Quyền lực bằng mọi giá: Chuyện đời thật của Giang Trạch Dân – Chương 3 – Phần 2

6-1-2016

3. “Mao đầu ưng” hồng hạnh xuất tường

Sau khi cưới một thời gian, quan hệ hôn nhân của vợ chồng nhà họ Giang cũng khá tốt. Cô Vương vào năm 1952 và 1954 đã lần lượt sinh hạ hai cậu con trai Giang Miên Hằng và Giang Miên Khang.
Niềm vui chưa dứt, Giang Trạch Dân phải đi thực tập tại Liên Xô vào năm 1955, để cho cô Vương Dã Bình một mình tại Thượng Hải với hai đứa con thơ. Sau thế chiến, xứ Liên Xô nam ít nữ nhiều, không còn giống tình huống hai nam theo đuổi một nữ như trong phim lãng mạn “Moscow Nights” (1935). Chàng tài tử họ Giang vốn sớm quen với những phố hoa vườn liễu tại Nam Kinh không lâu sau cũng đã sa vào vòng tay giai nhân Moscow. Sau khi về nước, trong mắt Giang người vợ Vương Dã Bình đã không còn chút hấp dẫn nào. Tuy rằng phu quân ngoài miệng không nói, nhưng phụ nữ vốn đa cảm, cô Vương cũng dần nhận ra.
“Vườn hoa trong đêm sâu bốn bề tịch mịch, chỉ có ngọn gió khe khẽ hát ca, sắc đêm đẹp đẽ như thế, khiến lòng người bồi hồi, một đêm mê hoặc như thế… mong cho đôi ta từ nay về sau mãi mãi không phai nhạt!” Kể từ lúc trở về từ Liên Xô, Giang Trạch Dân cả ngày nghêu ngao bài hát “Đêm ngoại ô Moscow”, trong tâm chàng ta vẫn thường nhớ nhung về những ngày ân ái nồng say với người đẹp tình báo Klava. Cô Vương Dã Bình trong những tháng ngày lạnh lẽo nghe thấy bài hát này đặc biệt buồn khổ, năm ấy cô cực chẳng đã mang hai đứa con thơ từ Thượng Hải về Trường Xuân. Người quen sống ở nơi đô hội Giang Nam rất khó thích ứng với thời tiết giá lạnh khắc nghiệt nơi Đông Bắc, lại thêm ông chồng cả ngày không có nhà, đi làm về lại chạy đi tìm chuyên gia Liên Xô hát hò khiêu vũ, cô Vương một mình phải chăm sóc hai đứa con, dần dần đâm ra bực bội.
Tận mắt nhìn thấy sự thay đổi của đấng phu quân khi trở về, Vương Dã Bình cảm thấy con tim của Giang Trạch Dân vẫn để lại một nơi nào đó trên đất Liên Xô. Cho dù có lúc cô nửa đùa nửa thật hỏi han xem Giang Trạch Dân lúc rảnh rỗi ở Liên Xô, đặc biệt là buổi tối đi làm về thường làm những gì, nhưng một người thích nói chuyện tầm phào như Giang Trạch Dân lúc ấy lại ấp a ấp úng, miệng kín như bưng, điều này càng khiến cho cô thêm nghi ngờ.
Hiện nay có rất nhiều người nói dung nhan của bà Vương Dã Bình không được mát mắt lắm, còn châm chích nói rằng trong nhà Giang Trạch Dân có nuôi con cú mèo. Nhưng theo ký ức của những người từng làm việc trong xưởng chế tạo xe hơi Trường Xuân kể lại, cô Vương Dã Bình năm ấy cũng là một trong “ba đóa hoa” của xưởng, nhan sắc cũng khá mặn mà. Năm ấy cô Vương khoảng trên dưới 30 tuổi, là độ tuổi hương sắc của người thiếu phụ, lại thêm vừa mới từ Thượng Hải đến, ngoài cái dung nhan ra vẫn có thêm khí chất gì đó của dân thành thị.
Cô Vương Dã Bình là người học chuyên ngành ngoại ngữ, đến xưởng xe lại chưa có được công việc thích hợp, nhưng vì Giang Trạch Dân là cán bộ cho nên xưởng đã có chiếu cố đặc biệt, sắp xếp cho cô làm một chân thư ký. Trong thời gian đầu, xưởng chế tạo xe hơi Trường Xuân phân thành 2 phân xưởng. Lúc đó Giang Trạch Dân làm xưởng trưởng của xưởng thứ nhất, cô Vương Dã Bình làm việc ở xưởng thứ hai. Nỗi nghi ngờ ấm ức của riêng cô với Giang Trạch Dân cô không nói với ai cả, có lúc nhịn không nổi thì “thỏ thẻ” với xưởng trưởng xưởng số 2, sau khi xưởng trưởng “an ủi hết lời”, cuối cùng cô Vương cũng tìm được cách lấy lại bình tĩnh: “ông ăn chả – bà ăn nem”.
Chuyện tốt không ra khỏi cửa, chuyện xấu đồn ngàn dặm. Thời ấy cái loại sự việc như thế này lan nhanh khủng khiếp, có người nghĩ không thông thậm chí còn đòi tự sát, nhưng sau khi sự việc bị đồn ra ngoài cô Vương cứ việc ‘tôi làm gì mặc tôi’. Lúc ấy chủ đề bàn ra tán vào của toàn xưởng sau khi cơm nước no nê là sự kiện cán bộ Giang Trạch Dân bị cắm sừng. Giang vờ như không biết, nhưng hai vợ chồng về nhà lại cãi nhau dậy trời rợp đất.
Do vậy Giang tìm đến Thứ trưởng Uông Đạo Hàm, sống chết gì cũng đòi đi khỏi Trường Xuân. Lý do có sức thuyết phục nhất của Giang Trạch Dân là “người ta đều biết tôi bị cắm sừng rồi, tôi làm sao làm việc được nữa” Uông Đạo Hàm liền đồng tình với “đứa con côi” của liệt sĩ Giang Thượng Thanh. Năm 1962, dưới sự giúp đỡ của Uông Đạo Hàm, Giang Trạch Dân được điều về Thượng Hải, nhậm chức Phó sở Nghiên cứu Khoa học Điện khí Thượng Hải. Cô Vương Dã Bình cũng trở về đất Thượng Hải phồn hoa xưa, được sắp xếp cùng một đơn vị công tác. Đồng thời, một người cơ bản không hiểu gì về kỹ thuật như cô Vương lại thêm một cái chức vụ “nhân viên kỹ thuật”. Các cấp dưới nhìn thấy Giang được Thứ trưởng đích thân đến thăm hỏi, liền đặc cách chiếu cố, phân cho Giang một căn nhà không tệ, là một dãy phòng 2 gian rộng rãi thoáng đãng được xây dựng vào năm 1960 tại thôn Dương Tân. Từ sự kiện này, chàng họ Giang mới thể nghiệm được có “quyền” ắt sẽ có “lợi”. Từ đó chàng ta nhất mực chú tâm làm sao để lấy lòng Uông Đạo Hàm, hai tiếng “ân sư” cả ngày không ngớt miệng.
Năm 1965, Bộ Cơ khí tổ chức một đoàn đại biểu đến Nhật Bản tổ chức hội nghị khoa học, Giang cũng được cài cắm vào đoàn đại biểu, trước lúc sang Nhật có dạo chơi ở Hồng Kông một vòng. Sau khi Giang trở về, Uông Đạo Hàm đề nghị Giang Trạch Dân đảm nhiệm chức Phó Bí thư Đảng ủy kiêm Sở trưởng sở Nghiên cứu Cơ giới nhiệt Vũ Hán. Đường hoạn lộ của Giang xuôi chèo mát mái dưới sự chiếu cố của Uông Đạo Hàm. Cũng may là Giang Thượng Thanh trước kia cũng từng làm quan chức của ĐCSTQ, càng may mắn hơn là ông ta chết sớm, nếu không mối quan hệ của Giang Thượng Thanh và Giang Thế Tuấn đã vạch rõ giới tuyến, “đứa con Hán gian” ấy làm sao có thể được chiếu cố đây?

4. “Giang da trâu” tại Vũ Hán

Năm 1966, Giang Trạch Dân 40 tuổi, cũng có thể nói là thời điểm “bất hoặc chi niên”. Tháng 5, Giang Trạch Dân nhận lệnh đảm nhận chức Sở trưởng Sở nghiên cứu Cơ giới nhiệt Vũ Hán cùng chức Bí thư Đảng ủy dự bị. Lần này, Giang đã được nâng lên tới cán bộ cấp 13, cũng có thể nói quá một chút là đã vào tốp cán bộ cấp cao rồi. Điều khiến cho Giang may mắn hơn cả là, thời điểm Giang được điều từ Thượng Hải đến đơn vị mới ở Vũ Hán cũng là vừa trước lúc Mao Trạch Đông phát động Cách mạng Văn hóa, vì thời gian được điều động quá ngắn, người ta không đào bới ra được cái gì để mà phê đấu, nhờ đó trong cuộc đấu tố – phê bình “chạm đến tâm hồn của mỗi người” Giang đã giữ được “mảnh hồn” của mình. Nhưng mà, lúc Giang đến đấy làm Sở trưởng thì lại được người ta đặt cho cái biệt danh mới “Giang da trâu”.
Mao Trạch Đông phát động cách mạng văn hóa, mục đích là đoạt lại cái quyền uy độc tài đang nằm trong tay phe phái Lưu Thiếu Kỳ. Ông ta phát động học sinh và các tầng lớp công nhân đứng lên “tạo phản giành quyền”, trong một quãng thời gian toàn bộ “phái nắm quyền” đều bị công kích, đấu tố, thậm chí bị bắt, bị đánh. Ở Thượng Hải, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn tổ chức tạo phản đoạt quyền vô cùng kịch liệt. Sau cuộc Văn cách “oanh oanh liệt liệt”, cái kiếp nạn này qua đi, những người vẫn còn trụ được ở Thượng Hải nườm nượp kéo nhau đi hỏi thăm những bộ hạ rơi rớt, họ vô cùng kinh ngạc phát hiện ra Giang “da trâu” vẫn có thể trốn đến Vũ Hán, cơ bản không chịu bất cứ một sự công kích nào, vậy mà đến năm 1972 còn được phái đến Romania dạo một vòng. Những đồng sự từng nếm qua dư vị cuộc văn cách không khỏi ganh tỵ mà ta thán, “Vẫn là Giang da trâu nhà người ta, người người đều phải lột hết lớp da này đến lớp da khác mới trốn qua được Văn Cách, vậy mà lớp ‘da trâu’ ấy cứ như không”.
Kỳ thực Giang Trạch Dân trong cuộc văn cách cũng bị dọa đến phát khiếp. Tuy rằng Sở nghiên cứu Cơ giới nhiệt Vũ Hán vừa mới được thành lập, trên trên dưới dưới đều là nhân viên mới được điều động từ các nơi về, không giống như đơn vị cũ, giữa người với người tích chứa biết bao nhiêu là thù oán. Cuộc Văn cách nổ ra tại đây không có quá nhiều những trường hợp công báo tư thù tàn khốc, nhưng dù gì thì Giang sở trưởng cũng là thuộc “phái nắm quyền”, những cuộc điều tra phê đấu của Văn cách cũng khiến Giang hết hồn, lo rằng cái lý lịch chả mấy đẹp đẽ kia bị truy ra. Tháng 11 năm 1966, Giang Trạch Dân mượn cớ là thăm họ hàng với lại báo cáo công tác để đến Bắc Kinh thám thính một chút về con nước chính trị, rồi lại cập rập về lại Thượng Hải ở ít tuần nghe nghe ngóng ngóng, không ngớt dặn dò phu nhân Vương Dã Bình, sống chết thế nào cũng không được nói năng lung tung, nhất là chuyện xuất thân.
Rất tự nhiên cô Vương không dám lơ là nữa, bởi vì Giang Trạch Dân nếu đã trở thành Hán gian, bản thân cô cũng là gia thuộc của Hán gian, sống chết đều dính chặt vào nhau cả. Cô Vương Dã Bình còn cố vấn cho Giang rằng, một số sự việc nhỏ thì cố ý làm kém một chút, hướng sự chú ý của phái tạo phản lên mấy việc vặt vãnh ấy mà không phải là những chuyện chính trị đại cục.
Trở về Vũ Hán, đối với những việc nhỏ nhặt Giang đều thừa nhận toàn bộ, những chuyện lớn thì chả dám hàm hồ. Quần chúng phê phán anh ta làm việc không năng lực, chỉ biết khoác lác, anh ta cũng nghiêm túc “phê và tự phê”: “quần chúng nói đúng, tôi là Giang da trâu”. Giang Trạch Dân từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng của phong cách chải chuốt kiểu Dương Châu, trong túi lúc nào cũng mang theo cây lược, bất cứ lúc nào cũng có thể lôi ra chải chải, không thèm để ý có ai trước mặt hay sau lưng, ẻo ẻo lả lả mà còn cảm thấy mình tốt đẹp lắm. Trong lúc phê phán “Phái đầu cơ”, quần chúng chỉ vào mặt Giang mà nói “cái lược thì nhỏ mà cái sọ thì to”, “tác phong của giai cấp tư sản”, Giang Trạch Dân cũng cập rập mà thừa nhận. Năm 2003 lúc Giang Trạch Dân gặp mặt đoàn đại biểu Hồ Bắc trong Đại hội Nhân dân có nói “phái tạo phản hỏi tôi sợ cái gì nhất, tôi nói tôi sợ nhất là Mao chủ tịch. Chỉ vì câu nói này, mà tôi bị phê đấu đến ba ngày”. Trong tâm không có quỷ, sợ Mao chủ tịch làm cái gì? Người đương thời kính yêu cũng kính yêu không hết! Nhân viên ‘chính thẩm’ (thẩm tra chính trị) làm điều tra trong ngoài khắp nơi, rất nhiều người bị moi ra biết bao nhiêu là chuyện bã trầu cám rượu từ mấy mươi năm trước. Giang Trạch Dân trước sau vẫn chưa bị đánh trúng là vì nhờ vào tấm kim bài miễn tử “đứa con côi của liệt sĩ cách mạng”, “liệt sĩ” thì đã khuất núi, không có ai đối chứng cho được, cho nên những nhân viên điều tra đành thôi.

5. Cuộc đầu tư dài hạn mang tính chiến lược

Năm 1969, đại hội lần thứ 9 ĐCSTQ, chính cục của Trung Quốc phát sinh biến hóa. “Đứa con côi liệt sĩ” Giang Trạch Dân đã lọt qua được vòng thẩm tra một cách nhanh chóng, đầu tiên ngày 7 tháng 5 được đưa đến “trường cán bộ” để lao động rèn luyện, kế tiếp sau đó đến năm 1970 được điều đến Phân bộ Cơ khí số 1 tại Bắc Kinh nhậm chức Cục phó Cục Ngoại sự, Giang lại được trọng dụng lần nữa.
Sau đại hội lần thứ 9, tình thế của ĐCSTQ trên trường quốc tế là vô cùng cô lập, cả hai cường quốc Mỹ và Liên Xô đều trở thành kẻ địch. Trung – Xô hai nước nảy ra xung đột biên giới, tại vùng biên cương còn đánh nhau to đến mấy trận. vì để thoát khỏi hoàn cảnh cô lập, ĐCSTQ trên trường quốc tế ra sức ve vãn những người anh em cộng sản nhỏ yếu hơn. Hết Albania, ĐCTSQ lại chèo kéo Romania, nhằm dựa vào vị thế dẫn dắt Romania và Pakistan để hòa giải với nước Mỹ, bắt đầu từ đó trở đi 20 năm (từ 1970 đến 1989) ĐCSTQ theo đuổi chiến lược theo Mỹ kháng Xô.
Nhằm báo đáp cái ơn tri ngộ của ĐCS Romania, ĐCSTQ quyết định phái người đến Romania để giúp người anh em này xây dựng ngành công nghiệp. Trong lúc chuẩn bị đội ngũ kỹ thuật sang viện trợ cho Romania, Giang Trạch Dân vì có ưu thế ngoại ngữ nên được ưu tiên làm tổ trưởng.
Có nguồn tin nói rằng, Chu Ân Lai đã từng gặp Giang Trạch Dân, thậm chí còn khen ngợi Giang. Ông Chu là một nhân vật trưởng lão bất khả chiến bại trong nội bộ ĐCSTQ, được mệnh danh là một đấng nam tử tàn nhẫn nhưng đầy mê hoặc. Đối với người ngoài nhìn vào, ông Chu là một bậc “khiêm khiêm chi quân tử”, thực tế ông ta chính là kẻ chủ trì cuộc càn quét môn hộ của Cố Thuận Chương, ngay cả bà già hơn 80 tuổi cùng đứa trẻ nhỏ cho đến ân nhân cứu mệnh cũng bị diệt sạch, thủ đoạn mười phần cay độc. Trong lịch sử đấu đá nội bộ của ĐCSTQ, nếu như không có sự tham gia của Chu Ân Lai thì cũng sẽ không có những thảm họa tàn độc kiểu như thế.
Sau cuộc gặp mặt ấy, Giang Trạch Dân được bổ nhiệm làm Tổ trưởng để vào năm 1971 dẫn một tổ chuyên gia kỹ thuật đến Romania tiến hành nghiên cứu tính khả thi đối với việc xây dựng 8 xưởng công nghiệp. Sau khi Giang Trạch Dân về nước vào năm 1972, dưới sự nâng đỡ đã trở thành Cục trưởng cục ngoại sự của phân bộ Cơ khí số 1, Giang đã ngồi ở vị trí này trong vòng 8 năm.
Vào thời điểm năm 1972, Mao Trạch Đông cũng đã nhìn thấy nền kinh tế và xã hội của Trung Quốc đã bị cuộc Văn cách “liệt liệt oanh oanh” của chính mình phá hỏng đến mức không còn ra hình ra dáng gì nữa, cho nên đã cùng với Chu Ân Lai để cho phe cánh phía Đặng Tiểu Bình – một phe cánh từng bị đánh xuống thành “phái đầu cơ số 2 trong nội bộ đảng” – phục hưng trở lại, thực thi chỉnh đốn, dồn sức cho việc khôi phục trật tự bình thường cho nền sản xuất. Kiểu người dựa vào khoa môi múa mép mà kiếm cơm như Giang Trạch Dân đối với cuộc chỉnh đốn kinh tế chẳng có chút tác dụng gì, chính vì thế trong thời điểm ấy, Giang chỉ có thể an phận cố thủ ở ghế Cục trưởng Cục Ngoại sự. Nhưng mà, cục Ngoại sự lại là một “cơ quan xăng – nước”. Trong cái thời đại vật tư thiếu thốn như những năm thập niên 70, những ai có liên quan đến cục Ngoại sự ít nhất cũng có thể được “ăn cỗ trên” đôi chút. Giang ngồi ở cái ghế này, lâu lâu lại “chút đỉnh” với lãnh đạo vài thứ tốt tốt, trên dưới đều sẻ chia, khống chế nguồn cơm gạo.
Giang Trạch Dân cũng không quên Uông Đạo Hàm, tuy rằng trong thời gian ấy, Uông Đạo Hàm cũng chả khác người mất hồn là bao, nhưng đã đầu tư thì phải nhìn thấy viễn cảnh. Giang rất rõ, một người có thâm niên và thân phận trong nội bộ đảng như Uông Đạo Hàm, trong phút chốc có thể Đông Sơn tái khởi là hoàn toàn có khả năng, nếu hiện nay không tiến hành một cú đầu tư mang tính chiến lược dài hạn, đợi đến lúc Uông Đạo Hàm đã khôi phục được chức vị cũ rồi mới đi lấy lòng thì đã quá muộn rồi.
Trong lúc người làm việc ở chỗ Uông Đạo Hàm mỗi tháng chỉ được dầu đôi lít, đường nửa cân, những thứ mà Giang Trạch Dân “xách tay” về, lập tức đều đem biếu đến tận cửa nhà họ Uông, nào là sữa bột, kẹo… của Romania, để cho cả nhà Uông Đạo Hàm nếm thử “món Tây”. Đứa con lớn nhà họ Giang – Giang Miên Hằng cũng nhờ cái công lao lấy lòng lãnh đạo của bố mới có thể vào được đại học, năm 1977 cậu cả nhà họ Giang lấy thân phận là học viên công–nông–binh mới có thể tốt nghiệp đại học Phúc Đán.
Giang Trạch Dân làm việc bình bình, chẳng có chuyên giỏi về thứ gì. Những người thuộc tổ viết sách về Giang Trạch Dân trong thời kỳ đầu đã bỏ công tìm hỏi rất nhiều người, hi vọng có thể moi ra được công tích gì đó của Giang, nhưng không ai có thể nói ra được việc gì đó vững vàng khiến cho người ta cảm động lấy một tí. Cái nhận định phổ biến của mọi người là, không thể nói là Giang Trạch Dân làm việc không nỗ lực, không tích cực, mà ngược lại ông ta dõi theo rất sát tình thế, rất sát lãnh đạo, trên thực tế cũng là một cái phong thái. Giang Trạch Dân từng nói có một Ty trưởng nào đấy của một Ty kỹ thuật thuộc Phân Bộ Cơ khí số một từng khen ngợi ông ta hết lời. Tổ viết sách lại phải bỏ công phí sức ra để tìm được bà vợ của vị Ty trưởng nọ, kết quả bà này lại nói là: Ông nhà bà lúc sinh tiền từng nói qua, Giang Trạch Dân – con người này nếu chỉ có 3 phần thành tích, thì hắn ta có thể nói lên thành 10 phần.
Giang Trạch Dân thường thường nghiên cứu “Quan trường hiện hình ký”, ông ta hiểu một cách sâu sắc rằng dưới nền thống trị của ĐCSTQ, chỉ có giỏi đục khoét, khoác lác nịnh bợ, mới có thể thao khống được nguồn sống, mới có thể quan vận hanh thông, trong lịch sử những cuộc vận động chính trị, chỉ có Giang Trạch Dân đi chỉnh người khác, chứ không có người nào dám đi chỉnh Giang Trạch Dân.