Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Tin thứ Ba, 11-12-2012

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Vũ Cao Đàm: Các nhà lãnh đạo của Đảng cần hiểu rõ thủ đoạn ly gián Đảng với Dân của đế quốc cộng sản Đại Hán (BoxitVN).  - DANH SÁCH KÝ TÊN TUYÊN BỐ PHẢN ĐỐI NHÀ CẦM QUYỀN TRUNG QUỐC, ĐỢT 13. Đã gần 900 chữ ký.
- Lại nữa! Trung Quốc xây dựng trái phép trạm giám sát khí quyển trên Hoàng Sa (DT). Người phát ngôn lại “cực lực”, hay “triệu đại sứ”, … hay còn chiêu nào nữa không?
1
- Thu hồi lịch tết có biển Nam Trung Hoa (TT). Cái tựa không ổn!  - Hải Phòng: Bắt hàng trăm vụ vi phạm biên giới biển (ĐĐK). Bộ đội Biên phòng Hải Phòng phát hiện, kiểm tra phương tiện  vận chuyển than, khoáng sản xuất lậu qua biên giới =>
- Gác mái ngư ông về viễn phố (SGTT). “Mày có định vào Nam bắt cướp lãnh thưởng không?/ Tao nghĩ chưa ra: bắt cướp cạn thì có thưởng, sao không ai treo thưởng bắt… cướp biển hè?
- Quyền lịch sử nào của Trung Quốc tại biển Đông? (Trương Nhân Tuấn). – Chính sách biển khó lường của TQ (VNN). – Đèn xanh (Nguyễn Thông). Mời xem lại bài trên SGTT, đã được các blogger đổi cái tựa: Trung Quốc đang phát động một cuộc chiến tổng hợp chống VN.
- MỘT CUỘC NHẬU Ở TRUNG NAM HẢI (TSYG). – TQ yêu cầu VN ‘bảo vệ công dân’ Trung Quốc. (BBC). Thương thay cho những kẻ cung cúc theo “lệnh” thiên triều để đàn áp dân mình, mà vẫn bị nó chửi.  Trở lại phần bình luận ngày 5/12, chúng tôi đã gợi lên khả năng “có biểu hiện tung tin bịa đặt cho một tờ báo là có chuyệ‘triệu đại sứ TQ’ tới để phản đối, trao công hàm, nhằm trấn an dư luận …”. Thế nhưng, hôm qua lại nghe một nguồn tin từ bên ngoại giao, rằng thực tế là có triệu đại sứ TQ và cơ quan này chủ trương thông báo cho báo chí. Thế nhưng, sứ quán TQ đã “đi cửa sau” với Ban Tuyên giáo sao đó, mới có vụ lập lờ, che đậy, chỉ thông báo việc “trao công hàm” thôi.
- Biển Đông: Người Việt phẫn nộ trước hành động thái quá của Trung Quốc (RFI). GS. Carl Thayer: Giới lãnh đạo an ninh Việt Nam có hai lý do để giải tán các cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Thứ nhất là vào tháng 06/2011, Việt Nam và Trung Quốc đạt đến một thoả thuận về việc ‘định hướng công luận‘, nói cách khác là kiểm soát các biểu tình công khai tác hại đến quan hệ song phương. Điểm thứ hai là giới lãnh đạo an ninh của một quốc gia độc đảng luôn tìm cách làm chủ tình hình chứ không muốn cho thấy là mình bị động”.
- Biển Đông Trong Dòng Sinh Mệnh Việt Tộc (New Viet Art). – Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử (ĐV).
- Hai đầu Tổ Quốc hẹn nhau xuống đường (DLB). – Công an Việt Nam giải tán biểu tình chống Trung Quốc (VOA). – Nhân sĩ Sài Gòn phản đối ‘trấn áp’ (BBC). Ông Lê Hiếu Đằng: “Những hành động trấn áp, bắt bớ nói trên là như thế nào, ai chủ trương và ai chịu trách nhiệm”?
- GS Tương Lai: Vì sao lại ngăn chặn lòng yêu nước? (RFA). “… chắc về sâu xa không phải ngăn chặn chúng tôi chống Trung Quốc đâu (nếu mà như vậy thì tệ hại quá, như thế thì thành ra tay sai của Bắc Kinh mất rồi, nhưng tôi hy vọng rằng không phải thế); thế thì khi đàn áp người công dân, chính là họ sợ cuộc biểu tình của người dân chống TQ đẩy tới chống chính quyền. Nếu vậy thì chỉ là do ‘thần hồn nát thần tính’ thôi, và nguyên cớ của việc trấn áp là ở chỗ đó”. - Cuộc chiến không cân sức (Phương Bích).
H1Về chuyện đàn áp người biểu tình chống TQ ở Sài Gòn, một CTV gửi hình ảnh và thông tin: “Thằng áo trắng là Thượng tá Trần Đức Tài, Trưởng Công an quận 1, đang chạy để lên chức Phó Giám đốc CA TP.HCM. Hèn chi nó đàn áp nhân dân rất dữ để lập công dân đảng“. Bà con xem lại các video biểu tình ngày 9-12-2012 ở SG, có thể sẽ thấy mặt của ông thượng tá này.
“Tự diễn biến” (BoxitVN).
- Người biểu tình và “quần chúng tự phát” (DLB). Liên quan tới “quần chúng tự phát”, một CTV đi biểu tình ở SG hôm 9/12 vừa qua, chia sẻ: “Có 1 sự kiện mà chưa thấy báo chí nhắc đến. Đó là cái trò ‘móc túi’. Khi mọi người đã ngưng hô hào và tụ tập lại nói chuyện với nhau thì luôn có những lời nói phát ra ‘coi chừng móc túi nha’. và có 1 bà khoản 30 tuổi nói thều thào khi mọi người tụ tập nói chuyện: ‘em tôi đến đây thì bị mất cái điện thoại…’. Bà nói khá nhiều và có nhiều người đứng nghe nhưng tôi biết đây chỉ là cái trò bày ra nên không thèm nghe nữa”. – Mời xem lại: Côn đồ ăn lương dân ? (Xuân VN).
- Trao đổi với các ông công an, an ninh (Phương Bích). “Các ông, những người được ăn cơm của dân, mặc áo của dân đã không đứng ra bảo vệ người dân trước giặc xâm lăng, đảm bảo trật tự trị an cho hai cuộc biểu tình diễn ra tốt đẹp nhằm biểu dương sức mạnh dân tộc thì các ông THẲNG TAY ĐÀN ÁP DÃ MAN nhân dân ở cả 2 cuộc biểu tình…”
- Gỡ băng cuộc Đối thoại: Nhà báo Đoan Trang – CA Hoàn Kiếm tại Trung tâm Lộc Hà (Ba Sàm).
- Xin lỗi em, học trò cũ của tôi (RFA’s blog). “Tôi nảy ra ý định viết những dòng này từ Chúa Nhật vừa qua khi thấy em xuất hiện trên thềm Nhà hát lớn thành phố. Em không đi biểu tình, trái lại em là người sẵn sàng theo lệnh bắt bớ, giải tán những người biểu tình mà đa số chỉ bằng tuổi em. Khuôn mặt em làm tôi ngậm ngùi hơn là trách móc”.
- Nguy cơ mất nước đã cận kề ? (RFA). Khi tàu cảnh sát TQ tung ra tuần tra thì đừng hòng các tàu thuyền của ta ra khơi hoạt động và làm ăn gì nữa. Hàng hải, dầu khí, ngư nghiệp, tài nguyên… đều mất sạch. Như vậy, nếu không có gì thay đổi, thì đến ngày 1 tháng Giêng, năm 2013, ta chính thức mất biển Đông trên thực tế. Một khi đã mất biển Đông thì nguy cơ mất nước cận kề”. - Song Chi: Càng chậm trễ, trì hoãn, cái giá phải trả càng đắt! (RFA’s blog).
- Lê Diễn Đức: Viết cho ngày 9/12: Nước mắt mùa Đông (RFA’s blog). “Làm người Việt hôm nay sao xấu hổ, ngượng ngùng/ Còn gì nữa đâu để mà hãnh diện?/ Đói nghèo lạc hậu vẫn triền miên, thời chống Pháp, Mỹ hào hùng chỉ còn là hoài niệm…
- Nguyễn Thượng Long: Vế đối hôm qua và “đèn đỏ” hôm nay trong ngày 9/12/2012 (Nguyễn Tường Thụy). – Nguyễn Ngọc Quang: Thư bày tỏ lòng biết ơn với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (DLB).
- Nguyễn Hưng Quốc: Chiến tranh và hòa bình: Một vấn đề giả (VOA’s blog). lập luận của nhà cầm quyền Việt Nam là thế này: Nếu chính quyền lên án Trung Quốc gay gắt quá, Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam. Nếu dân chúng xuống đường biểu tình chống Trung Quốc, Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam. Nếu mọi người, trên các trang mạng của mình, xúm vào vạch bộ mặt thật của Trung Quốc quá, Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam”. Tóm lại, một chữ HÈN!

- Nguyễn Ngọc Già – Một vài suy nghĩ về biểu tình chống giặc Tàu (Dân luận). – 5 năm nhìn lại các cuộc biểu tình (BBC). – Biểu tình và hậu biểu tình (RFA). – Thuyền về đâu? (Nguyễn Tường Thụy).
- 10 video về cuộc biểu tình ngày 9/12/2012 tại Hà Nội (Lê Hiền Đức). – Biểu Tình Chống Trung Quốc 09-12-2012: Sàigon và Hà Nội (full) version 2 (NKYN). – Biểu Tình Chống Trung-Cộng Việt-Cộng ở Washington DC, Hoa Kỳ (Phần 1). – Biểu Tình Chống Trung-Cộng & Việt-Cộng (Phần 2) – Biểu Tình Chống Việt-Cộng tại Houston (VietFreedom2012).
- Bình thường trong cái không bình thường! (DLB).
- Một người Việt biểu tình tại Thiên An Môn (Quê Choa).
- KTS Trần Thanh Vân: ĐÔI LỜI TÂM SỰ VỚI CÁC BẠN TRÍ THỨC (BoxitVN).
Đại hội Đoàn toàn quốc lần X bắt đầu làm việc (TT). Không biết có màn báo công đã huy động đoàn viên trấn áp biểu tình?
- Có đúng TQ phê nhau về hộ chiếu lưỡi bò? (Nguyễn Vĩnh).
- Đinh Kim Phúc: Ai chủ trương không phản biện Trung Quốc về Biển Đông? (BS). – Đinh Thế Huynh muốn sửa Lịch sử thành: “HAI BÀ TRUNG CHỐNG GIẶC … LẠ” (QLB).
- Đại kế hoạch có chủ ý của Bắc Kinh (TVN).
- Sự thật về thông tin ‘tàu dầu khí Việt Nam’ bị chìm ở Biển Đông (Petrotimes). Báo PetroTimes không hề nhắc tới bài gốc, xuất phát từ trang Quân sự Luận đàn của Trung Quốc, với mục đích đe dọa Việt Nam, mà chúng tôi đã đưa tin trong tuần qua. Mời xem thêm nội dung bài báo tiếng Trung, nơi đầu tiên tung tin này: Chấn động toàn cầu: Giải phóng quân kiên quyết đánh chìm tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam (BoxitVN).
Đà Nẵng: Xây dựng “mật danh” cho tàu cá (DV). - Tàu cá lại chìm ngay tại cửa biển Sa Huỳnh (DV).
- 30 năm Công ước Luật Biển (VNN). “… quốc gia ven biển có quyền chủ quyền thăm dò, khai thác, bảo quản tài nguyên; quyền tài phán đối với nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, lắp đặt và sử dụng các thiết bị, công trình. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và hàng không; quyền tự do đặt cáp và ống dẫn ngầm”. - UNCLOS: “Hiến pháp đại dương”- từ nhận thức đến thực thi (ĐĐK).
2- Hoãn tổ chức Hội nghị 4 nước ASEAN về Biển Đông (TTXVN/ HQ). – Ngoại trưởng Indonesia: Cần đối thoại về vấn đề Biển Ðông (VOA). =>
Indonesia cảnh báo tình trạng “ăn miếng trả miếng” ở Biển Đông (Petrotimes). - Bắc Kinh tập trận bắn đạn thật ở biển Đông (TN).
4 chiến hạm Trung Quốc tiến sát lãnh hải Nhật Bản (DT). - Tàu chiến Trung Quốc tuần tra Senkaku/Điếu Ngư (ANTĐ). - Bốn tàu chiến Trung Quốc đi sát vùng biển Nhật (TN). - TQ muốn chạy đua vũ trang để làm sụp đổ nền kinh tế Nhật Bản? (GDVN). - Philippines ủng hộ Nhật tái vũ trang (PLTP).
- Nhật, Ấn: Lực lượng đối trọng trước tham vọng của TQ ở Biển Ðông (VOA). – Philippines ủng hộ Nhật Bản tái vũ trang làm đối trọng với Trung Quốc. (RFI).  - Philippines ủng hộ Nhật đối trọng với Trung Quốc (TT).
- Quy định đối với tàu quân sự nước ngoài đến Việt Nam (ĐĐK). – Quy định về tàu chiến nước ngoài thăm VN (BBC).
- Mỏ Cá Ngừ Vàng và Tê Giác Trắng đóng góp lớn vào sản lượng dầu khí (PetroTimes).
- Còn chỗ nào cho Nhân Dân? (RFA’s blog). “… nhìn ra biển, thấy Trung Quốc, nhìn lên núi, thấy Trung Quốc, nhìn qua đồng bằng, thấy Trung Quốc, nhìn lên tivi, thấy Trung Quốc, nhìn đâu cũng thấy Trung Quốc và Trung Quốc có thể đánh đập, bắt nạt, dày xéo, hành hạ Nhân Dân bất kì giờ nào. Nhưng nhà nước thì vẫn bắt tay, nói cười, hữu hảo với Trung Quốc, thậm chí làm tôi đòi cho nhà nước Trung Quốc. Vậy thì còn chỗ nào cho Nhân Dân dung thân?”. – Tẩy chay hàng Trung Quốc – được phép hay không? (RFA).
- Ngày nhân quyền thế giới – Nhân quyền cho dân tộc Việt Nam (DLB). – Hưởng ứng ngày quốc tế nhân quyền 10/12Gặp mặt kỷ niệm ngày quốc tế nhân quyền (Nguyễn Tường Thụy). – Sống đúng quyền con người của mình : Ước mơ của tuổi trẻ Việt Nam nhân Ngày quốc tế nhân quyền. (RFI).
- Ngày Nhân quyền Quốc tế, Nhân quyền tại Việt Nam? (RFA). “Blogger chúng tôi cũng có những trăn trở bởi đôi khi ý kiến chúng tôi không trùng với ý những người cầm quyền nên đôi khi sẽ gặp khó khăn. Những gì chúng tôi viết đều là công khai. Nếu chính quyền thấy chưa đúng thì đối thoại. Nhưng những tâm tư của chúng tôi đối với đất nước thì phải được tôn trọng”. - Về Bản Tuyên cáo tình hình Nhân quyền và Đất nước (RFA).
- Nhân quyền VN ‘tụt hậu so với Miến Điện’ (BBC). Việt Nam dường như đang đi ngược lại về nhân quyền, theo hướng đàn áp hơn – và câu hỏi cho Việt Nam là liệu họ sẽ tụt lùi tới đâu về nhân quyền trước khi họ bắt đầu bị cộng đồng quốc tế nêu đích danh như là một quốc gia mới tại ASEAN có vấn đề về nhân quyền”.
- Ban Tôn giáo Chính phủ đã tiếp đại diện Liên Hội đồng Giám mục Á châu:  Đời sống tâm linh của Việt Nam rất tốt (QĐND). Không tin hỏi các quan chức coi ham cúng bái, coi bói, giải hạn, trấn yểm … nhiều tới đâu là biết thôi mà.
Sửa đổi Hiến pháp: Tạo điều kiện cho người dân thực thi tự do làm … NÔ LỆ?  (PLTP). - Đẩy nhanh tiến độ cải cách tư pháp (PLTP).
- Trả lời chất vấn qua văn bản: Chính phủ không chủ trương ban hành chính sách gây hại cho dân (TP). Miệng quan trôn trẻ!
- Hà Đình Sơn: NHÂN DÂN NÀO CHÍNH QUYỀN ẤY (BoxitVN).
- Trần Trung Đạo: Về Nghị quyết hạn chế các phái đoàn quan chức cộng sản VN của các thành phố Garden Grove, Santa Ana và Westminster, California (RFA’s blog).
- Vinh danh “Ngày Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam” lần 2 (RFA).
- Internet Việt Nam, từ phát triển hạ tầng đến tài sản dữ liệu thông tin - Bài cuối: Quản internet phải bằng tư duy 3.0 (SGTT).
- Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: VietNamNet phải giữ bản sắc (VNN). “… đây là một tờ báo chính trị xã hội, thuộc Bộ Thông tin – Truyền thông, cơ quan có chức năng định hướng dư luận xã hội và quản lý báo chí…” - Tìm hiểu phá sóng truyền hình vệ tinh (BBC).
VN diễn tập chống bạo loạn hàng không (BBC).
- 10 sự kiện tiêu biểu nhất của năm 2012: TOP TEN 2012 (Sơn Thi Thư).
- Minh Diện: GÁNH NẶNG NỢ VỚI MÁU ĐÀO (Bùi Văn Bồng).
- Hà Nội phản ứng sao sau vụ công chức 100 triệu? (Trương Duy Nhất). – Nói ‘không’ với phong bì, nhưng nhận thì… vẫn nhận (ĐV). – Bùi Tín: ‘Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm’ (VOA’s blog). Nếu như quý vị không làm thất thoát 200 ngàn tỷ đồng qua các công ty quốc doanh do quý vị điều hành, nếu quý vị không tham nhũng, chia nhau bỏ túi 20% ngân sách hàng năm thì đường sá ta đã đàng hoàng, nền giáo dục ta đã có chất lượng, người bệnh ta được chữa chạy tốt, và cuộc sống toàn dân ta đã khá.” Công chức Hà Nội có khả năng nhịn đói 3 năm? (PN Today).
Kiểm điểm 33 lãnh đạo xã bỏ học (TP/NLĐ).
- Bộ trưởng Đinh La Thăng làm chủ tịch quỹ bảo trì đường bộ (Gafin). – Hãy đè đầu ông Thăng mà thu phí! (Trương Duy Nhất). “Đường hỏng không phải vì quá tải mà bởi chất lượng tồi, chất lượng ma thì đối tượng bị thu phí phải là nhà đầu tư, là quan chức giám sát quản lý, là Đinh La Thăng chứ không phải người dân. Hãy đè đầu ông Thăng mà thu phí!” - Ổ gà lổn nhổn, nứt chằng chịt trên đường sắp thu phí (PN Today). - Thu phí bảo trì đường bộ từ ngày 1-1 – 2013: Nhiệm vụ bất khả thi (TP). - Tăng phí cũ, thu phí mới – Kỳ 2: Tiền của dân phải được chi công khai (TN). - Bộ GTVT lên tiếng về thu phí đường bộ (DV).
7<- Góc biếm họa (TT). - Ngân hàng Thế giới kêu gọi Việt Nam có hành động kiên quyết trước những thách thức kinh tế (RFI). – Việt Nam cần ‘giải pháp quyết đoán’ (BBC).  – “Nền kinh tế đang mất đi một số động lực” (Infonet). - Đông quan họ ‘hứa’ (Petrotimes).
- Bàn kế hoạch bỏ phiếu tín nhiệm (VNN).
Phải xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh (LĐ). - Thảo luận cách thức lấy phiếu tín nhiệm (TN). - Phiên họp thứ 13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Cho ý kiến hướng dẫn lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm (SGGP). - MTTQ sẽ “đặt hàng” chuyên gia giám sát, phản biện chính sách (DT). - Ra chính sách mới, phải nghe ý kiến nhân dân (DV).
- Nghị quyết về giải quyết khiếu nại vấn đề đất đai (VOV). - Một mét vuông đất bằng một quả… trứng gà (TN). - Thu hồi 29 dự án chậm bồi thường (TN).
Nghệ An: Được cấp sổ đỏ sau 20 năm kêu kiện (LĐ). - Bất cập nhà ở cho người có thu nhập thấp (LĐ).
Quảng Trị: Viện trưởng Viện KSND tỉnh không nghỉ hưu (LĐ). - Bình Thuận: Phê bình hai chủ tịch huyện buông lỏng quản lý đất đai (LĐ).
- GS Đặng Hùng Võ: Bài học Văn Giang và những kiến nghị (TVN). Tiếp theo phần một đã đăng bữa qua: 1455. Giáo sư Đặng Hùng Võ nói lại về vụ Văn Giang.

- Xài Tiền Của Ông Bà (DĐCN). “Quê hương mình đang xài tiền của ông bà mình. Và chưa thấy làm ra bao nhiêu tiền cho hàng con cháu về sau. Gần nhất là có một ông trí thức tuyên bố rằng ông tự hào vì thế hệ của ông đã múc cạn dầu, đốn sạch rừng, cày hết màu mỡ ruộng đất, vét cạn cá tôm… để thế hệ con cháu phải tự hào ra sức học, vì không còn gì để cào cấu mà ăn nữa”.
- Vị “tướng” và con gà (DV). – Bài trên blog: Con gà và vị tướng (Đào Tuấn). “Chúng ta đang chi ngoại tệ để nhập lậu đồ thải từ Trung Quốc. Mà đồ thải, nói gì thì nói, là thứ người ta bĩnh vào toa lét để xối nước… ”
- Buồn (NNVN). “Nếu Bộ trưởng giáo dục chứng kiến cảnh nhiều thày cô giáo mới ra trường phải bỏ ra hàng chục triệu để chạy chỗ dạy học, thì sẽ thấy buồn về thực trạng tuyển dụng giáo viên ở nhiều địa phương.”.
-Thả con cá rô, bắt con săn sắt (NCĐT/ the Box). “Martin Fraser, một nhà báo người Mỹ, bạn của tác giả, đã quyết định không đến Hạ Long. Lý do thật bất ngờ. Thay vào đó anh sẽ đi Phuket trong tháng 1.2013, vì lý do an toàn và vì cũng không đồng tình với quyết định tăng lệ phí thị thực nhập cảnh (visa) của Việt Nam”.
3- NHỮNG TỜ BÁO THÂN CHÍNH PHỦ BẮT ĐẦU RUN… (Phạm Viết Đào). “Sau khi Hồng Beo, TBT báo Thể thao TPHCM, một blogger công khai phò tá, cổ súy cho đồng chí X. và cả gan diễu nhại những đối thủ của đồng chí X. một cách công khai, ngoa ngoắt bị hạ thủ; theo tin vỉa hè thì sắp tới TBT tờ Cựu chiến binh một tờ báo có thiên hướng thân Chính phủ cũng sẽ về vườn…”  - Người chống tham nhũng bị trù dập?  (KTNT). Cũng chính là người bị cho là “run” – TBT Trần Nhung =>
Diễn tiến mới trong vụ tham nhũng tiền nhựa polymer ở Úc (VOA). - Kiểm lâm Thanh Hoá đề nghị phóng viên ‘ủng hộ’ (NĐT). - “Tóc” dân dễ nắm (TN). - Một giám đốc bị giang hồ đất Cảng cạo đầu 3 chỏm (DV).  - Bắt chấp hành viên thi hành án tham ô tài sản (TN).
- Bị người Trung Quốc lừa đảo, một phụ nữ tự tử (TP). - NHỨC NHỐI NẠN “ĐÓNG HỤI CHẾT” CHO CSGT TRÊN QL20 – BÀI 2  Điệp khúc: “Sếp ơi, cho em gửi tháng!” (PLTP). - Tống tiễn mãi lộ! (PLTP).  - Tình tiết mới vụ kiện đánh bạc thắng 55 triệu USD (TT).
Thủy điện đe dọa vườn quốc gia Yok Đôn (TT). - Bắc Trà My lại rung chấn (TN). - Lo ngại đới đứt gãy (TN).
- EU nhận giải Nobel Hòa bình 2012 (VOA). – Giải Nobel không thoát khỏi chính trị (BBC).
- Tại Trung Quốc, một nữ sinh Tây Tạng 16 tuổi tự thiêu (RFI). – Thiếu nữ Tây Tạng 17 tuổi qua đời sau khi tự thiêu (VOA). - Trung Quốc chận bắt hàng ngàn dân làng lên Bắc Kinh khiếu kiện nhân ngày Quốc tế Nhân quyền (RFI). – Cậu học sinh 15 tuổi thách thức Bắc Kinh về môn học tẩy não (RFI).
- Tập Cận Bình thăm đặc khu Thẩm Quyến, khẳng định thúc đẩy cải cách kinh tế Trung Quốc (RFI).  - Trung Quốc quay lại quỹ đạo tăng trưởng (DV). - Công khai tài sản quan chức, Giám đốc CA mất chức vì lộ bồ nhí song sinh (TP).
Internet ở Triều Tiên (VNE). - Bình Nhưỡng thừa nhận trục trặc tên lửa phóng (TN). - CHDCND Triều Tiên: Kéo dài thời gian phóng vệ tinh đến 29-12 (PLTP). - Iran bị tố cáo hợp tác với Bắc Triều Tiên chế tạo tên lửa và vũ khí hạt nhân. (RFI). – Bắc Triều Tiên sẽ phóng hỏa tiễn vào ngày 29/12 (VOA). – Bắc Triều Tiên nới rộng thời gian phóng tên lửa đến ngày 29 tháng 12 (VOA). – Triều Tiên thay thế tầng tên lửa bị lỗi (ĐV). – Nhật tuyên bố báo động cao trong dịp Triều Tiên phóng tên lửa (GDVN). – Thúc Triều Tiên trả nợ (TTXVN).
Tổng thống Nga không muốn làm sống lại Liên Xô (VOA).
- Lãnh đạo một tổ chức phi chính phủ bị trục xuất khỏi Lào (RFI).

- Mỹ quân tử hơn Tàu (Nguyễn Thông). “Chỉ có điều, với các kẻ thù cũ, người nắm quyền chính ở xứ ta bộc lộ những ứng xử mâu thuẫn, nếu không nói là rất không bình thường, không thể hiện được lòng dân, sự minh bạch, cao cả của nhân dân”.
“Đánh đấm” mạnh, ông Trần Nhung bị “trả thù”? (Thanh tra). “Có dư luận cho rằng, do ông Trần Nhung ‘đánh đấm’ mạnh quá, trong đó có vụ việc của bà Đặng Thị Hoàng Yến, nên bị các đối tượng quay ra ‘tấn công’ lại.” Sao không thấy kể luôn vụ này để giúp“các cơ quan chức năng sẽ sớm làm rõ”: Vụ thương binh làm “loạn” Viện Hán Nôm: Báo Quân đội Nhân dân và báo Cựu chiến binh “đồng loạt ra quân” (BS). – Về thông tin liên quan tới Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện trên CCB Việt Nam online (CCB).
- Nhiều công trình đê biển, cầu cảng sụp đổ: Vẫn chưa xác định ai chịu trách nhiệm (TT).
KINH TẾ
- Vốn ODA cam kết cho Việt Nam năm 2013 gần 6,5 tỷ USD (Gafin). – Việt Nam tiếp tục nhận được tài trợ 2,6 tỉ USD từ Nhật Bản (GD&TĐ). – Làm sao giải ngân nguồn vốn ODA cho hiệu quả? (TTXVN).
- Thủ tướng: Sẽ xử lý nghiêm các vi phạm tại ngân hàng thương mại (Gafin). – Giao dịch liên quan của ngân hàng: “Tảng băng chìm” cần được bóc tách (Vietstock). - Tiền mặt đang làm nền kinh tế quá tải! (Petrotimes).
- Chọn mô hình xử lý nợ xấu (Vietstock). – Mua bán nợ: Tắc nghẽn do nhiều rào cản (VinaCorp).
- BĐS mạnh tay xả hàng tồn cuối năm (VinaCorp). – Bộ trưởng Vương Đình Huệ: Sẽ có gói giải pháp tài khóa “phá băng” BĐS (Vietstock). – Nhà giàu “đang khóc” (SGĐT). – Năm 2013: Bất động sản sẽ rẻ hơn giá thành (TP). – Thiếu hàng chục triệu mét vuông nhà ở (ĐT/ Vietstock). - “Rã đông” bất động sản bằng lãi suất (PLTP). - Đồng loạt hô hào cứu BĐS vào 2013 (VEF).
5<- Trung Nguyên vs Nestlé: Cuộc chiến cà phê hòa tan (ĐTCK/ Vietstock). – Starbucks vào Việt Nam: Thì sao! (CafeF). - Người trồng cà phê tiếp tục lao đao (DV).
- NVB: Vợ ông Đặng Thành Tâm đăng ký thoái toàn bộ hơn 14,82 triệu cổ phiếu (CafeF).
- Nhiều ngành tiếp tục hứng chịu khó khăn (Vietstock). - Ngành than thất thu khiến GDP giảm 3% (DV).
Ôtô, xe máy ế ẩm (TT).
- Thu hồi giấy phép mạng ảo của Đông Dương Telecom (Vietstock). – Công ty sui gia Thủ tướng bị rút giấy phép (DLB).
Hàng hiệu Ý gian lận: Nhân viên áp tải nhận diện chủ hàng thật sự (TN).
Mưu sinh từ đồng vốn nhỏ – Kỳ 15: Triệu phú gà tây (TN). - Giày da, điện tử thưởng cao nhất hai tháng lương (PLTP). - Thị trường lịch năm 2013: ‘Tung’ nhiều mẫu mới để hút khách (Petrotimes).
- TTCK: Khi niềm tin bị rẻ rúng (Vietstock).
- Giết mổ gia cầm, thu nhập… khủng (NĐT).
- Hoa Vi mở trung tâm nghiên cứu và phát triển ở Phần Lan (RFI).
- Trung Quốc có thể soán ngôi kinh tế của Mỹ trước cuối năm 2030 (VOA).

- Đường sắt Nhổn – ga Hà Nội: Đề nghị rà soát lại các gói thầu (TT).
VĂN HÓA-THỂ THAO
- 228. THÁP BÁO ÂN (Vsk).
Xây kè bảo vệ phố cổ (LĐ).
“Cần thay đổi cái nhìn về thời kỳ thuộc địa” (SGTT).
- Truyền kỳ về đôi giếng thiêng và chuyện rắn trả ơn người (GDVN).
Ký ức Mùa Ðông (Người Việt).
- Mạc Mạc: HÓA TÌNH (Nguyễn Trọng Tạo).
- Nguyễn Thị Bích Kiều: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ NGÔ MINH (Nguyễn Trọng Tạo).
Vĩnh biệt một tài hoa hát bội (TN).
Đêm nhạc tri ân nhạc sĩ Phạm Duy (TN).
6- NSƯT Minh Hằng: “Thà đứng trong bóng tối còn hơn phải… cởi’” (DT). “Theo quan điểm của tôi, phim hay không nhất thiết phải cảnh nóng”, mà phải nhiều cảnh “mát”, như tắm, bơi, cởi… ?  =>
Hãng Phim truyện Việt Nam – Tồn tại hay là chết? (Infonet). - Văn học và điện ảnh dưới mắt nhà văn Nguyễn Thị Minh Ngọc (TT).
Truyền hình thực tế đang “đuối” (TN). - Thi hát trên truyền hình: Thí sinh chỉ là “con rối”! (DV).
- Động lớn và đẹp nhất Việt Nam: Kì ảo tựa thiên đường (DV).
Bí ẩn bức tượng tự đứng lên ngồi xuống ở Hải Phòng (DV).
- Nữ ca sĩ Jenni Rivera thiệt mạng trong tai nạn máy bay (VOA).
- TTK Ngô Lê Bằng “cạch” chức trưởng đoàn ĐTVN đến già (VNN). - Bóng đá Việt loay hoay tìm lối thoát (TT). - Vá víu để nuôi dưỡng cái xấu (PLTP).

- Giải B, Giải thưởng Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh VN: Bức ảnh “Học đánh chiêng” gây tranh cãi (TTVH).
- Truyền hình thực tế – Từ sàn diễn đến cuộc đời – Kỳ 3: Khổ luyện (TT).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Tăng cường giáo dục ĐH giữa Việt Nam và Ireland (GD&TĐ). – Tương lai mới cho quan hệ giáo dục Việt Nam – Ireland (GDVN).
- Bộ GD-ĐT sẽ “buông” kỳ thi tốt nghiệp THPT (TN). - Giảm môn học bắt buộc, tăng môn học tự chọn (TN). - Đề xuất giảm môn học phổ thông (TT). - Thiếu nguồn lực để đổi mới giáo dục phổ thông (PLTP).
Bàn đổi mới chương trình, SGK phổ thông (VNN). - Xuất bản sách tiếng Anh giới thiệu về giáo dục Việt Nam (PLTP).
- Công bố danh sách GS, PGS năm 2012 (GD&TĐ). - Thêm 41 giáo sư và 426 phó giáo sư (SGGP). - Khi đào tạo thạc sĩ trở thành phong trào? (VNN). - Đặc cách xét chức danh giáo sư trẻ nhất năm 2012 (ANTĐ).
- Sinh viên mua điểm mùa thi: 200 nghìn = 6 điểm (GDVN). “Năm trăm nghìn thì được 10 điểm, bốn trăm nghìn thì được 9 điểm, ba trăm nghìn thì 8 điểm em nhé!
5<- Bằng giả giá “bèo” ê hề khắp cả nước (GDVN).
Giáo viên tiếng Anh: mới đạt một nửa nhu cầu (TT).
Đề xuất sửa nhiều chính sách về học phí (TN).
Giảng dạy thêm nhiều kỹ năng mềm (TN).
- Nên cho trẻ học gì? (GDVN). - Đừng xem nhẹ cơn stress ở trẻ! (SGTT).
- Chàng sinh viên nghèo và khát vọng từ những que tăm (GDVN). - Chàng sinh viên khiếm thị bán vé số nuôi ước mơ (DT).
Không hoàn thành nhiệm vụ, không được dạy thêm (TT). - Vô vọng đường đến bục giảng: Khánh kiệt vì… thầy (DV).
- Phát hiện loại nấm chữa ung thư (NLĐ/ DV).
- Điều trị ung thư vú bằng cách đóng băng khối u (Telegraph/ ĐV).
- Mẹ hút thuốc lá, con bị viêm màng não (ĐV).
- Điều chưa biết về dấu vân tay (TN).
“Ba mặt trời” cùng xuất hiện, báo hiệu “ngày tận thế”? (DV).

- Chương trình phổ thông sau năm 2015: Vẫn 12 năm nhưng số môn ít hơn (TP).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Đừng để người bệnh khổ thêm (TT).
- Tiếp tục hỗ trợ 3,5-4 triệu đồng khi hỏa táng (ĐV).
“Gửi gắm” con cho trời, cho người dưng (Người Việt). - Về gia đình có hủ tục mẹ cắn đứt ngón tay con sơ sinh (DT). - Cảm phục nghị lực phi thường của 2 trẻ mồ côi đồng bào Rục (GDVN).
- Làm gì khi bị tấn công bằng kim tiêm? (DV). - “Cấy” bệnh cho chồng vì mua “thần dược” trứng ung (NĐT). - “Sốt” với hình vẽ trên bụng “bà bầu xì tin” (NĐT). - Những bãi nhậu…”chân đất” (ĐV). - Cả khu phố đau đầu vì trộm vặt (PLTP).
- 4/5 loại thực phẩm của bánh mì Đồng Tiến nhiễm vi sinh vượt mức (TN). – Cà chua chín đẹp nhờ thuốc sâu (LĐ/ Infonet). - Niêm phong 5 tấn thức ăn gia súc (TN). - Từ ngày 20-1-2013: Siết chặt quản lý thức ăn đường phố (SGGP).
- VN-Nam Phi ký thỏa thuận bảo vệ tê giác (BBC). – Việt Nam, Nam Phi ký thỏa thuận về tê giác (VOA).  - 70% số sừng tê giác ở Việt Nam là giả (DV).
Bảo tồn cây thuốc xáo tam phân (TT).
- Thành phố Vinh “rung lắc” do động đất (DT). – Động đất 4,6 độ Richter gần biên giới Lào-Việt Nam (TTXVN).
8Áp lực tết đến (SGGP). - Nghẽn mạng… vé tàu tết (TN). - Ngày đầu triển khai bán vé tàu tết qua mạng – Mạng “treo” (SGGP). - Mạng bán vé tàu Tết “sập” do 20.000 tài khoản đầu cơ? (DT). - Phát khùng vì mua vé tàu (TT). =>
Nghề phá nhà! (Petrotimes). - Chuyện người đàn ông mù đan vạt giường (SGTT).
Xót xa và bất bình bên cây cầu tử thần “nuốt” bé gái 5 tuổi (DT).
- Trung Quốc: Chênh lệch giàu nghèo đứng hàng đầu thế giới (Infonet/ CafeF). - Câu chuyện “Bé Duyệt Duyệt” lại tái hiện (DV).
- Nhiều triệu người tại các nước đang phát triển không đăng ký khai sinh (VOA).
- Hơn 800 người mất tích vì bão Bopha ở Philippines (VOA).
Nếu ngày mai là ngày tận thế (PN Today).
Động đất 7,2 độ Richter ở Indonesia (TT).

- Ký sự cực Tây Tổ quốc: Ở lại đỉnh trời Tả Ló San (NNVN).
QUỐC TẾ
- Phe đối lập Ai Cập bác bỏ kế hoạch trưng cầu dân ý (VOA). – Tổng thống Ai Cập cho phép quân đội trấn áp đối lập. (RFI). – Quân đội Ai Cập được quyền bắt người (VOA). - Tổng thống Ai Cập tăng quyền cho quân đội (TN). - Ai Cập: Phe đối lập phản đối trưng cầu hiến pháp (LĐ).
- EU, phe đối lập Syria chuẩn bị hội đàm (VOA). - Israel “triển khai đặc nhiệm sang Syria” (TN). - Kền kền làm gián điệp cho Israel bị bắt tại Sudan (GDVN). - Hoàng tử Harry có thể lái Apache tham chiến tại Syria (GDVN). - Iran “giải mã hết bí mật” UAV Mỹ (TN). - EU kêu gọi gây thêm áp lực đối với Syria (VOA). - Cái kết nào cho ván bài Syria? (SGGP).
Li-băng cố ngăn không để xáo trộn ở Syria lan sang nước mình (VOA).
- Một quân nhân Mỹ thiệt mạng trong vụ giải cứu ở Afghanistan (VOA). – Giới chức đặc trách vấn đề phụ nữ Afghanistan bị ám sát (VOA).
- Bạo động giáo phái gia tăng ở Pakistan (VOA).
- Tổng thống Obama, Chủ tịch Hạ viện bàn về ‘bờ vực tài chính’ (VOA). - Mỹ sắp đóng xong tàu ngầm kiểu mới (Người Việt).
Mỹ có ngăn được giấc mộng cường quốc của Nga? (Petrotimes).
- Châu Âu lo ngại khủng hoảng chính trị tại Ý (RFI).
- Bầu cử quốc hội Romania: Phe trung tả giành chiến thắng (VOA). – Bầu cử Rumani : Liên minh cầm quyền giành thắng lợi lớn (RFI).
9<- Tổng thống Ghana tái đắc cử, phe đối lập tố cáo gian lận (VOA).
- Chính phủ, phiến quân Cộng hòa Dân chủ Congo khởi sự đàm phán (VOA).
- Tổng thống Venezuela Hugo Chavez lo chuyện ‘hậu sự’ (ĐV).
- Vụ kiện cựu tổng Giám đốc IMF ở Mỹ có thể sắp kết thúc (VOA). - Cựu lãnh đạo IMF dàn xếp vụ kiện tấn công tình dục (VOA). - Xả súng tại Mỹ, 5 người chết (TN).
- Cuộc đời huyền thoại Nelson Mandela qua ảnh (VNN).
- Hitler đã ‘sập bẫy’ Stalingrad như thế nào? (ĐV).
- Sáng lập viên hãng bảo mật McAfee muốn được về Mỹ (VOA).

* VTV1: + Chào buổi sáng – 10/12/2012; + Tài chính kinh doanh sáng – 10/12/2012; + Tài chính kinh doanh trưa – 10/12/2012; + Thời sự 12h – 10/12/2012; + Cao Bằng: Tai nạn thảm khốc tại đèo Kéo Pựt; + Tạm giữ gần 10 tấn hàng không rõ nguồn gốc; + Chế tạo xăng từ nước và không khí -10/12/2012.

 1457. TÌNH BÁO MỸ

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Bảy,ngày 8/12/2012

TÌNH BÁO MỸ

(Paul R. Pillar, tạp chí Foreign Policy)
Tôi đã phục vụ cho CIA trong 28 năm và tôi có thể nói với các bạn: những vụ lộn xộn của Mỹ xuất phát từ những nhà lãnh đạo tồi, chứ không phải từ những điệp viên chẳng ra gì.
“Tổng thống ra các quyết định dựa trên tin tức tình báo”.
Không phải là những quyết định lớn.
Từ việc George W.Bush loan báo ầm ĩ nhũng báo cáo vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) về Irắc cho đến việc các ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Cộng hòa vào năm nay thề định ra chính sách ở Ápganixtan dựa trên những đề xuất của cộng đồng tình báo, người Mỹ thường có cảm giác rằng sự kiểm soát của các nhà lãnh đạo của họ được chỉ dẫn ở nước ngoài bởi bộ máy gián điệp nổi tiếng của họ. Trên hết, mỗi năm Mỹ chi khoảng 80 tỷ USD cho tình báo, mà mang lại rất nhiều sự chỉ dẫn quan trọng hàng tuần về các vấn đề từ truy lùng những kẻ khủng bố đến chống lại những khả năng quân sự đang tăng lên của Trung Quốc. Phân tích này cho biết việc ra quyết định hàng ngày của các nhà hoạch định chính sách và đôi khi khiến họ nhìn vào các vấn đề một cách kỹ lưỡng hơn, như mối đe dọa đang nổi lên từ al-Qaeda vào cuối những năm 1990, so với những gì mà mặt khác họ sẽ làm.
Tuy nhiên, về các quyết định chính sách đối ngoại lớn, dù là tiến hành chiến tranh hay suy nghĩ lại tổng thể chiến lược của Mỹ ở Thế giới Arập (như Tổng thống Obama có lẽ là đang làm hiện nay), tình báo không phải là nhân tố quyết định. Những ảnh hưởng thực sự quan trọng là những ảnh hưởng mà các nhà lãnh đạo đưa cùng với họ vào cương vị của mình: giác quan chiến lược của chính họ, những bài học họ đã rút ra được từ lịch sử hay kinh nghiệm cá nhân, những đòi hỏi chính trị trong nước, và chứng bấn loạn của chính họ. Một bản ghi nhớ hay thông báo tình hình xuất phát từ một nơi nào đó không quen thuộc trong bộ máy quan liêu khó có thể có cơ hội.
Hơn nữa, không bao giờ nên đánh giá thấp ảnh hưởng của sự hiểu biết thông thường. Tổng thống Lyndon B.Johnson và nhóm giật dây của ông đã nhận được những đánh giá ảm đạm của cộng đồng tình báo về khả năng của Nam Việt Nam tự đứng vững, cũng như những báo cáo tương đối bi quan từ các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ về cam kết có thể có về tiền bạc và thời gian của một nỗ lực quân sự của Mỹ ở đó. Nhưng họ đã không vượt qua được học thuyết đôminô – ý tưởng cho rằng nếu miền Nam Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản, thì một loạt các nước khác ở thế giới đang phát triển cũng sẽ như vậy. Tổng thống Harry Truman đã quyết định can thiệp vào Triều Tiên dựa trên những bài học của quá khứ: thất bại của phe Đồng minh trong việc chống lại các cường quốc trong trục Béclin, Rôma, Tôkyô trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai và sự thành công thời hậu chiến của phương Tây trong việc đáp trả quyết liệt sự xâm lược của chủ nghĩa cộng sản ở Ai Cập và Béclin. Sự mở cửa lịch sử với Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon đã được định hình bởi sự nghiền ngẫm của ông trong thời gian mờ nhạt trên chính trường về chiến lược nước lớn và chỗ đứng của ông ở trong đó. Sự khua chiêng gõ trống của Chính quyền Obama gần đây về Iran phần lớn là chức năng của công việc chính trị trong nước. Lời khuyên từ Langley, cho dù tốt hơn hay tồi tệ hơn, hầu như chẳng liên quan gì đến bất cứ điều nào trong số này.
“Tình báo tồi đã dẫn đến chiến tranh Irắc”.
Không, sự lãnh đạo tồi tệ đã dẫn đến điều đó.
Tình báo có thể đã hiển hiện rõ trong việc Bush thuyết phục về cuộc xâm lược Irắc, nhưng nó hầu như không có một vai trò nào trong bản thân quyết định này. Nếu những đánh giá của cộng đồng tình báo chỉ ra được bất cứ tiến trình hành động nào, thì đó là tránh chứ không phải phát động một cuộc chiến tranh.
Khi Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell ra trước LHQ vào tháng 2/2003 để dùng lí lẽ ủng hộ một cuộc xâm lược Irắc, ông đã lập luận: “Saddam Hussein và chế độ của ông ta đang che giấu những nỗ lực của họ trong việc chế tạo nhiều vũ khí hủy diệt hàng loạt hơn”, một nhận xét mà ông đã nói là “dựa trên tin tức tình báo chắc chắn”. Nhưng trong một cuộc phỏng vấn thẳng thắn 4 tháng sau đó, Thứ trưởng Quốc phòng Paul Wolfowitz đã thừa nhận rằng các vũ khí hủy diệt hàng loạt đơn giản là “một vấn đề mà mọi người có thể tán thành”. Cộng đồng tình báo không rung lên một hồi chuông báo động nào về chủ đề này khi Chính quyền Bush lên nắm quyền; quả thực, số xuất bản năm 2011 của tuyên bố toàn diện của cộng đồng này về những mối đe dọa trên khắp thế giới thậm chí không đề cập đến khả năng Irắc có các vũ khí hạt nhân hay bất cứ kho dự trữ vũ khí hóa học hay sinh học nào. Theo các nhân viên giữ các văn bản lưu, chính phủ không yêu cầu đánh giá tình báo tháng 10/2002 (cuối cùng có sai sót) về những chương trình vũ khí không thông thường của Irắc cái là trọng tâm của lập luận chính thức ủng hộ xâm lược – các đảng viên đảng Dân chủ trong Quốc hội đã yêu cầu và chỉ 6 thượng nghị sĩ và một số ít các hạ nghị sĩ chịu nhìn vào nó trước khi bỏ phiếu về cuộc chiến tranh này. Cả Bush lẫn Condoleezza Rice, khi đó là cố vấn an ninh quốc gia, đều đã không đọc bản đánh giá toàn bộ này tại thời điểm đó, và trong bất cứ trường hợp nào thì sự xuất hiện việc quảng bá rầm rộ về cuộc chiến tranh này đã diễn ra trước khi văn bản này được viết nên.
Nếu Bush đọc bản báo cáo của cộng đồng tình báo, thì ông đã nhận thấy lí lẽ ủng hộ xâm lược của chính quyền ông nằm ngay phía đầu. Các quan chức tình báo đã kết luận rằng không có khả năng Saddam sử dụng bất cứ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào chống lại Mỹ hay đưa chúng cho những kẻ khủng bố – trừ khi Mỹ xâm lược Irắc và cố gắng lật đổ chế độ của ông. Cộng đồng tình báo không tin, như tổng tống đã tuyên bố rằng chế độ Irắc là đồng minh của al-Qaeda, và cộng đồng này đã dự kiến chính xác bất cứ nỗ lực nào nhằm thiết lập chế độ dân chủ ở Irắc hậu Saddam đều là một công việc vất vả, hỗn độn.
Trong một đánh giá riêng rẽ trước chiến tranh, cộng đồng tình báo đã phán đoán rằng việc cố gắng xây dựng một hệ thống chính trị mới ở Irắc sẽ là “kéo dài, khó khăn và có thể gây náo loạn”, thêm vào đó là bất cứ nhà cầm quyền nào sau Saddam cũng đứng trước “một xã hội bị chia rẽ sâu sắc với một cơ hội đáng kể rằng các nhóm trong nước sẽ tham gia cuộc xung đột bạo lực với nhau trừ khi lực lượng chiếm đóng ngăn không cho họ làm như vậy”. Đáng chú ý là thiếu vắng những đề cập đến sự chào mừng của người Irắe đối với binh lính Mỹ, hay đến việc cuộc chiến tự trang trải. Không cần phải nói rằng không một điều nào trong số đó là quan trọng đối với Nhà Trắng.
“Những thất bại tình báo làm chính sách đối ngoại của Mỹ rối tung”.
Khó có thể như vậy.
Hồ sơ về những thất bại của tình báo Mỹ thế kỷ 20 là một hồ sơ quen thuộc, và gần như không thể bàn cãi. Nhưng liệu những thất bại – hay những sự thành công – này có ý nghĩa quan trọng trong bức tranh lớn này không là một câu hỏi khác.
CIA đã dự đoán sẽ xảy ra cả sự nổ ra lẫn hậu quả của cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967 giữa Ixraen và các nước Arập láng giềng, một kỳ công đủ gây ấn tượng tới mức nghe nói nó đã đem lại cho người đứng đầu cơ quan tình báo Richard Helms một chỗ tại bàn tiệc trưa thứ Ba của Tổng thống Johnson. Tuy nhiên, tình báo xuất sắc không thể giúp Johnson ngăn chặn cuộc chiến tranh mà đã tạo ra những diễn biến cơ bản của cuộc xung đột khó giải quyết giữa Ixraen và Palextin hiện nay, và cơ quan tình báo của Mỹ đã hoàn toàn không thể dự tính được cuộc tấn công bất ngờ của Ai Cập vào Ixraen 6 năm sau đó. Tuy nhiên, cuộc tấn công bất ngờ hiểm ác của Ai Cập vào năm 1973 không ngăn được Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger sau đó đạt được một chiến thắng ngoại giao, tận dụng cuộc xung đột này để củng cố các mối quan hệ với Ixraen trong khi phát triển chúng với Ai Cập và các nước Arập khác – tất cả gây phương hại cho các nước Xôviết.
Cơ quan tình báo Mỹ cũng nổi tiếng là đã không thể dự đoán được cuộc cách mạng Iran năm 1979. Nhưng chính sự không chú ý đến Iran của các nhà hoạch định chính sách và sự bất đồng mạnh mẽ bên trong Chính quyền Jimmy Carter, chứ không phải tình báo kém, đã ngăn không cho Mỹ đưa ra các quyết định cứng rắn trước khi chế độ của vua Ba Tư ở cận kề cái chết. Thậm chí sau những tháng hỗn loạn ở các thành phố Iran, Chính phủ Carter – bận tâm như nó là vậy với những cuộc đàm phán hòa bình Ai Cập- Ixraen và cuộc cách mạng Xanđinô ở Nicaragoa – vẫn chưa triệu tập bất cứ cuộc họp chính sách cấp cao nào về Iran, cố vấn an ninh quốc gia của Carter, Zbigniew Brzezinski sau này đã nhớ lại: “Chu trình ra quyết định của chúng ta đã bị quá tải nặng nề”.
Phân tích tình báo không hoàn chỉnh về một cuộc chính biến nữa sắp xảy ra – sự sụp đổ của Liên Xô – không quan trọng; ảnh hưởng bao trùm lên chính sách Mỹ đối với Liên Xô vào những năm 1980 là những bản năng của Ronald Reagan. Từ những ngày sớm nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, nhận định rằng Liên Xô không thể tránh khỏi thất bại – và sẽ sớm xảy ra – là một niềm tin vững chắc đối với vị tổng thống thứ 40 này. Sau này ông đã viết: “Người Nga có thể không bao giờ chiến thắng trong cuộc chạy đua vũ trang. Chúng ta mãi mãi có thể chi nhiều tiền hơn họ”.
“Tình báo Mỹ đã đánh giá thấp al-Qađea trước khi xảy ra sự- kiện 11/9”.
Không! họ không như vậy.
Như bất cứ cuộc tấn công khủng bố nào, sự kiện 11/9/2001, theo định nghĩa là một thất bại tình báo về mặt chiến thuật. Nhung cho dù các quan chức tình báo không nhận biết cuộc tấn công này, họ không phải không nhận thấy mối đe dọa này. Những năm trước sự kiện 11/9, cộng đồng tình báo, đặc biệt là CIA, đã dành sự chú ý và nỗ lực mạnh mẽ khác thường để hiểu tổ chức của Osama bin Laden. CIA đã lập ra một đơn vị đặc biệt tập trung vào bin Laden vào đầu năm 1996, khi al Qaeda chỉ mới bắt đầu có định hình như một nhóm khủng bố chống Mỹ, xuyên quốc gia mà chúng ta biết đến hiện nay. Vào năm 1998, Tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố rằng “chủ nghĩa khủng bố nằm ở hàng đầu chương trình nghị sự của Mỹ”, ông cũng đã đưa ra một chương trình hành động bí mật chống lại al Qaeda bao gồm việc phát triển các kế hoạch bắt giữ bin Laden; thậm chí trước cả vụ đánh bom các sứ quán Mỹ ở châu Phi vào năm 1998.
Khi các quan chức an ninh quốc gia của Clinton chuyến giao trách nhiệm cho những người kế nhiệm họ trong Chính quyền Bush, họ đã nhấn mạnh mối đe dọa mà sẽ trở thành hiện thực vào ngày 11/9. Sandy Berger, một cố vấn an ninh quốc gia sắp mãn nhiệm đã nói với bà Rice: Bà sẽ tiêu tốn nhiêu thời gian trong 4 năm của bà cho vấn đề khủng bố nói chung và al Qaeda nói riêng hơn bất cứ vấn đề nào khác”. Nếu nhiều điều hơn không được làm trước vụ 11/9 để chống lại mối đe dọa này thì đó là bởi vì việc tập hợp sự ủng hộ của công chúng cho bất cứ thứ gì giống như một cuộc chiến tranh ở Ápganixtan hay các biện pháp an ninh tốn kém, cồng kềnh ở trong nước xét về mặt chính trị là điều không thể có trước khi những kẻ khủng bố tấn công nước Mỹ.
Bằng chứng có căn cứ nhất về sự hiểu biết trước sự kiện 11/9 đối với chủ đề này của cộng đồng tình báo là cũng tuyên bố mối đe dọa toàn thế giới vào tháng 2/2001 đó chưa bao giờ đề cập đến các vũ khí hạt nhân hay kho vũ khí không thông thường của Irắc. Thay vào đó nó xác định chủ nghĩa khủng bố, và đặc biệt là al-Qaeda, là mối đe dọa số 1 đối với an ninh Mỹ – trên cả sự phổ biến các vũ khí hạt nhân, sự trỗi dậy của Trung Quốc, và mọi việc khác. Báo cáo nói Bin Laden và đồng bọn của hắn “là mối đe dọa trực tiếp nhất và nghiêm trọng nhất” và “có khả năng lên kế hoạch nhiều cuộc tấn công với rất ít hoặc không có cảnh báo nào”. Tất cả đều quá chính xác.
“Các quan tình báo cố chấp từ chối thay đổi”.
Bạn sẽ rất ngạc nhiên.
Sự chỉ trích các cơ quan tình báo Mỹ – ít nhất là theo kiểu không hoang tưởng – có xu hướng miêu tả họ như các bộ máy quan liêu trì trệ sử dụng quyền hoạt động bí mật rộng lớn của họ để bảo vệ chính họ khỏi sự giám sát khiến họ làm công việc của họ tốt hơn. Nhung đại đa số các cải cách tình báo có hiệu quả xuất phát từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài.
Những biểu đồ về tổ chức của CIA và các cơ quan tình báo khác của Mỹ đã phải trải qua sự xét duyệt thường xuyên và đôi khi quyết liệt, một sự thừa nhận sự cần thiết phải thích ứng với thế giới đang thay đổi nhanh chóng mà các cơ quan tình báo đang giám sát và phân tích. CIA đã sáp nhập các đơn vị phân tích bao gồm Đông Đức và Tây Đức với dự tính sự thống nhất nước Đức trước khi nước Đức được thống nhất vào năm 1990. Các biện pháp khác, như phát triển khả năng ngoại ngừ lớn hơn hay đào tạo các nhà phân tích về những kỹ thuật tinh vi hơn, là trung tâm của sự chú ý được tăng cường bên trong các cơ quan này trong nhiều năm. Sự thay đổi hiệu quả nhất và có lẽ là mang tính đổi mới nhất trong công việc chống chủ nghĩa khủng bố của cộng đồng tình báo là việc lập ra Trung tâm chống khủng bố của CIA vào năm 1986 – một thử nghiệm thành công đã phá vỡ bộ máy quan liêu, tập hợp lại những người thu thập thông tin, các nhà phân tích và các chuyên gia khác trước đây bị chia tách để làm việc sát cánh bên nhau.
Các cuộc cải cách được theo đuổi từ bên ngoài đã nhận được nhiều sự chú ý của dư luận hơn nhưng được hoàn thành ít hơn rất nhiều. Sau sự kiện 11/9, cộng đồng tình báo đã trải qua một cuộc tổ chức lại khi Quốc hội làm theo khuyến nghị của ủy ban 11/9 khiến cho tất cả các cơ quan tình báo có thể trả lời trước một giám đốc tình báo quốc gia duy nhất. Nhưng hành động này đã không được như hy vọng là thống nhất được cộng đồng tình báo, thay vào đó tạo ra một cơ quan nữa nằm chênh vênh bên trên 16 cơ quan khác. Bởi vì cả văn phòng giám đốc mới này lần Trung tâm chống khủng bố Quốc gia – một khuyến nghị nữa của ủy ban – đã thêm vào, thay vì thay thế, những chức năng hiện có của chính phủ, chúng đã làm rối hơn nữa những đường lối trách nhiệm. Việc này đã phần lớn được làm rõ khi kẻ sắp thành khủng bố Umar Farouk Abdulmutallab cố gắng làm nổ tung một chiếc máy bay chở hành khách đến Detroit vào ngày Giáng sinh năm 2009. Vụ việc đã dẫn đến cùng những hình thức tố cáo lẫn nhau như những vụ việc sau sự kiện 11/9, về việc thông tin không được tập hợp và sắp xếp đúng thứ tự, và các điểm không được kết nối – chỉ có lần này chúng được nhằm vào những sáng tạo của chính ủy ban 11/9.
“Tình báo đã trở nên tốt hơn kể từ sự kiện 11/9”.
Đúng như vậy, nhưng không phải vì những lí do như bạn nghĩ.
Dĩ nhiên là việc có một tấm séc đế trống thực sự trong một thập kỷ tạo nên một sự khác biệt. Sự bùng nổ lớn hậu 11/9 trong ngân sách tình báo – mà theo Ủy ban tình báo Thượng viện, đã tăng gấp đôi kể từ năm 2001 – ít nhất đã cải thiện đôi chút lợi thế của việc phát hiện ra mỏ vàng thông tin tiếp theo sẽ tạo điều kiện cho Mỹ có thể tiếp cận một âm mưu khủng bố lớn hay hạ gục kẻ xấu.
Nhưng chính một sự thay đổi mạnh mẽ và rõ ràng trong những ưu tiên của Mỹ sau sự kiện 11/9 đã tạo nên sự khác biệt nhất. Chống khủng bố, hơn bất cứ nhiệm vụ tình báo nào khác, phụ thuộc vào sự hợp tác chặt chẽ với các chính phủ khác, có sự hiểu biết trực tiếp quan trọng, cảnh sát địa phương và những quyền điều tra mà Mỹ thường thiếu. Trước khi có sự kiện 11/9, sự sẵn sàng hợp tác của những chính phủ đó thường là ít, đặc biệt là khi nó có nghĩa phá hỏng những lợi ích trong nước. Tuy nhiên, sau sự kiện 11/9, các quan chức Mỹ có thể đặt lên bàn những người đồng nhiệm nước ngoài của họ và nói rằng: “Lần này, chúng ta thực sự muốn nói lên điều
đó”. Có thể thấy rõ một số kết quả của sự thay đổi lớn này – nhũng sự thành công trong việc đóng băng hay tịch thu tài sản tài chính của những kẻ khủng bố. Nhiều kết quả khác về cơ bản là ít hơn thế. Sự thành công hay thất bại tương lai trong việc lần theo dấu vết những mối đe dọa như chủ nghĩa cực đoan bài Mỹ ở Nam Á tương tự sẽ phụ thuộc vào tình trạng các mối quan hệ Mỹ-Pakixtan hơn là vào việc thực hiện sự hỗ trợ của bộ máy hành chính ở Oasinhtơn.
Sự hợp tác trong số các cơ quan chống khủng bố của các chính phủ thường tiếp tục bất chấp những sự bất đồng về chính trị giữa bản thân các chính phủ. Tuy nhiên, cuối cùng thì sự hợp tác như vậy phụ thuộc vào thiện chí mà Mỹ được hưởng và sự lành mạnh của cảc mối quan hệ của nước này trên khắp thế giới. Khi sự kiện 11/9 lùi dần vào lịch sử, sự sẵn sàng chia sẻ thông tin của các nhà nước là một tài sản trống rỗng. Chúng ta đã nghĩ một cách xác đáng về tình báo như một sự trợ giúp quan trọng cho chính sách đối ngoại, nhung chúng ta cũng cần phải nhớ rằng chính sách đối ngoại tác động đến ngành tình báo nhiều như thế nào.
“Tình báo tốt có thể cứu chúng ta khỏi những sự bất ngờ tồi tệ”.
Chúng ta mong đợi như vậy.
Đầu tháng 2 năm 2011, chỉ 1 tuần trước khi phong trào Mùa Xuân Arập chấm dứt nhiệm kỳ tổng thống kéo dài 3 thập kỷ của Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak, Thượng nghị sĩ Dianne Feinstein, chủ tịch ủy ban tình báo Thượng viện, đã tra hỏi một quan chức CIA trong một phòng họp đồi Capitol. Feinstein đã nói với Stephanie O’Sullivan, khi đó là Phó giám đốc CIA: “Tổng thống, ngoại trưởng, và Quốc hội đang ra các quyết định chính sách về Ai Cập, và những nhà hoạch định chính sách đó xứng đáng có phân tích tình báo kịp thời. Tôi có những hoài nghi liệu cộng đồng tình báo có sống theo những nghĩa vụ của nó ở khu vực này không?”.
Feinstein khó có thể là người duy nhất chỉ trích sự bất lực của các cơ quan tình báo Mỹ trong việc dự đoán tốc độ mà theo đó ngọn lửa thắp lên bởi người bán hoa quả dạo người Tuynidi Mohamed Bouazizi, đã tự thiêu vào ngày 17/12/2010, sẽ lan rộng ra khắp thế giới Arập.
Nhưng tất cả các cuộc đại tu bộ máy và các ủy ban điều tra trên thế giới không thể thay đổi một thực tế không thể chối cãi: nhiều điều chúng ta muốn các cơ quan tình báo của chúng ta biết là quá phức tạp để có thể tạo khuôn mẫu hay dự đoán. Những gì cộng đồng này nên được mong đợi sẽ mang lại – và dựa trên bằng chứng có thể có được một cách công khai có giới hạn, thì rõ ràng là nó đã mang lại – là sự hiểu biết chiến lược về những điều kiện và thái độ mà, có được một tia lửa thích đáng, có thể bùng lên thành cuộc cách mạng phát triển đầy đủ.
Những lời buộc tội lẫn nhau và những đòi hỏi gần đây nhất chỉ là những gì mới nhất trong một dãy dài tính từ cuộc tấn công bất ngờ vào Chân Châu cảng năm 1941, Những nguồn tin đã tận tâm với ngành tình báo đã tăng đáng kể trong 7 thập kỷ qua, và các cơ quan tình báo đang tiếp tục tìm kiếm các cách để cải thiện cách họ làm việc. Nhưng không có một thay đổi nào trên biểu đồ phát triển có thể loại bỏ được những bất ngờ khó chịu và sẽ luôn luôn có những thách thức mới – đặc biệt là trong thời đại thông tin không ngừng được phổ biến.
Tình báo có thể giúp xử lý tình trạng không chắc chắn, xác định phạm vi của nó và định rõ cái gì có thể được biết đến và cái gì có thể vẫn không được biết đến. Nó có thể phân biệt tình trạng không chắc chắn thực sự với sự hoàn toàn không biết gì bằng việc thu thập một cách có hệ thống tất cả các thông tin sẵn có, nhưng nó không thể loại bỏ tình trạng không chắc chắn và nó không thể ngăn chặn tất cả sự bất ngờ, bao gồm cả những bất ngờ lớn. Các nhà lãnh đạo phải chấp nhận thực tế này: họ phải chờ đợi – và sẵn sàng – bị bất ngờ.
Với lời cám ơn thích đáng dành cho Ronald Rumsfeld, điều đó cũng có nghĩa là chờ đợi những điều chưa biết không được biết đến. Chúng ta sẽ không chỉ không biết được tất cả những câu trả- lời đúng đắn – chúng ta sẽ thậm chí không hỏi tất cả những câu hỏi đúng đắn./.

1458. NGUY CƠ TỪ VIỆC QUÂN SỰ HÓA HÀN QUỐC

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Bảy, ngày 8/12/2012

NGUY CƠ TỪ VIỆC QUÂN SỰ HÓA HÀN QUỐC

TTXVN (ttaoa 5/12)
Mạng tin “Nghiên cứu toàn cu” mới đây đăng bài của ông Gregory Elich, thành viên Ban giám đốc của Viện Nghiên cu Jasenovac (Jasenovac Research Institute) về nhữngn lực quân sự hóa Hàn Quốc của Mỹ và Chính quyn Lee Myung-bak với nội dung sau:
Với việc chỉ còn vài tuần nữa là đến cuộc bầu cử tổng thống tại Hàn Quốc, hiện có những nỗ lực để “khóa cứng” chính sách đối đầu với Bắc Triều Tiên. Khi Tổng thống Hàn QuốcLee Myung-bak lên nắm quyền 5 năm trước đây, ông đã không bỏ phí chút thời gian nào để đảo ngược mối quan hệ hữu nghị với Bắc Triều Tiên mà người tiền nhiệm của mình đã dày công xây dựng. Tất cả những ứng cử viên hàng đầu trong cuộc bầu cử tổng thống năm nay, kể cả bà Park Geun-hye của đảng Đại dân tộc (GNP) báo thủ, đều có những quan điểm ôn hòa hơn ông Lee trong quan hệ với Bắc Triều Tiên. Cả ông Lee Myung-bak lẫn Tổng thống Mỹ Barack Obama đều không thích triển vọng các quan hệ nồng ấm giữa hai miền Triều Tiên và họ đang nỗ lực hết sức để ngăn chặn triển vọng đó trong khoảng thời gian cầm quyền ít ỏi còn lại của ông Lee Myung-bak.
Theo các điều khoản của Chế độ kiêm soát công nghệ tên lửa (MTCR), một hiệp ước quốc tế có liên quan đến 34 quốc gia, Hàn Quốc cam kết hạn chế tầm bắn tên lửa đạn đạo của họ không quá 300 km và hạn chế tải trọng không quá 500 kg. Chính quyền của ông Lee Myung-bak rất khó chịu với những hạn chế này và đã tìm cách hủy bỏ chúng. Đầu tháng 10, ông Lee đã thành công khi đạt được một thỏa thuận với Mỹ, cho phép Hàn Quốc vượt các giới hạn của MTCR. Hiệp định mới cho phép Hàn Quốc phát triển các loại tên lửa đạn đạo có tầm bắn lên tới 800 km, đủ khả năng bao phủ toàn bộ lãnh thổ Bắc Triều Tiên, và các phần lãnh thổ của Nga và Trung Quốc. Tải trọng vẫn hạn chế ở mức 500 kg, nhưng chỉ với các loại tên lửa có tầm bắn tối đa cho phép là 800 km. Hàn Quốc cho rằng loại tên lửa có tầm bắn dưới 550 km có thể mang đầu đạn chứa 1.000 kg chất nổ. Tướng Shin Won-sik thuộc Bộ Quốc phòng Hàn Quốc nhận xét rằng “thực tế là không có hạn chế về khối lượng đầu đạn, vì nếu Hàn Quốc phóng một quả tên lửa từ lãnh thổ của mình, toàn bộ lãnh thổ Bắc Triều
Tiên đều nằm trong tầm tấn công 550 km”. Chính quyền Lee Myung-bak muốn thực hiện ngay việc triển khai các loại tên lửa mới và đã yêu cầu Quốc hội nước này dành 2,2 tỷ USD cho chương trình tên lửa đạn đạo tầm xa. Những tên lửa này dự kiến được triển khai vào năm 2017.
Dường như trong việc thỏa hiệp để cho phép Hàn Quốc có một sự miễn trừ đặc biệt các điều khoản của MTCR, Mỹ đang kỳ vọng Hàn Quốc phối hợp các nỗ lực của họ với các kế hoạch phòng thủ tên lửa của Mỹ. Theo bà Kathleen Hicks, Trợ lý Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách chính sách, Hàn Quốc có nhiều cách để hỗ trợ lá chắn tên lửa của Mỹ ở Đông Bắc Á, và “chúng tôi đang đối thoại với Hàn Quốc về cách thức đóng góp vào hệ thống tên lửa”. Hệ thống phòng thủ tên lửa và phòng không Hàn Quốc (KAMD) dự kiến được triển khai đầy đủ vào năm 2015. Bề ngoài, KAMD dự định chỉ phục vụ việc phòng thủ Hàn Quốc, chống lại cuộc tấn công từ Bắc Triều Tiên, nhưng hệ thống này có thể hợp nhất với hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ. KAMD, bao gồm các trận địa rađa, tên lửa Patriot PAC-2 do Mỹ sản xuất, tàu khu trục lớp Aegis, được trang bị tên lửa biển đối không mua của Mỹ là lý tưởng cho khả năng tương tác với hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ.
Tháng 6 vừa qua, Mỹ và Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận về một “cách tiếp cận liên minh toàn diện” cho phòng thủ, liên quan đến cả việc thay đổi MTCR lẫn thực thi hệ thống phòng thủ tên lửa, Theo một quan chức Chính phủ Hàn Quốc, điều đó có nghĩa là xây dựng một hệ thống phòng thủ tên lửa do Hàn Quốc đứng đầu chống lại các cuộc tấn công tên lửa của Bắc Triều Tiên, với việc Mỹ hỗ trợ thông tin tình báo và phát hiện. Sự hợp nhất Hàn-Mỹ có thể giải quyết được hai vấn đề trên và một cựu quan chức ngoại giao và an ninh Hàn Quốc cảm thấy tiến trình hợp nhất Hàn Quốc vào hệ thống của Mỹ đang diễn ra.
Chính quyền Obama đang can dự vào việc mở rộng đáng kể hệ thống phòng thủ tên lửa của họ tại châu Á, trong đó có việc xây dựng thêm các trận địa rađa tại Nhật Bản và Philippin. Mỹ cũng đang tiến hành nâng cấp vũ khí của Nhật Bản. Steven Hildreth, một chuyên gia Mỹ về công nghệ và chính sách phòng thủ tên lửa giải thích rằng “trọng tâm theo phát ngôn của chúng tôi là Bắc Triều Tiên. Nhưng thực tế là chúng tôi đang nhằm vào mục tiêu xa hơn là Trung Quốc”. Ông Hildreth tuyên bố rằng Mỹ đang đặt nền tảng cho một hệ thống phòng thủ tên lửa châu Á với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và Ôxtrâylia. Một thành to quan trọng của những kế hoạch này là việc nâng cấp công nghệ, trong đó có hệ thống Aegis được đặt trên các tàu khu trục của Nhật Bản. Nick Bucci, người phụ trách các chương trình hải quân thuộc Tập đoàn Lockheed Martin tuyên bố rằng ông chắc chắn là Hàn Quốc đang đàm phán với Hải quân Mỹ về việc nâng cấp tương tự cho các tàu khu trục lớp Aegis của họ.
Những nguồn tin yêu cầu giấu tên tiết lộ rằng Mỹ và Hàn Quốc hiện đang phát triển một kế hoạch chiến lược nhằm vào Bắc Triều Tiên. Các kịch bản cụ thể có thể khiến kế hoạch này được thực thi vẫn chưa được công bố. Cuộc tấn công sẽ được tiến hành trong 5 giai đoạn, trong đó có việc khai hỏa những tên lửa đạn đạo tầm xa mà Hàn Quốc dự kiến sớm sản xuất. Sau đó là nhiều đợt tên lửa hành trình sẽ được phóng sang Bắc Triều Tiên, rồi đến máy bay chiến đấu và máy bay ném bom sẽ tấn công dồn dập các cơ sở hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Máy bay không người lái sẽ tiêu diệt những mục tiêu di động, phụ thuộc vào các hệ thống tình báo và liên lạc của Mỹ. Kế hoạch này sẽ tiếp tục được thảo luận chi tiết tại Hội nghị tư vấn an ninh giữa Mỹ và Hàn Quốc.
Chính quyền của Tổng thống Lee Myung-bak đã gắn Hàn Quốc chặt hơn vào chính sách quân sự của phương Tây bằng việc vừa ký vào Chương trình họp tác quan hệ đối tác của Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Theo một tuyên bố của NATO, Hàn Quốc “đã có đóng góp giá trị” vào các hoạt động của NATO tại Ápganixtan và vai trò của Hàn Quốc trong chương trình quan hệ đối tác sẽ “thúc đẩy đối thoại chính trị và hợp tác thực sự” trong một số lĩnh vực, trong đó có “hỗ trợ hòa bình đa quốc gia”, một cụm từ có ý nghĩa chính xác hơn là “chiến tranh và chiếm đóng quân sự”.
Việc tăng cường quân sự hóa bán đảo Triều Tiên đang được tiếp tục. Các lực lượng vũ trang Mỹ tại Hàn Quốc sẽ sớm được cung cấp đạn pháo đưọc dẫn đường chính xác, có chiều bắn thẳng đứng, lý tưởng để nhằm vào các trận địa pháo của Bắc Triều Tiên được đặt sau núi. Vào cuối năm nay, Mỹ cũng sẽ triển khai thêm các tên lửa Patriot PAC-3 và tên lửa đất đối đất ATACMS. Mỹ cũng đang điều trở lại Hàn Quốc một tiểu đoàn hóa học, 9 năm sau khi rút tiểu đoàn này về. Hàn Quốc đang tìm cách mua của Mỹ 36 chiếc máy bay trực thăng tấn công Apache với giá 3,6 tỷ USD và một hợp đồng khác mua 36 máy bay trực thăng tấn công Cobra với giá 2,6 tỷ USD. Bao gồm trong những hợp đồng này là phụ tùng đi kèm, cùng với tên lửa và rốc két. Hàn Quốc cũng đang trong giai đoạn khởi đầu đề sản xuất máy bay không người lái “Thần phong”, dự kiến đi vào hoạt động năm 2015. Thỏa thuận sửa đổi MTCR mới ký gần đây cho phép Hàn Quốc trang bị cho máy bay không người lái này nhũng đầu đạn nặng hơn 2 tấn.
Chính quyền Obama đang kiên định né tránh bất kỳ cuộc đàm phán nào với Bắc Triều Tiên và dường như ngả theo hướng cô lập hơn nữa Bình Nhưỡng và tăng căng thẳng tại bán đảo Triều Tiên, một khu vực có tiềm năng biến động của thế giới. Tương tự như vậy, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak cũng không thích đối thoại, muốn đặt người kế nhiệm ông vào một việc đã rồi và đảm bảo rằng tổng thống mới của Hàn Quốc không có lựa chọn nào khác là tiếp tục chính sách đối đầu của mình.
Theo một viên tướng Hàn Quốc, việc dỡ bỏ những hạn ché tên lửa đối với Hàn Quốc cho phép quânđội nước này phản ứng với Bắc Triều Tiên một cách linh hoạt hơn. Điều đó đồng nghĩa với khả năng sử dụng vũ khí lớn hơn trongnhiều tình huống hơn. Niềm tin rằng vũ lực quân sự trên bán đảo Triều Tiên có thể được hiệu chỉnh một cách cẩn thận để mang lại một kết quả chính xác, mong muốn mà không gây ra những đám cháy rộng lớn không chỉ liều lĩnh, mà còn ảo tưởng. Động cơ quân sự hóa của Bắc Triều Tiên chủ yếu là do cảm giác rằng Bình Nhưỡng đang bị đe dọa và những động thái gần đây của Mỹ và Hàn Quốc chỉ làm tăng thêm nhận thức này. Hơn nữa, có nhiều dấu hiệu cho thấy Hàn Quốc dường như ngày càng hợp nhất vào hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ ở Đông Bắc Á, khiến Xơun có nguy cơ bị lôi kéo vào bất kỳ xung đột nào có thể nổ ra giữa Mỹ với Trung Quốc hoặc Nga. Điều đó sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc tổng thống Hàn Quốc sắp tới có muốn và có khả năng hạn chế những thiệt hại của nhũng động thái gần đây hay không, và thay vào đó là tập trung vào đối thoại với Bắc Triều Tiên, theo đuổi một chính sách độc lập, đặt nhân dân Triều Tiên lên trước./.

1459. VN BIỂU TÌNH CHỐNG TQ: TRUNG -VIỆT ÂN OÁN KÝ

international.caixun.com (trang tin kinh tế của Trung Quốc)

VIỆT NAM BIỂU TÌNH CHỐNG TRUNG QUỐC: TRUNG -VIỆT ÂN OÁN KÝ

10.12.2012
(Không có tên tác giả)
Người dịch:  XYZ
Lời dẫn:  Chắc hẳn lịch sử chính thống của Việt Nam hầu như đều là những nội dung chống Trung Quốc, ân oán Trung-Việt chắc hẳn từ xưa đến nay là phức cảm khó lòng vượt qua. Mới đây, Việt Nam cáo buộc tàu cá Trung Quốc phá hỏng cáp thăm dò của 1 tàu thăm dò thuộc Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, quan hệ hai bên trở nên căng thẳng. Việt Nam còn biểu thị sự bất bình, đồng thời đã áp dụng biện pháp chống trả trước việc trên hộ chiếu điện tử mới của Trung Quốc có bản đồ “khu vực tranh chấp Nam Hải[i]”.  


Chắc hẳn lịch sử chính thống của Việt Nam hầu như đều là những nội dung chống Trung Quốc, ân oán Trung-Việt chắc hẳn từ xưa đến nay là phức cảm khó lòng vượt qua. Mới đây, Việt Nam cáo buộc tàu cá Trung Quốc phá hỏng cáp thăm dò của 1 tàu thăm dò thuộc Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, quan hệ hai bên trở nên căng thẳng. Việt Nam còn biểu thị sự bất bình, đồng thời đã áp dụng biện pháp chống trả trước việc trên hộ chiếu điện tử mới của Trung Quốc có bản đồ “khu vực tranh chấp Nam Hải”.  
1
                        Biểu tình tuần hành chống Trung Quốc tại Hà Nội Việt Nam

Tháng 6 năm nay, Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, đồng thời lên kế hoạch đấu thầu quốc tế khai thác dầu mỏ ở Nam Hải, kết quả là một vài tuần trong tháng 7 và tháng 8, tại Hà Nội đã xảy ra 4 cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Phía cảnh sát lúc đầu ngầm cho phép biểu tình, nhưng sau đó lại ngăn chặn. Còn từ tháng 6 đến tháng 8 năm ngoái, tại Việt Nam hầu như tuần nào cũng có xảy ra biểu tình chống Trung Quốc.
Trung Quốc và Việt Nam núi sông nối liền, môi hở răng lạnh, xưa nay quan hệ rất thân thiết. Hai nước đã trải qua những thời kỳ tốt đẹp vừa là đồng chí vừa là anh em, cũng đã từng trải qua những năm tháng bất hòa thành thù hận, ngày nay, quan hệ Trung-Việt tuy đã đi vào bình thường hóa, nhưng tranh chấp và va chạm liên tục, tình anh em khó lòng có lại được. Xem từ phản ứng của những người Trung Quốc từng tới Việt Nam, thì người Việt Nam cũng không còn đối xử với người Trung Quốc như anh em nữa, mà thường mang tâm lý cảnh giác.   
2
                    Biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam
Trong lịch sử, Việt Nam từng bị Trung Quốc trực tiếp cai trị tới hàng ngàn năm, cho mãi đến thế kỷ 10 Việt Nam mới thoát khỏi Trung Quốc để độc lập dựng nước, duy trì mối quan hệ phiên thuộc nhất định với Trung Quốc. Rồi cho đến cuối thế kỷ 19, Việt Nam thành thuộc địa của Pháp, Trung Quốc mới chính thức từ bỏ quyền bá chủ đối với Việt Nam. Hơn nữa trong lịch sử, Việt Nam từng nổ ra rất nhiều cuộc khởi nghĩa và chiến dịch chống lại ách cai trị của các vương triều Trung Quốc.    
Người Việt Nam thường gọi Trung Quốc là “nước láng giềng mạnh”, trong kiểu xưng hô này mang hàm nghĩa kép: “Chỗ dựa mạnh” và “láng giềng mạnh cần phải cảnh giác”. Như chúng ta đã biết, từ thập kỷ 50 đến thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Trung Quốc đã có sự chi viện to lớn và vô tư cho các cuộc đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ của Việt Nam, đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc Việt Nam cuối cùng đã đánh bại quân xâm lược và giành lại được độc lập dân tộc.   
Về điều này, lãnh đạo Việt Nam từng nhiều lần bày tỏ: “Thắng lợi của nhân dân Việt Nam không thể tách rời với sự ủng hộ mạnh mẽ và sự chi viện to lớn của chính phủ Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc. Nhân dân Việt Nam mãi mãi không bao giờ quên được sự giúp đỡ khẳng khái của Trung Quốc”. “Nhân dân Việt Nam mãi mãi trân trọng tình hữu nghị Trung-Việt mà Hồ Chủ tịch và Mao Chủ tịch đã dày công vun đắp, sẽ quyết tâm làm hết sức mình để làm cho tình hữu nghị này truyền lại được cho đời sau”.         
Về khoảng thời gian có tình hữu nghị thân thiết “vừa là đồng chí vừa là anh em” giữa hai nước Trung-Việt, những người Việt Nam trên 60 tuổi đều là nhân chứng, rất nhiều người trong số họ khi nói về khoảng thời gian này đều hết sức xúc động về sự giúp đỡ vô tư của Trung Quốc, đồng thời hiểu được một cách sâu sắc ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước.  
3
                    Biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam
Tuy nhiên, với lớp trẻ Việt Nam ngày nay, giai đoạn lịch sử đó đã ngày một xa đi và phai mờ, một vài phương tiện truyền thông trong nước được lớp trẻ ưa thích đã không ngần ngại xào xáo lại những tranh chấp chủ quyền Trung-Việt ở khu vực Nam Hải với biên độ lớn, trong khi đó lại rất ít đề cập đến lịch sử hai nước từng kề vai chiến đấu. Có khá nhiều thanh niên Việt Nam coi Trung Quốc là kẻ mạnh về mặt kinh tế, nhưng đồng thời cũng coi là đối thủ, thậm chí là cường địch, tranh giành quyền lợi biển với Việt Nam.   
Dân chúng Việt Nam tổ chức các cuộc biểu tình phản đối bên ngoài Đại sứ quán Trung Quốc, họ đã không còn thù hận, thậm chí đừng nói gì tới là phản cảm, với nước Mỹ từng xâm lược nước mình. Còn đối với Trung Quốc, một số khá lớn trong họ lại đồng tình với quan điểm “láng giềng mạnh cần phải cảnh giác”, thậm chí lại còn trở thành kẻ tán đồng với “thuyết mối đe dọa Trung Quốc”.
Nhưng cùng với vấn đề Biển Nam Trung Hoa[ii], Trung Quốc có sự tranh chấp với nhiều nước láng giềng, quan hệ Trung-Việt dần dần bắt đầu đi vào thế đối kháng, đồng thời xét về quan hệ thương mại và vị trí trí địa lý giữa hai nước Trung-Việt, Việt Nam cũng buộc phải giữ kiềm chế.
Việt Nam lôi kéo Mỹ, Nga đối chọi với Trung Quốc   
Việt Nam có đường bờ biển dài, vị trí ở vào cửa ngõ động mạch lớn trên biển, tiếp giáp với nguồn dự trữ năng lượng ngoài khơi cực lớn. Năm ngoái khi tôi đi thăm Việt Nam, đã phát hiện thấy nước này không chỉ bận rộn với việc phát triển kinh tế, mà còn phải đối mặt với thách thức nên chung sống ra sao đây với nước láng giềng và bá quyền từ hàng trăm năm  – để ứng phó với thách thức này, Việt Nam ngày càng cầu viện tới đối thủ xưa kia của mình là Mỹ.  
Nhất là trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng kinh tế và sự tăng cường về thực lực quân sự của Trung Quốc, ngày càng nhiều người dân Việt Nam trong nước lo lắng bị chịu sự kiểm soát của Trung Quốc, mà từ xưa đến nay Việt Nam dường như luôn phải chống lại Trung Quốc. Hình thái ý thức tâm lý này vẫn chưa thay đổi, khiến cho người  Việt Nam luôn cảnh giác và lo ngại Trung Quốc.
Việt Nam khát vọng trở thành cường quốc trong khu vực, bất kể Việt Nam có mua của Nga 6 chiếc tàu ngầm “lớp kilo” tiên tiến hay dùng vịnh Cam Ranh để làm trò giỡn giữa Mỹ và Nga đi nữa, thì cũng đều cho thấy Việt Nam có thể có được lợi ích lớn nhất trong trò chơi này ở Nam Hải.
Và người Việt Nam đồng thời với việc sợ Trung Quốc, lại cũng không thể thoát khỏi ảnh hưởng của lân bang phương Bắc lớn mạnh của mình, dân số Trung Quốc nhiều gấp 15 lần Việt Nam, hơn nữa vị trí địa lý lại quyết định mối quan hệ Trung-Việt. Cộng thêm nếu rời bỏ Trung Quốc, Việt Nam sợ lại càng khó lòng đi vào hàng cường quốc. Đồng thời, Việt Nam không đời nào lại xa lánh Trung Quốc để đi vào vòng tay Mỹ. Việt Nam đã quá phụ thuộc vào Trung Quốc, đã có mối gắn kết qua lại với Trung Quốc. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, còn Việt Nam lại nhập khẩu từ Trung Quốc nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác. Nếu không có Trung Quốc, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ không thể vận hành được bình thường, các sản phẩm giá rẻ Trung Quốc tràn ngập Việt Nam, gây trở ngại cho sự tăng trưởng của ngành chế tạo bản địa. Cộng thêm mối thù hận lịch sử Mỹ-Việt cũng khiến cho quan hệ Trung-Việt buộc phải giữ cho được mối quan hệ tốt đẹp nhất định chứ không làm mất mặt nhau.        
Ngoài nhân tố về địa lý, Việt Nam vốn có một sự thiếu tin tưởng nào đó ở Mỹ. Một vị quan chức nói, Mỹ đang suy thoái, Washington chỉ chằm chằm vào Trung Đông mà bỏ qua sự trỗi dậy của Trung Quốc ở Đông Á,  điều này lại càng đẩy nhanh sự trượt dốc của Mỹ. Còn nữa, Việt Nam lo là Mỹ sẽ bắt quan hệ với Trung Quốc mà bán rẻ Việt Nam.
Nguồn: international.caixun.com (trang tin kinh tế của Trung Quốc)
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012

[i]   Tức Biển Đông.
[ii]  Tức Biển Đông.

1460. NẾU IXRAEN TẤN CÔNG IRAN

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Hai, ngày 10/12/2012

NU IXRAEN TN CÔNG IRAN

(Dan Ephron – Newsweek)
Liệu M sẽ bị kéo vào một cuộc chiến tranh Trung Đông khác? Để tìm hiu, Newsweek đã chủ trì chương trình “Trò chơi chiến tranh” với sự tham gia của các Cựu quan chức Mỹ.
Vào lúc 5 giờ sáng, trong căn nhà đối diện biển của Dan Shapiro, Đại sứ Mỹ tại Ixraen, tiếng chuông điện thoại vang lên. Đầu dây bên kia là Rafi Barak, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ixraen với giọng điệu căng thẳng. Ông nói rằng Ixraen đã tấn công 6 cơ sở hạt nhân của Iran chỉ trong một đêm, gây ra thiệt hại trên diện rộng. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Ixraen sẽ sớm gọi điện cho Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton để tường thuật chi tiết.

30 phút sau, Shapiro và một nhóm từ Sứ quán Mỹ bao gồm tùy viên quân sự và trưởng đại diện Cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã đến trụ sở Bộ Quốc phòng Ixraen tại Ten Avíp để dự một cuộc thông báo tình hình. Họ được biết Chiến dịch Whirlwind liên quan đến hàng chục máy bay chiến đấu Ixraen; các bãi hạ cánh bí mật tại Etiôpia, Ấn Độ và Arập Xêút và một sự dàn dựng phức tạp việc gây nhiễu điện tử và việc tiếp nhiên liệu trên không. Một chiếc máy bay Ixraen đã bị bắn hạ trong cuộc tấn công, nhưng những chiếc máy bay còn lại của chiến dịch, một nhiệm vụ lớn lao đối với Ixraen, đã rút êm gọn.
Tại Oasinhtơn, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Obama đã nhanh chóng triệu tập một cuộc họp các phụ tá hàng đầu và các Bộ trưởng nội các. Tổng thống Obama đang trong tiến trình tranh cử nhưng ông muốn êkíp của mình thảo luận về cuộc khủng hoáng này và đưa ra những khuyến nghị vào buổi trưa. Vào đầu cuộc thảo luận các nhà cố vấn đã bác bỏ hành động quân sự của Mỹ, ít nhất là lúc này, và đồng ý rằng mục tiêu cúa Oasinhtơn là giảm bớt khói lửa ở khu vực này. Một trong số những cố vấn đã phát biểu rằng “Mục tiêu của chính sách ngắn hạn là không nên leo thang mà nên cố gắng ngăn chặn tình hình này”. Trong bản ghi nhớ gửi Tổng thống, họ đã liệt kê ra 10 mục tiêu hàng đầu của Chính quyền, bao gồm cả việc bảo vệ những người Mỹ sống tại khu vực này, giảm thiểu tối đa những tác động đến kinh tế thế giới và bảo vệ Ixraen khỏi những hành động trả đũa của Iran.
Tuy nhiên, khi cuộc thảo luận tiếp tục, những kịch bản mà ở đó Mỹ thấy mình bị kéo vào cuộc xung đột dường như đang nhân lên. Vào cuổi buổi họp, một người tham dự đã đặt cược 50-50 là Mỹ sẽ phải sử dụng đến sức mạnh quân sự để chống lại Iran sau cuộc tấn công của Ixraen. Những người còn lại cho rằng tỷ lệ thậm chí còn cao hơn. Một trong những cố vấn nhận xét rằng: “Chúng ta có lẽ đã đang đứng ngay gần kề với một sự leo thang nghiêm trọng tiến đến một cuộc chiến tranh Trung Đông.”
Một cuộc tấn công Iran của Ixraen sẽ đặt ra cho Mỹ một trong những tình huống phức tạp và gây khó chịu nhất mà nước này phải đối mặt trong hàng thập kỷ. Kịch bản được vạch ra trên đây – kết quả của một chương trình mô phỏng gần đây được Newsweek thực hiện – đã giải thích các sự kiện có thể sẽ tiến triển như thế nào. Chương trình mô phỏng này, mà trong giới các nhà hoạch định kế hoạch quân sự gọi là một “trò chơi chiến tranh”, nhằm mục đích tìm hiểu những nhân tố nào sẽ định hình quyết định được đưa ra bởi Chính quyền Obama. Cụ thể chúng ta muốn biết: điều gì sẽ xảy ra nếu người Ixraen tấn công Iran trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào tháng 11?
Mặc dù trong những tuần gần đây, có vẻ như Thủ tướng Ixraen Benjamin Netanyahu đang do dự về cuộc tấn công nhưng “một bất ngờ tháng mười” cũng không thể bị loại bỏ. Trong chừng mực nào đó, nhận thức rằng một chiến dịch của Ixraen không còn có thể sớm diễn ra khiến cho những tuần tới trở thành thời cơ hấp dẫn để Netanyahu ra lệnh cho hành động quân sự. Nhà lãnh đạo Ixraen đã phát biểu trước Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc vào tháng 9 rằng “đang trễ giờ, rất trễ rồi.”
Là một phần của trò chơi chiến tranh, Newsweek đã tập họp 7 cựu quan chức chính trị, quân sự và tổ chức một cuộc họp giả của “ủy ban Những nhân vật chủ chốt”- nhóm mà Tổng thống triệp tập để đưa ra những đề xuất về các vấn đề quan trọng nhất. Đảm nhận các vai trò của những cố vấn chủ chốt của Tống thống Obama, bao gồm Chánh văn phòng của ông, cố vấn an ninh quốc gia, các Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng, các giám đốc Cơ quan Tình báo quốc gia – CIA, và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân, nhóm tham gia này gần giống với nhóm mà Tổng thống Obama đã hội ý trước khi phát động chiến dịch chống Osama bin Laden vào năm 2011.
Nhà phân tích CIA trước đây Kenneth Pollack, hiện ở trung tâm Saban về chính sách Trung Đông thuộc học viện Brookings, đã chuẩn bị những báo cáo tình hình chi tiết về cuộc tấn công của Ixraen, trong đó, các cuộc đột kích của Ixraen đã phá hủy một vài cơ sở hạt nhân nhưng vẫn còn đó những cơ sở chủ chốt khác đang hoạt động. Các tài liệu đã chỉ ra rằng Ixraen đã cản trở chương trình hạt nhân của Iran bằng cuộc tấn công của mình nhưng chưa phá hủy được nó. Những tài liệu này cũng liệt kê sơ lược những phản ứng quốc tế đối với các chiến dịch này: những tuyên bố lên án trên toàn châu Âu, các cuộc tấn công bàng rốckét vào Ixraen của Iran và nhóm Hezbollah tại Libăng, và các cuộc biểu tình phản đối trên đường phố với quy mô nhỏ trong thế giới Hồi giáo.
“Những nhân vật chủ chốt” đi theo hàng một về hướng phòng họp của Viện Brookings tại Oasinhtơn vào lúc 8 giờ sáng một ngày Thứ 6 gần đây, vào lúc mục tin chính của báo đã đưa tin về 2 biến cố mới trong Trò chơi Ba Tư: tình hình hỗn loạn ở Iran trước sự trượt giá tiền tệ của nước này và những căng thẳng đang ngày càng gia tăng giữa Xyri, đồng minh của Iran và nước láng giềng phía Bắc là Thổ Nhĩ Kỳ. Nhóm làm việc này bao gồm 2 cựu Phó giám đốc CIA là Richard Kerr và John McLaughlin; 2 người đã từng đảm nhiệm những vị trí cấp cao tại Lầu năm góc (Bộ Quốc phòng Mỹ) là Rudy deLeon và Bing West; Chánh văn phòng Nhà Trắng dưới thời của Tổng thống Clinton là John Podesta và nhà ngoại giao kỳ cựu Thomas Pickering.
Tất cả những người này đã gặp nhau nhiều lần ở Oasinhtơn trong nhiều năm và dường như rất thoải mái với nhau – hai trong số họ đã trò chuyện rất vui vẻ trước buổi họp về những trải nghiệm của mình trong vụ bê bối Iran – Contra vào những năm 1980. Tất cả đều xuất hiện với áo vét và cà vạt nhưng đã cởi bỏ chiếc áo khoác trước khi buổi thảo luận diễn ra.
Điều hành cuộc họp trong vai trò của cố vấn an ninh quốc gia của ông Obama là Bruce Jentleson, một nhà khoa học chính trị tại trường Đại học Duke, người đã cố vấn cho Bộ Ngoại giao Mỹ trong suốt thời của Tổng thống Clinton và Tổng thống Obama. Mở đầu buổi thảo luận, ông so sánh tình hình Iran với cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba – sự đổi đầu hạt nhân giữa Mỹ và Nga vào năm 1962. Ông nói rằng: “Những người tiền nhiệm của chúng ta dưới thời Chính quyền Kenedy… đúng lúc đã phải chịu nhừng áp lực của chính họ, với những nguy hiểm lớn lao của chính họ. Tuy nhiên họ rất cẩn trọng, sáng tạo và khôn ngoan. Chúng ta muốn nếu không thể làm tốt hơn thì ít nhất cũng làm được như họ”.
Pollack, trong bản ghi nhớ gửi nhóm này, đã muốn nhận được những câu trả lời cho một vài câu hỏi bao gồm: Liệu Mỹ có nên tham gia vào cuộc tấn công hay nên đứng ngoài? Oasinhtơn nên làm gì để bảo vệ Ixraen khỏi những hành động trả đũa? Và nếu Chính quyền Obama quyết định không tham gia, thì hành động nào của Iran về cơ bản có thể thúc giục Obama đi vào chiến tranh ở khu vực này – cuộc chiến thứ 3 của Mỹ trong vòng 11 năm?
Các cuộc họp của ủy ban Những người chủ chốt thường bắt đầu với những ý kiến đánh giá của các giám đốc tình báo. Trong các cuộc họp của chúng tôi (Newsweek), Ker với vai trò giám đốc CIA, đã dự báo về những điều tồi tệ nhất có thể xảy ra: Iran có thể sẽ tăng cường các cuộc tấn công vào Ixraen, và, với việc coi Oasinhtơn là có dính líu ngấm ngầm, cũng có thể tìm cách gián tiếp tấn công vào các mục tiêu của Mỹ. Những khả năng dễ xảy ra nhất có thể liên quan đến các binh sĩ Mỹ tại miền Tây Ápganixtan hoặc Irắc . Trong cả hai trường hợp có thể Iran sẽ hành động bằng cách mượn tay người khác, không để lại bất cứ dấu vết nào của mình tại các chiến dịch. Kerr, trong đời thực đã từng giúp xử lý tình thế đối đầu hạt nhân giữa Ấn Độ và Pakixtan vào năm 1990, cho rằng Chính quyền cũng nên chuẩn bị tinh thần cho những cuộc tấn công mạng của Iran, một cách khác đwe Têhêran đánh úp Oasinhtơn từ sau một bức tường nặc danh. Ông nói rằng: “Họ sẽ rất thận trọng về việc đối đầu trực tiếp với Mỹ, nhưng còn đó rất nhiều cách…mà họ có thể làm được.”
Nói về điều có thể dễ dàng gây ra những cơn sốc dữ dội cho nền kinh tế thế giới, Kerr cũng cảnh báo về những cuộc tấn công của Iran vào tàu thuyền trên Vịnh Ba Tư. (Khoảng 20% giao dịch dầu mỏ trên toàn thế giới đi từ vịnh này qua Eo biển Hormuz), ông nói: “Tôi không nghĩ họ sẽ tìm cách đóng cửa vùng Vịnh này nhưng họ có thể biến vùng Vịnh trở thành một nơi khó có thể hoạt động, và làm tăng phí tổn cho tất cả mọi người.”
McLaughlin, trong vai giám đốc Tình báo quốc gia, nói rằng các cuộc biểu tình phản đối trên đường phố trong thế giới Hồi giáo có thể thúc đẩy hình thức bạo lực đã giết chết 4 người Mỹ tại Libi tháng trước, bao gồm cả Đại sứ Mỹ Christopher Stevens. Không phải tất cả mọi người đều đồng ý. Kerr đã đánh giá rằng các nước vùng Vịnh sẽ vui mừng khi thấy Têhêran bị đe dọa và rằng những người Hồi giáo Sunni sẽ không đứng ra ủng hộ cho Iran theo dòng Hồi giáo Shia. Nhưng McLaughlin đã chỉ ra rằng việc lật đổ những kẻ chuyên quyền trên toàn khu vực trong 2 năm vừa qua có nghĩa là đường phố Hồi giáo đang trở nên khó dự đoán hơn. Đề cập đến Cựu Tổng thống Ai Cập, ông nói rằng: “Khi đường phố trở nên phần nào hỗn loạn, Mubarak sẽ phái tay chân của mình ra và ông sẽ chịu trách nhiệm về việc đó. Điều đó giờ đây không còn tồn tại nữa”.
Những ý kiến đánh giá đã góp phần tạo nên một tình huống khó xử chính cho buổi thảo luận: làm thế nào để giảm bớt căng thẳng mà không báo hiệu cho Iran rằng Mỹ đang yếu đi hoặc trở nên do dự, một thông điệp có thể khiến Iran đi đến thực sự leo thang bạo lực; và làm thể nào để tạo ra khoảng cách giữa Mỹ và Ixraen, điều rõ ràng chống lại việc Obama phát động chiến dịch, mà không khuyến khích Iran và làm gia tăng khói lửa thêm một lần nữa.
Pickering, vào vai Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đã phác thảo một kế hoạch nhằm bảo vệ người Mỹ, bao gồm cả việc đóng cửa các Đại sứ quán Mỹ tại khu vực này và kêu gọi công dân Mỹ ngay lập tức rời khỏi các nước Hồi giáo. Là một thành viên tham gia với có lẽ là những trải nghiệm trực tiếp nhất tại khu vực này, Pickering đã từng là Đại sứ tại Ixraen và Gioócđani, và đại diện cho Mỹ tại Liên Hợp Quốc. Những người khác xung quanh bàn thảo luận đã bàn bạc về việc Mỹ sẽ đáp trả như thế nào nếu những chiếc tàu cao tốc của Iran tấn công các tàu Mỹ đóng tại Vịnh. Bing West, trong vai Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân nhận xét rằng: “Chúng có thể đánh chìm một tàu chở dầu lớn hay đâm vào một trong những chiếc tàu của chúng ta khiến cho chúng ta mất đến 100 người Mỹ hoặc hơn chỉ trong 1 phút”. Ông nói rằng quân đội không hài lòng với ý kiến cứ ngồi một chỗ để chờ đợi bị tấn công mà nên nắm thế chủ động, thực chất là đề nghị Mỹ nên tấn công phủ đầu Iran. “Nếu các ngài định nói rằng các ngài sẽ bảo vệ các công dân của mình,; bảo vệ các lực lượng của mình… thì quân đội phải nói với các ngài rằng các ngài cần phải làm điều đó bằng việc sẵn sàng tấn công chứ không phải phòng ngự.”
West đã đề xuất một chiến dịch quân sự 10 ngày nhằm vô hiệu hóa phần lớn khả năng tấn công của Iran. Những thành viên tham gia khác đã gạt bỏ một chiến dịch như vậy vào thời điểm hiện nay nhưng đồng ý rằng một cuộc tấn công của Iran vào một tàu Mỹ sẽ gây ra một phản ứng quân sự rộng rãi chống lại Hải quân Iran. Rudy deLeon, trong vai Bộ trưởng Quốc phòng đã nói rằng: “Chúng ta có rất nhiều cách để chiến đấu với phương tiện của họ”. Podesta, trong vai Chánh văn phòng của Tổng thống Obama đã vô tư đặt câu hỏi liệu nhà máy làm giàu Urani tại Fordow có phải là một bộ phận của Hải quân Iran hay không. Nói cách khác, ông ấy muốn biết rằng liệu Mỹ có coi một sự khiêu khích của Iran như một cơ hội để phá hủy những bộ phận của chương trình hạt nhân Iran vẫn còn tồn tại sau cuộc tấn công của Ixraen hay không. Câu hỏi này đã khiến nhiều người cười tủm tỉm, nhưng vào cuối buổi thảo luận Podesta đã dự đoán rằng một hành động leo thang có thể dẫn đến những cuộc đột kích của Mỹ vào những cơ sở hạt nhân còn lại của Iran.
Vì vậy, trong khi nhóm làm việc sẽ thuyết phục Obama tập trung vào việc hạn chế hành động leo thang thì họ cũng đang thừa nhận rằng điều này phụ thuộc rất nhiều vào những hành động của Iran sau chiến dịch của Ixraen. Một cuộc tấn công của Iran nhằm vào các mục tiêu của Mỹ chắc chắn sẽ đưa Mỹ vào một cuộc chiến tranh.
Những thành viên tham gia đã có một vài bất đồng trong việc sẽ xử lý với Ixraen như thế nào – điều này chẳng có gì bất ngờ khi xét đến mối quan hệ khó khăn giữa Chính quyền Obama và Netanyahu. DeLeon cho rằng Mỹ nên sẵn sàng tái cung cấp cho Ixaren bất cứ loại vũ khí nào mà họ cần. (Mỹ vẫn duy trì các kho dự trữ vũ khí đạn dược tại Ixraen và có thể cung cấp chúng cho Netanyahu với sự báo trước ít lâu.) Ông cũng đề nghị rằng tàu tiếp liệu của Mỹ giúp cứu các phi công Ixraen mà máy bay của họ bị bắn rơi trong lãnh thổ Iran – một lời đề nghị mà những thành viên tham gia khác cảm thấy khinh suất.
DeLeon và Podesta đã biện luận để ủng hộ cho một tuyên bố chắc chắn về việc hỗ trợ cho Ixraen và an ninh của nước này. DeLeon nói rằng: “Chúng ta cần phải xác định rõ ràng về mối quan hệ an ninh với Ixraen. Mặc dù chúng ta cảm thấy tức giận (với Netanyahu) nhưng chúng ta cần thể hiện rằng chúng ta sẽ luôn hỗ trợ cho họ.” Nhưng Pickering cho rằng Mỹ nên thận trọng, để không đưa ra những từ ngữ khiến cho Ixraen hiểu thành một quyền tự do hành động hành động quân sự hơn nữa. Ông tán thành một thông điệp khôn ngoan hơn nhấn mạnh rằng sự kiềm chế hành động leo thang là vì lợi ích của Ixraen. Ông nói: “Các vị đừng có nói, Ixraen có thể làm bất cứ điều gì họ muốn và chúng ta sẽ tiếp tục hỗ trợ họ và chẳng hề có một giới hạn nào.”
Gạt những bất đồng của họ sang bên, những thành viên tham gia đồng ý rằng bất cứ một hành động trả đũa nào của Iran mà giết chết nhiều người Ixraen sẽ gây ra một hành động quân sự của Mỹ chống lại Iran – và lại một lần nữa đặt Mỹ vào tình thế có khả năng dẫn đến chiến tranh. McLaughlin nói rằng: “Bước quyết định đó sẽ được đặt ra cho chúng ta nếu những người Ixraen phải chịu thương vong nghiêm trọng.”
Trong một đánh giá có thể là gây sửng sốt nhất tại buổi họp, McLaughlin đã ước tính rằng có 10% rủi ro rằng Iran sẽ sử dụng vũ khí hóa học để chống lại Ixraen nhằm đáp lại chiến dịch Whirlwind, giả định rằng nước này có thể lắp đầu đạn hóa học vào các tên lửa tầm trung của họ. Ông nói, trong trường hợp đó, Chính quyền phải tính đến khả năng rằng Ixraen có thể sử dụng vũ khí hạt nhân chống Iran. (Người ta cho rằng Ixraen sở hữu một kho vũ khí với ít nhất 200 đầu đạn hạt nhân mặc, dù chính sách của nước này là không thừa nhận cũng không phủ nhận điều đó.) “Tôi cho rằng người Ixraen vì thế sẽ phải nói ‘Liệu chúng ta vẫn duy trì vũ khí thông thường?’ Và điều đó là gần như không thể tưởng tượng được. Nhưng họ sẽ phải đặt ra câu hỏi như vậy.”
Sự nhất trí đang bắt đầu được hình thành xung quanh 5 mục tiêu mà Obama nên nhắm tới: bảo vệ công dân Mỹ, tránh việc tham gia một cuộc chiến tranh khác, ngăn chặn những chấn động ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới, ngăn chặn Iran có được vũ khí hạt nhân và bảo vệ Ixraen và những đồng minh khác của Mỹ khỏi hành động trả đũa của Iran. Jentleson, cố vấn an ninh quốc gia đã chỉ ra rằng một vài mục tiêu có thể trở nên mẫu thuẫn với những mục tiêu khác và ông đề nghị các thành viên tham gia sắp xếp thứ tự ưu tiên cho những mục tiêu này. Pickering đã đặt mục tiêu bảo vệ công dân Mỹ lên hàng đầu và mục tiêu bảo vệ Ixraen ở vị trí cuối cùng mặc dù ông cho rằng các mục tiêu từ thứ 2 đến thứ 5 đều được xếp hạng rất sát nhau. Ông nói: “Nếu các ngài đang chuyển tải điều này theo một cách thích hợp thì các ngài sẽ đặt mục tiêu đầu tiên lên hàng đầu và đặt mỗi một mục tiêu (còn lại) vào chung một chỗ ở phía dưới.” Cuộc đối thoại chuyển sang một hướng khác trước khi những thành viên khác có thể đưa ra sự ưu tiên của họ.
Một số thành viên tham đã bày tỏ những quan ngại rằng cuộc tấn công của Ixraen, ngược lại, sẽ phá hoại khả năng của Oasinhtơn ngăn chặn Iran có bom hạt nhân. Họ đánh giá rằng Têhêran sẽ rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) sau cuộc tấn công và trục xuất những nhà quan sát quốc tế ra khỏi các cơ sở của họ – những điều mà các nhà lãnh đạo Iran có thể đang tìm kiếm lý do để thực hiện. Mc Laughlin nói: “Tôi cho rằng có khả năng đây chính là món quà dành cho Iran”, ông miêu tả chiến dịch của Ixraen như “một tấm thẻ miễn phí để ra khỏi Hiệp ước NPT” dành cho Iran. Nếu không có nhũng nhà quan sát này, Mỹ sẽ phải trải qua một khoảng thời gian khó khăn hơn để xác định những gì mà Iran đang thực hiện tại Fordow, Natanz và nhũng địa điểm khác, và đặc biệt là nước này đang làm giàu Urani, một thành tố cơ bản của vũ khí hạt nhân ở mức độ nào. Trên hết, xét đến thái độ giận dữ của cộng đồng quốc tế đối với Ixraen bởi vì cuộc tấn công này thì sự liên kết rộng rãi về các biện pháp trừng phạt trên phạm vi quốc tế chống lại Iran mà Mỹ đã gắn kết trong suốt năm vừa qua có thể sẽ trở nên lỏng lẻo. Podesta cho rằng: “Chúng ta phải tránh sự tan rã nhanh chóng của các biện pháp trừng phạt.”
Vào một thời điểm nào đó gần cuối cuộc họp, West đã đưa ra một danh sách các khả năng có thể xảy ra đối với tình thế mà Mỹ hiện nay đang phải đối mặt. Ông ước tính rằng khả năng những người Ixraen bị tử vong vì hành động trả đũa của Iran là 100% và khả năng Ixraen sẽ tấn công đáp trả lại Iran là 50%. West cũng cho rằng khả năng đường phố Arập sẽ nổ ra sự chống đối là ở khoảng 50% đến 60%, có nghĩa là nguy cơ “những kẻ khủng bố giết chết người Mỹ không may thay là khá cao” Những kết luận đó khiến West phải cân nhắc những khả năng mà Mỹ cuối cùng sẽ dụng sức mạnh chết người để chống lại Iran. Ông nói: “Và sau khi lắng nghe cuộc đối thoại cả sáng nay, tôi đặt ra khả năng là…50-50, nó gần như một trò sấp ngửa đồng xu”. DeLeon đáp lại: “Tôi nghĩ tỷ lệ là cao hơn.”. Pickering: “Tôi đồng ý.”
Cuộc thảo luận này giống với cuộc họp ủy ban Những người chủ chốt đích thực đến đâu? Sau này Kerr đã nói với tôi trong một email rằng chương trình mô phỏng này đã đưa ông ấy trở lại với thời của Tổng thống George H. W. Bush, khi mà các cố vấn phải hướng dẫn Tổng thống vượt qua những cuộc khủng hoảng như cuộc xâm chiếm Côoét hoặc âm mưu đảo chính chống lại nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev. Những thành viên tham gia khác cho rằng cuộc thảo luận này có vẻ chân thật ngoài một điều cần phải cân nhắc đó là: tại các buổi họp trong đời sống thực tế, các nhà phân tích tình báo có lẽ sẽ không để cho mình trở nên ngoan cố đến như vậy.
… Một số nhà phân tích tôi trò chuyện cùng đã nói rằng hình thức thảo luận ấy có thể sẽ diễn ra ở những diễn đàn nhỏ hơn, giữa Tổng thống và các cố vấn chính trị của ông, chứ không phải cuộc họp của ủy ban Những người chủ chốt. Một nhân vật nội bộ trong Nhà Trắng đã nói với tôi ràng đó chính là nơi mà những cân nhắc cứng rắn hơn có thể được đưa ra. Ông nói: “Bạn có tưởng tượng được không khi Obama nói với 1 hoặc 2 người rằng nếu cuộc bầu cử sắp tới buộc ông ấy phải giải quyết sạch sẽ tình trạng hỗn độn của Netanyahu thì ông sẽ không quên kẻ đã gây ra sự hỗn loạn này”. Nhưng Podesta đã dặn dò hội những người tham gia hãy quên đi thời gian bầu cử. Ông đã phát biểu trong buổi họp rằng: “Tôi cho rằng Tổng thống sẽ muốn tất cả mọi người tuyệt đối rõ ràng rằng không hề có hoạt động chính trị nào trong tình huống này. Sẽ có một Cuộc thảo luận không thể tránh khỏi trên truyền thông về ảnh hưởng chính trị của bất cứ việc gì chúng ta sắp làm. Chúng ta chỉ phải phần lớn cố gắng phớt lờ nó đi.”
Cho dù hoạt động chính trị có đóng vai trò thế nào đi chăng nữa thì kết quả cuối cùng của chương trình mô phỏng này là một kết quả nghiêm túc: Oasinhtơn có thể nhanh chóng mất quyền kiểm soát các sự kiện sau một cuộc tấn công của Ixraen vào các cơ sở sản xuất hạt nhân Iran. Nếu Iran tấn công những người Mỹ hoặc cố gắng săn đuổi Ixraen một cách quá hung hăng thì thậm chí một chính quyền luôn mong muốn tránh một cuộc chiến tranh nữa tại khu vực Trung Đông có thể sẽ nhận ra rằng mình đang nằm trong chính cuộc chiến đó./.

1461. IRAN VÀ VŨ KHÍ HẠT NHÂN

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ hai, ngày 10/12/2012

IRAN KHÍ HẠT NHÂN

(Tạp chí Foreign Affairs, s tháng 9-10/2012)
Phải chăng một Iran có vũ khí hạt nhân sẽ làm cho Trung Đông trở nên an toàn hơn?
Một bước đi quá xa
Kenneth Waltz (nhà khoa học chính trị Mỹ) có lẽ đúng khi cho rằng một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân có thể được ngăn chặn để không cố tình sử dụng vũ khí hạt nhân hoặc không chuyển giao một thiết bị hạt nhân cho các phần tử khủng bố (trong bài “Tại sao Iran cần có bom” tháng 7- 8/2012). Nhưng ông đã rất sai lầm khi cho rằng nước Cộng hòa Hồi giáo này có thể sẽ trở thành một bên tham gia quốc tế có trách nhiệm hơn nếu nước này bước qua ngưỡng cửa hạt nhân. Trong khi đưa ra lập luận đó, Waltz miêu tả sai những động cơ của Iran và hiểu nhầm lịch sử một cách tồi tệ. Và bất chấp thực tế rằng Waltz là một trong những nhà lý luận có uy tín nhất thế giới về quan hệ quốc tế, ông không đưa việc nghiên cứu khoa học chính trị quan trọng vào những ảnh hưởng của vũ khí hạt nhân, bao gồm những phát hiện gần đây cho thấy các nước mới có vũ khí hạt nhân thường liều lĩnh và hiếu chiến trong cuộc xung đột ở mức độ thấp hơn.
Có lý trí nhưng nguy him
Waltz lưu ý một cách đúng đắn rằng các nhà lãnh đạo Iran, bất chấp giọng điệu cuồng tín của họ, về cơ bản là có lý trí. Vì ban lãnh đạo của Iran không muốn tự sát, không chắc chắn rằng một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân sẽ cố tình sử dụng một thiết bị hạt nhân hoặc chuyển giao nó cho các phần tử khủng bố. Tuy nhiên, mặc dù nước Cộng hòa Hồi giáo này là có lý trí, nước này vẫn nguy hiểm, và nó có thể trở nên thậm chí nguy hiểm hơn nếu nó phát triển vũ khí hạt nhân.
Chính phủ Iran hiện bảo trợ cho các tổ chức khủng bố và hỗ trợ lực lượng chiến binh khắp Trung Đông, một phần chứng tỏ khả năng trả đũa chống lại Mỹ, Ixraen, và các nước khác nếu họ tấn công Iran hoặc làm xói mòn những lợi ích của nước này. Nếu lo ngại duy nhất của ban lãnh đạo Iran là sự tồn tại của chính mình và ban lãnh đạo này tin rằng chỉ riêng một sự răn đe hạt nhân có thể mang lại cho nó sự bảo vệ đầy đủ, lúc đó với tư cách là một quốc gia có vũ khí hạt nhân, nước này có thể giảm bớt sự ủng hộ đối với các bên được ủy nhiệm để tránh các cuộc tranh chấp không cần thiết với các cường quốc hạt nhân khác.
Nhưng Iran không phải là một quốc gia nguyên trạng, và sự ủng hộ của nước này đối với các phần tử khủng bố và lực lượng chiến binh không chỉ là nhằm phòng thủ và trả đũa. Sự ủng hộ đó là một công cụ tấn công, nhằm gây sức ép và đe dọa các nước khác, gián tiếp mở rộng ảnh hưởng của Iran, và thúc đẩy chương trình nghị sự theo đường lối xét lại của mình, chương trình tìm cách làm cho Iran trở thành một cường quốc nổi bật ở Trung Đông, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Ixraen và “các cường quốc cao ngạo” ở phương Tây, thúc đẩy nhãn hiệu tư tưởng cách mạng Hồi giáo của mình, và khẳng định sự lãnh đạo của mình trong thế giới Hồi giáo rộng lớn hơn.
Têhêran hiện nay điều chỉnh sự hỗ trợ của mình đối với lực lượng chiến binh và việc bảo trợ chủ nghĩa khủng bố nhằm giảm thiểu những rủi ro của một cuộc đối đầu trực tiếp với các nước hùng mạnh hơn. Nhưng nếu các nhà lãnh đạo Iran nhận thấy rằng một kho vũ khí hạt nhân đem lại một sự ngăn chặn về căn bản mạnh mẽ hơn chống lại sự trả đũa, thì họ có thể sẽ theo đuổi các mục tiêu khu vực của họ một cách hăng hái hơn.
Cụ thể, một Têhêran được trang bị vũ khí hạt nhân cung cấp cho các chiến binh Hezbollah và Palextin vũ khí thông thường tinh vi hơn, tầm xa hơn, và chính xác hơn để sử dụng chống Ixraen. Trong một nỗ lực nhằm tăng cường những khả năng răn đe của các đồng minh này, Iran có thể xem xét trao cho họ các vũ khí có “khả năng lưỡng dụng”, khiến cho Ixraen phải phán đoán không biết các hệ thống này là hệ thống thông thường hay được trang bị nguyên liệụ hóa học, sinh học, hay hạt nhân. Một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân có thể cũng cho phép các lực lượng mà họ ủy quyền sử dụng các hệ thống vũ khí tiên tiến thay vì dự trữ chúng, vì nghe nói Têhêran đã huấn luyện Hezbollah sử dụng vũ khí trong cuộc chiến tranh năm 2006 của tổ chức chiến binh này với Ixraen.
Một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân, tin rằng mình có khả năng ngăn chặn mạnh mẽ và vì thế có thể thực hiện hành động bạo lực ở nước ngoài mà gần như không bị trừng phạt, cũng có thể, gia tăng tần suất và quy mô của các cuộc tấn công khủng bố vào các mục tiêu của Mỹ và Ixraen do Hezbollah và Lực lượng Quds, cánh quân hoạt động bí mật thuộc Lực lượng vệ binh Cách mạng Hồi giáo tinh hoa của Iran tiến hành. Và một Iran táo bạo hơn có thể gia tăng số lượng các lực lượng Vệ binh Cách mạng mà nước này đã triển khai đến Libăng, cho phép hải quân nước này can dự vào các cuộc biểu dương lực lượng thường xuyên hơn ở Địa Trung Hải, và tự khẳng định mạnh mẽ hơn ở Vịnh Pécxích và Eo biển Hormuz.
Để tăng cường hơn nữa hình ảnh của mình trong con mắt của các cử tọa trong nước và khu vực với tư cách là nhà lãnh đạo khối kháng chiến chống phương Tây, một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân có thể ứng phó với các cuộc khủng hoảng khu vực bằng cách đe dọa sử dụng tất cả các phương tiện sẵn có của mình để đảm bảo sự tồn tại của chế độ Assad ở Xyri, Hezbollah hay các tổ chức Palextin. Và Iran có thể được khuyến khích đóng vai trò là kẻ phá hoại trong tiến trình hòa bình Ixraen – Palextin bằng cách khuyến khích các cuộc tấn công của lực lượng chiến binh trên quy mô lớn và có thể tìm cách gây mất ổn định đối với các nước láng giềng thông qua hoạt động ngoại giao gây sức ép và lật đổ ở Irắc và các nước vùng Vịnh.
Ảnh hưởng đang gia tăng của những người theo đường lối cứng rắn “có nguyên tắc” ở Têhêran làm cho những khả năng đó thậm chí có thể trở thành hiện thực hơn. Thế giới quan của những người có nguyên tắc được định hình bởi niềm tin tư tưởng của họ vào điều không thể tránh được là sự suy thoái của Mỹ, sự thất bại của Ixraen, và sự nổi lên của Iran. Họ coi cuộc cạnh tranh với Mỹ và Ixraen là trò chơi được mất ngang nhau. Nếu Iran có vũ khí hạt nhân, những người có nguyên tắc này sẽ coi nó là sự khẳng định những niềm tin của họ và đẩy Chính phủ Iran đi xa hơn nữa theo hướng nguy hiểm và khiêu khích.
Chắc chắn, một Iran không có vũ khí hạt nhân đã can dự vào nhiều hoạt động gây mất ổn định. Nhưng được trang bị vũ khí hạt nhân, Têhêran có thể sẽ gia tăng gây rắc rối và tận dụng khả năng ngăn chặn của mình để hạn chế những lựa chọn phản ứng khả thi đối với các nước bị đe dọa.
Nghịch lý n định – mt n định
Waltz lập luận: “Lịch sử cho thấy khi các nước có bom hạt nhân, họ cảm thấy ngày càng dễ bị tồn thương và nhận thức sâu sắc rằng vũ khí hạt nhân của họ làm cho họ trở thành mục tiêu tiềm tàng trong mắt của các nước lớn. Nhận thức này ngăn chặn các nước có vũ khí hạt nhân hành động liều lĩnh và hiếu chiến”.
Trong khi viết bài này, Waltz bỏ qua một chặng đường dài trong lịch sử của các cường quốc hạt nhân đang nổi lên mà đang ứng xử một cách khiêu khích. Chẳng hạn, năm 1950 nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin đã bật đèn xanh cho Bắc Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc, do đó mở đầu cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Stalin rõ ràng đã cho rằng (không đúng) Mỹ không có khả năng ứng phó vì lúc đó Liên Xô đã phát triển vũ khí hạt nhân của riêng mình. Waltz cũng cho rằng Trung Quốc ít hiếu chiến hơn sau khi thử vũ khí hạt nhân 1964. Nhưng năm 1969, Mao Trạch Đông đã cho phép quân đội Trung Quốc tấn công các lực lượng của Liên Xô ở biên giới Trung-Xô. Cuộc tấn công này nhằm cảnh báo Mátxcơva chớ nên khiêu khích ở biên giới và huy động sự ủng hộ trong nước Trung Quốc cho cuộc cách mạng của Mao. Giống như Stalin trước ông, Mao có thể tin rằng những khả năng về vũ khí hạt nhân mới có của Trung Quốc sẽ hạn chế được cuộc xung đột hệ lụy. (Cuối cùng, các cuộc đụng độ biên giới đã gây ra một cuộc khủng hoảng lớn hơn Mao nghĩ, làm tăng khả năng về một cuộc tấn công hạt nhân của Liên Xô, và Trung Quốc đã nhượng bộ).
Waltz cũng khẳng định rằng “Ấn Độ và Pakixtan đều trở nên thận trọng hơn từ khi thử vũ khí hạt nhân”. Nhưng việc phát triển vũ khí hạt nhân của Pakixtan trên thực tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho chiến lược can dự của nước này vào cuộc xung đột cường độ thấp chống Ấn Độ, khiến cho tiểu lục địa này trở nên dễ bị khủng hoảng hơn. Như nhà khoa học chính trị S. Paul Kapur cho thấy, khi những khả năng hạt nhân của Ixlamabát gia tăng, tính dễ thay đổi của sự kình địch Ấn Độ-Pakixtan cũng, tăng lên. Từ năm 1998, khi cả Ấn Độ lẫn Pakixtan công khai thử các thiết bị hạt nhân, Ixlamabát dường như sẵn sàng hơn trong việc hỗ trợ các nhóm binh sĩ chiến đấu ở vùng Casmia tranh chấp và ủng hộ các tổ chức tiến hành các cuộc tấn công khủng bố ở những nơi khác ở Ấn Độ. Hơn nữa, năm 1999, Pakixtan đã cử các lực lượng thông thường được cải trang là lực lượng nổi dậy vượt qua Tuyến Kiểm soát ở quận Kargil thuộc Casmia, gây ra một cuộc chiến tranh có giới hạn với Ấn Độ. Hành động này được khuyến khích bởi lòng tin của người Pakixtan rằng sự răn đe hạt nhân của họ đã tạo ra những hạn chế rõ ràng về khả năng trả đũa của Ấn Độ bằng vũ khí thông thường. Hơn nữa, trong thập kỷ qua, các binh sĩ được Pakixtan hậu thuẫn đã can dự vào các cuộc tấn công khủng bố nổi bật ở bên trong Ấn Độ, bao gồm cuộc tấn công khủng bố năm 2001 vào tờa nhà quốc hội ở Niu Đêli và cuộc tấn công Mumbai năm 2008.
Waltz viết rằng “các nhà hoạch định chính sách và dân thường ở thế giới Arập, châu Ẩu, Ixraen, và Mỹ sẽ cảm thấy an tâm từ thực tế lịch sử đã chứng minh rằng ở đâu những khả năng hạt nhân nổi lên, thì sự ổn định cũng vậy”. Trên thực tế, hồ sơ lịch sử cho thấy cuộc cạnh tranh giữa một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân và những kẻ thù chính của nước này có thể đi theo mô thức được biết đến là ‘’nghịch lý n định – bất ổn định ” trong đó cái gọi là sự ổn định được tạo ra bởi khả năng bảo đảm hủy diệt lẫn nhau gây ra sự mất ổn định lớn hơn bằng cách tiến hành các hành động khiêu khích, các cuộc tranh chấp, và xung đột dưới ngưỡng hạt nhân dường như là an toàn.
Chẳng hạn, trong cuộc Chiến tranh Lạnh, sự răn đe hạt nhân đã ngăn chặn được cuộc chiến tranh thông thường trên quy mô lớn hoặc hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô. Tuy nhiên, đồng thời các siêu cường đã trải qua một số cuộc khủng hoảng trực tiếp và đối mặt với một loạt cuộc chiến tranh mượn tay kẻ khác đẫm máu ở Triều Tiên, Việt Nam, Ápganixtan, và Ănggôla, Nicaragoa, En Xanvađo, và các nơi khác. Một bài phân tích mang tính thống kê gần đây của nhà khoa học chính trị Michael Horowitz đã chứng minh rằng các nước lớn có vũ khí hạt nhân thiếu kinh nghiệm có xu hướng dễ xảy ra khủng hoảng hơn so với các dạng nước khác, và nghiên cứu của nhà khoa học chính trị khác, Robert Rauchhaus, đã cho thấy các nước có vũ khí hạt nhân có nhiều khả năng hơn can dự vào các cuộc tranh chấp quân sự hóa ở mức độ thấp với nhau, cho dù họ ít có khả năng hơn can dự cuộc chiến tranh trên toàn quy mô.
Nếu sự răn đe diễn ra theo cách Waltz nghĩ, thì một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân có thể làm giảm nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh thông thường lớn giữa các nước Trung Đông. Nhưng lịch sử cho thấy sự phát triển vũ khí hạt nhân của Têhêran sẽ khuyến khích chủ nghĩa phiêu lưu của Iran, dẫn đến khủng hoảng thường xuyên hơn và mạnh mẽ hơn ở Trung Đông. Các cuộc khủng hoảng đó kéo theo nguy cơ cố hữu nào đó về một cuộc trả đũa hạt nhân xuất phát từ sự tính toán sai lầm, một sự cố, hay việc sử dụng trái phép – một nguy cơ hiện không còn tồn tại nữa.
Mối đe dọa sẽ đặc biệt ở mức độ cao vào thời kỳ đầu sau khi Iran tham gia câu lạc bộ hạt nhân. Chẳng hạn, một khi các siêu cường đạt được sự cân bằng hạt nhân sơ bộ trong Chiến tranh Lạnh, số cuộc khủng hoảng trực tiếp đã giảm, và những rủi ro đi kèm của sự leo thang hạt nhân cũng giảm bớt. Nhưng trong những năm đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh, các siêu cường dính líu vào một số cuộc khủng hoảng, và trong ít nhất một sự kiện – cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 – họ đã đến gần một Cách nguy hiểm cuộc chiến tranh hạt nhân. Tương tự, mối quan hệ mang tính răn đe ổn định giữa Iran, một mặt, và Mỹ và Ixraen, mặt khác, có thể sẽ nổi lên qua thời gian, nhưng những năm đầu dễ xảy ra khủng hoảng sẽ làm sởn tóc gáy. Mặc dù tất cả các bên đều có sự quan tâm sâu sắc về việc không để cho các sự kiện vượt ra ngoài tầm kiểm soát, nguy cơ còn lại của sự leo thang vô tình xuất phát từ những thập kỷ thiếu tin cậy và thù địch, việc thiếu các tuyến thông tin liên lạc, và những sai lầm có tổ chức không phải là không đáng kể – và những hậu quả của thậm chí một tình huống có khả năng thấp có thể mang tính tàn phá.
Một mi đe dọa thực sự
Vì Waltz lạc quan về những ảnh hưởng của quá trình hạt nhân hóa của Iran, ông kết luận rằng “Mỹ và các đồng minh của Mỹ không cần phải chịu những nỗi đau như vậy để ngăn chặn không cho Iran phát triển một vũ khí hạt nhân”. Waltz tin rằng tác dụng duy nhất của hoạt động ngoại giao tiếp tục là duy trì “các tuyến thông tin liên lạc mở”, mà “sẽ làm cho các nước phương Tây cảm thấy dễ chịu hơn để có thể sống với một Iran có vũ khí hạt nhân”, và lập luận rằng “các biện pháp trừng phạt hiện nay đối với Iran có thể được giảm bớt”.
Waltz đã sai. Mối đe dọa từ một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân có thể không phải nghiêm trọng như một số người nghĩ, nhưng nó sẽ làm cho một Trung Đông vốn dễ thay đổi thậm chí dễ xay ra xung đột hơn. Việc ngăn chặn Iran vượt qua ngưỡng cửa hạt nhân vì thế vẫn là một ưu tiên hàng đầu của Mỹ. Vì một cuộc tấn công quân sự phòng ngừa vào cơ sở hạ tầng hạt nhân của Iran bản thân nó có thể mở đầu một loạt hậu quả không thể đoán trước được và gây mất ổn định, giải pháp tốt nhất và bền vững nhất cho sự thách thức hạt nhân của Iran là tìm kiếm một giải pháp thương lượng thông qua sự kết hợp sức ép kinh tế và ngoại giao. Có thể phản đối việc vội vàng đi tới chiến tranh với Iran mà không lập luận, như Waltz đã làm, rằng một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân sẽ làm cho thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn.
Những giải đáp của Waltz
Trong khi lập luận rằng một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân sẽ đem lại một mối đe dọa không thế chấp nhận được cho Mỹ và các đồng minh của Mỹ, Colin Kahl bác bỏ lý lẽ của Waltz cho rằng các nước có xu hướng trở nên thận trọng hơn khi họ có vũ khí hạt nhân và cho rằng Waltz giảm thiểu mối đe dọa tiềm tàng của một nước Cộng hòa Hồi giáo táo bạo. Ông cáo buộc Waltz hiểu sai lịch sử và cho rằng Waltz đánh giá quá cao sự ổn định do sự răn đe hạt nhân mang lại. Trên thực tế, chính Kahl hiểu lầm hồ sơ lịch sử và không nắm được những hậu quả của sự răn đe hạt nhân.
Theo quan điểm của Kahl, các nước mới có vũ khí hạt nhân không nhất thiết ứng xử như các cường quốc nguyên trạng và thay vào đó có thể theo đường lối xét lại ở mức độ cao. Trong khi tìm kiếm một tiền lệ, ông làm nổi bật thực tế rằng Liên Xô đã khuyển khích Bắc Triều Tiên phát động một cuộc xâm lược nguy hiểm tiềm tàng đối với Hàn Quốc vào năm 1950, ngay sau khi Liên Xô thử quả bom hạt nhân đầu tiên của mình. Nhưng Kahl không giải thích bối cảnh của quyết định đó. Vào thời điểm trước đó, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson đã công khai xác định những cam kết an ninh của Mỹ ở châu Á; việc bảo vệ Hàn Quốc không nằm trong số những cam kết đó. Mỹ cũng đã đánh tín hiệu không quan tâm đến việc bảo vệ Hàn Quốc bằng cách giảm vũ trang cho họ với đủ vũ khí để đẩy lùi một cuộc xâm lược do Liên Xô hậu thuẫn của Bắc Triều Tiên. Vì vậy Liên Xô đã có lý do chính đáng để cho rằng Mỹ sẽ không phản ứng nếu Bắc Triều Tiên tấn công. Dưới ánh sáng của những thực tế này, thật khó cho rằng việc Stalin khuyến khích cuộc xâm lược này là một ví dụ về hành vi ứns xử táo bạo, theo đường lối xét lại. Trái với những lý lẽ của Kahl, việc mở đầu cuộc Chiến tranh Triều Tiên không phải là bằng chứng về chủ nghĩa phiêu lưu hạt nhân cua Liên Xô, và do đó nó không nên được hiểu là một câu chuyện cảnh báo khi xem xét sự tác động tiềm tàng mà việc sở hữu một kho vũ khí hạt nhân sẽ gây ra đối với hành vi ứng xử của Iran.
Kahl dường như chấp nhận rằng vũ khí hạt nhân tạo ra sự ổn định – hay ít nhất sự ổn định dưới một hình thức nào đó. Nhưng ông lưu ý – như hầu hết các học giả vẻ vấn đề hạt nhân đã làm – kể cả chính mình – rằng sự ổn định hạt nhân cho phép xảy ra bạo lực ở mức độ thấp hơn. Lợi dụng sự bảo vệ mà các kho vũ khí nguyên tử của họ mang lại, các nước được trang bị vũ khí hạt nhân có thể cảm thấy tự do hơn để tiến hành các cuộc tấn công nhỏ hơn, triển khai chủ nghĩa khủng bố, và can dự vào hành vi ứng xử gây khó chịu nói chung. Nhưng câu hòi là những hành vi ứng xử gây khó chịu đó có ý nghĩa như thế nào so với hòa bình và ổn định mà vũ khí hạt nhân mang lại.
Kahl nêu lên ví dụ về Pakixtan, vũ khí hạt nhân của nước này có thể làm tăng tinh thần sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh cường độ thấp chống Ấn Độ, khiến cho tiểu lục địa này trở nên dễ xảy ra khủng hoảng hơn. Như Kahl đã lập luận đúng, sự thèm khát vũ khí hạt nhân gia tăng của Pakixtan vì liều lĩnh có thể đã đóng vai trò trong việc thúc đẩy cái gọi là cuộc Chiến tranh Kargil giữa Án Độ và Pakixtan năm 1999. Nhưng cuộc Chiến tranh Kargil là cuộc chiến tranh thứ 4 do hai nước tiến hành, và nó mờ nhạt so với ba cuộc chiến tranh mà họ đã tiến hành trước khi hai nước phát triển vũ khí hạt nhân. Trên thực tế, cuộc xung đột Kargil là một cuộc chiến tranh chỉ theo các nhà khoa học xã hội, những người định nghĩa một cách kỳ quặc “chiến tranh” là bất cứ cuộc xung đột nào làm thiệt mạng 1.000 người trở lên trên chiến trường. Theo những chuẩn mực lịch sử, tỉ lệ thương vong đó ít hơn nhiều so với một cuộc đụng độ. Không chứng minh được rằng các nước mới có vũ khí hạt nhân không bị ảnh hưởng bởi lôgích răn đe, cuộc Chiến tranh Kargil hỗ trợ lập luận cho rằng vũ khí hạt nhân ngăn chặn các cuộc xung đột nhỏ trở thành các cuộc chiến tranh lớn. Quả thực, vũ khí hạt nhân là vũ khí thúc đẩy hòa bình duy nhất mà thế giới từng biết, và không có lý do gì để tin rằng mọi việc sẽ khác nếu Iran có những vũ khí đó.
Kahl cũng băn khoăn rằng một Iran được trang bị vũ khí hạt nhân có thể tăng cường hỗ trợ các tố chức khủng bố. Chủ nghĩa khủng bố là bi kịch cho những ai mà cuộc sống của họ bị khủng bố hủy hoại và làm nhụt chí các nước phải hứng chịu nó. Nhưng con số thương vong hàng năm do hoạt động khủng bố quốc tế gây ra là tương đối nhỏ so với con số thương vong do các cuộc chiến tranh lớn gây ra. Tất nhiên, giống như Kahl, Waltz sẽ không hoan nghênh việc Iran gia tăng sự hỗ trợ đối với Hezbollah hay việc Iran gia tăng cung cấp thêm vũ khí tiềm tàng cho các chiến binh Palextin. Và Waltz cũng hy vọng về một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột Ixraen-Pakixtan và các cuộc tranh chấp giữa Ixraen và các nước láng giềng của nước này. Nhưng vài thập kỷ qua không có lý do gì để tin rằng có thể dễ dàng đạt được các mục tiêu đó, và Waltz muốn nhìn thấy khả năng xảy ra chiến tranh lớn giảm bớt thông qua sự ổn định hạt nhân, cho dù cái giá phải trả là sự gia tăng các hoạt động gây rối loạn và xung đột ở mức độ thấp.
Đúng vài tháng trước trên tạp chí này, Kahl đã bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ về cuộc tấn công ngăn chặn đã được đề nghị vào các cơ sở hạt nhân bị nghi ngờ của Iran, đồng thời cảnh báo rằng nó có thể gây ra một cuộc chiến tranh khu vực (trong bài “Không phải thời điểm để tấn công Iran”, số ra tháng 3,4 năm 2012). Waltz đã đồng ý. Nhưng Kahl và Waltz có quan điểm khác nhau về những gì mà Mỹ có thể đạt được trong giải pháp cuối cùng của mình với nước Cộng hòa Hồi giáo này. Kahl dường như tin rằng Mỹ có thể từ bỏ hành động quân sự liều lĩnh và vẫn ngăn chặn Iran không đế nước này có vũ khí hạt nhân thông qua sự kết hợp các biện pháp trừng phạt và ngoại giao. Waltz rất nghi ngờ điều đó. Nếu không sử dụng lực lượng quân sự, thật khó hình dung làm thế nào có thể ngăn chặn được Iran không sở hữu vũ khí hạt nhân nếu nước này quyết tâm làm như vậy. Kết quả đó có thể làm gia tăng đáng tiếc hoạt động khủng bố và xung đột ở mức độ thấp hơn. Nhưng lợi ích của sự ổn định khu vực sẽ nhiều hơn phí tổn./.

1462. Ai chủ trương không phản biện Trung Quốc về Biển Đông?

Ai chủ trương không phản biện quan điểm của các học giả và nhà nước Trung Quốc về Biển Đông?

Thư ngỏ

Kính gửi:
- GS.TS Phạm Vũ Luận, Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo
- PGS.TS Phan Thanh Bình, Giám đốc Đại học quốc gia TP.HCM
- PGS.TS Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM
Đồng kính gửi cơ quan PA 83 CA TP.HCM và A 83 Bộ Công An biết để “Bảo vệ chính trị nội bộ”.
Tôi tên Đinh Kim Phúc, người có nhiều bài nghiên cứu về Biển Đông và hải đảo Việt Nam, xin trình bày với quý vị một số vấn đề sau đây:
Ngày 4 tháng 10 năm 2012 tôi đã nhận được thư mời của PGS.TS Võ Văn Sen về việc tham gia hội thảo “Hợp tác Biển Đông: Lịch sử và triển vong” sẽ được tổ chức vào trung tuần tháng 12 tại Đà Nẵng (lời mời lần thứ nhất tham dự hội thảo đã từng phải tạm hoãn bởi công văn số 127/XHVV-KH của PGS.TS Phạm Quang Minh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội). Sau khi nhận được thư mời tôi đã gửi tham luận “Phản biện quan điểm của một số học giả Trung Quốc về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam” đúng quy định và nhận được sự khích lệ của PGS.TS Hà Minh Hồng, Trưởng Khoa Lịch sử.
Nhưng bất ngờ vào sát ngày khai mạc hội thảo, ngày 10/12/2012 tôi nhận được giấy báo “Trong khuôn khổ của Hội thảo có hạn, báo cáo của ông không nằm trong các báo cáo được chọn báo cáo tại Hội thảo” do PGS.TS Võ Văn Sen ký.
Tôi có 3 câu hỏi gửi đến quý ông và Ban tổ chức Hội thảo “Hợp tác Biển Đông: Lịch sử và triển vong”:
  1. Tham luận và sự có mặt của tôi tại Hội thảo có làm phật ý ai không?
  2. Ngay sau khi nhận được giấy báo từ chối tôi có trao đổi với PGS.TS Hà Minh Hồng thì được biết một trong những lý do từ chối tham luận của tôi là Ban tổ chức Hội thảo chủ trương không phản biện quan điểm của các học giả và nhà nước Trung Quốc về Biển Đông.
Câu hỏi đặt ra là: tổ chức hội thảo về Biển Đông mà không phản biện lại những quan điểm sai trái của các học giả và nhà nước Trung Quốc về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thì hội thảo nhằm mục đích gì? Phải chăng tổ chức hội thảo là nhằm tiêu hết tiền thuế của nhân dân?
  1. Câu hỏi thứ 3: Ban tổ chức Hội thảo nhận được bao nhiêu tiền từ phía Trung Quốc để gạt tôi ra khỏi hội thảo này?
Với 3 câu hỏi trên, mong nhận được lời giải đáp thỏa đáng từ quý vị.
Chào trân trọng
NNC Đinh Kim Phúc
Đính kèm:
- Toàn văn bài tham luận:


PHẢN BIỆN QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ HỌC GIẢ TRUNG QUỐC
 VỀ CHỦ QUYỀN TRÊN HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA-TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM
                                                                                                                              ĐINH KIM PHÚC
Sự xung đột trong tuyên bố về chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông của Trung Quốc, nơi có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt dồi dào và là con đường hang hải huyết mạch với các nước trong khu vực đang làm gia tăng nguy cơ có thể dẫn tới chiến tranh tại vùng biển Đông Nam Á.
Ngày 2/3/2011, tàu tuần tra Trung Quốc hoạt động trong nhóm đảo Kalayaan của Philippines tiếp cận một tàu khảo sát địa chấn của Philippines trong vùng biển ngoài khơi bãi Cỏ Rong và ra lệnh cho con tàu này rời khỏi khu vực.
Theo thông báo của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), ngày 26/5/2011 các tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động bình thường của PVN. Tàu hải giám Trung Quốc đã đe dọa tàu Bình Minh 02, cắt cáp thăm dò địa chấn tại lô 148 Thềm lục địa Việt Nam, cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) 120 km hải lý. Hoạt động thăm dò của tàu Bình Minh đã được diễn ra một cách bình thường từ năm 2010 không có tranh chấp.
Cáp tàu Bình Minh 02 bị tàu hải giám Trung Quốc phá hoại.
Ngày 28/5, hai ngày sau khi Việt Nam cáo buộc tàu hải giám Trung Quốc gây hấn với tàu thăm dò Việt Nam, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra thông cáo nói đây là “hoạt động bình thường trong vùng biển chủ quyền” của nước này.
Sau đó, tại cuộc họp báo hôm thứ Ba 31/5, người phát ngôn Khương Du nhắc lại lập trường của Trung Quốc: “Tàu hải giám của Trung Quốc chỉ làm việc thực thi pháp luật trước sự hoạt động bất hợp pháp của tàu Việt Nam. Đây là hành động hoàn toàn chính đáng (của Trung Quốc)”. “Chúng tôi yêu cầu phía Việt Nam dừng ngay các hoạt động của họ và không gây thêm rắc rối”.
Tiếp đó, ngày 9/6/2011, tàu khảo sát địa chấn Viking 2 mà Việt Nam thuê của Pháp đã bị tàu cá của Trung Quốc phá dây cáp vào buổi sáng.
Thông tin từ PVN cho biết, tàu cá của Trung Quốc mang số hiệu 6226 đã chạy với tốc độ cao ngang qua và phá hoại dây cáp thăm dò của Viking 2 “bằng thiết bị chuyên dụng”, gây rối cáp khiến tàu này phải ngừng hoạt động.
Đây là một việc làm “hoàn toàn có chủ ý, được tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng” và được tiếp sức bởi nhà cầm quyền Trung Quốc. Ngay sau khi Người phát ngôn Việt Nam tổ chức họp báo thì Hồng Lỗi, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã cáo buộc Việt Nam đã “vi phạm chủ quyền của Trung Quốc” trong vụ xảy ra sáng ngày 9/6/2011.
Tân Hoa Xã dẫn lời Người phát ngôn Trung Quốc nói: “Tàu cá Trung Quốc, trong khi hoạt động tại vùng biển trên, đã bị tàu có vũ trang của Việt Nam xua đuổi”. “Trong khi đuổi bắt lộn xộn, lưới của một trong các tàu cá Trung Quốc bị vướng vào dây cáp của một tàu thăm dò dầu khí Việt Nam, vốn đang hoạt động bất hợp pháp trong vùng biển này”.
Nhưng sự thật là vị trí xảy ra sự việc là ở lô 136.03, hoàn toàn nằm trong vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam.
Nhưng những diễn biến tiếp theo các học giả Trung Quốc lại đặt “16 chữ vàng” bên lề tình hữu nghị.
Giáo sư Lý Kim Minh, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại học Hạ Môn trong bài viếtNguồn gốc và sự tranh cãi đang diễn ra về vấn đề Biển Đông” đăng trên “Beijing Review”(1/8/2011) đã nhận xét: ‘Pháp đã không kiểm soát quần đảo Nam Sa sau chiến tranh thế giới thứ II. Hơn nữa, không có tài liệu chứng minh việc chuyển giao giữa Pháp và Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam thừa nhận quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa là lãnh thổ Trung Quốc trong quá khứ. Vì vậy, dựa trên nguyên tắc estoppel của luật pháp quốc tế, chính phủ Việt Nam hiện nay nên tuân theo ghi nhận trước đó”.(1)
Vu Hướng Đông, Giáo sư Viện trưởng Viện nghiên cứu Việt Nam, Học viện Chủ nghĩa Mác, Đại học Trịnh Châu, lại càng hồ đồ: “Trong quá trình phát triển quan hệ Trung – Việt, tranh chấp Nam Hải bắt đầu từ những năm 70 thế kỷ trước đã trở thành nhân tố tiêu cực lớn. Trong bối cảnh biến động ghê gớm về địa chính trị trên thế giới và khu vực, phương thức của Việt Nam thông qua dư luận để tuyên truyền và chiếm đóng về mặt quân sự, không ngừng khuấy lên tranh chấp với Trung Quốc ở Nam Hải đã trở thành một trong những nhân tố làm cho quan hệ Trung-Việt hiện nay xấu đi, cũng khiến cho quan hệ hai nước trong thể kỷ 21 đứng trước thử thách nghiêm trọng.
Mọi người đều biết, năm 1958 trong một bức thư ngoại giao do Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai đã công nhận chủ quyền đối với Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa và Trường Sa) là thuộc về Trung Quốc, năm 1974 lại công khai ủng hộ cuộc chiến phản kích tự vệ của Trung Quốc ở quần đảo Tây Sa. Năm 1975, sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã hoàn toàn thay đổi lập trường trong vấn đề Nam Hải. Mùa Xuân năm đó hải quân Việt Nam đã căn cứ theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam bí mật xuất quân, chiếm lĩnh trái phép các đảo thuộc quần đảo Nam Sa như đảo Nam Tử (Việt Nam gọi là Song Tử Tây), đảo Cát (hay còn gọi là bãi cát Đôn Khiêm), (Việt Nam gọi là đảo Sơn Ca), đảo Hồng Hưu (Việt Nam gọi là đảo Nam Yết), đảo Cảnh Hồng (Việt Nam gọi là đảo Sinh Tồn). Nửa cuối những năm 70 đầu những năm 80 Việt Nam lần lượt công bố 4 sách trắng và một số bài nghiên cứu, tuyên bố các quần đảo Tây Sa và Nam Sa là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, đánh lừa cộng đồng quốc tế. Trước việc làm nói trên, Trung Quốc đã kiên quyết đáp trả và tỏ rõ lập trường nghiêm chỉnh của mình. Sau đó Việt Nam lại tiếp tục gặm nhấm thêm một bước các đảo của Trung Quốc, tăng cường xâm chiếm trái phép, không ngừng nâng cao quy cách hoạch định khu vực quản lý hành chính đối với cái gọi là “quần đảo Hoàng Sa” và “quần đảo Trường Sa”, đồng thời mở rộng mức độ hợp tác với các công ty nước ngoài, tiến hành thăm dò khai thác dầu khí, ngang nhiên cướp đoạt tài nguyên biển của Trung Quốc” (2).
Ngoài ra còn có Tôn Hồng Niên, Nghiên cứu viên thuộc Trung tâm nghiên cứu Sử Địa biên giới, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, Vương Hàn Lĩnh, Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Luật pháp quốc tế, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, Giáo sư Tô Hạo, Đại học Ngoại giao Trung Quốc…quan điểm không có gì khác với lập trường của chính phủ Trung Quốc hiện nay.

Lịch sử tranh chấp 2 quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa đối với Việt Nam của Trung Quốc có đúng như thế không?
Bài viết này nhằm phản bác lại quan điểm sai trái và hàm hồ của các học giả Trung Quốc.
Nhà nghiên cứu Hồng Lê Thọ đã nhấn mạnh: “Nhà cầm quyền Trung Quốc hiện nay đang cố gắng dùng lời lẽ ngọt ngào trong đàm phán ngoại giao, với những thông điệp rất êm tai như “hòa bình”, “hữu nghị”, “láng giềng thân thiện”… hay gần đây nhất là “sơn thủy tương liên, văn hóa tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan” của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào khi đề cập đến quan hệ Trung-Việt nhưng bên trong và hành động trên thực tế hoàn toàn trái ngược, áp đặt “một chiều” để lấn át  và răn đe thô bạo kiểu Trung Quốc. Nhìn hạm đội của Trung Quốc trong tư thế vũ trang sẵn sàng chiến đấu, thao dượt rầm rộ trên biển Đông và liên tục bắt bớ tàu đánh cá, đánh đập ngư dân Việt Nam trong vùng biển Hoàng Sa, xem biển Đông và Nam Trung Hoa như ao nhà, người ta không thể không cảnh giác trước uy hiếp về quân sự của Trung Quốc. Tư tưởng biên giới lãnh thổ mở rộng và luôn biến động theo tầm địa lý của lợi ích quốc gia trong một số nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc càng kích động những người quá khích chạy theo chủ nghĩa dân tộc ích kỷ và bành trướng, đưa nguy cơ xung đột ngày càng có điều kiện bùng nổ bất cứ lúc nào.
Không thể xây dựng niềm tin trên sự giả dối và càng không thể thương thảo khi đối tác lăm lăm gươm giáo, đằng đằng sát khí, với mùi khét của khói súng lãng vãng bên cạnh. Lời nói phải đi đôi với việc làm với thái độ tự trọng và biết kiềm chế, tương kính lẫn nhau là điều kiện tiên quyết để tìm lối thoát hợp lý và công bằng vì một nền hòa bình và ổn định dài lâu để cùng phát triển phải chăng là một đòi hỏi quá đáng hay ngược lại đang nằm trong tầm tay của các nhà lãnh đạo Trung Quốc nếu họ chấp nhận từ bỏ tư tưởng Đại Hán?”(3), Tác giả Hồng Lê Thọ kêu gọi: “Với tình hình quốc tế hiện nay, việc “đa phương hóa” hay”quốc tế hóa” vấn đề biển Đông đã có được những tiền đề vô cùng thuận lợi, không nhất thiết phải lo lắng thái quá trước động thái phá hoại hay ngăn cản từ một phía nào đó, mà theo chúng tôi chẳng qua là họ bắt buộc phải lên tiếng hung hăng như bao lần, vẫn cứng cổ rằng “không thể tranh cãi” trong yêu sách ngoan cố về chủ quyền của Trung Quốc ở biển Đông ngang ngược và trái khoáy với “chiếc lưỡi bò” lãnh hải vô căn cứ “do lịch sử để lại”. Trước khi chấp nhận một giải pháp đa phương, nhà đương cuộc của Trung Quốc có thể có hành động làm càn, ra tay trước để thị uy. Vì vậy việc cảnh giác trước mọi động thái hiếu chiến và khả năng sử dụng vũ lực của Trung Quốc nhằm chiếm đoạt toàn bộ quần đảo Trường Sa, Việt Nam cần phải có phương án để đối phó một cách hữu hiệu và nâng cao nhận thức bảo vệ chủ quyền hải đảo trong nhân dân hơn bao giờ hết”.(4)
1. Tư duy biển cả của Trung Quốc
Giới hạn cương vực vùng Hoa Nam của Trung Quốc
Bộ Hải ngoại Ký sự của nhà sư Thích Đại Sán đã được nhiều người biết đến khi nghiên cứu quan hệ quốc tế của Đại Việt vào thế kỷ XV-XVII. Tác giả là một nhà sư đời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa dưới triều Nguyễn Phúc Chu ngày 13/3/1695 và rời chùa Thiền Lâm vào Hội An để về Quảng Đông ngày 7/8/1695.
Đọc các đoạn văn tại quyển III của Hải ngoại Ký sự, chúng ta có thể nhận thấy rằng trong thế kỷ XVII chủ quyền VN trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được quản lý dưới nhiều hình thức khác nhau:
“Khách có người bảo mùa gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước và sau ngày lập Thu. Chừng ấy gió Tây Nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng 4,5 ngày đêm có thể đến Hổ Môn.
Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bấc dần dần thổi lên, nước chảy về hướng Đông, sức gió Nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về phía Đông, lúc đó sẽ khó giữ được sự yên ổn.
Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây Nam; Động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển; mặt cắt khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “Vạn lý Trường Sa”, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; Nếu thuyền bị trái gió trái nước tấp vào dầu không tan nát cũng không gạo, không nước, trở thành ma đói mà thôi.
Khoảng cách đến Đại Việt là bảy canh đường, bảy canh bằng khoảng 700 dặm. Các quốc vương thời trước, hàng năm sai thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các tàu thuyền hư hỏng dạt vào.
Mùa thu nước dòng cạn rút về hướng Đông bị một ngọn sóng đưa đi, thuyền có thể trôi xa hàng trăm dặm, gặp khi gió mạnh, càng sợ gặp hiểm hoạ Trường Sa.(5)
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía Nam của Trung Quốc.
Những dữ liệu kể trên chúng tôi thấy phù hợp với tất cả các bản đồ mà các nhà hàng hải phương Tây và kể cả bản đồ của Trung Quốc đương thời đã miêu tả cương vực vùng Hoa Nam của Trung Quốc từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XX.




Bản đồ 1:








              Bản đồ Trung Quốc năm 1625 của Samuel Purchas
[Ấn tượng sâu đậm về bản đồ Trung Quốc của ông Purchas, bản đồ được nhiều người xem như là bản đồ đầu tiên của Trung Quốc xuất bản ở châu Âu, bắt nguồn trực tiếp từ các nguồn ở Trung Quốc.
Bản đồ hiếm hoi bằng tiếng Anh và quan trọng xuất hiện rất sớm này là mô hình cho các bản đồ sau này của De Bry và Semedo. Nó được xuất bản lần đầu tiên trong Purchas his Pilgrimes, bộ sưu tập các tác phẩm du lịch, dựa trên công việc của nhà địa lý nổi tiếng, ông Richard Hakluyt (1552-1616). Purchas đã ghi lại rằng bản đồ của ông ban đầu dựa vào bản đồ Trung Quốc, ghi lại bởi Captain Saris, một thương gia người Anh tại cảng Bantam  (Indonesia). Có thể bản đồ Trung Quốc này là “Cao Map” năm 1593, bản đồ mà hiện tại chỉ có một bản duy nhất làm ví dụ. Các hình vuông và hình tròn mô tả các thành phố và các khu định cư. Các tỉnh của Trung Quốc được đánh dấu và ranh giới cho thấy, có lẽ lần đầu tiên nó có trên bản đồ phương Tây. Lưu ý rằng Macau và Quảng Châu đều được đặt tên. Các họa tiết ở các góc đã vẽ Matteo Ricci và một cặp vợ chồng Trung Quốc].
(Nguồn:http://www.raremaps.com/gallery/detail/23040/The_Map_of_China/Purchas.html)
Bản đồ 2:
China Veteribus Sinarumregio nunc Incolis Tame dieta năm 1636 của Hondius,
Jodocus & Jansson, Jan
[Một bản đồ khu vực thanh lịch được chạm khắc với phần phía đông của Trung Quốc (phía tây bắc giáp ranh với Vạn Lý Tường Thành) trong đó có nhiều hồ lớn. Chaimay Lacus hư cấu cho thấy có nhiều con sông chảy về phía Nam vào Ấn Độ và Xiêm. Hàn Quốc được mô tả là một hòn đảo có hình dạng kỳ lạ ngăn cách với đất liền bằng một eo biển hẹp. Đài Loan nằm ở vị trí khá chính xác, cả hai được đặt tên là Pakan al I. Formosa và Tayoan. Tuy nhiên, Hàn Quốc vẫn còn là một hòn đảo, và Nhật Bản gồm ba hòn đảo. Bản đồ được trang trí với nhiều con tàu châu Âu chạy bằng buồm và những chiếc thuyền tam bản của Trung Quốc, trang trí các khoảng cách cố định, và tiêu đề được vẽ hình xoắn ốc, hai bên là một người đàn ông và một người phụ nữ Trung Quốc. Dựa trên các cuộc điều tra của các thầy tu dòng Tên, bản đồ đại diện cho phiên bản chính tiếp theo trong bản đồ học của Trung Quốc, theo sau bản đồ Ortelius 1584].
Bản đồ 3:

Bản đồ Trung Quốc năm 1655 của Blaeu/Martini
[Bản đồ Trung Quốc do nhà xuất bản Blaeu phát hành, dựa trên dòng Tên Martini.Amsterdam phát hành lần đầu năm 1655. Kỹ thuật: khắc bằng đồng]

(Nguồn: www.helmink.com/Antique_Map_Blae...hina.jpg)

Bản đồ 4:



Bản đồ Trung Quốc năm 1781 của Bellin, J.N
[Bản đồ Trung Quốc với Hàn Quốc và Đài Loan. Tiêu đề trang trí theo hình xoắn ốc ở ba góc. Phát hành không phổ biến của Ý. Các thị xã, thành phố chính được thấy với một điểm màu đỏ (Hàn Quốc ở phía bắc với các khu định cư chính. Sông và núi cho thêm chi tiết địa hình). Đảo Hải Nam được tô màu xanh và là giới hạn phía Nam của Trung Quốc].

Nguồn: (http://www.swaen.com/antique-map-of.php?id=9652)


Bản đồ 5:

Bản đồ năm 1812 của Trung Quốc (mười tám tỉnh) của Arrowsmith và Lewis, được in ở Boston bởi Thomas & Andrews

[Mặc dù được vẽ từ năm 1812, bản đồ này không thể hiện chính xác Trung Quốc (mười tám tỉnh) vào năm 1812.
- Giang Nam, Hồ Quảng, và Sơn Tây đã bị phá vỡ hồi thế kỷ 17 thành Giang Tô và An Huy, Hồ Bắc và Hồ Nam, Cam Túc và Sơn Tây. Điều này không thể hiện trên bản đồ, mặc dù xảy ra trước đó khoảng 150 năm.
- Hải Nam và Đài Loan được thể hiện như là các tỉnh (có lẽ, vì màu sắc của nó khác nhau). Thực tế, Đài Loan đã là một tỉnh hồi năm 1885, hơn 70 năm sau khi bản đồ này đã được lập ra, trong khi Hải Nam trở thành một tỉnh hồi năm 1988, hơn 170 năm sau khi bản đồ này được lập].
(Nguồn: http://maps.library.umass.edu/raster/other_historical/arrow.html)

Bản đồ 6:


Bản đồ Trung Quốc năm 1855 của J.H. Colton

Bản đồ 7:

Bản đồ Trung quốc năm 1910 (thời Nhà Thanh).
[Bản đồ rõ ràng không phải của Trung Quốc mà do người phương Tây vẽ về thời nhà Thanh, Trung đế quốc vào năm 1910 AD, một năm sau chủ quyền của Trung Quốc bị đe dọa và bị bao vây hơn 70 năm.
Trong Bản đồ năm 1910 này, được vẽ một năm trước khi hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh, Tuyên Thống (còn có tên Aisin-Gioro Pu Yi) thoái vị và cuối cùng đã kết thúc giai đoạn lịch sử phong kiến Trung Quốc, Trung Quốc được vẽ với ranh giới và sự xác định nhỏ nhất. Đáng chú ý là vùng Đông Bắc (Mãn Châu), và Nội Mông, cả hai vùng lãnh thổ trên danh nghĩa do Trung Quốc kiểm soát và thuộc chủ quyền của Trung Quốc được vẽ như các khu vực riêng biệt].

(Nguồn: http://www.drben.net/files/China/ChinaMaps-ALL/Historic_Maps/Qing_Dynasty-1644-1911/_Ancient_Maps__Asia_-_Chinese_Empire_1910-S_op_800×611.jpg)

Bản đồ 8:
Bản đồ của Trung Hoa Dân Quốc năm 1936 do "Sheng Bao" (nhà xuất bản của một tờ báo) xuất bản cũng đã thển hiện cực Nam của Trung Quốc cũng chỉ tới đảo Hải Nam.
Những luận cứ và luận chứng kể trên càng được củng cố hơn khi tác chúng tôi phát hiện ra hàng loạt bản đồ cổ của Trung Quốc thì cương vực phía Nam của Trung Quốc cũng chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam. Các học giả Trung Quốc lý giải ra sau về bằng chứng này?
Bản đồ 9:
Đường Đại Cương Vực Đồ (bản đồ Triều Đường)

[Bản đồ này là của Trung Hoa Dân Quốc ấn hành dùng để giảng dạy trong nhà trường (!)]

Bản đồ 10:

Bản đồ đời Tống vẽ trên đá

(Đây là bản đồ Trung Quốc “Vũ Tích Đồ” [Yu Ji Tu] (bản đồ về dấu tích của vua Vũ/ Đại Vũ). Bản đồ này được khắc vào đá vào năm 1137 thời nhà Tống đặt tại khu Bi Lâm (vườn sưu tập Bia cổ) Tây An.  Đại Vũ là vị vua trong thần thoại Trung Quốc ở thế kỷ thứ V tr.CN , được nhắc đến trong thiên Vũ Cống (là phần viết về địa lý trong Kinh Thư), 1 chương trong Lịch sử Cổ đại. Needham & Chavannes khẳng định rằng bản đồ gốc phải được hình thành vào thế kỷ XII.

Mỗi ô vuông trên bản đồ tượng trưng cho100 li (đơn vị đo lường cổ của Trung Hoa). Bản đồ có diện tích tổng thể là 3 feets vuông.Đường viền biển tương đối chính xác và độ chính xác của hệ thống sông ngòi thì cực kỳ chính xác. Không rõ danh tính những nhà địa lý và họa đồ viên khởi phát  làm nên tấm bản đồ này.

Vào năm 1142, một bản sao của bản đồ được bảo tồn tại Trấn Giang (Zhenjiang), tỉnh Giang Tô (Jiangsu) do một người tên  Du Trì [Yu Chi], lúc ấy là Giáo học phủ Trấn Giang. Cũng có nhắc đến một bản sao trước đó vào khoảng năm 1100, dựa trên phiên bản Chang’an. Needham xác định rằng bản đồ được sử dụng chủ yếu để dạy học sinh về các khu vực được mô tả trong thiên Vũ Cống [Yu Gong ] của Lịch sử Cổ đại Trung Quốc.

Ảnh này được Pericles của Athens chụp từ Khoa học & văn minh Trung Hoa của tác giả Joseph Needham: Chương 13, Mathematics and the Sciences of the Heavens and the Earth (Toán học & Khoa học của Thiên đường & trái đất), trang PLATE LXXXI, trang 547-549).






Bản đồ 11:

Đại Minh Hỗn nhất đồ, được vẽ trên vải lụa vào năm 1389, nhưng với chú thích bằng tiếng Mãn Châu được viết trên giấy gió dán chồng lên bản đồ này nhiều thế kỷ sau đó.
 Đây là bản đồ Trung Quốc cổ nhất còn sót lại.

“Tam Bảo Thái giám hạ Tây Dương”
Với những luận chứng như đã kể trên, tính xác thực trong những chuyến hải trình chinh phục biển cả trong lịch sử Trung Quốc nhất là của Trịnh Hòa “Tam Bảo Thái giám hạ Tây Dương” cần phải được xem xét lại một cách khoa học và nghiêm túc.
Đầu tiên có thể nói rằng, những chuyến đi của Trịnh Hòa không phải là để chinh phục biển cả cũng như không phải để củng cố hay xác lập chủ quyền trên các nơi mà ông ta đã đi qua như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Ấn độ… huống chỉ là những quần đảo rải rác trên biển Đông mà các nhà khoa học của Trung Quốc thường nhấn mạnh!
Bản đồ 12:
Hành trình của Trịnh Hòa
Sử liệu của những chuyến “Tây Dương” đã bị bị làm sai lệch bởi các học giả Trung Quốc hiện nay nhằm gây ấn tượng rằng ở thế kỷ XV, Trung Quốc đã từng thám hiểm mặt biển không thua kém gì các quốc gia Âu Châu thời kỳ tiền tư bản và coi cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa có tầm vóc ngang hàng với Columbus.
7 chuyến hải du của Trịnh Hòa đã đưa ra một minh chứng đầy ấn tượng về khả năng tổ chức và sức mạnh công nghệ của Trung Quốc lúc bấy giờ, nhưng đã không mở ra thời kỳ chính sách trọng thương cho đất nước này và cho cả thế giới cũng như không mở ra thời đại phát kiến địa lý (năm 1424 Minh Thành Tổ chết. Người kế nghiệp là hoàng đế Minh Nhân Tông (trị vì từ năm 1424 đến năm 1425), đã quyết định hạn chế ảnh hưởng của nội cung. Trịnh Hòa cũng đã thực hiện một chuyến đi nữa dưới thời trị vì của Minh Tuyên Tông (trị vì từ năm 1426 đến năm 1435), mở đường cho những cuộc di dân ồ ạt của người Hoa (Triều Châu, Phúc Kiến, Quáng Đông….) nhưng sau đó những chuyến tàu giao thương của người Trung Quốc đã chính thức chấm dứt. Nhà Minh bắt đầu chính sách bế quan tỏa cảng bằng chỉ dụ Hải cấm).
Nhưng có một điều chắc chắn, đó là các sự hỗ trợ của chính quyền cho hoạt động hàng hải đã suy giảm nghiêm trọng sau các chuyến đi của Trịnh Hòa. Từ đầu thế kỷ XV Trung Quốc đã phải chịu áp lực ngày càng tăng từ các bộ lạc Mông Cổ mới trỗi dậy ở phía Bắc. Năm 1421 vua Minh Thành Tổ đã dời đô từ Nam Kinh về Bắc Kinh như là một sự thừa nhận sự hiện hữu của mối đe dọa này cũng như là để gần với khu vực quyền lực của dòng họ này. Từ kinh đô mới ông có thể kiểm soát tốt hơn các cố gắng nhằm bảo vệ biên cương phía Bắc. Với phí tổn đáng kể, Trung Quốc hàng năm đều phải có các cuộc viễn chinh nhằm làm suy yếu người Mông Cổ. Các phí tổn cho các chiến dịch trên bộ này đã cạnh tranh trực tiếp với ngân sách cần thiết dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải.Trong hoàn cảnh đó, ngân khố dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải đơn giản là không còn nữa.
Nói một cách khác, không giống như các chuyến thám hiểm sau này của các quốc gia châu Âu, các tàu thuyền chở của cải của người Trung Quốc dường như bị hao hụt dần đến cạn kiệt sau các chuyến đi dài, do các chuyến đi này thiếu động cơ kinh tế. Chúng chủ yếu để làm tăng uy thế của hoàng đế và các chi phí cho chuyến đi cũng như tặng phẩm cho các vị vua chúa và sứ giả nước ngoài còn lớn hơn cả các món lợi thu được từ các cống phẩm. Vì thế khi tài chính của chính quyền nhà nước bị áp lực, thì các ngân quỹ dành cho các chuyến thám hiểm hàng hải không thể có nữa. Trái lại, vào thế kỷ XVI, phần lớn các chuyến thám hiểm của người châu Âu là có đủ lãi từ các hoạt động thương mại cũng như từ thành công trong việc xác lập một chế độ cai trị thuộc địa, sự chiếm đoạt các nguồn tài nguyên và đất của bản xứ đã có thể tự trang trải, cho phép họ có thể tiếp tục thám hiểm mà không liên quan nhiều đến ngân khố quốc gia.(6)
Tóm lại, tư duy biển của các nhà cầm Trung Quốc từ thời Trung đại cho đến trước năm 1949 cũng chỉ là tư duy tập trung vào “nội địa”, đối phó với Mông Cổ và vùng Trung Á, xem biển là rào chắn thiên nhiên đối với bên ngoài, chỉ cần lệnh “Hải Cấm” là đủ vì vậy ý thức chủ quyền biển đảo của các chế độ ở Trung Hoa dừng lại đảo Hải Nam và không vượt quá hải đảo ven bờ cận duyên. Tư duy nầy đã phản ánh rõ nét khi chúng ta khảo sát các bản đồ của chính người Trung quốc vẽ (như bản đồ 8-9-10-11-13) ở trên, phù hợp với những bản đồ cổ của người phương Tây trong suốt thời gian tương ứng (xem bản đồ từ 1-7) . Hơn thế nữa, lãnh thổ của nước Trung Hoa ở theo sách lược phương Nam của Tôn Trung Sơn cũng chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam như bản đồ dưới đây.



Bản đồ 13:
Bản đồ: “TÔN TRUNG SƠN TIÊN SINH kiến quốc PHƯƠNG LƯỢC ĐỒ”
[Tôn Dật Tiên, còn gọi là Tôn Văn hay Tôn Trung Sơn (12/11/1866 – 12/3/1925) là nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc, người lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại Mãn Thanh và khai sinh nước Trung Hoa Dân Quốc. Ông đã nêu ra chủ thuyết “Tam dân” (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc). Ông được người Trung Hoa gọi yêu mến là “Quốc phụ Trung Hoa”].
Bản chất của chính sách Đại Minh đã được phân tích rõ: “Trong tình hình tài chính phủ phê, Vĩnh Lạc đế(nhà Minh) tích cực thúc đẩy chính sách vươn ra bên ngoài để chứng tỏ uy thế của mình, xem Trung Hoa là trung tâm của thế giới. Về mặt mậu dịch trên biển, Vĩnh Lạc đế đã kế thừa “Hải cấm chính sách” của Hồng Vũ đế không những ngăn cấm thương gia Trung Quốc ra bên ngoài mua bán mà còn cấm chỉ việc đóng tàu viễn dương, buộc những tàu đi biển khơi chuyển sang tàu chuyện chở đường thủy nội địa có cấu tạo bằng đáy ngang, Vĩnh lạc đế khống chế việc giao thương của thương nhân Trung Quốc nhưng lại mở rộng việc mậu dịch triều cống (7), ông ta liên tục gửi các đoàn sứ thần sang Triều Tiên,Việt Nam, Xiêm La, Chân Lạp, Java…Từ năm 1405 Vĩnh Lạc quyết tâm cho một đoàn tàu đi về Nam Hải với qui mô lớn chưa từng thấy và đã chọn Trịnh Hòa, vốn là người theo đạo Hồi vượt đại dương tất cả 7 lần, dài 10 vạn hải lí với số tùy tùng, phục dịch trên 27.000 người/lần trong suốt 28 năm”. (8)
Tất cả điều nầy cho thấy chủ thuyết “Hán-di”(tư tưởng lấy nước Trung Hoa là trung tâm và các chư hầu chung quanh là man di mọi rợ) đã hình thành sau khi Nhà Minh chinh phục được Mông Cổ ở phương bắc và Việt Nam ở phương Nam.
Ban lãnh đạo nhà nước Trung Quốc  ngày nay cố tình nhấn mạnh tên tuổi của Trịnh Hòa còn có giá trị khác phù hợp với ý chí của Trung Quốc hiện đại: “Trịnh Hòa từng khoanh vùng ở Đông Nam Á và Trung Quốc đã từng vươn ra các châu lục”(!).

2. Chính phủ Pháp ở Đông Dương có liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa trong thời kỳ 1909-1945 hay không?
Khi nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, người Pháp đã nhận xét:
“Quần đảo Hoàng Sa gồm những đảo nổi tiếng trong biên niên sử hàng hải qua chuyện mắc cạn của tàu “l’Amphirite”, chiếc tàu đầu tiên của Pháp dưới thời vua Louis XIV, đi từ Pháp qua Trung Quốc (1698).
Quần đảo nhỏ này có vị trí ở khoảng vĩ độ giữa Huế và Đà Nẵng, chia làm hai nhóm: nhóm Croissant (Trăng Khuyết), ở gần bán đảo Đông Dương nhất, và nhóm l’Amphitrite (An Vĩnh), xa về phía Đông. Vị trí địa lý của quần đảo không ra ngoài phạm vi lãnh thổ của vua An Nam, Gia Long, đã đặt chủ quyền từ năm1806.
Nhóm Trường Sa, được biết dưới tên nhóm đảo Tempête (Bão Tố) nằm ở vị trí mà phần lớn thuộc Đông Dương, cùng vĩ độ của quần đảo Côn Lôn. Một nhóm khoảng 14 đảo, Trường Sa trải rộng ở phía đông nam của Paradang, phía nam của Hoàng Sa, 594 dặm về phía Nam đảo Hải Nam. Các đảo này có nhiều đảo san hô, là nơi trú ẩn của vô số chim biển; là một vị trí tuyệt vời cho thủy phi cơ trong vùng Đông nam Á, nằm giữa khoảng cách giữa bán đảo Đông Dương và Bornéo”.(9)
Cho đến trước năm 1909, thế giới đã chứng kiến một sự kiện chưa từng có tiền lệ: quân đội của một nước da vàng đánh thắng quân đội của một nước da trắng. Đó là cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905).
Đây là một thắng lợi đầu tiên của một nước châu Á trước một cường quốc châu Âu trong thời kỳ hiện đại. Uy thế của Nhật Bản tăng lên nhanh chóng và bắt đầu được coi là một cường quốc đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Đại Đông Á đang trên đà thẳng tiến.

Trước đó, trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895) và chiến thắng cũng đứng về phía Nhật Bản nên đã làm cho giới lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ thức tỉnh, họ bắt đầu coi trọng đại dương và chiến lược hướng ra đại dương cũng bắt đầu từ đó. Và phương Nam vẫn là hướng bành trướng truyền thống của các nhà nước phương Bắc.

Trong bối cảnh ấy, tầm quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa đã được nhận thức lại: “Các đảo nhỏ, đá ngầm mà trước đây chưa bao lâu, gây cản trở và làm người ta né tránh, thì hôm nay lại là chủ đề để người ta nghiên cứu, đặt tham vọng, và thay đổi quan điểm ngoại giao. Hậu quả là, người ta phát hiện ra những điều mà trước đây đã bỏ qua: đó là nơi có thể làm căn cứ không quân, điểm để quan sát và tuần cảnh trên biển”.(10)
Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa (Pratas), Tổng Đốc Quảng Đông lúc bấy giờ là Trương Nhân Tuấn đã nhiều lần trình lên cho triều đình Nhà Thanh ở Bắc Kinh để thương thảo với chính phủ Nhật trả lại. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc điện cho Tổng Đốc Trương Nhân Tuấn giao thiệp với lãnh sứ Nhật ở Quảng Châu để giành lại đảo này. Đến ngày 7/10/1907, Nhật Bản trao lại đảo này cho Trung Quốc. Như vậy, sự kiện Nhật Bản nhòm ngó đảo Đông Sa vào năm 1907 làm cho các nhà cầm quyền miền Nam Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên Biển Đông.
Năm 1909, vì cho rằng quần đảo Hoàng Sa là vùng đất vô chủ, và sợ Nhật Bản đánh chiếm, lần đầu tiên chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) đã lập một ủy ban quản lý vùng và lệnh cho đô đốc Lý Chuẩn tiến hành cho khảo sát Hoàng Sa. Quá trình tranh chấp biển Đông của Trung Quốc có thể nói rằng đã bắt đầu từ đây.
“Vào năm 1909, hai tàu chiến nhỏ của Trung Hoa đến từ Quảng Châu, bất ngờ, buộc 2 người Đức giao nộp tài liệu khảo sát về quần đảo trong vòng 24 giờ, nhưng họ loan một mẫu tin trong một tờ báo lớn ở Quảng Châu, ngày 20 tháng 6, một tin quan trọng khôi hài: ‘Teo-tai-Li, như đã nói, là đã vẽ một bản đồ tổng quát về các đảo mà ông đã khám phá và 15 bản đồ riêng của cùng những đảo đó ( trong vài giờ !)” (11)

Báo La Nature số 2916 ngày 1-11-1933

Xác nhận sự kiện trên, báo Advertiser số ra ngày thứ Ba, 29/6/1909 đã viết:
 
Tin từ cảng Darwin hôm 28/6 – một nguồn tin từ Trường Sa (Hồ Nam, Trung Quốc) cho biết Trung Quốc vừa tiến hành một sứ mạng chính thức với sự tham dự của cả các sĩ quan chỉ huy cấp cao, đó là ra thăm quần đảo Hoàng Sa trên 3 pháo hạm Fupao, Chinhao và Kwong Kum để thượng cờ rồng (Long kỳ - cờ Thanh triều Trung Quốc) tại quần đảo này. Đảo Hữu Nhật bị đổi tên thành đảo Fupao, đảo Cây thành đảo Chinhao sau khi hai con tàu trên tới các đảo này. Điều này cho thấy người Trung Quốc đang nhắm tới việc biến Du Lâm Cảng (Zulinkan) thành căn cứ phía Nam cho hải quân Trung Quốc trong tương lai”.(12)

Cũng trên báo Advertiser số ra ngày thứ Hai, 5-7-1909, tiếp tục đưa tin:

“Đô đốc Le và Taotai Li, những người vừa ghé thăm quần đảo Hoàng Sa, đã trình tấu cho Phó Vương Quảng Đông là hai đảo Fuk-Po và Mo-Huk có thể được dùng để làm thương cảng, và một cây cầu sẽ nối liền hai đảo. Họ cho biết các cơ sở làm nông nghiệp, sản xuất muối, và nghề cá có thể được duy trì trên những đảo này”.(13)



Tin về quần đảo Hoàng Sa trên trang 8 báo The Advertiser, ngày thứ Hai, 5-7-1909

Từ những sự kiện kể trên, cho đến nay các học giả Trung Quốc vẫn căn cứ vào đó coi như hồ sơ pháp lý của mình để hợp thức hóa trong việc lên tiếng chủ quyền của họ trên biển Đông. Nhưng phía Trung Quốc quên rằng trong các năm 1895, 1896 khi các ngư dân ở đảo Hải Nam ra cướp đồng trên các tàu bị đắm tại Hoàng Sa như tàu Bellona của Đức và tàu Himeji Maru của Nhật, chính phủ Anh đã phản kháng và Trung Quốc tuyên bố chính thức là quần đảo nầy không thuộc về mình.(14)

Trong khi ấy, sau khi Hoà ước Giáp Thân (1884), là Hoà ước được Triều đình Huế kí với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và kể từ đây thực dân Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam.Thực dân Pháp sẽ thay mặt Việt Nam trong những quan hệ ngoại giao với nước ngoài bên cạnh là đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cũng theo tinh thần của Hòa ước Giáp Thân, thực dân Pháp tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa.

Trong khoảng thời gian từ 1894-1899, Pháp đã đạt được nhiều lợi ích từ Đông Dương, Trung Quốc và đạt được về nguyên tắc những lợi ích căn bản tại đây, nhưng cũng kể từ thời gian này, chính sách của chính phủ Pháp chú trọng đặc biệt vào châu Phi. Nhưng chúng tôi thấy rằng không vì lợi ích kinh tế ở Châu Phi và những khó khăn ở Đông Dương (lúc đầu người Pháp không mấy quan tâm đến Hoàng Sa) thực dân Pháp vẫn tiếp tục duy trì chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa:
“Cần nhắc lại rằng trong khoảng năm 1899, M. Doumer, khi đó là Thống đốc Toàn quyền Đông Dương, đã ra lịnh xây dựng một hải đăng trên đảo Hoàng Sa. Một dự án đã được viết hoàn tất. Dự án này đã bị ngưng trệ một cách lặng lẽ trong khối nhiệm vụ của một quan toàn quyền”.(15)
Dự án này tuy đưc Toàn quyền Paul Doumer ủng hộ nhưng bất thành vì thiếu ngân quỹ. Giải thích về vấn đề, Báo La Nature có nhận xét: “Chính phủ Pháp, đã thiết lập sự đô hộ của họ đối với An Nam mà những hòn đảo này thuộc lãnh thổ của An Nam, nên Pháp có quyền sở hữu và trách nhiệm coi sóc đối với lãnh thổ mới này. Phải nhận thấy rằng họ đã hoàn toàn phớt lờ trách nhiệm cho đến hôm nay. Lý do vì lợi tức ít oi hoàn toàn không biện bạch được cho việc thờ ơ này”.(16)
Tuy nhiên, hi quân Pháp vẫn tuần tiễu vùng biển để giữ an ninh và cứu giúp các thuyền b đắm: Từ thời kỳ này đến 1920, quần đảo Hoàng Sa chìm vào quên lãng. Trong thời kỳ này, tàu của sở thuế Đông Dương thỉnh thoảng ghé nơi này nơi kia giữa các đảo của quần đảo, khi thì can thiệp giữa các người đánh cá Trung Hoa và An Nam khi họ hành nghề ở đó, bước đầu họ phải vất vả đánh bắt sản vật biển để sau đó đem bán cùng với các sản vật biển khác mà phụ nữ và trẻ em thu lượm được, khi thì ngăn chận bọn buôn lậu vũ khí và á phiện”.(17)
Bên cạnh việc giữ gìn an ninh trên biển, năm 1917, 1918 trong các báo cáo của chính quyền Pháp tại Đông Dương, có đề cập đến việc cần thiết lắp đặt đài radio TSF, trạm quan sát thời tiết, hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa. Điều này cho thấy Pháp sớm quan tâm quản lý, thực thi chủ quyền Hoàng Sa trong Đông Dương thuộc Pháp. (18)
Chúng ta thấy rằng, từ cuối năm 1918, sự kiểm soát của Pháp trên biển Đông rất gắt gao, chính vì thế Nhật Bản phao tin là Pháp giành quyền khai thác phốt-phát.

Năm 1920 khi tàu Khuou Maru ở Kobe thuộc tập đoàn Mitsui Busan Kaisha chở phốt phát khai thác từ đảo Phú Lâm bị tàu chiến Pháp Espadon bắt mới rõ là tàu Nhật này đã được Hải quân Pháp đóng ở Sài Gòn xem như cho phép vì chỉ đánh giá về mặt quân sự. Cũng trong năm này, Công ty Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa nhưng Pháp từ chối.

“Trong bản tường trình cho Bộ Thuộc Địa tại Paris viết ngày 20 tháng ba năm 1930, chính phủ thực dân Pháp tường thuật rằng vào năm 1927 Lãnh Sự Nhật Bản tại Hà Nội, ông Kurosawa, đã thay mặt chính phủ Nhật Bản hỏi Pháp về tình trạng một số đảo trong vùng biển Đông. Nhưng Lãnh Sự Nhật Bản tuyên bố rằng, theo chỉ thị của chính phủ Nhật Bản, quần đảo Hoàng Sa dứt khoát không được bàn đến, vì Nhật Bản không hề tranh luận chủ quyền của Hoàng Sa với Pháp” vì đã tự ý đặt Hoàng Sa dưới sự cai quản của chính phủ thuộc địa của Nhật ở Đài Loan.(19)
Mặt khác, ngày 30/1/1921, Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sáp nhập hành chánh quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam, tỉnh Quảng Đông đã làm cho chính quyền Pháp ở Đông Dương ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề chủ quyền của An Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.Từ đây sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa đã trở thành điểm nóng.
Tuy hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc chỉ diễn ra trên giấy tờ, nhưng Pháp cho rằng đây là hành vi nghiêm trọng. Khâm sứ Trung Kỳ LeFol viết trong thư ngày 22-1-1926 gửi Toàn quyền Đông Dương: “Sau khi Trung Quốc có yêu sách vào năm 1909, vì nước Pháp thay mặt nước An Nam về quan hệ đối ngoại theo Hiệp ước bảo hộ, đáng lẽ phải khẳng định quyền của nước được bảo hộ đối với các đảo hữu quan, thì trái lại hình như hoàn toàn không quan tâm đến vấn đề, như vậy làm lợi cho người Trung Quốc và dường như họ chuẩn bị cho việc nắm quyền sở hữu chính thức đối với các đảo đó”. Cũng trong bức thư trên, ông LeFol cho biết, Thượng thư Bộ Binh Thân Trọng Huề của Nam Triều đã có văn thư ngày 3-3-1925 khẳng định: “Các đảo nhỏ đó [quần đảo Hoàng Sa] bao giờ cũng là sở hữu của nước An Nam, không có sự tranh cãi trong vấn đề này”.(20)

Ngày 8/3/1921, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp.

Trước tình hình đó, trong bài báo La perte du Haiphong của tạp chí L'Eveil économique de l'Indochine số 394 xuất bản tại Hà Nội ngày 28/12/1924 đã kêu gọi về sự cần thiết phải chiếm giữ và xây dựng các công trình trên quần đảo Hoàng Sa, lợi ích của việc xây hải đăng trên đảo Tri Tôn.(21)

Sự kiểm soát biển Đông có hiệu quả của chính quyền thực dân Pháp đã dẫn đến điều kiện cho phép các cuộc thám hiểm khoa học trên quần đảo Hoàng Sa.

“Một cuộc khảo sát về độ sâu vào năm 1926 được tàu De Lanessan của Sở nghiên cứu hải dương và nghề cá Đông Dương thực hiện, với sự điều hành của D’A. Kempf, giám đốc Sở. Chuyến khảo sát đã ghi nhận thành phần cấu trúc duy nhất của đất đá trên các đảo và đảo nhỏ là đá vôi san hô, trên bề mặt là một lớp san hô sống, cát và sỏi đá vôi.

Người ta cũng thấy có một tầng đá vôi phos-phat dày chừng 1m với hàm lượng axit phos-pho-ric từ 23-25% trong tầng mặt, 42% ở tầng sâu (Phân tích của giám đốc phòng thí nghiệm hóa học Sàì gòn, M.Michel-chú thích của tác giả bài báo).

Sự khám phá ra mỏ khoáng này, thật có lợi như ta đã thấy, nhưng cho đến nay, chỉ có một công ty Nhật, vào năm 1920, được giấy phép của Tư lệnh hải quân Sài Gòn đến khai thác mỏ trên đảo Phú Lâm và Hữu Nhật. Một số lượng phosphat nào đó đã được đưa về qua một đoạn đường sắt nhỏ dẫn đến một cầu tàu dài 300m, nơi cập bến”.(22)

Hơn nữa, dường như khó có thể tiến hành khai thác nghề cá dưới dạng công nghiệp trên vùng đá san hô của quần đảo Hoàng Sa. “Quả vậy, những báo cáo của phái đoàn nghiên cứu của tàu De Lanessan nói rằng, dù tìm thấy có rất nhiều loài cá ở đó, nhưng cấu tạo của đáy biển ven bờ gây khó khăn cho việc dùng lưới, công việc mà người ta không thể thực hiện được trong vài phút ở vùng đáy biển gồ ghề nơi có đầy san hô đang sinh trưởng. Cuộc khảo sát đáy biển này, đoàn nghiên cứu đã thực hiện bằng phương cách chiếu sáng, cho phép Sở Nghiên cứu hải dương và nghề cá Đông Dương ghi nhận các loài sinh vật biển chưa được biết đến ở đó cũng như có thể trao đổi qua lại giữa các thành viên trong đoàn về số liệu của những khối san hô và độ sâu các vùng trũng phân cách chúng. Nhưng phải nói là rất ấn tượng với khối nước 20m này, nó trong suốt như thủy tinh với những loài cá nhiều màu sắc rực rỡ lượn qua lại giữa các loài san hô đa dạng”.(23)

Mặc dù “Có vẻ như việc khai thác này không đem lại hiệu quả nên các công trình xây dựng từ lâu bị bỏ phế: cầu tàu, xe goòng, xà lan xi măng, máy chưng cất, v.v…Việc khai thác, thực tế có vẻ không hữu dụng: gió mạnh, tiếp tế lương thực tốn kém và sự an toàn khi chuyên chở hàng hóa rất bấp bênh. Hơn nữa, dường như khó có thể tiến hành khai thác nghề cá dưới dạng công nghiệp trên vùng đá san hô của quần đảo Hoàng Sa. Quả vậy, những báo cáo của phái đoàn nghiên cứu của tàu De Lanessan nói rằng, dù tìm thấy có rất nhiều loài cá ở đó, nhưng cấu tạo của đáy biển ven bờ gây khó khăn cho việc dùng lưới, công việc mà người ta không thể thực hiện được trong vài phút ở vùng đáy biển gồ ghề nơi có đầy san hô đang sinh trưởng”.(24)
Nhưng “Tốt hơn là các quy định này được lập ra khi chính phủ đặt trên khối đá ngầm này một hải đăng hiệu quả cho phép tàu đi biển không gặp nguy hiểm khi đi gần đến đó. Sẽ rất tuyệt vời nếu đặt thêm vào nơi đó một trung tâm thông tin khí tượng, ở nơi có nhiều cơn bão chính đi qua trong vùng biển Trung Hoa, để tổ chức và hoạt động của trung tâm này đưa ra những cảnh báo thời tiết.(25)

Chính vì vậy, D’A. Kempf đã đề xuất thiết lập một đài quan sát và một ngọn hải đăng và nếu có thể là một bến cảng tại Hoàng Sa để có chỗ cho ngư dân tránh bão và bảo vệ ngư dân An Nam.(26)

“Quyền hạn pháp lý của Pháp vững chắc, và yên n đủ để cho phép các cuộc thám hiểm khoa học trên quần đảo Hoàng Sa. Một danh sách đáng kể gm các công trình nghiên cứu khoa học trong mọi lãnh vực đã đưc công bố bởi các viện thuc đa và học giả. Từ 1925, sau sứ mạng khoa học lần đầu tiên trên thuyền De Lanessan do các khoa học gia thuộc Hải học viện Nha Trang nổi tiếng thực hiện, những kiến thức về quần đảo Hoàng Sa đưc thu thập nhiu”.(27)

Nhưng quan trọng hơn hết, Viện Hải dương học sau hai năm nghiên cứu và đo đạc đã chứng minh một cách chính xác rằng: “Quần đảo Hoàng Sa nằm trên một cao nguyên chìm dưới biển và dính liền với lục địa Việt Nam”. Ðây là một bằng chứng khoa học càng sáng tỏ hơn giá trị lịch sử về chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Ðúng như lời kết luận của tiến sĩ Krempt, Giám đốc Viện Hải học Ðông Dương, rằng: “Về phương diện địa chất, những đảo Hoàng Sa là một phần của Việt Nam”. Các nhà nghiên cứu hải học, như ông Oliver A. Saix và ông Marcel Beauvoix đều có kết luận như vậy.(28)

Năm 1927, Pháp cho đặt một trạm khí tượng hạng nhất tại đảo Hoàng Sa và một trạm phong vũ biểu tại đảo Ba Bình. Đây là 2 đài khí tượng nằm trong hệ thống được quốc tế thừa nhận.(29)
Trong một báo cáo năm 1933 về tình hình kinh tế, tài chính của chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương có nói những hoạt động chính của tàu De Lanessan trong chuyến khảo sát quần đảo Trường Sa. Các đảo được khảo sát gồm có đảo An Bang (Amboyna Cay), Đá Tây (Récif London Ouest), Đá Chữ Thập (Fiery Cross), đảo Ba Bình (Itu Aba) và cụm Tizard, đảo Loại Ta, Đá Subi, đảo Thị Tứ, đảo Song Tử Đông (Cay de l'Alerte) và cụm Song Tử (North Danger) (30) đã chứng chứng tỏ chính phủ Pháp đã có trách nhiệm trong việc chiếm hữu, khai thác liên tục và có hiệu quả trên vùng biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.
“Bằng những hành động kể trên, người Pháp nhận lấy pháp quyền và trách nhiệm giao nhượng cho họ từ người Việt Nam bị bảo hộ, tiếp tục bảo đảm quyền hạn pháp lý thay mặt cho người Việt Nam. Tuy nhiên, khi đối diện với yêu sách không căn cứ và hành động bất hợp pháp của Trung Hoa về quần đảo Hoàng Sa năm 1932, người Pháp cảm thấy cần phải có biện pháp phòng thủ. Từ năm 1909, Trung Quốc thỉnh thoảng đòi chủ quyền trên đảo. Một lần trong năm 1909, chính quyền tỉnh Kuang Tung [Quảng Đông] cho tàu chiến ra thám hiểm đảo. Ngày 20 tháng ba, 1921 tỉnh trưởng Kuang Tung ký một sắc lệnh kỳ lạ sát nhập quần đảo Hoàng Sa vào lãnh thổ đảo Hải Nam. Tuy nhiên, hành động của ông không ai biết đến, vì nó chỉ được ghi chép trong văn bản của địa phương, do đó thế giới không biết đến để bình phẩm hoặc chống lại. Tuy Trung Quốc không đưa người ra chiếm đảo, nhưng Pháp thấy rằng những hành động đó khiến Pháp phải ra tay trước. Thí dụ, năm 1930 thủy thủ đoàn trên tàu La Malicieuse đổ bộ lên nhiều đảo trong quần đảo Hoàng Sa để cắm cờ và mốc chủ quyền”.(31)
Ngày 8-3-1925, Toàn quyền Đông Dương ra tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Pháp. Tháng 11-1928, Thống đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở quần đảo Trường Sa cho Công ty Phosphat Bắc Kỳ Mới. Trong thư ngày 20-3-1930, Toàn quyền Đông Dương gởi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp xác nhận: “Cần thừa nhận lợi ích nước Pháp có thể có trong việc nhân danh An Nam, đòi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa”. 
Năm 1929, sứ bộ Perrier-De Rouville đề nghị xây dựng bốn đèn pha ở bốn góc quần đảo Hoàng Sa (trên các đảo Tri Tôn, Linh Côn, bãi Đá Bắc, Bom Bay).

Năm 1927, với tựa đề “Chronique des mines” tác giả bài báo đã đề cập đến việc quần đảo Hoàng Sa là một phần của An Nam nhưng chính phủ Pháp đã không có những hành động thiết thực để chứng minh chủ quyền của An Nam khi đó là nước được Pháp bảo hộ và để cho Trung Quốc nghiễm nhiên coi Hoàng Sa là của Trung Quốc (32).
Đứng trước tình hình đó, “Ngày 4-12-1931 và ngày 24-4-1932, Pháp phản kháng Chính phủ Trung Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa”.(33)
Ngày 15-6-1932, chính quyền thuộc địa Pháp ra Nghị định số 156-SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chính gọi là quận Hoàng Sa tại quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1933, chính quyền Pháp quyết đnh thiết lập chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.
Báo Le journal officiel trong số báo ngày 1 tháng 7 năm 1933, đã đăng tải một thông tin liên quan đến việc các đơn vị hải quân Pháp chiếm hữu một số đảo và đảo nhỏ nằm trong vùng biển Đông, giữa các đảo của Philippines, Bornéo và Đông Dương.
“Pháp đã biết đến nhóm đảo này, vào ngày 13 tháng 4 năm 1930, bởi tàu chiến nhẹ “La Malicieuse”. Ngày 7 và 10 tháng 4 năm 1933, đảo đã được đặt cột mốc xác định chủ quyền bởi các thông báo hạm “Astrolabe” và “Alerte”; cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 1938, một cột cờ đã được dựng lên bởi tuần dương hạm “Duguay-Trouin”.(34)
Sự chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cổ xưa  đó là một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản – Mỗi đảo nhận một văn bản, được đóng kín vào trong một cái chai rồi được gắn trong một trụ xi măng xây trên mỗi đảo tại một điểm ấn định và cố định trên mặt đất, người ta kéo lên lá cờ tam tài và thổi kèn trên từng hòn đảo”.(35)
Cáo thị sát nhập đăng trên báo “Journal Officiel” ngày 26 tháng 7 năm 1933.
 “Công bố quyền thủ đắc do chiếm cứ các đảo do các đơn vị Hải Quân Pháp thực hiện.”
Chính phủ Pháp quốc nay long trọng công bố sự kiện chiếm cứ các đảo nêu trên do Hải Quân

Pháp thực hiện.

1.    Trưng Sa, tọa lạc tại vĩ tuyến 8 độ 39 Bắc và 111 độ kinh Tuyến Đông cùng một số đảo nhỏ khác trong vùng.(Chiếm cứ ngày 13 tháng 4 năm 1930).
2.    Cồn Am Bang (Amboine) tọa lạc tại vĩ tuyến 7 độ 52 Bắc và kinh tuyến 115 độ 55 Đông cùng một số đảo nhỏ trong vùng.(Chiếm cứ ngày 7 tháng 4 năm 1933).
3.    Đo Ba Bình (Ita Aba) tọa lc ti vĩ tuyến 10 độ 2 Bắc và kinh tuyến 114 độ 21 Đông cùng một số đảo khác trong vùng.(Chiếm cứ ngày 10 tháng 4 năm 1933).
4.    Nhóm hai đảo tọa lạc ti vĩ tuyến 111 độ 29 Bắc, kinh tuyến 114 độ 21 Đông cùng một số đảo nhỏ khác trong vùng (36).(Chiếm cứ ngày 10 tháng 4 năm 1933).
5.    Loại Tá (Loaita) tọa lạc tại vĩ tuyến 10 độ 42 Bắc kinh tuyến 114 độ 25 Đông cùng một số đảo nhỏ khác.(Chiếm cứ ngày 12 tháng 4 năm 1933).
6.    Đo Thị Tứ (Thitu) tọa lạc ti vĩ tuyến 11 độ 7 Bắc và kinh tuyến 114 độ 16 Đông cùng một số đảo khác.(Chiếm cứ ngày 12 tháng 4 năm 1933).

Tất cả các đảo nêu trên sẽ thuộc chủ quyền của nưc Pháp kể từ ngày hôm nay (công bố nầy có hiệu lực hủy bỏ tất cả các công bố đưc lit vào sổ bộ trưc đây).

                                                                                               Ngày 25 tháng 7 năm 1933.

Ngày 24-7-1933, Pháp đã thông báo cho Nhật Bản việc Pháp đưa quân ra đóng các đảo chính trong quần đảo Hoàng Sa, Nhật Bản lên tiếng phản đối nhưng bị Pháp bác bỏ.

Ngày 21-12-1933, thống đốc Nam Kỳ M. J. Krautheimer ký Nghị định sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, nhóm Song Tử(36), Loại Ta và Thị Tứ vào địa phận tỉnh Bà Rịa.

Ngưi Pháp cũng tiếp tục thực hiện những cuộc thăm dò khoa học các đảo thuộc quần đảo Trưng Sa sau năm 1933. Ví dụ như tài liệu nghiên cứu đa lý và đa cht đảo Trưng Sa rất giá trị đã đưc để tham khảo trong bản tường trình số 22 của Hải Học Viện Đông Dương.

Tháng 10 năm 1937, chính quyền Đông Dương dựng lên trên đảo Hoàng Sa một hải đăng khuyết quang mà phạm vi quét của đèn chiếu khắp nhóm đảo Trăng Khuyết; kế đến, năm 1938, đặt trên đảo Phú Lâm, xa về phía Đông, một trạm khí tượng để dự báo bảo và một ngọn hải đăng để an toàn đi lại trên biển.(37)

Ngày 29-3-1938, vua Bảo Đại ký Dụ tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Nam Nghĩa:
Chiếu chỉ các Cù lao Hoàng Sa (Archipel des iles Paracels) thuộc về chủ quyền nước Nam đã lâu đời và dưới các tiền triều, các Cù lao ấy thuộc về địa hạt tỉnh Nam Nghĩa: đến đời Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế vẫn để y như cũ là vì nguyên trước sự giao thông với các Cù lao ấy đều do các cửa bể tỉnh Nam Nghĩa.
Chiếu chỉ nhờ sự tiến bộ trong việc hàng hải nên việc giao thông ngày nay có thay đổi, vả lại viên Đại diện Chánh phủ Nam triều uỷ phái ra kinh lý các cù lao ấy cùng quan Đại diện Chánh phủ bảo hộ có tâu rằng nên tháp các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên thời được thuận tiện hơn.
Dụ:
Độc khoản: Trước chuẩn tháp nhập các cù lao Hoàng Sa (Archipel des iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên: về phương diện hành chánh, các cù lao ấy thuộc dưới quyền quan Tỉnh hiến tỉnh ấy”. (38)

Dụ số 10 của hoàng đế Bảo Đại ký ngày 29-3-1938

Ngày 15-6-1938 toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký Nghị định thành lập một đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. Nhưng ngày 5-5-1939 toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký Nghị định sửa đổi nghị định ngày 15-6-1938 nói trên và thành lập tại quần đảo Hoàng Sa hai cơ quan hành chánh:“Croissant et indépendences” và “d’Amphitrite et indépendences”.

Cũng trong năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, riêng trên đảo Hoàng Sa, bia chủ quyền mang dòng chữ:

Répubique Francaise (Cộng hòa Pháp Quốc)
Empire d’Annam (Đế chế An Nam)
Archipel des Paracels (Quần đảo Hoàng Sa)
1816-Ile de Pattle-1938 (Đảo Hoàng Sa 1816-1938)



Bìa chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam
Ảnh: chụp tại phòng lưu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng
Song song với sự kiện dựng bia chủ quyền trên đảo Hoàng Sa, báo Tiếng Dân ngày 31 tháng 3 năm 1938 đã đưa tin:

“Một phái đoàn gồm M.gauthier, kỹ sư trưởng của Sở Hàng hải Hải Phòng, M.Sirène, Giám Đốc Sở Hải dương Nha Trang, Thuyền trưởng của các tàu Aviso, La Marne, Hydragrapha, Astrolabe, P.Bert đã đến quần đảo Hoàng Sa, có vị trí ở phía đông Đà Nẵng, để khánh thành một hải đăng trên đảo Pattle, nằm ở giữa hải trình Saigon-Hongkong. Công trình xây dựng đã hoàn tất”.

Báo Tiếng Dân ngày 31/3/1938
(Nguồn: http://www.jacar.go.jp)

Ngày 3 tháng 7 năm 1938, Bộ Ngoại Giao Pháp công bố về việc Pháp chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa: “Do sự đáng chú ý của việc chiếm lĩnh quần đảo Hoàng Sa, mà vào tháng 7 năm 1938, Đại sứ của ta [Pháp] ở Tokyo nhắc lại sự sát nhập quần đảo Trường Sa trước đây vào nước Pháp”(39)

Nước Nhật đã phản ứng lại sự kiện này, họ cho rằng “từ năm 1917 người Nhật đã khai thác mỏ phốt-phát trên hòn đảo chính, người ta chưa bao giờ chú ý rằng chỉ có một người Pháp duy nhất đến sống ở đó”(40). Chính vì vậy ngày 31-3-1938 Tokyo đã cáo thị với Đại sứ Pháp rằng “quần đảo Hoàng Sa là đất của Nhật Bản, đã được đặt dưới luật pháp của Nhật Bản, sát nhập cai trị với lãnh thổ Đài Loan; sự chiếm đóng được bảo đảm bằng một đội cảnh sát biệt phái”(41).

Tháng 7-1938, Hãng thông tấn Domei, cơ quan báo chí chính thức của Tokyo, đã công bố một công hàm nói rằng theo tin tức từ Hongkong, có sáu tàu chiến Pháp đang hoạt động bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và rằng, chủ nhật vừa qua, hai tàu vận tải Pháp đã mang đến đó vũ khí, đạn dược và lương thực dự trữ.
Ngày 14-7-1938,  Nhật báo La Croix đã khẳng định: “Cần nhắc lại rằng  quần đảo Hoàng Sa là một nhóm các đảo nhỏ và đá ngầm nhô trên mặt nước có vị trí nằm ở phía Nam đảo Hải Nam, đối diện với Đông Dương và vừa mới đây có một ít lính Đông Dương được gởi tới đây để bảo vệ trạm phát sóng T.S.F và ngọn hải đăng mà chính quyền Pháp đã xây dựng trên miền đât này, và hơn nữa, đảo này thuộc về thuộc địa của chúng tôi”.(42)
Ngay sau đó Nhật Bản thay đổi thái độ, báo Le Journal ngày 21/8/1938 đã đưa tin:

“Paris , 20 tháng 8 (1938). Theo một công bố của Bộ Ngoại Giao Pháp chiều hôm qua, chính phủ Nhật Bản đã chấp nhận quan điểm của Pháp về việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của quân đội Pháp. Công bố cũng nhắc lại rằng Nhật Bản đã từng tranh cãi về quyền chiếm hữu quần đảo này, một vị trí có tầm quan trọng trên tuyến đường biển giữa Trung Hoa và Đông Dương.
Quyết định của chính phủ Nhật đã được đón nhận tốt đẹp ở Paris và công bố cũng nói rằng với thiện chí song phương , tất cả những khác biệt về chính trị có thể sẽ được giải quyết – Transocean”


Bản tin trên báo Le Journal ngày 21/8/1938

Nhưng với ý đồ chiếm giữ Hoàng Sa và Trường Sa, ngày 31/3/1939, Bô Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố gửi tới Đại sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu khám phá Trường Sa vào năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa.

Ngày 4-4-1939, chính phủ Pháp gởi một công hàm phản đối chống lại các quyết định tuyên bố chủ quyền của Nhật Bản và đề nghị cùng chọn giải pháp trọng tài. Công hàm bị phía Nhật từ chối. Cần nhắc lại rằng, Pháp được Anh ủng hộ trong cuộc tranh luận ngày 5 tháng 4 năm1939 tại Hạ Nghị Viện, đại diện Bộ Ngoại Giao Anh đã khẳng định chủ quyền quần đảo Trường Sa trọn vẹn thuộc nước Pháp. Nước Pháp tiếp tục quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa cho đến năm 1956 khi họ rút hết quân đội khỏi Đông Dương theo tinh thần Hiệp định Genève 1954. Mãi đến tháng 5 năm 1956, sau khi Tomas Cloma thiết lập cái gọi là “ Đất Tự do” (Freedomland) của ông ta thì Đặc Sứ Pháp tại Manila đã nhắc nhở chính phủ Philippines về quyền hạn của nước Pháp đến từ việc chiếm đóng vào năm 1933.(43)
Do nhu cầu thiết lập đầu cầu xâm chiếm Đông Nam Á, năm 1938, Nhật Bản đã nhanh chóng chiếm đảo Phú Lâm và 1939 đánh chiếm đảo Ba Bình của Trường Sa. Cho đến ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật Bản đảo chính Pháp tại Đông Dương, Nhật mới bắt làm tù binh các đơn vị lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng Sa. 

Kể từ đây lịch sử tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa bước sang một giai đoạn mới: chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Nhận xét:
Mãi đến đầu thế kỷ 20, năm 1909, trước sự đe doạ của chủ nghĩa bành trướng Nhật Bản, và biến thành Chủ thuyết Đại Đông Á trong thế chiến thứ hai,Trung Quốc mới bắt đầu chú ý tới quần đảo và sau này, trong những năm 1928, 1932, biểu hiện ý đồ tranh giành chủ quyền khi Chính phủ Nhật Bản đặt vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa với chính quyền bảo hộ ở Đông Dương nhưng đã không có hành động chiếm cứ hay xác minh cụ thể.
Theo GS Urano Tatsuo, sau khi Đài Loan và một số đảo trong bán đảo Liêu Đông, Bành Hồ và nhiều bãi đá hoang đã trở thành thuộc địa của Nhật Bản theo hòa ước Shimonoseki giữa hai nước Nhật-Thanh (1895), nhà buôn khai thác tài nguyên của Nhật đã đổ xô đi tìm và phát hiện nguồn phân lân phong phú của đảo Đông Sa (Pratas) khi tàu buôn của họ lạc vào đảo nầy vào năm 1902 và nhảy vào khai thác đã làm cho chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa Dân Quốc) nóng lòng bắt đầu quan tâm đến vấn đề “chủ quyền”, trong khi ở Đông Sa từ trước đến nay vẫn là đảo hoang như nhiều đảo khác rải rác trong quần đảo Hoàng  Sa.... Việc Nhà Thanh lại không đồng ý khi Nhật Bản khai thác phân chim trên đảo Đông Sa (mà đảo nầy Nhật Bản đã mua của Nhà Thanh), hay việc cho hải quân vội vã ra chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa - do Pháp chiếm giữ trước đó dưới danh nghĩa giải giới quân đội Nhật đang chiếm đóng trên đảo này - ngay sau khi thế chiến thứ hai kết thúc là những ví dụ chứng minh.
Nhân đây, xin nhắc lại một điểm quan trọng cần được nhấn mạnh là trong khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi chưa thấy có công trình nào đề cập đến ngoại trừ tài liệu nghiên cứu của NNC Hồng Lê Thọ (chưa công bố), có những điểm đáng lưu ý như sau:
 - Một là, sau khi thua trận trong chiến tranh Trung-Nhật, Nhà Thanh đã kí Hiệp ước Shimonoseki ngày 17/4/1895 (Trung Quốc gọi là Hiệp ước Mã Quan), theo đó Nhà Thanh nhượng cho Nhật Bản vĩnh viễn chủ quyền đầy đủ của quần đảo Bành Hồ, Đài Loan và phần phía đông vùng biển của bán đảo Liêu Đông cùng với tất cả các tài sản có trên đó như: công sự, kho vũ khí, ...và khu vực nầy(44) không bao gồm 2 quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, điều đó có nghĩa là 2 quần đảo nầy đã không được xem là thuộc chủ quyền của Trung Hoa (nhà Thanh)! Điều nầy hoàn toàn phù hợp với việc các bản đồ Trung Quốc vẽ trong thời kì nầy đã xem Hải Nam là vùng cực Nam của Trung Quốc. Mặt khác, qua sự kiện tàu buôn La Bellona của Đức bị chìm vì đá ngầm vào năm 1885 và tàu Himeji của Nhật bị đắm vào năm 1896 đã bị nhà đương cuộc Trung Hoa ở đảo Hải Nam từ chối trách nhiệm cứu vớt với lý do những vùng nầy không thuộc lãnh hải và quyền quản hạt của Trung Hoa cho thấy rằng chí ít đến cuối thế kỷ 19, nhà đương cuộc Trung Hoa xem những quần đảo nầy là đảo hoang, không thuộc về Trung quốc lẫn Vương Quốc An Nam.(xem chú thích ở dưới, rằng Vương Quốc An Nam không có chủ quyền là sai)(45)
Như vậy Hiệp ước Shimonoseki ngày 17/4/1895 giữa Trung-Nhật cho thấy rằng những phần đất mà Nhà Thanh nhượng cho Nhật Bản trên bản đồ nằm ở từ 119o-120o kinh Đông, và từ 23o-24o vĩ Bắc phù với miêu tả trong Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư, biên soạn năm 1905, xuất bản năm 1906: “Phía Nam từ vĩ độ Bắc 18o13’, tận cùng là bờ biển Nhai Châu, đảo Hải Nam, phía Bắc đến vĩ độ 53o50’, tận cùng là chỗ gặp nhau giữa sông Hắc Long Giang và sông U-xu-ri; phía Tây đế kinh tuyến 42o11’ tận cùng là núi Tùng Lĩnh, Nam Bắc gồm hơn 36 vĩ độ, rộng hơn 7.100 dặm. Đông Tây gồm hơn 61 độ, dài hơn 8.800 dặm. Diện tích 32.605.156 dặm vuông, chiếm ¼ Châu Á, 1/10 lục địa thế giới, lớn hơn cả Châu Âu”.

Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư
- Hai là, trong những năm đầu của thế kỷ 20, khi Trung Hoa Dân Quốc lên nắm quyền thay nhà Thanh, Nhật Bản tiếp tục khai thác phosphate ở các đảo ở Hoàng Sa thì xảy ra tranh chấp chủ quyền giữa Pháp với Nhật Bản, kết quả là Nhật Bản phải tôn trọng chủ quyền Việt Nam mà Pháp đang cai trị ở Đông Dương, điều nầy có nghĩa Trung Quốc thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc cũng không xác định lãnh thổ của họ ở biển Đông cho đến năm 1947. Khi thương nghị với các nước thuộc phe đồng minh về việc giải giới và xử lý đối với Nhật Bản sau chiến tranh, trong Tuyên bố Postdam đưa ra ngày 24/7/1945 giữa Harry S. Truman (Tổng thống Hoa Kỳ), Winston Churchill (Thủ tướng Anh) và Tưởng Giới Thạch (Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc) - theo nội dung Hội Nghị Postdam (17/7/1945) - cũng đã không yêu cầu “thu hồi” Hoàng Sa và Trường Sa là nơi quân đội Nhật Bản đã chiếm cứ  trong thế chiến thứ hai về cho Trung Quốc vì một lẽ đơn giản là hai quần đảo nầy không thuộc Trung Hoa. Điều nầy là lý do giải thích vì sao tại Hội nghị San Francisco 1951 sau đó, các nước đồng minh đã không yêu cầu Nhật Bản trao trả cho Trung Quốc “quần đảo Tân Nam” (新南諸島-Shinnan Shoto- Trường Sa) và một phần quần đảo Hoàng Sa mà quân đội Nhật đã chiếm đóng, xây dựng căn cứ quân sự trong thế chiến thứ hai.
Sau này, theo nhận xét về những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa lúc bấy giờ, học giả Samuels đã nhận xét: “Những tuyên bố của Trung Quốc trên các quần đảo Trường Sa bị suy yếu bởi một báo cáo 1928 của y ban chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cho biết các quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ cực Nam của Trung Quốc”(thay vì đảo Hải Nam như trước đây?!) và “điều này ít ra cũng đã cho thấy rằng quần đảo Trường Sa không được xem như là lãnh thổ Trung Quốc tại thời điểm đó”.(46)
Nhận xét của Samuels hoàn toàn phù hợp với bản đồ của Chính phủ Trung Quốc xuất bản năm 1925.
Bản đồ 1925 đề rõ bằng tiếng Hoa: " 特里島爲我極南 (đặc lý đồn đảo vi ngã quốc cực nam chi địa có nghĩa là “Đảo Tri Tôn là đảo cực nam của Trung Quốc”.
[Đảo Tri Tôn hiện tại đã được Trung Quốc đặt lại tên là 中建岛, Zhongjian Dao-Trung Kiến đảo]

Nghiên cứu của GS Urano Tatsuo (Nhật Bản) cho biết trong suốt thời  gian Việt Nam dưới chế độ thuộc Pháp, với tư cách là quốc gia “bảo hộ”, Pháp không hề khước từ chủ quyền trên hai quần đảo, khẳng định quan hệ chủ quyền và phản đối những yêu sách của Nhật Bản lẫn Trung Quốc. Mặc dù vào ngày 8 tháng 3 năm 1921 Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp nhưng mối tranh chấp chủ quyền về quần đảo Hoàng Sa giữa Pháp-Trung Hoa đã bùng lên khi Chính quyền miền Nam Trung Hoa ra quyết định sáp nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam vào ngày 30/3/1921. Cũng nên nhắc lại rằng tháng 3 năm 1925, Binh Bộ Thượng Thư Thân Trọng Huệ của triều đình Huế xác nhận thêm lần nữa là Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Tiếp đó, ngày 6/11/1925 Pháp kí hiệp ước với triều đình Huế tăng cường việc bảo hộ của Pháp,  chính thức ra tuyên bố phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này (1927)....bắt đầu triển khai các hoạt động như phái tàu tuần dương ra canh phòng, điều tra, thăm dò và chuẩn bị đặt trạm quan trắc khí tượng, hải đăng trên đảo Hoàng  Sa.Vì vậy, ngày 8-3-1925, Toàn quyền Đông Dương lần nữa ra tuyên bố khắng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam và đây cũng là cơ sở cho chính quyền “bảo hộ” tiếp nối việc cai quản các quần đảo một cách hợp pháp. Ngày 29/4/1932 chính phủ “bảo hộ”ở Đông Dương thông báo chủ quyền đối với Hoàng Sa cho phía Trung Hoa Dân Quốc và tiếp đên là ngày 16/6/1932 thông báo điều nầy cho phía Nhật bản.(47)
Khi lý giải về việc Chính phủ Pháp trong 20 năm đầu thế kỷ 20 chưa quan tâm đến việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông, một học giả đã nhận xét: “Về phía chính quyền thực dân Pháp, nguyên nhân chủ quan chính là do quyền lợi riêng của Chính quyền thực dân Pháp đă khiến Pháp không phản ứng kịp thời để Trung Hoa cho là đất vô chủ và đi sâu vào hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Ḥoàng Sa và sự thiếu hiểu biết do hạn chế của người đi đô hộ, không hiểu quan điểm của Nhà nước và nhân dân Việt Nam” (48) hoặc phía Pháp đã không “phát huy” quyền “bảo hộ” của mình đối với An Nam trước âm mưu chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa của quân đội Nhật Bản, Trung Hoa Dân Quốc(!) như ý kiến của một vài chuyên gia nước ngoài.
Có thật sự như thế không? Thử nhìn lại tình hình việc xây dựng một chế độ “tam kỳ” ở Việt Nam theo Hòa ước Patenôtre năm 1884 để thống trị của thực dân Pháp chưa hoàn tất (Nam Kỳ là xứ thuộc địa Pháp; Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ Pháp bảo hộ nhưng triều đình nhà Nguyễn trên danh nghĩa vẫn được quyền kiểm soát) và tình hình xáo trộn nội trị của “mẫu quốc”, thế chiến thứ nhất bùng nổ và Pháp là nước chịu tổn thất nặng nề hơn cả và hoàn toàn bị khánh kiệt, dẫn tới đại bại của Pháp trong các cuộc chiến tranh về sau …đã không cho phép chính quyền cai trị thực dân ở thuộc địa có điều kiện để xác lập chủ quyền chính thức ở biển đảo cho đến khi “nhà nước bảo hộ  thực hiện việc chiếm giữ 6 hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1933 như đã đề cập ở trên. Hơn thế nữa cuộc tranh giành chủ quyền song phương các quần đảo trên biển Đông đã diễn ra giữa ba nước Pháp-Trung Hoa-Nhật Bản vô cùng phức tạp kéo dài từ năm 1927, đến năm 1933 thì Pháp chính thức ra thông báo chủ quyền của mình cho phía Nhật Bản (24/7/1933) sau khi đã chiếm một số hòn đảo chủ yếu thuộc quần đảo Trường Sa và chính thức sát nhập vào quản hạt của tỉnh Bà Rịa.
Tóm lại, 100 năm trước, trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam (1858), “Họ mong ước chiếm được trong các biển gần Trung Hoa, nơi mà Hải quân Pháp không có một chỗ trú ẩn nào kể từ thế kỷ 17, mặc dù tàu thuyền họ thường xuyên qua lại vùng này, một khu vực có vị trí tương đương với vị trí Hải quân Anh và họ liền coi Việt Nam là nơi thuận tiện để đặt căn cứ hành quân sang Trung Hoa.
Do đó, đối với mối quan tâm chính yếu của họ là hướng sang Trung Hoa, và đứng trước thế thượng phong của Hải quân Anh, thì tham vọng của các sĩ quan đối với Việt Nam vẫn còn khiêm tốn: có lẽ họ có thể bằng lòng chiếm một hòn đảo như Côn Lôn hoặc một đảo nhỏ vô danh nào đó gần Đà Nẵng”.(49)
Mặt khác, nhìn vào danh sách 24 Thống đốc Nam kỳ thuộc Pháp từ năm 1858-1883, chúng tôi thấy có 17/24 người là sĩ quan cao cấp của Hải quân Pháp, trong đó: Phó Đô đốc là 2 người; Đề đốc là 13 người, Đại tá Hải quân là 1 người, Trung tá Hải quân là 1 người(50).Tầm quan trọng và mối quan tâm biển đảo của thuộc địa chắc chắn phải tỉ lệ thuận với binh chủng và cấp bậc của các nhà cai trị Pháp ở Đông Dương.
Yoshiharu Tsuboi đã nhận xét: “Thuộc địa mới ở rất xa chính quốc và lẻ loi đối với các thuộc địa khác của Pháp. Chiếm hữu bởi thủy binh và chỉ có thể liên lạc bằng đường thủy, nên thuộc địa này được đặt dưới quyền của Bộ Hải quân”, và “Được thành lập vì những lý do chính trị và quân sự-còn lý do kinh tế sẽ tới sau vì thiếu những kẻ khai thác thuộc địa-khi khởi đầu, thuộc địa xuất hiện như một phạm vi lãnh địa dành riêng cho Hải quân, do sĩ quan hải quân quản trị và cho các sĩ quan đó một môi trường thăng tiến nhanh chóng”.(51). “Trên thực tế, Bộ trưởng Hải quân quyết định chính sách thuộc địa tổng quát, tùy thuộc vào những tin tức thâu lượm được từ khắp các thuộc địa mà ông kiểm soát việc cai trị.(52)   
Ngày 29/4/1932 chính phủ Pháp gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc phản đối việc khai thác phân lân trên đảo Hoàng Sa, xác nhận chủ quyền quần đảo nầy vốn dĩ thuộc về An Nam từ xưa. Ngày 15/6/1932 Toàn quyền Đông Dương ra quyết định số SC-152 chính thức sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên (Huế)(53). Tiếp theo đó, Tuyên bố ngày 4/7/1933 của Chính phủ Pháp xác nhận quần đảo Hoàng Sa đã được Vua nhà Nguyễn chiếm đóng từ đầu thế kỷ 19, xưa nay vốn thuộc lãnh thổ của Vương Quốc An Nam, cho biết chính quyền Đông Dương đã cho xây hải đăng kiên cố trên đảo Hoàng Sa để bảo đảm an ninh hàng hải trong vùng biển thuộc khu vực quần đảo này, xây dựng trạm quan trắc khí tượng và bố trí lính người An Nam canh phòng bảo vệ  túc trực thường xuyên.Trong công hàm gửi Chính phủ Nhật bản ngày 12/7/1938, đại sứ Pháp ở Tokyo khẳng định vai trò gìn giữ an ninh trên biển Đông với hàm ý sự chi phối về chủ quyền của chính quyền “bảo hộ” Pháp trên biển Đông như sau:
“Trãi rộng ra quần đảo Hoàng Sa, phương cách đảm bảo an toàn (an ninh) đường biển đang được thực thi ở vùng duyên hải và các đảo thuộc về Liên bang Đông Dương, mục đích của Chính phủ Pháp là thi hành đầy đủ trách nhiệm của mình nhằm đảm bảo việc đi lại trên biển quốc tế cho quần đảo Hoàng Sa và các khu vực chung quanh”.(54)
Những tài liệu dẫn chứng trên  thiết tưởng đã đủ để chứng minh một sự thật là chính quyền “bảo hộ” của thực  dân Pháp ở Đông Dương đã tái xác lập chủ quyền của Việt Nam (để bảo vệ quyền lợi chính trị lẫn kinh tế của chính sách thực dân như trên đã có đề cập) trong thời kỳ chúng đô hộ, đấu tranh bác bỏ lập luận của phía Trung Quốc (trước đây là Trung Hoa Dân Quốc của Quốc Dân Đảng trong âm mưu bành trướng lâu dài của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán mà lãnh hải hình lưỡi bò xuất hiện vào năm 1947 là một minh chứng hùng hồn nhất) và quân phiệt Nhật Bản trong thời kỳ chiếm đóng quần đảo Trường Sa trong thế chiến thứ hai dưới tên gọi “Tân Nam quần đảo”.
3. Vấn đề công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Vu Hướng Đông, Giáo sư Viện trưởng Viện nghiên cứu Việt Nam, Học viện Chủ nghĩa Mác, Đại học Trịnh Châu: “Mọi người đều biết, năm 1958 trong một bức thư ngoại giao do Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai đã công nhận chủ quyền đối với Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa và Trường Sa) là thuộc về Trung Quốc, năm 1974 lại công khai ủng hộ cuộc chiến phản kích tự vệ của Trung Quốc ở quần đảo Tây Sa…” (55)
Lịch sử tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa đối với Việt Nam của Trung Quốc có đúng như thế không?
3.1 Hoàn cảnh ra đời “Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958”
Một là, ngày 4 tháng 9 năm 1958, trong bối cảnh của thời kỳ chiến tranh lạnh, lúc bấy giờ đang xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan. Đài Loan lúc đó còn giữ hai đảo nằm giáp lãnh thổ Trung Quốc là Kim Môn và Mã Tổ.
Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Hoa Kỳ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ “giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.
Hai là, Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4-9-1958 ra đời trong bối cảnh Hội nghị của LHQ về Biển khai mạc ngày 29-4-1958 và Công ước về thềm lục địa cũng được ra đời nhân dịp này (Sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm : Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa).

Hạn chót để các quốc gia thuộc LHQ có thể ký nhận công ước này là ngày 31-10-1958. Vì không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc là cần thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận.
Sau đây là toàn văn tuyên bố:
“Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải (Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa nay tuyên bố:
(1) Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả).
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Bành Hồ hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được chiếm lại. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoài không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc”.
Phê chuẩn của hội nghị lần thứ 100 của Ban Thường vụ
Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc ngày 4-9-1958
(Nguồn: http://law.hku.hk)
Nhưng đó chỉ là những nguyên nhận trực tiếp, còn nguyên nhân sâu xa là tham vọng về lãnh thổ của Trung Quốc đã không đạt được trong Tuyên bố Cairo 1943, Tuyên ngôn Potsdam 1945 và Hòa ước San Francisco 1951.
Tuyên cáo Cairo 1943
Vào cuối năm 1943, trong lúc chiến tranh đang ở mức độ ác liệt nhất thì các nhà lãnh đạo cấp cao của Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa Dân Quốc đã bí mật gặp nhau tại Cairo, thủ đô Ai Cập, từ 23 đến 27 tháng 11 năm 1943 (56) để thảo luận các chiến lược tiêu diệt phe Trục (Đức-Ý-Nhật). Ngày 26/11/1943, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã ký một bản tuyên cáo chung (thường được gọi là Tuyên cáo Cairo) trong đó có đoạn viết:
 “Đối tượng của các nước này [tức là của ba nước Đồng minh] là phải tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng chiếm từ khi có Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cả các lãnh thổ Nhật Bản đã cướp của người Trung Hoa, như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ, phải được hoàn trả Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ phải bị trục xuất khỏi các lãnh thổ khác đã chiếm được bằng vũ lực và lòng tham”. (57)
Đọc đoạn trích dẫn trên chúng ta thấy Tuyên cáo Cairo có hai quy định quan trọng:
- Một là, chỉ có các đất Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ được hoàn trả cho Trung Quốc mà thôi.
- Hai là, các lãnh thổ khác mà Nhật Bản chiếm được thì bản tuyên cáo này chỉ quy định việc trục xuất Nhật Bản, chứ không hề nói tới việc hoàn trả chúng cho Trung Quốc
Như vậy, chúng ta thấy rằng, cho đến cuối năm 1943, mặc dù Tổng thống Tưởng Giới Thạch đại diện duy nhất cho Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa tại hội nghị Cairo, nhưng ông ta cũng không đề cập đến những quần đảo này trong bản tuyên bố chung cuộc.
Nếu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thực sự thuộc chủ quyền của Trung Quốc thì không có lý gì họ Tưởng chỉ đòi hoàn trả có Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ mà lại không đòi luôn Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuyên ngôn Potsdam 1945
Quyết định của 3 cường quốc Hoa Kỳ, Anh, Trung Hoa Dân Quốc tại Hội nghị Cairo được tái xác nhận trong một hội nghị thượng đỉnh khác nhóm họp tại Potsdam từ 17/7 đến 2/8/1945 để ấn định các điều kiện cho Nhật Bản đầu hàng. Tổng thống Hoa Kỳ, Thủ tướng Anh (58) và Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc đã ra một tuyên ngôn (thường gọi là Tuyên ngôn Potsdam) ngày 26/7/1945 trong đó có ghi là “các điều khoản của bản Tuyên cáo Cairo sẽ được thi hành”. (59)
Tại hội nghị Potsdam này, các nhà lãnh đạo Tam cường đã quyết định chia Đông Dương làm hai khu vực để cho tiện việc giải giới quân đội Nhật Bản đóng tại đây. Vĩ tuyến thứ 16 được chọn làm ranh giới: việc giải giới ở khu vực Bắc vĩ tuyến ủy thác cho quân đội Trung Hoa (quân Tưởng Giới Thạch) và ở khu vực phía Nam do liên quân Anh - Ấn đảm nhận.(60)
Vì quần đảo Hoàng Sa nằm ở giữa hai vĩ tuyến thứ 15 và 17 nên việc giải giới quân đội Nhật trú đóng ở đây thuộc thẩm quyền của quân Tưởng. Trái lại, việc giải giới ở quần đảo Trường Sa phải do liên quân Anh - Ấn đảm nhận do lẽ quần đảo này nằm giữa hai vĩ tuyến thứ 8 và 12.
Ngày 26/10/1946, lợi dụng thời cơ, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc xuất phát từ cảng Ngô Tùng gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung đội độc lập về cảnh vệ của hải quân để giải giáp quân đội Nhật Bản. Ngày 29 tháng 11 năm 1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa.
Tuyên cáo Cairo lẫn Tuyên ngôn Potsdam chỉ cho phép Trung Hoa Dân Quốc giải giới quân đội Nhật Bản ở quần đảo Hoàng Sa mà thôi, chứ không có nghĩa là cho phép Trung Hoa Dân Quốc thu hồi quần đảo này song song với việc giải giới quân đội Nhật Bản ở quần đảo Trường Sa và thu hồi quần đảo đó.
Vì thế việc chiếm đóng và thu hồi hai quần đảo này của Trung Hoa Dân Quốc là bất hợp pháp và vi phạm nghiêm trọng luật quốc tế vì làm trái với quyết định của Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam.
Hòa ước San Francisco 1951
Đầu tháng 9 năm 1951, theo lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, 51 quốc gia trước kia đã từng tham gia hay có liên hệ tới cuộc chiến chống xâm lược Nhật Bản từ năm 1939 đến năm 1945 đã tham dự Hội nghị Hòa bình nhóm họp ở thành phố San Francisco (Hoa Kỳ) để thảo luận vấn đề chấm dứt tình trạng chiến tranh và tái lập bang giao với Nhật Bản. Điểm đáng chú ý là cả Trung Quốc và Đài Loan đều không được mời tham dự hội nghị.
Trong hội nghị, vấn đề chính là thảo luận bản dự thảo hòa ước do hai nước Anh và Hoa Kỳ đề nghị ngày 12/7/1951. Ngày 8/9/1951, ngoại trừ Liên Xô, Ba Lan và Tiệp Khắc, các nước tham dự hội nghị đã ký hòa ước với Nhật Bản. (61)
Tại hội nghị này cho thấy hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa được bao gồm trong vấn đề giàn xếp về lãnh thổ trong toàn văn Điều 2 của Hiệp ước:
Chương 2: Lãnh Thổ
Điều 2:
a)  Nhật Bản, công nhận nền độc lập của Hàn Quốc, từ bỏ chủ quyền và yêu sách đối với Hàn Quốc, bao gồm đảo Quelpart, Port Hamilton và Dagelet.
b)  Nhật Bản từ bỏ chủ quyền và yêu sách đối với Đài Loan và Pescadores.
c)  Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền, chủ quyền, và yêu sách về đảo Kurile, một phần của đảo Sakhalin và những đảo lân cận mà Nhật Bản làm chủ do kết quả của Hòa ước Portsmouth ngày 5 tháng 9 năm 1905.
d)  Nhật Bản từ bỏ quyền, chủ quyền, và yêu sách liên quan đến việc uỷ nhiệm của Hội Quốc Liên, và chấp nhận quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ngày 2 tháng 4 năm 1947, mở rộng hệ thống quản trị đối với các đảo Thái Bình Dương nguyên thuộc quyền quản trị của Nhật Bản.
e)  Nhật Bản từ bỏ tất cả mọi yêu sách về quyền hay chủ quyền hay quyền lợi liên quan đến bất cứ nơi nào ở Nam cực, cho dù xuất phát từ những hoạt động của Nhật hay bất cứ quốc gia nào khác.
f)  Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền, chủ quyền hay yêu sách về quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
Chúng ta thấy rằng Hiệp ước không nêu tên nước nào sẽ làm chủ những lãnh thổ do Nhật Bản bỏ lại. Tuy nhiên, từ những điều trên, rất rõ ràng là mỗi đề mục đều liên quan đến quyền của một quốc gia, thí dụ:
- mục (b): quyền liên quan đến Trung Quốc
- mục (c): quyền liên quan đến Liên Xô
- mục (d): quyền liên quan đến Hoa Kỳ
- mục (f): quyền liên quan đến Việt Nam
Ngày 5/9/1951, trong phiên họp toàn thể thứ 2 của hội nghị San Francisco, đại biểu Liên Xô Andrei A. Gromyko sau khi chỉ trích tính cách bất hợp pháp và sự vô nghĩa của bản dự thảo hòa ước của Anh - Mỹ để ký với Nhật Bản đã đưa ra một đề nghị 7 điểm gọi là để hướng dẫn việc ký kết hòa ước thực sự với Nhật Bản. Điểm 6 đề nghị trao trả hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa cho Trung Quốc.
“1. Thay đổi về điều 2.
(a) Thay vì đề mục (b) và (f) là đoạn văn sau đây: Nhật Bản công nhận chủ quyền toàn vẹn của nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa ở Mãn Châu, Đài Loan (Formosa) với những đảo lân cận của nó, đảo Penlinletao (The Pescadores), đảoTunshatsuntao (The Pratas Islands), cũng như quần đảo Sishatsunta và Chunshatsuntao (quần đảo Hoàng Sa, nhóm đảo Amphitrites, Maxfield) và quần đảo Nanshatsuntao bao gồm quần đảo Trường Sa, đồng thời Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền, chủ quyền và yêu sách đối với những lãnh thổ nói trên”.
Trong  phiên họp lần thứ 8 của Hội Nghị. Chủ tịch hội nghị đã loại bỏ yêu cầu này của Liên Xô ra khỏi nghị trình qua cuộc bầu phiếu với tỷ lệ 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và một phiếu trắng.
Hai ngày sau, ngày 7/9/1951 Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam (62), đã lên tiếng tái xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại giao như sau:
“Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui, de tout temps, ont fait partie du Viet Nam”.
Tạm dịch là: “Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam”. (63)
Lời tuyên bố của Đoàn đại biểu Quốc gia Việt Nam tại Hội nghị San Francisco (1951).
(Đăng trong tạp chí France-A’e số 66-67 Novembre-Décembre, 1951)
Lời tuyên bố của Trần Văn Hữu đã được Hội nghị San Francisco ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn, không có một phái đoàn nào phản đối. Điều này được coi như là sự chấp nhận toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa. Bản tuyên bố của Thủ tướng Trần Văn Hữu xác nhận chủ quyền đã hiện hữu, vì vậy nó có tác dụng đối với tất cả, ngay cả đối với những quốc gia không có mặt tại hội nghị (theo Điều 25 của Hiệp ước Hòa bình San Francisco năm 1951 thì không giao cho các nước [chủ quyền các vùng lãnh thổ mà Nhật từ bỏ] nếu các nước này không ký kết và thông qua Hiệp ước. Cả hai phía Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc đều không tham gia ký kết Hòa ước). (64)
Thủ tướng Trần Văn Hữu, Trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam
kí hòa ước San Francisco ngày 8/9/1951
Bên cạnh đó, trong bản tuyên bố ngày 5/5/1952(65) về hòa ước mà Trung Hoa Dân Quốc đã ký với Nhật Bản ngày 28.4.1952, Chu Ân Lai không nói gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mặc dù hai quần đảo này đã được đề cập tới trong điều 2 của hòa ước như sau:
“Điều 2. Hai bên nhìn nhận là theo điều 2 Hòa ước với Nhật Bản ký ngày 8 tháng chín năm 1951 tại San Francisco ở Hoa Kỳ, Nhật Bản đã khước từ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi liên quan đến Đài Loan (Formosa) và Bành Hồ (the Pescadores), cũng như quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. (66)
Theo điều khoản này, Nhật Bản chỉ nhắc lại việc khước từ chứ không nói rõ là Nhật Bản hoàn trả hai quần đào này cho Trung Hoa Dân Quốc.
Ngày 8.2.1955, 12 năm sau khi tham dự hội nghị và ký bản Tuyên cáo Cairo, Tưởng Giới Thạch vẫn còn nhắc lại là:
“Trong thông cáo công bố vào lúc bế mạc hội nghị, chúng tôi đã tuyên bố là tất cả các lãnh thổ do Nhật Bản ‘cướp’ của Trung Hoa, kể cả Đông Tam Tỉnh, Đài Loan và Bành Hồ phải được hoàn trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc. Lời tuyên bố này đã được bản Tuyên ngôn Potsdam công nhận và Nhật Bản chấp nhận khi nước này đầu hàng”. (67)
Tóm lại, về phía Việt Nam – nước tham gia Hội nghị San Francisco với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp(68) – tuyên bố của phái đoàn Quốc gia Việt Nam về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Hội nghị mà không có sự phản đối nào của các nước tham gia cũng chính là sự thừa nhận của các nước Đồng minh về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Hơn nữa, Điều 2 của Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản có hiệu lực đã tái lập sự toàn vẹn lãnh thổ cho những quốc gia bị quân Nhật chiếm đóng trong Thế chiến hai. Do đó, việc Nhật Bản tuyên bố từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cũng có nghĩa là Nhật Bản trả lại chủ quyền của hai quần đảo mà nước này chiếm đóng trong giai đoạn 1939-1945 cho Việt Nam. Chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa tất yếu thuộc về Việt Nam.
3.2 Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Sau Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958, ngày 14/9/1958, Thủ tướng nước VNDCCH Phạm Văn Đồng gửi bức công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai với nguyên văn như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4-9-1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt-nam dân chủ cộng hoà (69)
Chúng ta thấy rằng công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bấy giờ, nội dung Công hàm cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng công hàm ngày 14/9/1958 có hai nội dung rất rõ ràng:
- Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc quyết định về hải phận của Trung Quốc.
- Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Chính vì vậy chính phủ Trung Quốc đã coi công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một bằng chứng pháp lý về chủ quyền của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa.



Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Giải thích vấn đề này, ông Nguyễn Mạnh Cầm đã nhấn mạnh: “Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.
Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa”.(70)
Ông Lưu Văn Lợi, cựu Chánh văn phòng-Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng ban Biên giới thuộc Hội đồng Bộ trưởng (1978-1989) đã nhận xét: “Công hàm của ông Phạm Văn Đồng chỉ là một cử chỉ tốt đẹp về tình hữu nghị, ủng hộ Trung Quốc trong lúc Mỹ đưa hạm đội 7 tới eo biển Đài Loan mà thôi”.(71)
Từ năm 1979 đến nay Trung Quốc đã nhiều lần nhắc lại vấn đề này.
Ngày 17-11-2000, Bộ Ngoại giao Trung Quốc phát đi bản tin với cái gọi là “Sự thừa nhận của quốc tế về chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa”:
“ 5. Việt Nam
a) Thứ trưởng ngoại giao Dung văn Khiêm [Ung Văn Khiêm] của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại sứ Trung Quốc tại Việt Nam đã nói rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung Quốc”. Ông Le Doc [Lê Lộc], quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng “xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung Quốc từ thời nhà Ðường”.
b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung Quốc, rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung Quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam “nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên bố của Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải”.
c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa”.(72)
Ngày 29/6/2011, một lần nữa Tân Hoa Xã đã phát đi bản tin nhân chuyến thăm viếng Trung Quốc của Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn:
“Chinese historical records show that in 1958, the Chinese government claimed the islands in the South China Sea as part of China's sovereign territory, and then Vietnamese Premier Pham Van Dong expressed agreement in his diplomatic note to then Premier Zhou Enlai”. (73)
Tạm dịch: “Hồ sơ lịch sử Trung Quốc cho thấy năm 1958, chính phủ Trung Quốc tuyên bố các đảo trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) như là một phần lãnh thổ chủ quyền của Trung Quốc, và sau đó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng bày tỏ sự đồng thuận trong công hàm ngoại giao của mình gửi Thủ tướng Chu Ân Lai”.
Cần nhắc lại rằng, ngày 7/8/1979, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam đã ra Tuyên bố ngày 7/8/1979 bác bỏ sự xuyên tạc trắng trợn của Trung Quốc đối với văn bản ngày 14/9/1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
“Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (1979)
Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:
1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.
2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc.
3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam. Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.
4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.
5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề
6. Chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa một cách bất hợp pháp bằng quân sự, Trung Quốc đã xâm phạm vào sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dẫm chân lên làm cản trở tinh thần của Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải quyết tất cả các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. Sau khi phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam với tầm vóc to lớn, phía Trung Quốc lại nêu ra vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi tạo ra một tình trạng càng ngày càng căng thẳng dọc theo biên giới Việt Nam và từ chối việc thảo luận những giải pháp cấp thiết để bảo đảm hoà bình và ổn định trong khu vực biên giới giữa hai nước. Ðiều rõ ràng là những kẻ cai trị Trung Quốc vẫn không từ bỏ ý định tấn công Việt Nam một lần nữa. Hành động của họ là một sự đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và ổn định trong vùng Ðông Nam Á và làm lộ rõ hơn tham vọng bành trướng, với bản chất bá quyền hiếu chiến của một nước lớn,  bộ mặt xảo trá lật lọng và phản bội của họ.
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979”.(74) 
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đặt ra hai khả năng để giải quyết vấn đề:
Trước nhất, công hàm của chính phủ Trung Quốc gửi cho chính phủ VNDCCH về việc tuyên bố lãnh hải của mình có gì khuất tất không? Bởi vì trong một tài liệu nghiên cứu thuộc Văn phòng Địa lý, Vụ nghiên cứu tình báo trực thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về “Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958”, chúng tôi phát hiện ở Điều 1 không có liệt kê quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa như trong bản tiếng Trung:
(1) The breadth of the territorial sea of the People’s Republic of China shall be twelve nautical miles. This provision applies to all terrltories of the People’s Republic of China, including the Chinese mainland and its coastal islands, as well as Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands [Quần đảo Bành Hồ] and all other islands belonging to China which are separated from the mainland and its coastal islands by the high seas.(75)
Tạm dịch:
 (1) Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ và các đảo khác thuộc Trung Quốc (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả).

INTERNATIONAL BOUNDARY STUDY, Series A, LIMITS I N THE SEAS, No. 43, STRAIGHT BASELINES: PEOPLE'S REPUBLIC OF CHINA
The Geographer Office o f the Geographer Bureau of Intelligence and Research
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã dựa vào văn bản nào để trả lời cho Chu Ân Lai? Đọc lại bản tin trên báo Nhân Dân ngày 6/9/1958, chúng tôi thấy từ nguồn Thông Tấn Xã Việt Nam, báo Nhân Dân đã đăng toàn văn “Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958” như đã trình bày. Như vậy việc đánh giá về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng sẽ như thế nào?
Tựu trung lại có một số quan điểm sau đây:
Nhận xét về quan điểm của Trung Quốc, Giáo sư Đại Học Paris III  Monique Chemillier-Gendreau đã viết như sau: “Dans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement competent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité…”(76)
Tạm dịch: “Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể từ bỏ ở cái mà người ta không có chủ quyền…”.
Chúng ta thấy rằng, về phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc bấy giờ không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.(77)
Hòa một một điệu với chính phủ Trung Quốc, Giáo sư Lý Kim Minh, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại học Hạ Môn trong bài viết “Nguồn gốc và sự tranh cãi đang diễn ra về vấn đề Biển Đông” đăng trên “Beijing Review”(1/8/2011) đã nhận xét: ‘… Việt Nam thừa nhận quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa là lãnh thổ Trung Quốc trong quá khứ. Vì vậy, dựa trên nguyên tắc estoppel của luật pháp quốc tế, chính phủ Việt Nam hiện nay nên tuân theo ghi nhận trước đó”.
Nguyên tắt “estoppel” mà Lý Kim Minh vận dụng sẽ được hiểu như thế nào?
Tiến sĩ Luật học  Đại học Sorbonne, Pháp, Từ Đặng Minh Thu đã cho biết:
“Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”.
Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là “one cannot at the same time blow hot and cold”.
“Thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó. Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác.
Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:

1.Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch.
2.Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là “reliance” [sự phụ thuộc].
3.Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó.
4.Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ.
5.Ngoài ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải thực sự có ý định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi hành lời hứa đó. (78)
Như chúng ta đều biết, hiện nay công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là một trong những lập luận chính của phía Trung Quốc và một số quan điểm khác lại cho rằng đây là một “công hàm bán nước [?]” và để bác bỏ hay phủ nhận công hàm ngày 14/9/1958 của chính phủ VNDCH thì quốc hội nước CHXCN Việt Nam phải phải ra quyêt định phủ quyết nó.
“Luận điểm cáo buộc ông Phạm Văn Đồng như nêu trên dựa vào một văn thư ngoại giao, mang chữ ký của ông Phạm Văn Đồng, trong cương vị Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, để trả lời một bản “tuyên bố” của Trung Hoa về việc nới rộng hải phận 12 hải lý.
Có hai điểm chính cần được nói đến ngay, đó là công hàm ngoại giao này chỉ là một “trao đổi quan điểm” giữa hai nước “không có giá trị như một hiệp ước”, hoặc chỉ là một thỏa thuận “giới hạn trong thời gian”.(Nói khác đi phút này đồng ý phút sau đổi ý, tùy nhu cầu và mối tương quan giữa hai nước).
Nếu đọc kỹ bản văn trên, người ta còn thấy sự khôn khéo trong cách hành văn ngoại giao, trong đó phía Việt Nam chỉ nói: “Chúng tôi ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-56 của chính phủ Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.”
Có lẽ cần lưu ý đặc biệt những từ ngữ quan trọng nhất trong câu này đó là: ghi nhận, tán thành và... bản tuyên bố.
Câu văn này có nghĩa là phía Việt Nam ghi nhận ý muốn của Trung quốc muốn nới rộng hải phận qua một tuyên bố đơn phương của mình, và tán đồng ý muốn này.
Và đoạn văn kế đó có thể hiểu ngầm là trong tình trạng giao hảo “lúc đó” giữa hai nước, phía Việt Nam sẽ tôn trọng ý muốn 12 hải lý hải phận của Trung quốc”. (79)
Giả thiết được đặt ra: công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là có giá trị pháp lý thì quốc hội nước CHXHCNVN có phủ quyết công hàm đó được không? 
Nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn đã lý giải: Theo Convention sur le Droit des Traité de Vienne  Công ước về Luật của các Hiệp ước ký tại Vienne, Áo (Convention sur le Droit des Traité de Vienne) ngày 29/5/1969 :

Vienna Convention on Succession of States in respect of Treaties (2): một nước có thể ngưng thi hành một hiệp ước đã ký cũng như có thể hủy bỏ toàn bộ nội dung các hiệp ước nầy vì tính bất bình đẳng của nó (trường hợp các hiệp ước được ký dưới thời kỳ một nước bị bảo hộ).
Tuy-nhiên, Ðiều 11 của Công ước Vienne có nội dung: 
“Boundary regimes: 
A succession of States does not as such affect: (a) a boundary established by a treaty; or (b) obligations and rights established by a treaty and relating to the regime of a boundary.” 
Tạm dịch: “Thể lệ về biên giới: Một sự kế tục của quốc gia không đặt lại vấn đề về: a) biên giới xác định do một hiệp ước và b) nghĩa vụ và quyền lợi xác định do một hiệp ước có liên hệ với một thể lệ về biên giới.” 
Trên thế giới có rất nhiều hiệp ước phân định biên giới (rất bất bình đẳng) đã ký từ nhiều thế kỷ trước đến nay vẫn còn hiệu lực như giữa Nga và Trung Quốc (Trung Quốc mất hàng triệu km²). 
Như thế, giả sử quốc hội nước CHXHCN Việt Nam có ra nghị quyết phủ nhận công hàm ngày 14/9/1958 thì đối với quốc tế luật này không có giá trị vì công hàm ngày 14/9/1958 liên quan đến vấn đề “biên giới”.
Nhưng công ước Vienne 1969 có nói đến “sự kế tục của quốc gia”. 
Tiếp theo, Trương Nhân Tuấn cho rằng để phản bác lại quan điểm của Trung Quốc hiện nay tùy thuộc vào sự lựa chọn của chính phủ Việt Nam hiện nay về việc kế tục quốc gia. 
Ta thấy “người kế thừa” Việt Nam Công Hòa (VNCH) là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN). Trước và sau 30/4/1975, VNCH và CPCMLTCHMNVN chưa hề tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Trường Sa và Hoàng Sa. Ngược lại, trước năm 1975, VNCH luôn khẳng định chủ quyền, của mình ở các quần đảo này. Việc khẳng định chủ quyền này thể hiện qua nhiều cách thức khác nhau. Ngày 9/9/1975, nhân hội nghi quốc tế về “khí tượng” tổ chức ở Colombo, đại diện của CPCMLTCHMNVN đề nghị hội nghị ghi nhận các trạm thời tiết đặt tại các đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam. Điều này cho thấy CPCMLTMNVN khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, tức thừa kế VNCH.
Lập trường hai bên miền Nam là một trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa 
Sau khi “hiệp thuơng” thống nhất đất nước năm 1976(80), chính phủ CHXHCNVN có quyền lựa chọn việc kế thừa, ở đây không ai cấm chính phủ này kế thừa CPCMLMNVN.(81)
Như vậy, từ sau năm 1975, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, người kế thừa hai nhà nước VNCH và VNDCCH, đã kế thừa chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ VNCH cùng các tuyên bố đơn phương không mang tính chất ràng buộc và hiệu quả pháp lý từ VNDCCH hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để khẳng định chủ quyền hợp pháp của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng quan trọng hơn hết, cần phải nói rằng từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội nước Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Bên cạnh đó chúng ta cũng phải thừa nhận rằng công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là một sản phẩm lịch sử của thời kỳ chiến tranh lạnh và cũng là của sự ấu trĩ về tình hình thế giới của giới lãnh đạo VNDCCH lúc bấy giờ.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho là xác đáng nhưng cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm văn Đồng không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm và đã trả giá trong bàn đàm phán Geneve năm 1954, khi bàn về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Nhưng kinh nghiệm ấy cũng không ngăn ông được khi giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ với Trung Quốc vì Việt Nam đã tạo nên ấn tượng rằng Việt Nam đã tự nguyện chấp nhận những hy sinh vì lợi ích của đường lối chung về “cùng tồn tại hòa bình” đang thịnh hành trong thế giới xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ
Kết luận:
Kể từ sau sự kiện ngày 26/5/2011 Tàu hải giám Trung Quốc đã đe dọa tàu Bình Minh 02, cắt cáp thăm dò địa chấn tại lô 148 Thềm lục địa Việt Nam và ngày 9/6/2011, tàu khảo sát địa chấn Viking 2 mà Việt Nam thuê của Pháp đã bị tàu cá của Trung Quốc phá dây cáp cho đến nay Trung Quốc không dừng lại ở đó mà tiếp tục có nhiều hành động đe dọa một cách có hệ thống chủ quyền của nước Việt Nam:  
Thông cáo từ Bộ Ngoại giao Ấn Độ gửi đến BBC cho hay tàu hải quân INS Airavat đã có chuyến thăm hữu nghị Việt Nam từ 19-28/7/2011: “Hôm 22/7, INS Airavat đang trên đường từ Nha Trang ra Hải Phòng để thăm cảng này. Khi ở Biển Đông, cách bờ biển Việt Nam chừng 45 hải lý, INS Airavat nhận được điện đàm từ một người gọi tự xưng là 'Hải quân Trung Quốc' cảnh báo rằng tàu này đang tiến vào hải phận Trung Quốc”.(82)
Tiếp theo đó, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc thông báo trên trang web của cơ quan ngư chính tỉnh Quảng Đông, cho biết một tàu mang số hiệu 306, có trọng tải 400 tấn, đã rời Quảng Châu để đi về hướng Hoàng Sa.
Một quan chức của cơ quan ngư chính Quảng Đông nói việc điều động nhằm “tăng cường nỗ lực thực thi pháp luật tại các vùng đánh bắt cá ở Hoàng Sa, bảo vệ hoạt động đánh bắt cá, an toàn cho ngư dân, và bảo vệ chủ quyền trên biển của Trung Quốc”. (83)
Ngày 10/9/2011, Tân Hoa xã đưa tin giới chức Trung Quốc vừa điều tàu cá đa năng Quỳnh Phú Hoa Ngư - 01 tới vùng biển Trường Sa của Việt Nam. Giới chức Trung Quốc không nói rõ nhiệm vụ của tàu mà chỉ tuyên bố nó “sẽ hỗ trợ đưa nghề nuôi trồng ngư nghiệp nhiệt đới trong khu vực vào giai đoạn mới”. Trước đó, đại diện Hải quân Trung Quốc cùng Tập đoàn China Mobile lại ngang nhiên tổ chức lễ nghiệm thu công trình xây dựng trạm điện thoại di động tại những đảo do nước này chiếm giữ ở Trường Sa. (84)
Báo chí Trung Quốc gần đây đăng tải nhiều thông tin về một số hoạt động của các cơ quan Trung Quốc ở khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bộ trưởng Giao thông Trung Quốc ra quần đảo Hoàng Sa để thị sát tàu Hải Tuần. Cục trưởng Cục thể thao Trung Quốc ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa để khảo sát tình hình triển khai hoạt động thể dục thể thao.
Viện nghiên cứu Môi trường và Khảo sát công trình hải dương “Nam Hải” đã thực hiện dự án đo đạc, giám sát, phân tích và đánh giá sự thay đổi của một số đảo điển hình ở quần đảo Hoàng Sa. Cục trưởng Cục ngư chính khu “Nam Hải” của Trung Quốc thì cho biết Trung Quốc có kế hoạch về việc xây dựng căn cứ nghề cá ở đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, cũng như xây dựng cầu tàu và căn cứ dịch vụ nghề cá ở Trường Sa.
Ngày 23/2/2012, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị tuyên “Những hoạt động như vậy trái với thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề trên biển đã ký giữa hai nước, cũng như không phù hợp với Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) và các cam kết duy trì hòa bình ổn định trên biển”, “Việt Nam yêu cầu Trung Quốc dừng ngay các hành động này và hủy bỏ các dự án xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, cùng các bên liên quan hợp tác giữ gìn hòa bình ổn định ở Biển Đông, thực hiện nghiêm túc DOC”.
Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói, Trung Quốc hối thúc Việt Nam thực sự tôn trọng chủ quyền, quyền lợi và quyền cai quản của Trung Quốc.
Ngay sau đó, ngày 27/2/2012, Khi trả lời câu hỏi của phóng viên trong buổi họp báo thường kỳ: “Trước việc Trung Quốc tiến hành nghiên cứu hải dương trên vùng biển hữu quan, quan chức Việt Nam trong bài phát biểu mới yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hoạt động đe dọa tới chủ quyền lãnh thổ của quần đảo Tây Sa và Nam Sa Việt Nam, Trung Quốc có sự phản ứng gì?”.
Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hòn đảo Nam Hải và vùng biển xung quanh. Trung Quốc tiến hành hoạt động xây dựng bình thường và triển khai bất cứ hoạt động gì trên quần đảo Tây Sa hoàn toàn là công việc trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc hoàn toàn không thể chấp nhận cách nói của Việt Nam. Trung Quốc hối thúc Việt Nam thực sự tôn trọng chủ quyền, quyền lợi và quyền cai quản của Trung Quốc”. (85)
Và mới đây, theo trang web Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 21-6-2012 đăng thông báo Quốc vụ viện Trung Quốc mới phê chuẩn nâng Thành phố Tam Sa (tỉnh Hải Nam) từ thành phố cấp huyện lên thành phố cấp vùng và chính quyền Thành phố Tam Sa đặt tại đảo Phú Lâm trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Theo TTXVN, sau một loạt các hoạt động phi pháp nhằm xây dựng và phát triển cái gọi là “thành phố Tam Sa,” ngày 1/10/2012, Trung Quốc đã tổ chức lễ kéo cờ kỷ niệm Quốc khánh Trung Quốc tại đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa; ngày 3/10/2012, Hạm đội Nam Hải Trung Quốc tổ chức diễn tập trực chiến khẩn cấp tại khu vực vùng biển quần đảo Hoàng Sa; ngày 8/10/2012, Trung Quốc thành lập Phòng khí tượng thành phố Tam Sa. Trước đó, ngày 23/9/2012, báo chí Trung Quốc đưa tin Trung Quốc sẽ sử dụng máy bay không người lái tăng cường giám sát các vùng biển, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…

Tất cả những việc làm trên đây là một phần trong chiến lược thôn tính biển Đông của Trung Quốc. Nhìn chung, chiến lược xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc có thể tóm lược bằng phương châm: biến không thành có. Chiến lược này thường được thực hiện qua 3 bước như sau:
Bước 1, biến một vấn đề hoàn toàn không tranh chấp thành một vấn đề tranh chấp;
Bước 2, gây áp lực — nếu cần dùng bạo lực — trên nước láng giềng nhỏ bé hơn;
Bước 3, đàm phán, và trong đàm phán thì phải có nhân nhượng, Trung Quốc dĩ nhiên sẽ chiếm được một phần dưới danh nghĩa là “nhường” cho nước nhỏ!
Tất cả những động thái đó đã cho chúng ta thấy rằng, cuối cùng, đối với Trung Quốc, nói đi nói lại dù cho lời hay ý đẹp cũng là “Chủ quyền thuộc ngã” khi muốn ôm trọn biển Đông ở phương Nam hay những hòn đảo, đá… ở biển Đông Trung Hoa như Senkaku, Okinotori (Nhật Bản) mang tính chiến lược nằm trong tham vọng bành trướng mà các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc vẫn ấp ủ từ lâu.
Tôi xin mượn lời nhận xét của một học giả Phương Tây khi nhận xét về tấm Trung Hoa tân địa đồ được xuất bản năm 1938 để kết thúc đề tài này: Bức địa đồ của sự hổ thẹn dân tộc. 


Hồng Mậu Hy, Trung Hoa tân địa đồ, địa đồ dùng cho hệ tiểu học, do Bộ Nội chính cho phép xuất bản, Trùng Khánh, Đông Phương Dư Địa học xã xuất bản năm 1938


Chú thích:
(2) TTX Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt, Chủ Nhật, ngày 21/08/2011
(3) Hồng Lê Thọ, “Chủ quyền thuộc ngã” – Từ “Gác lại” đến “Cưỡng đoạt”: Sách lược thực dụng và thâm độc trong tranh chấp chủ quyền biển đảo của Trung Quốc
(4) Hồng Lê Thọ, Cộng đồng quốc tế quan tâm đến biển Đông tiền đề của “quốc tế hóa”
(5) Xem Thích Đại Sán, Hải ngoại Ký sự, (7 quyển), Viện Đại học Huế. Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam. Huế 1963.   
(8) Hồng Lê Thọ, “Chủ quyền thuộc ngã” – Từ “Gác lại” đến “Cưỡng đoạt”: Sách lược thực dụng và thâm độc trong tranh chấp chủ quyền biển đảo của Trung Quốc
(9)(10) Madrolle Claudius – Vấn đề Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa – trong : Chính sách nước ngoài – số 3 - 1939 – năm thứ tư, trang 302-312 (http://www.persee.fr)
Vua Gia Long xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816. Tác giả bài báo đã nhầm là năm 1806.
(11) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, phát hành vào ngày 1 và 15 hằng tháng. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
Trong một tài liệu khác cho biết Đô đốc Lý Chuẩn trong chuyến đi “khảo sát” Hoàng Sa lần này ông đã cho vẽ 15 bản đồ và 10 bức ảnh chỉ diễn ra trong vòng 36 tiếng đồng hồ! Xem: P.A Lapicque, A propos des Iles Paracels, 1929, Les Editions D’Extreme-Asie, Saigon, trang 8-11.
(12) Báo Advertiser số ra ngày thứ 3, 29/6/1909, trang 7. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(13) The Advertiser, Monday 5 July 1909, page 8. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(14) Bài báo "L'histoire moderne des iles Paracels" đăng trên tờ báo "L' Eveil de l'Indochine" số 738 năm thứ 16, phát hành ngày 22/5/1932 tại Hà Nội. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(15) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(16) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(17) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
      - Gouvernment général de l'Indochine - Conseil de Gouvernment: Session ordinaire de 1918. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(19) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
(20) Xem:
- Gustave SALÉ, “Les Iles Paracels et la Sécurité en Extrême-Orient”, Avenir du Tonkin, (no 10495), 17/04/1931, pp 2. 
- E. SAURIN, “A propos des Galets Exotiques des Iles Paracels”, Archives Géologiques du Vietnam, I.N.D.E.O, Saigon, (no 4), 1957, pp 9. 
(21) L'Eveil économique de l'Indochine N394: La perte du Haiphong 28/12/1924. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(22) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(23) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(24) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(25) Báo “ La Nature” số 2916 ngày 1 tháng 11 năm 1933, tài liệu đã dẫn.
(26) L' Eveil de l'Indochine N419. Du Charbon pour le “de Lanessan”.1925/06/21. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(27) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
(28) Tham khảo bài của Oliver trong “La Géographie”, Tome LX, Nov - Dec. 1933, và bài của Marcel “Les Archipels Paracels et Spratly” trong báo VIetnam Press, Sagon, Nov. 1971, No 7574
(29) (Bruzon, Canton, Romer, Le climat de L’Indochine et les typhoons de la Mer de Chine, Hanoi, 1930)
(30) Océanographie physicque et biologique 1932, 1933. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(31) Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975
(32) L' Eveil de l'Indochine N502 . Chronique des mines . 1927/01/23. Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(33) Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa-Lãnh Thổ Việt Nam.
(34) Madrolle Claudius – Vấn đề Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa – Tài liệu đã dẫn.
(35) Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, Người dịch: Nguyễn Hồng Thao, Hiệu đính: Lưu Văn Lợi, Lê Minh Nghĩa. Nguyên bản: La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, tác giả Monique Chemillier-Gendreau.
(36) Tức đảo Song Tử Tây và đảo Song Tử Đông.
(37) Madrolle Claudius – Vấn đề Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa – Tài liệu đã dẫn.
Vào năm 1938, Sở Khí tượng Đông Dương (Indochina Meteorological Service) thiết lập một trạm thời tiết tại Ba Bình, là nơi được coi là tốt nhất tại Biển Đông để cung cấp dữ kiện về thời tiết cho những quốc gia trong vùng. Trạm được người Pháp quản trị trong vòng 3 năm đầu, sau đó thì người ta tin là Trạm vận hành dưới sự kiểm soát của quân đội Nhật Bản. Trước khi rơi vào tay quân đội Nhật, trạm Ba Bình quan trọng tới mức được cấp mã số quốc tế là 48919. Những dữ kiện do trạm cung cấp được lưu trữ khắp nơi trên thế giới dưới tên French Indochina – Cochinchina.
(Xem: Bạch Thư về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Ngoại Giao, Sài-gòn, 1975)
(39) (40) (41) Madrolle Claudius – Vấn đề Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa – Tài liệu đã dẫn.
(42) Nhật báo La Croix số 17004 năm thứ 59, ngày thứ năm 14.07.1938, trang 1.Tài liệu lưu trử của Trung tâm dữ liệu Hoàng Sa.
(43) Reported by Prof. Charles Rousseau in Revue General de Droit International Public July- September 1972, p.830.
(44) Theo  Hòa ước Shimonoseki, điều 2 & 3 qui định
清国は、遼東半島台湾澎湖諸島など付属諸島嶼の主権ならびに該地方にある城塁、兵器製造所及び官有物を永遠に日本に割与する。(第二条、第三条)澎湖列島即英國「グリーンウィチ」東經百十九度乃至百二十度及北緯二十三度乃至二十四度ノ間ニ在ル諸島嶼
bản tiếng Anh:
(b) The island of Formosa, together with all islands appertaining or belonging to the said island of Formosa.
 © The Pescadores Group, that is to say, all islands lying between the 119th and 120th degrees of longitude east of Greenwich and the 23rd and 24th degrees of north latitude.
[tất cả các đảo nằm trong khu vực từ 119 độ  đến 120 độ kinh đông và từ 23 độ đến 24 độ  bắc vĩ tuyến] cho thấy khu vực nhà Thanh nhượng cho Nhật Bản không bao gồm quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, chỉ đến đảo Hải Nam mà thôi.
(45) “Thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa của các triều đại Việt Nam” (25/06/2011)
http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1434&Chitiet=33070&Style=1
(47) Theo Urano Tatsuno “International Conflit over the South China Sea”(Nankai shotoo Kokusai Fusooshi”(Tosui Shobo Publishers, 1997)
Khái niệm “nhà nước và nhân dân Việt Nam” của TS Nguyễn Nhã nêu ở đây phải chăng là triều đình Huế?
(49) Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885, NXB Tri Thức, 2011, trang 111.
(50) Võ Đức Hạnh, La place du catholicisme, trang 402-403, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Sđd, trang 125.

Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm đất Nam kỳ, người Pháp tổ chức hệ thống cai trị qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, từ 1861 đến1879, người Pháp thành lập Soái phủ Nam kỳ (Gouvernement des Amiraux) do các đô đốc của Hải quân Pháp đứng đầu, trông coi việc cai trị hành chính và binh bị. Bắt đầu năm 1879, người Pháp đặt chức vụ Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur-général de la Cochinchine) để cai trị mảnh đất thuộc địa này. Chức vụ thống đốc này trực thuộc bộ Thuộc địa và bộ Hải quân Pháp. Sau khi áp đặt chế độ bảo hộ, người Pháp đặt thêm chức vụ Khâm sứ Trung kỳ (Résident supérieur d'Annam) và Thống sứ Bắc kỳ (Résident général du Tonkin). Hai người này trực thuộc bộ Ngoại giao Pháp.

(Xem: http://vi.wikipedia.org/wiki/To%C3%A0n_quy%E1%BB%81n_%C4%90%C3%B4ng_D%C6%B0%C6%A1ng)
(51) Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Sđd, trang 121.
(52) Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Sđd, trang 129.
(53) Theo Dương Tác Châu trong “Tranh Chấp ở quần đảo Trường Sa”(Funsoo Nasha Guntoo”(NXB Shinbyoron—Tokyo)
(54) Công Hàm của Đại Sứ Quán Pháp tại Nhật Bản gửi CP NB ngày 12/7/1938
“En étendant aux iles Paracelse le dispositif de sécurité maritime qui fonction sur la côte et le iles relevant de l’Union Indochinoise le Gouvernement Francais n’a d’autre intention que de remplir la charge qui lui incombe d’assurer dans ces parages la protection de la navigation internationale.” (theo Urano Tatsuo, Sđd, trang 288-289)

(56) Chi tiết về hội nghị này và hội nghị Tehran được in trong tập The Foreign Relations of The United States Diplomatic Papers: The Conferences at Cairo and Tehran, 1943 (viết tắt: FRUS Cairo Tehran), Government Printing Office, Washington, D.C., 1961

(57)  FRUS Cairo Tehran, tr. 448, 449.

(58) Mới đầu là Winston Churchill, sau là Clement Attlee khi Đảng Bảo thủ Anh thất cử.

(59) Documents on American Foreign Relations, do Raymond Dennett và Ro­bert K. Turner biên tập và Prince University Press xuất bản năm 1948, tập VIII: 1.7.1945 31.12.1946.

(60) Jean R. Sainteny, Histoire D’Une Paix Manquée: Indochine 1945-1947, Amiot Dumont, Paris, 1953, tr. 50.

(61) Toàn văn bản Hòa ước San Francisco đăng trong: (a) United Nations Treaty Series, tập 136, tr. 46 và tiếp theo, và (b) American Foreign Policy, 1950 1955: Basic Documents do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xuất bản năm 1957, ấn bản số 5446, tr. 425 439.

(62) Quốc gia Việt Nam là một thực thể chính trị tồn tại trong giai đoạn 1949-1956, ra đời sau Hiệp ước ngày 8/3/1949 giữa Pháp và cựu hoàng Bảo Đại (Hiệp ước Elysee). Cuối năm 1955, Ngô Đình Diệm – lúc này là Thủ tướng Quốc gia Việt Nam – lên làm tổng thống sau cuộc “Trưng cầu dân ý” ngày 23-10-1955. Đến năm 1956, Quốc gia Việt Nam “cải đổi” thành Việt Nam Cộng hòa, công bố Hiến pháp mới (26-10-1956). Như vậy có thể nói Quốc gia Việt Nam là “tiền thân” của Việt Nam Cộng hòa.

(63) Tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tại Hội nghị San Francisci 1951

 Thật là nghiêm trọng và cảm kích cho Việt Nam được đến San Francisco tham dự công việc của hội nghị Hòa bình với Nhật Bản. Sở dĩ chúng tôi được hiện diện tại đây là nhờ các tử sĩ của chúng tôi và lòng hy sinh vô bờ bến của dân tộc chúng tôi, dân tộc đã chịu đựng biết bao đau khổ để được sống còn và giành sự trường tồn cho một nòi giống đã có hơn 4 ngàn năm lịch sử.

Nếu mỗi dân tộc đã thống khổ do sự chiếm đóng của Nhật Bản, có quyền tham dự hội nghị này, như tất cả diễn giả liên tiếp hai ngày nay đã đồng thanh nhìn nhận, mặc dù thuộc ý thức hệ nào đi nữa cũng vậy, thì cái quyền Việt Nam lên tiếng về Hòa ước Hòa bình với Nhật Bản lại càng dĩ nhiên hơn lúc nào hết, vì không ai không biết rằng, trong tất cả các quốc gia Á châu, V.N là một nước chịu nhiều đau khổ nhất về tài sản cũng như về tính mạng người dân. Và tôi thiếu sót phận sự tối thiểu đối với đồng bào quá vãng nếu giờ phút này, tôi không hướng một ý nghĩ thành kính đến số một triệu dân Việt mà hoàn cảnh bi thảm của sự chiếm đóng đã đưa đến cái chết đau thương. Những hư hại vật chất mà đất nước chúng tôi gánh chịu không phải là ít và tất cả nền kinh tế của chúng tôi bị ảnh hưởng một cách trầm trọng. Cầu cống và đường sá bị cắt đứt, làng xã bị triệt hạ hoàn toàn, nhà thương và trường học bị thiệt hại, bến tàu và đường sá bị dội bom, tất cả đều phải làm lại, đều cần thiết phải làm lại, nhưng than ôi cần có nguồn tài nguyên quá cao so với khả năng hiện hữu của chúng tôi.
 
Cho nên, trong lúc khen ngợi sự rộng lượng của những tác giả dự án thỏa hiệp này, chúng tôi cũng trình bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu hội nghị ghi nhận.
 
Là những người Á châu, chúng tôi thành thật hân hoan trước những viễn tượng mới mẻ mở rộng ra cho một quốc gia Á Đông sau khi kết thúc thỏa hiệp hòa bình này. Chúng tôi sẽ hết sức cố gắng góp phần vào sự phục hưng của một dân tộc Á đông bình dị và cần mẫn như nước Nhật Bản đây, chúng tôi tin chắc rằng những người dân châu Á phải là những người phát khởi thịnh vượng chung của mình, họ cũng trông cậy nơi chính mình để xa lánh mọi chế độ đế quốc và trong việc thiết lập một trạng thái quốc tế mới, một sự liên đới Á châu cũng cần thiết như một sự liên đới Âu châu vậy.
 
"Điều này không có ý muốn nói là sẽ có một ngày nào đó hai sự đoàn kết này sẽ chống đối lẫn nhau. Điều này chỉ muốn nói một cách giản dị là các dân tộc châu Á một khi đã được các quốc gia Tây phương hoàn thành việc giúp đỡ họ xây dựng hòa bình, tôi nói rằng một khi mà hòa bình đã vãn hồi, các dân tộc Á châu không thể sẽ là gánh nặng cho kẻ khác, mà trái lại họ phải nhớ nằm lòng là họ phải tự bảo vệ mạng sống của họ bằng những phương tiện riêng của họ. Điều đó, ít nhất cũng là tham vọng của Việt Nam và dù cho có phải chịu nhiều thăng trầm cực nhọc họ vẫn tự hào là không lúc nào để nhụt chí. Nhưng một dân tộc độc lập phải là một dân tộc tự hào và cũng bởi sự tự hào, theo chúng tôi, có cái giá, giá đó tuy không thể nào bằng sự tự hào của Nhật Bản nhưng chúng tôi tới đây để yêu cầu được chữ ký của 51 quốc gia hội viên của Hội nghị này mà tái lập lại một đời sống quốc gia xứng đáng và tự hào.
 Tuy nhiên nếu dự thảo hiệp ước này đòi hỏi thẳng thắn cái quyền dền bồi lại tất cả những thiệt hại mà chính Nhật Bản hoặc là tác giả, hoặc ngẫu nhiên đã gây ra, những đền bù được dự liệu bằng các cung cấp dịch vụ, trong trường hợp của Việt Nam mà không được đền bồi bằng những nguyên liệu, thì chắc chắn sẽ chẳng có kết quả gì cả. Tất cả mọi thứ Việt Nam, cũng cần như Nhật Bản, một số trợ giúp quan trọng để tái tạo nền kinh tế của mình. Từ đó, nếu nhận những đền bù chánh yếu bằng những cung cấp dịch vụ thì chẳng khác nào như là đi tín nhiệm mọi thứ tiền không thể lưu hành ở xứ mình.
 
Chúng tôi vì vậy sẽ phải đòi hỏi nghiên cứu lại các phương thức bồi hoàn hữu hiệu hơn và nhất là chúng tôi phải tính, ngoại trừ những phương tiện tạm thời, tới một sự bồi thường chính thức vào cái ngày mà chúng tôi ước mong là sẽ rất gần, cái ngày mà nền kinh tế của Nhật Bản sẽ được phục hưng để họ có thể đương đầu với tất cả mọi bắt buộc.

Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam”.

(Trích trong France-Asia, số 66-67, tháng 11-12 1951)

(64) Các nước tham dự bao gồm:

(65) Toàn bản văn đăng trong People’s China, tập V, số 10, ng. 16.5.1952, tr.4.

(66) People’s China, tập V, số 10, ng. 16.5.1952, tr.4.

(67) Xem bài “Review of International Situation” đăng trong President Chiang Kai Shek’s selected speeches and messages in 1955, do China Publishing Co. xuất bản tại Đài Bắc năm 1956, tr. 22. Đông Tam Tỉnh nói ở đây là danh xưng người Trung Hoa vẫn dùng để gọi Mãn Châu.

(68) Ngày 29-6-1950, Pháp chính thức công nhận Quốc gia Việt Nam là thành viên của khối Liên hiệp Pháp.

(69) Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt-Trung về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Công an, Hà Nội, 1995, trang 105.

(70) Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992.

(71) BBC Vietnamese.com ngày 18/09/2008. Bài “Trung Quốc xuyên tạc cử chỉ hữu nghị”.

(72) www.fmprc.gov.cn, ngày 17/11/2000


(74) Trích và lược dịch từ nguồn: Paracels Forum - The Discussion Proceeds For Peace
(76) Monique Chemillier-Gendreau: La souveraineté sur les Paracels et Spratleys. L’Harmatan, Paris, 1996, Sđd, tr. 123

(77)
Điều 4 của Hiệp định Geneve ngày 21-7-1954:

Giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai vùng tập hợp kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển.

Lực lượng Liên hiệp Pháp sẽ rút khỏi các hải đảo ven bờ biển thuộc phía Bắc giới tuyến ấy, Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ rút khỏi tất cả các hải đảo thuộc phía Nam.

Điều 24 của Hiệp định Geneve ngày 21-7-1954:

Hiệp định này áp dụng cho tất cả mọi lực lượng vũ trang của đôi bên. Lực lượng vũ trang của mỗi bên sẽ phải tôn trọng khu phi quân sự và lãnh thổ đặt dưới quyền kiểm soát quân sự của bên kia và sẽ không có hành động hoặc hoạt động gì chống bên kia, hoặc một hoạt động phong tỏa bất cứ bằng cách nào ở Việt Nam.

Danh từ “lãnh thổ” nói đây bao gồm cả hải phận và không phận.

Điều 12 trong Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneve ngày 21-7-1954:

“Trong quan hệ với Cao – Miên, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia Hội nghị Genève cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của những nước trên và tuyệt đối không can thiệp vào nội trị của những nước đó”.

Thành phần tham dự Hội nghị Geneve:

• Phái đoàn Anh, do Anthony Eden làm trưởng đoàn.

• Phái đoàn Hoa Kỳ, do Bedell Smith làm trưởng đoàn.

• Phái đoàn Liên bang Xô Viết, do Viacheslav Molotov làm trưởng đoàn.

• Phái đoàn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai làm trưởng đoàn.

• Phái đoàn Pháp, do Georges Bidault làm trưởng đoàn.

• Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.

• Phái đoàn Quốc gia Việt Nam, do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau Trần Văn Đỗ thay thế.

• Phái đoàn Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng đoàn.

• Phái đoàn Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn.

(78)
Từ Đặng Minh Thu, Chủ quyền trên hai quần đảo. Hoàng Sa và Trường Sa. Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc (Tham luận của tiến sĩ Từ Đặng Minh Thu đọc tại hội thảo "Vấn đề tranh chấp biển Đông" tổ chức ở New York (Mỹ) ngày 15 và 16-8-1998. Tham luận đã đăng trên tạp chí Thời Đại Mới 7-2007).

(79) Bài viết được đăng trên tờ Việt Weekly ấn bản ngày 27/12/2007

(80) Từ ngày 6 đến 8 tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là nòng cốt, cùng với Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam do Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, đã lập ra Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để đối chọi với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ cách mạng lâm thời do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch, và Hội đồng cố vấn Chính phủ do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Chính phủ cách mạng lâm thời đã được các nước theo phe XHCN và một số nước thuộc Thế giới thứ ba công nhận. Ngay trong tháng 6 năm 1969, cho đến ngày 5 tháng 11 năm 1975 đã có 23 nước công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có 21 nước đã quan hệ ngoại giao.
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cùng với Chính phủ Cách mạng Lâm thời được chính thức công nhận là một chính quyền tại Nam Việt Nam và là một trong 4 bên tham gia hiệp định.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng Lao Động Việt Nam, từ ngày 15 đến 21 tháng 11 năm 1975, hội nghị hiệp thương chính trị được tổ chức để tiến tới thống nhất về mặt nhà nước. Đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Trường Chinh đứng đầu, đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do ông Phạm Hùng đứng đầu. Hội nghị đã tán thành tổ chức bầu cử Quốc hội thống nhất.
Ngày 25 tháng 4 năm 1976 tổng tuyển cử trong cả nước được tổ chức. Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội họp phiên đầu tiên, đặt tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, xác định Thủ đô, bầu chính phủ. Từ đây, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chính thức hợp nhất với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra đời chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của một quốc gia Việt Nam thống nhất.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QG HÀ NỘI
HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA KHU VỰC III
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QG TP.HCM

GIẤY MỜI
VIẾT THAM LUẬN THAM GIA  HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
“HỢP TÁC BIỂN ĐÔNG: LỊCH SỬ VÀ TRIỂN VỌNG”

Kính gửi:        Đinh Kim Phúc
                   ĐH Mở TP. HCM.

Trong chiến lược phát triển của các quốc gia Đông Nam Á và khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Biển Đông có một vị trí hết sức quan trọng. Đây không chỉ là một vùng biển nắm giữ vai trò huyết mạch trong hệ thống giao thương châu Á và thế giới mà còn là khu vực giàu tiềm năng, gắn với triển vọng phát triển của nhiều quốc gia khu vực.
Để tiếp tục nghiên cứu, nâng cao nhận thức về Biển Đông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), Học Viện Chính trị - Hành chính Quốc gia khu vực III (Đà Nẵng) và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh) phối hợp đồng tổ chức hội thảo khoa học nhằm công bố những thành tựu nghiên cứu mới về Biển Đông, tập trung làm rõ vị trí chiến lược, tiềm năng kinh tế, văn hóa, khả năng hợp tác, phát triển giữa các quốc gia khu vực Biển Đông.
1.      Mục đích của Hội thảo
Hội thảo là cơ hội để các chuyên gia, các nhà khoa học công bố những thành tựu nghiên cứu mới về Biển Đông, tập trung làm rõ vị trí chiến lược, tiềm năng kinh tế, văn hóa, khả năng hợp tác, phát triển giữa các quốc gia khu vực Biển Đông từ góc độ lịch sử và triển vọng.
         Với phương hướng tiếp cận liên ngành, Hội thảo cũng nhằm cung cấp thêm những tư liệu lịch sử, văn hoá, nhằm làm rõ vị trí địa lý, kinh tế, cơ sở pháp lý... cho các quan hệ hợp tác phát triển của các quốc gia trong khu vực và có liên quan tới Biển Đông.
         Hội thảo tạo cơ sở để hình thành mạng lưới nghiên cứu về Biển Đông giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, hướng tới xây dựng một Chương trình hợp tác, nghiên cứu về Biển Đông.
2.      Nội dung của Hội thảo
Hội thảo tập trung thảo luận 4 nội dung chính:
Vị trí chiến lược của Biển Đông về chính trị, quân sự và kinh tế đối với Việt Nam, Đông Nam Á và các quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong lịch sử.
Tiềm năng kinh tế biển, năng lực khai thác biển, quan hệ giao thương và bang giao trên biển... của người Việt Nam trong tiến trình lịch sử.
Biển Đông trong quan hệ hợp tác đảm bảo an ninh, khai thác và phát triển các nguồn lợi kinh tế biển đối với sự phát triển của Việt Nam và các quốc gia khu vực hiện nay cũng như trong tương lai.
Cơ sở pháp lý quốc tế; lịch sử, xác lập và thực hiện chủ quyền biển đảo trên Biển Đông; kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp về chủ quyền biển đảo của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
3. Ngôn ngữ sử dụng trong Hội thảo: Tiếng Việt.
4. Thời gian tổ chức: Trong 02 ngày từ  ngày 12  đến  ngày 14 tháng 12  năm 2012.
5. Địa điểm tổ chức: Học viện Chính trị - Hành chính khu vực II, Thành phố Đà Nẵng.
Ban Tổ chức Hội thảo Quốc gia xin thông báo và trân trọng kính mời các nhà khoa học, các chuyên gia và nhà nghiên cứu viết tham luận tham gia hội thảo về những nội dung nói trên.
Kính đề nghị các nhà khoa học gửi báo cáo toàn văn trước ngày 30 tháng 10 năm 2012 cho Ban liên lạc theo địa chỉ:
Email:nghiemlogic@gmail.com, thuydangcuc@yahoo.com.vn. Bản toàn văn báo cáo được chế bản trên giấy A4, font chữ Times New Roman, bảng mã Unicode, cỡ chữ 13.
            Liên hệ theo địa chỉ: Phòng Quản lý Khoa học-Dự án, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-TP. HCM, Điện thoại: (08) 38293828-122. Hoặc Đặng Thanh Thúy, Di động: 0919 10 11 20.
                                                                   Tp. HCM, ngày 04 tháng 10 năm 2012

TM. BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO

ĐỒNG TRƯỞNG BAN

HIỆU TRƯỞNG

(Đã kí)

PGS.TS. VÕ VĂN SEN 


1463. Đối thoại: Nhà báo Đoan Trang – CA Hoàn Kiếm tại Trung tâm Lộc Hà

Đối thoại giữa Nhà báo Đoan Trang với một cán bộ công an Hoàn Kiếm tại “Trung tâm lưu trú Lộc Hà”

4Bản ghi âm: Nguyễn Lân Thắng (9-12-2012).
Bản text: blog BS.
Cán bộ công an (CA): Anh giới thiệu với em, anh … ở đội Điều tra Tổng hợp, công an quận Hoàn Kiến.
Nhà báo Đoan Trang (ĐT): Vâng.
CA: Đấy, giới thiệu để em nắm được …Thực ra là cũng … bọn anh cũng không muốn đi làm cái việc này đâu. Nhưng mà … lãnh đạo người ta phân công thì phải đi làm.
Đây … trao đổi với em như vậy. Thứ hai là anh muốn hỏi là em có mang theo giấy tờ gì không … thí dụ chứng minh thư …?
ĐT: Em không mang theo chứng minh thư … (tìm trong túi) … Thẻ thì em không có, không có thẻ … “Card Visit”, giấy giới thiệu các thứ thôi …

CA: Thế thì … Cái việc mà mời … anh mời em lên làm việc thế này thì em có vấn đề gì không?
ĐT: … Vấn đề thì … thực ra thì cái này em nghĩ mọi thứ phải rõ ràng. Lần trước em cũng đi biểu tình là ngày mùng 5 tháng 8, cũng đã …
CA: Lần trước có mặt ở đây không?
ĐT: Có. Mà cũng đã trình bày hết rồi, tức là em cũng không còn có gì để nói cả. Cái gì em cần nói đã nói rất nhiều rồi … Em còn viết để đưa lên mạng, những chuyện quan điểm của em thế nào em nói rõ rồi. Nên giờ nói là nói chuyện tiếp thì em không biết là phải nói gì về những chuyện này.  
CA: … Ừ … (ngừng một lát) … Nói chung là là là … đấy, là cũng giải thích cho em là… Thực ra giữa mình với Trung Quốc thì ai cũng biết có những trường hợp … như thế, nhưng mà đối với bọn anh thì bây giờ những việc …
ĐT: Vâng, anh cứ nói trước.
CA: Bọn anh mời em về thì yêu cầu ở đây thì phải làm việc, các thủ tục pháp luật quy định, … nhé! Ta sẽ tiến hành ghi lời khai và việc trình bày trong văn bản của em .. quyền trình bày của em, nhé! Bây giờ là 11h15, … hôm nay là ngày bao nhiêu?
ĐT: Ngày mùng 9 tháng 12, năm 2012.
CA: Em có thẻ nhà báo không?
ĐT: Em không.
CA: Bây giờ thế này nhé, trong cái khi làm việc ấy, thì thủ tục bọn anh phải hỏi đến quan hệ nhân thân của em. … nhé! (Không nghe rõ) … Cho nên là cũng đừng tự cho thế là thế này thế khác. Ấy! Thí dụ như hỏi bố mẹ, anh chị em ruột, sinh ra lớn lên ở đâu … Ấy!
ĐT: Em thì đồng ý cái đó, nhưng mà em đã trả lời hết lần trước rồi cho nên lần này em không trả lời nữa, vì em thấy nó cũng … nó đi vào chi tiết quá. Mà lần trước em trả lời rất tỉ mỉ, trả lời nhiều lần về chuyện này. Chủ yếu là các anh có rồi, thì em thấy không cần phải nhắc lại. Nếu cần có thể lấy lại cái biên bản của em ngày mùng 5 tháng 8 năm 2012, tại đây, địa điểm này đã làm việc với cán bộ tên là … anh Toại, ở công an quận …
CA: Hôm đấy là ngày bao nhiêu?
ĐT: Mùng 5 tháng 8 …
CA: Em đã làm việc với cơ quan công an bao lần.
ĐT: Đó là lần …
CA: Lần trước đó chứ gì. Thế lần này thì theo yêu cầu của cơ quan công an hỏi về gia đình thì …
ĐT: Em đã trả lời rồi. Còn bây giờ cơ quan công an, gọi là vào mạng điện tử kiểm tra … hồ sơ nhân thân dễ mà, hỏi lại làm gì.
CA: Không, nhưng mình cái nguyên tắc về cái … vào cái khi làm việc ấy thì mình vẫn phải hỏi như thế.
ĐT: Vâng, thế thôi thì em cũng đồng ý cái nguyên tắc như thế nhưng lần này em sẽ không trả lời lại nữa cho nó mất thì giờ quá. Có thể đi vào câu hỏi …
CA: Hôm đó là ngày bao nhiêu? Đã trả lời…
ĐT: Mùng 5 tháng 8. Chủ nhật mùng 5 tháng 8 năm 2012.
CA: Lần trước thì mời yêu cầu về đây làm việc cũng là về vấn đề biểu tình chứ gì? (ĐT: Vâng). Biểu tình chống Trung Quốc đúng không?
ĐT: Vâng. Phải nói một cách rất là rõ ràng là chống … bá quyền Trung Quốc ạ. Chứ còn nhân dân (Trung Quốc) thì chả ai chống làm gì.
CA: Về vấn đề … đúng không? … Biển Đông?
ĐT: Vâng, về vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
CA: … Hôm nay thì Trang đi một mình hay đi với ai?
ĐT: Đi một mình ạ, như mọi lần.
CA: Vẫn … (Không nghe rõ) như hôm trước đúng không?
ĐT: Vâng.
CA: Lúc đó là mấy giờ?
ĐT: 9h.
CA: Mục đích là đi…
ĐT: … biểu tình
CA: Biểu tình … Biểu tình … nội dung?
ĐT: Chống các hành vi gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông.
CA: Chống … các …
ĐT: Các hành vi, … (ĐT đọc cho CA ghi), gây hấn và chính sách đối ngoại hung hãn của Trung Quốc trên Biển Đông.
CA: Gây hấn … ?
ĐT: Gây hấn. Hát, a, en-nờ, … Hát, ớ, en-nờ-sắc … (ĐT đánh vần chữ “gây hấn” cho CA ghi). Gây hấn ạ …  Gây hấn và chính sách đối ngoại … Và chính sách đối ngoại hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông.
CA: “Đối ngoại” gì?
ĐT: Hung hăng … Bá quyền … Anh cứ ghi vào thế. Bá quyền. Chính sách đối ngoại bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
CA: Khi đến thì có bao nhiêu người?
ĐT: Rất là đông. Khi đến là có cả một sân khấu đang được bày ra trước cổng Nhà hát lớn .. Sân khấu ca nhạc, rất đông khán giả đến xem.
CA: Rồi. Xong như thế nào? Xong đi đến đâu thì người ta yêu cầu (về)?
ĐT: Sau đó có … thì có một số người biểu tình bắt đầu tham gia …
CA: Thế bản thân Trang thì có mang theo khẩu hiệu gì không, băng rôn gì không?
ĐT: Không.
CA: Đi bộ chứ gì?
ĐT: Vâng.
CA: Có mang theo máy quay không?
ĐT: Không.
CA: Có máy ảnh không?
ĐT: Không.
CA: Sau đó thì đi đến đâu thì…?
ĐT: Đến Tràng Thi ạ.
CA: Đi ở giữa đám đông hay là đi sau?
ĐT: Đi … gần như là đầu đoàn.
CA: Xuất phát từ Nhà Hát lớn, mục đích là đến Đại sứ quán Trung Quốc?
ĐT:  À …, có lẽ thế.
CA: Khi đến đâu thì công an mời về đây?
ĐT: Đến Tràng Thi ạ.
CA: Chỗ đấy là trước cửa 16 đúng không?
ĐT: À…, Tràng Thi …
CA: Ở Nguyễn Kim chứ gì?
ĐT: Khoảng khoảng thế. Em không để ý.
CA: Họ đưa về đây bằng phương tiện gì?
ĐT: Xe buýt ạ.
CA: Lần trước thì cơ quan công an xử lý hành chính đúng không? Cái lần mùng 5 tháng 8 ý?
ĐT: Không, không xử lý hành chính.
CA: Có chứ!
ĐT: Không, có lý do gì mà xử lý đâu ạ?
CA: Có thể là là chị sẽ không ký vào cái quyết định gì đấy. Nhưng mà lần trước là có, tất cả những người đưa về đây đều xử lý …
ĐT: Thế thì nó hơi buồn cười là vì nếu xử lý thì em không hề biết, nếu bị xử lý mà em không được thông báo thì cũng hơi buồn cười. Nhưng mà theo như em biết thì là không xử lý, vì cũng chẳng có lý do gì mà xử lý …
2
Quảng bá cốc NO-U, áo NO-U
CA: Thế … làm việc từ mấy giờ đến mấy giờ?
ĐT: Đợt trước ý ạ?
CA: Ừ.
ĐT: Khoảng một ngày đấy ạ, từ sáng đến chiều, không có cái cớ gì để xử lý cả. Còn nếu mà sau đấy vẫn xử lý thì cái đó em không biết, cái đấy không  thông báo gì cho em cả…
CA: Làm việc từ mấy giờ?
ĐT: Lần trước ạ?
CA: Ừ.
ĐT: Lần trước là từ sáng cho đến chiều tối ạ.
CA: Thế thì lần đấy có xử lý hành chính không?
ĐT: Không … Theo em biết thì không.
CA: Có nghĩa là bản thân chị thì không được thông báo, đúng không?
ĐT: Vâng. Không biết là có hay không?
CA: … Thế cái việc mà Trang đến đấy là tự mình đến hay là do ai …
ĐT: Tự ạ.
CA: Hay là xem trên mạng?
ĐT: Tự em đi ạ. Xem trên mạng có …
CA: Có nghĩa là mình xem trên mạng chứ gì? (Vâng). Chứ cũng không có người nào trực tiếp …
ĐT: Vâng.
CA: Trên mạng người ta đăng như thế nào?
ĐT: Em cũng chỉ nhớ mang máng là kêu gọi biểu tình.
CA: Có hẹn thời gian không?
ĐT: Hẹn buổi sáng, 9h, ở Nhà hát lớn. Những cái đấy thì vào mạng thì thấy ngay được.
CA: Có nghĩa là mình cứ xem cái thông tin đấy thì mình ra đó chứ không có ai …
ĐT: Vâng.
CA: Chứ không có ai trực tiếp rủ, hoặc là gặp gỡ … đúng không?
ĐT: Không. Vâng.
CA: Trong cái số này thì cũng có những trường hợp là người ta … tham gia, có những người cũng trao đổi … người ta cũng trả tiền, vật chất cho một số người đi. (ĐT: Có bằng chứng không?) Tất nhiên là ý tôi … ý của tôi không phải là họ … (Nghe không rõ), nhưng mà mình có trong cái dạng như thế không?
ĐT: Em nghĩ cái này là nếu không có bằng chứng thì em không tin, em không phải dạng đó, và em phủ nhận cái chuyện ý, nếu không chỉ được đích danh ai đưa tiền cho ai, và bao nhiêu tiền thì … đó là không có cơ sở. Đấy là một lời gọi là vu khống cũng được.
CA: Trong Nghị định 73 mà Chính phủ có … người ta đã quy định tại cái điều 7, điểm B, là không được tụ tập … nhá, không được tụ tập đông người …
ĐT: 73 hay là bao nhiêu? Chắc là 73, hay là bao nhiêu? 63?
CA: 73 ấy. Không được tụ tập đông người, rồi là gây cản trở giao thông, rồi là gây mất trật tự. Đấy. Thì so với cái Nghị định đấy thì bản thân Trang thấy Trang có vi phạm, có sai gì không?
ĐT: Em muốn hỏi lại anh một câu được không?  Em nên hiểu thế nào, hoặc anh hiểu thế nào khi mà bây giờ, người dân biểu tình là để bày tỏ thái độ phản đối Trung Quốc bá quyền xâm lược. Và chính quyền bắt. Thì bây giờ nên hiểu cái hành động bắt của chính quyền … hay gọi là mời về làm việc cũng được, nên hiểu là thế nào? Chính quyền có ủng hộ hay không? …
CA: Bây giờ thế này nhé, về cái quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước thì giữa mình với Trung Quốc, không phải là vấn đề là Đảng, Nhà nước mình không có … Tất cả đều giải quyết trên con đường ngoại giao … Đấy.
ĐT: Thế việc biểu tình thế này có phải là một kênh ngoại giao không? Anh có nghe nói đến ngoại giao nhân dân không?
CA: Chứ còn mình làm như thế thì sẽ thành những cái gây phức tạp về trật tự an toàn xã hội cho thành phố, gây cản trở giao thông.
ĐT: Không liên quan. Đây việc này rất là rõ ràng. Em nghĩ là không nên ngụy biện như thế. Em nghĩ rằng cái việc nhân dân biểu tình là cái ngoại giao, kênh ngoại giao nhân dân, public diplomacy, đấy là luật, lý thuyết anh học rồi đấy … nói chung quan điểm chính trị quốc tế nó là kênh ngoại giao. Và cái việc chính quyền  cản trở nó là phản lại kênh ngoại giao đó và nó thể hiện thái độ chính quyền là ủng hộ những cái hành động, chủ trương của Trung Quốc trên Biển Đông.
Nó không thông nhất giữa người dân và Chính quyền, đấy là một cái hành động rất là sai lầm của Chính quyền. Còn cái việc dân đi biểu tình mà anh quy là gây rối, chính quyền quy là gây rối, thì phải xem lại bản thân cái nghị định đó là vi hiến (Không nghe rõ)  khi mà người ta … Hiến pháp quy định người dân có quyền biểu tình, thì luật pháp của anh làm thế nào là phải thực hiện cái quyền đó chứ không phải là hạn chế nó. Hạn chế nó là vi hiến. … Và như vậy thì là rõ ràng là chúng ta … vì chúng ta không có  cơ chế bảo hiến, cho nên luật pháp của chúng ta vi phạm Hiến pháp tràn lan.  
Thế bây giờ cứ 5 người trở lên là lại bảo là tụ tập gây rối. Thế bây giờ hát, hát trước cổng Nhà hát Lớn thì có phải là gây rối không? Hát rất ồn ào, hát toàn những bài vớ vẩn. (Không nghe rõ) … người ta nhảy múa trên sân thì có phải gây rối không? Anh trả lời thế nào về cái chuyện ấy? Hoặc có thể là em nói to, em ra đám đông em nói to, có phải là gây rối không? Đừng có gọi là nhập nhèm giữa hành động để biểu thị ý thức của nhân dân với …

3
Nhà báo Đoan Trang (đầu tiên, phải), trong lúc diễn ra cuộc biểu tình Chủ nhật, 5/8/2011 (Ảnh: Xuân VN).
CA: Thế trong nhận thức của Trang thì Trang có thấy trong cái việc đấy mình có sai cái gì không?
ĐT: Em muốn hỏi lại anh về nhận thức của các anh. Mà em muốn hỏi lại là…
CA: Không đây là tôi muốn hỏi Trang đấy, là Trang có thấy sai gì không?
ĐT: Không, nhưng anh đang làm việc, chúng ta đang làm việc nên phải hợp tác. Vì vậy em muốn hỏi lại anh với tư cách là một phóng viên. Quan điểm của anh, nhận thức của các anh về cái việc mà chính quyền đi ngăn chặn biểu tình, là thế nào, cái nhận thức của các anh? Anh có thấy nó mâu thuẫn với cái ngoại giao nhân dân hay không? Em hỏi một cách rất là trung thực, em không đưa việc này lên báo. Hỏi để biết.
CA: (Im lặng một lúc) … Về phía bản thân Trang thì Trang có nhận thức được cái việc đấy của mình là sai không, vi phạm không?
ĐT: Không, không, không vi phạm. Vì nghị định vi hiến thì không có giá trị gì cả. Đối với em là thế. Cái thứ hai là cái nghị định đấy nó cũng chẳng có một chữ nào về biểu tình cả. Nên nó cũng chẳng điều chỉnh gì về hoạt động của bọn em cả. Biểu tình hay gấy rối. Em đi biểu tình chứ không đi gây rối trật tự công cộng, cho nên biểu tình là thể hiện cái ... Bản thân cái Nghị định vi hiến ấy nõ cũng không có tác dụng điều chỉnh hành vi của em. Cho nên em chẳng thấy em sai gì cả.
Em đang hỏi ngược lại, là em muốn biết nhận thức của … từ trước tới giờ  chính quyền luôn muốn biết dân làm gì và nhận thức thế nào, thì em muốn biết ngược lại là cái nhận thức của Chính quyền về cái việc mà đi trấn áp này thế nào. Anh có thể từ chối trả lời? Em hỏi, đây là chúng ta đang làm việc …
CA: Bây giờ thế này nhá, bây giờ thì…
ĐT: Em muốn biết anh có từ chối trả lời hay không?
CA: … Tôi đang làm việc với lị Trang … nhá. Cho nên với tất cả các cái câu hỏi thì tôi sẽ hỏi. Còn nếu với một buổi mà Trang là phóng viên mà đi thẩm vấn, nhá, thì những cái việc đấy thì bên …
ĐT: Thì bên cơ quan chức năng sẽ trả lời đúng không ạ?
CA: … Họ sẽ trả lời. Cho nên mình làm cho nó đúng khuôn khổ, đúng tổ chức.
ĐT: Nhưng khuôn khổ đấy rất là bất … công bằng …
CA: Vì ở đây là … quy định là …
ĐT: Vì em muốn biết quan điểm …
CA: Bây giờ thế này nha, nếu mà Trang cần thì Trang có thể phỏng vấn những cái người người ta lãnh đạo, người ta còn cao hơn tôi nhiều, là một. Thứ hai, buổi phỏng vấn đấy thì nó có đầy đủ các cái … cái … cái yếu tố pháp luật của mình, để mình làm cái việc đấy. Chứ còn ở đây thì lại, nó lại  là khác. Ở đây tôi không phân biệt là thế này, là thế kia nhưng rõ ràng là cơ quan nhà nước đang quy định cho lực lượng công an làm việc và hỏi những cái người trong số người biểu tình này, về những cái câu hỏi cần thiết phải hỏi.
ĐT: Và có thể không trả lời không ạ? Tức là em cũng muốn hỏi một câu là…
CA: Và bên Trang thì yêu cầu phải trả lời. Thí dụ là tôi có về quan hệ gia đình thì Trang có thể khai là trước tôi đã khai rồi, bây giờ tôi không khai lại nữa và tôi sẽ ghi vào biên bản như thế, ấy. cho nó thống nhất, nhé.
ĐT: Thế nó cũng như là anh có thể nói lại là chưa trả lời được. Anh từ chối câu hỏi của em …
CA: (Im lặng lâu) … Việc biểu tình này theo quan niệm của ta là biểu thị lòng yêu nước, đúng không? Nói ngắn gọn là như thế chứ gì?
ĐT: Anh lại nói về … Anh lại vừa nói vừa mỉm cười đấy … Thế anh không nghĩ như thế à?
CA: Không phải. Để tôi cho vào biên bản là các cái thứ …
ĐT: … Thì em đã nói rất nhiều lần, biểu tình là một cái quyền thể hiện chính kiến của nhân dân. Người tham gia biểu tình có thể có rất nhiều mục đích. Có người vì yêu nước, có người như em …  (Không nghe rõ) … Em không phải chỉ là yêu nước mà còn yêu nghề. Em đi biểu tình là để quan sát xem các anh trấn áp nhân dân như thế nào. Rất rõ ràng, là nhà báo phải quan sát. Cho nên nhân dân đi biểu tình là để biểu thị lòng yêu nước. Với em thì không hẳn đúng như thế, với em là thực sự yêu nghề, vì là nhà báo thì em phải tham gia. 
CA: Theo nghề gì?
ĐT: Yêu nghề, vì là nhà báo thì em phải tham gia. Em nghĩ là ghi vào biên bản thì (cười) hơi phức tạp đấy … Mình không nên, mọi người không nên quy chụp tất cả, chung vào một rọ. Mỗi người một quan điểm khác nhau. Em thì em nghĩ như thế.
CA: Thế cái việc mà Trang làm ở đấy thì là trong ấy, là cộng tác viên hay thế nào?  
ĐT: Em là phóng viên chính thức.
Em nghĩ là không thể quy về vấn đề là gọi là báo chí ở đây đâu.
CA: Phóng viên chính thức chứ không phải là … ?
ĐT: Phóng viên chính thức chứ không phải là nhà báo tự do … Anh có sợ chuyện đó không?  Em phải nói rất rõ ràng nhá, là mọi người hay nghĩ là nhà báo tự do, đúng không? Blogger hoạt động bên ngoài, đúng không? …
CA: Không phải là “tự do”, mà người ta có thể là cộng tác viên …
ĐT: Em không phải cộng tác viên, em là phóng viên chính thức, hợp đồng đàng hoàng dài hạn với tòa báo. Và từ trước tới giờ em cũng viết rất nhiều về Biển Đông, cũng như quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Cho nên cái việc mà chính sách, chủ trương chính phủ, của đảng, nhà nước như thế nào là em biết. Em nghĩ là tương đối rõ, nếu không ngang thì cũng là hơn được cả lực lượng công an đấy. Cho nên là em nghĩ là không cần giải thích cho em những cái đó. Em đang hỏi, em muốn hỏi thêm thông tin và mọi người từ chối trả lời thì em biết vậy … Nó cũng rất thống nhất với các chính sách của nhà nước trong mấy năm nay.
Cái chính sách đó là luôn luôn hạn chế thông tin đối với người dân .Trong đó người dân đi biểu tình biểu thị chính kiến là bị bắt, hoàn toàn thống nhất, không có gì là ngược cả.  
Lần trước em còn tặng sách cho một anh công an ở đây. Sách của em viết in ở Nhà xuất bản Tri thức. Sách về chủ quyền của Việt Nam trong tranh chấp Biển Đông, “Công lý và hòa bình trên Biển Đông”, Nhà xuất bản Tri thức.
CA: Cái cuốn sách ấy có phát hành không?
ĐT: Có chứ. Nhà xuất bản Tri thức mà lại không phát hành là sao? Tại sao mọi người cứ phải nặng nề vấn đề “chính thống” ở đây? Em khẳng định “chính thống” 100%, không lậu, không phải “lề trái”, phát hành đàng hoàng.
CA: Hôm nay Trang có mang theo không?
ĐT: Bán hết rồi ạ. Sách đấy bán hết.
Em nghĩ là không nên quan niệm những người biểu tình đều là (Nghe không rõ), là ngu dốt và không hiểu gì về chính trị, hay là quan hệ quốc tế, hay là chính sách của Đảng và Nhà nước. Em nghĩ là mọi người quan niệm như thế là nhầm đấy.
CA: … (Im lặng một lúc) Cái thẻ nhà báo của Trang chỉ có thế này thôi chứ gì? (Vâng). UBND thành phố Hà Nội cũng đã có những cái cái …
ĐT: Cái Quyết định vi hiến đúng không?
CA: Ừ!
ĐT: Một cái quyết định vi hiến đúng không ạ?
CA: (Dặng hắng) … Thế thì cái việc mà bây giờ ai cũng tụ tập xuống dưới lòng đường về giữa mình với Trung Quốc thì Đảng và Nhà nước đã có một cái đường lối giải quyết cái việc đấy …
ĐT: Cụ thể như thế nào ngoài cái câu là… ?
CA: Cho nên là (Bị xen ngang nghe không rõ) … Chứ dân cứ tụ tập lôi kéo những cái đám đông như thế thì cái điều đầu tiên là nó gây ùn tắc giao thông, có đúng không?
1
Nhà báo Đoan Trang (thứ 3, phải) trong đoàn về thăm Văn Giang, Chủ nhật 18/11/2012 (Ảnh: BoxitVN).
ĐT: Không. Đó là việc của công an. Cái việc mà anh không đảm bảo được quyền biểu tình của người dân là lỗi của các anh chứ không phải là của dân. Lẽ ra là phải còn phải có đường sá cho người ta đi nữa là đằng khác. Phải dẹp cho người ta đi, nhé! Chứ không có cái chuyện các anh đổ tại biểu tình là gây rối. Em chưa thấy có một cái nước nào có thể có những cái phát ngôn kỳ quặc như thế. Biểu tình là gây rối à?
Thế giả dụ em đi đúng trên vỉa hè, em không hô hào, không cầm băng rôn, khẩu hiệu thì em có gọi là gây rối không? Tại sao bắt em về đây?
 Em nghĩ là em nói lại một lần nữa, các anh cần phải ý thức được rõ hơn về chính sách của Đảng và Nhà nước. Em nghĩ rằng là… Em vẫn thông cảm nếu anh không hiểu, bởi vì em cũng không hiểu chính sách của Đảng và Nhà nước mình, nó không minh bạch, lúc thế này lúc thế kia. Cho nên là ngoài những cái câu là giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng phương pháp hòa bình đối và thông qua đối thoại mà chúng ta học như con vẹt. Chúng ta không biết gì hơn cả! Và dân cũng vậy, cho nên họ bức xúc, họ biểu tình là chuyện rất là bình thường.
Đáng lẽ ra chúng ta phải bình thường hóa chuyện đấy. Chúng ta lại làm cho nghiêm trọng. Chúng ta bắt người, chúng ta cử những anh dân phòng phải nói là khá là vô học, không có chức năng gì cả. Lao ra đường túm bắt, bẻ cổ, bẻ tay. Em nghĩ rằng là cái đấy chỉ khoét thêm mâu thuẫn thôi, không có tác dụng gì cả.
Những cái này em nói rất nhiều lần rồi, em công khai cả trên mạng, đi phát biểu các nơi em đều nói thế và các anh phải minh bạch về chính sách ngoại giao, đường lối ngoại giao. Minh bạch và cụ thể chứ không thể nói mấy câu là thông qua đối thoại và biện pháp hòa bình. Thế biểu tình không phải là đối thoại à?
Chúng tôi đã cầm quả bom nào ném vào Trung Quốc chưa? Chưa bao giờ! Em nói thật là người Việt Nam, dân Việt Nam mình quá hiền đấy. Chứ với cách cư xử của chính quyền như thế này không đào mả tổ lên là may. Em rất thông cảm với việc công an…các anh . Em biết các anh cũng chẳng hiểu gì hơn bọn em cả về chính sách của Đảng và Nhà nước. Mà những việc anh làm cũng như kiểu người lính trên trận địa làm theo lệnh của chỉ huy. Cho nên em cũng không phản ứng dữ dội theo kiểu là chửi bới, lăng mạ lực lượng thi hành công vụ khi đưa em về đây. Nên em cho rằng người dân có làm thế  thì vẫn thông cảm được, vẫn hiểu được vì họ quá bức xúc.
CA: (Im lặng một lúc) Anh ấy ơi … (Hỏi vọng ra một công an khác) đây gọi là trung tâm lưu giữ nhở? (Công an khác: Lưu trú).
ĐT: Trung tâm lưu trú Lộc Hà.
CA: Lưu giữ đúng không?
ĐT: Lưu trú. (Công an khác: Lưu trú, đây “lưu trú”). Theo anh nếu như mà người dân họ muốn biểu thị  chính kiến của mình thì làm thế nào bây giờ? (CA: Hứ?). Theo anh nếu mà người dân họ muốn biểu thị chính kiến của họ thì họ làm thế nào?
CA: (Im lặng)
ĐT: Họ nói như thế nào?
CA: Ở đây hay là… hay là …?
ĐT: Nói chung là trong cái xã hội của chúng ta, người dân muốn biểu thị chính kiến của họ thì họ làm thế nào?
CA: (Im lặng một lúc).
ĐT: Em đang đề nghị giải thích đường lối đấy ạ? Thì anh có biết chủ trương, chính sách thế nào … viết là “biểu thị” (nhắc CA đang viết chữ “biểu thị” vào biên bản).
CA: Từ từ anh đang làm việc …
(Im lặng lâu. Có thể CA đang vừa viết biên bản vừa nghĩ cách trả lời câu hỏi của ĐT).
ĐT: Anh trả lời được câu hỏi của em thì em ký biên bản, không thì thôi, em không ký.
CA: Sao em?
ĐT: Em cũng có nguyên tắc của em, là em không vi phạm …
CA: Bây giờ thế này nhé, nhà nước người ta có những trụ sở, có những cái phòng tiếp dân, (ĐT: Em biết) đúng không?
ĐT: Em hiểu.
CA: … để giải quyết về vấn đề từ các cấp chứ không riêng gì đến đây cả. Đến UBND thành phố Hà Nội thì người ta có phòng tiếp dân (ĐT xen vào: Thế tiếp dân lại bảo là tôi … Anh buồn cười thật.) để người dân đến đấy trình bày những cái về những cái việc…
ĐT: Anh đã đứng ở đấy bao giờ chưa, anh có nhìn thấy hàng đoàn người ở đấy không? Thế bây giờ …
CA: Cái đấy thì em phải có ý kiến ở đấy chứ còn đó là … nếu như họ đến đấy … (ĐT xen vào: Đúng rồi nhưng nếu em có ý kiến về việc đấy …). Chứ còn nếu trong cái cuộc làm việc thế này, ở những nơi này mà có thể bản thân cái người mà người ta yêu cầu gặp lãnh đạo cấp cao hơn, thì đó là cái đề nghị của người ta … trong việc đấy. Trong cái phần việc này thì cũng xin nói với Trang là chúng tôi cũng là những người thi hành công vụ như Trang vừa nói một câu lúc nãy … nhá!
ĐT: Em hiểu và em thông cảm, em rất thông cảm.
CA: Mình là người công vụ thì mình phải thực theo đúng cái nhiệm vụ mà mình được giao.
ĐT: Không có quyền từ chối ạ?
CA: … (Im lặng một lúc). Trang có gia đình chưa?
ĐT: Chưa ạ.
CA: Thế bây giờ ở với bố mẹ, hay ở một mình?
ĐT: Ở với mẹ, bố em mất rồi.
CA: Mẹ Trang làm gì?
ĐT: Cái này anh có thể lấy biên bản lần trước ra xem lại. Em trả lời ở đấy.
CA: Đây Trang xem lại cái lời trình bày của mình.
… (Im lặng một lúc. Có thể ĐT đang đọc lại biên bản).
ĐT: Còn thiếu nhiều nhưng mà thôi .. (Cười).
CA: Không, tôi làm việc thì tôi cũng không vì người khác. Tôi … Cái quan điểm của tôi thì tôi là cái người mà … mà … cấp trên giao đi làm hôm nay thì tôi đi làm.
ĐT: Em hiểu. Em hiểu các anh …
CA: Thế còn trong cái lời trình bày thì tôi nghĩ tôi ghi như thế này là đúng chứ không phải là tôi ghi sai.
ĐT: Theo em thì là thiếu ạ, chứ không phải…
CA: Cũng có thể là thiếu, ừ.
ĐT: Vâng.
CA: Thế Trang ký vào đây.
ĐT: Vì như quan điểm của em nói gì anh không ghi vào. Nhưng vì sao anh không ghi vào? (Cười)
CA: (Nhắc ĐT) Ghi rõ họ tên.
ĐT: Vì sao lại không ghi vào ạ? Tất cả những phần em nói là để những tình trạng này chấm dứt tốt nhất là cứ để cho nhân dân thực hiện quyền, thậm chí là một bộ phận người dân họ thể hiện cái quyền hiến định của họ? (Nghe không rõ) …
CA: Ghi rõ họ tên … (Im lặng lâu. Có lẽ đợi ĐT ghi thêm vào biên bản). Đây là lời trình bày nhé, chứ còn theo cái quy định của pháp luật í, thì người ta cho rằng cái hành vi đấy là hành vi vi phạm về hành chính cho nên là tôi đã lập cái biên bản vi phạm hành chính trong này có lời trình bày của Trang ở trong này. Ấy! Hai biên bản là một.
ĐT: Em nghĩ là em sẽ không ký, bởi vì em không thấy thỏa mãn với cái kiểu làm việc như thế này của cơ quan chính quyền …
CA: Đây nhá, cái thứ nhất là cái lời khai thì tôi vẫn giữ nguyên đúng như trong biên bản lúc nãy, (ĐT: Vâng), lời trình bày đấy. Nếu mà theo Trang cho rằng: cái việc đấy là “tôi không vi phạm gì” thì cũng có thể ghi vào biên bản vào chỗ này.
ĐT: Không, nhưng vấn đề bản thân cái này nó có cái chữ “vi phạm” ở đây ạ. Lập biên bản vi phạm hành chính, em không ký …
CA: Ừ, thì bản thân mình cũng có quyền ghi vào đây là “tôi không vi phạm gì”.
ĐT: Không! Em không đồng ý … nếu với một cái tiêu đề, thì bản thân cái này sai từ giấy tờ, bản thân cái tiêu đề cũng đã sai rồi. Em không thể ký vào một cái biên bản mà ghi là “Biên bản vi phạm hành chính”, rõ ràng là một cái …
CA: Cái thứ hai nữa là … cái … người ta sẽ xử lý hành chính về cái hành vi này, không có như lần trước lại bảo không biết. Đây là cái quyết định xử lý hành chính, bằng hình thức là phạt cảnh cáo.
ĐT: Trường hợp này em có quyền mời luật sư, theo anh nghĩ là có cần luật sư không?
CA: Không, điều đầu tiên là Trang có thể có ý kiến gì thì ghi vào trong cái phần này và ký vào đây.
ĐT: Không, cái này em nghĩ là liên quan đến luật pháp rồi, em phải có luật sư em mới ký không thì thôi.
CA: Đấy, cho nó rõ.
ĐT: Cái này rất là buồn cười. Anh có công nhận … có thấy chính quyền có lạm quyền quá không? Bây giờ cứ áp đặt cho một người nào đấy…, làm cái biên bản nói ký vào, chả thấy luật sư đâu.
CA: Được rồi. Bây giờ Trang tạm thời ngồi đây tí nhé. (Đứng lên đi ra ngoài) …
ĐT: Bây giờ làm gì ạ? Bây giờ làm gì ạ, hay là về …?

(Hết phần ghi âm này).