiệp phạm sai lầm và cung phụng cho những người thân thiết của quan chức. Đã xuất hiện hiện tượng các doanh nghiệp bao cấp cho một số quan chức các dịch vụ như chơi golf, du học, du lịch.
Nhóm chung lợi ích. Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra trích dẫn khảo sát năm 2012 do Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Thế giới đồng tổ chức, theo đó có tới 40% số doanh nghiệp được hỏi thừa nhận họ có sử dụng quan hệ với quan chức để vụ lợi, và 43% không có ý kiến gì về vấn đề này. Hơn 19% doanh nghiệp được hỏi thừa nhận sử dụng hối lộ để đạt mục đích. Các cơ quan mà nhóm này hướng đến là các ủy ban nhân dân, các cán bộ quản lý ngành.
Nhóm lợi ích cục bộ. Nhóm cán bộ thoái hóa trong các cơ quan quản lý nhà nước sử dụng quyền lực của nhóm để ăn chia với doanh nghiệp. Chẳng hạn, vụ án tham nhũng xảy ra tại trạm kiểm soát liên ngành Đồng Bành, Lạng Sơn. Tại đây, nhóm cán bộ công chức đã câu kết với doanh nhân bớt xén tiền thuế chia nhau và dùng tiền đó để hối lộ cấp trên nhằm thăng chức và trụ lại trạm lâu hơn. Không ít cán bộ ở trạm này đã lên chức trạm trưởng, trạm phó, phó phòng nghiệp vụ cục thuế tỉnh. Một số cán bộ ở cục thuế giữ quyền ăn chia bằng cách đề xuất với ủy ban nhân dân luân chuyển cán bộ tại trạm ba tháng một lần, ra văn bản thu mức thuế thấp hơn quy định, bố trí người tại trạm để thu “quả” thực…
Quan chức sử dụng doanh nghiệp nhà nước để vụ lợi. Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất đặc biệt, quản lý khối tài sản khổng lồ, không đi kèm trách nhiệm giải trình cao nên khu vực kinh tế này là đầu mối để nhiều quan chức thiết lập các đường dây vụ lợi cho mình. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng quan chức tạo ô dù để bổ nhiệm những người thân tín vào các vị trí chủ chốt. Trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp đã chuyển cho một số quan chức các cổ phần béo bở đứng tên những người tin cẩn của quan chức. Quan chức nhờ người khác đứng tên kết hợp với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thành lập các công ty tư nhân hoặc liên doanh, sau đó sử dụng doanh nghiệp nhà nước để đẩy các hợp đồng béo bở cho doanh nghiệp của họ nhằm thu lợi lớn. Quan chức che chắn để cán bộ quản lý doanh nghiệp làm sai quy định như mua bán tài sản không minh bạch để nhận hối lộ của bên cung cấp rồi chia nhau, tài trợ cho quan chức đi nước ngoài bằng chi phí của doanh nghiệp nhà nước…
Vụ lợi cá nhân. Khá nhiều cán bộ, công chức của Việt Nam đã chủ động đòi hối lộ mới giải quyết công việc, hoặc thực hiện sai chế độ chính sách có lợi cho doanh nghiệp hối lộ. Khảo sát năm 2012 của Thanh tra Chính phủ chủ trì thực hiện cho thấy có gần 16% cán bộ công chức thừa nhận bắt gặp hành vi của cán bộ, công chức gọi điện, viết thư tay can thiệp nhằm mưu lợi cho người thân trong 12 tháng qua; gần 22% cán bộ, công chức bắt gặp hành vi của cán bộ, công chức khác cố tình gây khó khăn khi giải quyết công việc để đòi hối lộ. Theo số liệu của Bộ Công an, trong số những người phạm tội hối lộ, cán bộ công chức chiếm đa số, hơn 65%.
Gây phiền hà cho doanh nghiệp để đòi tiền hối lộ. Tình trạng này là tương đối phổ biến. Cuộc khảo sát nói trên cho thấy, 5% số doanh nghiệp cho biết họ nhận được đề nghị bán, cho thuê tài sản giá rẻ, 5% nhận được đề nghị tài trợ tham quan, chi tiêu cá nhân, 8% nhận được đề nghị tuyển dụng họ hàng của công chức, 15% nhận được đề ghị tặng quà.
Bảo kê cho các hoạt động phi pháp. Bảo kê của những người có chức quyền cho doanh nghiệp buôn lậu; hay bảo kê đối với các hoạt động mại dâm, buôn bán ma túy, gỗ lậu; hay bảo kê cho các nhóm người sử dụng đất công để trông giữ xe, làm dịch vụ.
Ngoài ra, còn có các hiện tượng quan chức hưởng hoa hồng vượt quá mức quy định công khai trong hợp đồng, hay lợi dụng thông tin công vụ để vụ lợi. Các thông tin sớm thường là thông tin quy hoạch đất, xây dựng và cải tạo đường giao thông, đô thị, dự án khu đô thị mới, dự án đầu tư công.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho biết, hiện tại, một số doanh nghiệp còn tổ chức một bộ phận trực thuộc giám đốc hoặc hội đồng quản trị với chức năng duy nhất là duy trì và mở rộng quan hệ với chính quyền và cán bộ, đảng viên của chính quyền đó.
Từ những hình thức trên, Ủy ban Kiểm tra Trung ương nhận xét, một số cán bộ, đảng viên có chức, quyền đã lợi dụng các kẽ hở của pháp luật, câu kết, làm sân sau cho một số doanh nghiệp để trục lợi, hình thành các “nhóm lợi ích” không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, thậm chí có doanh nghiệp còn bỏ tiền mua phiếu cho quan chức lên vị trí cao hơn…
Ủy ban lo ngại rằng, bản chất mối quan hệ không bình thường giữa cán bộ, đảng viên có chức quyền với doanh nghiệp để trục lợi là một dạng tham nhũng đặc biệt, dẫn đến lợi ích nhóm có thể chi phối cả nền kinh tế, thậm chí là chính trị. Mối quan hệ không bình thường tạo ra môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, bóp méo các chính sách của Nhà nước, thay vì ban hành để phục vụ lợi ích của đại bộ phận nhân dân, nó lại quay sang chỉ để phục vụ một số ít doanh nghiệp, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư chân chính.
Tư Hoàng
(TBKTSG)

Sơn Thi Thư - Nhưng...


1. Dân chủ gấp vạn lần tư sản nhưng lại là kẻ thù của internet.
2. "Tài tình" và " sáng suốt" nhưng không bằng bọn "thối nát" và "giãy chết".
3. Không có vùng cấm nhưng có vùng suy thoái.
4. Nói thì quyết liệt nhưng làm thì...chết tiệt!
5. Giỏi "biện chứng" nhưng lại dốt lãnh dạo.
6. Hạnh phúc nhất nhì thế giới nhưng phải tự tử vì nghèo!
7. Hứa từ chức nhưng chức không từ!
8. Phá hay không phá không thành vấn đề nhưng có vấn đề hủy hoại tài sản.
9. Xin kỷ luật nhưng không được cho kỷ luật.
10. Sai phạm lớn, thất thoát lớn nhưng không kỷ luật một ai !
11. Phải chống tham nhũng nhưng làm không khéo lại gây rối loạn nội bộ.
12. Bảo là quá độ nhưng không biết quá độ đến bao giờ!
13. "Ngay và khẩn trương" nhưng phải sau 14 tháng.
14. Khiếu kiện là quyền của công dân nhưng làm xấu hình ảnh của kinh đô và cần phải cưỡng chế!
15. Tại nạn giao thông là điều không mong muốn nhưng đừng đề cập trách nhiệm thuộc về ai!
16. Tôi quyết tâm làm tàu cao tốc nhưng bằng nước bọt!
17. Đặc xá là một chủ trương lớn nhưng nhiều khi đặc xá vì nhà tù quá tải !
18. Bảo vệ Tổ quốc là thiêng liêng nhưng lại rất cụ thể như bảo vệ sổ hưu!
19. Đánh người đang thi hành công vụ là trái pháp luật nhưng rất mong nạn nhân thông cảm!
20. Cuộc cưỡng chế diễn ra an toàn tuyệt đối nhưng có hai nhà báo bị đánh hộc máu mồm!
21. Muốn làm bạn với tất cả nhưng nhìn đâu cũng thấy thế lực thù địch.

Sơn Thi Thư
(Blog Sơn Thi Thư)