Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Tài liệu tham khảo đặc biệt

1657. IXRAEN-IRAN: CUỘC CHIẾN KHÔNG CÂN SỨC

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ tư, ngày 27/2/2013

IXRAEN-IRAN: CUỘC CHIẾN KHÔNG CÂN SỨC

TTXVN (Cairô 26/2)
Trong bài viết có tiêu đề nói trên đăng trên mạng tin “Toàn cầu hóa”, tác giả René Naba cho rằng Mỹ đã “quan tâm” trở lại Vấn đề hạt nhân Iran sau chiến dịch vận động tranh cử tổng thống ở nước này. Thông điệp liên bang ngày 12/2/2013 của Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ mở đường cho một cuộc đọ sức có thể xảy ra giữa một bên là Mỹ-Ixraen với bên kia Cộng hòa Hồi giáo Iran.

Cuộc đối đầu đầu tiên giữa nhà nước Do Thái và một nhà nước Hồi giáo không phải Arập
Cuộc chiến tranh giữa Ixraen và Iran, nếu xảy ra, có thể lan rộng sang các nước quân chủ vùng Vịnh, vượt ra ngoài khu vực truyền thống của chiến trường được hình thành bởi các nước có chung biên giới lịch sử với Palextin dưới thời cai trị của Anh (Ai Cập, Gioócđani, Libăng, Xyri và Palextin). Nó sẽ phản ánh một sự đảo ngược về xu hướng chiến lược, hai đồng minh trước đây của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Iran và Ixraen trở thành đối thủ, đặt các chế độ Hồi giáo mới của “Mùa Xuân Arập” vào vị trí tế nhị: Ai Cập, Tuynidi và Libi, cũng như Thổ Nhĩ Kỳ và các nước quân chủ đồng minh thân Mỹ như đã thấy trong chiến dịch quân sự gần đây của Ixraen tại Gada vào tháng 11/2012.
Trong thời kỳ hậu độc lập của các quốc gia Arập và sự trỗi dậy của đế quốc Iran sau khi Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc (1939-1945), một liên minh đã hình thành giữa Iran và Ixraen cùng với Thổ Nhĩ Kỳ, nước Hồi giáo thứ hai không phải Arập của Trung Đông để ép các dân tộc Arập và kiềm chế các xung đột của chủ nghĩa dân tộc, đặc biệt là về Vấn đề Palextin. Liên minh chiến lược Ixraen – Iran bị phá vỡ với sự sụp đổ của triều đại Pahlavi vào tháng 2/1979, và một tháng sau đó Hiệp ước Trại David giữa Ixraen và Ai Cập, được ký kết ngày 25/3/1979, dẫn đến việc trung lập hóa Ai Cập song song với việc thúc đẩy Iran dưới chế độ Khomeini đúng về phía người Palextin.
Một sự thay đổi thứ hai về cuộc xung đột Arập-Ixraen diễn ra trong Chiến tranh vùng Vịnh lần đầu tiên (1990-1991) là việc hình thành liên minh quân sự giữa Ixraen, Ai Cập và các chế độ quân chủ Arập, thêm vào đó là cuộc chiến tranh Bắc-Nam do Liên quân của các nước tiêu thụ dầu lửa tiến hành chống lại Irắc của Tổng thống Saddam Hussein. Việc Iran gia nhập hàng ngũ các “cường quốc ở ngưỡng hạt nhân” bất chấp một lệnh cấm vận ba mươi năm tạo ra sự ngưỡng mộ trong dư luận ở Nam bán cầu về thành tựu công nghệ không thể chổi cãi này. Điều này minh chứng một chính sách độc lập hoàn toàn đã dẫn đến khả năng Iran có thể phát triển vũ khí răn đe quân sự cùng lúc với duy trì vai trò xung kích của cuộc cách mạng Hồi giáo. Tại một khu vực chịu sự áp đặt của Ixraen và Mỹ, trường hợp Iran đã thực sự trở thành sách giáo khoa, tài liệu tham khảo trong lĩnh vực này và kể từ đó Iran nằm trong tầm ngắm của Ixraen.
Sự vượt trội của Ixraen
Sự vượt trội của Ixraen về mặt thông tin được hỗ trợ bởi các phương tiện truyền thông phương Tây, cản trở việc tiếp cận sự thật do sự bóp méo cách ứng xử của các nước phương Tây đối với các cường quốc hạt nhân. Mỹ và Liên minh châu Âu kiểm soát 90% thông tin của hành tinh và trong số 300 cơ quan báo chí lớn, 144 cơ quan có trụ sở chính tại Mỹ, 80 cơ quan ở châu Âu và 49 cơ quan tại Nhật Bản. Các nước nghèo chiếm tới 75% dân số của nhân loại, chỉ nắm giữ 30% phương tiện truyền thông của thế giới.
Ixraen, cường quốc hạt nhân duy nhất ở Trung Đông, đã liên tục nhận được sự hợp tác tích cực của các nước phương Tây, các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an (Mỹ, Pháp, Anh) để phát triển vũ khí hạt nhân, mặc dù không tôn trọng Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân. Ấn Độ và Pakixtan, hai cường quốc hạt nhân châu Á đối địch cũng vậy. Cả hai nước này nhận được sự hợp tác hạt nhân mạnh mẽ từ phía Mỹ và Pháp mặc dù không phê chuẩn Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Lập luận phương Tây sẽ được tín nhiệm nếu sự chặt chẽ về mặt pháp lý trong vấn đề hạt nhân được áp dụng ngang nhau đối với tất cả các nước khác. Chính vì thế, Trung Quốc và Nga, đồng minh chính của Iran, đã thành lập một diễn đàn phản đối lãnh đạo phương Tây thông qua tổ chức hợp tác được gọi là “nhóm Thượng Hải” để thực hiện một OPEC hạt nhân thống nhất các cựu lãnh đạo của phe chủ nghĩa Mác (Trung Quốc và Nga) và các nước cộng hòa Hồi giáo Trung Á, với Iran, là quan, sát viên.
Iran xuất hiện như là kết quả của áp lực của Ixraen, được hỗ trợ bởi các đồng minh châu Âu, nhất là Pháp, giống như một thử nghiệm quan trọng về quân sự và ngoại giao. Tuy nhiên, việc tập trung thảo luận vấn đề hạt nhân của Iran có thể cản trở cách tiếp cận hai cực của ngoại giao Mỹ nhằm thúc đẩy đàm phán về cuộc xung đột Ixraen-Palextin, đồng thời nhằm vô hiệu hóa Iran.
Cuộc thập tự chinh của Ixraen chống Iran nhằm hai mục đích: loại bỏ bất kỳ mối đe dọa nào của Iran và né tránh cam kết quốc tế của Ixraen liên quan đến việc giải quyết các vấn đề của người Palextin. Cuộc tấn công của phương tiện truyền thông quân đội Ixraen, trong khi đẩy xuống hàng thứ yếu việc giải quyết cuộc xung đột Ixraen – Palextin, nhằm mục đích về cơ bản làm cho dư luận quốc tế chấp nhận việc đã rồi của sự sáp nhập lãnh thổ của Palextin, và khôi phục lại uy tín mờ nhạt của Ixraen bởi những thất bại liên tiếp trong cuộc chiến chống Libăng vào năm 2006, cũng như với Palextin ở những vùng đất chiếm đóng tại Gada trong các năm 2008-2009 và 2012.
Được hưởng lợi, Iran đã đạt được tầm cỡ như một cường quốc khu vực vì những chính sách sai lầm của Mỹ tại Ápganixtan cũng như ở Irắc. Tại những nước này, các đối thủ của Iran về ý thức hệ như người Sunni Taliban cực đoan và Saddam Hussein, người theo chủ nghĩa thế tục bauxite của Irắc đã bị Mỹ, người bảo hộ trước đây của họ, loại bỏ. Iran muốn được công nhận địa vị của mình trong khu vực, như đã được công nhận trong những năm 1970, khi người Mỹ giao phó cho vua Iran vai trò “siêu cảnh sát” ở vùng Vịnh, vào thời gian đó có nguy cơ rơi vào tay những người cộng sản trong cuộc nổi dậy của họ tại Dhofar (Vương quốc Hôi giáo Oman) cũng như sự phản kháng dân tộc chủ nghĩa của “Mặt trận dân tộc giải phóng bán đảo Arập” tại Arập Xêút, Yêmen cũng như tại Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất.
Trên tinh thần này, Iran tái khẳng định quyền chính đáng của mình về hạt nhân và đề xuất một cuộc đàm phán toàn diện với nhóm tiếp xúc trên tất cả các khía cạnh tranh chấp với phương Tây trong vòng 35 năm qua, cũng như lệnh cấm vận đối với nước này và các tài sản nhiều tỷ đô la của Iran bị đóng băng tại Mỹ, vai trò khu Vực của Iran, hợp tác an ninh ở Irắc và Ápganixtan.
Chiến tranh điện tử bằng cách phá hoại máy tính
Cách đây 5 năm, phe cực hữu của Thủ tướng Ixraen Benjamin Netanyahu đã tung ra ba loại vi rút tấn công máy tính để vô hiệu hóa Iran nếu nước này không trì hoãn chương trình hạt nhân của mình. Cùng với một chiến dịch ám sát các nhà khoa học Iran, chiến dịch ba virus Stuxnet, Duqu và Flame nhằm vào nhiều mục tiêu như hệ thống hạt nhân của Iran, hệ thống ngân hàng Libăng, bị tình nghi phục vụ cho việc rửa tiền chiến tranh của chế độ Xyri và Hezbolla Khi cuộc chiến tại Xyri đang tiếp diễn trong tháng 9/2012, ba tháng trước các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, Ixraen thậm chí đã lên kế hoạch chống Iran bằng xung điện từ (IEM) để làm tê liệt toàn bộ mạng lưới giao thông vận tải và thông tin liên lạc, ngăn chặn việc phát triển chương trình hạt nhân của nước này. Xung điện từ được tiến hành dưới hình thức của một vụ nổ hạt nhân trên cao nhằm làm gián đoạn hệ thống máy tính của đất nước. Vụ nổ không tạo ra gió thối cũng như bức xạ trên mặt đất, nhưng làm tê liệt thông tin và cạn kiệt nguồn cung cấp lương thực, theo hướng dẫn của Bill Gertz ngày 29/8/2012 trong chuyên mục video của mình trên trang web “The Washington Beacon” theo quan điểm chính trị bảo thủ của Mỹ. Sóng xung kích mạnh mẽ được tạo ra bởi sự tương tác giữa các vụ nổ và từ trường của trái đất, tiềm năng phá hoại của IEM rất ghê gớm. Nó cũng có thể được tạo ra từ một máy phát vi sóng.
Trước đây, năm 2009 Ixraen đã phát động một cuộc tấn công điện tử nhằm vào hệ thổng máy tính điện tử của Iran thông qua virus Stuxnet, cùng với một chiến dịch ám sát nhá khoa học Iran. Gần 30.000 máy tính bị nhiễm virus độc hại này, nó tìm kiếm trong máy tính hệ thống, giám sát của công ty Đức Siemens Win cc, phụ trách việc kiểm soát các đường ống dẫn, các giàn khoan dầu khí và nhà máy điện.
Ngược lại, năm 2011 Iran đã thành công trong việc bắn hạ một máy bay không người lái cực kỳ hiện đại của Mỹ giám sát các địa điểm hạt nhân của Iran khi bay qua Balochistan. Và máy bay tàng hình và bí mật RQ-170 được xem như một chiến lợi phẩm vô giá, chứng minh khả năng của Iran kiểm soát được máy bay quan sát không người lái tiên tiến nhất của Mỹ, trình diễn khả năng của các thiết bị điện tử cực kỳ hiện đại của các nhà bác học nước này. Từ nay trở đi, với một nguyên mẫu RQ-170 phục vụ cho việc chế tạo các phiên bản của nó, Iran dường như đã thành công trong việc phòng ngừa các cuộc tấn công của loại vũ khí này, tự nâng mình lên hàng thứ 2 thế giới trong lĩnh vực vũ khí.
Ixraen có một kho vũ khí hạt nhân, được cho là một trong những kho lớn nhất ngoài thế giới phương Tây, khoảng từ 150 đến 200 đầu đạn hạt nhân và một đội máy bay chiến đấu mạnh mẽ: 710 máy bay, nhất là các máy bay tiêm kích F-15 và F-16, 181 máy bay trực thăng chiến đấu, cũng như nhiều máy bay không người lái để tấn công và trinh sát. Dưới chính quyền của Tổng thống Barack Obama, Mỹ có thể đã cung cấp cho Ixraen hàng chục máy bay tiếp nhiên liệu phục vụ cho các cuộc tấn công tầm xa. Ngoài lực lượng tấn công hạt nhân, vũ khí dựa trên hệ thống tên lửa đạn đạo, Ixraen còn có bom GBU, được chế tạo theo mẫu GBU của Mỹ, thường được gọi là “bom phá boongke”, nghĩa là “xuyên thủng công sự”. GBU 27, với chiều dài 4,2 mét và nặng 900 kg, có thể xuyên thủng 2,4 m bêtông. GBU28 có chiều dài 5,5 mét, trọng lượng 2,268 kg, có thể xuyên thủng 6 mét bê tông. Sóng xung kích tạo ra phá hủy bất kỳ công trình xây dựng nào ở độ sâu trăm mét dưới lòng đất.
Theo kiểu tên lửa đạn đạo của Mỹ, Ixraen đã chế tạo Popeye-3, tên lửa không đối đất với tầm bắn 350 km, các tên lửa cùng họ: Jericho 1, Jericho 2 và có thể là Jericho 3, về mặt lý thuyết có thể bắn tới Téhéran. Hải quân Ixraen đã thử nghiệm thành công hệ thống tên lửa đánh chặn “Barak” vào ngày 26/7/2009. Được bắn từ tàu Saar-5, việc cải tiến tên lửa mới “Barak” có sự phối hợp giữa các chuyên gia quân đội và hải quân Ixraen với Viện nghiên cứu phát triển vũ khí Rafael và Trung tâm nghiên cứu không gian Ixraen. Hệ thống phòng thủ này được phát triển thành “Vòm Sắt”, chuyên đánh chặn các loại rốc két trong một phạm vi từ 4km đến 70 km.
Công nghệ sản xuất tiên tiến của ngành công nghiệp quân sự Ixraen đảm bảo cho quân đội nước này có khả năng tác chiến ở mọi địa hình, nhất là với người lính rôbốt đầu tiên do công ty “Elbit Systems” chế tạo. Mang theo trong ba lô quân trang của một người lính, người lính robot “VIPer” này có thể hoạt động ở mọi địa hình. Được trang bị súng tiểu liên Uzi điều khiển từ xa, lính rôbốt có thể ném lựu đạn và bắn liên thanh. Ixraen giữ kỷ lục thế giới về chi tiêu quân sự tính theo đầu người, khoảng 1.429 USD mỗi người/ năm (số liệu năm 2006). Ixraen là một trong những nước trên thế giới qui định thời gian nghĩa vụ quân sự dài nhất: ba năm đối với nam giới và hai năm đối với phụ nữ, thời gian đi dự bị cho mỗi năm là một tháng.
Nhằm chuẩn bị cho một cuộc đọ sức, ngoài những hệ thống đã được thiết lập tại Ixraen và Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ đã hoàn thành một hệ thống rađa mới tại Cata để tạo thành một vòng cung phòng thủ tên lửa rộng khắp trong khu Vực.
Phòng thủ tên lửa đạn đạo của Iran
Bộ chỉ huy độc lập của không quân Iran dựa trên một hệ thống kép của tên lửa: Một hệ thống phòng thủ và đánh chặn và một hệ thống phản công bằng các tên lửa đạn đạo Scud. Hệ thống phòng thủ và đánh chặn chủ yếu gồm bảy khẩu đội tên lửa chống máy bay ở tầm thấp và độ cao trung bình, với bốn bệ phóng Tor-M1/SA-15 Gumblet được các tập đoàn Koupol và Almaz Anteny của Nga cung cấp. Ngoài ra, còn có một trận địa được xây dựng với các tên lửa S-300 của Nga, tương đương với PAC-3 Patriot, tên lửa Mỹ triển khai trong sa mạc Negev để bảo vệ các cơ sở của Ixraen. S-300 là loại tên lửa tầm xa, dài 7 mét, với tầm bắn 150 km, mang theo một tải trọng 143 kg, có thể theo dõi 24 mục tiêu và bắn bốn tên lửa cùng một lúc. Iran có hai khẩu đội tên lửa này có thể được bắn từ một bệ di động (xe tải).
Một hệ thống phản công gồm một loạt các tên lửa đạn đạo Scud, các tên lửa cùng họ Shahab, được phát triển với sự giúp đỡ của Bắc Triều Tiên, bao phủ một khoảng cách 300 km-1.500 km. Shahabl có tầm bắn 300 km, Shahab 2: 500 km. Sahab 3, tên lửa thế hệ thứ ba là một phiên bản của tên lửa của Bắc Triều Tiên Nodong 1. Với chiều dài 16 mét, nặng 16.000 kg, được đẩy bàng nhiên liệu lỏng, Shahab 3 có tầm bắn 1.500 km, có thể bắn đến Ten Avíp (Ixraen), Karachi (Pakixtan), Riát (Arập Xêút) và Ancara (Thổ Nhĩ kỳ). Iran còn thừa nhận đấ sở hữu một loại “bom thông minh” được gọi là “Ghassed” nặng 900 kg. Phiên bản cải tiến của KAB-500 kg, Ghassed là một loại bom bay có xuất xứ từ Nga được điều khiển bằng TV, được trang bị đầu đạn xuyên giáp hoặc boongke. Quả bom này có thể được phóng ra từ một máy bay ném bom Iran “Saegheh” (Thần sét), được sản xuất từ việc tổng hợp công nghệ của Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Vũ khí này được bổ sung bằng một đội máy bay quân sự với gần 50 máy bay tiêm kích tuy kém hiện đại hơn so với đội máy bay mới của phương Tây, nhưng Iran tiếp tục sử dụng và đầu tư khoảng 800 triệu USD để hiện đại hóa theo công nghệ của Nga, nhất là hai loại máy bay chiến đấu Sukhoi và Mig.
về hải quân, Iran có thể dựa vào một hạm đội tàu ngầm do Iran hoặc Nga sản xuất, một hạm đội thủy phi cơ ROV (điều khiển từ xa), một trong những hạm đội lớn nhất trên thế giới, các tàu chiến với kích thước khác nhau, một số đơn vị không vận bao gồm một số phi đội máy bay trực thăng, tàu quét mìn và kho vũ khí lớn các tên lửa chống tàu chiến. Hạm đội tàu  ngầm của Iran còn bao gồm tàu ngầm mini do Iran sản xuất.
Các phương tiện truyền thông đã tốn nhiều giấy mực về việc Iran sở hữu tên lửa tầm xa S-300 của Nga. Báo chí Ixraen đã hai lần tiết lộ về chuyến thăm bí mật Mátxcơva của các nhà lãnh đạo Ixraen, Tổng thống Shimon Peres và Thủ tướng Benjamin Netanyahu, để vận động các nhà lãnh đạo Nga từ bỏ việc tăng cường cho hệ thống phòng thủ tên lửa của Iran.
Thông tin từ báo chí phương Tây cho biết Nga đã bàn giao tên lửa tầm xa cho Iran. Tuy nhiên, thông tin này đã không được xác nhận hoặc phủ nhận từ phía Nga lẫn phía Iran. Những tên lửa giống hệt như vậy cũng đã được chuyển giao cho Xyri để ngăn chặn bất kỳ cuộc tấn công nào của phương Tây chống lại quốc gia đồng minh này của Iran.
Nói về máy bay không người lái “Ayoub” do Iran chế tạo. Nước này và đồng minh Hezbollah (Libăng) đã chứng minh khả năng xâm nhập hệ thống phòng không Ixraen của loại máy bay này. Ngày 2/10/2012 máy bay không người lái của Hezbollah đã vào không phận Ixraen, cuộc đột kích thành công đầu tiên của máy bay của một nước Arập kể từ cuộc chiến tranh tháng 10/1973, cách đây 40 năm. Chiếc không người lái này đã bay qua cơ sở hạt nhân Dimona của Ixraen ở Negev, chọc thủng “Vòm sắt” Ixraen, được xây dựng bàng các phương tiện đắt tiền với viện trợ của Mỹ để bảo vệ bầu trời Ixraen trước bất kỳ cuộc tấn công thù địch nào.
Chiến công này của nhóm Hezbollah và Iran, giống như một cuộc trình diễn ngoạn mục về khả năng công nghệ của họ có ý nghĩa to lớn về tâm lý đối với Ixraen và Mỹ, cũng như đối với nhóm nước Sunni bị lôi kéo vào quỹ đạo phương Tây. Máy bay không người lái do Iran chế tạo, có thể là một bản sao của RQ-170 đã được Hezbollah lắp đặt trên đất Libăng.
Những mục tiêu tấn công của Ixraen
Mười cơ sở hạt nhân của Iran được xem là những mục tiêu tấn công tiềm năng của Ixraen. Năm cơ sở lớn, chủ yếu nằm ở phía Nam: Arak, phía Nam Têhêran, chịu trách nhiệm cho việc sản xuất nước nặng, Natanz, phía Nam Têhêran, chịu trách nhiệm cho việc làm giàu urani; Isfahan, phía Nam . Iran, một trung tâm nghiên cứu; Gachine, gần Banda Abbas, cảng Iran trông ra Vịnh Pécxích, trong đó có một mỏ urani và cuối cùng Bushehr, trung tâm quan trọng của sản xuất điện. Và năm cơ sở nhỏ khác: ba địa điểm ở phía Bac Têhêran (Karaj, Lavizan Shiam và Parchin), địa điểm thứ 9 Sakhand nằm ở độ cao của Isfahan, cuối cùng là Fordo trong khu vực của thành phố thiêng Qom.
Căn cứ vào vũ khí và ưu thế hiển nhiên của Ixraen, dường như Iran không muốn thực hiện các chiến dịch phá hoại, nhưng có thể ưu tiên “bắn không tiếc đạn trong mọi hướng” để vô hiệu hóa hệ thống lá chắn tên lửa cài đặt ở Ixraen và các nước chế độ quân chủ Vùng Vịnh. Sau đó, Iran điều chỉnh phản ứng của mình tùy thuộc vào sự tấn công của đối thủ, dựa vào chính chiến lược hậu phương với mật độ dân số đông chưa từng thấy của nước mình để các hoạt động được thực hiện “đằng sau các phòng tuyến của kẻ thù”.
Với sự giúp đỡ của các đồng minh trong khu Vực, nhất là Hezbollah (Libăng), lực lượng bán quân sự lớn nhất trong thế giới thứ ba, cũng như cộng đồng quan trọng người Shiite tại Baranh, Arập Xêút, Côoét, Irắc và Libăng trong khu Vực biên giới giáp với Ixraen. Rút-kinh nghiệm từ ba cuộc chiến tranh Vùng Vịnh (1979-1989), 1990-1991 và 2003), Iran đã tăng cường đáng kể đội tàu chiến của mình trong thập kỷ qua với những thành tựu mới trong quá trình tập trận hải quân: Tại các, cuộc diễn tập này, trong tháng 4 và tháng 8/2006, Iran đã giới thiệu thành tựu mới nhất của hạm đội, nhất là tàu tuần tra phóng ngư lôi, tàu chiến loại nhỏ nhưng rất hiệu quả khi tấn công các tàu chiến lớn. Có mọi lý do để tin rằng Iran sẽ tiến hành chiến tranh du kích hải quân bằng các hoạt động tập kích có xu hướng giống như mùa Xuân năm 2007 khi Têhêran đã bắt giữ thành công 15 thủy thủ Anh. Iran có thể là một trong những nước có công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực thiết bị điện tử. Với tốc độ tối đa 45 hải lý, Joshan và Peykan là hai tàu chiến phóng tên lửa có một hỏa lực ghê gớm. Trong khi tàu tuần tiễu phóng tên lửa có tên gọi Fajr, trang bị thêm loại đại bác 76 mm, được sử dụng linh hoạt, có thể nhắm trúng các mục tiêu dưới nước và trên không ở tầm xa 19 km. Iran cũng đã phát triển hợp tác với Êritơria kể từ tháng 12/2008 và có thể có căn cứ hải quân tại cảng Assab, ở bờ biển phía Đông của châu Phi. Iran có thể đã triển khai tại đây các tàu chiến của mình, trong đó có các tàu ngầm. Căn cứ hải quân này được thiết lập nhằm khống chế đường hàng hải trong Vùng Vịnh và eo biển Hormuz trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công của Ixraen.
Không giống như Bắc Triều Tiên, một quốc gia hạt nhân nổi loạn, dựa vào Trung Quốc với 1.416 km dường biên giới chung, Iran được vây quanh bởi 5 cường quốc hạt nhân (Nga, Ucraina, Ấn Độ, Pakixtan và Ixraen). Việc gia nhập các quốc gia ở ngưỡng hạt nhân của Iran là đáp ứng những đòi hỏi hợp pháp, theo đó cho phép nước này phòng ngừa một môi trường hạt nhân thù địch cũng như tránh rơi vào tình trạng tương tự như nước láng giềng Irắc.
Tuy nhiên, qua việc thiết lập thế “cân bằng khủng bố” tại Trung Đông, Libăng và Gada, bom hạt nhân Iran có thể làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng ở cấp khu Vực và gây ra sự đảo lộn lớn về chiến lược trong khu vực. Trong triển vọng này, việc vô hiệu hóa Iran hoàn toàn không đáp ứng được yêu cầu tôn trọng các thủ tục pháp lý và luật pháp quốc tế, từng bị các quốc gia phương Tây chà đạp, thậm chí không cho phép giải quyết mối lo ngại về việc không phổ biến vũ khí hạt nhân. Động thái này còn khơi dậy các vấn đề quân sự nổi cộm: đó là việc duy trì ưu thế chiến lược của Ixraen đối với toàn bộ các nước nước Trung Đông, sự áp đặt của phương Tây đối với các nguồn dự trữ năng lượng của các nước Tây Á cũng như việc kiểm soát tuyến đường ống dẫn khí đốt có tầm chiến lược đang được xây dựng từ Trung Á, một động cơ tiềm ẩn cho sự can thiệp của Mỹ tại Ápganixtan, Irắc và Xyri.
Quốc gia láng giềng với Irắc và Ápganixtan, cũng như tiếp giáp với Vịnh Pécxích và Ấn Độ Dương, Iran được xem như là nước có nền công nghiệp lớn nhất trong khu vực trung gian trải từ miền Nam châu Âu đến biên giới của Ấn Độ. Sự thành công chiến lược của Iran có thể phát huy chính sách tự cung tự cấp về công nghệ và quân sự, cùng một cách với thành công chính trị hoặc quân sự của Hezbollah Shiite của Libăng hoặc Hamas Sunni của Palextin khôi phục tinh thần kháng chiến của người Palextin trước sự chia rẽ đang diễn ra trong thế giới Arập. Ngoài ra, thành công của Iran sẽ làm Ixraen mất đi sự hỗ trợ chiến lược to lớn của phương Tây trong khu vực và nhấn chìm chủ trương Arập chịu lệ thuộc vào Ixraen- Mỹ, để cùng nhau xác định hệ thống phân cấp quyền lực mới trong trật tự khu vực. Đó là cuộc chơi thực sự, có lẽ điều quan trọng nhất là sức mạnh được phô trương của Iran thu hút cuộc đối đầu giữa Iran với Ixraen./.

1658. CUBA: NHỮNG PHÉP MÀU CỦA RAUL CASTRO

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ năm, ngày 28/2/2013

CUBA: NHỮNG PHÉP MÀU CỦA RAUL CASTRO

(Tạp chí Politique internationale - Số 136)
“Và sau Fidel, điều gì sẽ xảy ra?” vấn đề tương lai của cuộc cách mạng Cuba từ lâu chỉ là câu hỏi này. Fidel Castro, sau khi lên nắm quyền ngày 1/1/1959, đã độc quyền giữ nó đến mức khiến tất cả mọi người, những người ở Cuba cũng như ở nước ngoài đều nghĩ rằng chế độ mà ông đã lãnh đạo trong suốt gần một nửa thế kỷ sẽ không thể tồn tại khi không có ông. Thế rồi, ngày 31/7/2006, Líder máximo (lãnh tụ tối cao) ốm nặng. Ông đã rút lui khỏi sân khấu, bàn giao lại chính quyền cho người em trai út trong một sự kế tiếp hoàn hảo. Kể từ đó, câu hỏi trên đã thay đổi một chút: và sau Raul điều gì sẽ xảy ra? Bởi lẽ ông này năm nay đã 81 tuổi và người ta không thấy bóng dáng một vị thế tử nào xuất hiện trong hàng ngũ cầm quyền.

Nhưng, những tháng gần đây, có một ẩn số khác nổi lên trên chính trường Cuba: “Và sau Chávez, điều gì sẽ xảy ra?”. Câu hỏi này thoạt đầu bất ngờ, thực tế nhấn mạnh kết quả của một thập kỷ xích lại gần về kinh tế và hệ tư tưởng giữa Cuba và Vênêxuêla – gần gũi đến mức mà có một thời, thậm chí một liên minh giữa hai nước đã được gợi ra vào năm 2007.
Kể từ tháng 6/2011 và từ khi ông nhận được thông báo về căn bệnh ung thư của mình, Tổng thống Vênêxuêla Hugo Chávez, 57 tuổi, đã phải 3 lần phẫu thuật liên tiếp ở Cuba. Tại đó, ông cũng trải qua một loạt những lần điều trị bằng hóa chất và tia phóng xạ, rời khỏi Caracát cả hàng tuần lễ nhưng không vì thế mà giao quyền lãnh đạo cho người khác. Thực chất bệnh ung thư của ông vẫn còn là một điều bí ẩn: tình trạng sức khỏe của ông là một bí mật quốc gia. Nhưng những triển vọng về sự hồi phục của ông là không chắc chắn sau lần thứ ba bị đột quỵ và phẫu thuật lại hồi tháng 3/2012.
Sự nghi ngại về tương lai của đồng minh Vênêxuêla còn khiến các nhà cầm quyền ở La Habana lo lắng hơn điều mà người ta giả định trong khi các phương tiện thông tin đại chúng Cuba im lặng gần như tuyệt đối về chủ đề này. Vả lại, không phải ngẫu nhiên mà Hugo Chávez lại được chạy chữa tại chính Cuba: dù Cuba hoàn toàn không nói ra, người ta vẫn biết rằng việc ông này tiếp tục nắm quyền ở Caracát, đối với nhà cầm quyền theo tư tưởng Castro là một thách thức mang tính sống còn của chính họ. Vì một lý do đơn giản: từ năm 1998, nền kinh tế Cuba phần lớn dựa vào sự giúp đỡ của Vênêxuêla và vào chức tổng thống của Hugo Chávez. Mối quan hệ gần như cha, con giữa ông và Fidel Castro không phải là điều xa lạ.
Chưong trình đổi dầu hỏa lấy các bác sĩ
Trong một vài năm, Vênêxuêla đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Cuba và bỏ xa các đối tác đứng sau: năm 2010, lượng hàng hóa và dịch vụ trao đối giữa hai nước về của cải và dịch vụ, chiếm gần 40% toàn bộ khối lượng trao đổi của Cuba, với những điều kiện đặc biệt thuận lợi dành cho La Habana. Theo những điều khoản của hiệp định song phương
được ký năm 2000, Caracát giao hơn 100 000 thùng dầu/ngày (đáp ứng hơn hai phần ba nhu cầu của Cuba) với giá ưu đãi, và được thanh toán một phần thông qua hình thức vay tín dụng với thời hạn 15 năm – một ân huệ đối với nền kinh tế Cuba, đang thiếu tiền mặt và chỉ có khả năng vay ở mức tối thiểu.
Đổi lại, Cuba giúp đỡ các chương trình-xã hội của Vênêxuêla bằng việc đưa tới nước này 40 000 chuyên gia (y tế, giáo dục, thể thao, kỹ thuật) trong thời hạn 2 năm. Chính họ là những người thực thi một phần các chính sách xã hội của Caracát, – chẳng hạn như Barrio Adentro (phụ trách chương trình bảo hiểm y tế phòng ngừa và toàn diện ở những khu Vực khó khăn), Robinson (xóa nạn mù chữ), hoặc như chương trình Phẫu thuật kỳ diệu (phẫu thuật mắt miễn phí cho những người nghèo nhất).
Những năm gần đây, việc xuất khẩu các hoạt động dịch vụ theo một dạng mới đã trở thành nguồn thu nhập lớn nhất của Cuba: được Caracát trả 6 tỷ USD mỗi năm, kể từ giờ, nó kiếm tiền cho hòn đảo này hơn rất nhiều so với ngành du lịch (2,4 tỷ USD năm 2010), xuất khẩu niken (800 triệu USD năm 2011) hay còn nữa là kiều hối, của những người sống lưu vong (ước chừng 1 tỷ USD, chủ yếu là từ Mỹ). Dù sao hoạt động này, với giá trị gia tăng lớn nhưng tác động còn yếu đối với phần còn lại của nền kinh tế quốc gia, vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường Vênêxuêla.
Ngoài ra, hai nước đã hợp tác cùng đầu tư trong nhiều dự án chiến lược đối với sự phát triển của Cuba như: xây dựng hoặc mở rộng 3 nhà máy lọc dâu (ở Cienfuegos, Santiago và Matanzas); xây dựng các nhà máy (sản xuất amôniac và PVC); cũng như cải tạo nhũng mỏ khai thác niken ở phía Đông hòn đảo này. Đó là những dự án có qui mô lớn và sẽ được triển khai từ nay cho đến tận cuối thập kỷ.
Mối đe dọa về một “thời kỳ đặc biệt” mới
Pavel Vidai, nhà kinh tế thuộc Trung tâm nghiên cứu kinh tế Cuba, cho rằng trong trường hợp Vênêxuêla ngừng trợ cấp thì hòn đảo này có thể sẽ phải chịu tác động của một sự suy thoái kéo dài “trong một, hai hoặc thậm chí là 3 năm”, cùng với việc GDP giảm 9%. Nhà nghiên cứu này cho rằng: “Cuba không có nhiều phạm vi hoạt động, cho nên điều quan trọng là phải đẩy nhanh quá trình mở rộng tự do hóa kinh tế và những chính sách cải cách”. Đó là những cải cách đã được Raul Castro cam kết từ khi ông làm chủ tịch (tạm quyền vào mùa Hè năm 2006, sau đó được bầu chính thức từ tháng 2/2008). Với một giọng điệu mới, trái với thói quen dương dương tự đắc, ông đã đưa ra nhiều nhận xét đôi khi tàn nhẫn về sự tàn tạ của nền kinh tế quốc gia, và như vậy có lúc xé toạc bức màn che đậy của cơ quan tuyên truyền.
Bởi vì bất chấp những tỷ lệ tăng trưởng được công bố ở mức hai con số (mà các cơ quan quốc tế nghi ngờ cách tính toán), mô hình Cuba vẫn thể hiện những sự trục trặc về cơ cấu, đã dẫn tới một sự thâm hụt rất lớn trong cán cân thương mại năm 2008. Đến mức để đối phó với sự khủng hoảng trong thanh toán ngoại tệ, các nhà cầm quyền đã quyết định đóng băng, mà không báo trước, những tài khoản ngân hàng của các doanh nghiệp nước ngoài ở Cuba, vào khoảng một tỷ USD, khiến cho những hoạt động của họ trở nên đặc biệt bấp bênh trong vòng hơn một năm – và do đó việc họ tiếp tục những đầu tư ở hòn đảo này trở thành mạo hểm.
Lĩnh vực nông nghiệp phải chịu một sự quản lý tập trung quá mức (80% ruộng đất bị quốc hữu hóa và cơ quan duy nhất đứng ra thu mua và phân phối, Acopio, đặc biệt không hiệu quả) đã khiến các vùng nông thôn kiệt quệ. Kết quả: đất nước trở lại với tình trạng hơn một nửa diện tích đất trồng trọt bị bỏ hoang. Một thất bại phải trả giá đắt và đặt ra vấn đề về an ninh lương thực – Cuba phải nhập khẩu 80% lượng lương thực mà họ tiêu thụ. Thêm vào đó, họ đang trong quá trình phi công nghiệp hóa: phần của khu vực hai (khu vực kinh tế kém phát triển hơn) rõ ràng đã thụt lùi kể từ khoảng 25 năm, chuyển từ 28% năm 1989 xuống 13,4% năm 2009. Còn về các dịch vụ, đã phát triển quá mức (năm 2009, chiếm“77% GDP), những dịch vụ này không dựa vào bất kỳ việc sản xuất của cải nào.
Đặc biệt là phần ít ỏi của các khoản đầu tư (dưới 10% GDP) và sự hư hỏng nói chung của các cơ sở hạ tầng bảo đảm cho sự tăng trưởng. Người ta cho rằng 40% bất động sản đang trong tình trạng tồi tệ cùng với việc thiếu gần nửa triệu nhà ở. Mạng lưới đường sắt và đường bộ ở trong một tình trạng thảm hại, không đủ các phương tiện vận tải để chuyên chở hàng hóa và hành khách: ở các tỉnh lẻ, việc vận chuyển phần lớn được đảm bảo bằng những phương tiện được gọi là “thay thế” – những chiếc xe thô sơ do ngựa kéo với một chiếc đèn dầu thay cho đèn pha. Sự tương phản có thể thấy rõ giữa các dịch vụ xã hội đặc biệt phát triển (nhất là giáo dục và y tế) và các dịch vụ cơ bản bị bỏ mặc.
Người ta tính rằng cứ 10 người dân mới có gần một người có điện thoại cố định và phải đến 2008, dân chúng mới được phép sử dụng điện thoại di động cũng như máy tính. 60% lượng nước sạch đã bị thất thoát trước khi tới được các vòi nước do các hệ thống đường ống dẫn nước của mạng lưới phân phối hư hỏng. Việc cắt điện, tạm chấm dứt trong cố gắng “cách mạng năng lượng” hồi năm 2005 (hỗ trợ các nhà máy nhiệt điện bằng một mạng lưới máy phát điện dùng diesel), đã quay trở lại mạnh mẽ, làm tê liệt cả lĩnh vực nhà ở cũng như công nghiệp.
Trong hoàn cảnh nguy kịch này, lệnh cấm vận do Oasinhtơn áp đặt lên Cuba, có hiệu lực từ năm 1962, và được tăng cường . vào năm 1992 và 1996, đang đè nặng lên nền kinh tế của hòn đảo này và đặc biệt tới sự hội nhập quốc tế của họ: giá các giao dịch cao hơn từ 5 đến 10% so với giá mà những trao đổi trực tiếp với nước láng giềng liền kề này cho phép, những sức ép đối với các ngân hàng quốc tế và nhất là sự vắng mặt của các hãng du lịch Mỹ, cơ hội để kiếm được hàng tỷ USD mỗi năm. Nhưng lệnh cấm vận của Mỹ – được gọi là sự phong tỏa chống Cuba – không ngăn cản hòn đảo này buôn bán hoàn toàn hợp pháp với 176 nước…cũng như với chính Mỹ: tiếp theo một văn bản pháp lý sửa đổi bổ sung được Oasinhtơn bỏ phiếu thông qua năm 2000 cho phép bán (nhưng không mua) thực phẩm và thuốc men, chính Mỹ đã trở thành nước cung cấp lớn nhất các thực phẩm nông nghiệp cho Cuba! Nhất là, lệnh cấm vận này không phải là nguyên nhân gây ra những trục trặc mang tính cơ cấu gắn với mô hình kinh tế tập trung và nhà nước hóa mà Raúl Castro hiện đang tìm cách hợp lý hóa.
Những cải cách chăng? Không phải, đó chỉ là “cập nhật mô hình”
Năm 2011, Đảng Cộng sản Cuba (đảng duy nhất được phép hoạt động) đã triệu tập Đại hội Sáu, vốn được chờ đợi từ 10 năm nay. Đây là dịp để các nhà cầm quyền chấp nhận một danh sách gồm 300 biện pháp- nhằm hiện đại hóa nền kinh tế Cuba, về mặt chính thức, đây không phải là Vấn đề quá độ: từ này cũng giống như từ cải cách đã bị loại bỏ ở Cuba; người ta nói đến việc “cập nhật mô hình”, để phù hợp với những “đường hướng lớn”.
Các biện pháp mở rộng tự do từng bước đã được tiến hành: bỏ các mức lương trần để trả lương theo sản phẩm, giao quyền sử dụng khu đất của nhà nước bị bỏ hoang cho nhũng người sản xuất nhỏ (1,5 triệu hécta đất canh tác đã được giao trong thời hạn 10 năm cho gần 160 000 người để phục hồi sản xuất nông nghiệp).
Nhưng trọng tâm của dự án còn đi xa hơn nữa: phát huy tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước (hai phần ba trong số này hiện làm ăn không có lãi) và xây dựng lại lĩnh vực tư nhân. Những biện pháp được dự kiến mang tính cấp tiến đối với một xã hội đã quen với sự bao cấp của nhà nước. Cho đến lúc đó, Cuba vẫn khoe khoang việc mọi người đều có công ăn việc làm như là một dẫn chứng chính đáng cho sự thành công của họ. Từ nay, Vấn đề là phải sa thải hàng loạt: 500 000 nhân viên nhà nước sẽ bị thất nghiệp từ nay đến năm 2015. Những điều kiện, được nghiệp đoàn duy nhất đưa ra: một tháng lương đền bù cho 10 năm thâm niên, và buộc phải tự xoay xở để ống. Một thông báo tàn nhẫn sau 50 năm chế độ kinh tế tập thể với một lĩnh vực tư nhân thực sự không tồn tại.
Để sử dụng hết số lượng lớn người lao động này trong “lĩnh Vực ngoài nhà nước”, hai phương thức được vạch ra: làm việc đơn lẻ hay trong các doanh nghiệp nhỏ, đơn giản và mở rộng dần; và các hợp tác xã, một hệ thống cho đến khi đó mới chỉ được thực hiện trong lĩnh Vực nông nghiệp. Hoạt động và thu nhập sẽ được thả nổi, miễn là đóng các khoản lệ phí và thuế, ý tưởng này đồng thời nhằm hợp thức hóa các hoạt động không chính thức hiện phát triển rất nhanh để thu thuế.
Nhưng thay vì chỉ rõ những lĩnh vực hoạt động bị loại trừ khỏi những cải cách này, các nhà cầm quyền lại lập một danh sách chỉ quy định những việc làm được cho phép: một bản kê khai chi tiết 178 ngành nghề, tất cả đều là hoạt động dịch vụ, và phần lớn không cần có tay nghề (từ bán đồ ăn nhẹ cho đến bán đĩa CD lậu, sửa chữa lặt vặt hay chọc cười trẻ em). Như vậy, không có các hoạt động sản xuất và những người có bằng cấp không thể hành nghề mà họ đã được đào tạo (kiến trúc sư, kế toán, bác sĩ, V.V…).
Những hạn chế này thể hiện sự nghi ngại của các nhà cầm quyền theo tư tưởng Castro trước những mầm mống của sự độc lập về kinh tế. Năm 1994, Cuba từng phải cho phép doanh nghiệp nhỏ ra đời để ngăn chặn sự khủng hoảng của “thời kỳ đặc biệt”. Nhưng ngay từ khi có những dấu hiệu phục hồi đầu tiên, năm 1996, họ đã dần dần thu lại các giấy phép và đánh thuế nặng hơn. Kết quả là: năm 2009, chỉ còn có 141 000 doanh nghiệp nhỏ trong tổng số 4,9 triệu người trong tuổi lao động.
Lần này, từ khi có đạo luật mới của Raúl, người ta thống kê được 371000 doanh nghiệp nhỏ (hai phần ba trong số những người mới Vốn là những người không công khai việc làm, như vậy chứng tỏ đa số những hoạt động không chính thức trước đây nay được hợp pháp hóa), và các nhà cầm quyền cho rằng đến cuối năm 2012, con số này sẽ là 600 000. Những hoạt động phổ biển nhất ư? Cửa hàng bán thức ăn nhanh mang đi, vận chuyển tư nhân (taxi tập thể) và đối với những ai may mắn có được một ngôi nhà còn trong tình trạng tốt thì cho các khách du lịch nước ngoài thuê phòng trọ.
Nhờ một chính sách cải cách về quyền sở hữu, cuối năm 2011, dân chúng có thể mua bán nhà ở, xe cộ, trước đó vẫn bị cấm đoán. Và từ nay, đối với những chủ doanh nghiệp nhỏ, việc tuyển lựa nhân viên là hợp pháp, điều trước đây chỉ được cho phép trong khuôn khổ gia đình. Nhưng liệu điều đó có đủ để sử dụng hết hàng trăm nghìn người bị sa thải theo dự kiến và phục hồi nền kinh tế?
Về ngắn hạn, những biện pháp manh mún này bắt đầu đem lại một vài kết quả: sản xuất nông nghiệp được thúc đẩy đôi chút, những thay đổi đáng kể trong lĩnh vực bất động sản, xuất hiện một cơ cấu kinh tế vi mô. Đối với Nhà nước, đó là một biện pháp giảm chi tiêu nhưng lại tăng thu nhập – kèm theo nguy cơ một bộ phận dân chúng không có nguồn sống vì cùng với việc cho phép của lĩnh vực tư nhân hoạt động là việc từ bỏ Nhà nước phúc lợi (mất dần vai trò cung cấp, cải cách các hệ thống y tế và giáo dục…). Vượt quá những kết quả kinh tế, những hậu quả xã hội của bước ngoặt này đã nhấn mạnh hơn những bất bình đẳng trong nước.
Quả thực, trong một đất nước mà tiết kiệm và vay tín dụng gần như là không tồn tại, thì những sự đầu tư vi mô phần lớn được thực hiện nhờ vào tiền do các gia đình từ Miami và những nơi khác gửi về, điều này vạch rã trong xã hội một đường phân chia tương thích với một đường khác, ít được tranh luận công khai: đa số người Cuba lưu vong từ lâu là người “da trắng”, nên các gia đình người “da trắng” đã nhận được nhiều nhất các kiều hối. Trên thực tế, người “da đen” và người lai bị gạt ra ngoài lề trong ván bài kinh tế mới này.
Trong giai đoạn quyết định đối với tương lai kinh tế và xã hội của hòn đảo này, một số nhà trí thức cách mạng theo phái chỉ trích tìm cách thúc đẩy sự phát triển của một lĩnh vực hợp tác, tự quản lý, có thể sẽ làm bớt đi tình trạng bất bình đẳng và tăng cường sự đoàn kết – một hình thức tham gia chưa bao giờ được các nhà cầm quyền Cuba từ Che Guevara cho tới Fidel Castro ưa thích.
Nhất là, giới lãnh đạo chính trị không coi tiến trình cải cách này là một bước quá độ khả dĩ. Tháng 7/2009, Raúl Castro đã tuyên bố trước Quốc hội rằng: “Tôi không được bầu làm chủ tịch để thiết lập chủ nghĩa Tư bản ở Cuba mà là để bảo vệ, xây dựng và hoàn thiện chủ nghĩa Xã hội chứ không phải là hủy diệt nó”.
Câu nói có thể được coi là hoa mỹ nhưng, 3 năm sau đó, quan điểm của chính quyền về vấn đề này vần không thay đổi. Phó chủ tịch Marino Murillo, ngôi sao đang lên, giám sát những cải cách, đã nhấn mạnh trước báo chí nước ngoài vào cuối tháng 3/2012 rằng: “Chúng tôi đang cập nhật hóa mô hình kinh tế nhưng chúng tôi không nói đến cải cách chính trị: Sẽ không có cải cách chính trị ở Cuba”.
Người ta biết rằng Raúl Castro bị ảnh hưởng bởi những mô hình của Trung Quốc hay Việt Nam, những nước mà ông đã tới thăm nhiều lần, nơi mà sự mở cửa kinh tế đã không làm tổn hại đến sự độc quyền chính trị của đảng duy nhất. Không hề thiết lập một giai đoạn quá độ “ngược lại, vấn đề là củng cố hệ thống hiện nay bằng cách cố gắng làm cho nó có thể đứng vững được – đồng thời vẫn giữ được sự độc quyền về quyền lực.
Từ màu đỏ sang màu xanh ôilu: giới quân sự nắm quyền chỉ huy
Trên bàn cờ nói đúng ra là mập mờ của việc kế tục Castro, một thể chế đã giữ một vị trí ngày càng lớn trong những năm gần đây: Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba (FAR). Kể từ khi được bổ nhiệm vào mùa Hè năm 2006, Raúl Castro đã thay thế gần như toàn bộ êkíp lãnh đạo đương chức dưới thời anh trai ông. Thế hệ những người trẻ đầy tham vọng chính trị được đặt biệt danh là những “Taliban” vì sự cuồng tín của họ đối với Fidel Castro (Felipe Pérez Roque, Hassan Pérez, Otto Rivero) đă biến mat khỏi chính trường, cũng như êkíp những nhà quản lý thực dụng đã chỉ đạo quá trình mở cửa trong những năm 1990 (Carlos Lage, José Luis Rodriguez, Francisco Soberón). Thay vào vị trí của họ, là các quân nhân, những chiến hữu lâu năm của Raúl Castro (ông là Tổng tư lệnh tối cao các Lực lượng vũ trang cách mạng trong suốt 50 năm, từ 1959 đến 2008), từ nay chiếm phần lớn nhất của chiếc bánh không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà cả trong lĩnh vực kinh tế. Điều là điều mới mẻ.
Vai trò chính trị của giới quân sự Sierra Maestra từ năm 1956 đến năm 1959) đã có trước Đảng Cộng sản (được thành lập vào năm 1965) và hội tụ tính hợp pháp về phương diện lịch sử để cầm quyền. Vai trò kinh tế của họ thì mới có gần đây.
Trong vòng 20 năm trở lại đây, FAR đã bắt đầu cơ cấu lại một cách triệt để: được Liên bang Xôviết trợ cấp cho đến năm 1989, quân đội đã phải giảm mạnh quân số của họ (từ 235 000 người trong những năm 1980 xuống còn khoảng 55 000 trong những năm 2000). Ngay từ năm 1986, FAR đã triên khai một chương trình tự chủ về tài chính, thông qua việc chấp nhận các phương pháp tư bản chủ nghĩa (phân cấp quản lý, thống kê kế toán); hệ thống được gọi là “cải tiến doanh nghiệp” này dựa vào quyền tự trị của mỗi xã hội, mang tính tự túc (nếu không muốn nói là phải sinh lời).
Trước tiên chỉ giới hạn ở lĩnh Vực quân sự, những phương pháp này sau đó đã được mở rộng ra nhiều lĩnh vực chủ chốt khác dưới sự chỉ đạo của quân đội. Một tầng lớp quân nhân-nhà quản lý hùng mạnh đã phát triển mà người ta thường gặp trong những khu dân cư Kohly, Siboney và Jaimanitas ở La Habana. Từ nay, họ kiểm soát phần lớn nền kinh tế quốc gia: theo một nghiên cứu được thực hiện vào đầu những năm 2000, những doanh nghiệp chịu sự quản lý của quân đội đã tạo ra “89% giá trị xuất khẩu, 59% thu nhập về du lịch, 24% thu nhập từ các dịch vụ, 60% từ các giao dịch bằng ngoại tệ, 66% từ việc bán lẻ bằng ngoại tệ”, và sử dụng “20% lực lượng lao động thuộc lĩnh Vực công”… Những người mặc đồng phục có mặt trong những lĩnh vực năng động nhất, những người mà người ta gọi là “đang nổi lên”, và hoạt động trong những lĩnh vực có lợi nhuận cao như du lịch, viễn thông, thuốc lá, thương mại cũng như trong những lĩnh vực chiến lược như vận tải và phân phối.
Giới quân nhân doanh nghiệp này, thường là các tướng lĩnh, các đảng viên nhưng chỉ phụ thuộc vào anh em Castro, tập trung quyền lực kinh tế và chính trị mà không cần phải bận tâm đến một chút đối lực nào – một sự tù mù có lợi cho tệ tham nhũng ở qui mô lớn, theo những lời đồn đại dai dẳng (thí dụ mới đây nhất là trường hợp tướng Rogelio Acevedo, giám đốc hãng hàng không dân dụng trong suốt 2 thập kỷ, bị sa thải vào đầu năm 2010). Nói rộng hơn, những thành viên của các lực lượng vũ trang và an ninh được hưởng những đặc quyền có tính quyết định trong một xã hội lâu nay vẫn tự nhận là công bằng (họ được hưởng những đãi ngộ về nhà ở, xe ô tô, thực phẩm, nghỉ phép cũng như về y tế và chế độ hưu trí tốt hơn rất nhiều so với chế độ chung).
Bất chấp quyền lực ngày càng tăng của họ, giới tinh hoa này vẫn ít được dân chúng biết đến và không xuất hiện trên báo chí Cuba. Họ được liên kết bằng sự trung thành, thậm chí bằng những mối quan hệ gia đình không lộ ra ngoài: chẳng hạn Luis Alberto Rodriguez, giám đốc của GaeSA nắm toàn bộ các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực quân sự, không phải ai khác mà chính là con rể của Raúl Castro. Không có bất cứ một bức ảnh nào về ông này và các mối quan hệ gia đình của ông với người bố vợ đầy thế lực không bao giờ được nói tới. Trong khi thiếu một êkíp chuyển tiếp chính trị nên giờ đây, giới quân sự dường như đứng ở vị trí tốt nhất cho sự kế tục sau Castro: ở Cuba, người ta nói đến quyền lực màu xanh ôliu. Màu quân phục của họ.
Đảng duy nhất và độc quyền về thông tin
Chỉ trong vài năm, Raúl Castro đã áp đặt một quan điểm quản lý về chính trị, khẳng định mình như là một nhà quản lý quan tâm đến tính hiệu quả – chứ không phải đến tính đa nguyên: ở Cuba, mọi ý kiến bất đồng đều bị trừng phạt. Tuy nhiên, số tù nhân chính trị đã giảm: cái chết trong tù của Orlando Zapata Tamayo (một phần tử chống đối đã chết hồi tháng 2/2010 sau nhiều ngày tuyệt thực) và việc huy động các gia đình tù chính trị (Phong trào Những Phụ nữ trang-phục trắng), năm 2011, đã khiến nhà cầm quyền bối rối và buộc họ phải trả tự do cho hơn một trăm tù chính trị. Phần lớn số tù nhân này đã bị trục xuất đến Tây Ban Nha, là nước khi đó đứng làm trung gian hòa giải bên cạnh Giáo hội Công giáo Cuba. Tuy nhiên, những quyết định trả tự do này, được hoan nghênh ở nước ngoài, không làm thay đổi khuôn khổ pháp lý hình sự hóa những sự bất đồng chính kiến ở Cuba.
Và nếu như hiện nay có tương đối ít tù chính trị ở Cuba (theo Ủy ban Nhân quyền Cuba, năm 2012, số tù chính trị được ước tính vào khoảng 50 so với hơn 300 năm 2004) thì ngược lại nhỮng hành động trấn áp và hăm dọa ở mức độ thấp lại tăng mạnh. Chỉ trong tháng 3/2012, chính Ủy ban này đã thống kê được 1.158 vụ thẩm vấn tùy tiện và giam giữ người, từ vài giờ cho đến vài ngày, một nửa trong số đó xảy ra vào dịp Giáo hoàng Benedict 16 đến Cuba từ ngày 26 đến ngày 28/3, nhằm ngăn chặn cuộc biểu tình trong các buổi lễ misa công khai được tố chức tại Santiago và La Habana.
Quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do báo chí được Hiến pháp đảm bảo chỉ khi nào “phù hợp với những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”… Sự kiểm soát thông tin đặc biệt có hiệu quả: chỉ tồn tại hai tờ nhật báo quốc gia, mỗi tờ khoảng một chục trang, mà thực ra là các cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Cuba (Granma) và của Đoàn Thanh niên Cộng sản (Juventud rebelde). Vô tuyến truyền hình (gồm 4 kênh quốc gia và một tờ báo hình) do một quân nhân chỉ đạo; còn các ăng ten chảo bắt được các kênh nước ngoài chỉ được phép sử dụng ở những khách sạn dành cho khách du lịch. Người dân Cuba nào dám lắp đặt lậu loại ăng ten này sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Trong bối cảnh những phát biểu công khai trước đám đông cũng bị các nhà cầm quyền kiểm soát hoàn toàn thì lĩnh vực tin học và nhất là Internet đã đem lại những cơ hội bày tỏ các ý kiến riêng tư (tuy nhiên ngoài La habana, phần còn lại của Cuba, được trang bị rất ít). -Từ giữa những năm 2000, không gian đầy tiềm năng này đã thách thức sự độc quyền về thông tin của Nhà nước Cuba và bị nhà cầm quyền xác định rõ là mối đe dọa.
Internet và “cuộc cải tổ của cácdân mạng”
Sự giám sát Internet ở Cuba đặc biệt có hiệu quả: ngược lại với Trung Quốc hoặc thậm chí với Tuynidi của Tổng thống Ben Ali trước khi nước này sụp đố, việc giám sát này được thực hiện không phải qua sàng lọc hay phong tỏa các trang web mà trực tiếp từ đầu nguồn, thậm chí bằng cách hạn chế truy cập mạng. Hòn đảo này chỉ có một nhà cung cấp mạng, thuộc Nhà nước, và các dịch vụ chỉ dành cho các khách sạn, các cơ quan hành chính nhà nước. Năm 2009, doanh nghiệp này chỉ công bố 27 000 hợp đồng Internet, tức là khoảng 0,25 % số dân Cuba, tỷ lệ thấp nhất ở châu Mỹ (có một chợ đen cho những kêt nối bất hợp pháp, chủ yếu ở La Habana, nhưng đã bị trấn áp mạnh mẽ).
Với điều kiện tiên quyết là có giấy phép, một số nhà chuyên môn (bác sĩ, giáo sư đại học, viên chức cao cấp) có thể từ nhà riêng của họ, sử dụng một mạng nội bộ “Intranet” của chính phủ không kết nối Internet để trao đổi các thư điện tử trong nước và với nước ngoài. Khoảng 16% số dân được cung cấp dịch vụ Intranet hạn chế này, với tốc độ thông tin hết sức chậm.
Để vào mạng Internet thực sự, cần phải đến các quán cà phê Internet trong các khách sạn. Ngoài việc có thể bị kiểm tra giấy chứng minh, trên thực tế mức giá quá cao của những nơi này khiến cho những dịch vụ như vậy không thể tới được người dân (chỉ một giờ truy cập ở lưu lượng thấp đã ngốn mất một nửa tháng lương – khoảng 6 euro).
Cho đến gần đây, các nhà cầm quyền vẫn đổ lỗi cho lệnh cấm vận của Mỹ khiến cho khả năng kết nối yếu kém, buộc họ phải chuyển sang liên lạc qua vệ tinh quá tốn kém. Một đường cáp quang nối Cuba với Vênêxuêla đã được lắp đặt, nhằm tăng gấp 3000 lần dung lượng của đường truyền ở hòn đảo này. Nhưng kể từ ngày khai trương vào đầu năm 2011, và lúc đó được chào đón bằng một bài xã luận của Fidel Castro, không có bất cứ một tin tức nào lọt tới các phương tiện thông tin đại chúng Cuba, và những lời đồn đại dai dẳng về một công trình làm ẩu cùng với những vụ bắt giữ vì tham nhũng. Dù thế nào đi nữa, khả năng truy cập Internet cũng không tăng lên đối với dân chúng.
Bất chấp những giới hạn rõ ràng hẳn là không thể vượt qua được này, người dân Cuba vẫn hoàn toàn nắm bắt được những cơ hội để phát biểu và trao đổi thông qua các blog. Gần như không tồn tại vào năm 2007, số lượng những blog này đã tăng lên theo cấp số nhân: tháng 6/2009, một nghiên cứu đã thống kê được 1. 000 blog Cuba, (một phần tư được viết từ hòn đảo này, còn lại từ nước ngoài).
Mọi đề tài đều được đề cập đến trong đó, nghiêm trọng hoặc nhẹ nhàng và đôi khi có những blog được viết rất chuyên sâu: những bí mật quân sự, nỗi nhớ quê hương của những người sống lưu vong, những chứng cứ về cuộc chiến tranh ở Ănggôla hoặc những tranh luận về tình trạng vô chính phủ của Cuba đầu thế kỷ này… Tất cả tạo nên một diễn đàn trao đổi và tranh luận chưa từng có, tuy nhiên bị hạn chế do những khó khăn về truy cập Internet ở hòn đảo này (người ta không thể theo dõi trực tiếp mà các đĩa CD-Rom tập họp lại do đó: sự tương tác bị giảm chậm), nhưng một số người đã gọi bước tiến triển mới mẻ này là “cuộc cải tổ của các cư dân mạng”.
Biểu tượng của hiện tượng này, Yoani Sanchez, một nhà ngôn ngữ học khoảng ba mươi tuổi, là một trong số những người đầu tiên viết blog từ Cuba năm 2007 mà không cần dùng tên giả. Blog của anh, “Thế hệ Y”, bày to sự thất vọng về hiện thực của Cuba, được lưu hành ở Cuba trên đĩa CD- Rom hay thiết bị USB. Ở nước ngoài, sự thành công của nó càng tăng: với hàng triệu lượt truy cập mỗi tháng và được nhiều giải thưởng về báo mạng trên toàn thế giới. Còn bà Yoani, một người làm việc không mệt mỏi bất chấp những sự hăm dọa (bà và chồng bà bị theo dõi và đe dọa, riêng bà bị cấm ra khỏi lãnh thổ), đã thoát khỏi sự giám sát để truy cập Internet ở những quán cà phê Internet trong các khách sạn và, với tính sáng tạo, bà đã tìm cách phát triến việc sử dụng các công nghệ mới ở Cuba đế tạo ra bấy nhiêu khả năng mới cho các công dân bày tỏ ý kiến.
Có lúc bị lấn át, các nhà cầm quyền cố gắng giành lại quyền kiểm soát lãnh địa mới này. Họ không ngần ngại nói đến “cuộc chiến tranh mạng” và các chiến dịch vu khống trên các phương tiện thông tin đại chúng Cuba thường xuyên công kích những hình thức ngôn luận độc lập mới, bị tố cáo là con bài của Mỹ. Năm 2002, một trường đại học Khoa học thông tin (UCI) đã được mở ngay tại nơi trước đây là trung tâm nghe trộm của Liên Xô ở Lourdes, phía Nam của La Habana. Các sinh viên của trường có trách nhiệm giám sát Internet và đối phó với các website quốc tế liên quan đến tình hình Cuba. Sau hết, nhiều blog và tài khoản Twitter đã được tạo ra, đặc biệt là bởi các nhà báo chính thức (họ được phép truy cập Internet
để làm việc): thường ít mang tính cá nhân, nhiệm vụ của họ là chuyển tiếp một cách có hệ thống những thông tin của báo chí quốc gia tới nước ngoài, hay phục vụ như là những người phát ngôn được sử dụng làm công cụ phát ngôn không chính thức cho một chính phủ đôi khi trở thành tù nhân của chính sở thích giữ bí mật của mình.
Sự bắt đầu giống như một triển vọng
Không được tiếp cận với Internet hay với các kênh truyền hình vệ tinh (và như vậy là với một sự thông tin đa chiều), không có những khả năng thông tin “vô hạn” mà các mạng xã hội cho phép, bức tranh toàn cảnh xã hội Cuba rất khác với các nirớc đã trải qua “Mùa Xuân Arập”: dân chúng vẫn bị tách rời manh mún, không có khả năng chia sẻ kinh nghiệm hay tập hợp nhau.
Các đảng đối lập, xuất hiện trong những năm 1980 xung quanh các phong trào bảo vệ nhân quyền, đã bị thâm nhập và bị cô lập một cách triệt để. Đã có những sáng kiến hay của một xã hội dân sự còn rụt rè (tổ chức các cuộc tranh luận được quay phim để phố biến rộng rãi, những trung tâm đào tạo công dân chủ yếu đặt ở các nhà thờ), nhưng chúng diễn ra đơn điệu và do đó ít thu hút được sự quan tâm của dân chúng: sự kiểm soát xã hội, thông qua những tổ chức quần chúng, vẫn rất mạnh và khiến người ta e dè. Trong hoàn cảnh này, cách ứng xử hai mặt (không nói điêu người ta nghĩ, không làm điều người ta nói) vẫn là chiến lược phản kháng phổ biến nhất, cho dù đó không phải là điều thấy được rõ nhất.
Những người “không thích hợp” chọn cách ra đi hơn là phải chịu một sự cô lập khó khăn trong xã hội. Cuộc di dân vẫn tiếp tục, một cách lặng lẽ nhưng ngày càng tăng thêm: mỗi năm, Cuba mất đi 35 000 người. Từ năm 1994, nửa triệu người đã lựa chọn sự ra đi! Di cư trở thành lựa chọn tương lai của phần lớn thanh niên Cuba. Điều này không liên quan trực tiếp tới vấn đề chính trị – nói đúng ra phần lớn những người ra đi là những người vô chính trị – cũng không chỉ vì lý do kinh tế. Điều thúc đẩy các thế hệ trẻ ra đi chủ yếu là do những mâu thuẫn của một chế độ coi các công dân suốt đời như những đứa trẻ: những người được đào tạo trình độ cao không tìm được việc làm; tình trạng kinh tế bấp bênh; những mức lương nhà nước quá thấp, không cho phép họ sống một cách lương thiện; tính thụ động và thái độ nghi ngờ đối với sáng kiến tư nhân; tóm lại, một quyền lực chính trị không rõ ràng đã không dành bất kỳ khả năng nào cho sự tham gia cũng như cho sự đổi mới thế hệ.
Kêt quả: những thống kê gần đây đã cho thấy một sự thiếu hụt dân số trong độ tuổi từ 25 đến 35, do sự ra đi ngày càng nhiều của lớp thanh niên. Một tổn thất thực sự đối với một đất nước đã biết đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt (6,5 triệu người Cuba tốt nghiệp trung học hoặc đại học) nhưng không thể giữ được họ.
Trước tình hình này, nhà cầm quyền Cuba dường như không định tìm ra giải pháp nào khác ngoài cách “thay đổi tất cả để không thay đổi gì”, ít ra trong một thời gian nữa. Trong khi chờ thắng ván bài dựa vào sự thay đổi từ từ nền kinh tế để phát triển (thay vì đa nguyên) thì sự giúp đỡ của Vênêxuêla là một phao cứu sinh cần thiết dành cho họ. cần thiết, nhưng đặc biệt mong manh trong hoàn cảnh hiện nay./.

1659. VỊNH CAM RANH VÀ SUBIC – TẤM LÁ CHẮN CHO AN NINH BIỂN ĐÔNG

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Sáu, ngày 1/3/2013

VỊNH CAM RANH VÀ SUBIC – TẤM LÁ CHẮN CHO AN NINH BIỂN ĐÔNG

TTXVN (Tôkyô 26/2)
Nhật báo “Sankei Express ” s ra mới đây đã đăng bài phân tích của Chuyên gia bình luận chính trị Hiroyuki Noguchi đánh giá về vai trò chiến lược và vị thế địa-chính trị quan trọng của hai quân cảng Cam Ranh của Việt Nam và Subie của Philippin đi với an ninh trên Biển Đông. Nội dung bài bình luận như sau:

Bản đồ in trên tấm hộ chiếu mới của Trung Quốc đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi thời gian qua. Tấm bản đồ này vẽ đường chín đoạn hình chữ u “gói gọn” một khu vực rộng lớn từ phía Đông Đài Loan tới sát bờ biển của các nước Philippin, Brunây, Malaixia và Việt Nam. Vùng biển nằm trong đường chín đoạn đó chiếm tới 80% Biển Đông gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà nhiều nước cùng tuyên bố chủ quyền. Với cách in ấn bản đồ như vậy, Bắc Kinh dường như muốn sử dụng hộ chiếu để tuyên bố rằng đường chín đoạn này “tương ứng với lãnh hải của Trung Quốc”.
Các nét đứtt này được dư luận đặt cho nhiều cái tên như “đường chín đoạn” dựa vào số nét đứt trên bản đồ, “đường chữ U” và “đường lưỡi bò” căn cứ vào hình thù uốn lượn của nó. Cái “lưỡi bò” tham lam ấy muốn liếm sạch tài nguyên biển đi kèm với những tuyên bố chủ quyền đối với nhiều quần đảo trên Biển Đông. Đây rõ ràng là hiện tượng bất bình thường và là hành động trái với lẽ thường bởi không có bất kỳ nước nào chấp nhận hành động này của Bắc Kinh. Thoạt nghe cụm từ “lưỡi bò” có vẻ hài hước nhưng bản chất của nó phản ánh tham vọng mở rộng địa giới của Trung Quốc. Điều đáng chú ý là trên cái lưỡi bò vốn “không thể ăn được” ấy, người ta vẫn có thể nhận ra “phương pháp chế biến” của Bắc Kinh. Nếu dùng một cái que nướng xiên lưỡi bò này từ Đông sang Tây, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra Trung Quốc đang có ý đồ nhòm ngó hai quân cảng quan trọng là Cam Ranh của Việt Nam và Subie của Philippin.
Lịch sử đầy biến động của Vịnh Cam Ranh
Bất cứ một hải cảng tốt nào với địa thế của một vịnh nước sâu đều phải mang một dấu ấn lịch sử đầy biến động và Vịnh Cam Ranh cũng không phải là một ngoại lệ. Vào thời kỳ thực dân Pháp thống trị, Cam Ranh được Pari sử dụng làm cứ điểm trọng yếu của quân đội Pháp. Thậm chí, trong Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), hải cảng này cũng trở thành địa điểm neo đậu và tiếp vận của hạm đội Hải quân Nga. Tuy nhiên, do sức ép của đế quốc Nhật Bản và Anh, một đồng minh của Nhật thời kỳ đó, hạm đội của Nga gặp phải trở ngại khi tiếp vận nên hạm đội bị mất sĩ khí chiến đấu. Sau đó, Cam Ranh rơi vào tay Nhật Bản trong Chiến tranh Thái Bình Dương (1941-1945). Cuộc chiến Thái Bình Dương kết thúc, hải cảng này lại về tay người Pháp. Trong Chiến tranh Việt Nam (1960-1975), cảng Cam Ranh là một cứ điểm của quân đội Mỹ. Từ năm 1979 đến năm 2002, Liên Xô và tiếp đó là Nga, thuê lại Cam
Ranh từ Chính phủ Việt Nam. Qua chặng đường lịch sử dài, cảng Cam Ranh đã liên tục chứng kiến sự thay đổi chủ sở hữu đến chóng mặt.
Thực tế là từ giữa những năm 1980 đến nửa đầu những năm 1990, Trung Quốc cũng nhiều lần ngỏ ý muốn thuê Vịnh Cam Ranh, thậm chí còn hăm dọa Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam từ chối đề nghị này và tiếp tục cho Liên Xô và sau đó là hạm đội Thái Bình Dương của Nga thuê quân cảng này. Bởi lẽ nếu để Trung Quốc thuê Cam Ranh, Việt Nam có thể vô tình cung cấp một căn cứ địa để Trung Quốc phô trương mối đe dọa quân sự ngay trước mắt các quốc gia Đông Nam Á. Hơn nữa, từ những năm 1970, hai nước Việt- Trung xuất hiện những cuộc giao tranh trên biển và trên bộ. Đặc biệt, nguồn tài nguyên phong phú dưới đáy Biển Đông nhiều khả năng sẽ là mồi lửa cháy âm ỉ trong tương lai.
Việt Nam, vốn luôn có thái độ cảnh giác trước Trung Quốc, không đời nào có thể chấp nhận cho Trung Quốc thuê Vịnh Cam Ranh trong khi Trung Quốc đang ngày càng nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của quân cảng này.
Lẽ dĩ nhiên là Mỹ sẽ không đứng ngoài cuộc. Năm 1995, Việt Nam và Mỹ bình thường hoá quan hệ. Năm 2000, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và Tổng thống Mỹ thăm Việt Nam. Năm 2003, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam thăm Mỹ và tàu Hải quân Mỹ ghé hải cảng Việt Nam. Năm 2005, Thủ tướng Việt Nam thăm Mỹ. Năm 2006, tại cuộc Hội đàm cấp Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ- Việt, hai nước quyết định cử sĩ quan Việt Nam sang học tập tại Mỹ. Năm 2007, Mỹ sửa đổi quy chế buôn bán vũ khí quốc tế (ITAR) cho phép bán vũ khí không gây sát thương cho Việt Nam như rađa tuần duyên và máy bay tuần tra trên không, Năm 2009, hai bên đạt thoả thuận sửa chữa tàu chiến của Hải quân Mỹ. Năm 2010, tàu sân bay của Mỹ ghé thăm một hải cảng của Việt Nam và sĩ quan quân đội Việt Nam lên thăm tàu. Trong khi tâm lý e dè do từng là cựu thù trong Chiến tranh Việt Nam vẫn còn hiện hữu, Mỹ và Việt Nam đã nhanh chóng cải thiện quan hệ một cách đáng kinh ngạc.
Việt Nam vi đường lối ngoại giao đa phương
Năm 2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã nhấn mạnh đến mối quan hệ tốt đẹp Việt-Mỹ trước các tướng lĩnh trên tàu hậu cần của Hải quân Mỹ khi đó đang neo đậu tại Vịnh Cam Ranh. Tuyên bố trên của ông Panetta là nhằm kiềm chế Trung Quốc.
Trong bối cảnh đó, năm 2010, Việt Nam tuyên bố chính thức mở cửa cảng Cam Ranh cho các tàu quân sự như tàu sân bay và tàu ngầm nước ngoài neo đậu. Năm 2012, Việt Nam cũng cho biết sẽ chấp nhận để tàu chiến Nga neo đậu ở Cam Ranh. Một khi cả Nga và Mỹ đều sửa chữa và tiếp vận ở Vịnh Cam Ranh thì hiệu quả kiềm chế Trung Quốc là rất lớn.
Trong khi Ấn Độ đang cảnh giác trước sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc trên Ấn Độ Dương, Inđônêxia và Malaixia thì tuần tra ở vùng biển xa nhằm đối phó với Trung Quốc, còn Ôxtrâylia thì chuẩn bị nguy cơ Hải quân Trung Quốc tiến vào Nam Thái Bình Dương, hải quân các nước trong khu vực cũng đã bắt đầu để mắt đến Cam Ranh.
Rõ ràng, Vịnh Cam Ranh sẽ trở thành “giao lộ” quan trọng của hải quân các nước vốn đang lo ngại sự gia tăng sức mạnh của Hải quân Trung Quốc. Trung Quốc – hiện đang có một căn cứ quân sự ở đảo Hải Nam nằm rất gần với Vịnh Cam Ranh – không có lý do gì phải cần đến hải cảng này. Về điểm này có thể thấy rõ kế sách quyết đoán của Việt Nam là muốn tăng cường “phòng tuyến chung chống Trung Quốc” ở khu vực Bắc Biển Đông.
Mặc dù vậy, tại cuộc hội đàm cấp cao với Trung Quốc, Việt Nam cố gắng tránh xảy ra xung đột Việt-Trung như ký thoả thuận nguyên tắc về vấn đề trên biển hồi năm 2011. Thay vào đó, cả Mỹ và Trung Quốc bất kể thế nào cũng không muốn ở thế đối đầu hoặc đẩy tình hình căng thẳng lên quá cao. Chính “mối quan hệ có mức độ” với Mỹ và Trung Quốc như vậy đã đưa việt Nam vào thế phải thực hiện đường lối ngoại giao đa phương.
Hai quân cảng là chìa khoá cho thế trận “Việt Nam-Philíppin chung chiến hào”
Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, Vịnh Cam Ranh – chủ thể chính trong chiến lược ngoại giao đa phương của Việt Nam – từng mất đi tầm quan trọng về mặt chiến lược. Nằm ở phía bên kia Biển Đông là Vịnh Subie, một cứ điểm xuất kích của Hải quân Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam và cũng là căn cứ lớn nhất của Hải quân Mỹ ở châu Á. Năm 1991, Vịnh Subie đã đóng cửa theo yêu cầu của Philippin. Nhân cơ hội này, năm 1995, Trung Quốc bắt đầu tăng cường chiến lược bành trướng hải dương với việc cho xây dựng cơ sở quân sự trên đảo Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa. Giật mình trước động thái này của Bắc Kinh, Philippin nối lại các cuộc tập trận chung quy mô lớn Mỹ- Philíppin và Manila ngả theo quân đội Mỹ. Trong cuộc hội đàm cấp ngoại trưởng Mỹ-Philíppin năm 2011, phía Mỹ đã đồng ý viện trợ tăng cường trang bị cho quân đội Philippin. Manila có kế hoạch phát triển Căn cứ quân sự Subie trước đây thành một đặc khu kinh tế và xây dựng các khu nghỉ dưỡng phục vụ cho mục đích du lịch. Tuy nhiên, Bộ Quốc phòng Philippin lại tỏ ý “chờ đợi” nối lại hoạt động của Subie với tư cách một căn cứ quân sự. Manila cũng đang nhất trí với phương án sử dụng Vịnh Subie làm nơi neo đậu, tiếp nhiên liệu và sửa chữa tàu của Hải quân Mỹ.
Hai nước Việt Nam và Philippin đã ký bản ghi nhớ hợp tác quốc phòng năm 2010. Tại Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 2012, Philippin bất ngờ phê phán sự bành trướng trên biển của Trung Quốc khi yêu cầu “giải quyết một cách hoà bình” tranh chấp chủ quyền và khu vực.
Tổng tải trọng của các tàu chiến Trung Quốc gộp lại là trên 1,34 triệu tấn, vượt gấp đôi toàn bộ đội tàu hải quân của các nước Đông Nam Á cộng lại. Một vấn đề nữa là có nhiều nước thấy lo ngại trước sự bành trướng của Trung Quốc nhưng mỗi nước lại có một thế đứng và cách xử trí khác nhau đối với Bắc Kinh.
Dầu sao, một khi cả Hà Nội và Manila cùng tăng cường thế trận “Việt Nam-Philíppin chung chiến hào” đối phó với Trung Quốc, các cường quốc ở Thái Bình Dương như Mỹ, Nhật Bản và Ôxtrâylia sẽ phải tính chuyện sử dụng sao cho hiệu quả nhất cả hai quân cảng Cam Ranh và Subie trong thế trận này./.

1660. BIỂN HOA ĐÔNG VÀ BIỂN ĐÔNG: CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC CẦN LÀM GÌ ĐỂ HẠ NHIỆT?

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Sáu, ngày 1/3/2013

BIỂN HOA ĐÔNG VÀ BIỂN ĐÔNG: CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC CẦN LÀM GÌ ĐỂ HẠ NHIỆT?

TTXVN (Angiê 28/2)
Theo ông Kevin Rudd, cựu Thủ tướng và cựu Ngoại trưởng Ôxtrâylia, tình hình ở Đông Á lúc này là không bình thường. Trong khi xung đột lãnh thổ làm gia tăng căng thẳng ở các biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông), vùng này ngày càng khiến người ta nghĩ đến khu vực Bancăng cách đây 100 năm, nhưng là phiên bản biển.

Lý giải điều này trên tạp chí “Statafrik“, ông Kevin Rudd gọi đó là “thùng thuốc súng trên mặt nước”. Tâm lý dân tộc chủ nghĩa đang thiêu đốt các vùng lãnh thổ ở đây, đồng thời khiến không gian chính trị nội tại thu hẹp lại. Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản đang ở mức thấp nhất kể từ khi hai nước bình thường hóa vào năm 1972. Đầu tư và thương mại song phương giảm đáng kể và chính quyền các nước trong vùng đang mong mỏi bất kỳ một sự phát triển nào, dù là nhỏ. Mối quan hệ giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Việt Nam và Philippin cũng xấu đi đáng kể và tình hình này làm nảy sinh căng thẳng trong các tổ chức khu vực như Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Về an ninh, khu vực này chưa bao giờ lâm vào tình trạng mong manh kể từ khi Sài Gòn thất thủ năm 1975.
Tại Bắc Kinh, các vấn đề hiện nay với Tôkyô, Hà Nội và Manilla cũng rất được quan tâm, đồng thời là chủ đề chính trên các phương tiện truyền thông chính thức và các mạng xã hội, với lời lẽ thực sự hiếu chiến. Các vấn đề đó cũng bao trùm các cuộc tranh luận giữa lãnh đạo Trung Quốc và các vị khách đến từ nước ngoài. Mối quan hệ với Nhật Bản đặc biệt trở thành trọng tâm của gần như tất cả các cuộc thảo luận chính thức vì giới chức Trung Quốc tìm cách kiểm nghiệm sự thay đổi sâu sắc mà họ nghĩ là đã xác định được trong chính sách đối nội của Nhật Bản và về vị trí của Trung Quốc trong cuộc tranh luận tại Nhật Bản. Bắc Kinh không muốn các cuộc tranh cãi lãnh thô dẫn đến xung đột vũ trang, nhưng thể hiện rõ ràng rằng có một ranh giới đỏ không được vượt qua vì những lý do nội tại, và Trung Quốc sẵn sàng đề phòng mọi bất trắc xảy ra.
Giống như vùng Bancăng cách đây một thế kỷ, môi trường chiến lược ở Đông Á là phức tạp do vùng này bị chia rẽ bởi các liên minh, các mối quan hệ lâu đời và những thù hận chồng chất. Ít nhất có sáu nước hay thực thể chính trị có tranh cãi về lãnh thổ với Bắc Kinh. Ba trong số các nước đó là các đối tác chiến lược quan trọng của Mỹ. Đây là chưa nói đến nhiều tổ chức có chân rết ở mỗi nước trong số đó. Liên quan đến Trung Quốc chẳng hạn, Nhóm khủng hoảng quốc tế xác định chỉ riêng ở biển Nam Trung Hoa có tới 8 tổ chức như vậy.
Yêu sách lãnh thổ lại rất nhiều, giống như cái được mất về tài nguyên khoáng sản, biển và năng lượng. Mỹ nhìn chung vẫn tỏ thái độ trung lập, nhưng có nhiều đan xen giữa lợi ích cục bộ của các nước có liên quan và sự cạnh tranh chiến lược tổng thể giữa Mỹ và Trung Quốc và những đan xen đó là hoàn toàn không dễ kiểm soát. Như để làm cho sự việc phức tạp thêm, vùng Đông Á bị giằng xé mãnh liệt giữa hai trào lưu đối lập nhau. Một bên là các lực lượng toàn cầu hóa đang xích lại gần dân chúng, các nền kinh tế và các Nhà nước ở các nước này, còn gần hơn cả trong lịch sử. Bằng chứng là sự phát triển thương mại trong vùng hiện chiếm tới gần 60% lượng trao đổi hàng hóa trong các vùng lãnh thổ này. Bên kia là các lực lượng dân tộc chủ nghĩa nguyên thủy, thậm chí mang tính di truyền, vẫn luôn đe dọa làm tan nát vùng này.
Kêt quả là ở vùng này, ý nghĩ về một cuộc xung đột vũ trang – cho dù dường như trái ngược với lợi ích dân tộc hợp lý của các nước này vốn đang hưởng sự năng động kinh tế chưa từng thấy – trở thành chủ đề tranh luận gây lo ngại nhưng thông thường, do các cuộc xung đột lãnh thổ mới đây cũng như tâm lý thù hận văn hóa và lịch sử ăn sâu bén rễ trong tiềm thức con người. Hai thế giới hoàn toàn khác biệt cùng tồn tại ở vùng Đông Á đương đại này.
Rạn nứt đáng lo ngại nhất nảy sinh giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng như giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tháng 9/2012, Chính phủ Nhật Bản mua lại của một chủ sở hữu tư nhân ba hòn đảo thuộc Senkaku, một quần đảo nhỏ mà cả hai nước đòi chủ quyền (người Trung Quốc gọi là Điếu Ngư), về vấn đề này, Trung Quốc kết luận rằng Nhật Bản, nước trên thực tế kiểm soát các hòn đảo này về phương diện hành chính trong quãng thời gian dài nhất trong thế kỷ qua, dự tính tăng cường chủ quyền của mình ở đây.
Đáp lại, Bắc Kinh tung ra cái mà họ gọi là “kết hợp các cú đánh”: trả đũa về kinh tế, đưa tàu tuần tra biển vào các vùng tranh chấp, tập trận chung giữa các binh chủng quân đội và biểu tình rầm rộ, đôi khi đi liền với bạo lực, trước các tòa nhà ngoại giao hạy thương mại của Nhật Bản ở trong nước. Xuất khẩu của Nhật Bản sang Trung Quốc đột ngột giảm mạnh trong quý IV/2012. Bỏi lẽ Trung Quốc trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Nhật Bản, nên xuất khẩu suy sụp có thể sẽ tác động mạnh vào việc giảm tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản trong cùng thời kỳ đó.
Vào trung tuần tháng 12/2012, Nhật Bản khẳng định lần đầu tiên kể từ năm 1958 đến nay, máy bay Trung Quốc xâm phạm không phận Nhật Bản trên các hòn đảo tranh chấp. Sau một sự cố khác, Tôkyô đưa 8 máy bay chiến đấu F-15 đến các hòn đảo này. Hai bên chắc chắn đều không triển khai tàu chiến, nhưng mối lo ngại trước việc quân sự hóa gia tăng do khả năng quân sự được chuyển sang tàu kiểu hải giám.
Trong khi giới quân sự Nhật Bản ngày càng chủ trương không nhân nhượng, Thủ tướng Shinzo Abe, người lên nắm quyền từ trung tuần tháng 12/2012, tìm cách làm dịu những tuyên bố của mình trước công luận về Trung Quốc, có thể để cho nước này thấy ông muốn tìm kiếm một mối quan hệ ổn định. Ngoài ra còn có lá thư hòa giải của Nhật Bản được ông chuyển tới Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình, ngày 25/1 trong chuyến thăm Trung Quốc của lãnh đạo Công Minh Mới, đảng thành viên liên minh cầm quyền cùng với Đảng dân chủ tự do.
Đây là một bước đi được Bắc Kinh hoan nghênh, về công khai cũng như trong các cuộc tiếp xúc cá nhân, như tuyên bố của Tập Cận Bình ngay ngày hôm sau, đã cho thấy rõ. Trung Quốc đề nghị Nhật Bản chính thức thừa nhận có xung đột lãnh thổ để tăng cường vị thế chính trị và tư pháp của mình đối với tương lai của các hòn đảo này. Nhưng Trung Quốc cũng muốn bất đồng hiện nay không đe dọa an ninh trong vùng, để giữ gìn sự ổn định cần thiết cho mục tiêu hàng đầu của mình là cải cách kinh tế và tăng trưởng.
Như vậy, bầu không khí có thể dịu đi giữa Trung Quốc và Nhật Bản về ngắn hạn, nhưng thực tế ngoại giao và chiến lược về cơ bản vẫn không thay đổi. Cuộc tiến công ngoại giao chưa từng thấy của cả Thủ tướng Shinzo Abe lẫn Ngoại trưởng Nhật Bản, Fumio Kishida – cả hai đi thăm 7 nước Đông Á – cho thấy căng thẳng vẫn còn cao giữa hai nước. Thông báo hồi cuối tháng 1/2013 về việc thành lập lực lượng bảo vệ bờ biển đặc hiệt của Nhật Bản, bao gồm 12 tàu mới và 600 lính có nhiệm vụ chuyên trách bảo vệ quần đảo Senkaku, cho thấy vụ việc này con lâu mới được giải quyết.
Mối lo ngại hiện nay là không một nước nào có thể tự cho phép mình lùi bước trước dư luận ở trong nước. Trung Quốc cho rằng Nhật Bản đã xóa bỏ nguyên trạng, còn Nhật Bản nghĩ không liên quan đến phải nhân nhượng vì mình không có vấn đề gì liên quan đến chủ quyền. Như vậy, cả hai nước tiếp tục rình rập mọi hoạt động trên không và ngoài khơi và chỉ cần một sự cố nhỏ cũng có thể nhanh chóng làm cho tình hình xấu đi.
Để tránh xảy ra điều đó, cả hai nước có thể sẽ phải kiên trì lập trường của mình trước công luận vì lý do đối nội, đồng thời lùi từng bước và cùng một lúc trong việc triển khai lực lượng trên biển và trên không. Mọi thứ sẽ phải tuân theo một kế hoạch được thương lượng thông qua một bên thứ ba hay mạng lưới ngoại giao của chính hai nước, trong hậu trường. Nếu thương lượng bí mật như vậy vẫn chưa diễn ra (và dường như đúng là như vậy), cần phát động tiến trình đó vì lợi ích của cả hai nước.
Nhật Bản không nên lắp đặt bất kỳ một trang thiết bị nào, thiết lập bất kỳ một căn cứ nào cũng như không đưa bất kỳ người lính nào đến các hòn đảo này – vốn là những kế hoạch có lúc được Tôkyô dự tính – vì điều đó có thể sẽ khiến Bắc Kinh áp dụng biện pháp trả đũa, từ đó làm cho cuộc khủng hoảng trầm trọng thêm. Nếu các bước đi này có thể được thực hiện và tình hình ổn định trở lại, lúc đó cần tính đến việc về lâu dài, mỗi một thể chế môi trường quốc tế chuyên nghiệp quản lý các hòn đảo này và các vùng phụ cận, đồng thời thống nhất để tàu của hai nước không vào gần quần đảo này nữa.
Yêu sách lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa còn phức tạp hơn. Theo một số cơ quan của Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc khẳng định vùng biển này có trữ lượng tới 213 tỷ thùng dầu mỏ (gấp 10 lần trữ lượng của Mỹ, nhưng các nhà khoa học Mỹ không tin điều này) và 25.000 tỷ mét khối khí đốt (nhìn chung bằng trữ lượng đã được khẳng định của Cata). Biển Nam Trung Hoa cũng chiếm tới 10% lượng cá đánh bắt được hàng năm trên thế giới. Vùng này hiện là nơi diễn ra các cuộc thăm dò gây tranh cãi về nguồn tài nguyên năng lượng ở vùng biển sâu. Hoạt động đánh bắt cá cũng gây ra nhiều vụ đối đầu giữa các tàu. Hơn nữa, không giống như ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, nhiều hòn đảo ở biển Nam Trung Hoa đã có lính đóng doanh trại và căn cứ hải quân. Sáu bên, trong đó có Đài Loan, có yêu sách lãnh thổ đối với vùng này. Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xung đột nghiêm trọng nhất. Hai nước đã đụng độ nhau về vấn đề này vào các năm 1974 và 1988 và đã tiến hành chiến tranh ở biên giới. Tháng 5/2011 một quan chức cấp cao của Hà Nội tóm lược rất rõ ràng mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rằng: “Hai nước là bạn cũ và kẻ thù cũ của nhau”.
Hiện nay, Trung Quốc rõ ràng có lợi thế hơn Việt Nam về phương diện kinh tế, đến mức một quan chức Việt Nam mới đây nhấn mạnh không úp mở rằng Trung Quốc có thể đơn giản đánh sập nền kinh tế Việt Nam nếu họ muốn. Nhưng không nên từ đó suy ra rằng, xét về tâm lý thù hận lịch sử, sự phụ thuộc về kinh tế đó có thể có khả năng ngăn chặn mọi hành động ngoại giao hay quân sự của Việt Nam trong vấn đề biển Nam Trung Hoa.
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc xấu đi kể từ khi tàu đánh cá Trung Quốc cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Việt Nam vào tháng 5/2011, rồi tháng 12 cùng năm đó. Theo hãng Reuters, Việt Nam sau đó tuyên bố bắt đầu từ tháng 1/2013 sẽ triển khai tàu dân sự được cảnh sát biển hộ tống để ngăn chặn tàu nước ngoài thâm nhập vùng lãnh hải của mình. Ấn Độ, đối tác của Việt Nam trong một số dự án thăm dò, cũng nói sẽ tính đến việc đưa tàu đến biển Nam Trung Hoa để bảo vệ lợi ích của mình.
Cùng lúc đó, tỉnh Hải Nam của Trung Quốc cảnh báo từ năm 2013, tàu bảo vệ bờ biển của địa phương này bắt đầu chặn, khám xét và xua đuổi tàu nước ngoài xâm phạm vùng lãnh hải của Trung Quốc, kể cả trong các vùng biển tranh chấp. Những thông báo không giống nhau này về phương thức khám xét tàu thuyền nước ngoài, vốn mâu thuẫn nhau, cho thấy năm 2013 sẽ còn xảy ra xung đột lớn. Việt Nam và Trung Quốc đang rình rập nhau và những người theo dõi chặt chẽ tiến triển mối quan hệ này lo ngại sẽ lại xảy ra xung đột vũ trang.
Để tránh leo thang, đã đến lúc Bắc Kinh và Hà Nội phải nhượng bộ nhau. Hai nước trước hết cần thống nhất với nhau để xác định vấn đề cần ưu tiên là soạn thảo bộ quy tắc ứng xử rất được mong đợi giữa ASEAN và Trung Quôc ở biến Nam Trung Hoa, một văn bản phải bao gồm cả các dự án khai thác nguồn năng lượng chung trên một vùng lãnh thổ mà hai nước tranh chấp, Chính phủ hai nước cần xác định một dự án chung duy nhất và bắt đầu thương
lượng cụ thể phương thức thực hiện. Nếu điều đó là quá khó, hai nước cần tham khảo nhau để hoạch định một dự án đánh bắt cá chung trong một vùng duy nhất được xác định rõ ràng. Điều sẽ cho phép quên đi những vấn đề chủ quyền nhạy cảm hơn là vấn đề khai thác tài nguyên.
Nói cách khác, bắt đầu xây dựng lòng tin bằng cách hợp tác trong một dự án thực sự hay hơn là chờ đợi cuộc thương lượng qua con đường ngoại giao vốn phức tạp của bộ quy tắc ứng xử kết thúc. Nếu cách tiếp cận này mang lại kểt quả, một số dự án phát triển chung giữa hai nước có thể được thực hiện với một số nước khác nếu họ muốn.
Nhưng tất cả điều đó cũng có thể không thực hiện được. Chủ nghĩa dân tộc có thể sẽ thắng thế. Các nhà hoạch định chính sách có thể bằng lòng để cho sự việc tự diễn biến như họ đã làm cách đây một thế kỷ. Trong cuốn sách mới nhất của mình có tựa đề “The Sleepwalkers: How Europe Went to War in 1914″, nhà sử học Christopher Clark thuật lại chủ nghĩa dân tộc nhỏ nhen ở khu vực Bancăng kết hợp với trò chơi chính trị của các cường quốc và sự thiếu khéo léo ngoại giao của các nhà lãnh đạo lúc đó, đã dẫn đến vụ thảm sát trên quy mô lớn trong Chiến tranh thế giới thứ Nhất.
Vào thời kỳ đó, toàn cầu hóa kinh tế còn sâu rộng hơn hiện nay và chính phủ các nước châu Âu, cho đến năm 1914, cho rằng một cuộc chiến tranh trên toàn châu Âu là không thích hợp và như vậy là không thể nổ ra. Theo cựu Thủ tướng Kevin Rudd, có lẽ chiến tranh sẽ không nổ ra trên toàn châu Á. Nhưng đối với người dân trong vùng đang phải đối mặt với căng thăng leo thang ở các biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa, lịch sử châu Âu là một lời cảnh báo đáng được suy ngẫm./.

Tin Chủ Nhật, 03-03-2013

CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Hoan hô Đà Nẵng! Sẽ Tưởng nhớ ngày hải chiến Trường Sa năm 1988 (TT). Hy vọng sẽ không có chỉ đạo ngầm nào cản trở hoạt động này, hoặc hạn chế đưa tin.  - Chương trình “Tháng ba biên giới”: Muốn ổn định phải có biên giới vững chắc. – Nhà văn Trường Thanh: Ông cố vấn trở thành Chính ủy (TP)  - Còn màn này của đoàn “quốc doanh” thì chỉ nặng hình thức: 10.000 lá cờ cho ngư dân và Trường Sa (TT).
1- Trao hơn 10 tỉ đồng để huyện Trường Sa xây trường học ở đảo (PLTP). - 12 tỉ đồng xây trường cho học sinh Trường Sa (TN).
<- Mưu đồ Trung Quốc in đậm trên đồ dân dụng (ĐV).
- Báo Trung Quốc: Không nên dọa dẫm láng giềng (VnMedia). – Tàu Trung Quốc gia tăng hoạt động tại Biển Đông (RFI). Đội tàu dân sự này vừa nhằm bảo vệ ngư dân Trung Quốc vừa nhằm ‘ngăn chặn không cho các quốc gia ven biển thực hiện quyền chủ quyền trong vùng biển tranh chấp được khoanh trong tấm bản đồ chín đường gián đoạn hình chữ U’ đã được Bắc Kinh công bố”.
Bắc Kinh công kích Nhật trước thềm Chính hiệp (DT). - Tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư: “Thùng thuốc súng” đáng sợ (ANTĐ).
- Sâu sắc 40 năm quan hệ Việt-Nhật (VnMedia).
- Ngân sách Mỹ bị cắt giảm nhưng chiến lược “trục” châu Á [vẫn] tiếp diễn (RFI). – TQ tiếp tục tăng ngân sách quốc phòng (BBC). “Với thái độ hiện nay, Trung Quốc sẽ không cho nước nào bắt nạt được mình”. Không lẽ Việt Nam đang bắt nạt TQ? - Những sát thủ trên biển (TN).
Bộ trưởng Quốc phòng Nga “thị sát” căn cứ Cam Ranh (ĐV).
- Trần Gia Phụng: Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (1) – Tương quan lực lượng   –   Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (2) – Chiến trận (ĐCV).
Quân đội không thể và không nên trung lập” – Lịch sử đã cảnh báo (TCCS). “Quân đội luôn là một lực lượng chính trị, một bộ phận đặc biệt quan trọng của chính quyền nhà nước. Mọi điều kêu gọi trung lập hay chia tách sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền đối với quân đội đều là vô nghĩa, phản khoa học, kéo theo những tư tưởng chính trị phản động. Điều này đã được lịch sử chứng minh”. Ngụy biện! Không ai chia tách sự lãnh đạo của đảng cầm quyền với quân đội mà mọi người muốn đảng phải trả quân đội về đúng vị trí, đúng nhiệm vụ của quân đội: đó là bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân, thay vì bảo vệ đảng. Nếu quân đội chỉ bảo vệ cho một đảng phái nào đó, trong trường hợp cái đảng đó phản bội lại lợi ích của dân tộc thì sao? Quân đội vẫn tiếp tục bảo vệ đảng đó à?
- Quân đội phải trung với nước và Tổ Quốc (Phi Vũ). – Sự xấc xược không phải tình cờ (Tổ Quốc) (Thông Luận). “Mục đích của điều 70 là để ngăn cản Nguyễn Tấn Dũng đảo chính nhân danh tổ quốc và nhân dân. Những người viết dự thảo này hy vọng với một hiến pháp đặt Đảng trước tổ quốc và nhân dân như thế không ai còn có thể lôi kéo quân đội đảo chính lật đổ ban lãnh đạo đảng được nữa”.
- Mai Thái Lĩnh: Lộ trình xây dựng một Hiến pháp dân chủ (BoxitVN).
- Nguyễn Chính Kết: BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP LÀ TỰ SÁT, HAY KHÔNG BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP MỚI LÀ TỰ SÁT ? (TNM). “Rất mong các ông lãnh đạo chế độ và Quốc hội CSVN hãy tỉnh táo sớm bãi bỏ điều 4 hiến pháp và những điều phi lý khác trong hiến pháp, đồng thời sớm thực hiện chế độ dân chủ đa đảng khi mấy ông còn nắm quyền và còn có thể làm được cho toàn dân nhờ. Các ông không chịu làm những điều đó thì mới chính là tự sát”.
- BS Nguyễn Đan Quế: ĐÃ ĐẾN LÚC HUỶ BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP (Quỳnh Trâm).  – Bốn không hay không Bốn? (Người Việt). “Không Bốn” thì chết từ từ rồi sẽ tỉnh lại, còn giữ “Bốn” lại càng chết sớm, chết không kịp ngáp kiểu Gaddafi hay Saddam Hussein, lại còn để tiếng dơ cho muôn đời sau, như Gaddafi bị lôi lên từ ống cống, hay Saddam Hussein trốn chui, trốn nhủi không khác gì con chuột bị lôi ra từ cái hầm. Nên hiểu rằng sức chịu đựng của người dân có giới hạn, không nên tiếp tục thử khả năng chịu đựng của người dân nữa, dồn ép dân quá sức, cũng giống như cái lò xo, bị nén quá nhiều thì sức bật sẽ rất lớn.
- Hoàng Đạo Sử: NẾU ĐẢNG ĐƯA ĐƯỢC VIỆT NAM LÊN THÀNH “CON RỒNG” CHÂU Á THÌ CHẲNG AI LẠI ĐÒI HỦY ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP ! (Phạm Viết Đào).
- Quyền nhân dân trong quy trình, thủ tục lập hiến (VTC). – Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992: Nhân dân cần có quyền được phúc quyết Hiến pháp (báo Đồng Nai). Phúc quyết bằng cách nào đây khi mà mọi góp ý đều phải theo ý của đảng và nhà nước, còn nói khác đi thì bị biến thành “các thế lực thù địch”, rồi đòi “xử lý” người ta?  – Suy thoái hết cả rồi! (Hành Nhân). – ĐỂ DÂN PHÚC QUYẾT Ư? THÌ ĐÂY, ĐẢNG ĐANG ĐỂ DÂN GÓP Ý ! (TSYG). – TẬN CÙNG CỦA NGỤY BIỆN (Quỳnh Trâm).
- Hoàng Văn Vương: Ý kiến cá nhân về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam (Điều 4) (BS).   –  HAI XE ÔM ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP (Phạm Viết Đào). – Xin các ngài hãy đặt mình là một người Việt Nam bình thường, lắng nghe những ý kiến khác biệt (DĐCN). – Video: Góp ý sửa đổi hiến pháp 1992 – 01/03/2013 (VTV).
- Thư giãn: Lời kêu gọi ký tên vào bản kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992 (Dân Luận). “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn quyền con người, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, Đảng CSVN càng lấn tới, vì họ quyết tâm ngăn cấm chúng ta lần nữa!  Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, nhất định không để đất nước tụt hậu.  Hỡi đồng bào!  Chúng ta phải ký tên [vào bản kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992]!…Hễ là người Việt Nam thì nên ký tên vào bản kiến nghị để đòi quyền dân chủ”.
2
- Nhật ký mở lại (mở lần thứ 34): BÁO ĐỘNG! BÁO ĐỘNG! LŨ THÚ PHÁT CUỒNG! ĐỒNG BÀO CẨN THẬN (Nhát sỹ Tô Hải). “Đã đến lúc: ĐỒNG BÀO HÃY ĐỨNG LÊN! AI CÓ GẬY DÙNG GẬY! AI CÓ DAO DÙNG DAO! CÓ GẠCH ĐÁ DÙNG GẠCH ĐÁ CHỐNG LẠI KHI BỌN CHÚNG RA TAY KHỦNG BỐ ĐỒNG BÀO!” – Ha Ngoc – “Đảng ta vĩ đại thật” (Dân Luận). Tiếp tục đổi mới để tiếng lên! =>
- Trang Cùng viết Hiến Pháp có mở mục Khảo sát về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Khảo sát này gồm 27 câu hỏi multiple choice, có câu chỉ có 1 lựa chọn, có câu được chọn nhiều câu trả lời khác nhau. Ngoài ra còn có câu cần điền vào câu trả lời, như câu này: “Nếu được thêm một điều vào Hiến pháp thì bạn thêm điều gì?” Đây là câu trả lời của BTV để các độc giả tham khảo: “Người dân phải được quyền bầu trực tiếp lãnh đạo đất nước và lãnh đạo địa phương, cũng như được quyền bầu những người đại diện cho mình như nghị sĩ, ĐBQH. Ngoài ra, người dân được quyền bỏ phiếu các sắc lệnh, các dự luật ảnh hưởng đến đời sống của dân”. BTV xin góp ý với người set up mục khảo sát này: để có kết quả chính xác, mỗi người chỉ nên làm khảo sát 1 lần. Hãy tìm cách block cookie và block IP address như mục thăm dò của chúng tôi trên blog này, nếu không các “dư luận viên” sẽ tham gia liên tục, mỗi người làm vài chục lần/ ngày, kết quả sẽ không đúng.
- Việt Nam : Lời tuyên bố của các công dân tự do (RFI).  – Hàng ngàn ‘công dân t do’ đòi tuyn c lp hiến Vit Nam (Người Việt). - ĐÃ CÓ 2.100 NGƯỜI KÝ TÊN TUYÊN BỐ CÔNG DÂN TỰ DO (Huỳnh Ngọc Chênh).
“Ngày D” của Tổ quốc Việt Nam đã điểm? (DLB).
Thư gửi Bọ: Bọ phải nghe câu ni nì Bọ: Quay đầu là bờ, Bọ ơi (Cu Làng Cát).
- Phạm Hồng Sơn: ‘Góp ý hiến pháp: hơn một sự ngộ nhận’ (BBC). Cho tới bài “bút đàm” này thì càng rõ hơn về Phạm Hồng Sơn, sau vài lời phi lộ cho bài của Phạm Thị Hoài mà bữa qua chúng tôi đã nhắc lại. Ngoài việc dùng thứ từ ngữ lập lờ như lần trước, PHS còn đẩy cao hơn, miệt thị và xuyên tạc bản chất việc làm của những người khởi xướng Kiến nghị 72, khi anh ta chụp cho nó hai chữ “khấu đầu”. Mặc dù cũng đã “học” được chút ít sau khi lĩnh hội khá nhiều phân tích trên mạng tự do về ý nghĩa của đợt tranh đấu liên quan sửa đổi Hiến pháp này, ví như thừa nhận sự “tăng cường hiểu biết”, “tập dượt” cho người dân, song PHS lại vẫn tỏ ra ngây thơ quá độ, làm chúng tôi không khỏi nghi ngờ, khi cho là mục tiêu của mọi người tham gia kiến nghị chỉ có vậy.
Đến như những câu hỏi gợi ý sát sạt của BBC, như truy vấn, đòi hỏi một quan điểm chính trị mạch lạc, cũng chỉ làm cho PHS thêm cố gắng ngụy biện khi thổi phồng thực tế, cho rằng giới lãnh đạo ở VN “đã chuẩn bị xong những bước đầu tiên cho sự truyền ngôi cho thế hệ con cháu của họ”, cứ như thể với vài ba cái ghế sắp xếp cho các “con ông cháu cha” vừa qua, mọi người dân VN này sẽ chẳng còn làm gì được nữa ngoài việc ngồi đó than vãn và thúc thủ, một phần vì tin vào “tiên đoán” ngon lành của anh ta cho tương lai VN là “các phe phái độc tài sẽ thay nhau nắm quyền sắt đá” như ở nước Nga. Càng rõ thêm khi PHS chẳng đưa ra được một phương cách gì cho người dân VN để cải thiện tình hình. Chính điểm này giúp phân biệt một con người cấp tiến thực sự với một kẻ … “giả bộ cấp tiến”, để có ngày sẽ đi tới kết luận có hay không một “nhà đấu tranh dân chủ cuội“. (Bổ sung,  phải viết thêm đoạn này vì có độc giả – D.Nhật Lệ đã vội cho là đoạn văn “để có ngày … dân chủ cuội”“hơi có phần chụp mũ”: xin mời đọc lại kỹ, nhất là mấy chữ “để có một ngày”“có hay không”. Lạ hơn, là khi chúng tôi mới chỉ hoàn toàn bình luận về nội dung bài viết, thậm chí chưa khẳng định bản chất con người, làm sao có thể nhận định dễ dãi là “tính chuyện chia rẽ”? Ai “chụp mũ” ai ở đây? Không lẽ lại phải đặt nghi vấn ngược lại với chính độc giả này, bằng từ “chia rẽ” đó, hay sao?).
Lại nữa, tương tự Phạm Thị Hoài, làm như ngây ngô cho là ở Đức người ta không lấy ý kiến nhân dân, không có trưng cầu dân ý cho sửa đổi Hiến pháp, thì ở VN hà cớ gì phải đòi cho dân quyền phúc quyết hiến pháp, Phạm Hồng Sơn đã đem nước Anh ra so sánh về việc có cần “bản văn hiến pháp” hay không; như cố tình không đi cụ thể vào vấn đề khi biện luận, mà chỉ loanh quanh gây lóa mắt người đọc bằng đôi ba kiến thức vặt “Đông Tây kim cổ” làm lạc hướng chủ đề. Cụ thể đó là:
+ Hiến pháp 1992 và bản Dự thảo sửa đổi hiện nay đang mang trong nó những nội dung tệ hại, cần bỏ nó, sửa đổi nó, và người dân đang, sẽ đấu tranh liên tục nhiều năm tới, bất chấp nó sẽ được thông qua theo cách nào;
+ trò “lấy ý kiến nhân dân” thực chất là dối trá, nhưng phải vạch trần bằng nhiều cách, để sẽ có hàng triệu người dân chưa hiểu rồi dần hiểu (và đã có ngay kết quả cho những ai từng mơ hồ, ảo tưởng về một ông TBT “lú nhưng mà tốt”);
+ giới bảo thủ, thủ lợi cố níu giữ quyền lực độc tôn ẩn nấp sau những mỹ từ dân chủ, trà trộn giữa những người tử tế, đang cực kỳ lo sợ bị lộ mặt, vậy cần phải vạch mặt, cũng để khích lệ, bảo vệ những nhân tố tiến bộ nằm ngay trong hệ thống;
+ người dân cần hiểu nhau, hiểu những trí thức, nhân sĩ, cán bộ đảng viên có thể dám dấn thân đứng về phía họ; có như vậy chúng ta mới có những người như Nguyễn Đắc Kiên;
+ người dân cũng cần những động lực, cơ hội để được gắn bó với nhau, đây là cơ hội hiếm có (phong trào lấy chữ ký ủng hộ Nguyễn Đắc Kiên là minh chứng tiếp sau việc lấy chữ ký cho bản Kiến nghị 72); … và còn nhiều lý do nữa, 
song những điều này đã bị PHS … “quên”.
Gắng đọc qua phần 2, cũng không có gì rõ hơn ngoài những lời khuyên dạy chung chung kiểu chúng ta phải thế này, phải thế kia, như “chúng ta cần thẳng thắn hơn với ĐCSVN và thành thật hơn với bản thân mình“, rồi “giới tinh hoa hôm nay cần phải mạnh dạn hơn trong việc khẳng định tư cách độc lập”, cùng lối diễn giải méo mó tình hình thực tế, trích dẫn què cụt vài quan điểm đấu tranh qua bài viết của vài người.
Nhưng … dù sao, cố tìm kiếm thì cũng thấy được một giải pháp cụ thể duy nhất nghe như mơ, đó là PHS “khuyên khéo” hàng triệu người bỏ đảng. Nói nó “mơ” là ở chỗ PHS đã chẳng cần biết làm thế nào mà tự nhiên có được con số hoành tráng đó, nếu như không có những cuộc tranh đấu, như với việc đưa ra Kiến nghị 72, cùng rất nhiều bài viết, ý kiến, lời kêu gọi liên quan, mà PHS đang bài bác kia. Nói nó “mơ” bởi vì trên cả thế giới này, chẳng có một nơi đâu, thời nào người dân chỉ đấu tranh bằng mỗi một phương cách theo kiểu “ảo tưởng qua một đêm” như vậy cả.
Ngoài ra, vài ba “giải pháp” như đòi hỏi tự do báo chí, tham dự phiên tòa, v.v.. đều là những thứ đâu phải không có ai làm, chưa làm? Và còn nhiều điều nữa để nói, nhưng tệ nhất về kiến thức (nếu như đúng là chỉ vì kiến thức) của PHS khi anh ta cho rằng dẫu có được “một bản Hiến pháp tuyệt vời đến mấy” thì nó cũng “mới chỉ là giấy”. Nó “tệ” thêm nữa và nực cười là chính PHS đã mâu thuẫn với chính mình, với ngay nội dung trước đó, khi khen ngợi, khích lệ bản Tuyên bố năm ngoái, trong đó đòi hỏi “bỏ điều 88″ trong luật Hình sự, mà quên là dẫu có bỏ được thì theo quan điểm của chính anh ta, nó cũng “mới chỉ là giấy”. 
3<- Vừa xong lời bình trên thì chúng tôi nhận được đường link giới thiệu bài viết của Nhà văn Bùi Mai Hạnh từ Úc, đăng trên Nhịp cầu thế giới, như góp phần bổ sung thêm: CHỮA BỆNH HÈN TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN.
ĐỀ NGHỊ ĐẶT LẠI TÊN NƯỚC LÀ “VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA” (Nguyễn Trọng Tạo). Thấy thấp thoáng bóng cái đầu hói của ông Chủ tịch Quốc hội ở đây, tự nhiên phải đặt dấu hỏi: liệu có phải là một màn vừa xoa dịu dư luận, vừa đánh lạc hướng, cùng lắm thì dùng nó như một thứ “thỏa hiệp” nho nhỏ duy nhất với dân khi đã bị đẩy tới chân tường?   – Và đây nữa là những lời dối trá: CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NGUYỄN SINH HÙNG: Không cấm, không chặn các ý kiến khác (PLTP). Có lẽ các vị khởi xướng bản Kiến nghị 72 cũng nên chuẩn bị cho công luận cả nước biết ông này đã diễn những màn “vận động vỉa hè” ra sao, ngoài thông tin mới đây của Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo liên quan cựu bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc.
-  “Không tạo kẽ hở khiến quyền con người bị lợi dụng” (GDVN). - Góp ý sửa đổi hiến pháp: Lắng nghe dân cho đến khi Quốc hội giơ tay biểu quyết (TN). - Các quyền tự do ghi trong Hiến pháp sẽ được thực thi (PLTP). - Cần đưa quyền, nghĩa vụ của tuổi trẻ vào Dự thảo Hiến pháp  (VOV). – Bài của Nguyễn Viết Thông trên Nhân dân, VOV đăng lại: Tính hợp lý của Ðiều 4 trong Dự thảo Hiến pháp (sửa đổi).
- Vì sao phải đi đến tận cùng của sự thật? (Caybay Thiem). – Mời xem lại bài của TS Hà Sỹ Phu: Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân (BVN/ BS).
- Phan Văn Song: ĐẦU XUÂN BÀN CHUYỆN VIỆT NAM VỚI TUỔI TRẺ – KỲ 2: QUÁ KHỨ ANH HÙNG, TƯƠNG LAI MỜ MỊT (TNM).  – NGHĨ QUẨN … (Võ Trung Hiếu). “Ở một đất nước người dân không buồn lên tiếng/ Thậm chí nhiều người không thèm đọc báo nghe đài/ Không hề là chuyện đùa/ Hẳn phải có lý do…/  Ở một đất nước mà đi đâu cũng nghe hai từ ‘nhân dân’/ Nhưng Hiến Pháp được hàng nghìn người yêu cầu viết lại/ Không hề là chuyện đùa/ Hẳn phải có lý do…/  Ở một đất nước mà nhân tài không buồn cống hiến/ Nhiều cuộc tuyển chọn kết quả đến từ cửa sau/ Không hề là chuyện đùa/ Hẳn phải có lý do…
- Video: Đại biểu QH không tiếp những người mặc áo đỏ (Quang Huy). – Sao nỡ quay mặt lại với dân? (Phe áo đỏ).  - Đa sở hữu đất đai: Tại sao không? (Nguyễn Vạn Phú). – Không được tổ chức cưỡng chế trong đêm (VnMedia). “Không tiến hành cưỡng chế thu hồi đất trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau. Không tiến hành cưỡng chế trước và sau Tết Nguyên Đán 15 ngày, trong các ngày nghỉ, ngày lễ khác… là những điểm mới được quy định trong Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 64…”
- Hoan hô báo QĐND đã “tự diễn biến” khi giới thiệu Cuốn tiểu thuyết kinh điển của George Orwell đến tay độc giả Việt. – Độc giả Q.M. méc: bài trên báo QĐND đã biến mất, hiện chỉ còn trên baomoi.com, bà con nhớ lưu lại. – Mời xem lại: George Orwell – Trại súc vật (Phạm Nguyên Trường). - Hoan hô thêm tạp chí VNQĐ đã vinh danh nhà văn George Orwell: Ngày George Orwell sẽ được kỷ niệm hàng năm.
- Lê Xuân Khoa: Việt Nam 1945-1995 – Chương 10: Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia (BS). Đây là chương cuối của quyển sách. Sau chương này sẽ còn đăng thêm một số phụ lục, là những thông tin quan trọng, có thể nhiều độc giả chưa biết, như: “Thư của TT Lyndon B. Johnson gửi Hồ Chí Minh và thư trả lời của Hồ Chí Minh”; “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất – XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO”, của LS Nguyễn Mạnh Tường”; 2 tờ chiếu của vua Bảo Đại; Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, VN… GS Lê Xuân Khoa đang viết tiếp cuốn 2, hiện GS tuổi đã cao, hy vọng thời gian cho phép, nếu GS sống hơn 100 tuổi, biết đâu xong cuốn 2 sẽ còn tiếp cuốn 3?
- Nhà thờ Thái Hà đêm 2-3-2013: Thắp nến cầu nguyện cho anh em luật sư Lê Quốc Quân (Dân Luận). - Lễ cầu nguyện cho Luật sư Lê Quốc Quân và gia đình (Nguyễn Tường Thụy).
Tương đồng và khác biệt giữa dự án bauxite Tây Nguyên và dự án nhà máy điện hạt nhân (BoxitVN). - Tư liệu liên quan đến bản Kiến nghị 2009 (13). - Bô–xít Tây Nguyên: Cận cảnh nhà máy Tân Rai (KT).
- Ai sợ ai?  –   Bữa tiệc nào rồi cũng đến lúc tàn!  –   Liệu Hội Nghị 6 có lặp lại? (VLB).  – Tướng Hưởng về hưu, có chi mà ồn ào? (Quê Choa). “Một lần mình hỏi ông bạn nhà báo rất thân quen ông Hưởng, nói ông Hưởng là người thế nào? Ông nhà báo này ngẫm nghĩ hồi lâu, nói hồi mới gặp mình gọi bằng ông, quen rồi mình gọi bằng anh, bây giờ thì ngay cả khi trước mặt hắn mình cũng gọi bằng thằng”. – TƯỚNG HƯỞNG VỀ HƯU NHƯNG SẼ KHÔNG CÓ LƯƠNG HƯU ?! (Phạm Viết Đào). Bao năm vơ vét đủ rồi, cần gì lương hưu, mấy đồng bạc lẻ?
- ‘Được’ hay ‘bị’ về hưu? (VNN). - Tăng tuổi nghỉ hưu: Coi chừng lợi ích nhóm (PLTP).
- “Quái vật” tham nhũng và những nạn nhân: Kỳ 3: “Tất cả vì tương lai con em chúng ta” (TT). Mời xem lại: Kỳ 1   –   Kỳ 2.
4
Gia đình Đoàn Văn Vươn được xây nhà ở nhưng không được xây… công trình phụ (PT). Hơn một năm rồi, mà chúng nó vẫn ngâm tôm không đưa ông Vươn ra xử. Ông Thủ tướng bó tay rồi ư?  Chính quyền xã Quang Vinh cho vợ con ông Vươn xây nhà ở nhưng không cho xây công trình phụ =>
TS Nguyễn Quang A: Vì sao chính sách tồi? (DV).
Xây dựng nông thôn mới phải lấy dân làm gốc (TN).
Không chê cười các ông mới lạ! (DT).
Cải cách giúp dân (TN).
Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực (TTXVN).
Hội chứng chửi dân lại ngóc đầu dậy (PLTP).
Màu mỡ truyền hình trả tiền (TN).
Tiếp tục đề xuất phạt xe không sang tên đổi chủ (TN). - Nhiều biển báo tốc độ là “bẫy” xử phạt (TT).
Rắc rối pháp lý của cô giáo chuyển đổi giới tính (TN). - Ðồng tính đang là vấn đề đương đại ở Việt Nam? (SKĐS).
- Bộ GT-VT vẫn muốn phạt xe không chính chủ (VTC). – Mũ bảo hiểm ‘xịn’, xuống cấp: Cũng bị phạt? (VTC).
- CÂU CHUYỆN CẢNH SÁT 2 (NP Nepal).
- HỌ SỐNG BẰNG CÁI ĐẦU NGƯỜI KHÁC ! (Bùi Văn Bồng).
- Bài điểm trong tin trưa hôm qua, nhưng blogger Phước Béo đã viết thêm phần cuối, nên điểm lại: Dư luận viên, vô dụng và hữu ích (Phước Béo).
- NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 16) (Nhật Tuấn).
- Chuyện tào lao: ĐỒ QUẸT KHU! (Faxuca).
- Bóng ma và hồn ma (Phi Vũ).
- Dân Hồng Kông phẫn nộ vì thái độ phục tùng Bắc Kinh của Jackie Chan (RFI). - Phóng viên điều tra Trung Quốc bỏ việc do sức ép (TTXVN). - Trung Quốc: Quyết tâm đổi mới (TP).
- Bêu rếu tử tội trên truyền hình : Đại cường Trung Quốc muốn dằn mặt (RFI). “… việc người nước ngoài sát hại 13 người Trung Quốc, được đại cường mới này xem là một sự đối đầu. Bắc Kinh đã cố dùng mọi cách để truy lùng cho bằng được các thủ phạm, thậm chí còn nghĩ đến phương án sử dụng máy bay không người lái vũ trang để bắn hạ họ. Cuối cùng thì Trung Quốc cho gởi một đội biệt kích đến Lào để bắt sống, với sự trợ giúp của chính quyền địa phương”.

Hai miền Triều Tiên đua nhau tập trận (TN). - Triều Tiên có bao nhiêu vũ khí hạt nhân và tên lửa? (PT).
- Dự luật in ấn tại Miến Điện bị lên án phản lại quyền tự do báo chí (RFI).
Nghị sỹ Nga phải từ nhiệm nếu sở hữu tài sản ở nước ngoài (TP).
KINH TẾ
- Tản mạn đầu Xuân: Câu chuyện kinh tế Việt Nam – Phần I (Nguyễn Đại Hoàng) (Anh Vũ).
5<- Nợ xấu bỗng nhiên về 6%: Đáng vui hay đáng ngờ? (VEF). - NHNN triển khai nhiều giải pháp thu hẹp khoảng cách giá vàng (Vietstock). - Nhiều khách hàng không được thông báo, không biết bị thu phí ATM nội mạng (Vietstock).
- Xung quanh vụ đề xuất đánh thuế thu nhập từ tiền gửi: 3 lý do khẳng định không thể đánh thuế thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm (GDVN). - Đánh thuế tiết kiệm, phá giá VND: Vội quên lãi suất cao? (VnEco). - Quốc hội đã từng bác đề xuất đánh thuế tiền lãi tiết kiệm! (PLTP). - Thu thuế tiền gửi tiết kiệm: Sáng kiến hay Tối kiến? (VOV). - Rõ là ”lợi bất cập hại”! (HNM).  Một kiến nghị thiếu hiểu biết, vô đạo đức (PLTP). - Chủ tịch HOREA lớn tiếng kêu đừng gửi tiền ngân hàng nữa (Sống mới).
- Một kiến nghị tai hại! (TBKTSG).
Chênh giá khi chuyển đổi vàng phi SJC vào túi ai? (VnEco). - Nhà đầu tư bi quan, giá vàng tuần tới khó tăng (DT). - Thị trường vàng tít mù rồi lại vòng quanh (ANTĐ).
Không khéo lại “béo” ngân hàng? (ANTĐ).
Cái bắt tay của 3 ‘ông lớn’ độc quyền (Sống mới).
Thu nhập đầu người của Việt Nam đạt 10.000 USD trong thập kỷ tới?  (DT).
Họp khẩn cứu con cá tra (PLTP).
Những thương hiệu Việt bị đánh cắp (VEF).
Sống chết mặc bay… (PT).
Du lịch ế ẩm (TN).
- Xung quanh vụ việc “sữa dê Danlait” của Pháp: Lỗi cũng tại các bà mẹ (PT).
Hàng Trung Quốc bủa vây người tiêu dùng (TN).
- Giá tiêu dùng ở Nhật tiếp tục sụt giảm (BBC). - Mỹ – Nhật: Kỳ vọng và thất vọng (VNE).
- Tư pháp Mỹ hủy bỏ gần một nửa số tiền phạt mà Samsung phải đền cho Apple (RFI).
VĂN HÓA-THỂ THAO
- Trần Quốc Vượng: VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM (Việt sử ký).
Tây Sơn thất hổ tướng – Kỳ 7: Vì dân, vì nước đâu phải vì ngôi báu (TN).
Phục hồi di tích Đông Khuyết đài tại Hoàng thành Huế (TN).
6Về Quảng Nam xem Lễ hội Bà Thu Bồn (PT). - Có những lễ hội… (PLTP). - Rộn ràng khai hội Đền Vạn (DT). =>
- Du Tử Lê: Tuấn Huy, nhà văn nhìn từ phía định mệnh (Người Việt).
Cuộc đối thoại của hai cá tính (TP).
Không chỉ là hoài niệm (TN).
- Sân khấu hài kịch phía Bắc: Chờ những nụ cười thâm thuý, tự nhiên (SGTT).
Phim Việt 2013 – Cạnh tranh khốc liệt (SGGP). - Khói lửa phim trường (PLTP). - Bậc thầy khói lửa Hollywood (PLTP).
“Ông bụt” họa sĩ (PLTP).
- HOÀNG YÊN LƯU: THẾ LỮ (Sơn Trung).
- Bãi biển quê hương tôi (Người Việt).
- PHAN: CHIẾC ĐỒNG HỒ BẠC (Sơn Trung).
- Văn học miền Nam: Văn xuôi Thanh Tâm Tuyền (Nhị Linh).
Chè chén vỉa hè (SGGP).
- TỊNH LẶNG “StillnessSpeaks” – Chương Một – Trần Sơn lược dịch (NQ&TD).
- Thần nhãn (ĐCV).
- Mùa ốc gạo (Hồ Trung Tú).
- Christophe, Thiên đường tìm lại nhân 50 năm sự nghiệp (RFI).
- Triển lãm phong lan thế giới ở New York (BBC).
- Giải Ảnh Vườn Quốc tế năm 2013 (BBC).
Bầu Đức, bầu Thắng còn gồng được bao lâu? (PLTP).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Nhiều quan điểm khác nhau trong xây dựng điểm sàn mới   –   Cùng giải “Bài toán điểm sàn”   –   Chỉ nên có một điểm sàn  –    Trường thuộc “tốp trên” nên lấy điểm cao hơn   –    Phổ điểm từng môn thi là căn cứ quan trọng xác định điểm sàn  (GD&TĐ).
- Nghĩa vụ quân sự: Phải công bằng! (NLĐ).
‘Bẻ cong’ NĐ Chính phủ: Quan chức Sở ‘đi vắng, có việc gấp’ (GDVN).
7<- Thầy Cao Huy Thảo – Hiệu trưởng trường THPT Quốc tế Việt – Úc: “Lợi bất cập hại” khi đầu tư không mục đích rõ ràng! (LĐ).
GS Chu Hảo:Sẽ cho ra lò những “thợ” văn nghệ vô cảm? (ĐV). Cái tựa không ổn!
Người “trồng hoa” trên đỉnh Phá Đánh (SGTT).
Cậu học trò không ngón tay (TT).
Choáng với lời chửi bố tục tĩu của nữ sinh (VNN).
- Ba bước để viết một bài luận (NLĐ).
- Hiệu quả của sản phẩm khoa học là cốt lõi (TVN).
- Người Việt nhận giải thưởng khoa học cao quý nhất của Đức (VnMedia). – PGS Viện Quân y 108 nhận giải thưởng khoa học cao quý nhất của Đức (GDVN).
- Thừa Thiên Huế: Tổ chức thành công cuộc thi KHKT dành cho HS (GD&TĐ).
- Trục trặc kỹ thuật gây trì hoãn cho phi thuyền Dragon (VOA).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
8Tỷ lệ trẻ Việt Nam thiếu vitamin cao nhất khu vực (Sống mới).
Vụ vớt được gỗ huê dưới sông Son: Đã bán trót lọt ? (TN).
Đề nghị ngưng thu mua ồ ạt lá cây giá tỵ (TN).
- Trà chanh “chém gió” pha hóa chất vẫn đắt khách (KT/ VEF). =>
Cây cầu của ông Dũng (TT).
Coi bói bỏ việc, bỏ người yêu (TT).
Hà Nội: Xông vào nhà cướp iPhone, iPad trên tay cháu bé (VNE/GDVN).
Mại dâm nơi đất khách: Những mảnh đời trôi nổi (ANTG).
Bé gái 8 tuổi lái ô tô trên đường tuyết (BBC).
Tai nạn Fukushima làm tăng nguy cơ ung thư (RFI).
QUỐC TẾ
- Giao tranh ác liệt tại Syria, nhiều binh sĩ và quân nổi dậy thiệt mạng (VOA). – Ngoại trưởng Syria tố cáo Mỹ áp dụng tiêu chuẩn đôi (VOA). - Ngoại trưởng Syria đến Iran (TN). - Các binh sĩ bị thương của Syria được điều trị ở Iraq (TTXVN).
Thủ tướng Israel có thêm 14 ngày để thành lập chính phủ (VOV).
NATO xin lỗi vụ không kích tại Afghanistan (VOV).
Lợi ích nào, đối tác nấy (TN).
9<- Ai Cập: Biểu tình bạo lực lan rộng ra các thành phố (DV).
Cảnh sát Nam Phi bạo hành dân sự (BBC).
- Pháp thận trọng về thông tin thủ lãnh Al Qaeda chết tại Mali (RFI). – Lực lượng Chad hạ sát chỉ huy hàng đầu của al-Qaida (VOA).
- Obama chuẩn y kế hoạch giảm ngân sách (BBC). – TT Obama ký lệnh cắt giảm chi tiêu 85 tỉ đô la (VOA). – Obama thúc giục Quốc hội thỏa hiệp vào lúc lệnh cắt giảm ngân sách có hiệu lực (RFI). - Tổng thống Mỹ hối thúc Quốc hội thỏa hiệp (VOV). - Obama ký sắc lệnh cắt giảm ngân sách (TN).
- Ông Chavez ‘hô hấp bằng thiết bị hỗ trợ’ (BBC). – TT Chavez được điều trị bằng liệu pháp hóa trị (VOA). - Nhiều đồn đoán trái ngược về ông Chavez (TP). - Venezuela cáo buộc Mỹ tài trợ cho các nhóm đối lập (TTXVN).
- Tại các khu ổ chuột Kenya, thuốc chữa bệnh AIDS được mang bán để mua thức ăn (VOA).
- Cảnh sát Thụy Điển vẫn cố giải quyết vụ sát hại Olof Palme cách đây 27 năm (RFI).
- Biểu tình ở Matxcơva đòi cấm người ngoại quốc nhận con nuôi Nga (RFI).
- Malaysia: 14 người chết sau vụ tấn công vào nhóm vũ trang Philippines (RFI).
- Nổ bom ở miền nam Thái Lan giết chết hai binh sĩ chính phủ (VOA).
Malaysia sẽ không thỏa hiệp với nhóm vũ trang Philippines (VTV).
- Cựu TT Musharraf định về Pakistan trong vài tuần nữa (VOA).
* VTV1: + Chào buổi sáng – 02/03/2013; + Tạp chí kinh tế cuối tuần – 02/03/2013; + Tài chính tiêu dùng – 02/03/2013; + Việt Nam – Đất nước – Con người : Trà Quế vào xuân; + Câu chuyện văn hóa – 02/03/2013; + Nhịp đập 360 độ thể thao – 02/03/2013; + Thể thao 24/7 – 02/03/2013; + Trang địa phương – 02/03/2013; + Sự kiện và bình luận – 02/03/2013; + Nông thôn mới – 02/03/2013; + Chiếc nón kì diệu – 02/03/2013; + Khoảnh khắc cuối tuần – 02/03/2013; + Cuộc sống thường ngày – 02/03/2013; + Thời tiết du lịch – 02/03/2013; + Thời sự 12h – 02/03/2013.

Danlambao 3/3/2013

Muôn chữ ký một tấm lòng

Trần Quốc Việt (Danlambao) – Hàng ngàn người ký tên vào Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do trong khoảng thời gian rất ngắn. Đây chính là hội nghị Diên Hồng trên mạng của những người Việt Nam. Ý nghĩa của lời tuyên bố chung này rõ ràng: chúng tôi sinh ra là người tự do và phải luôn luôn là người tự do.

Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do :  Cập nhật 03h45, 03.03.2013  -Đã có 2.500 chữ ký

“Ngày D” của Tổ quốc Việt Nam đã điểm?

Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam (Danlambao) – Khi nhắc đến “Ngày D” (D-Day) mọi người trên thế giới đều liên tưởng đến ngày đổ bộ vào vùng bờ biển Normandy Pháp của lực lượng đồng minh Hoa Kỳ, Anh, Úc và một số quốc gia, trước giải phóng nước Pháp sau các nước Âu Châu, cuối cùng tiêu diệt phát xít Đức và kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

CA hành hung anh Lê Hoàng Tân sau khi dự sinh nhật Blogger Hoàng Vi

CTV Danlambao – Anh Lê Hoàng Tân, người vừa ký tên vào Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do đã bị công an hành hung, cướp và phá hoại tài sản một cách hết sức thô bạo.
Lúc 16 giờ 30 chiều nay, 2/3/2013, sau khi tham dự tiệc mừng sinh nhật của blogger Hoàng Vi tại số 558 Bình Quới (P28, Q. Bình Thạnh), anh Lê Hoàng Tân khi ra về thì bất ngờ bị hai tên an ninh chìm lao vào hành hung và đập nát máy ảnh.

Lộ trình xây dựng một hiến pháp dân chủ – Phần I

Mai Thái Lĩnh (Procontra) – Hạ tuần tháng 1 năm 2013, trước Tết Nguyên đán, đã xảy ra một sự kiện gây chấn động dư luận. Đó là việc 72 vị nhân sĩ, trí thức đã cùng nhau ký một bản kiến nghị có tên là “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” (đề ngày 19-1-2013)[1]. Điều đáng chú ý là trong danh sách những người khởi xướng, có ít nhất một nửa là đảng viên cộng sản, trong đó có những người đã từng giữ chức vụ cao hoặc đã từng làm cố vấn cho các nhà lãnh đạo cao cấp trong hệ thống chính trị hiện hành. Lướt qua nội dung của kiến nghị cũng như bản dự thảo Hiến pháp đính kèm (được coi như một tài liệu để tham khảo và thảo luận), chúng ta dễ dàng nhận thấy những người ký kiến nghị đã bày tỏ một quan điểm về hiến pháp chẳng những vượt ra khỏi khuôn khổ của hiến pháp hiện hành (tức Hiến pháp 1992 – bản sửa đổi năm 2001) mà còn vượt xa bản hiến pháp đầu tiên do đảng Cộng sản soạn thảo dưới danh nghĩa của tổ chức Việt Minh (tức Hiến pháp 1946).

Hàng ngàn ‘công dân tự do’ đòi tuyển cử lập hiến ở Việt Nam 

Hà Nội (NV) – Chỉ trong vòng 24 giờ, đã có hơn 1,400 người (tính đến chiều 1 tháng 3, giờ California) khắp nơi và gồm đủ mọi thành phần xã hội xưng là “công dân tự do” ký tên đòi hỏi đảng CSVN trả lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân bằng cách tổ chức tuyển cử lập hiến.
Con số này dự đoán sẽ tăng lên nhanh chóng chứng tỏ phong trào quần chúng đòi xóa bỏ chế độ độc tài đảng trị và cực kỳ tham nhũng bè phái tại Việt Nam đang tiến lên những cao điểm áp lực mới.

Hố xí 4 ngăn của đảng ba đình

Thánh lễ cầu nguyện cho luật sư Lê Quốc Quân – Nguồn Video: Facebook – Lê Quốc Quyết

Nguyễn Tường Thụy - Tối nay 2/3/2013, hàng ngàn tín đồ công giáo, các bạn bè của Luật sư Lê Quốc Quân đã đổ về nhà thờ Thái Hà để tham gia Lễ cầu nguyện cho Luật sư Lê Quốc Quân, doanh nhân Lê Đình Quản và gia đình Lê Quốc Quân.

Tận cùng của ngụy biện

Trần Trường Sa (Danlambao) – Ngụy biện là cố dùng những lập luận tưởng như vững chắc, nhưng thật ra là vô căn cứ.
Ngụy biện là lối lý luận phổ biến trong thế giới cộng sản, bởi lẽ đối tượng được nghe những lập luận này thường là giới bình dân dể bị đánh lừa; đó là những lập luận được sử dụng đi trước mũi súng và nhà tù nên chẳng ai có thể phổ biến những phản biện được.

Sự sợ hãi là có thật

Nhã Trần (Danlambao) – Lúc các ông bày cái trò “trăm hoa đua nở” trong việc khuyến khích nhân dân góp ý sửa hiến pháp, và mạnh miệng tuyên bố “không có vùng cấm”, là lúc các ông vẫn còn an nhiên tự tại ngẫm rằng cái đám dân ngu khu đen lo kiếm miếng ăn khổ khó trăm bề, đầu óc cạn cợt có đâu rỗi việc mà nghiên cứu với góp ý; thêm nữa mấy triệu đảng viên trong đó nhiều vị trông chừng cái sổ hưu để an thân thì bỏ đảng có mà chết à! Từ tư duy hủ bại này các ông “tọa sơn” nhìn thần dân gieo hạt giồng hoa kiểu gì? Và yên tâm, ta vẫn còn đấy những hạt giống đỏ phó giáo sư tiến sỹ chuyên về lý luận, trang bị Mác Lê đầy mình sẵn sàng bóp chết những hạt giống… đen!

Tuổi trẻ với Hiến pháp: Một sự thật đáng buồn!

Lạc Hồng Quốc (Danlambao)Từ ngày có thông báo về việc kêu gọi tham gia ‘Góp ý dự thảo sửa đổi hiến pháp năm 1992′, với đặc thù công việc nên tôi có điều kiện tiếp xúc thường xuyên với thanh niên, những người được sinh ra sau ngày đất nước thống nhất.

Nét đẹp Nguyễn Đắc Kiên

Le Nguyen (Danlambao) - …Hiện tượng Nguyễn Đắc Kiên chỉ ra cho đảng cộng sản Việt Nam thấy rằng, đã qua rồi cái thời vì nhiều lý do thế hệ Hồ Chí Minh, thế hệ biết đảng nói láo, cam chịu nghe đảng nói láo, làm theo lời đảng nói láo “đảng lãnh đạo là sự lựa chọn của lịch sử được nhân dân thừa nhận”. Chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra nghèo đói lạc hậu chậm tiến, kiềm hãm bước phát triển văn minh tiến bộ của dân tộc…

http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=S1-yxq2w9AM
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=1LyQgUlbDNY&list=PL17A8654170DE045A

Chính trị – Xã hội

Trung Quốc xua hải tuần ra biển Đông, hợp tác với Indonesia - (Phunutoday)    —-Hải tuần Trung Quốc đang kéo xuống Trường Sa, Việt Nam - Phunutoday.vn   —-Tàu Trung Quốc gia tăng hoạt động tại Biển Đông (RFI)
Đài Loan ‘nối gót’ Trung Quốc, tập trận bắn đạn thật ở Trường Sa (Infonet)   —-Mưu đồ Trung Quốc in đậm trên đồ dân dụng (ĐV)   —Báo Trung Quốc: Không nên dọa dẫm láng giềng (VnMedia)
Đảng yếu nên sợ hãi đa nguyên đa đảng? (RFA)  –Hàng ngàn ‘công dân tự do’ đòi tuyển cử lập hiến ở Việt Nam (Nguoiviet)
Bốn không hay không Bốn? (Ngô nhân Dụng – Nguoiviet) -Ngày hôm qua, Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam chính thức góp ý kiến vào việc sửa đổi Hiến Pháp, và không ngần ngại nêu ý kiến phải bãi bỏ độc quyền cai trị của đảng Cộng sản.
SV Sài Gòn và Điều 4 Hiến Pháp (VB)  —Hiếu Dân: Tâm thư gửi bác Nguyễn Phú Trọng (viet-studies 2-3-13)
Báo chí phản biện chính sách như “đi trên dây”? (Trung Đức -SGTT)  —Tập trung “hiến kế” cho việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Infonet)
Nhận định của TS Nguyễn Thanh Giang qua lời phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng về kiến nghị sửa đổi hiến pháp. (RCTM)
Bà Nguyễn Thị Thúy và gia đình, những dân oan đang sống lây lất tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng lên tiếng (RCTM)

San Jose dựng bảng Little Saigon (NV)====>>>
SAN JOSE CÓ BẢNG TÊN LITTLE SAIGON (Nuoiviet/xem ảnh)
TT Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt đề án tái cấu trúc Vinalines (RFA)   —–Nguồn cung nhân lực CNTT đang khan hiếm - Sohoa.net
Pháp luật & Xã hội -Nhiều khu “đất vàng”, biến thành bãi trông xe, sân bóng đá trái phép
Ông đồng, bà cốt chạy đua với chùa quốc doanh (NV)   —-Cần Thơ: Nổ Lớn, Có Thể Để Có Cớ Xiết Góp Ý Hiến Pháp? (VB)  –Hà Nội xử lý cán bộ đi ăn uống với chủ đầu tư vi phạm (Infonet)   —-HĐND TP.HCM sẽ tổ chức lấy phiếu tín nhiệm(Infonet)   —-Tàu chữa cháy gần 50 tỷ đầu tiên tại TP.HCM(Infonet)
Khởi công xây dựng Trung tâm an điều dưỡng lực lượng tàu ngầm (Infonet)
Từ ngày 15/4, đội mũ bảo hiểm giả sẽ bị phạt (Infonet)   —“Chưa có cơ sở pháp lý phạt người đội mũ bảo hiểm giả” (Dantri)
Bé 1 tháng tuổi đa dị tật bị bố mẹ bỏ rơi tại bệnh viện  (Dân trí) – Vừa lọt lòng mẹ, bé đã mang trên mình đa dị tật bẩm sinh, chân tay co quắp, phủ tạng đảo ngược. Trong chiếc lồng kính, bé thở từng hơi yếu ớt rồi đưa ánh mắt dò tìm mẹ, nhưng đau đớn thay, bé đã bị bố mẹ bỏ mặc ra đi…
Chính phủ: Người dân thận trọng với tin đồn và cả phân tích của cá nhân về kinh tế (Dân trí)   —Một thượng tướng và hàng loạt Thứ trưởng nghỉ hưu (DV)
BS Nguyễn Đan Quế: ĐÃ ĐẾN LÚC HUỶ BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP (Quỳnh Trâm)
HỌ SỐNG BẰNG CÁI ĐẦU NGƯỜI KHÁC ! (Bùi Văn Bồng)
80 Năm, Lần Cuối  - Giao chỉ, San Jose (Vietbao)
Có Vàng Còn Phải Có Tâm - Nguyễn Xuân Nghĩa (Vietbao)

“Đảng đã cho ta sáng mắt sáng lòng”  (Gocomay)
BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN GIỚI THIỆU TIỂU THUYẾT ” CHUYỆN Ở NÔNG TRẠI ” CỦA ORWELL ? (Phamvietdao)  -Lời bàn của Phúc Lộc Thọ: Khi viết cuốn tiểu thuyết này phải chăng Orwell muốn ám chỉ những cuộc cách mạng do “giai cấp vô sản” lãnh đạo ?====>>>
Tựa sách dịch mà cũng “né”-Mời xem Tác phẩm có chép trên thanh ngang ở đầu trang chủ “TRẠI SÚC VẬT”
TƯỚNG HƯỞNG VỀ HƯU NHƯNG SẼ KHÔNG CÓ LƯƠNG HƯU ?! (PVD)
NẾU ĐẢNG ĐƯA ĐƯỢC VIỆT NAM LÊN THÀNH “CON RỒNG” CHÂU Á THÌ CHẲNG AI LẠI ĐÒI HỦY ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP !Hoàng Đạo Sử.- (PVD)

Thái Hiền – Hội chứng tâm thần và Hiệu ứng Domino (Danluan)

Võ Trung Hiếu – Nghĩ quẩn…(Danluan)

Mai Thái Lĩnh – Lộ trình xây dựng một hiến pháp dân chủ (Phần I)(Danluan)

Nhà thờ Thái Hà đêm 2-3-2013: Thắp nến cầu nguyện cho anh em luật sư Lê Quốc Quân(Danluan)

Ha Ngoc – “Đảng ta vĩ đại thật”(Danluan)

Nguyễn Vạn Phú – Đa sở hữu đất đai: Tại sao không?(Danluan)

Phong trào Con Đường Việt Nam yêu cầu đảm bảo Quyền Con Người và Quyền Công Dân trong việc góp ý sửa đổi Hiến Pháp(Danluan)

Nhà nước Việt Nam “bị hố” khi kêu gọi người dân đóng góp ý kiến sửa đổi hiến pháp  -DCVOnlineTin AP
Sáng tạo chính là Đối kháng -Lê Văn – DCVOnline – Ở tuổi 93, ông Stéphane Hessel trở thành thần tượng của những phong trào đối kháng trên toàn thế giới.

BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP LÀ TỰ SÁT, HAY KHÔNG BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP MỚI LÀ TỰ SÁT ?  -Nguyễn Chính Kết -(Trinhanmedia)

Kinh tế

Thanh Niên -Du lịch ế ẩm    —-Hai luật về kinh doanh bất động sản sẽ được sửa đổi -Vietnam Plus
Nợ xấu ngân hàng tại Việt Nam giảm ‘bất thường’ (NV)   —Cam Bốt: Xuất Cảng Gạo Tăng 165% (VB)
10 Sếp Mất 43 Triệu Đô/Tháng, Điạ ốc VN Còn Suy 6 Năm Nữa; GFMS Dự Báo: Nhu Cầu Đầu Tư Vàng Ở Việt Nam Sẽ Giảm 25% (VB)
Thép VN Tiêu Thụ Giảm 40%, Nhiều Xưởng Thép Đóng Cửa; Trong 2 tháng đầu năm 2013: tới 8.600 doanh nghiệp VN Sập Tiệm (VB)
VN Bế Tắc: Tồn Kho Tăng 20%, Nhiều Ngân Hàng Lỗ Vì Vàng; SBS lỗ 84,4 triệu đôla, Sacombank bị đẩy khỏi thị trường chứng khoán vì âm vốn 12 triệu đô; ngân hàng ACB lỗ 86 triệu đô… (VB)
Đánh thuế tiền tiết kiệm: “Gậy ông đập lưng ông” (Infonet)   —Đánh thuế tiền gửi tiết kiệm từ 500 triệu để cứu bất động sản?  (Dantri)

Thế giới

Mỹ-Nhật: củng cố liên minh, đối đầu Trung Quốc-Bắc Hàn (RFA) –   —TQ bác bỏ cáo buộc du khách Hoa Lục tràn ngập Hong Kong(RFA) -
Cựu CT ngân hàng Nga được tỵ nạn tại Anh(RFA) -
Đụng độ phía bắc Syria khiến hàng chục người thiệt mạng(RFA) -  –Giao tranh ác liệt tại Syria, nhiều binh sĩ và quân nổi dậy thiệt mạng  (VOA)
TT Sri Lanka phủ nhận quân đội giết con của thủ lĩnh phe Hổ Tamil(RFA) –   —Cảnh sát Bangladesh bắn chết 3 người biểu tình(RFA) -
Kenya: thuốc chữa bệnh AIDS được mang bán để mua thức ăn (VOA)   —Ấn Độ phấn đấu để vẫn là quốc gia không có bệnh bại liệt (VOA)
Iran khẳng định sự ủng hộ Tổng thống Syria Assad  (TTXVN)  —Giá tiêu dùng ở Nhật tiếp tục sụt giảm (BBC)

Văn hóa – Giáo dục – Khoa học

Khám phá vành đai phóng xạ thứ ba quanh Trái Ðất (NV)
Làm thế nào để học sinh hào hứng học?  (Dantri) -Trước tình hình nhiều học sinh không say học, nhiều thầy cô không đổi mới cách dạy, đã có các thầy cô giáo trăn trở về khơi dòng nhiệt huyết của người thầy để giờ học có sinh khí.
“Học sinh bây giờ khổ cực quá” (Dantri)   —Đề xuất nâng mức vay tín dụng cho học sinh, sinh viên(Dantri)
ĐH Đồng Tháp tuyển 3.500 chỉ tiêu năm 2013(Dantri)  — Hai học sinh Việt Nam được vinh danh tại Australia (Dantri) -Hai em Bùi Trung Hiếu và Trần Đặng Đình Áng đã vinh dự được nhận bằng khen từ Toàn quyền bang New South Wales (Australia) cùng phần thưởng trị giá 1.000 AUD/em cho những thành tích nổi trội.


Ngắm người đẹp khoe bầu “ngực mướp” nặng trĩu -Ngoisao.vn====>>>

<<<===”Nàng thơ” của Thành Long bốc lửa, siêu “nóng” (DV)
Phản cảm cảnh ký vào… vòng ba của sao nữ Nhật - Dân Việt
Khampha.vn -Nhảy lầu tự tử, nữ sinh viên chết tại chỗ
Thanh Niên -Hàng Trung Quốc bủa vây người tiêu dùng
Thanh Niên -Tiếp tục đề xuất phạt xe không sang tên đổi chủ
Khách bị ‘chặt, chém,’ 3 lẩu cá lóc giá 130 đôla (NV)

so-jpg-1362124193-1362126708_500x0.jpg  <<<===10 mỹ nữ Hàn sở hữu vòng một quyến rũ(VnEx)
Người đẹp Thành thật với tình yêu Kim Hye Soo nổi tiếng là nghệ sĩ thông minh, đa tài. Hye Soo nhiều lần được bình chọn là một trong những người phụ nữ gợi cảm nhất xứ kim chi.
Bắt giữ ba xe khách chở lậu hơn 6.000 con gia cầm (VN+)
Quảng Ngãi: Dân đổ xô đi tìm, đào gốc cây xá xị (VN+)
Giải cứu năm thiếu nữ bị lừa bán sang Trung Quốc(VN+)  Truy sát trong đêm ở ‘phố Tây’ Sài Gòn (VnEx)    —-Truy sát kinh hoàng tại ‘phố Tây’ Sài Gòn (Infonet)
Góc khuất chuyện người đẹp Việt lấy chồng Tây  (Dân trí)
TP.HCM: Công an nổ súng truy bắt kẻ trộm táo tợn (DV)   —Lời kể của bé trai về vụ xộc vào nhà cướp iPhone và Ipad (DV)
Cận cảnh đại lộ hiện đại nhất Việt Nam nứt lún, nham nhở ổ trâu, ổ gà(DV)
Nạn nhân chết, sau 3 tháng, công an chưa tìm được thủ phạm(DV)  

Ý kiến cá nhân về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam (Điều 4)

Tâm tư của người thanh niên sinh ra trong thời bình mong muốn đất nước đổi mới hơn nữa
Hoàng Văn Vương
02-03-2013
Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống Pháp, Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của ĐCS vì lý tưởng không có gì quý hơn độc lập, tự  do, hạnh phúc. Bao lớp thanh niên xung phong lên đường ra chiến trận với mong muốn vì đất nược được hòa bình, tự  do, thống  nhất. Đó là lòng yêu nước chân chính và tính tự tôn  Dân tộc  cao cả. Họ  hi sinh vì thế  hệ mai sau, vì thế  hệ  của chúng tôi có được như ngày hôm nay.
Sau năm 1975, đất nước được hòa bình thống nhất.  Nhân dân  hoan hỉ  vui mừng cho ngày hội lớn của cả  một  Dân  tộc. Một chặng đường lịch sử  mới mở  ra, cùng với những thách thức không nhỏ  trong tình hình mới đối với ĐCS trên cương vị  lãnh đạo đất nước xuyên suốt trong thời chiến cũng như trong thời bình. Khẳng định rằng, vai trò lãnh đạo của ĐCS đối với  Nhân dân, với Dân tộc, Tổ quốc là không nhỏ.
Tuy nhiên, trong qua trình lãnh đạo của ĐCS, ngoài những thành công  to lớn  ấy, bên cạnh có những sai lầm cần có cách nhìn nhận đúng đắn kịp thời sửa sai như các vị  tiền bối đã làm. Và trong bối cảnh hiện tại, việc sửa đổi Hiến pháp trở nên cấp bách và cần thiết. Cũng như hiểu cho đúng về  một bản Hiến pháp cho một quốc gia, một  Dân tộc  cần tách bạch rõ ràng với vai trò lãnh đạo của ĐCS như điều 4 Hiến pháp đã nêu.
Qua nhiều kênh thông tin về góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992, quả thực lời đầu tiên tôi thấy rất  buồn và thất vọng. Bởi vì bản Hiến pháp có vai trò quan trọng  của cả một  Dân tộc, của một quốc gia. Đó là bản kế ước mà người dân trao quyền cho bất kỳ tổ chức nào lãnh đạo đất nước, thì cần có thời gian nghiên cứu kỹ và  sửa đổi trong tình hình đất nước như hiện nay. Hiện trạng đó là như thế nào chắc mọi người  ai cũng có thể  nắm  rõ  và  hiểu  thông qua thông tin đại chúng mà Đảng và chính quyền đưa tin.
Về lĩnh vực kinh tế, rõ ràng là việc lấy  tổng công ty,  công ty,  doanh nghiệp  quốc doanh làm vai trò chủ đạo có những sai lầm chết người trong  thực thi  chính sách dẫn đến  những sai phạm nghiêm trọng mà khó truy cứu trách nhiệm cá nhân.  Thể  hiện  ở  chỗ  tham nhũng tràn lan, mà ngành nào, lĩnh vực nào cũng có đã phá hoại nghiêm trọng đến tổng thể của một nền kinh tế – chính trị – xã hội. Dẫn đến lòng dân ly tán, niềm tin không còn thì cực kỳ nguy hiểm. Mà nhớ lại thời cha ông ta ngày xưa, như lời Nguyễn Trãi đã nêu trong “Bình Ngô đại cao”: “Việc đại nghĩa cốt  ở  yên dân…”.  Mà nhìn lại thực trạng của đất nước,  kinh tế  thì khủng hoảng, dân oan mất đất khắp, bao nhiêu khiếu kiện chưa giải quyết dứt điểm và thỏa đáng. Rồi bao nhiêu cảnh đàn áp người biểu tình vì mất đất, vì lý tưởng yêu nước chân chính, vì toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam mà trong lòng đau đáu mong muốn sự đổi mới để yên dân, để  dân còn tin vào lý tưởng mà ĐCS đã nêu trong suốt hai cuộc kháng chiến ấy.
Vì thực tế cho thấy rằng, tất cả lâm vào sự khủng hoảng toàn diện: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, giáo  dục, y tế,…  Nó thể  hiện nền tảng đạo đức trong xã hội bị  băng hoại: cướp giận, giết, hiếp, gian lận, tham nhũng, tham ô mà báo chí đưa tin;  sự vô cảm của người dân đến đến khiếp sợ  thì sự lâm nguy hiện hữu trước mắt như nghị quyết TƯ 4 và hội nghị TƯ 6  mà ĐCS đã nêu.
Qua đó, nhìn nhận một cách tổng thể từ trong quá khứ đến hiện tại. Không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo  to lớn  của  Đảng, nhưng bên cạnh  đó ĐCS cho thấy  những sai lầm  đã được khắc phục. Cụ  thể  là: Cải cách ruộng đất năm 1946 mà Hồ  Chủ  Tịch đã phải khóc xin lỗi đồng bào mà có những chính sách thay đổi. Rồi trong phong trào Nhân văn  – giai phẩmn năm 1955. Thời kỳ  bao cấp, đánh kinh tế  tư nhân, tiểu sư sản. Mà bắt buộc chúng ta phải đổi mới hội nhập để có được thành quả nhất định.
Hội nghị  TƯ 6 khóa XI vừa qua, TBT Nguyễn Phú Trong trong lời tổng kết hội nghị  đã phải xin lỗi trước đồng bào về sự yếu kém trong vấn đề quản lý kinh tế, làm thất thoát rất nhiều tiền của nhà nước, của nhân nhân. Thì rõ ràng những sai lầm đó đã được thấy  rõ.  Quan trọng là sớm thấy và khắc phục kịp thời để tránh đau thương cho  Dân tộc như đã từng xảy ra, mà kéo lùi sự phát triển của xã hội,  của  đất nước  Việt Nam, làm cho đất nước không hội nhập kịp thời với thế giới.  
Việc lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp lần này thực sự bức bách và cần thiết. Xác định lại cho đúng vai trò của Hiến pháp của một quốc gia, một  Dân tộc; và vai trò của ĐCS lãnh đạo đất nước  ấy. Tuy nhiên thời gian lấy ý kiến sửa đổi mà ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đưa ra thì cực ngắn vào đúng dịp gần Tết. Tôi cho đó là mục đích của Đảng và chính quyền muốn vậy, chứ thực chất có muốn người dân tham gia sửa đổi hay không? Cụ thể trong lời phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng như đã đưa tin:
“Vừa rồi đã có các luồng ý kiến, cũng có thể quy vào  được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm đấy, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thế là suy thoái chứ còn gì nữa. Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể, thì nó là cái gì? Nên phải quan tâm xử lý những điều đó.”
Quả thực tôi không hiểu, suy thoái đạo đực, suy thoái lối sống, suy thoải tư tưởng, suy thoái chính trị  là như thế  nào? Đành rằng đã là góp ý kiến sửa đổi thì dù muốn hay không muốn có những ý kiến trái chiều, đồng ý có, không đồng ý có, muốn và không muốn vai trò lãnh đạo của ĐCS. Nhưng ở  đây, chúng ta phải hiểu là bản Hiến pháp cho một  Dân tộc, Tổ  quốc  và  Nhân dân  chứ  đâu phải cho bất kỳ  tổ  chức Đảng phái nào. Hai cái này phải tách biệt không thể xen lẫn mà có cách nhìn không đúng. Nên tôi cho rằng TBT có ý kiến phát biểu như thế  chỉ  có thể chấp nhận trên phương diện cá nhân của TBT nhưng trên cương vị  là một TBT thì cần phải xem xét  lại. Chắc chắn  rằng,  điều đó gây  ảnh hưởng xấu sâu rộng trong xã hội. Cha ông thường nói rằng: thuốc đắng dã tật, sự  thật mất lòng. Phải biết chấp nhận, biết sửa đổi như Đảng  đã sửa đổi, đã phải đổi mới mà lòng tin của  Nhân dân  đối với Đảng cho đến ngày hôm nay.
Và hiển nhiên trong quy luật vạn vật, và lịch sử đã minh chứng không một thực thể nào, tổ chức nào có thể tồn tại một cách vĩnh cửu. Chỉ có Dân tộc, Tổ quốc, Nhân dân mới trường tồn. Từ ý niệm đó đã hình thành nên chủ nghĩa  Dân tộc, chủ nghĩa yêu nước chân chính với mong muống tự do, dân chủ và hạnh phúc vì quyền công dân, vì người cày có ruộng như trước đây lý tưởng  ấy được Đảng reo vào lòng dân  mà  Nhân dân  đứng  lên khởi nghĩa giành lấy quyền, giành độc lập non sông thống nhất đất nước.  Lòng tin lúc đó đối với Đảng là đỉnh điểm đem lại thắng lợi to lớn trong hai cuốc chiến tranh trường kỳ gian khổ đó. Thì không cớ gì cái quyền ấy không được duy trì và là cơ sở căn bản để xây dựng Hiến pháp cho một Dân tộc, một quốc gia.
Có thể thấy lời mở đầu của một Hiến pháp bắt nguồn cho nội dung câu chữ bao hàm bên trong nó, thể hiện cho bản Hiến pháp đó có thời gian sống và đáp ứng ý nguyện lòng dân hay không.
Lời mở đầu Hiến pháp 1787 của Hoa Kỳ có ghi: “Chúng tôi,  Nhân dân  Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với mục đích xây dựng một liên bang hoàn hảo hơn nữa, thiết lập công lý, đảm bảo an ninh trong nước, tạo dựng phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng trong toàn khối, giữ vững nền tự do cho bản thân và con cháu chúng ta, quyết định xây dựng Hiến pháp này cho Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ”.
Cho thấy ẩn ý sâu xa trong câu chữ, nó thể hiện tuổi thọ lâu dài của một bản Hiến pháp phù hợp với ý nguyện lòng dân. Lấy  Nhân dân  là chủ thể, lấy thượng tôn pháp luật xây dựng đất nước thịnh vượng. Cho nên dù bất kỳ tổ chức đảng  phái nào tồn tại hoạt động đều phải tôn trọng các quy định, luật định ấy. Vì vậy, việc xóa bỏ điều 4 Hiến pháp là điều tất yếu, vì đảng cũng là tổ chức, là những người do dân bầu ra hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
Việc đề cao ĐCS trước Nhân dân, Dân tộc, Tổ quốc, việc quy cho bỏ điều 4 Hiến pháp là bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCS là luận điệu không thể chấp nhận được. Nó ngược với tiến bộ của lịch sử hiện đại của loài người, cho thấy một bản Hiến pháp không có tuổi thọ vững bền. Ai có thể chắc chắn rằng,  sau 10 năm thậm chí 100 năm, 1000 năm hay lâu hơn nữa ĐCS sẽ còn tồn tại  đến lúc đó. Chỉ có  Nhân dân,  Tổ quốc,  Dân tộc  mới tồn tại mãi.  Có  Nhân dân  mới có ĐCS, ĐCS cũng từ những người dân ưu tú được Nhân dân bầu ra lãnh đạo đất nước, ủy quyền điều hành trên mọi phương diện từ đối nội, đối ngoại.
Và tôi cho rằng, ngay lúc này đây, việc sửa đổi Hiến pháp 1992, là cơ hội để  cho Đảng lấy lại niềm tin trong Nhân dân như những năm thập niên 1986s mà Đảng đã làm là phải đổi mới. Hãy tách bạch nội dung của Hiến pháp với vai trò của ĐCS để  có cách nhìn nhận sáng suốt cho ra bản Hiến pháp có tuổi thọ  lâu dài, hợp với đa số con dân Việt Nam trong và ngoài nước. Cũng là cơ hội để  hòa giải  Dân tộc  mà bấy lâu nay chưa làm được. Lòng dân ly tán là điều khủng khiếp nhất hơn cả chiến tranh, đổ máu đối với một Tổ quốc.
Vì vậy, không để điều 4 trong Hiến pháp là tất yếu, điều đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCS hiện tại mà còn thể hiện cái nhìn xa trông rộng của nhiều nhà tri thức và các tầng lớp  Nhân dân, các Đảng viên lão thành muốn xây dựng một bản Hiến pháp lâu dài bền vững cho Dân tộc Việt Nam.
Hàn Quốc, ngày 02 tháng 03 năm 2013
Hoàng Văn Vương

1644. Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân

Bauxite Việt Nam

Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân

Hà Sĩ Phu
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sáng 19-2-2013 đọc báo mạng thấy trang Anhbasam có điểm hai bài tương phản:  “Tiêu Dao Bảo Cự: Từ Ngô Kha, soi rọi và giải mã một thế hệ dấn thân (Diễn Đàn); Blogger Caubay Thiem có bài phản biện lại bài này bên Facebook”.
Mặc dù tôi mới ở bệnh viện về, tình trạng mắt được bác sĩ yêu cầu hết sức hạn chế đọc và viết, tôi vẫn phải “đánh liều” viết đôi điều ngắn gọn về chuyện “xung đột” âm ỉ từ lâu này (nếu có thể gọi như thế), giữa những người đáng kính, vì mấy lẽ sau đây: 

- Thế hệ dấn thân theo con đường cộng sản như nhà văn TDBC bao gồm nhiều người (ở miền Bắc còn nhiều hơn miền Nam), trong đó số đã thức tỉnh ở những mức độ khác nhau, đang cố gắng làm những điều nhằm sửa lại hay chống lại thực tại sai lầm của ĐCS cũng ngày càng nhiều thêm, nhưng việc tự đánh giá giai đoạn quá khứ của mình xem chừng chưa có gì nhất trí, ổn thỏa, thanh thoát, như có những tâm trạng uẩn khúc bên trong nên phải đặt vấn đề “giải mã”.
- Việc “giải mã” cũng liên quan đến cả những người CS hiện nay đang được dư luận ca ngợi, tán thưởng (kể cả dư luận khó tính ở hải ngoại), như nghệ sĩ Kim Chi khước từ sự có mặt trong nhà ở của mình chữ ký của một kẻ cao cấp “hại nước hại dân” – vì chị tự hào mình là một người “Cộng sản chân chính”! Những đảng viên trong 72 vị khởi xướng đợt góp ý Hiến pháp hiện nay cũng vậy, chắc phần đông cũng là những người muốn hành xử như những người “Cộng sản chân chính” để phân biệt mình với loại “CS thoái hóa”. Vậy có thể tồn tại khái niệm “người CS chân chính” hay không, cũng là điều cần xác định cho rõ. 
- Trong hàng ngũ những bạn bè thân hữu đang nỗ lực góp phần mình vào công cuộc dân chủ hóa xã hội hiện nay cũng có hai “phe” với hai cách nhìn ngược nhau trong việc đánh giá quá khứ tham gia Cộng sản. 
Tóm lại, tình hình khác nhau trong việc nhìn nhận giai đoạn quá khứ tham gia hoặc ủng hộ CS là điều tốt hay không tốt, là công hay tội, nên nhớ đến để tôn vinh hay nhắc đến chỉ thêm ân hận… là một thực tế rộng lớn, tuy không phải mâu thuẫn đến mức nặng nề nhưng vẫn âm ỉ như một chút gợn, một cái gai, hay một cái nhọt trong đội ngũ những người từng có nợ với quá khứ và đang phải băn khoăn về trách nhiệm với hiện tại và tương lai đất nước (còn những kẻ vô trách nhiệm, thờ ơ hay cố bám sự hủ bại thì không đáng bàn đến ở đây). 
Khoảng một hai năm gần đây, khả năng lãnh đạo của đảng cầm quyền ngày càng sút kém, bất lực, những mâu thuẫn đối nội và đối ngoại thúc đẩy phải có những thay đổi, kéo theo đó là sự phân hóa phức tạp trong xã hội về nhân sự, tổ chức, phong trào, phe nhóm… Bên cạnh chủ trương đối xử cứng rắn với giới dân chủ tiên phong là sự nới rộng có kiểm soát với giới trí thức cận thần, có cái mới vừa sáng tạo ra, có cái vốn cũ đang được dùng lại. Trong bối cảnh phân hóa đó, sự khác nhau tiềm ẩn trong quá khứ của giới “pro-Đảng” nay cần phải tách bạch. Việc điểm tin hai bài ngược chiều nói trên của “nhật báo Basam”, mà tránh không bình luận, có lẽ cũng là một biểu hiện nhạy cảm và tế nhị. Những người nhạy cảm thấy đã đến lúc nên có sự trao đổi thẳng thắn với tư cách giữa những người được giả thiết là “chung một chiến hào”. Vướng một cái gai, anh chiến sĩ vẫn có thể chiến đấu, nhưng “giải quyết” được cái gai tất nhiên sức chiến đấu sẽ tốt hơn nhiều.
Suốt trong quá khứ tôi không dính dáng trực tiếp gì đến chính trị, nhưng bạn bè thuộc cả hai “phe” cũng có nhiều thân hữu. Trong điều kiện sức khỏe không thuận lợi, tôi không dám hy vọng có thể đề cập vấn đề một cách thấu đáo, chỉ xin đưa ra một vài ý chung, tản mạn, để góp phần gọi là “giải mã” một thực tiễn khá nhiều tế nhị.
II. MẤY ĐIỀU CƠ BẢN GỢI Ý CÓ THỂ DÙNG TRONG LÝ GIẢI
1/ Phải chăng sự hiểu biết lúc ấy chưa đủ tầm để sàng lọc?
Hiện tượng một chủ nghĩa ảo tưởng, phi lý và phản tiến hóa như chủ nghĩa CS lại rộ lên một thời rộng lớn, thu hút đám đông, trong đó có cả những trí thức lớn, nghịch lý quá lớn ấy khiến thiên hạ phải chiêm nghiệm mà đúc kết thành một quy luật, quy luật liên kết và hoán vị loại trừ lẫn nhau trong 3 thành tố, tạm gọi là luật Loại trừ một trong ba” hay luật Hai khử một”.
Ba thành tố ấy là Tâm hồn Lương thiện, Trí tuệ Thông thái và Lập trường Cộng sản, liên kết và loại trừ nhau như sau:
- Đã Thông thái và Cộng sản thì không Lương thiện ( phải mưu mẹo, gian hùng).
Đã Lương thiện và Cộng sản thì không Thông thái ( phải nhẹ dạ, nông cạn).
- Đã Lương thiện và đủ Thông thái thì không theo Cộng sản [1].
Những ai tự nhận mình luôn lương thiện trong sáng và đã theo CS thì ứng với trường hợp thứ hai, tức là trí tuệ nông cạn, không đủ tầm để sàng lọc trước một vấn đề ở tầm thời đại. Trước mắt mới nhìn bề ngoài tưởng là tốt thì theo thôi. 
Xem ra nhiều đảng viên lương thiện không chịu nhận là lúc ấy mình ngu, cứ khẳng định khi ấy chỉ có theo đảng là thông minh nhất. Có vị còn khăng khăng rằng: Nếu bây giờ lịch sử lặp lại thì ông ta cũng lại chọn đúng con đường cũ chứ không thể khác. Sở dĩ có sự tự ái như vậy do chưa hiểu sự “ngu đần” có thể là tầm của cả một dân tộc trong một thời kỳ chứ chẳng riêng ai, người viết những dòng này cũng đâu thoát khỏi mê cung ấy? Phê phán bạn cũng là phê phán mình. Chỉ cần so sánh với một dân tộc văn minh và khôn ngoan hơn sẽ thấy ngay sự kém cỏi, dân trí lạc hậu của cả dân tộc mình thì sẽ tránh được tâm lý tự ái cá nhân. 
Hiện tượng có mấy nhà bác học nổi tiếng vẫn say mê CS cũng chẳng biện bạch được gì hơn vì có thể vị bác học ấy giàu lý tưởng, lý thuyết, hiểu biết chuyên môn nhưng rất ngây thơ, ảo tưởng, cũng dốt về chính trị-xã hội.  Chấp làm gì những vị trí thức nọ trí thức kia mù quáng thân Cộng, khi “ông trùm CS” của nước mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh khi quyết định theo con đường Cộng sản cũng chưa hiểu Cộng sản là gì kia mà?
Cú “nhích chân” của Nguyễn Ái Quốc  từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin “chỉ vì Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa”, “Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì, thì tôi (tức Nguyễn Ái Quốc) chưa hiểu”. Thậm chí Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo L’humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy Nguyễn Ái Quốc”cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi” [2].
Nhưng cũng không chấp ông HCM làm gì, khi chính ông Mác ông Lê cũng “khái quát vội, khái quát nhầm” ít nhất là 9 điều căn bản [3] tức là cũng hụt hẫng về Trí tuệ khi cả gan  nghĩ ra một chủ nghĩa mới toanh hòng cứu rỗi nhân loại nhưng vượt quá tầm Trí tuệ của mình (chủ nghĩa Xã hội khoa học ít nhất cũng có một khuyết điểm cơ bản là phi khoa học!), thì một đảng viên CS nhỏ bé có tự nhận là “Trí tuệ không đủ để sàng lọc” cũng chẳng có gì đáng phải băn khoăn! 
Vậy thì thôi, ta cứ yên trí nhận là trước đây ta theo CS vì chưa đủ thông thái để sàng lọc là ổn.
Nhưng mâu thuẫn vẫn chưa hết. Các bạn lại bảo: tôi theo CS không phải là yêu CS gì hết, chỉ vì yêu nước, yêu hòa bình-thống nhất, ghét Mỹ xâm lược. Nếu bạn chỉ mượn CS làm phương tiện như thế thì khi mục đích đã xong, Mỹ đã rút, đã có “hòa bình-thống nhất” thì bạn còn ôm cái “phương tiện” ấy làm gì, bạn phải chủ động rời bỏ nó ngay mới phải, như qua sông rồi thì bỏ con thuyền ở lại chứ? 
Nếu bạn lại bảo: tôi chưa hiểu gì về chủ nghĩa CS nên hãy cứ theo xem sao? Vậy đến hôm nay bạn đã hiểu chưa? Với tư cách một đảng viên bạn có tìm hiểu mọi thông tin trên mạng và trên thực tế không, có biết  nghị quyết 1481 của Nghị viện châu Âu, biết nhân loại đã vứt một Chủ nghĩa ảo tưởng vào sọt rác lịch sử? Nếu có đủ thông tin thì chắc bạn không còn đủ dũng khí để tự hào là một đảng viên CS, vì tôi tin bạn là người có trí óc bình thường và còn dây “thần kinh xấu hổ”. Theo lô-gich của môn “liêm-sỉ-học” (liemsiology!) thì bạn phải hành xử như Trần Độ, như Phạm Đình Trọng, như Nguyễn Chí Đức… mới phải.
Nhưng chưa, bạn chưa đến chân tường, vì bạn còn một câu trả lời khả dĩ hữu lý: Tôi phải ở lại trong Đảng để “chiến đấu”, với tư cách “người CS chân chính” chống bè lũ “CS thoái hóa”. Vâng, vậy xin chuyển tiếp sang phần sau. 
2/ Có hay không khái niệm gọi là “người Cộng sản chân chính”?
Những người tự hào là “CS chân chính” vì nghĩ rằng cái đảng mà mình gia nhập là một đảng chân chính, nay “một số không nhỏ” (tất nhiên nằm trong lãnh đạo tối cao) đã THOÁI HÓA và PHẢN BỘI, nên mình phải đấu tranh chống lại sự tha hóa để phục hồi một ĐCS chân chính, nghĩa là mình đấu tranh (chống những cán bộ lãnh đạo xấu) với tư thế của người “đòi nợ”, đòi cái món nợ mà đảng đã hứa (trong lời tuyên bố) trước nhân dân nhưng bây giờ họ “quỵt nợ, vỗ nợ”! 
Phải công nhận, nếu như vậy thì trong 3 yếu tố Lương tâm, Trí tuệ và Cộng sản bạn đáp ứng đầy đủ hai yếu tố Lương tâm và Cộng sản nhưng quá yếu về Trí tuệ (theo đúng quy luật Hai khử một đã nói ở đoạn trên), nên trở thành duy cảm, thiếu duy lý. Sự THOÁI HÓA và PHẢN BỘI đã nằm sẵn trong mớ tín điều của chủ nghĩa, đã được “chương trình hóa” ngay từ khi khởi lập. Những biểu hiện thoái hóa và phản bội mà bạn nhìn thấy bây giờ thực ra đã được tiền định từ đầu (trước khi bạn gia nhập đảng rất lâu): không một ĐCS cầm quyền nào có thể thoát khỏi tình trạng thoái hóa và phản bội! 
Về lý thuyết chính Mác đã tự chống lại mình, khi triết học Mác thì duy vật, chống duy tâm-duy ý chí nhưng chính trị Mác thì rất duy tâm, chủ quan, duy ý chí. Một lý thuyết ảo tưởng phi khoa học thì sẽ bị thực tế chống lại nên dần dần phải làm ngược lại hết, CS phải tự làm ngược lại những tín điều của mình mới mong tồn tại. Cuối cùng, ngày nay mỗi đảng viên đều phải chọn cho mình một sự giã từ, một sự “phản bội”: hoặc là trung thành với chủ nghĩa thì phản bội nhân dân, muốn trung thành với nước với dân thì phải phản lại chủ nghĩa[4]!
Khi bạn trung thành với nước với dân, với nhân tâm, với chân lý phổ quát thì bạn là “con người chân chính”, rất chân chính, tôi yêu quý bạn, nhưng bạn không còn là “người CS chân chính” nữa đâu, âu cũng là lối tự hào do cảm tính, xin đừng nhầm lẫn!
Bạn lại bảo: Tôi trung thành với chủ nghĩa CS là trung thành với lý tưởng cao đẹp của nó. Bạn lại nhầm rồi.Nhân tố chủ yếu làm nên một chủ nghĩa, phân biệt chủ nghĩa này với chủ nghĩa khác không phải ở mục đích mà nó tuyên bố, mà ở con đường mà nó vạch ra, vì mục đích sau cùng thì bao giờ chẳng tốt đẹp, căn bản đều phải hướng đến tự do-hạnh phúc cho con người. Nhưng khi con đường sai hoặc ảo tưởng thì không đến đích mong muốn hoặc chỉ đem đến kết quả ngược lại như trường hợp chủ nghĩa Mác-Lênin [5]. 
Ngoài ra, có cách đi đến đáp án đơn giản hơn nhiều:
Khi một chủ nghĩa ảo tưởng chỉ đem lại kết quả ngược với mong muốn thì chủ nghĩa ấy không thể coi là CHÂN CHÍNH được. Chủ nghĩa đã không CHÂN CHÍNH thì làm sao tín đồ của nó lại CHÂN CHÍNH được? Bạn chỉ có thể là một CON NGƯỜI CHÂN CHÍNH vì thực ra bạn đã làm ngược tín điều của Chủ nghĩa rồi, chắc bạn là người nặng về duy cảm nên không nỡ hay không dám để cho bộ óc Duy lý được đứng trước gương mà phán xét đó thôi! Xin nói với nhau một lời thông cảm thực lòng như vậy. 
III. LẤY ĐÍCH DÂN CHỦ-ĐỘC LẬP-PHÚ CƯỜNG LÀM SỢI DÂY LIÊN KẾT
Chỉ cần nhìn các nước quanh ta với một xuất phát “same-same” như nhau đủ thấy trong cuộc chạy đua thế kỷ, ViệtNamchúng ta là kẻ thua cuộc, là đoàn khách nhỡ tàu.
Chỉ nhìn kinh tế – kỹ thuật đã thấy thua các nước bạn trong khu vực vài chục năm nhưng sự thua kém về độc lập – tự do, về văn hóa – nhân phẩm còn đáng lo hơn nhiều. 
Nay muốn đoàn kết để thực hiện dân chủ ắt phải chấp nhận đa dạng đã đành, nhưng ở một nước vừa trải qua mấy cuộc phân ly kinh khủng, lại đang bị ngự trị bởi một Ý thức hệ đoàn kết giả để phân ly thật thì lòng người ly tán là một trở ngại khổng lồ, nếu không biết chấp nhận sự khác biệt thì lấy đâu sức mạnh cho một sứ mệnh cũng khổng lồ tương xứng? (Sứ mệnh lập lại một xã hội đã bị phá nát từ gốc, quay lại một con đường đã đi ngược trên nửa thế kỷ, chống lại một anh hàng xóm khổng lồ chỉ muốn kìm giữ Việt Nam yên vị như một con cừu Ý thức hệ vừa ngoan vừa chậm vừa ngu để hắn có thể ngoạm dần hết cơ thể con mồi trong cái áo choàng hữu nghị đểu). 
- Muốn có khối đoàn kết toàn dân tộc, trước hết hãy tìm khả năng đoàn kết giữa các khối người tích cựcmà họ đang rất khác nhau như trên đã nói. Hãy quý sự khác nhau ấy vì đó chẳng những là thực tiễn buộc phải chấp nhận, là tất yếu trong tinh thần dân chủ, mà còn là thuận lợi để diễn tiến xã hội đi lên một cách hòa bình. Nếu không có những “trí thức cận thần”, còn rất khác những người có tư duy triệt để (biết phải thay đổi cái cũ tận gốc), đồng thời lại có những người trung gian giữa hai thái cực ấy thì sao có thể nối với nhau thành những nhịp cầu chuyển hóa dần dần? Nối tiếp với nhau được nếu tất cả đều hướng về phía trước, dẫu kẻ trước người sau nhưng phải chống những kẻ ngược chiều hoặc mưu toan cơ hội trụ lại nửa chừng để chia hoa lợi!
Một ví dụ: trong những người đã có thời hăng hái theo đảng làm một cuộc gọi là “chống Mỹ cứu nước” có người không muốn nhắc lại “thành tích đáng buồn” cũ (như anh em Huỳnh Nhật Hải-Huỳnh Nhật Tấn) trong khi rất nhiều người vẫn muốn nhắc lại những kỷ niệm một thời tranh đấu “hào hùng”. Không sao, miễn là khi nhắc lại chuyện cũ phải nhìn dưới lăng kính mới, vượt trên cái cũ với óc phê phán để phục vụ cho cái mới. Chẳng hạn phải hiểu vì sao trong chế độ cũ (mà ta quyết đánh đổ) ta có thể ngang nhiên tranh đấu, tuyên bố hùng dũng, thậm chí lãng mạn bay bổng, thỏa chí tang bồng chống lại giới cầm quyền, còn trong chế độ mới (mà ta mơ ước) ta chỉ dám làm bằng 1 phần trăm thời xưa thôi mà đã phải rụt rè? Chẳng hạn ngày trước dưới cái nhìn bồng bột ta chỉ thấy cái gọi là “Mỹ Ngụy” là thấp hèn, tàn ác, đáng khinh ghét, nay dưới cái nhìn dân chủ và toàn cầu ta lại mong sao bây giờ được bằng cái mà ta đã quyết diệt [6], mong trở lại cơ hội cũ mà ta đánh mất, để rồi từ đó tiếp tục đi lên thì dễ dàng hơn. 
Chẳng hạn ta nhận ra sự “hào hùng” cũ thật là “bi tráng” (như nhà văn TDBC nhận thấy), nhưng “bi” không ở chỗ bị kẻ thù tàn sát, thất bại đau đớn như cái bi hùng của phong trào Nguyễn Thái Học, mà ngược đời, “bi” lại ở chỗ muốn thắng cuộc thì nhất thời đã thắng, nhưng nghĩ lại, thà đừng thắng thì hơn! “Bi” ở chỗ cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi thanh niên (nhưng còn bồng bột, cảm tính, bị tuyên truyền), tương tự như cái vốn quý giá mà Dương Thu Hương gọi là “một khối vàng ròng”, nhưng đã bị lợi dụng, bị dùng nhầm, dùng phí phạm, đáng tiếc. Song cái “bi” ở đây cũng không hề “bi lụy” nếu ta quyết hồi sinh cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi trẻ ấy, với sự bổ khuyết rất cần thiết bằng các tri thức hiện đại, trưởng thành, để dùng vào công cuộc hôm nay, như để bù đắp cho điều đáng tiếc cũ, thì sự hồi tưởng như thế thật là hồi tưởng vô cùng tích cực.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc cũng vậy, nghĩ lại thời đã qua để thấy trách nhiệm của mình. “Cả tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt, để đúc nên chính cỗ máy này”, cái cỗ máy của sự “đểu cáng lên ngôi”. Hồi ức chuyện cũ để mà hối tiếc cho nhiệt huyết của mình không đem lại kết quả mong muốn, và thấy trách nhiệm của mình trong hiện tại! Một khi cùng hướng về phía trước và hành động cụ thể là nhất định gặp nhau. (Không biết trong hàng ngũ của các anh có ai muốn ôn chuyện cũ để kể công, để che dấu cái hèn hiện tại, để lập một cái gì đó chung chiêng hay không thì tôi không rõ, tất nhiên không bàn). 
- Hãy biết ơn những người tiên phong.
Nếu như trên mặt phẳng nằm ngang ta hình dung đoàn người nối tiếp nhau như cây cầu bắc từ chế độ độc tài toàn trị đến cuối cầu là chân trời Dân chủ-Độc lập-Phú cường, trong đó những tư tưởng tiên phong luôn dẫn đầu đi trước, thì đừng quên một đường dây thẳng đứng, người nọ đứng lên vai người kia, để đưa nhau từ đáy giếng lên bờTrên cái “chồng người” thẳng đứng ấy những người tiên phong đứng ở dưới cùng cho đồng đội được đứng lên vai. Những người tiên phong ấy sẽ lên bờ sau cùng hoặc lúc khải hoàn có thể không còn họ nữa.
Về Độc lập dân tộc nếu không có những anh hùng liệt nữ đã hy sinh liệu ngày nay ta có còn quốc gia không để mà tranh đấu? Chúng ta đã đứng trên vai họ để có hôm nay. Về Dân chủ-Tự do cũng vậy. Nếu không có những người dân chủ tiên phong như Nguyễn Mạnh Tường, như Hữu Loan, như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang, Lê Hồng Hà, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, Hòa thượng Thích Quảng Độ, cha Nguyễn Văn Lý, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức… vân vân và vân vân… mà hầu hết họ đều bị tù đày, và biết bao tiếng nói dân  chủ từ bên ngoài hỗ trợ thì làm sao có chút nền dân chủ cỏn con để có thể tồn tại những trang web dân chủ trong nước như trang Bô-xít, trang Basam và các blogger? Rồi đến lượt, nếu không có những trang web và blogger ấy làm chỗ tựa làm sao đoàn trí thức 16 vị có thể được đón tiếp để trao những kiến nghị và dự thảo Hiến pháp quá mạnh dạn kia, cũng như cá nhân tôi lúc này có thể công khai công bố những lời đóng góp thẳng thắn nhường này? Chúng ta đã được đứng trên vai họ, những người dân chủ tiên phong chịu nạn tù đày để giành lấy từng tý chút dân chủ cho ta tiếp tục. Hãy nhớ ơn họ!
Nói đến chuyện đứng trên vai nhau, tôi lại thầm hỏi mình: nếu không có đồng đội lấy vai cho mình đứng, lại không có một điểm tựa nào đó từ môi trường, dù là điểm tựa vô tình hay vô tri thì một cá nhân đơn độc làm sao có thể vượt qua cái vai của mình? Tự mình vượt qua chính mình mới thật là điều khó lắm thay! Làm sao có thể tự thắng cái khối lượng ì ạch của bản thân với tất cả những sức cản nặng nề đã ràng buộc mình vào cuộc đời này?
Đà Lạt ngày 24-2-2013
H.S.P.
Nguồn: Bauxite Việt Nam
———————————————————————————-
[1] “Quy luật” tương tự này tôi đọc thấy đã lâu, gần đây thấy nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh và nhà báo Lê Diễn Đức nhắc tới. Tôi diễn đạt lại cho rõ hơn (HSP)
[2] Xưa nhích chân đi giờ nhích lại: HCM quyết định theo Quốc tế 3 khi chưa hiểu CS là gì ! Tư liệu trích từ:
-Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nhà xuất bản Văn học, Hànội (in lần thứ tám), 1975, trang 44.
Hồ Chí Minh:Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000, trang 126.
Lữ Phương:Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, THƯ NHÀ xuất bản,Australia, 2002, trang 40.
[3] Xem bài Từ Nguyễn Phú Trọng đến Lê Hiền Đức (HSP)
[4] Từ vụ Bauxite nghĩ về vận nước (www.hasiphu.com/baivietmoi_40.html)
[5] Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của Trí tuệ
[6]  Nguyên Ngọc (S: Tôi nghĩ giá như trong cuộc chiến vừa qua, miền Nam thắng, thì có lẽ sẽ tốt hơn …).Huy Đức: “bên (cần)được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”.

Việt Nam 1945-1995 – Chương 10: Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia

Chương 10: Sai lầm của Việt Nam Quốc Gia

GS Lê Xuân Khoa
Càng cần hoà giải hơn nữa khi đất nước đang ở một khúc ngoặt lịch sử quan trọng trong những tương quan quốc tế mới đòi hỏi sự đóng góp của mọi nguồn nhân lực và tài lực ở trong và ngoài nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mọi người đều nhìn nhận rằng trong cuộc chiến tranh quốc gia-cộng sản, các chiến sĩ ở cả hai bên đều chiến đấu vì lòng yêu nước nhưng cũng bị biến thành công cụ của những thế lực quốc tế. Vì vậy, mọi người cần phải rút ra được bài học của quá khứ, thẳng thắn nhìn nhận các sai lầm và dẹp bỏ hận thù để cùng nhau đưa nước Việt Nam ra khỏi tình trạng tụt hậu và trở thành một quốc gia giàu mạnh, dân chủ và tiến bộ. Bởi vì sự thật đau lòng là cuộc chiến tranh tàn phá nhất và giết nhiều người nhất trong lịch sử Việt Nam thực tế là một cuộc chiến mà tất cả mọi phe đều thua, và nạn nhân chính vẫn là dân tộc và đất nước Việt Nam.
Chương Một và Chương Năm trên đây đã có dịp phân tích những nguyên nhân thất bại của các đảng phái quốc gia trong cuộc tranh giành với đảng cộng sản vai trò lãnh đạo dân tộc chống thực dân Pháp, từ trước 1945 cho đến hội nghị Genève 1954. Chính phủ Trần Trọng Kim, thuộc phe quốc gia nhưng không chống Việt Minh, đã được đánh giá khá đầy đủ ở chương Một. Chương này sẽ chỉ nhận định khái quát về các chính quyền quốc gia trong cuộc chiến tranh chống Pháp, trước và sau Hiệp định Élysée (Auriol-Bảo Đại) năm 1949, và chú trọng nhiều hơn vào những chính phủ ở miền Nam trong hai mươi năm xung đột với miền Bắc. Thời kỳ hậu-Genève này gồm có Đệ nhất Cộng Hòa với chính quyền Ngô Đình Diệm (1955-1963), bốn năm chuyển tiếp gồm Hội đồng Quân nhân Cách mạng, các chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ (1963-1967), và cuối cùng là Đệ nhị Cộng Hòa với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975).
Sai lầm căn bản của tất cả các chính phủ quốc gia là không có một chính sách và một chiến lược hữu hiệu để tranh thủ nhân tâm chống lại chiến dịch tuyên truyền của chính phủ cộng sản miền Bắc. Trong cuộc “chiến tranh nhân dân” do đảng cộng sản điều động, mặt trận chính trị còn quan trọng hơn cả mặt trận quân sự, vì quan hệ giữa quân với dân được ví như cá với nước, không có nước (dân) thì cá (quân) không sống được. Bộ đội du kích kiểm soát được dân bằng cách sống gần gũi với dân và nhờ sự che chở của dân, mặc dù cũng đe dọa hay trừng phạt dân trong những trường hợp bất hợp tác. Cán bộ cộng sản làm công tác tuyên truyền không rao giảng chủ nghĩa Mác-Lênin mà chỉ nhấn mạnh vào chính nghĩa của cuộc chiến là lòng yêu nước: nếu trước kia chống thực dân Pháp để đòi lại độc lập thì nay chống đế quốc Mỹ để cứu nước và bảo vệ độc lập. Ngoài ra, vì đối tượng chính là dân chúng ở nông thôn, cuộc tuyên truyền được nhấn mạnh vào việc bôi xấu chế độ VNCH và thổi phồng những “tội ác của Mỹ-Ngụy,” trong khi hứa hẹn đem lại cho dân chúng một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc và tự do hơn.
Trước khi kiểm điểm những sai lầm của các chính quyền quốc gia, ta hãy đánh giá tính chất chính đáng của các chính quyền ấy qua hai cuộc chiến tranh từ 1945 đến 1975. Để cho việc nhận định về các chính quyền chống cộng không bị thiếu sót, những chính quyền do Pháp dựng nên trước khi Quốc Gia Việt Nam chính thức thành lập do Hiệp định Élysée 1949 cũng cần được nhắc đến.
Ngay sau khi Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba 1946 được ký kết, Pháp đã chuẩn bị cho ra đời một Chính phủ Nam kỳ Tự trị nhằm chống lại điều khoản đầu tiên của hiệp định dự liệu tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để cho nhân dân ba miền ở Việt Nam tự quyết định về vấn đề thống nhất lãnh thổ. Ngày 12 tháng Ba, ủy viên Cộng hòa Pháp ở miền Nam Jean Cèdile tuyên bố Hiệp định 6 tháng Ba chỉ có tính cách địa phương giữa ủy viên Cộng hòa Pháp ở miền Bắc là Sainteny và Việt Minh, không có giá trị đối với phần lãnh thổ ở phía Nam vĩ tuyến 16. Lời phủ nhận của Cèdile trái ngược với quyết định của chính phủ Félix Gouin chấp thuận hiệp định này. Trong cùng một ngày, Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, đại biểu Hội đồng Tư vấn Nam kỳ, đề nghị với Cèdile cho Nam Kỳ tiến đến tự trị bằng cách được hưởng những điều kiện tương tự như Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba cho miền Bắc.1
Sau một chiến dịch bằng báo chí như tờ Tân ViệtLe Populaire, và một loạt những cuộc biểu tình do Đảng Dân Chủ Nam Kỳ và Mặt Trận Bình Dân Nam Kỳ tổ chức, Cédile sắp đặt cho một phái đoàn do Nguyễn Văn Xuân cầm đầu sang Pháp ngày 23 tháng Tư để vận động cho Nam Kỳ tự trị. Đây là âm mưu của d’Argenlieu và Cédile nhằm mục đích phá Hội nghị Việt-Pháp về vấn đề thi hành Hiệp định Sơ bộ khai mạc ngày 19 tháng Tư tại Đà-lạt. Phái đoàn Nguyễn Văn Xuân tới Paris ba ngày trước khi một phái đoàn Quốc Hội Việt Nam do Phạm Văn Đồng hướng dẫn sang viếng thăm thiện chí Quốc hội và Chính phủ Pháp. Ngày 11 tháng Năm, hội nghị Đà-lạt không đạt được kết quả, phải hoãn vô thời hạn. Hồ Chí Minh quyết định sang Paris để hỗ trợ cho phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị Fontainebleau như một nỗ lực cuối cùng cho việc thi hành hiệp định sơ bộ. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam cầm đầu, nhưng ông Tam vào ngày chót cáo bệnh không đi nên Phạm Văn Đồng, khi đó đang ở lại Paris để chờ phái đoàn, được chỉ định làm trưởng đoàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn lên đường ngày 31 tháng Năm thì ngay ngày hôm sau, 1 tháng Sáu, Chính phủ Tự Trị Nam Kỳ được thành lập.2
Chính phủ Nam kỳ Tự trị do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu được Pháp cho ra đời chính là để phủ nhận Hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba và phá hoại những cố gắng cứu vãn hòa bình của Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau. Chính phủ ấy gồm một số trí thức và nghiệp chủ thân Pháp đích thực là một chính phủ bù nhìn dựa vào thế lực của Pháp, hoàn toàn không có một cơ sở chính đáng nào về chủng tộc và lịch sử, và đi ngược lại nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, những người chủ trương Nam kỳ tự trị không hẳn là những người phủ nhận gốc rễ chủng tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. Ngoài cảm tình và lòng ngưỡng mộ văn hóa Pháp mà họ chịu ảnh hưởng sâu đậm hơn do quy chế thuộc địa, họ còn có những quyền lợi vật chất và tinh thần cần được bảo vệ trước viễn tượng của một nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản. Do đó, chủ trương Nam kỳ tự trị cần được hiểu như một nhu cầu chính trị, một phản ứng tự vệ của một địa phương trước sự đe dọa bị chiếm đoạt và trừng phạt của một chính quyền cộng sản trung ương từ miền Bắc. Muốn tự vệ và bảo vệ quyền lợi của mình, giới trí thức và nghiệp chủ ở miền Nam không có đủ khả năng chống lại làn sóng cách mạng do Việt Minh lãnh đạo nên bắt buộc phải dựa vào đồng minh là Pháp để hai bên cùng có lợi. Lúc này Bảo Đại chưa xuất hiện như một giải pháp và một cơ hội cho các đảng phái quốc gia có thể liên kết với nhau thành một lực lượng chính trị đối phó với Việt Minh.
Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, Thủ tướng Chính phủ Nam Kỳ Tự Trị, được biết là một người có lòng tốt và không có đầu óc kỳ thị Nam-Bắc, ngoài nhu cầu chính trị trước mắt. Khi miền Bắc bị nạn đói năm 1945, ông đã đáp ứng lời kêu gọi của chính phủ Trần Trọng Kim, thành lập một tổ chức quyên được khá nhiều tiền cứu giúp nạn nhân đói kém. Vụ ông treo cổ tự tử sau hơn bốn tháng làm thủ tướng, dù vẫn còn là một nghi vấn chưa được giải đáp rõ rệt, được nhiều người tin là vì ông bất mãn với những lời hứa hẹn không thực hiện của Pháp về những quyền lợi chính trị và kinh tế của miền Nam, và ông hối hận vì đã tin tưởng sai lầm vào chính phủ Pháp. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng xác nhận như vậy.
Sau khi Lê Văn Hoạch được Hội Đồng Tư vấn Nam Kỳ bầu làm Thủ tướng thay thế Nguyễn Văn Thinh, vai trò của Bảo Đại càng ngày càng được nhắc đến như một giải pháp thích hợp, có thể được Pháp và Hoa Kỳ hỗ trợ để đối phó với cộng sản và xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ thân Tây phương. Giữa tháng Hai 1947, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp (MTQGLH)3 họp ở Nam Kinh ra tuyên ngôn ủng hộ Cựu Hoàng Bảo Đại để thành lập một chính phủ đoàn kết quốc gia. Các nhân vật chính trị miền Nam như Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Tỷ, Nguyễn Tấn Cường, Trần Văn Hữu bắt đầu chuyển hướng sang lập trường thống nhất ba kỳ. Ngày 23 tháng Tám, Thủ tướng Lê Văn Hoạch tiếp xúc với Bảo Đại ở Hong Kong và khi trở về muốn cải tổ chính phủ theo chiều hướng của MTQGLH nhưng gặp khó khăn từ phía Pháp và một số người trong Hội đồng Tư vấn Nam kỳ. Ngày 9 tháng Chín, Bảo Đại triệu tập ở Hong Kong hội nghị tham khảo MTQGLH và đại diện các đảng phái chính trị và tôn giáo từ ba miền ở trong nước. Hội nghị ra tuyên cáo chung yêu cầu Bảo Đại ra cầm quyền và mở cuộc đàm phán với Pháp nhằm đem lại hòa bình và độc lập cho Việt Nam. Ngày 18 tháng Chín, Bảo Đại ra tuyên cáo với quốc dân, nhắc đến việc hai năm trước ông đã từ bỏ ngai vàng của tổ tiên để tránh một cuộc đổ máu giữa người Việt và người Việt. Ông cho biết đã chọn cuộc sống lưu vong để không gây trở ngại cho chính quyền mới mà đa số nhân dân khi đó đã lựa chọn vì tin tưởng sẽ đem lại được hòa bình và hạnh phúc cho dân tộc. Tuy nhiên sau hai năm kinh nghiệm đau thương, nhân dân mong mỏi đất nước thoát khỏi nạn chiến tranh và được sống dưới một chế độ chính trị mới. Vì vậy, ông long trọng tuyên bố:
Đáp lời kêu gọi của quốc dân đồng bào, tôi nhận lãnh nhiệm vụ được quốc dân giao phó và sẵn sàng tiếp xúc với nhà cầm quyền Pháp. Tôi sẽ cùng với họ xem xét một cách khách quan những đề nghị đã nhận được.
Trước hết, tôi muốn đạt được độc lập và thống nhất đúng với nguyện vọng của đồng bào, tiến đến các thỏa hiệp về những đảm bảo giữa đôi bên, và có thể đoan chắc rằng lý tưởng mà chúng ta đã anh dũng theo đuổi trong một cuộc chiến khốc liệt sẽ phải đạt được.
Như vậy, tôi sẽ tận lực hòa giải mối mâu thuẫn giữa các nhóm với nhau, bởi vì một khi chúng ta đã đạt được mục đích thì không có gì có thể chống lại việc vãn hồi hòa bình. Tôi muốn duy trì nền hòa bình này để đem lại an ninh và thịnh vượng cho đồng bào. Thời gian sẽ làm dịu bớt những tình cảm mãnh liệt. Trong tình đoàn kết, tất cả mọi người Việt Nam sẽ xây dựng lại xứ sở đẹp đẽ của chúng ta trên những nền tảng mới, khơi nguồn sinh lực trong những truyền thống mạnh mẽ của chúng ta.”4
Vì Pháp vẫn muốn duy trì chính phủ Nam kỳ tự trị, ngày 29 tháng Chín, chính phủ Lê Văn Hoạch từ chức. Nguyễn Văn Xuân được Hội đồng Tư vấn ủy cho lập chính phủ mới. Đây là một lỗi lầm rất lớn của Pháp vì phá hoại chính nghĩa quốc gia của các chính phủ do Bảo Đại cầm đầu sau này.
Điều đáng tiếc là phe quốc gia đã bỏ lỡ những cơ hội tốt đẹp nhất cho giải pháp Bảo Đại có thể đạt được mục tiêu độc lập và thống nhất cho đất nước. Hội nghị 9 tháng Chín 1947 do Bảo Đại triệu tập ở Hong Kong lần đầu tiên quy tụ được khá đầy đủ đại diện các đảng phái và tôn giáo ở trong và ngoài nước, gây được nhiều tiếng vang và có triển vọng được sự ủng hộ rộng rãi của mọi giới. Theo sử gia Joseph Buttinger, trong một cuộc gặp gỡ ở Hong Kong với William Bullitt, cựu Đại sứ Mỹ ở Pháp và Liên Xô, Bảo Đại được biết là Hoa Kỳ sẽ ủng hộ một chính phủ Việt Nam không cộng sản.5 Những chính khách chủ trương Nam Kỳ tự trị cũng đã nhận thấy cơ sở chính đáng cho một liên minh chính trị toàn quốc và đã bắt đầu ủng hộ hoặc tham gia vào MTQGLH. Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cũng viết thư cho Chủ tịch Quốc Hội Pháp yêu cầu thương thuyết với Bảo Đại. Như vậy, nếu các đoàn thể quốc gia đại diện cho cả ba miền có thể kết hợp thành một lực lượng hậu thuẫn cho Bảo Đại để tranh đấu với Pháp thì chính nghĩa quốc gia sẽ được sáng tỏ và có nhiều hi vọng được Hoa Kỳ và quốc tế ủng hộ. Tuy nhiên, cơ hội này đã bị làm hỏng vì hai nguyên nhân chính:
Thứ nhất, là sự phá hoại của Pháp bằng việc lung lạc Hội Đồng Tư Vấn Nam Kỳ và xây dựng vai trò Nguyễn Văn Xuân trong ý đồ thành lập một Liên Minh Ba Kỳ. Theo sự tiết lộ của Bảo Đại, khi thấy chính phủ Nam Kỳ Tự Trị không có hi vọng tồn tại, các giới chính trị Pháp nghĩ đến một giải pháp “trung đạo”, giữa giải pháp mác-xít và giải pháp quân chủ, nghe có vẻ phù hợp với triết lý Khổng-Mạnh. Ý đồ của ông Xuân là trong giai đoạn đầu thành lập Liên Minh Ba Kỳ: miền Bắc với Hồ Chí Minh, miền Trung với Bảo Đại, và miền Nam với Nguyễn Văn Xuân. Giai đoạn thứ nhì là loại bỏ Hồ Chí Minh cộng sản và Bảo Đại quân chủ để xây dựng một chính thể cộng hòa tiến bộ. Cuộc khủng hoảng chính trị ở Pháp đưa đến sự sụp đổ của chính phủ Ramadier và dư luận bất lợi ở trong nước đã khiến cho ý đồ liên minh ba Kỳ không thể tiến hành được. Nguyễn Văn Xuân đổi tên “Chính phủ Cộng Hoà Nam kỳ Tự trị” thành “Chính phủ Lâm thời miền Nam,” nhưng ý niệm ly khai vẫn còn đó.6
Thứ hai —và đây mới là nguyên nhân chính— là sự bất đồng ý kiến giữa các lãnh tụ chính trị quốc gia. Giải pháp Bảo Đại có nhiều triển vọng thành công trong những năm 1947-1949 khi lực lượng Việt Minh còn yếu kém vì chưa được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ. Ý thức được vai trò cần thiết và thời cơ thuận lợi của mình, Bảo Đại đã đòi Pháp những điều kiện có lợi cho Việt Nam hơn là bản hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba hay bản tạm ước 14 tháng Chín 1946 giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet. Trong một buổi hội kiến với Dân biểu Walter H. Judd và các thành viên trong Tiểu ban Ngoại vụ của Hạ viện Mỹ thăm Việt Nam vào cuối tháng Mười Một, 1953, Bảo Đại kể lại rằng buổi tối trước ngày ký Hiệp ước Élysée 8.3.1949, Việt Minh đã cử đại diện tới gặp chính phủ Pháp, đặt vấn đề: “Tại sao các ông lại nhượng bộ nhiều thế? Chúng tôi sẽ ký với các ông một hiệp định ngưng bắn khác theo những điều khoản của hiệp định 1946.”7 MTQGLH có triển vọng trở thành một liên minh chính trị có uy tín, quy tụ được đông đảo các đảng phái chính trị, các tổ chức tôn siáo và đoàn thể quần chúng trên toàn quốc để hậu thuẫn cho Bảo Đại trong những cuộc thương nghị đem lại độc lập, thống nhất và hòa bình cho xứ sở. Khi đó, Hồ Chí Minh cũng muốn điều đình với Pháp, nhưng cần phải ngăn chặn MTQGLH lôi cuốn những phần tử yêu nước không cộng sản trong Mặt trận Việt Minh. Kết quả là một số lãnh tụ quốc gia bị ám sát như Huỳnh Phú sổ, giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo, Nguyễn Văn Sâm, một trong những người cầm đầu MTQGLH, và Trương Đình Tri, Chủ tịch Hội Đồng An Dân Bắc phần và là cựu Bộ trưởng Y tế trong Chính Phủ Liên Hiệp của Việt Minh.
Nhược điểm cố hữu của phe quốc gia là không thể nào kết hợp được với nhau thành một khối, vì khác biệt ý kiến hoặc vì quyền lợi cá nhân hay bè phái. Tất cả các nhà lãnh đạo đảng phái hay đoàn thể tôn giáo, xã hội đều thấy mình quan trọng như nhau, không có một lãnh tụ nào vượt trội có đủ uy tín và quyền lực để mọi người tuân phục như Hồ Chí Minh đối với Mặt trận Việt Minh. Các lãnh tụ chính trị cùng một Đảng như Đại Việt cũng có năm ba phe, chẳng hạn phe Nguyễn Tôn Hoàn (miền Nam) không ưa phe Phan Huy Quát (miền Bắc). Thủ Tướng chính phủ trung ương Trần Văn Hữu chống Thủ hiến miền Trung Phan Văn Giáo, và cuộc vận động của Phan Văn Giáo với Bảo Đại để ông kiêm nhiệm Tư lệnh Sư đoàn miền Trung đã khiến tư lệnh người Pháp Lorillot nhận xét rằng Thủ hiến Giáo muốn tạo ra “một quốc gia trong một quốc gia.”8 Trần Văn Hữu cũng chống Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí vì ông Trí chỉ trích ông Hữu tham nhũng và kiêm nhiệm quá nhiều bộ.9 và đòi hỏi các Bộ Quốc phòng, Kinh tế và Giáo dục cho đảng Đại Việt. Tướng de Lattre phải can thiệp và hòa giải. Phe Công giáo ở Bùi Chu, Phát Diệm dưới sự lãnh đạo của Giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi thì muốn tồn tại trong tư thế độc lập nên khai thác cả hai phía Hồ Chí Minh và Bảo Đại, tức là vừa kháng chiến chống Pháp vừa nhận viện trợ của chính phủ quốc gia. số giáo dân khi ấy đi theo Việt Minh cũng còn khá nhiều. De Lattre phải sang Vatican vận động Đức Giáo Hoàng nên vào đầu tháng Mười Một 1951, Khâm Mạng Tòa Thánh tại Đông Dương John Dooley triệu tập Hội Nghị các Giám Mục Đông Dương tại Hà Nội và ra thông cáo chung gửi các tín hữu Ki-tô, nhấn mạnh rằng:
Đức Thánh Cha của chúng ta đã tuyên cáo rằng tuyệt đối không bao giờ có thể vừa theo Cộng sản vừa theo Ki-tô giáo được, và người Ki-tô nào gia nhập đảng cộng sản thì thực tế tách rời khỏi Giáo hội. Chẳng những Đức Thánh Cha cấm các giáo dân không được gia nhập đảng cộng sản mà còn không được cộng tác với họ hay giúp đỡ họ nắm chính quyền dù dưới hình thức nào….10
Bảo Đại không phải là một lãnh tụ chính trị có khả năng tổ chức và chỉ huy một Mặt Trận tranh đấu với tinh thần cách mạng, mà chỉ là một khuôn mặt tượng trưng, được kính nể với tư cách một cựu hoàng đế và cựu “cố vấn tối cao” của chính phủ Hồ Chí Minh. Bảo Đại cần có một chính phủ gồm những người yêu nước có uy tín. Trong khi đó, MTQGLH hay bất cứ hình thức liên minh nào khác của các tổ chức quốc gia đều chỉ được thành lập do yêu cầu nhất thời của tình thế, nhưng không thể nhất trí trong đường lối, thống nhất trong cơ cấu tổ chức và kỷ luật làm việc. Với quan niệm lãnh đạo phong kiến cổ truyền, các lãnh tụ chính trị không chấp nhận ý kiến khác biệt hay đối lập và cũng không tuân hành nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Bởi thế, các liên minh chính trị quốc gia luôn luôn có một cơ cấu lỏng lẻo, thiếu lãnh đạo, chỉ có bề ngoài dân chủ mà không có tinh thần dân chủ, và vì vậy có thể tan rã dễ dàng.
Các nhà lãnh đạo chính trị quốc gia, vì cạnh tranh với nhau, cần phải chứng tỏ tinh thần ái quốc cao độ của mình nên thường không chịu chấp nhận cả những giải pháp ôn hòa vì không muốn để cho đối phương có lý do chỉ trích hay kết tội là “phản quốc”. Một lãnh tụ có tầm cỡ như Hồ Chí Minh, sau khi ký hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba 1946 trong một tình thế phải nhượng bộ để tồn tại, cũng đã phải long trọng thề với quốc dân là “Hồ Chí Minh này không bán nước!” để trấn an lòng bất mãn trong nội bộ Việt Minh và những lời cáo buộc của các đảng phái quốc gia. Khác với Hồ Chí Minh là người cộng sản nhưng sẵn sàng hợp tác với người quốc gia như một phương tiện để đạt tới cứu cánh, Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam rút ra khỏi MTQGLH sau hội nghị 9 tháng Chín ở Hong Kong vì thấy có một số người thân Pháp từ miền Nam sang tham dự. (Nguyễn Tường Tam là một trí thức không thuộc phái cổ truyền nhưng có tinh thần quốc gia quá khích.) Thái độ không chấp nhận khác biệt và sợ bị mang tiếng nhượng bộ làm bế tắc mọi cuộc thảo luận, làm cùn nhụt tinh thần linh động và sáng tạo, yếu tố cần thiết để đạt được đồng thuận. MTQGLH thay vì được tăng cường lại suy yếu dần đến chỗ tan rã. Ngô Đình Diệm ủng hộ giải pháp Bảo Đại và đã thuyết phục được nhiều nhóm công giáo kháng chiến rời bỏ Việt Minh, rốt cuộc đã từ chối lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập chính phủ hồi tháng Năm 1949, cũng chỉ vì không thỏa mãn với bản Hiệp ước Élysée giữa Auriol và Bảo Đại.
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Ngô Đình Diệm đại diện cho nhóm yêu nước quá khích, không coi việc thỏa thuận với Pháp vào những năm cuối thập kỷ 1940 như bước đầu cần thiết để tiến đến độc lập và thống nhất hoàn toàn. Trong khi đó, Hồ Chí Minh là một chính trị gia thực tế và mưu lược, sẵn sàng tạm chấp thuận những điều kiện kém thuận lợi để có đủ thời gian xây dựng lực lượng. Thái độ bất hợp tác của những người chống Pháp cực đoan và tình trạng phức tạp của những đoàn thể quốc gia làm cho Bảo Đại càng ngày càng trở nên cô đơn trước trách nhiệm lịch sử nặng nề. Thêm vào đó là những hoạt động phá hoại của Pháp và những đại điền chủ miền Nam vừa mua chuộc vừa chia rẽ các lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa Hảo. Việt Minh, dưới sự điều động của tướng Nguyễn Bình, cũng triệt để khai thác cơ hội này. Nhiều nhân vật có khả năng và uy tín không muốn tham gia chính phủ và chọn thái độ “chờ xem”, tạo thành một lớp người mà thuật ngữ đương thời gọi là những “nhân sĩ trùm chăn.” Tình hình đó đã làm cho phe quốc gia không được Hoa Kỳ tin tưởng và ủng hộ mặc dù Hoa Kỳ rất bất mãn với chính sách thực dân của Pháp ở Đông Dương. Thái độ lạnh nhạt của Hoa Kỳ làm cho Bảo Đại rất thất vọng vì, theo nhận định của Bộ trưởng Quốc phòng Phan Huy Quát, “Bảo Đại không thể xác định được chính sách của Mỹ đối với Việt Nam thật ra như thế nào. Mặc dù ông hiểu, và chấp nhận việc Mỹ cần trông cậy vào Pháp trong công cuộc phòng thủ Tây Âu, Bảo Đại thắc mắc không hiểu tại sao Mỹ không hết lòng ủng hộ cho Việt Nam đạt được nguyện vọng gần như hoàn toàn độc lập, đặc biệt là về quân sự, vì một nước Việt Nam mạnh sẽ rất có lợi chẳng những cho Pháp mà còn cho toàn thể khối Tây phương.”
Vốn không phải là một người làm cách mạng cho nên khi gặp hoàn cảnh khó khăn và phức tạp, Bảo Đại dễ chán nản với đời sống chính trị và dễ bị lôi cuốn vào những lạc thú sa đọa của một cựu hoàng thất thế. Kể từ khi được Bảy Viễn mua chuộc bằng tiền của sòng bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn ngoài số tiền lương bổng, trương mục ngân hàng và bất động sản ở Pháp, Bảo Đại càng ngày càng tránh né trách nhiệm và không còn uy tín của một vị nguyên thủ quốc gia.12 Tương lai chính trị của Bảo Đại coi như chấm dứt khi ông nhận hối lộ của Bình Xuyên, đồng ý với Pháp ủng hộ tập đoàn mafia này và còn muốn đưa Bảy Viễn ra làm Tổng trưởng.
Đại sứ Mỹ Collins, dù đồng ý với Cao ủy Pháp Ely chống Ngô Đình Diệm, cũng là người không chịu chấp nhận Bảy Viễn trong sinh hoạt chính trị miền Nam.
Một cơ hội thứ hai rất lợi cho giải pháp Bảo Đại là Quốc Dân Đại Hội họp tại Sài-gòn từ 10.10 đến 17.10.1953 với hơn hai trăm đại biểu của ba miền đất nước. Trần Trọng Kim, cựu Thủ tướng không đảng phái, được bầu làm Chủ tịch. Đại Hội này đã làm cho Pháp bị “sốc” bất ngờ vì ra quyết định dứt khoát tuyên bố “nước Việt Nam độc lập không gia nhập Liên Hiệp Pháp” và sau khi thâu hồi đầy đủ chủ quyền “sẽ ký với Pháp một hiệp ước liên minh trên căn bản bình đẳng…”13 Với tinh thần ái quốc và khí thế hăng say của các đại biểu toàn quốc vào lúc đó, đáng lẽ Đại Hội đã có thể giương cao ngọn cờ chính nghĩa trước dư luận trong nước và thế giới để áp lực Pháp phải nhượng bộ và yêu cầu Mỹ giúp đỡ. Một Hội Đồng hay Ủy Ban Thường Vụ đáng lẽ phải được thành lập ngay sau đó để thiết lập một chương trình hành động giúp cho Bảo Đại có thêm uy thế điều đình, đòi Pháp thực hiện cụ thể những điều cam kết để cho nhân dân trong nước đều thấy rõ. Đáng tiếc là sau Quốc Dân Đại Hội chỉ thấy có những vận động từ phía Pháp nhằm sửa đổi quyết định “quá khích” ngày 17 tháng Mười. Đại sứ Mỹ Heath lúc đó cũng không muốn làm cho Pháp bị mất mặt trong khi các tổ chức chính trị quốc gia chưa tập hợp được thành một lực lượng đáng kể. Cựu Thủ tướng Trần Trọng Kim đã lớn tuổi và suy yếu, sau Đại Hội phải lên Đà Lạt dưỡng bệnh hơn một tháng sau đó thì mất. Không có người lãnh đạo, không có tổ chức phối hợp các hoạt động hậu Đại Hội, các lãnh tụ quốc gia mất dần khí thế và mất luôn cơ hội tốt đẹp này.
Các chính quyền quốc gia sau 1954 cũng không làm nổi bật được chính nghĩa tranh đấu cho tự do dân chủ và không chứng tỏ được bằng những hành động cụ thể sự quan tâm đến an sinh hạnh phúc của nhân dân. Thời Đệ nhất Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đinh Diệm đã có công lấy lại được nền độc lập thật sự cho miền Nam Việt Nam, dẹp tan được cuộc nổi loạn của Bình Xuyên, và đem lại tình trạng ổn định chính trị và xã hội cho dân chúng. Ông đã tạo dựng được cơ sở cho một chế độ dân chủ với triển vọng làm cho vùng lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 17 trở nên phồn thịnh và tự do. So với chế độ cộng sản miền Bắc, chế độ dân chủ ở miền Nam có triển vọng trở thành tương tự như tình trạng giữa Tây Đức và Đông Đức hay Nam Hàn và Bắc Hàn. Tuy nhiên, do quan niệm trị nước lỗi thời đưa đến độc tài gia đình trị, Tổng thống Diệm đã làm mất sự ủng hộ của nhân dân trong nước và chống lại các khuyến cáo của Hoa Kỳ một cách thiếu khôn ngoan đến độ bị đảo chánh và hãm hại.
Ngô Đình Diệm (1901-1963) là một nhân vật có nhiều đức tính đáng khâm phục nhưng cũng có những nhược điểm lớn trong vai trò của một nhà lãnh đạo chính trị. Ông là con thứ tư trong một gia đình chín anh chị em mà bốn người đã bị giết vì lý do chính trị. Thân phụ là Ngô Đình Khả làm Thượng thư bộ Lễ trong triều đình Thành Thái, nhà vua Việt Nam đã bị Pháp lưu đày sang đảo Réunion năm 1916 cùng với hoàng tử kế vị là vua Duy Tân vì cả hai đều mưu đồ chống Pháp. Ngô Đình Khả có hai thành tích đáng kể: thứ nhất là sáng lập trường Quốc Học là trường trung học đệ nhất cấp đầu tiên (thời Pháp gọi là École Primaire Supérieure tức Cao đẳng Tiểu học) vừa dạy bằng tiếng Việt vừa dạy bằng tiếng Pháp ở Huế; thứ hai là không chịu cùng với các đại thần trong triều đình tuân lệnh Khâm sứ Ferdinand Lévecque ký tên chung trong tờ biểu yêu cầu vua Thành Thái thoái vị năm 1907. Vì việc này, ông bị giáng chức và phải về hưu khôngđược lãnh tiền hưu dưỡng. Cũng do việc này, ông đã được dân gian truyền tụng trong câu: “Đày vua không Khả, đào mả không Bài.”14
Ngô Đình Diệm học rất giỏi, làm luận văn tiếng Pháp ở trường Quốc Học được chấm hạng nhì. Sau khi đậu bằng Thành Chung Trung học đệ nhất cấp), ông trở về nhà học thêm La-tinh và chữ Nho, hai năm sau 18 tuổi được mời vào dạy trường Quốc Tử Giám. Xăm 20 tuổi thi và được nhận vào trường Hậu Bổ tức là trường đào tạo quan chức. Ba năm sau ông đậu thủ khoa trong số hai mươi người tốt nghiệp, đi tập sự trong hai năm thì được cử làm tri huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị. Năm 1929, mới 28 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Phan Thiết. Ông Diệm làm quan nổi tiếng thanh liêm và cương trực, được nhiều người kính phục.
Năm 1932, khi Bảo Đại về nước chính thức cầm quyền dưới chế độ bảo hộ của Pháp, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Nội Vụ với sứ mạng thực hiện cải cách bộ máy hành chánh để thiết lập nền quân chủ lập hiến. Chỉ ba tháng sau, ông xin từ chức vì đề nghị của ông thành lập Viện Dân Biểu với quyền lập pháp không được chính quyền bảo hộ chấp thuận. Hành động này cho thấy thái độ không nhân nhượng về chính trị của ông Diệm khiến giới ngoại giao Mỹ thường gọi ông là con người “all-or-noth- ing” (được tất cả hay không có gì, nói theo kiểu Việt Nam là ‘được ăn cả ngã về không’), một cá tính mà ông đã duy trì cho đến ngày bị hạ sát ba mươi năm sau. Sau khi từ chức Thượng thư, ông lui về sống cuộc đời ẩn dật nhưng vẫn ngấm ngầm ủng hộ các hoạt động chống Pháp của Hoàng thân Cường Để từ bên Nhật. Ông cũng liên lạc cả với những nhà ái quốc Á châu khác như Subha Chandra Bose của Ấn độ và Soekarno của In-đô-nê-si-a là những chính trị gia cũng đang trông cậy vào Nhật trong công cuộc giải phóng đất nước của họ. Do những hoạt động này, ông bị mật thám Pháp nghi ngờ và lùng bắt. Theo Nguyễn Phú Đức, “Ông Diệm trốn thoát và ẩn náu trong nhà của một viên chức toà lãnh sự Nhật ở Huế. Nhiều năm sau, khi đã trở thành Tổng thống miền Nam Việt Nam, ông đã trả ơn cho người bạn Nhật, khi đó đã về hưu khỏi Bộ Ngoại Giao Nhật, bằng cách bổ nhiệm ông ta làm một viên chức không chính thức của Đại Sứ Quán Việt Nam tại Tokyo.”15 Tháng Ba 1945, sau khi Nhật lật đổ Pháp ở Đông Dương, Bảo Đại muốn tìm Ngô Đình Diệm để trao chức Thủ tướng, nhưng có lẽ để tránh quá lộ liễu trong việc ủng hộ phe Cường Để, Nhật đã đề nghị với Bảo Đại mời Trần Trọng Kim đứng ra lập chính phủ. Nếu ông Diệm ra làm Thủ tướng vào lúc đó thì năm 1954 ông hẳn khó lòng được Hoa Kỳ nhiệt tình hỗ trợ, và cơ hội chính trị có thể đã vào tay ông Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ.
Ở đây có một nghi vấn cần được giải đáp về lý do ông Diệm không được mời hay không nhận lời làm thủ tướng. Theo Trần Trọng Kim, ông Diệm rất ngạc nhiên về việc người Nhật không cho ông biết chuyện Bảo Đại đang thành lập chính phủ. Ông Kim cũng nhắc lại lời Bảo Đại trả lời ông là đã không liên lạc được với ông Diệm, và khi ông hởi cố vấn Nhật thì lúc đầu được trả lời là chưa biết ông Diệm ở đâu sau lại nói ông Diệm đau chưa về được.16 Nhưng theo bản hồi ký riêng của cố vấn Nhật Marc Masayuki Yokoyama thì Ngô Đình Diệm đã được mời lập chính phủ nhưng từ chối vì lý do sức khỏe, nhưng ít lâu sau thì Yokohama được biết thật ra ông Diệm từ chối vì hai “lý do bí mật”: thứ nhất là ông đã thề trung thành với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và không muốn phục vụ Bảo Đại mà ông cho là thân Pháp; thứ hai là ông muốn lấy lại Nam bộ và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng mà lúc này Nhật chưa muốn trả lại cho Việt Nam.17 Tài liệu của Trần Trọng Kim xem ra đáng tin cậy hơn vì Yokohama viết bản phúc trình cho nhà cầm quyền Pháp dưới dạng hồi ký cá nhân không công bố, còn Trần Trọng Kim viết Một Cơn Gió Bụi năm 1949 được xuất bản công khai khi Ngô Đình Diệm, Bảo Đại và những chứng nhân khác như Hoàng Xuân Hãn và Tùng Hạ đều còn sống, và không có người nào đính chính. Chắc hẳn Yokohama không muốn nhìn nhận lý do ông đã không liên lạc với ông Diệm vì chính phủ Nhật khi đó không muốn bị chỉ trích là ủng hộ phe thân Nhật.
Tháng Chín 1945, sau khi Việt Minh đã nắm được chính quyền ở miền Bắc và miền Trung, Ngô Đình Diệm khi đó đang ở Vĩnh Long với bào huynh là Giám mục Ngô Đình Thục. Ông bỏ ra Huế chưa rõ vì mục đích gì nhưng đến Tuy Hoà thì bị Việt Minh bắt đem ra giam giữ ở Tuyên Quang. Chính trong thời gian này ông được tin ông Ngô Đình Khôi bị giết và đến tháng Hai 1946 thì có cuộc gặp gỡ Hồ Chí Minh-Ngô Đình Diệm ở Hà Nội như đã được tường thuật trong chương trước. Bernard Fall ghi nhận hai nét nổi bật trong con người Ngô Đình Diệm: lòng can đảm không chịu thỏa hiệp dù biết rằng mình có thể bị giết, và tinh thần gia đình đến độ cố chấp vì đã đặt tình nghĩa anh em lên trên quyền lợi chung của quốc gia. Nhiều người có thể nhận xét Ngô Đình Diệm không phải là một chính trị gia khôn ngoan biết thích ứng với tình thế và sử dụng thời cơ nhưng không thể không thán phục lòng can đảm của ông. Vấn đề Ngô Đình Diệm từ chối hợp tác với Hồ Chí Minh cũng không hẳn vì lòng cố chấp đó chuyện ông Ngô Đình Khôi bị giết mà có thể vì ông hiểu rõ dụng tâm chính trị của ông Hồ. Tuy nhiên, tinh thần vì gia đình của ông như được chứng tỏ trong thời gian làm Tổng thống VNCH quả thật là một nhược điểm lớn khiến cho ông trở thành một nhà độc tài gia đình trị.
Năm 1949, sau khi hiệp định Ếlysée được ký kết, Ngô Đình Diệm được Bảo Đại yêu cầu đứng ra thành lập chính phủ mới, nhưng ông từ chối vì không đồng ý với nền độc lập nửa vời mà Pháp trao trả. Thay vì làm Thủ tướng, ông cùng với Giám mục Ngô Đình Thục và bào đệ Ngô Đình Nhu thành lập đảng Xã Hội Thiên Chúa Giáo vừa chống Việt Minh vừa đòi Pháp trả lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Khi thấy hoạt động trong nước còn gặp nhiều khó khăn và đang bị Việt Minh lùng bắt, ông phải bỏ ra nước ngoài để tìm cách vận động sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Năm 1950, ông cùng Giám mục Ngô Đình Thục sang Nhật tìm cách tiếp xúc với tướng Douglas MacArthur, nhưng không được MacArthur ủng hộ. Do lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị tại Đại học Michigan, ông Diệm sang Hoa Kỳ để vận động trực tiếp với chính quyền Eisenhower nhưng cũng không thành công vì Hoa Kỳ vừa bận tham chiến ở Triều Tiên vừa không muốn làm mất lòng nước Pháp. Trong khi đó, Giám mục Ngô Đình Thục được Hồng Y Spellman tiếp kiến và nhận lời ủng hộ Ngô Đình Diệm. Năm 1951, sau khi cùng Giám mục Thục sang Rôma, Pháp và Bỉ, ông Diệm trở lại Mỹ và ngụ tại Chủng viện Maryknoll ở Ossiming, New York, sau rời sang Lakewood, New Jersey. Ông được nhiều trường Đại học mời nói chuyện về chiến tranh chông Pháp ở Việt Nam, nhấn mạnh rằng cuộc chiến tranh chống Cộng sản ở Việt Nam sẽ không thể thắng lợi nếu Pháp không chịu trao trả độc lập hoàn toàn cho Quốc Gia Việt Nam. Nhờ sự giới thiệu của Hồng Y Spellman, ông Diệm có nhiều dịp gặp gỡ các nhân vật trong Chính phủ và Quốc hội Mỹ. Dân biểu Walter H. Judd và các Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield và John F. Kennedy là những người nhiệt tình ủng hộ ông.
Tháng Năm 1953, Ngô Đình Diệm sang Bỉ, ngụ tại nhà dòng Bénédictine ở Saint-André-les-Bruges. Tại đây ông gặp Linh mục Raymond de Jaegher, tác giả cuốn The Enemy Within (Kẻ Nội Thù), là người có nhiều hiểu biết về hoạt động cộng sản ở Á châu. Linh mục Jaegher sau trở thành cố vấn của chính phủ Diệm. Đầu năm 1954 trước tình hình nguy ngập của Pháp ở Điện Biên Phủ, Bảo Đại lại yêu cầu Ngô Đình Diệm về nước lập chính phủ mới, nhưng ông vẫn từ chối vì Pháp chưa chịu bỏ vai trò chủ động. Cho đến khi hiệp ước Laniel-Bửu Lộc được ký kết ngày 4 tháng Sáu 1954 công nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập,18 ông Diệm mới thấy có điều kiện thuận lợi. Ngày 16 tháng Sáu, ông nhận lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập chính phủ với điều kiện được trao toàn quyền về chính trị và quân sự. Ngày 7 tháng Bảy (song thất), Ngô Đình Diệm chính thức cầm quyền với một nội các 18 người.19
Ngay từ những ngày đầu, chính phủ Ngô Đình Diệm đã gặp phải nhiều trở ngại quá lớn khiến không một quan sát viên nào dám tin rằng ông có thể vượt qua và tồn tại được. Chưa kịp ổn định cơ cấu chính quyền, thủ tướng Diệm đã bị tướng Nguyễn Văn Hinh, thứ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng, công khai chống đối và tính chuyện đảo chánh. Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn, cầm đầu lực lượng Bình Xuyên, dọa tấn công bằng vũ lực nếu ông Diệm không cho tham gia chính quyền. Do sự mua chuộc các giáo phái của Hoa Kỳ,20 chưa đầy hai tháng sau ngày thành lập chính phủ. ông Diệm đã phải cải tổ chính phủ với sự tham gia của một số đại diện của Cao Đài và Hoà Hảo.21 Tuy nhiên, ông cương quyết không chấp nhận Bình Xuyên mặc dù bị áp lực của Bảo Đại. Tinh trạng bấp bênh của Ngô Đình Diệm trong thời gian đầu tiên nắm chính quyền đã được hai sử gia người Pháp Jean Lacouture và Philippe Devillers nhận xét rất đúng như sau:
Các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo và lực lượng Bình Xuyên đã thiết lập được những giang sơn riêng: Cao Đài kiểm soát vùng lầy Bắc, Hoà Hảo vùng Tây Nam, Bình Xuyên vùng ngoại thành Saigon. Ngay trong chính phủ, Diệm cũng phải dành chỗ cho những nhân vật của hai giáo phái. Trong hang ngũ quân đội cũng có những đơn vị của Bình Xuyên. Sau hết, quân đội viễn chinh Pháp, từng bảo vệ đắc lực những người tiền nhiệm của Diệm, đã công khai bày tỏ thái độ không ưa ông… Hơn nữa, các viên chức người Pháp đang còn nắm giữ nhiều chức vụ then chốt trong chính quyền đã không chịu tha thứ cho người kế vị hoàng thân Bửu Lộc về những phương cách đối xử không thân thiện đôi với những điều mà ông coi là “tàn tích của thực dân”. Sau hết, việc Việt Minh nắm chính quyền ở miền Bắc đã đẩy vào miền Nam hàng trăm ngàn dân tị nạn, phần đông là người Công giáo, để cho miền đất nước đã tám năm bị tàn phá vì chiến tranh và kiệt quệ về kinh tế, nay phải chịu thêm gánh nặng. Một xứ sở tan nát, ung thối, ngất ngư, đã bị kết án tử hình nhưng đang được hoãn thi hành, đó là tình trạng Việt Nam khi Ngô Đình Diệm đứng ra lèo lái.”22
Tình trạng bất ổn định vẫn tiếp tục vì Pháp không ngừng vận động Hoa Kỳ thay thế Diệm. Bảo Đại cũng theo Pháp chống Diệm, muốn đưa Nguyễn Văn Xuân ra làm Thủ tướng hoặc ít nhất cũng là Phó Thủ tướng với Nguyễn văn Hinh trở lại chức Tổng Tham mưu trưởng và Bảy Viễn làm Bộ trưởng Nội vụ. Các giáo phái cũng đi hàng hai. Trần Văn Soái đi với Diệm nhưng vẫn liên lạc và giúp đỡ Ba Cụt. Chính phủ Diệm chỉ có thể tồn tại nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại mặc dù chính Đặc sứ J. Lawton Collins cũng muốn thay Ngô Đình Diệm. Ngày 19.11, Hinh phải rời khỏi Việt Nam sau khi kế hoạch đảo chánh bị Lansdale phá vỡ. Khi các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và lực lượng Bình Xuyên dưới danh nghĩa Mặt trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia ra tối hậu thư yêu cầu Diệm phải cải tổ chính phủ trước ngày 26.3.1955, Nguyễn Thành Phương và Trình Minh Thế đều có ký tên. Collins phải triệu Phương và Thế đến gặp để khiển trách và dọa cắt tiền trả lương quân đội Cao Đài. Được sự ủng hộ của Cao ủy Pháp Paul Ely, Bình Xuyên gia tăng các hoạt động đe dọa lật đổ chính phủ. Ngày 30 tháng Ba, Bình Xuyên bắt đầu những hoạt động khiêu khích như tấn công Bộ Tổng Tham Mưu và pháo kích Dinh Độc Lập. Diệm cho quân nhảy dù tấn công Tổng Nha cảnh Sát do Bình Xuyên kiểm soát. Ely cố thuyết phục Collins áp lực Diệm phải nhượng bộ nhưng Diệm vẫn cương quyết không chấp nhận Bình Xuyên. Ngày 1 tháng Tư, Collins đề nghị với Washing­ton cho tiến hành kế hoạch thay thế Diệm. Sau khi tham khảo Thượng Nghị sĩ Mansfield, ngoại trưởng Dulles chỉ thị cho Collins ủng hộ Diệm trong việc loại trừ Bình Xuyên nhưng yêu cầu ông mở rộng thành phần chính phủ, nếu không Mỹ sẽ cúp viện trợ. Collins và Ely dàn xếp được cuộc hưu chiến giữa Bình Xuyên và quân đội chính phủ.
Trước tình trạng căng thẳng và bế tắc giữa cuộc vận động chống Diệm của Pháp-Bảo Đại và lập trường không khoan nhượng của ông Diệm đối với Bình Xuyên, ngày 20 tháng Tư Collins trở về Washington để thuyết phục chính phủ thay thế Ngô Đình Diệm bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ. Ngày 26, ông Diệm cách chức Tổng Giám đốc cảnh sát Công an của Lại Văn Sang (Bình Xuyên) và thay thế bằng Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ của Quân đội Quốc gia. Sang không chịu bàn giao, tuyên bố chỉ nhận lệnh của Bảo Đại. Bảo Đại cũng yêu cầu Mỹ có biện pháp trong vòng 24 tiếng đồng hồ nếu không sẽ quyết định đơn phương. Sau khi gặp Collins ngày 27.4, Dulles đồng ý gửi điện cho Sứ quán Mỹ ở Sài- J0n tiến hành kế hoạch thay thế Diệm.23 Sáng hôm sau, Lansdale gửi điện về Washington yêu cầu tiếp tục ủng hộ Diệm. Vào buổi trưa, Bình Xuyên tấn công Thành Cộng Hoà và pháo kích bằng súng cối vào Dinh Độc Lập. Cuộc chiến giữa lực lượng nổi loạn và quân đội chính phủ chính thức bắt đầu. Bảo Đại cử Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư lệnh quân đội và ra lệnh cho thủ tướng Diệm qua Pháp hội kiến. Diệm không chịu tuân hành. Lansdale gửi khẩn điện về Mỹ xác quyết là không có thủ tướng thân Pháp nào chống được cộng sản và Ngô Đình Diệm vẫn là người xứng đáng nhất. Dulles chỉ thị cho Sứ quán ở Sài-gòn hủy bỏ công điện thay thế Diệm và Tổng Thống Eisenhower triệu tập phiên họp của Hội Đồng An ninh Quốc gia. Kết quả là Hoa Kỳ quyết định tiếp tục yểm trợ miền Nam Việt Nam và chỉ trích Pháp không chịu hợp tác.
Một số tác giả cho rằng Hoa Kỳ vội vã hủy bỏ ý định thay thế Ngô Đình Diệm khi thấy ông đánh thắng được Bình Xuyên. Thật ra, Dulles chỉ ra lệnh cho Sứ quán Mỹ ngưng xúc tiến kế hoạch thay thế Diệm để chờ xem kết quả việc ông đối phó với phe nổi loạn. Chỉ đến khi Diệm đã dẹp yên được loạn quân thì Hoa Kỳ mới thực sự ủng hộ và đề cao ông như một đại lãnh tụ. Biên bản phiên họp thứ 246 của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ thuật lại lời của Ngoại trưởng Dulles như sau:
…Những khó khăn hiện thời là do hai nguyên do chính: Thứ nhất là những giới hạn của Thủ tướng Diệm với tư cách lãnh đạo một chính phủ. Trong khi Diệm có những ưu điểm đã được nhiều người biết khỏi cần phải nói tới, thực tế là ông xuất phát từ miền Bắc và ông không tin cậy ở những người khác, có thể với lý do chính đáng. Hơn nữa, ông không muốn trao quyền cho ai. Mặc dù những khuyết điểm ấy, ông Diệm lẽ ra cũng đủ sức đối phó với tình hình nếu không vì một giới hạn căn bản thứ nhì —đó là sự thiếu ủng hộ vững chắc của người Pháp. Trong khi các nhà lãnh đạo chính phủ như (Thủ tướng) Mendès France, (Tổng trưởng) Edgar Fauré và Tướng Ély đã miễn cưỡng hợp tác với Diệm, thì những viên chức thuộc địa Pháp tại Việt Nam đã làm đủ mọi cách để phá hoại ông. Hai giới hạn chính yếu này đã đem lại một tình trạng khiến Tướng Collins phải kết luận là chúng ta cần phải tìm người thay thế Diệm.
Thật ra, chúng ta từ lâu nay đã nói với người Pháp là chúng ta sẵn sàng xem xét việc thay thế Diệm nếu họ có thể kiếm được một người. Họ vẫn chưa làm được việc ấy….
Chiều hôm qua, chúng tôi ở Bộ Ngoại giao đã gửi đi một loạt công điện phức tạp phác thảo những phương cách thay Diệm và chính phủ của ông. Tuy nhiên, vì những biến chuyển và vụ bùng nổ tối hôm qua, chúng tôi đã chỉ thị cho nhân viên Sứ quán ở Sài-gòn hoãn thi hành kế họach thay Diệm. Những biến chuyển trong đêm qua có thể đưa tới việc ông Diệm bị lật đổ hoặc ông sẽ ra khỏi cuộc hỗn loạn như một đại anh hùng. Vì thế chúng ta đang chờ xem kết quả trước khi tính đến việc quyết định ông Quát hay ông Đỗ sẽ là người thay thế.24 (cách viết nghiêng được thêm vào)
Ngày 29.4, thủ tướng Diệm triệu tập một phiên họp với các nhân sĩ chính khách và đại diện 18 đoàn thể tại Dinh Độc Lập tham khảo ý kiến về tình hình chính trị trong nước và mệnh lệnh của Bảo Đại đòi ông sang Pháp. Ngày hôm sau, hơn hai trăm đại diện đoàn thể họp tại toà Đô chính Sài-gòn do lời mời của Nguyễn Bảo Toàn (Việt Nam Dân Xã Đảng), Hồ Hán Sơn (Việt Nam Phục Quốc Hội) và Nhị Lang (Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến Việt Nam). Hội nghị thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia, ra tuyên ngôn đòi truất phế Bảo Đại và yêu cầu Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới để dẹp loạn Bình Xuyên, thu hồi độc lập hoàn toàn, đòi Pháp rút hết quân về nước và tổ chức bầu cử Quốc Hội.
Ngày 30.4, Quân đội Quốc gia tiến đánh căn cứ chính của Bình Xuyên ở bên kia cầu chữ Y. Sau ba ngày chống cự, Bình Xuyên phải bỏ Sàigòn-Chợ Lớn và rút về cố thủ ở Rừng Sát. Đám tàn quân này hoàn toàn tan rã vào tháng Chín khi quân quốc gia do Đại tá Dương Văn Minh chỉ huy mở chiến dịch Hoàng Diệu càn quét Rừng Sát. Bảy Viễn phải chạy trốn sang Cam-bốt rồi sang Pháp. Sau chiến dịch này, Dương Văn Minh được thăng chức Thiếu tướng. Đầu tháng Sáu, quân quốc gia lại mở chiến địch Đinh Tiên Hoàng tấn công bản doanh của lực lượng Hoà Hảo ở Cái vồn và Thốt Nốt, Long Xuyên. Trần Văn Soái (Năm Lửa) và Lê Quang Vinh (Ba Cụt) phải bỏ chạy sang Cam-bốt.
Những cố gắng tuyệt vọng của Pháp chống Diệm trong quyết định tiêu diệt Bình Xuyên và cưỡng lệnh của Bảo Đại càng làm cho Hoa Kỳ ủng hộ Diệm mạnh hơn. Ngày 10 tháng Năm, ông Diệm cải tổ chính phủ, cắt bớt một số Bộ và giảm thành phần nội các từ 22 người xuống 14, phần lớn là chuvên gia.25 Cuối tháng Năm, Hoa Kỳ cử Frederick Reinhardt làm Đại sứ thay thế Collins. Đầu tháng Sáu, tướng Ely cũng về Pháp, tướng Jacquot lên thay. Phong trào chống Bảo Đại được phát động mạnh mẽ trong khi Ngô Đình Diệm bác bỏ lời yêu cầu của Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh mở hội nghị hiệp thương để thảo luận về tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngày 23 tháng Mười, một cuộc Trưng cầu Dân ý được tổ chức để dân chúng miền Nam lựa chọn theo Bảo Đại hay Ngô Đình Diệm. Khi đó Bảo Đại đã trở lại thân Pháp và đang ủng hộ Bình Xuyên, do đó chắc chắn là ông phải thất bại vì đã mất hết tín nhiệm trong dân chúng. Tuy nhiên, ban tổ chức trưng cầu dân ý đã sắp đặt cho việc thắng cử của Ngô Đình Diệm quá bảo đảm đến độ ông được tới 98.2 phần trăm phiếu trong khi Bảo Đại chỉ được 1.1 phần trăm. Bằng chứng gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi số phiếu ủng hộ ông Diệm nhiều hơn số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sàigòn-Chợ Lớn có 450,000 cử tri ghi danh mà số phiếu bầu lên tới 605,025.
Ngày 26 tháng Mười, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của miền Nam, quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa!
Mặc dù nổi tiếng là người có lý tưởng, liêm khiết và can đảm, Ngô Đình Diệm đã phạm nhiều sai lầm chính trị trong hơn tám năm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam. Ông có một quan niệm trị nước theo truyền thống Nho giáo trong cương vị của một tín đồ Ki-tô giáo kiên quyết thi hành sứ mệnh mà ông tin tưởng được Thiên chúa trao cho.
Ông Diệm có thể bị chỉ trích là phản lại truyền thống Nho giáo vì ông đã truất phế Bảo Đại, tức là phản lại nguyên tắc “trung quân” (trung thành với vua) của đạo Khổng. Thật ra, tương quan giữa vua (quân) và bầy tôi (thần) theo truyền thống Nho giáo là tương quan hai chiều trên căn bản “lễ” và “trung” như Khổng Tử đã nói: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Vua lấy lễ mà khiến bầy tôi, bầy tôi lấy trung mà thờ vua).26 Mạnh Tử còn diễn giải tương quan vua tôi này một cách rất cụ thể khi nói với Tề Tuyên Vương: “Vua xem bày tôi như tay chân thì bày tôi xem vua như bụng như lòng. Vua xem bày tôi như chó như ngựa thì bày tôi xem vua như người lạ trong nước. Vua xem bày tôi như đất như cỏ thì bày tôi xem vua như giặc như thù.”27 Bởi thế, khi vua ra những mệnh lệnh trái ngược với ý nguyện của dân, tức là trái với ý trời, ?bày tôi có quyền cưỡng lại. Xưa kia, Thành Thang đánh vua Kiệt để dựng nhà Thương, Vũ Vương đánh vua Trụ để dựng nhà Chu, được Khổng Tử ghi nhận là làm cách mạng, thuận theo ý trời và hợp với lòng người (Thang Vũ cách mệnh, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân). Hành động đó được gọi là “điếu dân phạt tội”, tức là cứu dân mà đánh kẻ có tội.
Như vậy, việc Ngô Đình Diệm cưỡng lệnh và truất phế Bảo Đại trong tình thế chính trị ở miền Nam năm 1955 phải được coi là chính đáng, hợp với lòng dân và đúng với triết lý chính trị Khổng- Mạnh. Rõ ràng là sau hiệp định Genève, Bảo Đại không còn tin tưởng gì vào tương lai chính trị của phe quốc gia, cũng không thấy có hi vọng được Hoa Kỳ ủng hộ. Do đó, ông quay về liên kết với Pháp và trông cậy vào những nguồn lợi bất chính do Bình Xuyên cung cấp để tiếp tục cuộc sống vương giả trên đất Pháp. Khi đó, Ngô Đình Diệm một mặt phải lo định cư gần một triệu người tị nạn từ miền Bắc, một mặt cố gắng thâu hồi chủ quyền độc lập ở miền Nam để tạo dựng chính nghĩa quốc gia chống lại miền Bắc cộng sản. Riêng về điểm sau này, ông vừa phải ngăn chặn những âm mưu đảo chánh trong nội bộ do Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh cầm đầu, vừa phải đối phó với những nhóm giáo phái làm chính trị và lực lượng phiến loạn Bình Xuyên được Pháp khuyến khích và ủng hộ. Ngô Đình Diệm chỉ chống lại Bảo Đại khi thấy Bảo Đại đã phạm vào những lỗi lầm chính trị và đạo đức trái ngược với quyền lợi của quốc gia dân tộc.
Tuy nhiên, khi Ngô Đình Diệm đã làm chủ được tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam thì ông lại bắt đầu thiết lập một chế độ độc tài gia đình trị. Có thể nói rằng quan niệm trị nước của ông Diệm căn bản là quan niệm “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân) của đạo Khổng mà ông đã thực hiện từ thời ra làm quan gần ba mươi năm về trước. Ông cương quyết đòi lại nền độc lập cho quốc gia và thành thật mong muốn đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân và làm cho miền Nam trở nên giàu mạnh, hơn hẳn chế độ cộng sản ở miền Bắc. Thêm vào đó, với tư cách một tín đồ Công giáo nhiệt thành, ông tin tưởng đã được Thiên Chúa trao cho sứ mệnh thiêng liêng khi ông trở thành Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà và ông càng kiên quyết thực hiện sứ mệnh thiêng liêng ấy. Trên nền tảng tinh thần đó, ông không chấp nhận những quan điểm khác biệt và không tha thứ ai làm trái ý ông. Ngày 15.1.1956, ông giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng để loại trừ những người có công với ông trong việc lật đổ Bảo Đại nhưng cũng là những lãnh tụ chính trị độc lập như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn và Nhị Lang.
Ngày 4 tháng Ba, 1956, cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến được diễn ra gồm 123 dân biểu mà hầu hết là người của chính phủ hay thân chính phủ. Ngày 17 tháng Tư, Tổng Thống Diệm gửi thông điệp cho Quốc Hội đưa ý kiến về việc soạn thảo Hiến Pháp, về việc này, Bernard Fall viết: “Ông (Diệm) dẫn lời của Emmanuel Mounier, tác giả của chủ nghĩa Nhân Vị, để cảnh giác các nhà lập pháp về những nguy cơ của nền dân chủ Tây phương, ‘đem tự do tương đối cho một thiểu số nhưng đồng thời làm suy giảm hiệu năng của Quốc gia.’ Ông cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam cần phải bác bỏ cả hai chủ nghĩa cực đoan là Phát-xít và Cộng sản.”28 Sau vài lần duyệt xét và đề nghị sửa đổi bản dự thảo, Tổng thống Diệm chính thức ban hành bản Hiến Pháp ngày 26 tháng Mười, 1956. Ngoài những quyền hành thông thường của vị nguyên thủ quốc gia dưới chế độ Tổng Thống, Hiến Pháp VNCH còn dành cho Tổng Thống những quyền đặc biệt trong địa hạt an ninh và tình trạng khẩn cấp. Tổng Thống có nhiệm kỳ là 5 năm và có thể ứng cử ba nhiệm kỳ liên tiếp, về mặt dân quyền, bản Hiến pháp cũng bao gồm đầy đủ mọi quyền tự do căn bản của dân chúng như bất cứ một nước dân chủ nào ở Tây phương, nhưng trong thực tế có nhiều hạn chế và vi phạm.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, không thể không nhắc đến hai đạo luật khắt khe do dân biểu Trần Lệ Xuân, tức bà Ngô Đình Nhu, là tác giả. Thứ nhất là Luật Bảo Vệ Gia Đình, ban hành ngày 29 tháng Năm, 1958, còn được gọi nôm na là “luật cấm ly dị” trừ khi được Tổng Thống cứu xét và cho phép. Thứ nhì là Luật Bảo Vệ Luân Lý, ra đời bốn năm sau, cũng thường được biết dưới tên nôm na là “luật cấm nhảy đầm” ở bất cứ nơi nào, ngay cả trong những tiệc vui của gia đình. Trên thực tế, đạo luật này còn cấm nhiều thứ khác như cấm ngừa và phá thai, cấm nghề mãi dâm, đấu quyền Anh, chọi gà, mê tín dị đoan. Tháng Sáu 1962, khi đạo luật vừa được ban hành, một số nhà báo Mỹ hỏi bà Nhu tại sao lại có sự cấm đoán gắt gao như thế, nhất là lại áp dụng luôn cho cả người ngoại quốc, bà Nhu trả lời rằng “người Á châu không quen thói dâm đãng giữa đàn ông và đàn bà, con trai và con gái,” và rằng người Mỹ “đến Việt Nam là để giúp chúng tôi chứ không phải để nhảy đầm.”29 Ngoài ra, cần phải nhắc đến sắc lệnh số 10/62 hạn chế tự do cá nhân do Tổng Thống ban hành ngày 16.5, qui định mọi cuộc hội họp hay tụ họp dù là xum họp gia đình cũng phải có giấy phép của Sở Cảnh sát địa phương.
Về mặt an ninh, từ tháng Giêng 1956 đã có sắc lệnh số 6/56 của Tổng Thống cho phép các cơ quan an ninh bắt giữ bất cứ người nào có hành động phương hại đến an ninh quốc gia, tháng Năm 1959 lại có đạo Luật số 10/59 thiết lập Toà Án Quân Sự Lưu Động để gia tăng hiệu lực ngăn chặn những hoạt động khủng bố của cộng sản. Tháng Năm 1962, Tổng thống lại ra sắc lệnh số 11/62 thiết lập Toà Án Quân Sự Mặt Trận tại ba Vùng Chiến thuật với thẩm quyền kết án chung thân mà người bị kết tội không được phép kháng cáo. Các bản án tử hình đều được trình lên Tổng Thống xem xét và quyết định. Tất cả những văn kiện pháp lý này đều có lý do chung là ngăn ngừa và trừng trị những hành động phá hoại của cộng sản, nhưng thực tế cũng nhắm cả vào những thành phần đối lập không cộng sản. Đó là một sai lầm chính trị quan trọng của Ngô Đình Diệm không những làm suy yếu hàng ngũ quốc gia mà còn khiến cho nhiều người yêu nước ở miền Nam đồng ý hợp tác với cộng sản. Thật khác hẳn chủ trương liên hiệp với những lãnh tụ quốc gia, dù chỉ là sách lược tạm thời, của Hồ Chí Minh sau Cách mạng tháng Tám 1945 để xây dựng và củng cỗ lực lượng kháng chiến chống Pháp. Sách lược đó cũng đã được sử dụng thành công chống lại Ngô Đình Diệm mà kết quả là sự ra đời của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.
Trong những năm đầu của chính quyền Ngô Đình Diệm, chiến dịch tố cộng và diệt cộng đã truy lùng và trừng phạt không những các cán bộ cộng sản nằm vùng mà còn cả những người đã đi theo Việt Minh chống Pháp mặc dù họ không phải là đảng viên cộng sản. Những người này đã không chọn di cư ra Bắc sau khi hiệp định Genève chia đất nước làm đôi nhưng, ngoại trừ một số rất ít, đều không ủng hộ chính phủ Diệm. Cuối năm 1958 có tin là 1,000 người đã bị giết ở trại tập trung Phú Lợi khiến Hà Nội tổ chức biểu tình phản đối và đòi Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến (UHQT) điều tra. Thân nhân của nhiều cán bộ ra Bắc tập kết cũng bị bắt giữ, tra khảo và làm tiền bởi các viên chức địa phương. Tác giả Bùi Tín nhắc lại những biện pháp hãi hùng đối với những nạn nhân của chiến dịch tố cộng:
… các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, với sắc lệnh 10/59, đưa máy chém khắp các vùng để trừng trị các lực lượng cộng sản đang ẩn dấu trong dân. Hà Nội gọi đó là cuộc chiến tranh một bên trong các tài liệu tổng kết.
Các chiến dịch tố cộng ở đồng bằng sông Cửu Long, ở khu 5, bắt vợ con những người “cộng sản” (thật ra phần lớn chưa hoặc không phải cộng sản, chỉ là những người kháng chiến chống thực dân Pháp) từ bỏ những người chồng đi tập kết ra Bắc; những người kháng chiến cũ, gia đình họ bị quản thúc, kiểm soát gắt gao, gây nên một không khí rất căng thẳng.30
Đối với các đảng phái quốc gia có khả năng trở thành đối thủ trong cuộc tranh giành quyền lực thì những cuộc thanh trừng đã được chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện từ đầu năm 1955, trước khi dẹp yên loạn quân Bình Xuyên và những nhóm tôn giáo đối lập. Ở miền Trung, vào tháng Ba, Ngô Đình Cẩn đã dẹp xong các mật khu của Đại Việt tại Ba Lòng (Quảng Trị) và Phú Yên. “Kế tiếp, bắt đầu tiêu diệt các hệ Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kontum và nhiều tỉnh khác. Tại Quảng Nam, trên 20 người bị bắt giữ, kể cả Trịnh Thể, Nguyễn Tiến Long, Trần Bích Kiện, Hồ Văn Anh, Phan Thiệp (Quận trưởng Tam Kỳ) cùng nhiều giáo viên trường Khải Định Huế.”31
Khi thành lập chính phủ cũng như trong những lần cải tổ nội các, Ngô Đình Diệm đều không muốn có sự tham gia của Phan Huy Quát, một lãnh tụ Đại Việt cũng được Hoa Kỳ tin cậy. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến tháng Ba 1956, ứng cử viên đối lập Phan Quang Đán đắc cử nhưng không được công nhận vì “gian lận”, và bị thua phiếu ứng cử viên chính phủ trong lần bầu lại. Năm 1959, ông Đán ra tranh cử lần nữa và trúng cử với đa số phiếu nhưng vẫn bị loại vì “vi phạm luật bầu cử”. Một ứng cử viên đối lập khác là Nguyễn Trân cùng đắc cử với ông Đán ở Sài-gòn cũng bị loại với cùng một lý do. Ngày 15.3.1958, Nghiêm Xuân Thiện, cựu Tổng trấn Bắc phần, trong một lá thư ngỏ “Gửi Dân biểu của tôi” đăng trên tuần báo Thời Luận do ông làm Chủ nhiệm, nhận xét rằng:
Dưới thời chính phủ phong kiến thực dân Nguyễn Văn Tầm, “trong những cuộc bầu cử hội đồng tỉnh và hội đồng xã, dân chúng bị dọa nạt và ép buộc phải đi bầu, nhưng còn khá hơn những cuộc bầu cử của quí vị, vì không có ai dùng xe cam- nhông chở lính vào Sài-gòn để “giúp việc bỏ phiếu”… Quí vị lấy làm hãnh diện đã tạo lập cho Việt Nam một chính thể mà quí vị nghĩ là tương tự như nước Mỹ. Nếu có tương tự thì cũng như một toà nhà chọc trời và một ngôi nhà mái tôn giống nhau ở chỗ cùng là những nơi có người ở.
Ở Hoa Kỳ, Quốc Hội đích thực là một nghị trường và các dân biểu là những nhà làm luật tức là những người tự do và có công tâm không sợ hãi chính phủ, biết rõ nhiệm vụ của họ và dám đem ra thực hiện. Ở đây, dân biểu là những viên chức chính trị làm luật như một xướng ngôn viên trên đài phát thanh, lớn giọng đọc những bản văn đã được soạn sẵn từ trước.”32
Ngay sau đó, báo Thời Luận bị đóng cửa và chủ nhiệm Nghiêm Xuân Thiện bị đưa ra tòa về tội phỉ báng chính quyền và bị xử mười tháng tù giam.
Ngày 26 tháng Tư, 1960, mười tám nhân vật danh tiếng họp báo tại khách sạn Caravelle công bố lá thư chung gửi Tổng thống Ngô Đình Diệm kêu gọi “khẩn cấp thay đổi chính sách, ban hành các quyền tự do dân chủ để có thể cứu vãn tình thế và đưa đất nước ra khỏi cơn nguy biến.” Lá thư nhấn mạnh đến những vụ bắt bớ, giam cầm và xử án phi pháp, nạn lũng đoạn hàng ngũ công chức và quân đội của các tổ chức chính trị của chính quyền đưa đến những vụ thăng thưởng hay trừng phạt bất công, các tệ nạn độc quyền kinh tế và tham nhũng làm cho dân chúng mất niềm tin và dễ bị cộng sản lôi cuốn. Lá thư chung này, được dư luận đặt tên là “Bản Tuyên cáo Caravelle,”33 đã không được ông Diệm quan tâm đến.
Bộ Ngoại giao Mỹ, qua Đại sứ Elbridge Durbrow, tìm mọi thuyết phục ông Diệm cải thiện các điều kiện chính trị và bộ hành chánh nhưng không có kết quả. Ngay cả cố vấn cải cách điền địa và phát triển nông thôn Wolf Ladejinsky rất có thiện cảm với Diệm cũng trở nên lạnh nhạt và xa lánh ông. Chỉ còn một người vẫn còn nhiệt tình ủng hộ ông Diệm là Edward G. Lansdale không được Bộ Ngoại giao cho trở lại Việt Nam.
Ngày 11.11.1960, một số tiểu đoàn Nhảy Dù do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu thực hiện một cuộc đảo chánh, chiếm giữ một số cơ quan chính phủ và bao vây Dinh Độc Lập. Nhóm sĩ quan này được sự ủng hộ của một số chính trị gia chống Diệm như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu. Cuộc đảo chính bất thành vì mục đích chính của những người làm đảo chính chỉ nhằm ép buộc ông Diệm thay đổi chính sách và lập chính phủ mới. Đại sứ Mỹ giữ thái độ trung lập và khuyến khích hai bên thương thuyết. Ông Diệm hứa thay đổi chính trị nhưng kéo dài cuộc điều đình cho đến khi viện binh của Trần Thiện Khiêm và Huỳnh Văn Cao từ Mỹ Tho và Biên Hoà về giải cứu ngày 12.11. Nhóm cầm đầu đảo chính phải bỏ trốn qua Nam – Vang.
Sau vụ đảo chính hụt này, tình hình chính trị và quân sự của VNCH càng ngày càng bất lợi. Ngô Đình Diệm nặng tay hơn với : Từng thành phần đối lập và kiểm soát sự trung thành của quân đội chặt chẽ hơn trước. Trong khi đó, Hoa Kỳ vẫn không thể thuyết phục ông thực hiện những cải cách chính trị và ngăn chặn nạn bè mái tham nhũng. Đại sứ Durbrow báo cáo tình trạng bi quan và cho rằng cần phải thay đổi lãnh đạo trong một tương lai gần.
Ngày 27.2.1962, hai phi công Nguvễn Văn cử và Phạm Phú Quốc cất cánh từ Biên Hoà trong một phi vụ oanh tạc quân cộng sản ở Gò Công thình lình đổi hướng bay về Sài-gòn, ném bốn trái bom và bắn một số hoả tiễn vào dinh Độc Lập. Hai ông Diệm, Nhu đều thoát nạn, chỉ có bà Nhu bị thương nhẹ. Sau vụ ám sát hụt này, Tổng thống Diệm càng tin chắc mình luôn luôn được ơn trên che chở.
Ngô Đình Diệm mất dần những người bạn Mỹ ủng hộ ông. Mặc dù không tìm cách xa lánh Diệm như Ladejinsky, Lansdale rất quan tâm đến những sai lầm trầm trọng của người lãnh đạo VNCH và đã không ngần ngại nói thẳng những điều lo ngại và những lời khuyến cáo rất chân tình của mình. Lá thư của Lansdale gửi Ngô Đình Diệm ngày 30 tháng Giêng 1961 sau hai tuần trở lại Việt Nam quan sát tình hình cho thấy rõ thái độ của người bạn có công lớn nhất và đáng tin cậy nhất của Tổng thống Diệm. Sau khi cám ơn ông Diệm về cuộc tiếp đón nồng hậu và tỏ nỗi vui mừng được gặp lại ông, Lansdale xác nhận tình cảm thân thiện của Tổng thống Kennedy và các nhà lãnh đạo quốc phòng và ngoại giao đối với ông Diệm sau khi nghe Lansdale tường thuật về kết quả chuyến đi. Sau đó, Lansdale thẳng thắn nói đến những điều ông đã ghi nhận được trong những cuộc tiếp xúc với các giới ở Việt Nam, theo đó “nguy cơ hiện thời của Ngài phát xuất từ những hành động của chính Ngài. Họ nói rằng Ngài muốn tự làm lấy quá nhiều việc, rằng Ngài không chịu trao trách nhiệm thực sự cho người khác và cứ can thiệp vào việc làm của họ, rằng Ngài cho rằng mình không bao giờ sai lầm, và rằng có quá nhiều tổ chức của Ngài như Đoàn Thanh Niên Cộng Hòa và Đảng Cần Lao được thành lập do ép buộc —nghĩa là người ta gia nhập vì sợ— chứ không phải là những tổ chức thật sự bắt nguồn từ trong lòng người Việt Nam. Tôi tin rằng sẽ có nhiều tiếng nói chỉ trích riêng tư ở bên đây khi tin tức lan truyền về những phản ứng thuận lợi đối với bản phúc trình của tôi.
Cách trả lời hay nhất cho những lời chỉ trích đó là hành động của Ngài ở Việt Nam. Những người chỉ trích sẽ phải im miệng trước những việc làm của Ngài. Một việc Ngài có thể làm là thông báo sắp cải tổ chính phủ. Ngài cũng có thể làm cho Hội đồng An ninh của Ngài trở nên sống động hơn. Xin Ngài nhớ đề nghị của tôi: triệu tập các tư lệnh quân đội và tỉnh trưởng từ các Quân khu 1 và 5 về họp với Hội đồng An ninh. Ngài có thể tuyên bố trước hội nghị này và cho truyền thanh tới nhân dân trên toàn quốc. Xứ sở của Ngài cần được Ngài nâng cao tinh thần. Đồng bào của Ngài cần được biết rằng Việt Nam đang bị hiểm họa Cộng sản, rằng chính phủ hoan nghênh sự giúp đỡ của mỗi người dân, và rằng Việt Nam phải được và sẽ được gìn giữ trong độc lập và tự do.
Sau khi nói chuyện, Ngài trao việc điều khiển phiên họp cho Phó Tổng thống Thơ hay Bộ trưởng Thuần. Đây phải là một phiên họp kín. Tôi tin rằng mỗi tỉnh trưởng, mỗi chỉ huy quân sự, và các đại biểu vùng sẽ báo cáo công khai và thẳng thắn những vấn đề khó khăn ở địa phương họ. Việc này Ngài đã làm một lần trước đây, vào tháng Hai 1955, và thật là một hành động rất khôn ngoan và lành mạnh. Ngài sẽ được nghe nhiều điều, không phải chỉ những vấn đề xấu mà cả những ý kiến tốt nữa.
Phiên họp sẽ rất lợi cho Ngài nếu có sự tham gia của một số người Mỹ đang muốn giúp Ngài. Hãy mời những người mà Ngài tin là thành thật. Họ cũng sẽ học được rất nhiều và sẽ trở nên thực tế hơn trong nhiệm vụ của họ ở Việt Nam. Tôi nghĩ nên mời McGarr và Colby.
Bây giờ điều làm tôi hết sức lo ngại là phe chính trị đối lập với Ngài. Tôi đã bỏ ra nhiều ngày giờ để suy nghĩ về chuyện này từ khi rời Việt Nam. Có nhiều lời đàm tiếu và cảm nghĩ xấu trong nhiều giới ở Sài-gòn. Những điều đó xấu và tệ đến độ tôi lo ngại có thể khiến những người thiếu suy xét sẽ toan tính một vụ đảo chính khác. Ngài là một trong những lãnh tụ vĩ đại của Thế giới Tự do và một người bạn mà tôi vô cùng quý mến. Vì vậy, xin Ngài hãy nhận lấy những lời bộc lộ rất thân tình của tôi.
Đàn áp đối lập chính trị bằng cách bắt giam người hay đóng cửa báo sẽ chỉ làm cho những lời chê trách biến thành những xúc cảm thù hận và đưa đến sự thành lập các tổ chức bí mật và những âm mưu chống lại Ngài… Nếu Ngài có thể tập hợp những người đối lập soạn thảo một chương trình cứu quốc với những ý kiến cụ thể và có thể làm chương trình này một cách tự do giữa họ với nhau ngoài chính phủ, Ngài sẽ chuyển một phần lớn năng lực chính trị của họ thành một việc làm xây dựng. Họ sẽ tranh luận với nhau, người này cố thuyết phục người kia chấp nhận ý kiến của mình thay vì sử dụng năng lực chính trị của họ vào việc đả kích Ngài….
Có lẽ hành động khôn ngoan nhất là kêu gọi giới trẻ trong thành phần đối lập. Hay nhất là chính Ngài đích thân nói chuyện với họ. Ngài có thể cho họ biết rằng Việt Nam đang lâm vào tình thế bị đe dọa mất tự do, rằng mọi người Việt Nam phải làm việc để cứu lấy tự do, rằng Ngài biết các chính trị gia đối lập không đồng ý với tất cả các chương trình của Ngài, nhưng việc điều hành một chính phủ đang bị Cộng sản tấn công kịch liệt không thể đơn giản như sự suy nghĩ của những người chỉ trích. Ngài muốn họ không chỉ chê trách chính quyền. Nếu họ có ý kiến hay, họ hãy viết xuống và thỏa thuận về một chương trình mà họ tin là có thể cứu được đất nước. Không phải chương trình của Cộng sản mà là chương trình của những người Việt Nam tự do. Nếu họ ngồi xuống viết và thỏa thuận với nhau về một chương trình như vậy, Ngài có thể bảo đảm với họ rằng Ngài sẽ không cản trở đường đi của họ —dù cho điều đó có nghĩa là sự thành lập một đảng đối lập duy nhất và mạnh mẽ.
Ngài cũng có thể nói với họ như Ngài đã nói với tôi năm 1955 và 1956—rằng điều mơ ước của Ngài là nướcViệtNam có hai đảng chính trị mạnh. Ngài có thể nói rõ rằng Ngài mời gọi những người trẻ tuổi trong các nhóm đối lập vì họ là những người có trách nhiệm xây dựng tương lai. Họ sẽ sống trong tương lai. Có quá nhiều chính trị gia lớn tuổi đang sống trong quá khứ hay chỉ đi tìm quyền lực một cách vị kỷ….34
Lá thư này được trích dẫn gần hết để chứng tỏ mối thân tình và lòng sốt sắng giúp đỡ của Lansdale đối với Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, dù đã có công “cứu” ông Diệm hồi tháng Tư 1955 (bằng điện văn gửi ngoại trưởng Dulles, chống lại cuộc vận động thay Diệm của Đại sứ Collins), lại đích thân giúp cho ông Diệm loại được Nguyễn văn Hinh và các lực lượng vũ trang chống đối lúc đó (bằng việc hối lộ các giáo phái) và tồn tại được nhiều năm sau, Lunsdale nay đã không thể thuyết phục được ông Diệm nghe theo những lời khuyến cáo thực tế và đầy thiện chí của mình.
Một người bạn thân khác của ông Diệm là Wesley R. Fishel, giáo sư chính trị và là trưởng đoàn cố vấn của Đại Học Michigan giúp cho VNCH về tổ chức và điều hành bộ máy chính quyền từ 1954. Fishel gặp ông Diệm ở Nhật năm 1950, giới thiệu ông với các nhân vật ở Mỹ và hết sức bênh vực chính quyền Diệm cho đến khi ông và nhóm cố vấn Michigan thất vọng với hai ông Nhu-Diệm, bắt đầu chỉ trích chế độ và kết quả là chương trình Michigan bị hủy bỏ năm 1962.
Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, người đã thuyết phục Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles ủng hộ Ngô Đình Diệm trước áp lực của Pháp và các lực nổi loạn trong những năm 1954-1955, cũng trở nên thất vọng với Diệm mấy năm sau đó. Đại sứ Durbrow kể lại rằng, trong dịp trở về Washington điều trần trước Thượng Viện năm 1960, ông có gặp riêng Mansfield và được vị Thượng Nghị sĩ này nói chuyện về “những chính sách thiếu dân chủ, tình trạng tham nhũng và những nhược điểm khác của chính phủ Diệm.” Theo Durbrow, khi đó Mansfield đã “hoàn toàn lạnh nhạt với Diệm.”35 Đáng chú ý nhất là, sau chuyến đi Việt Nam tháng Mười Hai 1962, Mansfield đã viết một bản phúc trình cho Tổng Thống Kennedy về những sai lầm của ông Diệm và đề nghị Hoa Kỳ nên rút ra khỏi Việt Nam trước khi bị sa lầy trong “một cuộc nội chiến tuyệt vọng” của miền Nam chống cộng sản miền Bắc. Ông cũng đích thân gặp Kennedy để nói rõ quan điểm của mình. Sau cuộc tiếp kiến này, Kennedy nói với phụ tá Kenny O’ Donnell, “Tôi tức giận Mike vì ông ta đã bất đồng ý với chính sách của chúng ta, nhưng tôi cũng tự giận mình vì tôi đã thấy chính mình đồng ý với Mike.” Trong lần gặp gỡ thứ nhì với Mansfield, Kennedy cho hay ông đồng ý sẽ rút hết cố vấn quân sự ra khỏi Việt Nam, nhưng không thể làm chuyện này cho tới năm 1965, sau khi đã tái đắc cử. Sau đó, Kennedy tâm sự với Charles Bartlett, phái viên thân cận ở Bạch Cung của tờ Chattanooga Times: “Chúng ta không cầu mong ở lại Việt Nam. Những người ở đó ghét chúng ta. Có thể họ sẽ tống cổ chúng ta ra khỏi nơi đó bất cứ lúc nào. Nhưng tôi không thể bỏ một miền đất như vậy cho cộng sản để rồi vẫn được dân chúng bầu lại tôi.”36
Trước tình hình suy yếu của VNCH năm 1960, Đảng Cộng sản đã không bỏ lỡ cơ hội tiến hành chiến dịch Đồng Khởi được bắt đầu từ 1959 ở các tỉnh miền Trung, tiếp theo Nghị quyết thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Công cuộc sách động quần chúng đấu tranh vũ trang và chính trị lan tràn xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, phá hoại các khu trù mật và thiết lập một hệ thống “chính quyền cách mạng” hoạt động công khai hay bí mật tùy theo mức độ “giải phóng” ở mỗi địa phương. Tình hình chính trị miền Nam sau cuộc đảo chánh hụt 11.11 của nhóm Nguyễn Chánh Thi-Vương Văn Đông cũng đủ chín để Hà Nội giúp các đảng viên và thân hữu của họ ở miền Nam cho ra đời một tổ chức chính trị có danh nghĩa chính thức trong cuộc tranh đấu chống Mỹ và lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 20 tháng Mười Hai 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập và công bố Bản Tuyên ngôn và Chương trình Mười Điểm (xem thêm chương Bảy).
Ngoài chính sách độc tài gia đình trị, chính phủ Diệm còn phạm nhiều sai lầm trong việc hoạch dịnh và thi hành các chương trình tranh thủ nhân dân chống cộng.
Trước hết là cải cách điền địa (ngoài Bắc gọi là cải cách ruộng đất). Quyền sở hữu đất đai thời thực dân đã tạo ra nhiều bất công xã hội do tình trạng bất bình đẳng giữa thiểu số đại điền chủ và đa số nông dân nghèo khó. Điều này đặc biệt đúng ở miền Nam với 2.5 phần trăm đại điền chủ sở hữu 45 phần trăm tổng số ruộng đất trong khi 73 phần trăm tiểu điền chủ chỉ có được 15 phần trăm. Với 80 phần trăm dân chúng sống ở nông thôn, cải cách điền địa để san bằng những bất công ấy là một việc làm cần thiết của chính quyền ở miền Nam để lôi cuốn sự ủng hộ của đa số dân chúng. Điều đáng nói là ở miền Bắc thực ra không có nhu cầu cải cách ruộng đất vì 98.2 phần trăm đất đai thuộc quyền sở hữu của những người chỉ có tư 5 ha trở xuống.37 Do đó, như đã thấy ở chương Ba, việc ấn định thành phần địa chủ ở nông thôn miền Bắc đã rất lúng túng và gượng ép, đến độ có nhiều trường hợp phải “đôn” trung nông và phú nông lên thành địa chủ để có đủ tỉ lệ người đem ra đấu tố, như kết quả sửa sai cho thấy ở khu Tự trị Việt Bắc đã có đến 83 phần trăm hộ bị “quy sai” (xem chương Ba.) Chính sách cải cách ruộng đất của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là một sự áp dụng máy móc của mô hình đấu tranh giai cấp đã được thực hiện ở Nga và Trung Quốc nhưng không thích hợp ở Việt Nam.
Qua chính sách cải cách ruộng đất kiểu cộng sản, chính quyền miền Bắc đã gây dựng được một tầng lớp bần nông và cố nông làm nền tảng, với hàng trăm ngàn người tình nguyện làm dân công đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Mặc dù chính sách cải cách ruộng đất đã giết oan quá nhiều người khiến cho Đảng và Nhà nước phải nhận lỗi trước nhân dân và tìm cách sửa sai, các chương trình hợp tác hóa nông nghiệp và tập thể hoá ruộng đất trong những năm về sau đã làm cho ngay cả các giới bần nông và cố nông cũng cảm thấy bất mãn. Tuy nhiên, sau hàng chục năm được nhà nước tuyên truyền, tổ chức và kiểm soát chặt chẽ, dân chúng đã quen chịu đựng nỗi đau khổ hiện tại và hi vọng ở hạnh phúc tương lai.
Chính sách cải cách điền địa ở miền Nam, qua Dụ số 57 ngày 22 tháng Mười 1956, mang tính chất ôn hoà, vừa không làm cho quyền lợi của địa chủ bị thiệt hại nhiều, vừa cải thiện cuộc sống của nông dân nghèo bằng cách giảm địa tô và tạo cơ hội cho tá điền trở thành địa chủ. Theo luật, đại điền chủ chỉ được giữ lại tối đa 100 ha ruộng, số còn lại sẽ bị truất hữu để bán lại cho các tá điền. Số ruộng truất hữu sẽ được chính phủ bồi thường 10 phần trăm bằng tiền mặt và 90 phần trăm bằng trái phiếu. Tá điền được giảm địa tô xuống 25 phần trăm vụ mùa thu hoạch so với 50 phần trăm khi trước. Tá điền có quyền mua ruộng truất hữu, tối đa mỗi gia đình là 5 ha, trả cho nhà nước trong 12 năm. Tiền mua ruộng bằng số tiền nhà nước bồi thường cho chủ điền.
Trên thực tế, việc thi hành không đơn giản như vậy. Nhiều người trong chính phủ Ngô Đình Diệm kể cả những cấp lãnh đạo ở địa phương đều thuộc thành phần trung hay đại điền chủ. Trong thời gian chiến tranh, vì họ phải bỏ lên thành thị nên ruộng đất của họ bị Việt Minh tịch thu và phân phát cho các tá điền. Theo Dụ số 57, họ được khôi phục quyền sở hữu ruộng đất, được hưởng địa tô dù bị giảm một nửa, và những người có trên 100 ha đều được tiền bồi thường trên số ruộng bị truất hữu. Tá điền, mặc dù được ưu đãi hơn so với thời Pháp thuộc, cảm thấy bị thua thiệt so với thời sống dưới sự kiểm soát của Việt Minh họ được cấp ruộng mà không phải trả, hay trả rất thấp, địa tô. Ngoài ra họ còn bị các viên chức địa phương sách nhiễu và làm tiền trong các thủ tục vay tiền nhà nước và làm giấy tờ mua ruộng truất hữu. Do đó, chính sách cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm đã không thành công, tạo cơ hội cho cộng sản phản tuyên truyền, xúi dục nông dân bất hợp tác. Chính sách cải cách điền địa càng thất bại hơn nữa khi MTGPMN ra đời năm 1960 đã chủ trương phát không ruộng đất cho nông dân hoặc giảm địa tô xuống mức độ tượng trưng.
Năm 1959, chính phủ Ngô Đình Diệm thiết lập chương trình “khu trù mật,” được coi như một sáng kiến tách rời nông dân ở những vùng hẻo lánh ra khỏi vòng ảnh hưởng và kiểm soát của cộng sản. Mỗi khu trù mật được xây dựng như một thành phố nhỏ ở một địa điểm gần các trục lộ giao thông, thuận tiện cho các sinh hoạt nông nghiệp, tiểu thương và tiểu công nghệ, có máy phát điện, trường học, nhà thương, chùa và nhà thờ. Mỗi gia đình được cấp 3,000 mét vuông và vật liệu xây nhà, cộng thêm một mảnh vườn để trồng cây với chuồng heo chuồng gà có khả năng sinh lợi tức. Mỗi khu trù mật là một thành lũy với những đội dân vệ vũ trang để bảo vệ an ninh và ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản. Mặc dù được quan niệm tốt đẹp như vậy, chương trình khu trù mật vẫn không đạt được kết quả mong đợi. Chỉ hai năm sau chương trình này bị dẹp bỏ khi mới thành lập được 20 khu trù mật trên tổng số 80 theo kế hoạch dự trù.
Các quan sát viên ngoại quốc đều cho rằng chương trình khu trù mật thất bại vì kéo dân ra khỏi nơi sinh sống lâu đời của họ để tập trung họ vào một khu xa lạ khiến họ phải làm lại cuộc sống từ đầu. Điều này chỉ đúng một phần vì làng mạc ở miền Nam không khép kín và tổ chức chặt chẽ với những truyền thống lâu đời như ở miền Bắc. Đã đành người dân nông thôn ở đâu cũng không muốn rời bỏ nơi quen thuộc nhưng họ cũng sẵn sàng thích ứng nếu cuộc sống mới thực sự đem lại cho họ sự yên ổn và hạnh phúc. Lý do chính vẫn là tệ nạn quan liêu, tham nhũng của các viên chức cầm quyền địa phương khiến họ thường bị sách nhiễu và đời sống vẫn bị khó khăn, thiếu thốn, Họ bị cắt xén các vật liệu được chính phủ cung cấp hoặc phải trả tiền túi ra mua, Họ ít khi ra khỏi khu trù mật vì lý do an ninh hay vì bị chính những người có nhiệm vụ bảo vệ họ hạch hỏi, gây khó dễ để làm tiền khi biết họ ra ngoài để buôn bán làm ăn. Nhiều tỉnh trưởng muốn lập công với Tổng thống đã bắt dân làm việc quá sức để phá kỷ lục mau chóng lập khu trù mật hoặc kịp trình diễn một bề ngoài sung túc của khu trù mật khi Tổng thống tới kinh lý, tháng Ba năm 1962, khu trù mật được thay thế bằng chương trình “Ấp Chiến lược.” Chương trình này, do Sir Robert Thompson quan niệm, đã được thực hiện thành công trong chiến dịch tiễu trừ cộng sản ở Mã-Lai trong thập niên 1950 nhưng trong những điều kiện khác với Việt Nam. Giữa năm 1961, kinh tế gia Eugene Staley được Tổng thống Kennedy phái sang Việt Nam nghiên cứu tình hình. Giáo sư Vũ Quốc Thúc được cử làm đối tác phía VNCH để làm việc với giáo sư Staley. Trong bản phúc trình cho Kennedy, ngoài những đề nghị cải thiện đời Sống kinh tế, xã hội và chính trị ở miền Nam, Staley còn nhấn mạnh đến nhu cầu tăng cường lực lượng dân vệ và nghĩa quân để bảo vệ an ninh cho dân chúng. Ông đề nghị xây dựng một hệ thống ấp chiến lược như những tiền đồn chống cộng của nhân dân Việt Nam. Tổng thống Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu rất tán thành ý kiến này và coi đây là cơ hội tốt để hoàn thiện quan niệm về khu trù mật. Ông Nhu đích thân điều động chương trình.
Khác với quan niệm của Thompson về ấp chiến lược là lập hàng rào an ninh bên ngoài những thôn ấp hiện hữu, ông Nhu chủ trương tiến hành xây dựng những địa điểm chiến lược mới và dân chúng tập trung vào đó được cung cấp các phương tiện cần thiết để bảo vệ an ninh và phát triển cuộc sống. Ngoài việc được phân phát vũ khí và huấn luyện chiến đấu, dân trong ấp còn có phương tiện thông tin trực tiếp với các lực lượng quân sự địa phương trong trường hợp khẩn cấp. Dân chúng sẽ được chính phủ giúp đỡ nâng cao cuộc sống và do đó sẽ đoàn kết làm hậu thuẫn cho chính phủ trong công cuộc chống cộng. Ấp chiến lược được đưa lên thành quốc sách có tầm quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, mọi tính toán lý thuyết tốt đẹp này lại thất bại một lần nữa khi thực hiện. Do chỉ tiêu phải hoàn tất 7,200 ấp chiến lược trong năm đầu tiên38 trên tổng số dự định là 14,000, nhiều ấp chiến lược đã được thành lập một cách vội vàng, cẩu thả và dân chúng bị áp lực làm việc quá sức, chịu sự kiểm soát gắt gao và phải đóng góp nhiều thì giờ vào công tác phòng vệ. Việc xây dựng ấp chiến lược quá nhiều và quá nhanh cũng làm suy giảm khả năng của quân đội trong việc bảo vệ dân chúng ở những vùng do chính phủ kiểm soát. Lợi dụng những nhược điểm này, bộ đội cộng sản gia tăng tấn công các ấp chiến lược yếu và cắt đứt các đường tiếp viện của quân đội. Hệ thống ấp chiến lược tan rã dần.
Năm 1963 các biến chuyển bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm liên tiếp xảy ra đưa đến cái chết thê thảm của các ông Diệm, Nhu, Cẩn và sự sụp đổ của đệ Nhất Cộng Hoà. Ngày 2 tháng Giêng, quân đội VNCH mở cuộc tân công vào Ấp Bắc, một địa điểm do cộng sản kiểm soát thuộc quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, cách tây- nam Sài gòn khoảng 40 dặm. Mặc dù đông gấp bốn lần quân địch và có sự yểm trợ của xe thiết giáp và máy bay trực thăng, ba tiểu đoàn bộ binh của VNCH đã bị quân cộng sản phục kích gây thiệt hại nặng nề. Họ chỉ rút lui khi quân quốc gia được một tiểu đoàn dù đến tiếp cứu. Ngày 25.2, phúc trình Mansfield khuyến cáo Hoa Kỳ nên rút khỏi Việt Nam được công bố khiến cho quan hệ Việt- Mỹ trở nên căng thẳng. Tinh thần chống Mỹ của gia đình Tổng thống Diệm lên đến cao độ. John Mecklin, cố vấn toà Đại sứ, báo cáo về bộ Ngoại giao Mỹ rằng “sự cay đắng bị đè nén này có thể gây hậu quả tai hại cho quan hệ của chúng ta với chính phủ Việt Nam hơn là một sự phản đối công khai.39 Vào cuối tháng Ba, ông Nhu có một “buổi thảo luận đặc biệt của Quân ủy Cần Lao” với Trung tướng Tôn Thất Đính, Tổng tư lệnh Quân đoàn III và Thủ đô Sàigòn và Đại tá Lê Quang Tung, Chỉ huy trưởng Lực lượng Đặc biệt, để ra chỉ thị về các biện pháp ngăn chặn đảo chánh do Mỹ sắp đặt.40
Từ tháng Tư trở đi, một chuỗi biến cố giữa chính quyền và Phật giáo dẫn đến cuộc đảo chính 1 tháng Mười Một. Nguyên nhân đầu tiên là lệnh cấm treo cờ Phật giáo ngoài khuôn viên chùa chiền trong ngày lễ Phật Đản. Thông thường cờ của tôn giáo nào cũng chỉ treo ở những nơi thờ tự của tôn giáo ấy, nếu đôi khi có ngoại lệ thì chẳng có gì đáng để cho chính quyền phải ngăn cấm. Tuy nhiên, riêng năm 1963 thì xảy ra chuyện đáng tiếc về vụ treo cờ Công giáo và cờ Phật giáo ở thành phố Huế. Đầu tháng Tư, nhân dịp lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm Tổng Giám mục Ngô Đình Thục được thụ phong giám mục,41 cờ Vatican được treo nhiều nơi ngoài nhà thờ ở Huế và những vùng phụ cận. Đầu tháng Năm, để chuẩn bị tổ chức lễ Phật Đản, các Phật tử treo cờ Phật giáo tại tư gia nhiều hơn cờ Công giáo trong dịp chúc mừng Tổng Giám mục Ngô Đình Thục. Điều này dễ hiểu vì đa số dân Việt Nam vốn theo đạo Phật từ lâu. Do sự can thiệp của Tổng Giám mục Thục, ngày 6.5 Phủ Tổng thống ra lệnh không cho treo cờ Phật giáo ngoài khuôn viên các chùa. Ngày 8.5, Thượng Tọa Trí Quang thuyết pháp tại chùa Từ Đàm, phản đối lệnh cấm và tố cáo chính quyền đàn áp Phật giáo. Sau đó, khoảng ba ngàn Phật tử xuống đường biểu tình phàn đối chính phủ. Phó Tỉnh trưởng Đặng Sỹ cho lệnh cảnh sát và quân đội giải tán đám biểu tình khiến cho 8 người chết và 15 bị thương.42
Các cuộc biểu tình của tăng ni và Phật tử lan ra một số tỉnh miền Trung và đặc biệt ở Sài-gòn trong khi những cuộc điều đình giữa chính quyền và các nhà lãnh đạo Phật giáo chưa đạt được kết quả. Ngày 11.6, Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài-gòn. Tấm hình của vị tu sĩ ngùn ngụt lửa do Malcom Browne, phái viên AP, chụp được bỗng nhiên làm sôi nổi dư luận thế giới về cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam. Tổng thống Diệm lúc đầu muốn giải quyết vấn đề Phật giáo một cách ổn thỏa, nhưng ông trở nên bất lực trước những lời tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân) có tính cách nhục mạ đối với các nhà lãnh đạo Phật giáo, đồng thời kịch liệt chỉ trích Hoa Kỳ can thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Ngày 7.7, nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một lãnh tụ của VNQDĐ và Đại Việt Dân Chính uống thuốc độc tự tử để phản đối chính quyền đưa ông ra Tòa Án Mặt Trận xét xử cùng với những người liên quan đến vụ đảo chính hụt gần ba năm trước (11.11.1960.) Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị phủ Tổng Thống —cơ quan mật vụ được CIA yểm trợ để kiểm soát các phần tử chống đối chính phủ— là người đầu tiên trong chính quyền âm mưu đảo chính nhằm loại bỏ hai vợ chồng ông Ngô Đình Nhu trước nguy cơ sụp đổ của VNCH. Cùng chủ mưu trong vụ này là Đại tá Phạm Ngọc Thảo,43 Tổng Thanh tra chương trình Ấp chiến lược. Âm mưu của Tuyến-Thảo được sự ủng hộ của một số sĩ quan trẻ, một số nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Được tin này, Lucien E. Conein, nhân viên CIA đang làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ, báo tin cho người bạn thân là Trung tướng Trần văn Đôn khi đó cũng đang bàn tính chuyện đảo chính với các tướng Lê Văn Kim, Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm. Tướng Khiêm gặp Đại tá Thảo và chặn được kế hoạch đảo chính sớm này. Sau đó, Trần Kim Tuyến bị Ngô Đình Nhu nghi ngờ và đẩy đi làm Tổng Lãnh sự bên Ai Cập.44
Đêm 21.8, Ngô Đình Nhu điều động Lực Lượng Đặc Biệt tấn công chùa Xá Lợi, bắt giữ hàng trăm tăng ni, trong đó có hai nhà lãnh đạo giáo hội Phật giáo là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thượng tọa Thích Tâm Châu. Đồng thời, tại Huế và nhiều nơi khác cũng xảy ra những vụ tấn công chùa chiền và bắt bớ tăng ni, Phật tử. Sau vụ này, Đại sứ Cabot Lodge được Tổng thống Kennedy chấp thuận quyết định “không ngăn cản” cuộc đảo chánh nếu Tổng thống Diệm không chịu thay đổi đường lối lãnh đạo và loại bỏ vai trò của vợ chồng ông Nhu.
Khi biết là quan hệ với Washington có thể phải đoạn tuyệt, hai ông Nhu và Diệm tỏ ra muốn thương thuyết với Hà Nội. Ý định này có thể đã nảy sinh từ cuối tháng Năm khi Hồ Chí Minh tuyên bố trong một buổi phỏng vấn với nhà báo Úc Wilfred Burchett rằng chính phủ Ngô Đình Diệm và MTGPMN có thể thương thuyết ngưng bắn và thành lập một chính phủ liên hiệp. Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi được Mieczyslaw Maneli, Trưởng đoàn Ba-Lan trong UHQT, thăm dò khả năng hiệp thương với miền Nam, còn cho biết rõ rệt hơn: “Vấn đề chính là Mỹ phải ra đi. Trên cơ sở chính trị này, chúng tôi có thể thương thuyết về mọi chuyện. Tất cả mọi chuyện.”45 Một vài cuộc tiếp xúc bí mật giữa ông Nhu và đại diện của Hà Nội được diễn ra như Ellen J. Hammer đã thuật lại, và cả Đại sứ Pháp Roger Lalouette lẫn Trưởng đoàn Ba-Lan Mieczyslaw Maneli cũng đều biết.46 Tuy nhiên, những cuộc tiếp xúc này rõ rệt chỉ có tính cách thăm dò. Ngày 2.9, qua sự thu xếp của Đại sứ Ý d’Orlandi và Chủ tịch UHKSQT Goburdhun, Ngô Đình Nhu tiếp Maneli tại Dinh Gia Long để được biết tin tức chuyến đi Hà Nội của ông ta hồi tháng Bảy. Theo Maneli, khi được hỏi về khả năng trao đổi kinh tế và văn hoá giữa Nam và Bắc như một bước đầu để tiến đến thoả hiệp về chính trị, Phạm Văn Đồng không những chỉ nhấn mạnh rằng trở ngại chính không phải là Diệm mà là sự hiện diện của Mỹ, ông còn gợi ý về bước đầu của hiệp thương là mở đường bưu điện và đổi gạo ở miền Nam lấy than đá ở miền Bắc.
Ngày 29.8, giữa lúc quan hệ Saigon-Washington đang cực kỳ căng thẳng và một cuộc đảo chánh có thể xảy ra bất cứ lúc nào, Tổng thống de Gaulle lên tiếng kêu gọi hai miền Nam, Bắc tham dự một hội nghị hòa bình, thống nhất và trung lập. Mặc dù Tổng thống Diệm không đáp ứng tích cực lời kêu gọi này, và dù ông Nhu đã thông báo cho Đại sứ Lodage về nội dung những cuộc gặp gỡ giữa ông với Maneli và với đại diện miền Bắc để chứng tỏ ông không giấu giếm việc tìm hiểu đối phương đồng thời xác nhận không đồng ý với đề nghị trung lập của de Gaulle, ông Nhu cũng muốn gửi một tín hiệu cảnh cáo Hoa Kỳ rằng hậu quả của việc ngưng ủng hộ Ngô Đình Diệm sẽ là một chính phủ trung lập đòi Mỹ rút ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, tín hiệu đó lại càng khiến cho Mỹ muốn mau chóng lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Maneli tiếp tục đóng vai trung gian không chính thức giữa Ngô Đình Nhu và Phạm Văn Đồng, nhưng chưa có điều gì cụ thể thì cả hai ông Nhu, Diệm đã bị hạ sát trong cuộc đảo chính 1 tháng Mười Một.
Sai lầm chính của Tổng thống Ngô Đình Diệm trong vụ Phật giáo là chỉ nghe lời những người trong gia đình và che chở họ ngay cả khi ông biết những người đó làm sai, như trường hợp Tổng Giám mục Thục và bà Nhu. Công bằng mà nói, ông Diệm là người Công giáo đang ở vị thế cầm quyền tất không khỏi có những hành vi đối xử có lợi cho Công giáo, nhưng điều đó không có nghĩa là các ông Diệm, Nhu và Cẩn có chủ trương kỳ thị và đàn áp Phật giáo. Quyết định sai lầm của ông Diệm khi chiều ý TGM Thục về vụ treo cờ lúc đầu là do tình cảm gia đình, khi bị phản đối thì lại phản ứng vì tự ái, thay vì thỏa mãn những thỉnh nguyện bình thường của Phật giáo, ông lại áp dụng luật lệ không công bằng khiến phát sinh một phong trào tranh đấu mang tính chất chính trị bị cộng sản lợi dụng. Đến lúc đó thì ông Nhu nhúng tay vào và chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ là do những quyết định chính trị sai lầm của ông Nhu. Vì tin tưởng mạnh mẽ ở khả năng và thiện chí của mình và vì tình gắn bó chặt chẽ với gia đình, Tổng thống Diệm đã chống lại mọi khuyến cáo hay áp lực tách ông ra khỏi những người thân, nhất là Ngô Đình Nhu là người mà ông tin tưởng có thể giúp ông giải quyết được mọi chuyện khó khăn. Giả thử cuộc đảo chánh thành công trong việc loại bỏ hai vợ chồng ông Nhu và ông Cẩn bằng cách giam giữ, giết chết hoặc lưu đày họ ra ngoại quốc, Tổng thống Diệm chắc chắn sẽ có những phản ứng tiêu cực và không khi nào chịu hợp tác với (và bị hạn chế bởi) những người đã phá hủy hệ thống quyền lực và triết lý cai trị của ông. Người Mỹ đã không hiểu được điều này khi tìm mọi cách “tách Nhu ra khỏi Diệm”.
Nói như vậy không có nghĩa là biện minh cho việc hạ sát Tổng thống Diệm và hai ông Nhu, Cẩn. Mặc dù sai lầm vì chính sách độc tài và tinh thần gia đình trị, ông Diệm không phạm những tội ác đối với dân tộc và đất nước để có thể bị giết chết một cách tàn nhẫn sau khi đã gọi cho những người cầm đầu đảo chính đến bắt mình. Không ai có thể phủ nhận ông là một người nhiệt thành yêu nước và ngay cả Chủ tịch Hồ Chí Minh, kẻ thù chính trị của ông, cũng đã bày tổ thái độ kính trọng lòng yêu nước và tinh thần can đảm của ông.47 Những người lãnh đạo nước Mỹ, dù có ghét đầu óc độc lập của ông Diệm đến đâu, cũng chưa bao giờ có thái độ khinh thường ông như đối với các tướng lãnh đã lật đổ và thay thế ông.48 Ngô Đình Nhu, éminence grise của Tổng thống Diệm, thông minh nhưng nhiều thủ đoạn, là người chịu trách nhiệm chính về những biện pháp sai lầm của chế độ. Tuy nhiên, ông cũng phải được nhìn nhận là một trí thức yêu nước và có lý tưởng, dù thiếu thực tế với học thuyết “cần lao nhân vị” của ông. Khi xảy ra chuyện Phật giáo là lúc ông đang lo đối phó với các áp lực của Hoa Kỳ tách rời ông ra khỏi ông Diệm. Ông rất bực mình không hiểu tại sao Tổng thống phải quan tâm và can thiệp vào chuyện treo cờ Phật giáo.49 Tuy nhiên, ông cũng có một nhược điểm lớn là luôn luôn bênh vực bà vợ ông ngay cả khi bà phát biểu những lời lẽ xúc phạm quá đáng đối với Phật giáo.
Ngô Đình Cẩn có thể đã gây nhiều kẻ thù không những chỉ về phía đảng viên cộng sản mà cả trong hàng ngũ các đảng phái quốc gia, nhất là VNQDĐ và nhóm Đại Việt Cách Mạng mà ông đã triệt hạ ở miền Trung. Nhưng riêng về vụ Phật giáo thì ông lại là một nạn nhân của chính gia đình ông. Ngay từ đầu, ông Cẩn đã bất đồng ý kiến với TGM Ngô Đình Thục về vụ cấm treo cờ Phật giáo. Ông vốn có quan hệ tốt với chùa Từ Đàm và thường giúp đỡ cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Khi có những người Công giáo đến gặp ông phàn nàn về việc ông tài trợ cho Phật giáo, ông bực mình gắt, “Đã đến lúc họ cần được giúp đỡ. Dưới thời Pháp người Công giáo đã được đủ mọi thứ. Nay đến lượt tín đồ đạo Phật.”50 Nhưng từ khi TGM Thục được Vatican bổ nhiệm về Huế năm 1961 thì vai trò của ông Cẩn bắt đầu bị lấn át và mất dần thế lực. Đầu năm 1963, Ngô Đình Nhu phái người thân tín ra nhắn với ông Cẩn là ông nên sang Nhật nghỉ một thời gian nhưng ông không chịu. Khi Phủ Tổng thống ra thông tư về vụ cấm treo cờ, ông Cẩn ra chỉ thị cho Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng không thi hành và đã cử phái đoàn chính phủ tham dự lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm.51
Việc hạ sát các ông Diệm, Nhu, Cẩn là những quyết định chính trị mà cả Hoa Kỳ và những người làm đảo chánh đều có trách nhiệm nhưng sau này lại đổ lẫn cho nhau. Nhóm tướng lãnh có thể lo ngại rằng nếu các ông Nhu, Diệm không bị giết, sau này các ông ấy sẽ có thể trở lại cầm quyền và trả thù. Nhưng ai cũng thấy rõ là vào thời điểm của cuộc đảo chánh 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm đã hoàn toàn bị thất thế cả về đối nội lẫn đối ngoại. Đại đa số các giới quân sự, chính trị và dân chúng trong nước đều chống đối. Dư luận thế giới đều bất mãn và Hoa Kỳ đã quyết định chấm dứt hợp tác với Ngô Đình Diệm. Khi Tổng thống Diệm bị lâm nguy, không thấy có một hành động can thiệp nào của các lực lượng “Thanh niên Cộng hòa” hay “Phụ nữ Liên đới” mà ông bà Nhu vẫn tự hào là những lực lượng nòng cốt với hàng triệu thành viên. Nhiều người từng ủng hộ Ngô Đình Diệm đã thấy sự sai lầm của ông và đã trở nên thờ ơ hay chống đối. Như vậy, trong trường hợp hai ông Nhu, Diệm không bị giết và chỉ bị lưu đày ra ngoại quốc, các ông cũng không còn cơ hội nào để có thể trở lại lãnh đạo cuộc chiến đấu chống cộng sản. Cho dù hai ông có tìm cách liên kết với cộng sản để tính chuyện trung lập hóa miền Nam và chấm dứt vai trò của Mỹ ở Việt Nam, các ông cũng không còn có những điều kiện để nói chuyện được với họ, nhất là khi tình hình chính trị và quân sự đã trở nên thuận lợi cho họ.
Tổng thống John F. Kennedy đã thật tình bị “sốc” khi hay tin Tổng thống Diệm bị hạ sát giữa lúc đang họp với các cố vấn. Ông đứng phắt lên, mặt tái nhợt đi và chạy vọt ra khỏi phòng họp. Tướng Taylor cho biết khi đó mặt Kennedy lộ “một vẻ xúc động và choáng váng… mà tôi chưa từng thấy bao giờ.”52Theo McCone, Giám đốc CI A hồi đó, Kennedy vẫn nhấn mạnh trong các phiên họp là không thể đối xử với ông Diệm cách nào tệ hơn là lưu đày, nhưng thật khó mà tin là ông không biết được rằng khi Hoa Kỳ cho phép làm đảo chánh thì có thể sẽ phải có giết chóc. Không ít người trong chính quyền Kennedy ngạc nhiên về cái chết của hai ông Diệm, Nhu. Khi nhà báo Marguerite Higgins hỏi Phụ tá Ngoại trưởng Roser Hilsman “Anh cảm thấy thế nào về bàn tay dính máu của anh?” ông ta trả lời : “Này Maggie, cách mạng bao giờ chả tàn nhẫn thế nào cũng phải có nạn nhân.”53 Mặc dù lập trường của chính quyền Kennedy trong giai đoạn chót vẫn là “không ngăn cản một cuộc đảo chính” (not to thwart a coup), ngày 30 tháng Mười, Hilsman đã điện sang Sài-gòn một thư nội bộ trong đó ông đã tiên liệu một biến cố Gotterdămmerung (Hoàng hôn của các thần linh) và căn dặn về việc lật đổ các ông Nhu, Diệm: “Chúng ta cần khuyến khích nhóm đảo chính chiến đấu đến cùng và phá tan dinh (Độc lập) nếu cần để đạt được thắng lợi. Điều kiện cho gia đình họ Ngô là đầu hàng vô điều kiện vì nếu không họ sẽ tìm cách gạt được cả các lực lượng đảo chính lẫn Hoa Kỳ. Nếu gia đình bị bắt sống, vợ chồng ông Nhu phải được tống xuất sang Pháp hay bất cứ nước nào muốn nhận họ. Ông Diệm phải được đối xử tùy theo ý muốn của các tướng lãnh.”54 Sau cuộc đảo chánh, Ngoại trưởng Dean Rusk đánh điện sang cho Đại sứ Cabot Lodge, “Tôi muốn bày tỏ lòng ngưỡng mộ của tôi đối với việc ông đã điều động xuất sắc một loạt các biến cố rất khó khăn và phức tạp.”55
Người hài lòng nhất về cuộc đảo chánh vẫn là Đại sứ Lodge. Ông là người chủ trương thay thế chính phủ Diệm từ trước khi sang Việt Nam làm Đại sứ. Ngay trong ngày đầu ở nhiệm sở (24.8), chưa kịp trình ủy nhiệm thư, Lodge đã điện về Bộ Ngoại giao ý kiến của ông cho rằng việc thuyết phục ông Diệm loại bỏ ông Nhu là vô ích và đề nghị tiếp xúc thẳng với các tướng lãnh. Ngày 29.8, ông xác nhận với Bộ Ngoại giao: “Trò chơi đã bắt đầu. Chúng ta đã bị đẩy vào một tiến trình không thể trở lui là lật đổ chính phủ Diệm.”56 Theo lời tướng Trần văn Đôn, khi ông và tướng Lê Văn Kim đến gặp Lodge ngày 2.9, “ông ta đã vô cùng niềm nở và ca ngợi sự thành công của chúng tôi”.57 Trong điện văn gửi về Bộ Ngoại giao, Lodge đề nghị giải thích với dư luận về cái chết của hai ông Diệm, Nhu là “ngoài ý muốn của họ (các tướng lãnh) và đây là chuyện chẳng may xảy ra trong một cuộc đảo chính mà trật tự không thể được đảm bảo ở khắp mọi nơi.”58 Dù sao chăng nữa, Lodge cũng đã nhìn nhận vai trò và trách nhiệm của Hoa Kỳ trong bản báo cáo hàng tuần gửi Tổng thống Kennedy ngày 6.11: “Điều cũng chắc chắn là nền đất mà mầm đảo chính được gieo xuống và mọc lên thành một cây to lớn là do chúng ta sửa soạn, và cú đảo chính đã không thể nào xảy ra nếu không có sự chuẩn bị của chúng ta.”
Về trường hợp Ngô Đình cẩn, ngày 2.11 Bộ Ngoại giao Mỹ đã có chỉ thị rõ ràng cho Lãnh sự ở Huế: “Cần phải cho Ngô Đình Cẩn tị nạn nếu sinh mạng ông ta bị nguy hiểm do bất cứ phía nào. Nếu cho ông ta tị nạn thì giải thích cho nhà cầm quyền ở Huế biết rằng thêm chuyện bạo hành sẽ làm hại thanh danh của chế độ mới đối với quốc tế. Cũng nhắc cho họ biết rằng Hoa Kỳ đã có hành động tương tự để bảo vệ Thích Trí Quang và không thể làm kém hơn về trường hợp ông Cẩn.”59 Ngày 4.11, Bộ Ngoại giao lại gửi điện hỏa tốc cho Đại sứ Mỹ ở Sài-gòn khẳng định rằng “cần phải tránh việc hãm hại Ngô Đình Cẩn. Bộ tin rằng chúng ta phải hết sức cố gắng đưa ông ta và, nếu cần, bà mẹ của ông ra khỏi nước thật sớm, bằng phương tiện của chính chúng ta nếu nhờ đó họ có thể ra đi mau chóng. Trong khi đó, chúng ta phải tận dụng mọi khả năng để bảo vệ họ.”60 Sau cuộc đảo chính, Ngô Đình Cẩn đến lánh nạn tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế. Sáng ngày 5.11, ông dời sang Lãnh sự quán Mỹ, nhưng tướng Đỗ Cao Trí cho lãnh sự Mỹ biết rằng ông được lệnh của Sài-gòn yêu cầu lãnh sự Mỹ giao ông Cẩn cho ông, nếu không ông không thể bảo đảm an toàn cho lãnh sự quán. Lãnh sự Mỹ xin ý kiến của Washington và được trả lời là Cẩn có thể được giao cho tướng Trí nếu Đại sứ quán Sàigòn đồng ý và xác nhận rằng các tướng đảo chánh sẽ không giết ông Cẩn. Lãnh sự Mỹ điện thoại vào Sài-gòn và được Lodge cho phép thỏa mãn lời yêu cầu của tướng Trí. Khi ông Cẩn tới Sàigòn bằng máy bay Mỹ, Đại sứ Lodge ra lệnh giao ông cho nhà cầm quyền quân sự Việt Nam với điều kiện là ông sẽ không bị xử tử. Như vậy, những chỉ thị trước đó của bộ Ngoại giao về việc bảo vệ sự an toàn của ông Cẩn đã không được thi hành. Đại sứ Lodge cũng không làm gì khi Ngô Đình Cẩn bị kết án tử hình ngày 22 tháng Tư, 1964 và bị đem ra bắn ngày 10 tháng Năm 1964.61
Sau khi Đệ nhất Cộng hoà bị lật đổ, miền Nam trải qua nhiều biến cố chính trị và quân sự quan trọng đưa đến cuộc chiến thắng và thống nhất đất nước của đảng Cộng sản. Trong bốn năm đầu (1963-1967) các tướng làm đảo chánh mất nhiều thì giờ vào việc tranh giành và bảo vệ quyền lực hơn là hoạt động quân sự khiến cho miền Nam lâm vào tình trạng bất ổn định chưa từng thấy dưới thời Ngô Đình Diệm. Lúc đầu, một Hội đồng Quân nhân Cách mạng (HĐQNCM) do tướng Dương Văn Minh cầm đầu được thành lập để giám sát chính phủ. Chức vụ Thủ tướng được giao cho cựu Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ nhưng mọi quyết định quan trọng về chính sách và nhân sự đều thuộc thẩm quyền của HĐQNCM. Hiến pháp Đệ nhất Cộng hoà bị bãi bỏ nhưng không có một văn kiện pháp lý nào thay thế. Chưa đầy ba tháng sau, tướng Nguyễn Khánh làm một cuộc “chỉnh lý”, bắt các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Đính đưa lên Đà-Lạt quản chế về tội âm mưu với Pháp trung lập hóa Việt Nam. Tướng Khánh thay ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng và lập thêm ba chức Phó Thủ tướng gồm một lãnh tụ chính trị (Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, đảng Đại Việt), một chuyên gia kinh tế tài chánh (Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh), và một quân nhân (thiếu tướng Đỗ Mậu). Chỉ hai tháng sau, cuộc hợp tác giữa tướng Khánh và đảng Đại Việt tan vỡ vì thực quyền vẫn nằm trong tay tướng Khánh khi ông thay đổi gần hết các tỉnh trưởng bằng những quân nhân thuộc phe ông dù không có kiến thức và kinh nghiệm hành chánh. Tháng Tư 1964, Bộ trưởng Nội vụ Hà Thúc Ký, lãnh tụ Đại Việt Cách Mạng, từ chức để phản đối. Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn bị tướng Khánh đẩy ra khỏi chính phủ, sau đó ông bỏ đi ngoại quốc.
Trong bản phúc trình gửi cho Tổng thống Johnson hồi tháng Ba. Bộ trưởng Quốc phòng McNamara bày tỏ nỗi lo ngại về tình trạng bất ổn định ở miền Nam do sự xáo trộn của bộ máy hành chánh từ trung ương tới địa phương: “Cơ cấu kiểm soát chính trị từ Sài-gòn xuống tới các thôn xã hầu như tan biến mất. Trong số bốn mươi mốt tỉnh trưởng tại chức ngày 1 tháng Mười Một (1963), ba mươi lăm người bị thay thế. Chỉ trong ba tháng, chín tỉnh đã thay ba tỉnh trưởng; một tỉnh thay tới bốn… Hầu hết các chức vụ chỉ huy quân sự quan trọng đã thay đổi hai lần.”62 Giới tranh đấu Phật giáo bất mãn với tướng Khánh, thường phát động những cuộc biểu tình đòi hỏi loại bỏ các thành phần chế độ cũ (đảng Cần Lao, Công giáo hay thân Công giáo) ra khỏi chính quyền.
Tháng Tám, tướng Khánh đưa ra bản “Hiến Chương Vũng Tàu” (do một nhóm luật gia soạn ở Vũng Tàu) để tạo lập cơ sở pháp lý cho chính quyền. Lần này, ông bị sinh viên Sài-gòn ào ạt xuống đường phản đối bản hiến chương bảo vệ tham vọng chính trị của quân đội. Nguyễn Khánh nhượng bộ, tuyên bố bãi bỏ Hiến Chương Vũng Tàu và triệu tập phiên họp của HĐQNCM để lựa chọn thành phần lãnh đạo mới. Khi đó, ông đã tạo được một lực lượng mới trong số các sĩ quan trẻ được người Mỹ mệnh danh là “Young Turks” có nghĩa tương tự như “Hảo hán Trẻ tuổi.” Cuối tháng Tám, nhóm này tái bầu Nguyễn Khánh làm Thủ tướng và thay thế HĐQNCM bằng một tam-đầu-chế gồm ba tướng Khánh-Minh-Khiêm. Hình thức chính quyền mới này không làm hài lòng cả hai giới Phật giáo và Công giáo. Nhiều cuộc biểu tình của hai bên tiếp tục xảy ra. Khi tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh vùng I, ủng hộ các cuộc biểu tình tranh đấu của Phật giáo thì tướng Khánh tuyên bố thành lập một Thượng Hội đồng Quốc gia có nhiệm vụ soạn thảo Hiến pháp mới và lựa chọn thành phần của một chính phủ dân sự trong vòng hai tháng.
Ngày 13 tháng Chín lại có một cuộc đảo chánh do hai tướng Lâm Văn Phát, cựu Bộ trưởng Nội vụ và Dương Văn Đức, tư lệnh vùng IV ở đồng bằng Cửu Long. Cuộc đảo chính này bất thành vì “hảo hán” Nguyễn Cao Kỳ kịp giải cứu tướng Khánh và dọa ném bom tiêu diệt lực lượng của hai ông tướng bất mãn.
Thượng Hội đồng Quốc gia được thành lập với Chủ tịch là Phan Khắc Sửu, nhà chính khách đối lập từng bị bắt giam thời Ngô Đình Diệm, và Thủ tướng là Trần Văn Hương, một nhà giáo đạo đức từng là cựu Đô trưởng Sài-gòn. Nhân dịp này, tướng Khánh gửi tướng Minh đi ngoại quốc thăm viếng ngoại giao các nước bạn, đồng thời đẩy tướng Khiêm đi làm Đại sứ ở Hoa Kỳ. Chính phủ Trần Văn Hương chỉ tồn tại được ba tháng vì không chịu nhượng bộ trước những đòi hỏi của nhóm Phật giáo tranh đấu. Sau khi THĐQG từ chối giải nhiệm một số tướng tá, ngày 20 tháng Mười Hai, tướng Khánh và nhóm “Young Turks” giải tán luôn THĐQG và thay thế bằng “Hội đồng Quân lực” (HĐQL). Chuyện này đã làm cho Đại sứ Taylor nổi giận và xúc phạm danh dự các tướng trẻ trong buổi gặp gỡ ngày 21.12 như đã nói đến ở chương 8 trên đây. Ngày 27 tháng Giêng 1965, HĐQL giải tán chính phủ Trần Văn Hương nhưng giữ lại Phan Khắc Sửu và đưa ông vào chức vụ Quốc trưởng.
Ngày 16 tháng Hai, HĐQL thành lập chính phủ mới do Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ tướng. Chỉ vài ngày sau, hai tướng Lâm Văn Phát và Dương Văn Đức lại tham gia vào một cuộc đảo chính do Đại tá Phạm Ngọc Thảo chủ mưu, nhưng lần này vẫn bị tướng Nguyễn Cao Kỳ dọa dùng không quân đập tan.63 Các tướng trẻ bây giờ cũng đã chán tướng Khánh nên nhân dịp này áp lực ông phải ra đi với chức vụ Đại sứ lưu động. Chính phủ dân sự Phan Huy Quát chỉ lâu được bốn tháng vì giữa Thủ tướng Quát và Quốc trưởng Sửu có sự bất đồng ý kiến trầm trọng về vấn đề nhân sự trong chính quyền. Mượn được cớ mâu thuẫn giữa các chính trị gia, ngày 14 tháng Sáu, HĐQL giải tán chính phủ dân sự và thiết lập một hệ thống chính quyền mới gồm ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (UBLĐQG) và ủy ban Hành pháp Trung ương (UBHPTƯ). Tướng Nguyễn Văn Thiệu được cử làm Chủ tịch UBLĐQG còn tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch UBHPTƯ, tức Thủ tướng chính phủ.
Như vậy chỉ trong vòng 20 tháng, miền Nam đã trải qua hơn mười biến cố chính trị trong đó có năm thể chế không có hiến pháp64 (từ HĐQNCM đến UBLĐQG), sáu chính phủ (tướng Khánh hai lần làm thủ tướng), ba lần tướng lãnh loại trừ nhau (Khánh loại Đôn-Kim-Xuân-Đính, Khánh loại Minh-Khiêm, các tướng tá trẻ loại Khánh) và hai cuộc đảo chánh bất thành. Giữa những lần thay đổi ấy là những cuộc biểu tình của tín đồ Phật giáo, Công giáo và sinh viên ở nhiều nơi trong nước, tạo nên một tình thế hỗn loạn gần như vô chính phủ. Tình trạng bất ổn chính trị vào thời điểm 1964- 1965 đã được Đại sứ Taylor mô tả một cách châm biếm nhưng rất đúng: “Cuộc chiến diễn ra trên bốn mặt trận: chính phủ chống các tướng, Phật giáo chống chính phủ, các tướng chống đại sứ, và các tướng chống Việt Cộng, tôi hi vọng vậy.”65 Muốn đầy đủ hơn nữa, còn phải thêm ba mặt trận : “Phật giáo chống Công giáo, các tướng chống các tướng, và các chính trị gia chống lẫn nhau.” Lẽ dĩ nhiên, phe hưởng lợi nhiều nhất trong tình trạng khủng hoảng này là Hà Nội và Mặt trận Giải phóng Miền Nam.
Sự kiện quân đội trở lại nắm lấy chính quyền gây nên một phong trào chống đối còn mạnh mẽ hơn trước, nhất là từ phía Phật giáo.66 Lần này, sự chống đối còn có thêm một đối tượng là Hoa Kỳ sau khi Tổng thống Johnson bay sang Honolulu để họp với hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ (7-9 tháng Hai 1966.) Tình hình căng thẳng nhất là ở Huế và Sài-gòn với hàng chục ngàn người biểu tình chống chính phủ quân nhân và chống sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Đầu tháng Ba, tướng Nguyễn Chánh Thi bị UBLĐQG cất chức tư lệnh vùng I và tướng Nguyễn Văn Chuân được cử ra thay thế. Tướng Chuân không ổn định nổi tình hình rối loạn gia tăng nên chỉ đến cuối tháng Năm, vùng I đã có thêm ba tư lệnh mới lần lượt thay thế nhau là Huỳnh Văn Cao, Tôn Thất Đính và Hoàng Xuân Lãm. Trong tháng Năm, Phật tử biểu tình chiếm đài phát thanh Nha Trang, Huế và Đà Nẵng. Hai ni cô tự thiêu ở Huế và Sài-gòn trong cùng một ngày. Phòng Thông tin Hoa Kỳ và Lãnh sự quán ở Huế lần lượt bị đốt phá. Trước tình thế gay go ấy, tướng Kỳ được sự hỗ trợ của Đại sứ Lodge và tướng Westmoreland, điều động quân đội và cảnh sát dã chiến từ miền Nam ra Huế chặn đứng được các hoạt động chống chính quyền và chống Mỹ. Thượng Tọa Thích Trí Quang bị đưa vào Sàigòn giam lỏng tại bệnh viện Nguyễn Duy Tài, còn tướng Nguyễn Chánh Thi thì phải sang Mỹ “chữa bệnh mũi.” Một số tướng tá khác bị bắt buộc hồi hưu hay giải ngũ.
Đầu tháng Sáu, UBLĐQG tuyên bố chuẩn bị bầu cử Quốc hội Lập hiến và mở rộng thành phần ủy ban với sự gia nhập của mười nhân vật dân sự đại diện các nhóm chính trị và tôn giáo.67 Cuộc bầu cử được diễn ra ngày 13 tháng Chín 1966 với 118 đại biểu. Bản Hiến pháp của Đệ nhị Cộng hoà chính thức ra đời ngày 1 tháng Tư 1967, ấn định một chế độ Tổng thống có Thủ tướng và một Quốc hội lưỡng viện. Ngày 3 tháng Chín, cuộc bầu cử Tổng Thống được tổ chức với 11 liên danh ứng cử và sự tham gia bầu cử của 83% dân chúng. Liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đắc cử với 34.8% số phiếu. So với tỉ lệ đắc cử thông thường của những nhà lãnh đạo độc tài là trên chín mươi phần trăm, tỉ lệ 34.8% này phản ảnh khá trung thực ý muốn của cử tri. Các quan sát viên và báo chí quốc tế chỉ ghi nhận một số vi phạm nhỏ ở địa phương.
Đáng chú ý là liên danh đứng hàng thứ nhì về số phiếu không phải là của những chính khách tên tuổi như Trần Văn Hương hay Phan Khắc Sửu, mà là của ứng cử viên chủ hoà Trương Đình Dzu với 17.2% số phiếu.68 Đây là một kết quả bất ngờ biểu lộ tâm trạng của những cử tri dù không theo cộng sản nhưng đã chán ghét chiến tranh và không còn tin tưởng ở các giới lãnh đạo quân sự và chính trị ở miền Nam sau cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Đình Diệm. Sứ quan Mỹ và CIA theo dõi rất sát tình hình tranh cử mà không tiên đoán được tầm ảnh hưởng của khuynh hướng chủ hòa. Trong các báo cáo hàng tuần gửi cho Tổng thống Johnson từ đầu tháng Năm, Đại sứ Bunker kiểm điểm khả năng và lập trường của những ứng cử  viên quan trọng nhưng không một lần nào ông nhắc đến Trương Đình Dzu. Mãi đến khi thấy kết quả bầu cử, ông mới tìm hiểu và nhận định khá nhiều về ứng cử viên này.69
Mặc dù thắng cử, liên danh Thiệu-Kỳ thực ra chỉ là một sự hợp tác gượng ép của những người “đồng sàng dị mộng.” Mỗi ông đều đã chuẩn bị cho mình vai trò nguyên thủ quốc gia từ khi UBLĐQG tuyên bố sẽ tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến và sau đó là bầu người lãnh đạo nền Đệ nhị Cộng hòa. Cuộc tranh chấp giữa hai tướng Thiệu, Kỳ gay go đến độ hàng ngũ quân đội có nguy cơ bị đổ vỡ. Đó là lý do khiến Đại sứ Lodge chưa muốn tiến hành xây dựng một thể chế dân chủ ở Việt Nam. Trước khả năng tái phát tình trạng bất ổn với những cuộc biểu tình tranh đấu chống chính phủ và chống Mỹ ở Việt Nam, Lodge muốn quân đội tiếp tục kiểm soát chính quyền như ông đã ủng hộ HĐQL đối phó hữu hiệu với cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1965. Đầu năm 1967, ông khẳng định với Washington rằng chính phủ quân nhân đại diện cho “những lực lượng xây dựng nước nhiều kinh nghiệm nhất, liên kết chặt chẽ và đáng tin cậy nhất của xứ sở.”70 Tuy nhiên, ông chẳng thể làm được gì để tạo được sự đoàn kết của các tướng lãnh Việt Nam. Sau khi bản Hiến pháp được công bố ngày 1 tháng Tư, cả hai tướng Thiệu và Kỳ đều công khai bày tỏ ý muốn trở thành “ứng cử viên của quân đội” trong cuộc tranh cử Tổng thống. Cuối tháng Tư, Lodge từ chức trở về Mỹ và trở thành cố vấn của Tổng thống Johnson. Đại sứ Ellsworth Bunker được cử sang thay thế. Trong suốt hai tháng trước thời hạn chót ghi danh ứng cử Tổng thống (30 tháng Sáu) Bunker nhiều lần gặp riêng cá nhân các ông Thiệu, Kỳ trong khi tướng Westmoreland cũng gặp tướng Cao Văn Viên, Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng, để yêu cầu phải tránh tình trạng phân hóa trong quân đội.
Các tướng lãnh lúc đó cũng rất lo ngại về nguy cơ quân đội bị chia rẽ và đã phải họp nhau nhiều lần để tìm cách giải quyết cuộc tranh chấp giữa hai phe Kỳ và Thiệu. Mặc dù tướng Viên đã tuyên bố từ đầu tháng Năm rằng quân lực không phải là một đảng chính trị nên không có ứng cử viên Tổng thống,71 các tướng lãnh vẫn không muốn trao chính quyền cho phe dân sự. Trong phiên họp ba ngày (28-30 tháng Sáu) — ngay trước hạn chót ghi danh ứng cử— HĐQL họp khẩn cấp để áp lực hai tướng Thiệu, Kỳ phải hợp tác với nhau. Cuối cùng, Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố nhường cho Nguyễn Văn Thiệu ứng cử Tổng thống và chấp nhận đứng chung liên danh với ông Thiệu. Ông Kỳ cho biết quyết định này là “một sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Suốt từ năm 1975, không có một ngày nào mà tôi không hối tiếc.”72 (Đáng lẽ ông phải nói suốt từ 1967 mới đúng.) Đại sứ Bunker nhận xét rằng HĐQL đạt được kết quả này là nhờ ba yếu tố chính: quan trọng nhất là sự cam kết của Thiệu và Kỳ với Johnson ở hội nghị Guam, kế đó là nhu cầu thiết yếu của tình đoàn kết quân đội, thứ ba là việc tướng Dương Văn Minh đang lưu vong Bangkok tuyên bố ra tranh cử đang trở thành một nỗi đe dọa chung. Ngoài ra, một số tướng lãnh trong HĐQL có thể đã không bằng lòng về cuộc vận động quá sớm của tướng Kỳ và cách sử dụng áp lực của những người ủng hộ ông. Tuy nhiên, Bunker công nhận Kỳ “đóng vai trò chính trong quyết định cuối cùng” vì “ông ta dẫn đầu rất xa các ứng cử viên khác vào lúc đó… và chính Thiệu cũng nhìn nhận rằng ông không thể đắc cử được.” Bunker nhận xét đây là một hi sinh lớn của Nguyễn Cao Kỳ vì tình đoàn kết của quản đội và quyền lợi của đất nước.73
Tướng Kỳ tiết lộ rằng trước cuộc bầu cử, HĐQL đã bắt buộc tướng Thiệu ký một bản thỏa thuận mật theo đó ông phải chịu sự kiểm soát của một hội đồng tướng lãnh được lựa chọn từ HĐQL và không bị ràng buộc bởi Hiến Pháp. Văn kiện mật này xác định rằng trong bất kỳ cuộc bầu cử nào, hội đồng tướng lãnh sẽ lựa ứng cử viên quân đội ra tranh cử Tổng thống. Sau khi đắc cử, ứng cử viên quân đội này vẫn còn là thành viên của hội đồng và luôn luôn phải hành động theo sự hướng dẫn của hội đồng”. Điều đó có nghĩa là sau khi trở thành Tổng thống, ông Thiệu vẫn tiếp tục là đại diện của quân đội và, trong thời chiến, trách nhiệm tối hậu điều hành việc nước vẫn do quân đội nắm giữ. Bản thỏa thuận được ký trong phiên họp đầu tiên của hội đồng tướng lãnh, trong đó có ông Thiệu. Tướng Kỳ cho biết ông được bầu làm chủ tịch hội đồng. Như vậy, khi Thiệu được bầu làm Tổng thống, ông phải chia sẻ quyền hành với hội đồng. Với tư cách chủ tịch, tôi nắm nhiều quyền hơn cả ông Thiệu.”74
Mặc dù có sự cam kết riêng tư đó giữa ông Thiệu và các tướng lãnh (theo ông Kỳ thì “người Mỹ không bao giờ biết có chuyện này”) chỉ nửa năm sau, với sự khuyến khích và giúp đỡ của Đại sứ Bunker, ông Thiệu đã dân sự hóa được bộ máy chính quyền và thực sự trở thành một Tổng thống do Hiến pháp, nhất là sau khi ông Trần Văn Hương nhận lời làm Thủ tướng vào cuối tháng Năm thay thế ông Nguyễn Văn Lộc là người của tướng Kỳ. Trong bản phúc trình hàng tuần cho Johnson, Bunker viết: “Chiều hướng có sự tham gia nhiều hơn của giới dân sự vào chính quyền là điều mà chúng ta đã khuyến khích và nuôi dưỡng từ nhiều năm nay, bắt đầu bằng việc ủng hộ cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến. Dĩ nhiên là Thiệu nên giữ vai trò của một Tổng thống hiến định hơn là chỉ phục vụ với tư cách đại diện của một nhóm quân nhân đang tìm cách điều hành chính phủ từ hậu trường.”75 Lời phát biểu này cho thấy bản mật ước giữa các tướng lãnh với ông Thiệu đã không có gì là mật đối với Mỹ, do đó hội đồng tướng lãnh trở nên vô hiệu và không thể ngăn cản được tiến trình dân chủ hóa và dân sự hóa chính quyền.
Điều đáng nói là tướng Kỳ bị mất dần thế lực và ảnh hưởng trong chính quyền. Ai cũng thấy rõ là sau khi tướng Kỳ nhường việc ứng cử Tổng thống cho tướng Thiệu, phe ủng hộ ông đã vô cùng bất mãn và chỉ chờ có cơ hội thuận tiện để phục hồi quyền lực cho ông. Tướng Kỳ dù không khuyến khích họ theo đuổi mục đích này nhưng cũng không tích cực ngăn chặn họ và vẫn bảo vệ các chức vụ của họ trong bộ máy chính quyền. Điều này khiến Hoa Kỳ rất quan tâm cho nên trong suốt thời gian từ trước khi có cuộc tranh cử Tổng thống cho đến sau khi chính phủ Trần Văn Hương được thành lập, Đại sứ Bunker đã thường xuyên nhắc nhở hai ông Kỳ và Thiệu (nhất là Kỳ) phải hợp tác với nhau để giữ vững chế độ và chiến đấu chống cộng. Trong mỗi bản báo cáo hàng tuần gửi cho Tổng thống Johnson, Đai sứ Bunker đều nhắc đến những nỗ lực hoà giải của ông mà ông không mấy lạc quan. Hai tổ chức chính trị được thành lập chỉ cách nhau mấy ngày trong tháng Ba: Mặt Trận Nhân Dân Cứu Quốc, thân Kỳ, do nghị sĩ (cựu trung tướng) Trần Văn Đôn cầm đầu, và Lực Lượng Tự Do Dân Chủ, thân Thiệu, do Tổng thư ký Phủ Tổng thống Nguyễn Văn Hướng (đảng Đại Việt) điều động. Khi Thiệu mời Trần Văn Hương làm thủ tướng, Kỳ có phản ứng tiêu cực rõ rệt. Bản tin AP ngày 17 tháng Năm tiên đoán sẽ có cuộc tranh chấp Thiệu-Kỳ về vấn đề bổ nhiệm một nội các mới. Kỳ cho rằng “Hương quá già, bướng bỉnh và ngoan cố.”76 Kỳ cũng đã nói với cả Bunker và Phó Đại sứ Berger là “việc thay đổi từ Lộc sang Hương không có nghĩa là chính phủ sẽ mạnh hơn và đoàn kết hơn.”77
Ngày 2 tháng Sáu, chỉ một tuần sau khi chính phủ Hương được thành lập, một máy bay trực thăng Mỹ phóng lầm hoả tiễn vào trụ sở của Bộ Chỉ huy hành quân ở Chợ-lớn ngày 2 tháng Sáu làm cho nhiều người chết và hai bị thương, tất cả đều là những người thân tín của tướng Kỳ.78 Mặc dù Đại sứ Bunker giải thích đây là một tai nạn do sai lầm về kỹ thuật gây ra, ông không đánh tan được giả thuyết rằng tình báo Mỹ biết được nhóm sĩ quan thân tướng Kỳ đang hội họp để âm mưu đảo chánh nên đã sắp đặt vụ “oanh kích lầm” để tránh tình trạng xáo trộn chính trị ở miền Nam. Cũng chỉ mấy ngày sau vụ này, Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Đại tá Trần Văn Hai vào chức vụ Tổng Giám đốc cảnh sát Quốc gia thay thế Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, cánh tay mặt của Phó Tổng thống Kỳ. Đại tá Đỗ Kiến Nhiễu cũng được bổ nhiệm làm Đô trưởng Sài-gòn thay cho Đại tá Văn Văn Của, em rể Đại tá Loan và là người bị thương trong vụ oanh kích lầm ở Chợ Lớn. về những thay đổi nhân sự này, Đại sứ Bunker nhận xét:
Thiệu hành động trong lúc Loan, từ lâu vốn là “bête noire” của các chính trị gia dân sự cũng như của nhiều thành phần dân chúng, đang nằm trong bệnh viện, và trước khi ra tay đã thăng chức cho Loan lên Thiếu tướng. Dù sao, sự thay thế này là một bước dài trong việc thiết lập uy quyền hiến định của Thiệu… Việc thay thế Đô trưởng Văn Văn Của và những sĩ quan đã thiệt mạng trong tai nạn bi thảm do vụ pháo kích Bộ Chỉ huy Sài-gòn (mà tôi đã báo cáo tuần trước), tất cả đều là bạn của Phó Tổng thống Kỳ, được coi như một sự suy giảm quan trọng quyền lực của Kỳ. Có một số dấu hiệu cho thấy là nhiều nhóm chính trị bây giờ tin rằng Thiệu rõ ràng đang lên và, vì thế, họ đang xán lại gần ông ta.79
Cuối tháng Mười một, sau khi Richard Nixon đã thắng Hubert Humphrey trong cuộc tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ, Tổng thống Thiệu cử Phó Tổng thống Kỳ sang Paris để giám sát và hỗ trợ phái đoàn VNCH tại cuộc hoà đàm Paris do Đại sứ Phạm Đăng Lâm làm trưởng đoàn. Đây cũng là một cơ hội tốt để giải quyết vụ tranh chấp Thiệu-Kỳ vì, nếu ông Kỳ còn ở lại trong nước, thì như Bun­ker đã nhận xét, “mặc dù uy quyền tiếp tục bị giảm sút, Kỳ vẫn có thể chứng tỏ ảnh hưởng phân hóa”.80 Từ nay mối quan tâm chung lớn nhất của cả Thiệu lẫn Kỳ là phái đoàn VNCH phải giành được vị thế chính đáng tại hội nghị Paris để bảo vệ sự vẹn toàn của một nửa nước Việt Nam không cộng sản.
Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống VNCH vừa do may mắn vừa do sự khôn ngoan của ông trong việc cư xử với các tướng lãnh, các giới chính trị và Đại sứ Hoa Kỳ. Trong cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm, ông Thiệu mới là Đại tá chỉ huy Sư đoàn 5, được các tướng chủ mưu đảo chính móc nối và giao cho trách nhiệm bao vây Dinh Gia Long, nhưng khi ông đem quân tới thì hai ông Diệm và Nhu đã rời Dinh trong một chiếc xe nhỏ chạy vào Chợ Lớn. Ông vẫn đóng quân ở bên ngoài cho đến khi Đại tá Phạm Ngọc Thảo đem thêm quân đến chiếm Dinh. Sau này có dư luận cho rằng con người thận trọng Nguyễn Văn Thiệu đã cố ý kéo quân đến chậm và không tấn công Dinh vì chưa dứt khoát chống Tổng thống Diệm.
Trong gần hai năm đầu, trong khi các tướng đàn anh tranh chấp và loại trừ nhau thì ông Thiệu, khi đó đã được thăng Thiếu tướng, lặng lẽ ở trong hậu trường và trở thành người có thâm niên cao nhất trong đám “Young Turks”. Ông có chân trong HĐQNCM và khi ông Trần Văn Hương được chọn làm Thủ tướng thì ông làm Phó Thủ tướng. Khi Bác sĩ Phan Huy Quát thay ông Hương thì ông Thiệu vẫn giữ chức Phó Thủ tướng và kiêm luôn Tổng trưởng Quốc phòng. Như vậy, khi đám “Young Turks” đẩy được tướng Khánh đi Mỹ và HĐQL lấy lại chính quyền cho phe quân sự, ông Thiệu có thể trở thành Thủ tướng dễ dàng, nếu ông muốn. Tuy nhiên, trước những sự thay đổi chính phủ mau chóng trong mười mấy tháng trước đó, tướng Thiệu đã nhận chức Chủ tịch UBLĐQG và để cho tướng Kỳ giữ chức Chủ tịch UBHPTƯ, tức Thủ tướng Chính phủ. Lần này, con người thận trọng Nguyễn Văn Thiệu đã sơ sót không tính đến chuyện Hoa Kỳ muốn có sự ổn định chính trị ở miền Nam để lo việc chống cộng nên suýt nữa thì sự nghiệp chính trị của ông bị chấm dứt, nếu hai năm sau tướng Kỳ không chịu nhường cho ông ra ứng cử Tổng thống.
Ở đây cũng nên ghi nhận vài nét về tướng Nguyễn Cao Kỳ. Khác với tướng Thiệu thâm trầm, tính toán thận trọng và khéo thích ứng với hoàn cảnh, tướng Kỳ là con người hành động, quyết định theo cảm tính và không suy nghĩ thận trọng khi phát biểu. Nhờ tham gia vào cuộc đảo chánh 1.11.1963 (dù ông không thuộc thành phần chủ động) và nhất là vai trò quan trọng của Không quân. Kỳ đã lên lớn rất nhanh, từ trung tá (trước đảo chánh) đến thiếu tướng chỉ huy trưởng không quân chỉ trong vòng vài tháng, và hơn một năm sau đã lên đến địa vị thủ tướng chính phủ, một chức vụ mà trước đó ông chưa bao giờ mơ tưởng đến. Tuy không có kiến thức và kinh nghiệm chính trị, Nguyễn Cao Kỳ muốn thực hiện công bằng xã hội” (như lời ông nói với Đại sứ Cabot Lodge), tuyên bố chính phủ của ông là “chính phủ của dân nghèo”, tung chiến dịch bài trừ tham nhũng và có một số chương trình phát triển xã hội như xây dựng nhà thương và trường học. Tư thế chính trị của tướng Kỳ lên cao nhất sau phiên họp với Tổng thống Johnson ở Honolulu đầu tháng Hai 1966, và quyền lực của ông cũng gia tăng sau khi dẹp yên vụ chống đối của Phật giáo miền Trung vào tháng Sáu năm đó. Nhưng trong cuộc cạnh tranh với tướng Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống năm 1967, cũng chỉ vì quyết định theo cảm tính trong giây phút bốc đồng, tướng Kỳ đã bỏ lỡ một cơ hội thuận lợi duy nhất trong đời. Trong những năm làm Phó Tổng thống, ông Kỳ vẫn toan tính việc ra ứng cử Tổng thống năm 1971, nhưng ông bị mất dần ảnh hưởng, và Hoa Kỳ, qua vai trò của Đại sứ Bunker, cũng muốn duy trì ông Thiệu, một người trầm tĩnh và ứng xử thích hợp hơn với đường lối của Hoa Kỳ. Sau khi liên danh Thiệu-Hương đắc cử, Hoa Kỳ không để ý gì tới Nguyễn Cao Kỳ.
Trong vai trò Tổng thống, mặc dù Nguyễn Văn Thiệu không thể so sánh được với Ngô Đình Diệm về mặt uy thế và đạo đức cá nhân, ông đã cầm quyền được gần tám năm, xấp xỉ với thời gian cầm quyền của ông Diệm. Từ 1967 đến 1973, do cách cư xử khôn khéo và thận trọng, ông Thiệu không phải đương đầu với những đảng phái đối lập (ngoại trừ cuộc tranh chấp ngấm ngầm và dai dẳng với nhóm ông Kỳ). Trong thời gian này, ông cũng không có những chính sách độc đoán đến độ dân chúng bất mãn và nổi lên chống đối. Ông lập được một số thành tích đáng kể về cải cách ở nông thôn nhưng cũng tìm cách củng cố quyền hành, gây nên nạn bè phái và tham nhũng trầm trọng. Ông thích ứng được với vai trò chủ động của Hoa Kỳ trong thời kỳ “Mỹ hoá” chiến tranh, cho đến khi bị Nixon-Kissinger ép buộc chấp nhận hiệp định Paris 1973 mới kịch liệt chống lại nhưng rốt cuộc vẫn phải nhượng bộ (xem chương Bảy). Sau hiệp định Paris, vì Hoa Kỳ không những dứt khoát rút quân về nước mà còn cắt giảm viện trợ cho Việt Nam, Tổng thống Thiệu phải đối phó với những khó khăn càng ngày càng gia tăng và phạm nhiều lỗi lầm to lớn về chính trị cũng như quân sự.
Sau khi liên danh Thiệu-Kỳ thắng cử năm 1967, nhờ được sự khuyến khích của Đại sứ Bunker, ông Thiệu đã khéo léo dân sự hóa chính quyền, loại bỏ được thế lực của Phó Tổng thống Kỳ, và xây dựng được quyền lực của mình một cách hợp hiến và hợp pháp. Bunker nhận xét, “Thiệu đã rõ ràng chọn vai trò Tổng thống hiến định của toàn dân hơn là đại diện của các tướng. Đối với ông, điều này gồm có những nỗ lực liên kết với các lãnh tụ dân sự đồng thời sắp đặt lại cơ cấu quân đội, về phần các tướng, đặc biệt là đối với
Kỳ, điều này có nghĩa là chấp nhận sự giảm bớt quyền lực chính trị.”81 Nói cách khác, điều đó có nghĩa là bản thỏa ước “mật” mà ông Thiệu phải ký với hội đồng tướng lãnh về một chế độ quân phiệt trong bóng tối đã được vô hiệu hóa. Rút kinh nghiệm thất bại của Ngô Đình Diệm, ông Thiệu không xây dựng một chính quyền độc đảng, mà chủ trương hợp tác với một liên minh các đảng phái chính trị, nhưng ông lại muốn liên minh này thân chính quyền hơn là một lực lượng đối lập. Chính vì thế mà “Mặt Trận” của Trần Văn Đôn cũng như “Lực Lượng” của Nguyễn Văn Hướng, dù chỉ là những tổ chức không có thực lực, đã không thể liên kết được với nhau. Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến của hai giáo sư đại học Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông ra đời vào tháng Năm 1969 cố gắng kết hợp tầng lớp trí thức thành một thế lực chính trị mới nhưng phong trào tiến triển chậm chạp vì đa số trí thức và chuyên viên vẫn dè dặt về hoạt động đảng phái. Đến cuối năm 1969, khi lãnh tụ Tổng Liên Đoàn Lao Công Trần Quốc Bửu với 250,000 đoàn viên cùng với nghị sĩ Trịnh Quang Quỹ thành lập Đảng Công Nông có khuynh hướng thân chính quyền thì ông Thiệu bắt đầu có một lực lượng quần chúng ở sau lưng, nhưng thực tế mới chỉ có “công” mà chưa có “nông”.
Khác với Ngô Đình Diệm là một nhà lãnh đạo độc tài đã có sẵn một quá khứ đầy uy tín, một lòng yêu nước nhiệt thành và niềm tin vững chắc vào quan niệm trị nước của ông (dù sai lầm), Nguyễn Văn Thiệu chỉ nhờ thời cơ mà trở thành nhà lãnh đạo, và đã dùng sự khôn khéo để xây dựng được quyền hành rồi trở thành độc tài. Ông không chịu thực hiện những cải cách hành chánh mà chỉ dân-sự-hóa một phần chính quyền ở trung ương, trong khi củng cố quyền lực bằng một hệ thống chính quyền địa phương với các tỉnh trưởng là những quân nhân thuộc phe phái của ông. Ngoài ra, ông vẫn ngấm ngầm có đầu óc quân phiệt cho nên đã không chịu thay đổi chính sách động viên theo đó thanh niên đi quân dịch không có thời hạn nhất định, khiến cho tương lai đất nước thiếu ít nhất là một thế hệ trí thức. Hậu quả trước mắt là nhiều cơ quan công cũng như tư bị tê liệt vì thiếu chuyên viên. Củng cố quyền lực bằng một hệ thống quan chức và cán bộ theo bè phái và bằng những biện pháp quân phiệt tất nhiên sẽ đưa đến tình trạng tham nhũng và bất công xã hội trầm trọng, làm mất lòng tin của dân chúng và làm suy yếu khả năng phát triển đất nước. Đây là một lỗi lầm hết sức nghiêm trọng.
Đại sứ Bunker rất quan tâm đến việc chính quyền Thiệu quá chú trọng đến biện pháp gia tăng quân số hơn là các hoạt động dân sự cần thiết cho công cuộc bình định. Ông đưa ra thí dụ bệnh viện Đà-lạt có một chuyên gia gây mê duy nhất bị bắt đi quân dịch khiến cho các hoạt động giải phẫu của nhà thương bị hủy bỏ. Về sự quan trọng của bộ máy dân sự, Bunker cho biết: “Tôi đã nhiều lần nhắc nhở cả hai ông Thiệu và thủ tướng Lộc, và đã đưa cho ông Lộc một danh sách 3,000 công việc thiết yếu trong chính phủ mà những người phụ trách không nên bị đưa đi quân dịch trừ khi có người đủ điều kiện thay thể.” Ông phàn nàn: “Chính phủ Việt Nam chưa có những chỉ thị rõ rệt hay một cơ cấu có khả năng đảm bảo rằng chính phủ dân sự và những dịch vụ công ích có thể tiếp tục hoạt động hữu hiệu.”82 Trên thực tế, chính phủ áp dụng chính sách biệt phái một số chuyên viên đi quân dịch về phục vụ trong các cơ sở hành chánh, nhưng phần lớn những quyết định biệt phái ấy được thi hành trên căn bản phe đảng hay hối lộ, và trong trường hợp nào cũng được coi như những biện pháp ân huệ nhằm bảo đảm sự trung thành của các đương sự.
Sai lầm lớn nhất về chính trị của ông Thiệu là không thực tâm cải tổ hệ thống chính quyền mà chỉ lo củng cố quyền hành, và đàn áp đối lập khi không thuyết phục được họ theo mình. Trước nguy cơ chung, nhất là từ sau khi ký hiệp định Paris, đáng lẽ ông Thiệu phải sớm thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc để có được sự hợp tác của những nhóm đối lập trong việc chuẩn bị đấu tranh chính trị với cộng sản về tương lai chính trị của miền Nam theo tinh thần hiệp định Paris. Ngoài ra, cần phải quyết liệt và mau chóng bài trừ tham nhũng để đem lại công bằng xã hội, lấy được niềm tin của dân chúng. Trong những điều kiện đó, một chính phủ đoàn kết rộng rãi của VNCH sẽ dễ được Quốc hội và chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ có uy tín và lợi thế hơn khi thảo luận với MTGPMN về vấn đề thi hành hiệp định Paris. Thời điểm này cũng thuận tiện để thăm dò và thảo luận thẳng thắn với MTGPMN về vấn đề hoà giải và khả năng hợp tác giữa hai bên ở miền Nam, về thời gian chuyển tiếp và những điều kiện thống nhất với miền Bắc. Việc thăm dò này sẽ cho thấy mức độ độc lập và ảnh hưởng của những nhân vật không cộng sản trong MTGPMN đối với giới lãnh đạo ở Hà Nội. Kết quả tích cực dù đạt được hay không cũng sẽ chứng tỏ được hành động có trách nhiệm của VNCH đối với dân tộc và đất nước. Lịch sử sẽ đánh giá trách nhiệm này của mỗi phe liên hệ.
Nhưng thay vì hành động với tinh thần trách nhiệm, ông Thiệu vẫn duy trì hệ thống chính quyền bất lực và tham nhũng, bắt giam những người đối lập khiến cho phong trào chống đối càng ngày càng lan rộng và quyết liệt. Từ giữa năm 1974, các tổ chức chống chính phủ được liên tiếp thành lập. Đáng kể nhất là “Phong trào Nhân dân chống Tham nhũng” của Linh Mục Trần Hữu Thanh ra cáo trạng kết tội chính phủ, “ủy ban Phối hợp Hành động” của Nghiệp đoàn Ký giả đòi hủy bỏ đạo luật 007 hạn chế báo chí đã khiến cho nhiều tờ báo phải đóng cửa và hơn 900 ký giả bị thất nghiệp,83 “Lực lượng Luật sư Tranh đấu” của Luật sư Đoàn ra tuyên cáo phản đối việc bắt giữ trái phép các luật sư và thẩm phán, và đòi Tối cao Pháp viện phải can thiệp cho họ được thả. Ngoài ra, các đảng phái, tôn giáo cũng thành lập một mặt trận gọi là “Trận tuyến Nhân dân Cách mạng Tranh thủ Hòa bình”. Linh mục Phan Khắc Từ thành lập “ủy ban Bảo vệ Quyền lợi Công nhân,” và cùng với Đại đức Thích Hiển Pháp thành lập “Mặt trận Nhân Dân Cứu đói”. Phật giáo Ấn Quang huy động các Phật tử đòi chấm dứt chiến tranh. Phật giáo Việt Nam Quốc tự kêu gọi Tổng thống Thiệu từ chức. Các linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan và Trương Bá Cần đều là những tiếng nói mạnh mẽ chống chính quyền.
Khi ông Thiệu ban hành lệnh tổng động viên mới, hạn chế tuổi hoãn dịch vì lý do học vấn và bãi bỏ việc hoãn dịch vì lý do tôn giáo thì sinh viên, học sinh tổ chức bãi khóa. Hội đồng Liên tôn gồm 11 giáo phái, và các giáo phái Phật giáo tranh đấu cũng như ôn hoà, kể cả hệ phái phi chính trị nhất như Lục Hòa tăng, đều cực lực phản kháng lệnh tổng động viên. Mãi đến đầu tháng Tư 1975, Nguyễn Văn Thiệu mới yêu cầu tướng Trần Thiện Khiêm rời chức vụ Thủ tướng để cho Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá cẩn thay thế và lập một “Chính phủ đoàn kết quốc gia”.84 Lúc này đã quá trễ và không có một chính phủ mới nào, dù có thật sự đoàn kết rộng rãi, có thể cứu vãn được tình thế. Ngày 21.4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và bốn ngày sau được phi cơ quân sự Mỹ đưa sang Đài Loan đoàn tụ với gia đình.
Về quân sự, sai lầm lớn nhất của ông Thiệu là quyết định bỏ Cao nguyên ngày 14 tháng Ba 1975 gây nên một cuộc tháo chạy hỗn loạn của quân và dân miền Trung và những cuộc truy kích của bộ đội Bắc Việt khiến cho hàng trăm ngàn người bị chết và bị thương. Các tỉnh thuộc Quân khu I và II theo nhau bị thất thủ mau chóng dễ dàng. Chuyện này đã được nói đến ở chương Bảy nên không cần thuật lại ở đây.
Về mặt tích cực, ông Thiệu đã thực hiện được một cuộc cải cách hành chánh có tính dân chủ. Đó là việc tổ chức lại các hội đồng kỳ mục trong các làng xã mà các đại diện đều thật sự do dân lựa chọn qua bầu cử. Năm 1969, có 89.75 phần trăm làng thuộc vùng quốc gia kiểm soát đã bầu xong các chủ tịch và hội đồng đại diện.85 Các hội đồng này đều được chính phủ giúp đỡ tổ chức và huấn luyện các đội dân vệ và cảnh sát để bảo vệ an ninh của làng xã. Đến tháng Chín đã đạt được chỉ tiêu 2 triệu đoàn viên Nhân Dân Tự Vệ cho năm 1969 và con số gia tăng mau chóng tới mức trên 3 triệu vào cuối năm. Tuy nhiên, lên đến cấp quận và tỉnh thì ông Thiệu vẫn giữ nguyên hệ thống cũ, tức là các quận trưởng và tỉnh trưởng đều là quân nhân do chính quyền chỉ định. Thay vì cải cách thì ông chỉ thay thế những người cũ bằng người mới trung thành với ông. Những cán bộ cao cấp tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh chỉ được bổ nhiệm làm phó hay phụ tá không có quyền quyết định.
Một cải cách khác quan trọng hơn và có hiệu quả tích cực đối dân chúng nông thôn hơn thời Ngô Đình Diệm là cải cách điền địa. Chính sách mới của ông Thiệu gồm ba điểm: (1) địa chủ không được bắt tá điền trả địa tô thuộc những năm trước; (2) nông dân đã được Việt Cộng cấp ruộng đất trước đây sẽ không phải đóng thuế trong một thời gian; và (3) những nông dân này được quyền giữ ruộng đất do Việt Cộng cấp và được cấp bằng khoán để chính thức trở thành tiểu điền chủ. Đạo luật “Người Cày Có Ruộng” ngày 26 tháng Ba năm 1970 được coi là chương trình “cách mạng” nhất của tướng Thiệu, theo đó mức sở hữu ruộng đất của mỗi địa chủ được giới hạn tối đa là 15 ha, diện tích quá mức đó sẽ bị truất hữu để phát không cho nông dân nghèo. Mặc dù có ruộng đất bị truất hữu, các điền chủ vẫn không chống đối vì thực tế thì hầu hết ruộng đất của họ coi như đã mất khi có “chiến tranh giải phóng”, và họ lại được chính phủ bồi thường về số ruộng bị truất hữu. Sau ba năm thi hành luật “Người Cày Có Ruộng”, chỉ tiêu cấp phát 1 triệu ha đã được vượt qua với hơn 850,000 tá điền trở thành tiểu điền chủ. Tuy nhiên, vì những quan hệ gia đình hay quen biết với các cán bộ cộng sản từ những ngày kháng chiến chống Pháp, vì sợ bị khủng bố nếu ủng hộ chính quyền quốc gia, hay chỉ đơn giản vì muốn được đủ no và một đời sống yên ổn, người nông dân nghèo thường tránh né các hoạt động chống cộng mỗi khi có thể được. Phải đợi cho đến sau 1975, họ mới bày tỏ phản ứng thực sự khi nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thi hành chính sách tập thể hoá ruộng đất ở miền Nam. Nông dân vô sản nhờ luật “Người Cày Có Ruộng” của VNCH đã trở thành hữu sản và họ vô cùng bất mãn khi bị cưỡng bách bán lúa gạo và các sản phẩm khác cho nhà nước với giá rẻ. Không thể chống đốì bằng bạo động, họ chống đối thụ động bằng cách chỉ sản xuất vừa đủ ăn cho gia đình để không có số thặng dư phải bán cho nhà nước. Nền kinh tế chỉ huy ở nông thôn bị thất bại, sản xuất lương thực suy giảm trầm trọng khiến đất nước lâm vào tình trạng nghèo đói triền miên cho đến những năm cuối thập kỷ 1980 mới bắt đầu hồi phục nhờ chính sách “đổi mới kinh tế”, cho phép nông dân được bán sản phẩm của mình theo giá thị trường.
Những nét chính trên đây trong sự nghiệp chính trị của Nguyễn văn Thiệu cho thấy ông là người không có sáng kiến nhưng có khả năng tồn tại, biết đối phó một cách uyển chuyển với mọi khó khăn nội bộ cho đến khi ký hiệp định Paris. Ông khéo thích ứng với chính sách của Hoa Kỳ và tin tưởng ở sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho đến khi bị Đại sứ Graham Martin thúc dục từ chức, và ông chỉ từ chức trước khi miền Nam sụp đổ có chín ngày. Với tư cách một Tổng thống hợp hiến, ngoài việc vô hiệu hóa một cách êm thắm bản thỏa ước mật mà ông đã phải ký với Hội đồng tướng lãnh, ông Thiệu còn kiềm chế được hai cuộc khủng hoảng có nguy cơ tạo loạn: sinh viên hoạt động phản chiến và thương phế binh chiếm đất bất hợp pháp.
Tháng Tư 1970, sau khi một số lãnh tụ sinh viên bị bắt vì tình nghi hoạt động cho cộng sản, sinh viên Sài-gòn bắt đầu có những cuộc biểu tình và bãi khóa để phản đối khiến Đại học Sài-gòn phải đóng cửa. Một số Đại học ở các tỉnh cũng có sinh viên biểu tình chống chiến tranh và đòi thả những sinh viên bị bắt. Động lực chính của phong trào sinh viên phản chiến là chính sách quân dịch vô thời hạn, tình trạng tham nhũng bất công trong việc thi hành chính sách, và việc bắt giữ bừa bãi những người chống đối. Tuy nhiên, động lực này dễ được các cán bộ cộng sản lợi dụng để len lỏi vào hàng ngũ sinh viên khuyến khích các hoạt động chống chính phủ. Ngày 17, ông Thiệu triệu tập một phiên họp với các Viện trưởng Đại học Sài-gòn và Vạn Hạnh cùng một số giáo sư có uy tín sinh viên. Khi được yêu cầu khoan hồng đối với những sinh viên bị bắt, ông Thiệu cho hay là ông sẽ thả 22 sinh viên trong số 43 người bị bắt, nhưng số còn lại sẽ phải đưa ra toà xét xử. Dù sao, khi xét xử, ông sẽ khoan hồng cho những sinh viên bị tuyên án. Ông yêu cầu các giáo sư đóng vai trò liên lạc giữa sinh viên và chính phủ, và giải thích cho sinh viên về những vấn đề khó khăn, đất nước và sự khai thác để lợi dụng của cộng sản.86 Chính sách “cây gậy và củ cà-rốt” này được ông Thiệu áp dụng đối với sinh viên chỉ có hiệu lực tạm thời và không chấm dứt được phong trào chống đối khi những nguyên nhân gốc chưa được giải quyết thỏa đáng. Hoạt động chống đối của sinh viên dễ bùng nổ lại mỗi khi có một cuộc khủng hoảng chính trị hay xã hội khác, như cuộc tranh đấu đòi quyền lợi của các thương phế binh.
Thương phế binh là một thành phần đông đảo gồm những người đã chiến đấu và hi sinh một phần thân thể cho công cuộc chống cộng nhưng  họ không được hưởng những quyền lợi xứng đáng và phải chịu cảnh nghèo khổ của tầng lớp thấp nhất trong xã hội. Tình trạng bất mãn của họ bùng lên thành một phong trào chiếm hữu các đất trống và cất lên những căn nhà tồi tàn ngay trong khu vực Sài-gòn-Gia-định. Nhiều vụ xô xát xảy ra giữa thương phế binh và nhân viên công lực. Chính phủ vội vã yêu cầu Quốc hội biểu quyết dự thảo luật tăng tiền cấp dưỡng cho thương phế binh và cấp nhà ở cho những người thật sự có nhu cầu. Giải pháp này cũng chỉ có hiệu lực trấn an tạm bợ, vì tình trạng thiếu hụt chung của ngân sách và sự cắt giảm viện trợ Mỹ đã ảnh hưởng đến khả năng chi tiêu của chính phủ về mọi mặt.
Đối với Hoa Kỳ, ngay sau khi chính thức nhận lời tham dự hội nghị Paris đầu năm 1969, ôngThiệu đã thay đổi lập trường từ chống cộng bằng quân sự sang thái độ sẵn sàng tìm một giải pháp chính trị với MTGPMN. Trong báo cáo về Washington, Đại sứ Bunker ghi nhận:
Khi tôi nói chuyện với Thiệu ngày 17 tháng Ba, ông ta đã đi xa hơn những lần trước, khi thảo luận về những vấn đề mà ông phải đối diện để đạt tới một giải pháp chính trị. Ông ta coi MTGPMN như một thực thể chính trị và thấy có những cách mà tổ chức này có thể tham gia vào đời sống chính trị của xứ sở. Một việc có thể làm là để cho họ tham gia vào những cuộc bầu cử như đã được qui định trong Hiến pháp, chẳng hạn những cuộc bầu cử địa phương, cuộc bầu cử nửa phần Thượng viện năm 1970, rồi đến cuộc bầu cử Hạ viện và Tổng thống năm 1971. Thiệu không cho rằng sửa đổi Hiến pháp là chuyện khó khăn nếu giải pháp chính trị đòi hỏi phải có tổng tuyển cử. Ông cảm thấy rằng việc quốc tế giám sát bầu cử, sự hiện diện của MTGPMN trong hội đồng bầu cử, hay sự tham gia của họ vào việc theo dõi các nơi bỏ phiếu đều có thể thực hiện được.
Bunker nhận xét thêm rằng “Đây là một chặng đường dài kể từ tình hình một năm trước, khi mà vấn đề chỉ có thể được nói đến bằng một chiến thắng quân sự.”87 Đáng chú ý là ông Thiệu đã nhất định không chịu ký thông cáo chung ngày 31.10.1968 với Tổng thống Johnson —một sự kiện có ảnh hưởng tới sự thất cử của ông Humphrey— nhưng ông lại thích ứng rất nhanh với chủ trương tiếp tục thương thuyết của Tổng thống Nixon, vì ông nghĩ rằng chính quyền Nixon sẽ tiếp tục ủng hộ ông. Dù rằng sau này ông cũng đã hết sức chống lại áp lực của Nixon, ông vẫn phải chấp thuận bản dự thảo cuối cùng của hiệp định Paris, theo đó Bắc Việt không cần phải rút quân về Bắc và Chính phủ Cách mạng Lâm thời của MTGPMN được công nhận như một thực thể ngang hàng với VNCH.
Nguyễn Văn Thiệu có thể bị chê là tham quyền cố vị, chỉ rời bỏ chức vụ khi ông thấy rõ vai trò của mình đã chấm dứt và tính mệnh có thể bị nguy hiểm nếu còn ở lại. Thật ra, ham muốn quyền hành là chuyện thường tình của những người làm chính trị, vì một khi đã nắm quyền ít người có thể từ bỏ được dễ dàng. Theo tin đồn, ông Thiệu có lần đã nói “Làm chính trị thì phải lì.” Quả thật ông Thiệu đã quá “lì” cho đến những ngày cuối cùng khi ông trả lời sự thúc dục của Đại sứ Martin ngày 20 tháng Tư: “Tôi sẽ từ chức khi tôi thấy cần.” Nhưng mọi sự phê phán về ông Thiệu chỉ nên nhắm vào những hành động sai trái của ông khi tìm cách củng cố quyền lưc và những quyết định sai lầm của ông về chính trị và quân sự trong cương vị người lãnh đạo của một nước. Ông Thiệu đã vượt qua được nhiều thử thách lớn nhưng rốt cuộc chỉ có thể tự cứu mình bằng cách ra khỏi nước khi Hoa Kỳ đã dứt khoát đoạn tuyệt với VNCH và bộ đội miền Bắc đang lăm le tiến vào thủ đô Sài-gòn từ mọi ngả.
Để kết luận về nền Đệ nhị Cộng Hoà, cần phải nhắc đến một sai lầm căn bản mà trách nhiệm không phải chỉ đổ lên vai hai ông Thiệu và Kỳ mà toàn thể Hội đồng tướng lãnh sau cuộc đảo chính lật đổ Đệ nhất Cộng hòa đều phải gánh chịu. Đó là việc các tướng lãnh cầm quyền đã bỏ phí bốn năm trời (1963-1967) vào việc tranh giành quyền lực hơn là hoạt động chống cộng và dựng nước. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch MTGPMN, đã gọi những vụ đảo chánh và chỉnh lý liên tiếp giữa các tướng quốc gia là “những món quà của Trời cho” và nhận xét khá đúng về thời kỳ này: “Kẻ thù của ta bị suy yếu về mọi mặt, quân sự, chính trị và hành chánh. Quân đội của họ đã phải chịu những thất bại nặng nề trên chiến trường và tình trạng đào ngũ của quân lính. Những lực lượng đặc biệt nòng cốt của Diệm đã bị loại. Hệ thống chỉ huy quân sự bị đảo ngược và mất hiệu lực vì những cuộc thanh trừng.”88 Tình hình chính trị và quân sự đen tối đến độ tướng Westmoreland phải báo cáo với Washington vào cuối tháng Mười 1964 rằng “trừ khi thấy có triển
vọng về sự xuất hiện thật sớm của một chính phủ có hiệu lực, hành động tấn công của Hoa Kỳ dù lớn mạnh đến đâu, ở trong hay ngoài Nam Việt Nam, cũng không thể một mình nó xoay chuyển được tình trạng tan rã đang xảy ra.”89 Trước tình thế nguy ngập ấy, chính quyền Johnson phải quyết định “Mỹ hóa” cuộc chiến và ngày 8 tháng Ba 1965 bắt đầu đưa quân chiến đấu vào Việt Nam. số quân tham chiến tiếp tục gia tăng lên đến cao nhất là 543,400 người vào ngày 30 tháng Tư 1969. Kết quả khi chiến tranh kết thúc là hơn 58,000 quân nhân Mỹ bị chết và đất nước Việt Nam ở cả hai miền bị tàn phá với hơn bốn triệu quân và dân bị thiệt mạng.
Ngay sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, quân dân ở miền Nam nói chung đều có một niềm tin tưởng mới, hi vọng tình hình sẽ được cải thiện về mọi mặt. Các tướng lãnh đáng lẽ đã phải thiết lập một chính phủ lâm thời và những cơ cấu chuyển tiếp có nhiệm vụ cải tổ bộ máy chính quyền và quân đội, soạn thảo Hiến pháp Đệ nhị Cộng hoà, và thực hiện những cuộc bầu cử dân chủ để sớm có được một chính quyền hợp hiến có chính nghĩa đối với nhân dân trong nước. Trong những điều kiện ấy, quân đội VNCH sẽ được xây dựng thành một lực lượng chiến đấu hữu hiệu với sự giúp đỡ đầy đủ về vũ khí và kỹ thuật của Hoa Kỳ. Chuyện “Mỹ hoá” chiến tranh sẽ không có lý do để xảy ra và phong trào phản chiến ở Mỹ cũng không thấy có động cơ phải xuất hiện, vấn đề “Việt Nam hoá” chiến tranh lại càng không được đặt ra vì VNCH đã đảm nhận trách nhiệm ngay từ đầu. Với sự hỗ trợ thích hợp của Hoa Kỳ và thế giới tự do, VNCH sẽ ở vào một vị thế mạnh trong những cuộc thương thuyết về một giải pháp chính trị và trong khi chờ đợi đất nước thống nhất mà thời gian có thể kéo dài, như lời nhà ngoại giao miền Bắc Nguyễn Khắc Huỳnh đã dự đoán, “từ mười năm đến hai mươi năm” (xem chương 9), miền Nam có triển vọng trở thành một quốc gia giàu mạnh như Tây Đức hay Nam Hàn. Các tướng lãnh cầm quyền vì quyền lợi riêng đã để lỡ mất thời gian xây dựng quí báu đó.
Nền Đệ nhị Cộng hoà tuy ra đời muộn và trong những điều kiện còn khó khăn đã bắt đầu khởi sắc sau khi Bắc Việt thất bại trong chiến dịch TCK/TKN Tết Mậu Thân. Mặc dù bị tấn công bất ngờ, quân đội VNCH với sự trợ lực của quân đội Hoa Kỳ đã mau chóng đẩy lui được QGPMN ở khắp nơi chỉ trong vòng mấy ngày, trừ vùng lân cận Sài-gòn và cố đô Huế. Cả hai sự kiện được các chiến lược gia miền Bắc tiên liệu và mong đợi đều không xảy ra: Lính “ngụy” sẽ đào ngũ và dân chúng sẽ nổi dậy ủng hộ quân “giải phóng”. Ngược lại, sau cuộc tấn công này, dân chúng rất sợ hãi và ân hận cộng sản đã vi phạm thỏa thuận hưu chiến trong ngày lễ truyền thống thiêng liêng của dân tộc, biết ơn quân đội VNCH đã chiến đấu để bảo vệ họ, và ủng hộ công cuộc chống cộng của chính quyền mạnh mẽ hơn. Tinh thần chiến đấu của binh sĩ cũng lên cao và quân số VNCH tăng lên mau chóng về cả hai thành phần tình nguyện và quân dịch. Chỉ mấy tuần sau cuộc tấn công đợt 1 có 10,084 quân tình nguyện so với 3,924 vào tháng Hai năm trước; ngoài ra, có 10,600 thanh niên trình diện đi quân dịch so với 4,006 cũng vào tháng Hai năm trước.90 Cuộc tổng công kích này cũng khiến cho lưỡng viện Quốc hội và những nhóm chính trị đối lập như Phong trào Phục hưng miền Nam, đều lên án sự vi phạm của cộng sản và hợp tác với các nỗ lực của chính quyền giúp đỡ nạn nhân ở các nơi. Một yếu tố khác cũng cần được nhắc đến là con số binh sĩ và cán bộ Việt cộng trở về theo chương trình Chiêu hồi tăng lên rất cao: trong sáu tháng đầu năm 1969 đã có 20,924 người hồi chánh, nhiều hơn gấp đôi tổng số của năm 1968.91
Trong mấy năm kế tiếp, dù miền Bắc vẫn tiếp tục đưa quân và vũ khí vào miền Nam và mở nhiều trận tấn công khác, đặc biệt nhắm vào quân Mỹ để đẩy mạnh phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ, quân đội miền Bắc đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Đặc biệt là trận đại tấn công mùa Xuân 1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sử dụng gần 200,000 quân sĩ với 1,200 xe tăng và xe bọc sắt tân công vào ba mũi nhọn: Quảng trị (Quân khu I), Kontum và cao nguyên miền Trung (Quân khu II), và An Lộc (Quân khu III). Cả ba mặt trận diễn ra rất ác liệt suốt ba tháng trời, từ cuối tháng Ba tới cuối tháng Sáu, rốt cuộc Bắc Việt phải rút quân sau khi đã hi sinh khoảng 100,000 binh sĩ và thiệt hại trên một nửa số trọng pháo và chiến xa.92 Tháng Ba 1973, tướng Trần Văn Trà được triệu ra Hà Nội để báo cáo về tình hình miền Nam. Trong một cuốn sách xuất bản năm 1982 nhưng bị cấm lưu hành ngay sau đó, tướng Trà có thuật lại nội dung những cuộc thảo luận trong phiên họp này. Các nhà lãnh đạo Hà Nội đều đồng ý về những khó khăn nghiêm trọng đang phải đối phó ở miền Nam. Quân số VNCH khi đó đã lên tới trên một triệu, được vũ trang đầy đủ về mọi mặt, lại có sự yểm trợ của máy bay B-52, trong khi quân giải phóng địa phương đã bị tiêu diệt gần hết từ trận Tết Mậu Thân và bộ đội chủ lực còn chưa được phục hồi sau trận đại tấn công mùa Xuân 1972. Tướng Trà viết: “Bộ đội của chúng ta đã kiệt sức và các đơn vị bị tan rã. Chúng ta không thể bù đắp được những mất mát. Chúng ta thiếu nhân lực, thực phẩm và đạn dược nên việc đối phó với kẻ thù hết sức khó khăn. Có những khi chúng ta phải rút lui để địch quân lấy lại sự kiểm soát nhân dân.”93 Cảnh oái oăm là trong khi thất bại nặng về quân sự như vậy, Bắc Việt vẫn chiếm được ưu thế trong những cuộc thương thuyết và Hoa Kỳ vẫn ép buộc VNCH phải chấp nhận những điều kiện hoàn toàn bất lợi trong bản hiệp định Paris.
Phong trào phản chiến, vụ từ chức của Tổng thống Nixon và quyết định bỏ rơi Việt Nam của Quốc hội và chính quyền Gerald Ford đã đem lại cho miền Bắc Việt Nam tất cả mọi điều kiện thuận lợi để xoay chuyển tình thế và thực hiện được cuộc tổng tấn công chiếm trọn miền Nam mau chóng dễ dàng. Đây là “những món quà của Trời cho” quí báu nhất đối với đảng Cộng sản và nhà nước VNDCCH. Sai lầm to lớn của Hoa Kỳ trong chính sách “Mỹ hóa” chiến tranh và thái độ vô trách nhiệm của các tướng lãnh cầm quyền ở miền Nam là những nguyên nhân chính đưa đến sự thất bại của Mỹ và sự sụp đổ của VNCH. Chính phủ Mỹ đã làm nhiều việc để đền đáp công lao của trên 58,000 quân nhân Mỹ bị chết và gần 160,000 người bị thương tật trong cuộc chiến ở Việt Nam. Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã long trọng tuyên dương công trạng của tử sĩ nhưng chỉ giúp đỡ được một phần nhỏ những cựu chiến sĩ và thương phế binh của họ. Trong khi đó, chính thể VNCH đã cáo chung, những quân nhân đã bỏ mình trong cuộc chiến không được yên thân dưới nấm mồ và những thương binh còn sống sót ở trong nước bị hắt hủi ở bên lề xã hội. Cho đến những năm gần đây mới có một số chương trình của người Việt Nam ở nước ngoài trở về giúp đỡ cho thương phế binh và nạn nhân chiến tranh của cả hai bên, và có dự án sửa sang lại mộ phần của những người đã hi sinh nhưng chưa được chấp thuận. Các cựu tướng lãnh VNCH, các nhân vật chính trị và cộng đồng Việt Nam hải ngoại nên tích cực tiếp tay cho những hoạt động có ý nghĩa này, vong linh của những vị tướng, tá đã anh dũng tuẫn tiết trong những giờ phút cuối cùng của VNCH hẳn sẽ cảm thấy hài lòng. Chính phủ Việt Nam ngày nay, nếu thật tình muốn hoà giải với ba triệu người Việt Nam ở nước ngoài mà đa số đã trở thành công dân của quốc gia định cư, trước hết cần hoà giải với những nạn nhân của cuộc chiến ở miền Nam, kể cả những người đã khuất. Hai câu thơ của Tô Thùy Yên, dẫn trên đầu sách, rất thích hợp với thực chất của chiến tranh Việt Nam và đáng được ghi nhớ trên đài tưởng niệm chung các chiến sĩ, có thể sẽ được dựng lên một ngày nào đó trong tương lai:
Quen, lạ, bạn, thù chung giấc ngủ,
Chung lời thương tiếc khắc trên bia.94
Càng cần hoà giải hơn nữa khi đất nước đang ở một khúc ngoặt lịch sử quan trọng trong những tương quan quốc tế mới đòi hỏi sự đóng góp của mọi nguồn nhân lực và tài lực ở trong và ngoài nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mọi người đều nhìn nhận rằng trong cuộc chiến tranh quốc gia-cộng sản, các chiến sĩ ở cả hai bên đều chiến đấu vì lòng yêu nước nhưng cũng bị biến thành công cụ của những thế lực quốc tế. Vì vậy, mọi người cần phải rút ra được bài học của quá khứ, thẳng thắn nhìn nhận các sai lầm và dẹp bỏ hận thù để cùng nhau đưa nước Việt Nam ra khỏi tình trạng tụt hậu và trở thành một quốc gia giàu mạnh, dân chủ và tiến bộ. Bởi vì sự thật đau lòng là cuộc chiến tranh tàn phá nhất và giết nhiều người nhất trong lịch sử Việt Nam thực tế là một cuộc chiến mà tất cả mọi phe đều thua, và nạn nhân chính vẫn là dân tộc và đất nước Việt Nam.
_____
Ghi chú:
1Hội đồng Tư vấn Nam kỳ do Cao ủy d’Argenlieu thành lập ngày 4.2.1946, gồm có Chủ tịch là ủy viên Cộng hòa Pháp Jean Cèdile và 12 đại biểu (8 Việt, 4 Pháp). Danh sách như sau: Nguyễn văn Thinh (y sĩ), Trần Tấn Phát (y sĩ), Trần Thiện Vàng (nghiệp chủ), Jacques Lê Văn Định (điền chủ), Nguyễn Thành Lập (Tổng lý Việt Nam Ngân hàng), Nguyễn tấn Cường (nghiệp chủ), Nguyễn Văn Tỵ (kỹ sư), Nguyễn Văn Thạch (dược sĩ), Joseph Béziat (luật sư), William Bazé (lai Pháp, chủ đồn điền), Clogne (dược sĩ), Gressier (lai Pháp, điền chủ.) Trần Tần Phát bị Việt Minh (?) ám sát ngày 29.3.1946. Đại tá Nguyễn Văn Xuân được cử vào thay thế.
2 Thành phần Chính phủ Nam kỳ tự trị: Nguyễn Văn Thinh, Thủ tướng; Nguyễn Văn Xuân, Phó thủ tướng; Trần Văn Tỷ, Tư pháp; Nguyễn Thành Lập, Tài chánh; Lưu Văn Lang, Vận tải (không nhận); Ung Bảo Toàn, Canh nông, Thương Mại và Kỹ nghệ; Nguyễn Thành Giang, Giáo dục; Khương Hữu Long, Lao động và Xã hội; Nguyễn Văn Tầm, Thứ trưởng An ninh; Nguyễn Tấn Cường, Thứ trưởng An ninh Sài-gòn/Chợ lớn; Đỗ Văn Trà,Thứ trưởng Vận tải.
3 Xem chú thích số 31, chương Hai, về việc thành lập MTQGLH ở Nam Kinh.
4Bao Dai, 184.
5 Joseph Buttinger, The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam (New York: Frederick A. Praeger, 1958), p. 457.
6 Trước khi ký Hiệp định Vịnh Hạ Long (5.6.1948) dưới sự chứng kiến của Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân thành lập chính phủ mới và đổi tên là “Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam” thủ đô là Hà Nội. Ý niệm li khai đến đây chính thức cáo chung.
7 FRUS, 1952-1954, XIII: 892.
8 Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu: 1939-1975, tập B, 213.
9 Tướng De Lattre de Tassigny cho Đại sứ Heath biết là Trần Văn Hữu đã biển thủ quĩ mật của các bộ Ngoại giao, Thông tin và Nội vụ nhiều triệu đô- la, và có thể thuê kẻ ám sát ông nếu ông dọa tiết lộ tham vọng của Hữu. (FRUS, 1951,VI: 539).
10 Chính Đạo, tập B, 266.
11 FRUS, 1952-1954. XIII:587.
12 Theo Đại sứ Heath, dưới thời Nguyễn Phan Long, mỗi tháng Bảo Đại được 4 triệu đồng (khoảng 200,000 đôla.) Thời chính phủ Hữu, lương tháng này tăng lên 7 triệu (khoảng 350,000 đô-la.) Ngoài ra, Bảo Đại còn nhận của Bảy Viễn mỗi tháng khoảng 400,000 đôla. (FRUS, 1952-1954, XIII: 221-230). về việc Bảo Đại chuyển tiền ra ngoại quốc, Phan Huy Quát có một giải thích đáng chú ý, rằng đây là một vấn đề chính sách hơn là do lòng ham lợi vị kỷ. “Việc Bảo Đại có tiền ngoài tầm kiểm soát của Pháp ở Đông Dương sẽ cho ông một mức độ độc lập mà những nhà vua trước không có, một điều khiến cho nhiều vua về cuối đời bị phế bỏ phải sống nghèo túng.” (FRUS, ibid., 587.)
13 Xem chương Hai trên đây.
14  “Bài” là tên của Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, người đã lên tiếng chống lại việc Khâm sứ Georges Mahé ra lệnh đào mộ vua Tự Đức để kiếm vàng. Ngoài tình đồng liêu với Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài cũng là nhạc phụ của Ngô Đình Khôi, anh lớn của Thượng thư Ngô Đình Diệm. Năm 1945, Ngô Đình Khôi, làm quan đến chức Tổng Đốc Nam Ngãi, bị Việt Minh bắt cùng với người con trai duy nhất là Ngô Đình Huân đem đi thủ tiêu cùng một lúc với Thượng thư Phạm Quỳnh.
15 Nguyễn Phú Đức, The Vietnam War, bản thảo chưa xuất bản, trang 273.
16 Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, 44 và 50.
17 CAOM, HCI-101. Về vấn đề này và lai lịch của Marc Yokohama, xem chương 1, chú thích số 17.
18 Cuộc điều đình về hiệp ước “kiện toàn độc lập” này rất cần thiết và gấp rút để cho Quốc Gia Việt Nam có đủ danh nghĩa tham gia hội nghị Genève, bắt đầu từ 24.2.1954, nhưng cũng phải hơn ba tháng sau mới được chính thức ký kết.
19 Nội các Ngô Đình Diệm đầu tiên gồm có: Thủ tướng kiêm Nội vụ và Quốc phòng: Ngô Đình Diệm; Quốc Vụ Khanh: Trần Văn Chương; Tổng trưởng Ngoại giao: Trần Văn Đỗ; TT Tài chánh và Kinh tế: Trần Văn Của; TT Lao động và Thanh niên: Nguyễn Tăng Nguyên; TT Công chánh: Trần Văn Bạch; TT Y tế và Xã hội: Phạm Hữu Chương; TT Canh nông: Phan Khắc Sửu; TT Quốc gia Giáo dục: Nguyễn Dương Đôn; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng: Trần Chánh Thành; BT Thông tin: Lê Quang Luật; BT đặc trách Công vụ Phủ Thủ tướng: Phạm Duy Khiêm; BT Nội vụ: Nguyễn Ngọc Thơ; BT Quốc phòng: Lê Ngọc Chấn; Thứ trưởng Quốc phòng: Hồ Thông Minh; BT Tư pháp: Bùi Văn Thinh; BT Kinh tế: Nguyễn văn Thoại; BT Tài chánh: Trần Hữu Phương.
20  Theo Bernard Fall, tướng Trình Minh Thế (Cao Đài) được trả 2 triệu đô-la, tướng Nguyễn Thành Phương (Cao Đài) được 3.6 triệu, tướng Trần Văn Soái tức Năm Lửa (Hoà Hảo) được 3 triệu (Fall, The Two Vietnams, 245-246).
21 Nội các cải tổ gồm có: Thủ tướng kiêm Nội Vụ và Quốc phòng: Ngô Đình Diệm, QVK, Ủy viên Quốc phòng: Trung tướng Trần Văn Soái, QVK, uỷ viên Quốc phòng: Trung tướng Nguyễn Thành Phương, TT Ngoại giao: Trần Văn Đỗ, TT Tư pháp: Bùi Văn Thinh, TT Thông tin và Chiến tranh Tâm lý: Phạm Xuân Thái, TT Tài chánh: Trần Hữu Phương, TT Kinh tế: Lương Trọng Tường, TT Canh Nông: Nguyễn Công Hầu, TT Công chánh: Nguyễn Văn Bạch, TT Kế hoạch và Kiến thiết: Nguyễn Văn Thoại, TT Y tế: Huỳnh Kim Hữu, TT Quốc gia Giáo dục: Nguyễn Dương Đôn, TT Xã hội: Nguyễn Mạnh Bảo, TT Lao động và Thanh niên: Nguyễn Tăng Nguyên, TT Cải cách: Nguyễn Đức Thuận, BT Quốc phòng: Hồ Thông Minh, BT đặc nhiệm Công vụ: Trần Ngọc Liên, BT Phủ Thủ tướng: Phạm Duy Khiêm, BT đặc nhiệm Phủ Thủ tướng: Bùi Kiện Tín, BT Nội Vụ: Huỳnh văn Nhiệm, Thứ trưởng: Nguyễn Văn Cát.
22 Jean Lacouture et Philippe Devillers, La Fin d’une Guerre (Paris: Editions du Seuil, 1960), 298-299.
23 Theo Collins, ông Diệm “quá quan tâm với những vấn đề nhỏ nhặt và không có được một sáng kiến xây dựng nào kể từ ngày nắm chính quyền. Những người có khả năng trong chính phủ đều khó chịu về thói quen của ông Diệm quyết định trên đầu họ, không để ý tới ý kiến của họ mà chỉ trông cậy vào hai người em và một số ‘gọi dạ bảo vâng’. Collins nhìn nhận Diệm người ngay thẳng, chống Cộng và chống thực dân nhưng ông lại hoàn toàn không biết nhân nhượng và, với thái độ của một nhà tu khắc khổ, ông Không thể nào đương đầu với những thực tại như Bình Xuyên và Cao Đài…” (FRUS, 1955-1957,I: 292-293).
24  ibid, 307-312.
25 Thành phần chính phủ gồm có: Thủ tướng kiêm TT Quốc phòng: Ngô Đình Diệm; TT Nội Vụ: Bùi Văn Thinh; TT Tư pháp: Nguyễn văn Sĩ; TT Ngoại giao: Vũ Văn Mẫu; TT Tài chính & Kinh tế: Trần Hữu Phương; TT Thông tin: Trần Chánh Thành; TT Giáo dục & Thanh niên: Nguyễn Dương Đôn; TT Xã hội & Y tế: Vũ Quốc Thông; TT Lao Động: Huỳnh Hữu Nghĩa; TT Canh Nông: Nguyễn Công Viên; TT Công chánh: Trần văn Mẹo; TT Điền thổ & Cải cách điền địa: Nguyễn Văn Thời; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng: Nguyễn Hữu Châu; BT Quốc phòng: Trần Trung Dung.
26 Trần Trọng  Kim, Nho Giáo (Saigon: Bộ Giáo Dục, 1971), quyển Thượng, 129.
27 ibid.. 217.
28 Bernard Fall, The Two Vietnams, 260-261.
29 ibid., 266.
30 Bùi Tín, Mây Mù Thế Kỷ (Westminster, CA: Đa Nguyên, 1998), 198-199.
31 Tuyên cáo ngày 7.4.1955 của VNQDĐ. Tài liệu Văn Khố Vincennes, Pháp, trích dẫn bởi Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, tập I-C: 1955-1963, 24-25.
32 Bernard Fall, The Two Vietnams, 270-271.
33 Mười tám nhân vật này là: Trần Văn Văn, tốt nghiệp Cao đẳng Thương Mại Pháp, cựu Tổng Trưởng Kinh tế và Kế hoạch; Phan Khắc Sửu, Kỹ sư Canh nông, cựu TT Canh nông, cựu TT Lao động; Trần Văn Hương, giáo sư Trung học, cựu Đô trưởng Sài gòn-Chợ lớn; Nguyễn Lưu Viên, Bác sĩ, cựu giáo sư Y khoa, cựu Đặc ủy về Tị Nạn; Huỳnh Kim Hữu, Bác sĩ, cựu TT Y tế; Phan Huy Quát, Bác sĩ, cựu TT Giáo dục, cựu TT Quốc phòng; Trần Văn Lý, cựu Tổng trấn Trung phần; Nguyễn Tiến Hỷ, Bác sĩ; Trần Văn Đỗ, Bác sĩ, cựu Ngoại trưởng, Trưởng phái đoàn tại Hội nghị Genève 1954; Lê Ngọc Chấn, Luật sư, cựu Bộ trưởng Quốc phòng; Lê Quang Luật, Luật sư, cựu Đại biểu chính phủ tại Bắc phần, cựu TT Thông tin và Tuyên truyền; Lương Trọng Tường, Kỹ sư Công chánh, cựu BT Kinh tế; Nguyễn tăng Nguyên, Bác sĩ cựu Tổng trưởng Lao động và Thanh niên; Phạm Hữu Chương, Bác sĩ, cựu TT Y tế và Xã hội; Trần Văn Tuyên, Luật sư, cựu BT Thông tin và Tuvên truyền; Tạ Chương Phùng, cựu Tỉnh trưởng Bình Định; Trần Lê Chất, khoa bảng Tam trường 1903; Hồ Văn Vui, Linh mục, cựu LM Giáo phận Sài-gòn. đương kim LM Giáo xứ Tha La, Tây Ninh.
34 FRUS, 1961-1963,I: 21-23.
35 Mann, A Grand Delusion, 218.
36 Langguth, Our Vietnam, 208.
37 Những con số bách phân về diện tích ruộng đất và số điền chủ ở Bắc và Nam là do Bernard Fall sưu tầm (Fall, The Two Viet-Nams, 308).
38 Ngày 1.10.1962, Tổng thống Diệm loan báo trước Quốc Hội: “Việc xây dựng ấp chiến lược được ấn định là 600 ấp một tháng. Như vậy đến cuối năm 1962 sẽ có 9,253,000 dân tức hai phần ba tổng số dân chúng (ở miền Nam) sẽ sinh sống trong các ấp chiến lược.” (Đại sứ quán VNCH ở Paris: Bulletin du Vietnam, số 226, tháng Mười-Mười Một 1962, do B. Fall trích dẫn trong The Two Vietnams, p. 376).
39 FRUS. 1961-1963,111:154.
40 Tôn Thất Đính, 20 năm Binh nghiệp (San Jose, CA: Tuần báo Chánh Đạo xuất bản, 1998), 270.
41 Ngô Đình Thục làm Giám mục ở Vĩnh Long từ 1938 đến 1961 thì được Vatican thăng chức Tổng Giám mục địa phận Huế.
42 Có nghi vấn về nguyên nhân vụ nổ làm chết người liên quan đến cộng sản hay CIA, đến nay chưa được làm sáng tỏ. Xem Ellen J. Hammer, A Death in November (New York: E.p. Dutton, 1987), 114-116.
43 Xem chú thích số 62 dưới đây về Phạm Ngọc Thảo.
44 Trần Kim Tuyến không sang Ai Cập mà ở lại Hong Kong để tiếp tục âm mưu đảo chánh. Sau khi hai ông Diệm và Nhu bị giết, ông Tuyến trở về Việt Nam nhưng bị nhóm đảo chính bắt giữ một thời gian. Nhờ sự giúp đỡ của Phạm Xuân Ấn, phái viên báo Time, một đại tá cộng sản nằm vùng từng hợp tác với ông, Trần Kim Tuyến chạy thoát khỏi Việt Nam ngay trước khi Sài- gòn thất thủ. Ông sang định cư tại London và mất tại đó năm 1995.
45 Hammer, 222.
46 ibid., 224.
47 Ramchundur Goburdhun, Chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm soát Đình chiến, cho biết Hồ Chí Minh nhận xét rằng Ngô Đình Diệm với cá tính độc lập rất khó hợp tác với Mỹ vì Mỹ muốn kiểm soát mọi chuyện. Theo Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm là “một người yêu nước theo cách của ông ta” và nhắn Goburdhun: “Khi nào gặp ông Diệm thì bắt tay ông ta dùm tôi.” (Hammer, 222)
48 Một thí dụ về thái độ của chính phủ Mỹ coi thường Hội đồng các tướng lãnh và các chính phủ sau Ngô Đình Diệm là việc Johnson quyết định đưa quân Mỹ tham chiến vào Việt Nam tháng Ba năm 1965 mà không hề hỏi ý kiến hay báo trước cho chính phủ Việt Nam.
49 Hammer, 110.
50 Ibid, 109.
51 Tôn Thất Đính, 304.
52 Maxwell Taylor, Swords and Plowbares (New York: Norton, 1972), 301.
53 Hammer, 300.
54 ibid., 295.
55 Hammer, 300.
56 John Clark Pratt, Vietnam Voices: Perspectives on the War Y ears, 1941- 1975 (Georgia: The University of Georgia Press, 1999), 134.
57 Trần Văn Đôn, Our Endless War Inside Vietnam (San Rafael, California: Presidio Press, 1978), 109.
58 Embassy telegram, November 3, 1963.
59 U.S. Department of State telegram to Hue, Nov. 2, 1963.
60 “Flash” cable, U.S. Department of State to Saigon, Nov. 4, 1963.
61 Theo L.M. Cao Văn Luận, cựu Viện trưởng Đại Học Huế, ông có yêu cầu Đại sứ Lodge can thiệp và được hứa rằng “tôi sẽ làm mọi cách để ông cẩn khỏi bị phép án tử hình. Lời tôi hứa với cha hôm nay cũng là lời tôi đã hứa với Đức Giáo Hoàng… Vậy bây giờ trước mặt cha, tôi xin nhắc lại lời hứa đó, và nếu tôi không làm tròn lời hứa này, tôi sẽ từ chức Đại sứ Mỹ tại Việt Nam lập tức.” (L.M. Cao Văn Luận, Bên Giòng Lịch Sử Việt Nam 1940- 1975, Sacramento, CA: Tantu Research, 1983), 309. Không hiểu tại sao Đại sứ Lodge không giữ được lời hứa. Lý do ông từ chức vào cuối tháng Năm được nói đến là ông về nước để vận động Đảng Cộng Hoà cử ông ra tranh cử Tổng Thống tháng 11, 1964.
62 Dẫn bởi Frances Fitzgerald, Fire in the Lake (Boston: Little, Brown and Company, 1972), 254.
63 Phạm Ngọc Thảo hoạt động bí mật cho cộng sản từ lâu. vốn thuộc một gia đình công giáo theo Việt Minh kháng chiến, Thảo bỏ về hàng ngũ quốc gia và trở thành người thân tín của Giám mục Ngô Đình Thục. Thảo có công trong cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm. Khi tướng Khiêm bị đẩy sang Mỹ làm Đại sứ, Thảo đi theo làm tùy viên báo chí được mấy tháng. Sau khi mưu toan lật đổ Nguyễn Khánh bất thành, Thảo bỏ trốn nhưng sau đó bị bắt và giết chết một cách bí mật.
64 Có một hiến pháp chết yểu là “Hiến chương Vũng Tàu.” Khi tướng Kỳ làm Thủ tướng, có một bản Hiến Ước (19.6.1965) làm cơ sở pháp lý của chế độ. Mãi đến tháng Ba 1967, UBLĐQG mới có bản Hiến Pháp của nền Đệ nhị Cộng hoà. Cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra vào tháng Chín năm đó.
65 Đại sứ Maxwell Taylor trong một buổi nói chuyện với phóng viên báo chí Mỹ và ngoại quốc ở Sài-gòn. Dẫn bởi Richard Critchfïeld, The Long Cha­rade: Political Subversion in the Vietnam War (New York: Harcourt, Brace and World, 1968), 96.
66 Phật giáo chia làm hai: phe Ấn Quang do Thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo tranh đấu quyết liệt; phe Viện Hoá Đạo, do Thượng tọa Thích Tâm Châu lãnh đạo, cũng chống chính phủ quân nhân nhưng có khuynh hướng ôn hoà.
67 Mười đại diện dân sự trong UBLĐQG gồm hai Phật giáo Hoà Hảo (Huỳnh Văn Nhiệm, Quản Hữu Kim), hai Công giáo (Nguyễn Văn Huyền, Vũ Ngọc Trản), hai Cao Đài (Trần Văn Ân, Văn Thành Cao), và hai nhân sĩ độc lập (cựu Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên và cựu Ngoại trưởng Trần văn Đỗ).
68 Trương Đình Dzu, luật sư, đề nghị Hoa Kỳ ngưng ném bom Bắc Việt vô điều kiện, mở cuộc hội đàm giữa Sài-gòn và Hà Nội về việc ngưng đưa người và vũ khí vào miền Nam, thương thuyết với MTGPMN về các nguyện vọng hợp lý của họ, và kêu gọi triệu tập lại Hội nghị quốc tế ở Genève. Nhược điểm của Trương Đình Dzu là không được nhiều người tin cậy vì có tiếng xấu về đạo đức nghề nghiệp. Sau bầu cử, Dzu bị kết án 9 tháng tù về ::: ký chi phiếu không tiền bảo chứng và mở một trương mục bất hợp pháp ngân hàng Bank of America tại San Francisco, nhưng được thả trước thời hạn. Sau 1975, mặc dù thành tích chống chiến tranh, ông vẫn bị đưa đi học tập cài tạo.
69 Douglas Pike, ed., The Bunker Papers (University of California at Berke at fc The Asia Foundation, 1990), I: 151-152, 154-157.
70 Schulzinger, 254.
71 Pike, The Bunker Papers, I: 8.
72 Nguyen Cao Ky with Marvin J. Wolf, Buddha’s Child: My Fight to Save V ĩetnam. (New York: St. Martin’s Press, 2002), 247.
73 Pike, The Bunker Papers, I: 69.
74 Nguyen Cao Ky , 249
75 Pike, The Bunker Papers, II: 479.
76 ibid., 421.
77 ibid., 462.
78 Sáu người thiệt mạng là; Đại tá Nguyễn Văn Luận, Đại tá Phó Quốc Chụ, Trung tá Đào Bá Phước, Trung tá Nguyễn Ngọc Trụ, Thiếu tá Nguyễn Ngọc Sinh và Thiếu tá Nguyễn Bảo Thùy. Hai người bị thương là Đại tá Văn Văn Của, Đô trưởng Saigon, và Trung tá Trần Văn Phân, Chỉ huy trưởng cảnh sát Dã chiến. Có tin Tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Quân khu III kiêm Tổng trấn Saigon-Cholon, đến họp trễ nên thoát nạn.
79 Pike, ed., The Bunker Papers, II: 470.
80 Ibid„ 613.
81 ibid., 501.
82 ibid., 393-394.
83Ngày 10.10.1974, ủy ban này tổ chức “Ngày Ký giả đi ăn mày” để phản ứng chính phủ và lấy tiền giúp đỡ gia đinh các ký giả thất nghiệp. (Nguyễn Khấc Ngữ, Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hòa (Montréal: Tủ ‘ich Nghiên cứu Sử-Địa, 1979), 282.
84 Thành phần gồm có: Thủ tướng: Nguyễn Bá cẩn. Ba Phó thủ tướng: Phạm Văn Đỗng, đặc trách Tổng Thanh tra kiêm TT Quốc phòng; Nguyễn Văn Hảo, đặc trách sản xuất kiêm TT Canh nông và Kỹ nghệ; Nguyễn Xuân Phong, đặc trách hoà đàm. 15 Tổng trưởng: Ngoại giao: Vương Văn Bắc (lưu nhiệm); Tư pháp: Ngô Khắc Tịnh; Nội Vụ: Bửu Viên; Văn hoá, Giáo dục và Thanh niên: Nguyễn Duy Xuân; Tài chính: Lê Quang Trường (lưu nhiệm); Thương mại và Kinh tế: Nguyễn Văn Diệp; Kế hoạch: Nguyễn Tiến Hưng (lưu nhiệm); Công chnh và giao thông: Nguyễn Xuân Đức; Lao động: Vũ Công; Thông tin Chiêu hồi: Phan Hoà Hiệp; Xã hội: Trần Văn Mại; Phát triển Sắc tộc: Nay Luett (lưu nhiệm); Đặc trách Liên lạc Quốc hội: Phạm Anh; Quốc phòng: Trần văn Đôn. Ngoài ra chính phủ có 5 Cố vấn là: Trần Quốc Bửu, CT Tổng Liên đoàn Lao công; Lương Trọng Tường, Phật giáo Hòa Hảo; LM Cao Văn Luận, Công Giáo; Th.T. Thích Quảng Long, Phật giáo; và ông Nguyễn văn Thơ, độc lập. (Theo Nguyễn Khắc Ngữ, Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hoà, op. cit, 290-291).
85 Pike, ed., III: 709
86 ibid., 767.
87 ibid., 665. Những điều Thiệu nói riêng với Bunker không giống hẳn giải pháp hòa bình sáu điểm được ông đưa ra công khai trước Quốc hội ngày 7 tháng Tư, theo đó Bắc Việt phải rút hết quân về Bắc, tái lập vùng phi quân sự ở biên giới, không được sử dụng Lào và Cam-bốt làm căn cứ, các lực lượng chống đối chính phủ ở miền Nam (tức MTGPMN) phải tôn trọng Hiến pháp và luật lệ VNCH để có đầy đủ quyền bầu cử và ứng cử dưới sự kiểm soát của quốc tế.
88 Wilfred G. Burchett, Vietnam: Inside Story of the Guerilla War. New York: International Publishers, 1958, 3rd edition, 216.
89 McNamara, In Retrospect, 159
90 Pike. Ed., The Bunker Papers, II: 373.
91 ibid., Ill: 708.
92 Césari, 220.; Sorley, 339. Sau trận này, tướng Giáp bị thay thế bởi tướng Văn Tiến Dũng.
93 Kamow, 673; Sorley, 366.
94 Dẫn bởi Phan Lạc Phúc trong Bè Bạn Gần Xa (California: Văn Nghệ Xuất Bản, 2000), 418.
Copyright © 2004 by Lê Xuân Khoa
Bản Word © blog BS 2013

George Orwell - Trại súc vật


Phạm Nguyên Trường dịch
Đôi lời phi lộ: Để chuẩn bị kỉ niệm 110 năm ngày sinh của George Orwell và kỉ niệm 9 năm ngày mỗ công bố bản dịch này trên talawas.org, xin post lại ở đây để mọi người cùng đọc và chiêm nghiệm. 
Lời giới thiệu
  
Trại Súc Vật được in ở Anh ngày 17 tháng 8 năm 1945 và một năm sau thì được in ở Mĩ. Trước đó George Orwell đã cho xuất bản 9 đầu sách với tổng số bản in cả ở Anh và Mĩ là 195 500 cuốn. Sau chiến tranh thế giới thứ II do thiếu giấy nên số lượng bản in hạn chế, tuy vậy cho đến khi Orwell mất vào tháng giêng năm 1950 đã có tất cả 25 500 cuốn Trại Súc Vật được in ở Anh và 590 000 cuốn được in ở Mĩ. Điều đó nói lên thành công to lớn và ngay lập tức của tác phẩm. Sinh thời Orwell tác phẩm này đã được dịch ra tất cả các ngôn ngữ chính của châu Âu cũng như các thứ tiếng như Telugu (một dân tộc thuộc bắc Ấn Độ), Ba Tư, Aixlen và Ukraine. Sau hơn 50 năm, kể từ lần xuất bản đầu tiên, tác phẩm đã được dịch ra 68 thứ tiếng trên thế giới và thuờng xuyên được tái bản. Trong lần bình chọn 100 tác phẩm hay nhất trong thế kỉ XX do nhà sách Random House tiến hành, Trại Súc Vật được xếp thứ 31. 


Nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell chúng tôi xin giới thiệu Trại Súc Vật, một trong hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông với lời tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Ukraine do chính Orwell viết. Lời tựa này được Orwell viết bằng tiếng Anh (bản gốc đã bị thất lạc), theo đề nghị của người tổ chức dịch thuật và phân phối tác phẩm này cho những người Ukraine chạy trốn chế độ Xô viết và sống trong các trại tạm cư do quân đội Anh và Mĩ thiết lập trên đất Đức. Lời tựa được dịch sang tiếng Ukraine dành cho lần xuất bản đầu tiên vào năm 1947, nhà sách Penguin Classic trong lần xuất bản năm 2000 đã cho dịch lại và in kèm với lời giới thiệu của Malcolm Bradbury. 
Sau tác phẩm Trại Súc Vật, George Orwell còn viết một tác phẩm nổi tiếng 1984. Tác phẩm này nằm ở vị trí 13 trong bảng tổng sắp của nhà sách Randomhouse đã nói ở trên. Tin rằng một ngày gần đây tác phẩm bất hủ này cũng sẽ ra mắt độc giả tiếng Việt. 
Phạm nguyên Trường 
Tôi được yêu cầu viết lời giới thiệu cho bản dịch tác phẩm Trại Súc Vật sang tiếng Ukraine. Tôi nhận thức rõ rằng tôi đang viết cho những độc giả mà tôi không có một chút hiểu biết nào và họ cũng chưa từng có cơ hội tìm hiểu tôi. 
Trong lời giới thiệu chắc chắn độc giả muốn tôi kể về quá trình sáng tác tác phẩm Trại Súc Vật, nhưng trước tiên tôi muốn tự kể về mình và những trải nghiệm đã dẫn tôi đến quan điểm chính trị hiện nay. 
Tôi sinh năm 1903 tại Ấn Độ. Lúc đó, cha tôi là một viên chức trong bộ máy hành chính Anh quốc ở đấy, gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu, gồm các quân nhân, tu sĩ, viên chức chính phủ, giáo sư, luật sư, bác sĩ v.v... Tôi tốt nghiệp trung học tại Eton, một trường công lập thuộc loại đắt nhất nước Anh thời đó. Nhưng tôi được vào học ở đây là do được nhận học bổng, chứ cha tôi không thể có tiền để gửi tôi vào học những trường như thế. 
Ngay sau khi thôi học (lúc đó tôi chưa đủ 20 tuổi) tôi đi Miến Điện và tham gia lực lượng cảnh sát Hoàng gia tại đây. Tôi làm ở đó năm năm. Việc này hoàn toàn không hợp với tôi, tôi trở nên căm ghét chủ nghĩa đế quốc, mặc dù lúc đó tinh thần quốc gia ở Miến Điện chưa cao và quan hệ giữa người Anh và người Miến cũng chưa đến nỗi nào. Sau khi về lại Anh quốc vào năm 1927, tôi giải ngũ và bắt đầu viết văn: thời gian đầu không có thành công đáng kể nào. Trong những năm 1928-1929, tôi sống ở Paris, chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết, nhưng không có nhà xuất bản nào chịu in (tôi đã xé bỏ hết). Những năm sau đó tôi phải tay làm hàm nhai, đôi khi phải nhịn đói. Chỉ từ năm 1934 tới nay tôi mới sống được bằng ngòi bút. Trong thời gian này, tôi đã sống nhiều tháng giữa những người nghèo khổ và bất hảo, ăn xin và ăn cắp tại những khu vực tồi tệ nhất của những khu phố nghèo. Lúc đầu tôi phải nhập bọn với họ vì không có tiền, nhưng sau này tôi lại rất thích lối sống đó. Tôi đã dành nhiều tháng trời để nghiên cứu đời sống thợ mỏ ở miền Bắc nước Anh. Cho đến năm 1930, nói chung, tôi vẫn chưa phải là người theo phái xã hội. Thực ra, tôi vẫn chưa xác định được quan điểm chính trị của mình. Tôi trở thành người theo trường phái xã hội vì căm thù cách người ta đàn áp và khinh thường tầng lớp công nhân công nghiệp nghèo khổ chứ không phải vì thán phục xã hội theo kế hoạch hoá về mặt về mặt lí luận. 
Tôi lập gia đình năm 1936. Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha nổ ra ngay trong những ngày đó. Hai vợ chồng tôi đều muốn đi Tây Ban Nha để chiến đấu cho chính phủ nước này. Chúng tôi sẵn sàng lên đường, sáu tháng sau đó, khi tôi viết xong cuốn sách mà tôi đã khởi sự từ trước. Tôi đã ở mặt trận Aragon gần Huesca sáu tháng liền, cho đến khi bị một phát đạn bắn tỉa xuyên qua cổ. 
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, những người ngoại quốc hoàn toàn không hiểu được cuộc đấu tranh giữa các đảng phái ủng hộ chính phủ Tây Ban Nha. Do một loạt sự tình cờ, tôi không tham gia các Binh đoàn Quốc tế như đa số những người ngoại quốc khác mà chiến đấu trong hàng ngũ của lực lượng vũ trang POUM, đảng của những người theo phái Troskist Tây Ban Nha. 
Vì vậy, giữa năm 1947 khi những người Cộng sản nắm được quyền kiểm soát (hay một phần quyền kiểm soát) chính phủ Tây Ban Nha và bắt đầu săn đuổi những người Troskist thì cả hai vợ chồng tôi đều trở thành nạn nhân. Chúng tôi may mắn đi khỏi được Tây Ban Nha, thậm chí không bị bắt lần nào. Nhiều bạn bè của chúng tôi đã bị bắn bỏ, một số bị tù đày nhiều năm, số khác thì mất tích. 
Những cuộc săn người ở Tây Ban Nha xảy ra đồng thời với những cuộc thanh trừng vĩ đại ở Liên Xô. Thực chất những vụ thanh trừng ở Tây Ban Nha và ở Nga chỉ là một (gọi là âm mưu với bọn phát xít) và nếu nói về Tây Ban Nha thì tôi có đầy đủ cơ sở để tin rằng đấy là những vụ kết án oan. Qua đó, tôi đã nhận được một bài học đắt giá: nó dạy tôi rằng bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị dễ dàng lèo lái dư luận ở những nước dân chủ đến mức nào. 
Hai vợ chồng tôi đã chứng kiến những người vô tội bị quẳng vào nhà giam chỉ vì họ bị nghi là không theo đường lối chính thống. Khi trở về Anh, chúng tôi thấy rất nhiều người thạo tin và nhạy bén tin vào những bản án kì quặc về âm mưu phản bội và phá hoại do báo chí tường thuật từ những vụ án ở Moscow. 
Và tôi thực sự hiểu ra ảnh hưởng tiêu cực của huyền thoại Xô viết đối với phong trào xã hội ở phương Tây. 
Đến đây tôi xin dừng lại một chút để trình bày thái độ của tôi đối với chế độ Xô viết. 
Tôi chưa đến thăm Nga bao giờ và hiểu biết của tôi về nước Nga chỉ là kiến thức do thu lượm được từ báo chí, sách vở. Ngay cả nếu có đủ sức tôi cũng sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Liên Xô: tôi sẽ không kết án Stalin và các cộng sự của ông ta chỉ vì những phương pháp dã man và phi dân chủ của họ. Có thể là trong những điều kiện như thế, dù có muốn, họ cũng không thể hành động khác được. 
Nhưng mặt khác, đối với tôi, điều cực kì quan trọng là nhân dân Tây Âu phải nhận rõ chế độ Xô viết như nó đang là. Từ năm 1930, tôi nhìn thấy rất ít bằng chứng là Liên Xô đang tiến đến cái có thể thực sự gọi là Chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, có những chỉ dấu rõ ràng rằng xã hội ấy đang chuyển hoá thành xã hội có tôn ti trật tự và những người cầm quyền, cũng như mọi giai cấp cầm quyền khác, chẳng thấy có lí do gì để rời bỏ quyền lực, đã làm tôi choáng váng. Hơn nữa, công nhân và trí thức ở những nước như Anh quốc lại không hiểu rằng Liên Xô hôm nay đã khác hẳn Liên Xô năm 1917. Một phần vì họ không chịu hiểu (nghĩa là họ muốn tin rằng có một nước xã hội chủ nghĩa quả thực đang tồn tại ở đâu đó), một phần vì họ quen với cuộc sống tự do và ôn hoà, họ không biết gì về chủ nghĩa toàn trị. 
Cần phải nhớ rằng nước Anh chưa phải là nước hoàn toàn dân chủ. Đây vẫn là nước tư bản với những đặc quyền đặc lợi giai cấp (ngay cả bây giờ, sau cuộc chiến tranh có xu hướng làm cho mọi người bình đẳng hơn) và sự chênh lệch gay gắt về tài sản. Nhưng dù sao, ở đây người dân đã có cuộc sống không có những xáo trộn lớn suốt mấy trăm năm qua, luật pháp tương đối công chính, tin tức và số liệu của chính quyền có thể tin được và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là người ta có thể giữ và ủng hộ quan điểm của thiểu số mà không bị bất kì đe dọa chết người nào. Trong hoàn cảnh như vậy người ta không thể nào hiểu được những hiện tượng như trại tập trung, cưỡng ép di cư hàng lọat, bỏ tù không cần xét xử, kiểm duyệt báo chí v.v... Tất cả những điều đọc được trên báo chí về những nước như Liên Xô được tự động phiên dịch sang các thuật ngữ của nước Anh và họ ngây thơ tin ngay những điều dối trá của bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị đó. Cho đến năm 1939, và cả sau này nữa, đa số người Anh không hiểu được thực chất chế độ phát-xít ở Đức và nay họ cũng có ảo tưởng tương tự như vậy đối với Liên Xô. 
Điều đó đặc biệt có hại đối với phong trào Xã hội Anh và gây hậu quả xấu đối với chính sách đối ngoại của nước Anh. Theo tôi, tin rằng nước Nga là nước xã hội chủ nghĩa và mọi hành vi của những người cầm quyền ở đó đều nên được tha thứ, nếu không nói là phải theo, là sự phản bội đối với lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong mười năm gần đây tôi đã đi đến kết luận rằng phá tan huyền thoại Xô viết là việc làm vô cùng cần thiết, nếu ta muốn tái sinh phong trào xã hội chủ nghĩa. 
Ngay sau khi trở về từ Tây Ban Nha tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô viết dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các thứ tiếng khác. Nhưng chi tiết của câu chuyện vẫn chưa có, cho đến một hôm (khi đó tôi sống ở nông thôn) tôi trông thấy một cậu bé, khoảng mười tuổi, đang đánh một chiếc xe ngựa to trên một con đường hẹp, cứ mỗi lần con ngựa định quay ngang là cậu bé lại ra roi. Trong đầu tôi bỗng loé lên ý nghĩ rằng nếu loài vật nhận thức được sức mạnh của chúng thì con người không thể nào còn điều khiển được chúng nữa và con người bóc lột loài vật cũng hệt như các tầng lớp hữu sản bóc lột giai cấp vô sản vậy. 
Tôi tiến hành phân tích học thuyết của Marx trên quan điểm của súc vật. Đối với loài vật thì rõ ràng là luận điểm về đấu tranh giai cấp giữa người với người chỉ là một sự lừa mị, vì mỗi khi cần bóc lột súc vật là tất cả mọi người lại đoàn kết với nhau để chống lại chúng: cuộc đấu tranh thực sự là cuộc đấu tranh giữa loài vật và loài người. Từ đây việc tạo ra tác phẩm không còn khó nữa. Tôi bận nhiều việc khác, không có thì giờ, cho nên mãi đến năm 1943 tôi vẫn chưa bắt đầu viết truyện này và cuối cùng tôi đã đưa thêm một số sự kiện, thí dụ như Hội nghị Teheran là sự kiện xảy ra trong thời gian tôi viết. Như vậy là đường hướng chính của câu chuyện đã nằm trong đầu tôi suốt sáu năm, trước khi tôi thực sự đưa nó lên mặt giấy. 
Tôi không có ý bình luận tác phẩm, nếu tác phẩm không có sức thuyết phục thì có nghĩa là tác phẩm ấy đã thất bại. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai điểm: thứ nhất, mặc dù nhiều tình tiết được lấy từ lịch sử của cuộc Cách mạng Nga, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa tượng trưng và trật tự đã được thay đổi cho cân đối với cốt truyện. Điểm thứ hai thường bị các nhà phê bình bỏ qua, nguyên nhân có thể là vì tôi chưa nhấn đúng mức. Nhiều độc giả sau khi đọc xong có cảm tưởng rằng cuốn sách đã dừng lại ở sự hoà giải hoàn toàn giữa loài lợn và loài người. Nhưng đấy không phải là ý của tôi, ngược lại, tôi cố ý kết thúc ở chỗ chỉ rõ sự bất hoà, vì tôi viết chuyện này ngay sau Hội nghị Teheran, mọi người lúc đó đều nghĩ rằng Hội nghị này sẽ thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp nhất có thể có giữa Liên Xô và phương Tây. Cá nhân tôi không tin rằng quan hệ tốt đẹp đó có thể kéo dài được lâu, và như các sự kiện cho thấy, tôi đã không lầm. 
Tôi không biết phải nói gì thêm nữa. Nếu độc giả nào quan tâm đến cá nhân tôi thì tôi xin nói thêm rằng tôi đã goá vợ, hiện tôi đang sống với con trai ba tuổi, tôi là nhà văn chuyên nghiệp, nhưng từ khi bắt đầu cuộc chiến thì tôi làm việc chủ yếu như một phóng viên. 
Tôi thường viết cho tờ Tribune, một tờ tuần báo đại diện cho phái tả của đảng Lao động. Những cuốn sách sau đây của tôi có thể được độc giả quan tâm: Những ngày ở Miến điện (câu chuyện về Miến điện), Tưởng nhớ Catalonia (viết về những trải nghiệm của tôi trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha) và tác phẩm Phê bình (các bài viết về văn học đương đại Anh, được viết chủ yếu từ quan điểm xã hội học hơn là quan điểm thuần tuý văn chương). 
1947 
Chương I 
Ông Jones, chủ Điền Trang đóng cửa chuồng gà, nhưng vì say quá nên quên đóng cửa chuồng lợn. Với chiếc đèn bão trong tay, đung đưa, khi sang phải, khi sang trái, ông lảo đảo đi qua sân, tới cửa sau thì lấy chân đạp ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia cuối cùng trong ngày rồi leo lên giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò. 
Ngay khi đèn trong phòng ngủ vừa tắt, đây đó bỗng dậy lên những tiếng sột soạt, thì thầm. Ngày hôm đó có tin đồn rằng Thủ Lĩnh, một con lợn đực trắng, từng được huy chương trong một cuộc triển lãm, đêm hôm trước có một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho mọi loài cùng nghe. Chúng thoả thuận với nhau là ngay sau khi ông Jones đi ngủ thì sẽ tập trung trong nhà kho lớn. Tất cả các con vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh (chúng gọi nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó có tên là Willingdon Điển Trai) và sẵn sàng hi sinh giấc ngủ để được nghe nó nói chuyện. 
Thủ Lĩnh ngồi trên một cái bục có nệm rơm phía trong cùng nhà kho, dưới ánh sáng của chiếc đèn bão treo trên xà nhà. Nó đã mười hai tuổi, mặc dù thời gian gần đây có béo thêm, với những chiếc răng nanh thò cả ra, nhưng trông nó vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt, phúc hậu. Những con khác bắt đầu lục tục kéo tới, mỗi con tìm một chỗ ngồi thuận lợi. Đầu tiên là ba con chó Bluebell, Jessie và Pincher, sau đó là lũ lợn; chúng ngồi trên đống rơm phía trước bục. Lũ gà leo lên bậu cửa sổ, đám bồ câu đậu trên rui mè, bọn bò và cừu nằm phía sau lũ lợn và bắt đầu công việc nhai lại của chúng. Hai con ngựa kéo xe tên là Chiến Sĩ và Bà Mập cùng vào, từ từ lại gần cái bục, trước mỗi bước, chúng đều thận trọng quan sát để không giẫm bẹp một con thú nhỏ nào ở bên dưới lớp rơm. Bà Mập, một con ngựa cái trung niên hiền lành, thân hình đã sồ sề vì bốn lần sinh nở. Chiến Sĩ, một con tuấn mã cao đến gần hai mét và khoẻ bằng hai con ngựa khác. Vì có một vệt trắng dọc sống mũi nên trông nó có vẻ đần, thực ra cu cậu cũng không thuộc loại thông minh, nhưng bù lại, nó được các con khác tôn trọng vì tính kiên định và hay lam hay làm. Sau đó là đến con dê trắng tên là Mona và con lừa tên là Benjamin. Benjamin là con vật già nhất bọn, nhưng cũng là con xấu tính nhất. Benjamin ít nói, nhưng hễ mở miệng là y như rằng nó tìm cách giễu cợt, ví dụ có lần nó tuyên bố rằng Thượng Đế tạo cho nó cái đuôi để đuổi ruồi, nhưng giá đừng có cả đuôi lẫn ruồi thì còn thích hơn. Nó là con vật duy nhất không bao giờ cười. Nếu hỏi tại sao thì nó bảo: chẳng có lí do gì. Mặc dù vậy và tuy không nói ra, nhưng nó rất trung thành với Chiến Sĩ, chủ nhật nào hai con cũng yên lặng gặm cỏ bên nhau ở bãi giữ ngựa phía sau khu vườn. 
Hai con ngựa vừa nằm xuống thì bầy vịt con mồ côi lao vào nhà kho, chúng vừa kêu chiếp chiếp khe khẽ vừa chạy loanh quanh, mong tìm một chỗ an toàn. Bà Mập lấy chân trước khoanh thành một khu cho chúng, lũ vịt con mau chóng chui vào đó rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Ngay trước khi buổi nói chuyện bắt đầu thì Mollie, một ả ngựa cái dốt nát, màu trắng, chuyên kéo chiếc xe nhỏ của ông Jones, vừa đi vừa nhai một cục đường, mới õng ẹo bước vào. Nó lập tức chiếm ngay vị trí phía trước cái bục và lắc lư bờm để mong những con khác chú ý đến dải ruy băng đỏ trang điểm trên đó. Cuối cùng là một con mèo, nó nhìn quanh và vẫn như mọi khi, cố tìm cho mình một chỗ thật ấm, rồi chen vào nằm giữa Chiến Sĩ và Bà Mập, chị chàng sung sướng phát ra những tiếng gừ… gừ… trong cổ họng, mặc Thủ Lĩnh muốn nói gì thì nói. 
Thế là tất cả các con vật trong Điền Trang đã có mặt đầy đủ, chỉ trừ con quạ Moses, nó ngủ trên hàng rào ngay bên ngoài cửa sau. Khi Thủ Lĩnh thấy tất cả đã an vị và sẵn sàng lắng nghe thì húng hắng ho lấy giọng và bắt đầu: 
"Thưa các đồng chí! Như các đồng chí đã biết, đêm qua tôi có một giấc mơ kì lạ. Nhưng tôi sẽ nói chuyện đó sau. Đầu tiên tôi muốn nói với các đồng chí một số việc hoàn toàn khác. Thưa các đồng chí, tôi nghĩ rằng tôi không ở lại với các đồng chí được bao lâu nữa, vì vậy tôi cho rằng trước khi chết mình phải có trách nhiệm chia sẻ với các đồng chí những kinh nghiệm mà tôi đã tích lũy được trong suốt cuộc đời mình. Tôi đã có một cuộc đời phải nói là dài và tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi nằm một mình trong chuồng, tôi nghĩ rằng tôi có thể nói là tôi hiểu đời không thua bất kì con vật nào trên thế gian này. Đó là điều tôi muốn nói với các đồng chí. 
Bây giờ, thưa các đồng chí, thực chất đời sống của chúng ta là gì? Chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật. Cuộc đời của chúng ta là khổ sai, khốn nạn và yểu mệnh. Chúng ta sinh ra, chúng ta được một khẩu phần vừa đủ để khỏi chết vì đói, những con nào có thể làm thì phải làm đến kiệt sức và khi không làm được nữa thì chúng ta bị giết một cách vô cùng dã man, tàn bạo. Không có con vật nào ở nước Anh này biết đến hạnh phúc và niềm vui ngay khi vừa tròn một tuổi. Không có con vật nào ở nước Anh này được tự do. Cuộc sống của loài vật là cuộc sống nghèo khổ và nô lệ: sự thật trần trụi là như thế đấy. 
Nhưng đấy có phải là qui luật của tự nhiên không? Chả lẽ nước ta lại nghèo đến độ không nuôi nổi những động vật sống ở đây ư? Không, ngàn vạn lần không, thưa các đống chí. Đất Anh màu mỡ, thời tiết thuận hòa, thừa sức cung cấp thức ăn cho một số lượng động vật lớn hơn hiện nay rất nhiều. Chỉ nội cái trang trại của chúng ta đã có thể nuôi được một tá ngựa, hai chục bò, hàng trăm cừu và tất cả đều có thể sống trong tiện nghi và phẩm giá mà nay chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Thế thì tại sao chúng ta lại cứ tiếp tục sống trong điều kiện khốn nạn thế này? Bởi vì hầu như toàn bộ những gì chúng ta làm ra đều bị con người chiếm đoạt hết. Đấy là nguyên nhân tất cả các vấn nạn của chúng ta. Nói ngắn gọn bằng một từ là: Con Người. Con Người là kẻ thù của chúng ta. Nếu không còn người nữa thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không còn bị đói, không còn phải làm công việc khổ sai nữa. 
Người là giống vật duy nhất chỉ ăn mà không làm. Người không làm ra sữa, không đẻ ra trứng, người không thể kéo cày, không chạy nhanh bằng thỏ. Nhưng nó lại là chủ của tất cả chúng ta. Nó bắt chúng ta làm việc, cướp lấy mọi thành quả lao động của chúng ta, chỉ cho chúng ta ăn vừa đủ để không chết đói mà thôi. Chúng ta phải cày bừa, phân chúng ta bón ruộng, thế mà chúng ta có gì? Chẳng có gì ngoài da bọc xương. Các đồng chí bò đang ngồi trước mặt tôi đây, năm vừa qua các đồng chí cho bao nhiêu lít sữa? Thế số sữa mà đáng lẽ dùng để nuôi các chú bò con ấy đi đâu? Kẻ thù của chúng ta đã uống đến giọt cuối cùng. Còn các bạn gà, năm vừa qua các bạn đã đẻ bao nhiêu trứng, trong đó có bao nhiêu quả nở thành gà con? Lão Jones và gia nhân đã mang ra chợ bán lấy tiền hết rồi. Bà Mập, bốn đứa con của bà, niềm vui và chốn nương tựa lúc tuổi cao bóng xế của bà đâu rồi? Chúng đã bị đem bán khi vừa tròn một tuổi, bà sẽ không bao giờ được gặp lại chúng nữa. Một khẩu phần ăn chết đói và cái chuồng, công cho bốn lần vượt cạn cũng như công việc đồng áng của bà chỉ có thế mà thôi! 
Nhưng dù khốn nạn như thế chúng ta cũng có được sống trọn tuổi trời đâu. Riêng tôi thì chẳng có gì phải phàn nàn, vì thực ra tôi đã gặp may. Năm nay tôi đã mười hai tuổi rồi, tôi có hơn bốn trăm đứa con. Trời đất sinh ra giống lợn là như thế. Nhưng cuối cùng thì cũng chẳng có con vật nào thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt. Tất cả các bạn lợn thịt đang ngồi trước mặt tôi đây, trong vòng một năm nữa tất cả các bạn sẽ phải từ giã cõi đời trên tấm phản mổ. Tất cả chúng ta, bò, lợn, gà, cừu, không ai trong chúng ta tránh khỏi cái kết cục khủng khiếp đó. Số phận của loài ngựa và loài chó cũng chẳng tốt đẹp hơn. Đồng chí Chiến Sĩ nữa, ngay khi cơ bắp của đồng chí vừa yếu đi thì lão Jones sẽ bán đồng chí cho lão mổ ngựa, hắn sẽ cắt cổ đồng chí rồi hầm dừ cho lũ chó săn ăn. Những con chó già, rụng răng sẽ bị lão Jones buộc một viên gạch vào cổ và quăng xuống hồ. 
Thưa các đồng chí, chả lẽ các đồng chí không thấy rằng tất cả mọi khổ đau trong cuộc đời này của chúng ta chính là do con người mà ra hay sao? Nếu chúng ta loại bỏ được Con Người thì mọi thành quả lao động của chúng ta sẽ thuộc về chúng ta. Nếu làm được thế thì chỉ sau một đêm chúng ta sẽ trở nên giàu có và tự do. Thế thì chúng ta phải làm gì? Làm việc, không kể ngày đêm, cả bằng sức mạnh và tài năng để lật đổ ách thống trị của loài người! Khởi nghĩa! Các đồng chí - đấy là thông điệp của tôi. Tôi không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa sẽ xảy ra, có thể trong tuần tới, cũng có thể là một trăm năm nữa, nhưng tôi biết rõ, như tôi đang nhìn thấy những cọng rơm bên dưới chân tôi đây rằng sớm muộn gì rồi công bằng cũng sẽ được thiết lập. Các đồng chí hãy nghĩ đến điều đó trong suốt cuộc đời còn lại ngắn ngủi của mình! Ngoài ra, hãy chuyển thông điệp của tôi đến các thế hệ tương lai, để các thế hệ đó tiếp tục cuộc đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng. 
Các đồng chí hãy kiên định. Không được dao động. Đừng có nghe theo lời tuyên truyền rằng Con Người và các loài vật cùng có chung quyền lợi, rằng sự thịnh vượng của loài này cũng là sự thịnh vượng của loài kia. Bịp bợm hết. Con Người không quan tâm đến quyền lợi của ai, nó chỉ quan tâm đến chính nó mà thôi. Các loài vật chúng ta phải đoàn kết nhất trí, phải có tinh thần đồng chí trong cuộc đấu tranh này. Tất cả loài người đều là kẻ thù. Tất cả các con vật đều là đồng chí." 
Đúng lúc đó thì tiếng ồn ào nổi lên. Chả là trong khi Thủ Lĩnh đang nói thì có bốn con chuột cống bò ra khỏi hang và cũng đến nghe. Mấy con chó đã trông thấy và may là lũ chuột kịp chạy vào hang, không thì đã mất mạng rồi. Thủ Lĩnh phải giơ chân lên đề nghị im lặng. 
"Thưa các đồng chí", nó nói, "có một vấn đề cần phải giải quyết. Những con thú hoang như chuột cống và thỏ, chúng là bạn hay là kẻ thù của chúng ta? Đề nghị biểu quyết. Tôi xin đặt vấn đề với hội nghị như sau: Chuột có phải là đồng chí không?" 
Cuộc bỏ phiếu được thực hiện ngay, đa số tán thành coi chuột là đồng chí. Chỉ có bốn phiếu chống, đấy là ba con chó và một con mèo, nhưng sau này mới phát hiện ra rằng mèo ta bỏ cả phiếu thuận lẫn phiếu chống. Thủ Lĩnh tiếp tục: 
"Tôi xin nói thêm một chút nữa. Tôi chỉ muốn nhắc lại rằng nhiệm vụ của các đồng chí là phải luôn luôn tranh đấu với Con Người và tất cả những gì do nó tạo ra. Tất cả những loài hai chân đều là kẻ thù. Tất cả những loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. Các đồng chí lại phải luôn luôn nhớ rằng chúng ta không được bắt chước loài người trong cuộc đấu tranh chống lại chúng. Ngay cả khi đã chiến thắng, chúng ta cũng không được tập nhiễm các thói xấu của chúng. Không có con vật nào được sống trong nhà, ngủ trên giường, mặc quần áo, uống rượu, hút thuốc, sử dụng tiền hoặc tham gia buôn bán. Tất cả phong tục của loài người đều là có hại. Quan trọng nhất là không con nào được áp chế con nào. Khoẻ cũng như yếu, thông minh tài trí cũng như bình thường, tất cả chúng ta đều là anh em. Không được giết hại lẫn nhau. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng. 
Và bây giờ, thưa các đồng chí, tôi sẽ kể cho các đồng chí nghe giấc mơ của tôi tối hôm qua. Tôi không thể mô tả được. Tôi mơ thấy trái đất khi con người đã biến đi rồi. Giấc mơ này làm sống dậy trong trí tôi một việc như sau: 
Cách đây đã lâu, khi tôi còn là một chú lợn nhỏ, mẹ tôi cùng với các cô bác lợn khác thường hát một bài hát có từ ngày xưa: họ chỉ nhớ nhạc điệu và ba từ đầu tiên thôi. Lúc bé tôi cũng thuộc nhạc điệu, nhưng tôi đã quên từ lâu. Thế mà đêm qua, trong giấc mơ, tôi đã nhớ lại tất cả, hơn thế nữa, tôi còn nhớ lại được cả lời bài hát, tôi tin chắc rằng ngày xưa các loài vật đã từng hát như thế, nhưng sau này họ quên và mấy thế hệ gần đây thì hoàn toàn không biết hát nữa. Bây giờ tôi sẽ hát cho các đồng chí nghe. Tôi đã già, giọng không còn trong, nhưng khi tôi dạy nhạc điệu cho các đồng chí thì các đồng chí sẽ hát hay hơn. Bài hát tên là: Súc Sinh Anh quốc". 
Thủ lĩnh già hắng giọng và bắt đầu hát. Giọng đúng là đã khàn, nhưng nó hát cũng không đến nỗi tồi, giai điệu hỗn hợp giữa kiểu "Clementine" và "La Cucuracha". Lời bài hát như sau:
"Súc sinh Anh quốc 
Súc sinh muôn nơi 
Lắng nghe niềm vui mới 
Của một ngày mai sáng tươi 
Đồng cỏ núi đồi 
Mãi mãi xanh ngời 
Khi lũ người 
Không còn là ách trên vai 
Chạc, chạc không còn 
Cương, cương cũng không 
Roi vọt, chửi mắng 
Chỉ là quá khứ tối tăm 
Ta giàu, ta có 
Vườn cây, đồng lúa 
Đậu, sắn, ngô, khoai 
Là của chúng ta từ đây 
Mặt trời sáng soi 
Nước càng ngọt tươi 
Gió mát muôn đời 
Là ngày tự do tương lai 
Súc sinh Anh quốc 
Súc sinh muôn nơi 
Lắng nghe niềm vui mới 
Của một ngày mai sáng tươi"
Bài hát đã làm cho lũ súc vật kích động tột độ. Một số con kịp bắt theo ngay trước khi Thủ lĩnh hát hết bài. Ngay những con ngu dốt nhất cũng nắm được nhạc điệu và thuộc mấy từ, còn những con thông minh hơn, như lũ chó và lũ lợn, thì thuộc lòng cả bài ngay trong vài phút đầu. Sau vài lần tập, cả trang trại đã cùng đồng ca được bài Súc Sinh Anh quốc. Mỗi loài hát một giọng, bò rống, chó sủa, cừu kêu be be, ngựa hí, vịt kêu cạp cạp. Chúng khoái bài hát đến độ hát liền một mạch năm lần và chúng có thể hát mãi như thế suốt đêm nếu không bị ngăn trở. 
Đáng tiếc là tiềng ồn ào đã làm ông Jones thức giấc, ông bước xuống giường vì tin chắc là có một con cáo đã lọt vào sân. Ông tìm khẩu súng vẫn thường dựng ở góc phòng và bắn một lọat đạn ghém lên trời. Có mấy viên găm vào tường nhà kho và cuộc họp mau chóng kết thúc. Từng con quay về chỗ ngủ của mình. Gia cầm nhảy lên ổ, còn gia súc thì nằm xuống đống rơm và chẳng bao lâu sau cả trang trại đã chìm vào giấc ngủ. 
Chương II 
Ba đêm sau, Thủ Lĩnh già bình thản ra đi. Xác nó được chôn ở cuối khu vườn. 
Chuyện đó xảy ra vào đầu tháng ba. Lũ súc vật tăng cường hoạt động ngầm liên tục trong ba tháng tiếp theo. Bài diễn văn của Thủ Lĩnh đã tạo ra một quan niệm sống hoàn toàn mới nơi những con thông minh. Chúng không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa mà Thủ Lĩnh tiên đoán sẽ xảy ra, chúng cũng không nghĩ sẽ được chứng kiến cảnh tượng đó, nhưng chúng biết rõ một điều là có trách nhiệm tiến hành công việc chuẩn bị. Công tác giáo dục và tổ chức dĩ nhiên là được giao cho bọn lợn vì chúng vốn được coi là loài thông minh nhất. Hai con lợn đực giống trẻ tên là Tuyết Tròn và Napoleon đang được ông Jones vỗ béo để bán là hai con nổi tiếng nhất. Napoleon là một con lợn đực, trông hung dữ, giống Berkshire duy nhất trong Điền Trang, nó vốn kiệm lời nhưng nổi tiếng kiên nhẫn. Tuyết Tròn thì hoạt bát, dẻo miệng hơn, có nhiều sáng kiến hơn, nhưng đa số cho rằng tính cách không được sâu sắc bằng Napoleon. Số còn lại đều là lợn thịt. Con nổi bật nhất trong số đó tên là Chỉ Điểm, một con lợn nhỏ, khá béo nhưng lanh lợi, hai má phính, đôi mắt đảo lia lịa, còn giọng nói thì the thé. Nó là một diễn giả có hạng, khi cần chứng minh một vấn đề khó khăn thì nó nhảy qua nhảy lại và vẫy đuôi, trông rất thuyết phục. Đồn rằng nó có thể biến đen thành trắng dễ như chơi. 
Ba con này đã phát triển học thuyết của Thủ Lĩnh già thành một hệ thống triết học hoàn chỉnh mà chúng gọi là Súc Sinh Kinh. Đêm nào cũng vậy, cứ sau khi ông Jones đi ngủ là chúng bí mật tụ họp trong nhà kho để giảng giải cho những con khác các luận điểm chủ yếu của Súc Sinh Kinh. Thoạt đầu quả là có nhiều khó khăn vì lũ súc vật tỏ ra hờ hững và rất ngu dốt. Có con nói rằng có nghĩa vụ trung thành với ông Jones mà nó gọi là ông chủ, có con còn phát biểu một cách thiếu ý thức: "Ông Jones nuôi chúng ta. Không có ông ấy thì ta chết đói rã họng ra ấy chứ". Một số con còn đặt câu hỏi đại loại: "Quan tâm đến chuyện sau khi ta chết để làm gì?" hoặc "Đằng nào thì cuộc khởi nghĩa cũng sẽ diễn ra, ta làm hay không làm thì cũng thế thôi". Mấy con lợn phải khó khăn lắm mới thuyết phục được chúng rằng những luận điệu như thế là hoàn toàn trái với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Nhưng những câu hỏi ngu xuẩn nhất lại là của ả ngựa cái màu trắng tên là Mollie. Đầu tiên ả hỏi Tuyết Tròn: 
"Thế sau khi khởi nghĩa thì có đường không?" 
"Không", Tuyết Tròn ngắt lời, "Chúng ta không sản xuất đường. Thực ra đồng chí sẽ không cần đường. Đồng chí sẽ có đủ yến mạch và rơm mà đồng chí cần." 
"Thế tôi có còn được đeo ruy băng nữa không?" 
"Đồng chí", Tuyết Tròn nói, "Cái ruy băng mà đồng chí yêu thích đó chính là biểu tượng của tinh thần nô lệ. Chả lẽ đồng chí không thấy rằng tự do đáng quí hơn cái ruy băng hay sao?" 
Mollie đồng ý, nhưng trông nó có vẻ không tin tưởng lắm. 
Bọn lợn còn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bác bỏ những luận điệu do con quạ Moses đưa ra. Moses là con vật cưng của ông Jones, nó chuyên đi rình rập nhưng lại nhớ rất nhiều chuyện cổ tích và cũng là một diễn giả có hạng. Nó bảo rằng có biết một vương quốc thần thoại tên là Núi Xôi, nơi linh hồn các con vật sẽ tới sau khi chầu trời. Moses nói rằng vùng đó nằm không xa, sau các đám mây. Ở đó cả bảy ngày trong tuần đều là chủ nhật hết, còn cỏ ba lá thì xanh quanh năm, đường phèn và bánh khô thì mọc ngay trên bờ dậu. Lũ súc vật rất ghét Moses vì nó chỉ nói chứ không làm, nhưng có vài con lại tin là có miền cực lạc Núi Xôi của nó, thành ra bọn lợn phải vất vả lắm mới thuyết phục được chúng rằng không thể nào có một miền như thế được. 
Tông đồ tin cậy nhất của chúng là hai con ngựa kéo xe, Chiến Sĩ và Bà Mập. Hai con này vốn dĩ chậm hiểu, nhưng khi chúng đã coi lũ lợn là sư phụ rồi thì nuốt lấy từng lời giáo huấn rồi giảng giải lại cho những con khác bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn. Hai con này không bỏ bất cứ một buổi họp nào và thường là những kẻ cầm càng bài Súc Sinh Anh quốc mỗi khi cuộc họp kết thúc. 
Cuộc Khởi Nghĩa xảy ra sớm hơn và dễ dàng hơn chúng tưởng rất nhiều. Trong những năm gần đây, ông Jones, vốn là một điền chủ giỏi và nghiêm khắc, đã gặp nhiều sự cố. Sau khi bị mất nhiều tiền vào việc kiện tụng, ông trở nên ủ dột và uống nhiều rượu hơn bình thường. Ông thường ngồi cả ngày trên chiếc ghế bành trong bếp, vừa đọc báo vừa uống bia, thỉnh thoảng lại cho con Moses những mẩu vỏ bánh mì chấm bia. Gia nhân thành ra một lũ lười nhác, trộm cắp, đồng nội thành bãi đất hoang, nhà cửa dột nát, rào dậu nghiêng đổ, súc vật thường xuyên bị bỏ đói. 
Đã sang tháng sáu, đây là mùa cắt cỏ. Trước ngày Hạ chí , hôm ấy là thứ bảy, ông Jones đi Willingdon và uống đến say khướt tại nhà hàng Sư Tử Đỏ, trưa chủ nhật mới về. Bọn gia nhân thì vội vàng vắt sữa từ sáng sớm rồi bỏ đi săn thỏ mà không thèm cho súc vật ăn tí nào. Vừa về đến nhà là ông Jones leo ngay lên ghế sopha trong phòng khách rồi lấy tờ "News of the World"  phủ lên mặt và ngủ, súc vật bị bỏ đói cho đến tận chiều tối. Cuối cùng chúng hết chịu nổi. Một con bò cái húc đổ cửa nhà kho và thế là tất cả mọi con vật cùng lao vào các thùng chứa ngũ cốc. Đúng lúc đó thì ông Jones thức giấc. Ông và bốn người làm công lập tức vồ lấy roi và lao vào kho, họ cứ thế quật túi bụi lên lưng lũ súc vật khốn nạn. Lũ súc vật đói khát không thể chịu đựng thêm được nữa. Dù không hẹn trước, chúng cùng xông lên và lao thẳng vào những kẻ áp bức. Ông Jones và gia nhân bất ngờ bị đá, bị húc từ mọi hướng. Tình hình trở nên không thể kiểm soát được. Họ chưa từng gặp chuyện như thế bao giờ, cuộc nổi loạn bất thình lình của lũ súc vật mà trước đây muốn đánh đập, muốn hành hạ thế nào mặc lòng, đã làm họ hoảng loạn. Họ chỉ cầm cự được vài phút rồi phải bỏ chạy. Cả năm người vội vã lao ra con đường nhỏ để chạy lên đường làng, trong khi lũ súc vật hào hứng truy kích theo. 
Qua cửa sổ phòng ngủ, bà Jones đã nhìn thấy hết mọi chuyện, bà vội vàng cho một vài thứ vào cái túi vải rồi luồn theo cửa sau trốn khỏi Điền Trang. Moses cũng kịp lao ra khỏi tổ rồi vừa kêu vừa bay theo bà chủ. Lũ súc vật sau khi truy kích thắng lợi đã quay về và đóng cổng. Thế là cuộc Khởi Nghĩa đã toàn thắng, ông Jones bị đuổi đi, Điền Trang là của bọn súc vật ngay trước khi chúng kịp hiểu mọi chuyện. 
Ban đầu chúng không tin là số phận đã mỉm cười với chúng. Việc làm đầu tiên của chúng là tập trung lại và chạy vòng quanh khu nhà để tìm xem có còn sót người nào bên trong không, sau đó chúng lao vào các toà nhà để phá hủy tàn tích của chế độ cai trị độc tài của ông Jones. Kho công cụ ở phía cuối chuồng ngựa bị đập phá, thế là bao nhiêu hàm thiếc ngựa, vòng đeo mũi bò, xích chó, dao hoạn lợn và cừu bị ném hết xuống giếng. Còn dây cương, dây thòng lọng, các miếng da che mắt ngựa, giỏ thức ăn cũ thường treo ở cổ ngựa thì bị quăng vào đống lửa giữa sân. Những chiếc roi cũng cùng chung số phận. Mọi con vật cùng nhảy cỡn lên khi trông thấy những cái roi bắt lửa. Tuyết Tròn còn vất luôn vào lửa những cái ruy băng vẫn thường buộc trên bờm và đuôi ngựa mỗi kì hội chợ. 
"Ruy băng", nó tuyên bố, "phải được coi là quần áo, cũng là biểu tượng của loài người. Mọi con vật đều phải khỏa thân." 
Nghe thấy thế Chiến Sĩ vội tháo cái mũ rơm mà nó thường mang trong mùa hè để ngăn ruồi khỏi lọt vào tai và ném vào lửa. 
Chẳng mấy chốc lũ súc vật đã phá hủy tất cả những thứ có liên quan đến ông Jones. Napoleon dẫn cả bọn vào kho và phát gấp đôi khẩu phần ăn hàng ngày, mỗi con chó được hai bánh qui bơ. Sau đó chúng hát bài Súc Sinh Anh quốc bảy lần liền, rồi cả bọn đi ngủ, chưa bao giờ chúng ngủ ngon như hôm ấy. 
Như thường lệ, chúng thức dậy khi trời vừa rạng sáng, nhưng chúng lập tức nhớ ngay đến sự kiện vinh quang vừa xảy ra và thế là cả bọn cùng lao ra đồng cỏ. Trên đồng cỏ có một cái gò nhỏ, từ đây có thể nhìn thấy hầu khắp trang trại. Lũ súc vật chạy lên đó và ngắm nhìn khung cảnh trong ánh hồng của một ngày mới. Tất cả, tất cả những gì trước mắt kia giờ đây đã thuộc về chúng! Trong trạng thái ngất ngây, chúng cứ chạy quanh, chạy quanh mãi, thỉnh thoảng chúng lại nhảy lên vì sung sướng! Chúng lăn mình trên sương ướt, chúng gặm đầy mồm cỏ ngọt mùa hè, chúng hất tung lên những nắm đất đen và hít hà mùi vị ấm nồng của nó. Sau đó chúng đi kiểm tra một vòng khắp trang trại, chúng yên lặng ngắm nhìn khu ruộng lúa, đồng cỏ, vuờn quả, ao cá, lùm cây. Chúng ngắm nhìn như chưa từng nhìn thấy những thứ ấy bao giờ, và ngay cả lúc này chúng cũng chưa tin rằng tất cả những thứ đó đã là của chúng. 
Sau đó cả bọn lại cùng nhau quay về và yên lặng tập trung trước ngôi nhà chính. Ngôi nhà này cũng đã thuộc về chúng, nhưng chúng còn ngại, chưa dám vào ngay. Nhưng Tuyết Tròn và Napoleon đã mau chóng lấy lại được bình tĩnh và dùng vai phá cửa, rồi từng con lục tục, thận trọng bước vào, tránh không làm xáo trộn các đồ vật bên trong. Chúng nhón gót đi từ phòng nọ sang phòng kia, thì thào, hồi hộp ngắm nhìn cảnh xa hoa không thể nào tin được đang bày ra trước mắt, nào giường nệm lông vịt, nào gương soi, nào ghế nệm lông ngựa, nào thảm nhung , rồi ảnh nữ hòang Vitoria  treo trên lò sưởi trong phòng khách. Nhưng khi xuống đến bậc tam cấp thì chúng bỗng phát hiện ra là thiếu mất Mollie. Chúng quay vào và thấy Mollie còn đứng trong căn phòng ngủ đẹp nhất nhà. Hoá ra cô nàng đã lấy một dải ruy băng màu xanh trên bàn trang điểm của bà Jones, vắt lên vai và đang thẫn thờ soi gương. Những con khác túm ngay lấy nó và lôi ra khỏi nhà. Mấy cái đùi lợn muối treo trong bếp được đem đi chôn, thùng bia trong phòng rửa bát thì bị Chiến Sĩ đá thủng, những thứ khác hầu như được giữ nguyên chỗ cũ. Một nghị quyết về việc giữ toà nhà chính làm viện bảo tàng được nhất trí thông qua ngay tại chỗ. Tất cả đều đồng ý là không con nào có quyền sống trong toà nhà này. 
Chúng đi ăn sáng và sau đó Tuyết Tròn và Napoleon mời tất cả tập trung. 
"Thưa các đồng chí", Tuyết Tròn nói, "Bây giờ là bảy giờ rưỡi, chúng ta còn cả một ngày nữa cơ. Hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu cắt cỏ, nhưng chúng ta còn một việc phải làm trước đã." 
Thế là hai con lợn nói rằng nhờ những cuốn sách vỡ lòng của con ông Jones, tìm được trong đống rác, mà suốt ba tháng qua chúng đã học và nay chúng đã biết đọc, biết viết. Napoleon sai đi lấy một lọ sơn đỏ, một lọ sơn trắng rồi dẫn cả bọn đi ra cổng lớn. Tuyết Tròn (vì nó là con viết đẹp nhất) kẹp cái chổi sơn giữa hai móng chân, xoá chữ Điền Trang và viết chữ Trại Súc Vật lên cái thanh trên cùng của cánh cổng. Từ nay trở đi đấy sẽ là tên chính thức của trại này. Sau đó cả bọn quay lại khu nhà, Tuyết Tròn và Napoleon lại ra lệnh tìm một cái thang rồi dựng sát vào đầu hồi nhà kho. Chúng giải thích rằng sau một thời kì khổ công nghiên cứu, ba tháng gần đây chúng đã đúc kết các luận điểm của Súc Sinh Kinh thành Bảy Điều Răn. Bảy Điều Răn sẽ được kẻ lên tường và sẽ là luật vĩnh viễn bất di bất dịch của tất cả các thành viên Trại Súc Vật. Tuyết Tròn leo lên thang một cách khó nhọc (vì lợn khó giữ thăng bằng khi đứng trên thang) và bắt đầu viết, trong khi Chỉ Điểm cầm hộp sơn đứng bên dưới mấy bậc. Các điều răn được viết bằng sơn trắng trên bức tường quét hắc ín, đứng xa cả ba chục mét cũng đọc rõ. Nội dung như sau: 
BẢY ĐIỀU RĂN 
1. Tất cả các loài hai chân đều là kẻ thù. 
2. Tất cả các loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. 
3. Không con vật nào được mặc quần áo. 
4. Không con vật nào được ngủ trên giường. 
5. Không con vật nào được uống rượu. 
6. Loài vật không được giết hại lẫn nhau. 
7. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng. 
Các chữ đều được viết rõ ràng và cả đoạn chỉ có hai lỗi chính tả mà thôi, đấy là chữ "giường" bị viết thành "gưìơng" và một chữ S bị viết ngược. Tuyết Tròn đọc to lên cho tất cả cùng nghe. Tất cả đều gật đầu đồng ý, những con thông minh hơn lập tức học thuộc lòng các Điều Răn. 
"Bây giờ, thưa các đồng chí'' Tuyết Tròn vừa ném cái chổi sơn xuống đất vừa gào lên, "tất cả ra đồng cắt cỏ! Chúng ta phải thu hoạch nhanh hơn lão Jones và lũ gia nhân của hắn.'' 
Đúng lúc đó thì ba con bò cái vốn cảm thấy khó chịu từ trước bỗng rống lên. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ qua chúng chưa được vắt sữa, vú của chúng căng mọng như muốn nổ ra đến nơi. Sau một chút đắn đo, lũ lợn sai mang xô tới và đã thực hiện công việc khá thành thạo, chân chúng tỏ ra phù hợp với công việc này. Chẳng mấy chốc đã vắt được năm xô đầy sữa béo, một số con tò mò đến xem. 
"Làm gì với số sữa này nhỉ'', có con hỏi. 
"Lão Jones thỉnh thoảng có trộn sữa vào thức ăn của chúng tôi đấy'', một chị gà mái lên tiếng. 
"Các đồng chí, để ý đến sữa làm gì!'', Napoleon vừa gào lên vừa bước ra đằng trước mấy xô sữa, "Để đấy rồi tính sau. Thu hoạch quan trọng hơn. Đồng chí Tuyết Tròn sẽ dẫn đầu. Tôi sẽ ra sau một lúc. Các đồng chí, tiến lên! Vụ thu hoạch đang cần chúng ta.'' 
Các con vật tiến ra cánh đồng và bắt đầu cắt cỏ, nhưng chiều về thì chúng không thấy mấy xô sữa đâu nữa. 
Chương III 
Phải công nhận là chúng làm việc rất chăm, không quản mệt mỏi, chỉ cốt thu hoạch cho xong! Công khó của chúng đã được đền bù, chúng thu được nhiều hơn dự kiến. 
Đôi khi chúng cũng gặp một số khó khăn vì tất cả công cụ đều được làm để dành cho người chứ không phải cho súc vật, mà muốn sử dụng công cụ đó thì phải đứng được trên hai chân sau. Nhưng phải nói bọn lợn là một giống thông minh - khó đến đâu chúng cũng có cách. Còn lũ ngựa thì hiểu rõ từng thửa ruộng, mà cắt và vun cỏ thành đống thì chúng làm thạo hơn ông Jones và gia nhân nhiều. Bọn lợn không làm mà chỉ hướng dẫn và kiểm tra các con khác. Với kiến thức như thế thì việc chúng nắm vai trò lãnh đạo là đương nhiên. Chiến Sĩ và Bà Mập tự khoác lên mình máy cắt hoặc máy bừa cỏ (dĩ nhiên là không cần hàm thiếc, cũng chẳng cần cương) và kiên nhẫn đi khắp cách đồng, trong khi một con lợn nào đó bước theo sau, thỉnh thoảng lại kêu "Đi thẳng, đồng chí!" hoặc "Quay lại, đồng chí!". Tất cả các con vật, không kể lớn nhỏ, đều tham gia cắt và xếp cỏ. Ngay đến bọn gà vịt cũng phơi mình dưới nắng suốt ngày để tham gia vận chuyển từng lọn cỏ nhỏ bằng mỏ. Chúng đã hoàn tất công việc một cách nhanh chóng, phải nói là nhanh hơn người, nếu ông Jones và gia nhân làm thì phải hai ngày nữa mới xong. Hơn nữa, đấy lại là một vụ mùa năng suất nhất từ trước đến nay. Không có chuyện rơi vãi vì bọn gà, vịt rất tinh mắt, chúng nhặt đến từng cọng một. Và cũng không có con nào ăn vụng, dù chỉ một miếng ngoạm. 
Công việc của trang trại diễn ra thuận lợi trong suốt mùa hè năm đó. Bọn súc vật cảm thấy vô cùng sung sướng, chúng chưa bao giờ nghĩ rằng chuyện đó lại có thể xảy ra. Ăn là cả một niềm vui, vì bây giờ thức ăn là của chúng, do chúng và vì chúng chứ không phải là thứ do một ông chủ keo bẩn bố thí cho nữa. Sau khi chúng đã tống khứ được lũ người ăn bám vô tích sự đi rồi thì khẩu phần mỗi con dĩ nhiên là nhiều hơn. Và mặc dù chưa có kinh nghiệm, chúng vẫn có nhiều thời gian thư giãn hơn. Chúng có gặp một số khó khăn, ví dụ khi thu hoạch ngũ cốc thì phải dùng sức để thổi trấu đi vì trang trại không có máy đập, nhưng với trí thông minh của lũ lợn và sức khoẻ của Chiến Sĩ thì việc gì mà chúng chẳng làm được. Chiến Sĩ rất được kính trọng. Ngay khi còn ông Jones nó đã chăm chỉ rồi, nhưng bây giờ nó làm việc bằng ba, có ngày tưởng chừng như toàn bộ công việc của trại đều đổ dồn lên vai nó. Nó kéo rồi đẩy từ sáng đến tối và bao giờ cũng có mặt ở những chỗ khó khăn nhất. Nó nhờ một con gà trống đánh thức trước nửa tiếng và tự nguyện làm một số việc cần kíp nhất trước khi ngày làm việc chính thức bắt đầu. Trước bất cứ khó khăn, trở ngại nào nó đều nói: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa!", câu ấy đã trở thành phương châm hành động của chính nó. 
Những con khác cũng làm việc hết mình. Thí dụ lũ gà và vịt đã mót được đến hai tạ ngũ cốc. Thói ăn cắp vặt; những tiếng ỉ eo về miếng ăn, miếng uống; chuyện cãi vã, cắn xé; thói ghen tị - những thói xấu đó của quá khứ đã biến mất hẳn. Không con nào trốn việc - đúng ra là gần như không con nào. Mollie không thích dậy sớm và tìm cách chuồn trước, nại rằng có hòn đá nhỏ dắt vào móng. Thái độ của con mèo cũng đáng ngờ. Cứ khi nào cần là y như rằng nó đã bỏ đi đâu mất từ trước rồi. Chị chàng thường bỏ đi đâu đó rất lâu và chỉ xuất hiện, như chưa có chuyện gì xảy ra, ngay trước bữa ăn hay vào buổi chiều, khi công việc đã hoàn tất. Nhưng nó luôn luôn tìm được cách giải thích và kêu gừ gừ một cách đáng yêu, thành ra khó mà nghi ngờ được thiện chí của nó. Chỉ có con lừa già Benjamin là vẫn như cũ. Nó vẫn làm công việc một cách chậm chạm cố hữu như thời còn ông Jones, không bao giờ trốn việc, cũng chẳng bao giờ làm hơn. Nó không nói gì về cuộc Khởi Nghĩa cũng như những đổi thay sau đó. Nếu được hỏi có cảm thấy vui hơn thời còn ông Jones không, thì nó bảo: "Đời lừa dài lắm. Các vị chưa thấy lừa chết bao giờ cơ mà" - bao giờ nó cũng nói một câu bí hiểm như vậy. 
Ngày chủ nhật nghỉ. Bữa sáng ăn muộn hơn một tiếng và sau đó bao giờ cũng có một cuộc họp mặt long trọng. Trước hết là lễ kéo cờ. Tuyết Tròn tìm được trong kho dụng cụ một tấm khăn trải bàn cũ màu xanh của bà Jones rồi vẽ một cái móng và một cái sừng màu trắng lên trên. Và thế là buổi sáng chủ nhật nào chiếc khăn trải bàn cũng tung bay trên cột cờ trong vườn hoa. Tuyết Tròn giải thích rằng màu xanh tượng trưng cho đồng ruộng Anh quốc, còn sừng và móng là biểu tượng của nước Cộng Hòa Súc Vật tương lai, khi đã lật đổ được toàn bộ giống người rồi. Sau khi kéo cờ, tất cả các con vật cùng đến tập trung trong nhà kho lớn, chúng gọi đấy là Họp. Chúng lập kế họach cho tuần sau cũng như thảo luận và ra nghị quyết về các kiến nghị khác nhau tại đây. Chỉ có bọn lợn đưa ra kiến nghị mà thôi. Những con khác chỉ biết biểu quyết chứ không kiến nghị gì bao giờ. Tuyết Tròn và Napoleon thảo luận hăng nhất. Nhưng hai con này luôn luôn chống đối nhau: hễ con này đưa ra ý kiến gì là con kia lập tức phản đối. Ngay cả khi vấn đề đã được quyết định rồi, như việc dành một miếng đất nhỏ phía sau khu vườn làm chỗ dưỡng già, không ai có thể phản đối chuyện đó, thì hai con này lại tranh luận gay gắt về việc loài nào, đến bao nhiêu tuổi thì được nghỉ hưu. Các buổi Họp bao giờ cũng kết thúc bằng bài đồng ca " Súc Sinh Anh quốc", còn buổi chiều thì chúng được nghỉ tự do. 
Bọn lợn dành cái kho dụng cũ làm tổng hành dinh. Buổi tối chúng học nghề mộc, nghề rèn và những nghề khác, qua những cuốn sách nhặt được trong toà nhà chính. Tuyết Tròn còn đưa những con khác vào các tổ chức mà nó gọi là Ủy Hội Súc Sinh. Nó làm việc này một cách say sưa, không biết mệt là gì. Nó đã thiết lập được Ủy Ban Trứng cho lũ gà mái, Ủy Ban Chăm Sóc Đuôi cho lũ bò, Hiệp Hội cải huấn các đồng chí thú hoang (mục đích là cải tạo bọn chuột và thỏ rừng); Phong Trào giữ lông thật trắng cho bọn cừu, vân vân và vân vân, đấy là chưa kể các tổ xoá nạn mù chữ nữa. Nói chung, các dự án của Tuyết Tròn đều không có kết quả. Việc cải tạo lũ thú hoang thất bại gần như ngay từ đầu. Thái độ của chúng chẳng thay đổi tí nào, mà cư xử tốt thì chúng lại càng láo thêm. Con mèo cũng có chân trong Hiệp Hội cải huấn và đã họat động rất tích cực trong mấy ngày đầu. Có lần, nó còn lên tận mái nhà nói chuyện với mấy con chim sẻ đậu ngoài tầm với của nó. Nó bảo rằng bây giờ mọi loài đều là đồng chí và nếu con sẻ nào muốn thì có thể đậu ngay lên chân trước nó, nhưng bọn sẻ không dám lại gần. 
Các lớp học đọc, học viết thu được kết quả khả quan. Trước khi mùa thu, về đa số các con vật trong trại đều đã thoát nạn mù chữ ở những mức độ nhất định. 
Bọn lợn đọc thông viết thạo. Lũ chó cũng biết đọc, nhưng chúng chỉ đọc mỗi Bảy Điều Răn mà thôi. Con dê tên là Muriel đọc thông hơn lũ chó nên buổi tối nó thường đọc cho những con khác nghe các mẩu báo nhặt được trên đống rác. Lừa Benjamin đọc nhanh không kém gì lũ lợn, nhưng nó chẳng đọc cái gì bao giờ. Nó bảo chẳng thấy có gì đáng đọc. Bà Mập học thuộc cả bảng chữ cái nhưng không biết ghép vần. Chiến Sĩ không vượt qua được chữ D. Nó thường lấy những cái móng to kềnh của mình để viết lên cát những chữ cái A, B, C, D rồi đứng ngắm, tai cụp lại phía sau, thỉnh thoảng lại vẫy vẫy bờm, cố gắng nhớ xem sau đó là chữ gì, nhưng chẳng bao giờ nhớ ra. Đôi khi nó cũng thuộc được các chữ cái E, F, G, H, nhưng bao giờ cũng vậy, hễ thuộc mấy chữ đó thì lại quên các chữ A, B, C, D. Cuối cùng nó đành thoả mãn với bốn chữ cái đó và ngày nào cũng viết một hai lần để rèn trí nhớ. Mollie chỉ học năm chữ cái ghi đủ tên nó mà thôi. Nó thường lấy cành cây nhỏ để xếp các chữ đó rồi trang trí thêm bằng một vài bông hoa, sau đó đi vòng quanh để ngắm. 
Những con khác không vượt qua chữ A. Những loài ngu hơn như cừu, gà và vịt không thể thuộc được Bảy Điều Răn. Sau khi suy nghĩ, Tuyết Tròn tuyên bố rằng có thể rút Bảy Điều Răn thành một cách ngôn như sau: "Bốn chân tốt, hai chân xấu". Nó bảo đấy chính là nguyên lí cơ bản của Súc Sinh Kinh. Chỉ cần nắm vững cách ngôn này thì không còn sợ gì ảnh hưởng của con người nữa. Bọn gà vịt phản đối vì cho rằng chúng chỉ có hai chân, nhưng Tuyết Tròn đã chứng minh không phải như vậy. 
"Cánh chim, thưa các đồng chí", Tuyết Tròn nói, "là cơ quan để vận động chứ không phải để cầm nắm. Cánh cũng là chân thôi. Đặc trưng để phân biệt với Giống Người là bàn tay, mọi việc xấu xa đều do đôi bàn tay của chúng làm hết." 
Bọn gà vịt không hiểu hết bài thuyết pháp tràng giang đại hải đó, nhưng chúng đồng ý với cách giải thích của Tuyết Tròn và tất cả những con vật ngu si hơn lại phải học thuộc lòng cách ngôn mới. BỐN CHÂN TỐT, HAI CHÂN XẤU được viết to hơn, bên trên Bảy Điều Răn. Khi đã thuộc lòng rồi thì lũ cừu tỏ ra rất khoái cách ngôn này, mỗi khi nằm nghỉ là chúng lại đồng thanh tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu! Bốn chân tốt, hai chân xấu!" và cứ thế hàng giờ liền không biết mệt. 
Napoleon không quan tâm đến các ủy hội của Tuyết Tròn. Nó bảo rằng giáo dục thế hệ trẻ quan trọng hơn công tác vận động những con đã trưởng thành. Hai con chó cái Jessie và Bluebell đẻ được chín con chó con khoẻ mạnh ngay sau vụ thu hoạch. Napoleon bắt lũ chó con ngay khi chúng vừa cai sữa, nó bảo sẽ chịu trách nhiệm giáo dục bọn trẻ. Nó đem lũ chó con giấu trên gác xép, bên trên kho dụng cụ, phải có thang mới trèo lên được, và giữ chúng ở đó kín đến nỗi dần dần không con nào còn nhớ đến lũ chó con ấy nữa. 
Chuyện mất sữa không còn là bí mật. Bọn lợn đem trộn vào cám ăn hàng ngày. Những quả táo đầu mùa đã chín, ngày nào cũng có quả rụng trên đám cỏ trong vườn. Mọi con vật đều nghĩ là sẽ đem chia đều, nhưng một hôm có lệnh nhặt táo rụng rồi đem vào nhà kho dụng cụ để dành riêng cho lũ lợn. Có mấy con phàn nàn về chuyện này, nhưng không đi đến đâu. Về vấn đề này thì lũ lợn, kể cả Tuyết Tròn và Napoleon, đều thống nhất quan điểm. Chỉ Điểm được cử đi làm công tác tư tưởng. 
"Thưa các đồng chí", Nó nói, "Tôi hy vọng là các đồng chí không nghĩ rằng loài lợn chúng tôi làm như thế là do ích kỉ và đặc quyền đặc lợi chứ? Nhiều đồng chí lợn cũng ngán sữa và táo lắm. Tôi cũng chẳng thích gì hai thứ đó. Mục đích của chúng tôi khi ăn những thứ đó chỉ là nhằm bảo vệ sức khoẻ mà thôi. Sữa và táo (Thưa các đồng chí, khoa học đã chứng minh) có chứa nhiều chất cực kì cần thiết cho sức khoẻ loài lợn. Loài lợn chúng tôi làm công việc trí óc. Chúng tôi nắm toàn bộ công tác tổ chức và quản lí trang trại này. Vì sự phồn vinh của các đồng chí mà chúng tôi phải làm việc cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi uống sữa và ăn táo vì lợi ích của chính các đồng chí đấy. Các đồng chí có tưởng tượng được chuyện gì sẽ xảy ra nếu loài lợn chúng tôi không cáng đáng nổi nhiệm vụ không? Lão Jones sẽ quay về! Vâng, lão Jones sẽ quay về! Chắc chắn là như thế, thưa các đồng chí", Nó van vỉ gào to, vừa gào vừa nhảy từ phải sang trái, đuôi vẫy nhặng lên, "Chắc chắn là không ai trong chúng ta muốn lão Jones quay về rồi, có phải thế không ạ?" 
Chắc chắn là không một con vật nào muốn lão Jones quay về rồi. Đặt vấn đề theo cách đó thì không con nào dám mở miệng ra nữa. Sức khoẻ loài lợn là việc hệ trọng, chuyện đó không cần phải bàn. Thế là chúng đi đến thống nhất mà không bàn cãi thêm là sữa và táo rụng (khi vào mùa thì toàn bộ) chỉ để dành cho riêng loài lợn dùng mà thôi. 
Chương IV 
Đến cuối mùa hè thì tin tức về Trại Súc Vật đã bay ra khắp nửa nước. Ngày nào Tuyết Tròn và Napoleon cũng cử từng đàn bồ câu thâm nhập vào các trang trại khác để tuyên truyền về cuộc Khởi Nghĩa và dạy hát bài "Súc Sinh Anh quốc". 
Trong khi đó ông Jones hầu như ngày nào cũng ngồi trong nhà hàng Sư tử Đỏ ở Willingdon để than van với bất cứ người chịu chuyện nào về việc bị lũ súc vật vô tích sự cướp đoạt mất tài sản. Các chủ trại khác tỏ ra thông cảm, nhưng chẳng chịu giúp đỡ gì cả. Không những thế, trong thâm tâm bọn đó lại còn tìm cách lợi dụng tai hoạ của lão nữa. May là chủ hai điền trang tiếp giáp với Trại Súc Vật luôn luôn bất hoà với nhau. Một trại có tên là Trại Cáo, một trại lớn nhưng bị bỏ bê, canh tác theo lối cũ, nhiều chỗ cây mọc um tùm, các bãi chăn thả bị dẫm nát, hàng rào thì xiêu vẹo. Chủ trang trại này, ông Pilkington là một người vô lo, dùng phần lớn thì giờ vào việc săn bắn và câu cá. Trang trại thứ hai tên là Trại Keo, nhỏ hơn, nhưng được chăm sóc kĩ lưỡng hơn. Chủ trang trại này là ông Frederick, một người thô bạo, sắc sảo, thường xuyên dính líu vào các vụ kiện cáo và nổi tiếng là một tay lừa gạt có hạng. Hai vị này ghét nhau đến nỗi không thể tìm được tiếng nói chung, ngay cả trong việc bảo vệ quyền lợi của chính mình. 
Nhưng cuộc Khởi Nghĩa ở Trại Súc Vật đã làm cả hai hoảng sợ và họ tìm mọi cách ngă, cản, không cho tin tức ở đó lọt vào trang trại của mình. Đầu tiên họ giả vờ chế giễu chuyện bọn súc vật tự điều hành trang trại. "Chỉ ba bảy hai mốt ngày, là toi", họ bảo. Họ tung tin là lũ súc vật trong Điền Trang (họ khăng khăng gọi là Điền Trang chứ không chịu chấp nhận tên Trại Súc Vật) suốt ngày tranh giành nhau và chẳng mấy nữa rồi sẽ chết đói thôi. Một thời gian sau, thấy lũ súc vật không chết đói, Frederick và Pilkington liền đổi giọng và bắt đầu nói về những cảnh tượng vô luân không thể tưởng tượng được đang diễn ra trong Trại Súc Vật. Họ bảo rằng lũ súc vật ăn thịt lẫn nhau, chúng tra tấn nhau bằng móng sắt nung đỏ, còn những con cái thì thành vợ chung. "Chống lại qui luật của Tự Nhiên thì kết quả như vậy đấy", Frederick và Pilkington nói. 
Nhưng chuyện đó cũng chẳng có mấy người tin. Lời đồn về một trang trại kì lạ, nơi con người bị đuổi đi và các con vật tự điều hành lấy công việc tiếp tục được truyền tụng một cách tù mù và xuyên tạc, suốt năm đó làn sóng bạo động lan tràn khắp cả vùng nông thôn. Những con bò đực vốn dễ bảo bỗng trở nên hung dữ, cừu thì phá đổ hàng rào và dẫm nát đồng cỏ, bò cái hất đổ xô sữa, ngựa đua thì không chịu nhảy qua hàng rào mà hất tung kị sĩ lên cao. Nhạc điệu và lời của bài "Súc Sinh Anh quốc" phổ biến đến tận hang cùng ngõ hẻm. Nó được truyền bá với một tốc độ nhanh chưa từng thấy. Bài hát làm cho con người phát điên lên được, nhưng họ lại giả đò như đấy chỉ là một trò lố bịch. Ngay cả súc vật cũng không thể nào lại hát một thứ rác rưởi đê tiện như thế được, họ bảo. Con vật nào bị bắt quả tang đang hát bài đó lập tức bị đánh đòn tại trận. Thế mà vẫn không cấm tuyệt được. Sáo hót bài đó trên hàng rào, bồ câu gù trên cây, bài hát đi vào tiếng dế nỉ non, vào cả tiếng chuông nhà thờ nữa. Con người run lên mỗi lần nghe thấy nó, họ như nghe thấy điềm báo trước tai họa của chính mình. 
Đầu tháng mười, khi đã thu hoạch và đưa hết ngũ cốc vào kho, một số đã được đập thì có một đàn bồ câu bất ngờ xé không khí lao tới đậu xuống sân trang trại, dáng vẻ vô cùng xúc động. Ông Jones cùng với gia nhân và khoảng nửa tá thanh niên của Trại Cáo và Trại Keo đã vượt qua cổng lớn và đang tiến vào trang trại này. Ông Jones lăm lăm khẩu súng đã lên đạn, còn những người khác đều được trang bị bằng gậy gộc. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ muốn tái chiếm trang trại. 
Nhưng lũ súc vật không bị bất ngờ, ngược lại, chúng đã chuẩn bị cho sự kiện này từ lâu. Tuyết Tròn, trước đây đã từng nghiên cứu kĩ lưỡng cuốn sách viết về các chiến dịch của Julius Ceasar , mà nó tìm thấy trong ngôi nhà chính, được phân công tổ chức phòng vệ. Nó lập tức đưa ra các mệnh lệnh và lũ súc vật mau chóng chiếm lĩnh các vị trí được phân công. 
Tuyết Tròn ra lệnh tấn công ngay khi nhóm người kia vừa tiến gần đến dãy nhà trong trang trại. Ba mươi lăm con bồ câu xuất kích, chúng bay qua bay lại và ỉa vào đầu đám người phía dưới, trong khi họ mải tránh và phủi thì lũ ngỗng, phục kích sẵn sau hàng rào xông ra và cắn vào chân. Nhưng đấy mới chỉ là đòn chiến thuật, có tác dụng làm rối loạn hàng ngũ đối phương, bởi vì người ta dễ dàng dùng gậy để xua lũ ngỗng đi. Mũi tấn công thứ hai được đưa ra mặt trận. Muriel, Benjamin và toàn thể bầy cừu do chính Tuyết Tròn dẫn đầu xông lên vây chặt đám người, rồi lao vào húc lấy húc để trong khi Benjamin quay lưng về phía họ và đá vung vít. Nhưng lần này lũ súc vật cũng không thắng, gậy và giày đinh mà con người sử dụng là những vũ khí quá mạnh đối với chúng. Thấy tình thế bất lợi, Tuyết Tròn hí lên một tiếng và đấy chính là tín hiệu tạm lui binh, lũ súc vật vội tháo chạy vào trong sân. 
Tiếng hò reo chiến thắng vang lên. Những người tấn công thấy quân thù đã bỏ chạy như dự kiến nên chẳng cần chỉnh đốn hàng ngũ, vội vàng xông lên truy kích. Đúng như Tuyết Tròn đã dự liệu. Khi người đã vào hết trong sân thì ba con ngựa, ba con bò và tất cả lũ lợn còn lại trước đó đã nằm mai phục sẵn trong chuồng bò liền lao ra cắt đứt đường rút lui. Tuyết Tròn hạ lệnh tổng công kích. Chính nó lao thẳng vào ông Jones. Ông Jones trông thấy nó lao tới liền bóp cò. Phát đạn ghém đã làm Tuyết Tròn bị thương dọc sống lưng, máu chảy lênh láng và làm chết một con cừu. Không lưỡng lự một giây, Tuyết Tròn cứ thế đâm thẳng tấm thân tạ rưỡi của nó vào chân ông Jones. Ông ngã sóng soài lên đống phân, súng văng ra xa. Nhưng khủng khiếp nhất là Chiến Sĩ, nó đứng trên hai chân sau và giáng xuống đầu người bằng những chiếc móng sắt. Cú nện đầu tiên của nó khiến anh chàng dọn chuồng ngựa của Trại Cáo ngã vật ra đất, bất tỉnh nhân sự. Có mấy người vứt gậy và bỏ chạy. Không bỏ lỡ thời cơ, lũ súc vật liền đuổi theo vòng quanh sân. Chúng húc bổng họ lên, rồi cắn, đá, đạp. Không có con nào trong trại là không tham gia báo thù theo cách của mình. Ngay con mèo cũng nhảy từ mái chuồng bò xuống vai anh chăn bò rồi vừa cắn vào cổ vừa gào như lên cơn động cỡn. Vừa thấy có thể rút lui được là mọi người vội chạy khỏi sân để ra đường lớn. Thế là thâm nhập chưa được năm phút, họ đã phải tháo chạy, phía sau là lũ ngỗng vừa cắn vào đùi vừa rú rít đuổi theo. 
Có một người không chạy thoát. Trong sân, Chiến Sĩ đang cố lật anh dọn chuồng ngựa vẫn nằm úp mặt xuống bùn lên. Anh chàng không hề động đậy. 
"Hắn chết rồi!", Chiến Sĩ buồn bã thốt lên, "Tôi đâu có định làm như vậy. Tôi quên mất là mình đeo móng sắt. Bây giờ ai mà tin là tôi không chủ ý chứ?" 
"Thôi đừng có ủy mị, đồng chí!", Tuyết Tròn nói, máu trên lưng nó vẫn rỉ ra từng lúc, "Chiến tranh là chiến tranh. Người tốt là người đã chết." 
"Tôi không có ý giết, ngay cả giết người", Chiến Sĩ cứ nhắc đi nhắc lại như thế, mắt đẫm lệ. 
"Thế Mollie đâu nhỉ?", Có con nào đó hỏi. 
Đúng là không thấy Mollie đâu. Ban đầu chúng rất lo, chúng sợ rằng Mollie có thể đã bị thương hoặc bị bọn người kia bắt theo cũng nên. Cuối cùng chúng cũng tìm được cô nàng, hóa ra là nó trốn trong chuồng ngựa, đầu rúc trong đống rơm. Nó đã bỏ trốn ngay khi vừa nghe thấy tiếng súng nổ. Trong khi các con vật đi tìm Mollie thì anh chàng dọn chuồng ngựa hồi tỉnh và trốn mất. 
Lũ súc vật đã tụ tập lại đầy đủ, chúng vô cùng phấn khích, tranh nhau nói. Lễ mừng chiến thắng được tổ chức ngay lập tức. Cờ được kéo lên và chúng hát bài "Súc Sinh Anh quốc" mấy lần liền, sau đó chúng làm lễ mai táng con cừu tử trận và trồng trên mộ của nó một bụi táo gai. Tuyết Tròn đọc một bài diễn văn ngay bên cạnh mộ chiến sĩ trận vong, nhấn mạnh rằng mọi con vật đều phải sẵn sàng hi sinh cho Trại Súc Vật, khi cần. 
Lũ súc vật nhất trí lập ra phần thưởng cho những chiến công vừa qua, đấy là danh hiệu Súc vật Anh hùng hạng nhất, danh hiệu này được trao ngay cho Tuyết Tròn và Chiến Sĩ. Phần thưởng là một chiếc huy chương đồng (chính là tấm đồng trang trí yên ngựa tìm được trong kho dụng cụ) được đeo vào ngày lễ và chủ nhật. Danh hiệu Súc vật Anh hùng hạng hai được trao cho con cừu đã hy sinh. 
Chúng tranh cãi rất lâu về chuyện đặt tên cho chiến thắng. Cuối cùng chúng quyết định gọi là Chiến dịch Chuồng bò vì cuộc phục kích diễn ra trong chuồng bò. Chúng tìm được khẩu súng của ông Jones trong đám bùn, đạn thì trong trại vẫn có sẵn. Khẩu súng được mang ra đặt dưới chân cột cờ, giả như súng đại bác ở các nơi khác, chúng sẽ bắn súng mừng hai lần trong một năm, một lần vào dịp hạ chí để mừng ngày Khởi Nghĩa, lần khác vào ngày hai mươi tháng mười để mừng Chiến Thắng. 
Chương V 
Càng đến gần mùa đông thì Mollie càng trở nên khó chịu. Sáng nào cô nàng cũng đi làm muộn, viện cớ là ngủ quên; ngoài ra, nó còn phàn nàn là bị những căn bệnh lạ, mặc dù vẫn ăn như thuồng luồng vậy. Nó thường tìm mọi cách để trốn việc và chạy ra hồ nước, thẫn thờ đứng ngắm bóng mình. Nhưng cứ như tin đồn thì nó còn mắc những khuyết điểm nghiêm trọng hơn nhiều. Một hôm, nó đang đi dạo trong sân, vô tư vẫy cái đuôi dài, miệng nhai một nắm cỏ thì Bà Mập kéo sang một bên và bảo: 
"Mollie, chị có vài điều cần nói với em. Sáng nay chị trông thấy em đứng bên hàng rào giữa Trại Súc Vật và Trại Cáo. Bên kia hàng rào là người của nhà Pilkington. Dù đứng rất xa nhưng chị chắc chắn là lúc đó hắn ta đang nói chuyện với em, chị nhìn thấy rõ như thế, còn em thì đã cho nó vỗ vỗ vào hai bên má. Mollie, chuyện đó là thế nào?" 
"Anh ta không vỗ! Em không đứng ở đó! Làm gì có chuyện đó!" - Mollie gào lên , hai chân nhảy dựng và nện ầm ầm xuống mặt đất. 
"Mollie, hãy nhìn thẳng vào mắt chị đây! Em có dám thề với chị là gã đó chưa từng vỗ vào má em không?" 
"Không có chuyện đó!", Mollie nhắc lại, nhưng nó không dám nhìn Bà Mập và lập tức phóng ra đồng. 
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Bà Mập. Không nói cho con nào biết, nó từ từ tiến lại phía chuồng của Mollie và lấy móng lật đống rơm trong chuồng lên. Bên dưới đống rơm có một cục đường và mấy sợi ruy băng đủ màu sắc. 
Ba ngày sau Mollie biến mất. Sau mấy tuần vẫn chưa có tin tức gì, nhưng rồi lũ bồ câu báo cáo lại là đã nhìn thấy Mollie ở bên ngòai Willingdon. Nó kéo một cái xe nhỏ, sơn hai màu đen-đỏ lộng lẫy, đứng nghỉ gần một quán bia. Một gã đàn ông béo tốt, mặt đỏ gay, mặc quần ca rô, ống chẽn, đi ghệt; có vẻ như là chủ quán; đang vừa vỗ về vừa đút cho nó miếng đường. Bờm nó mới được cắt chải cẩn thận, đám bờm trên trán có thắt một dải ruy băng màu đỏ tươi. Theo những con bồ câu nói lại thì trông nó có vẻ thoả mãn. Từ đó không con nào nhắc đến nó nữa. 
Bước sang tháng giêng, thời tiết trở nên vô cùng khắc nghiệt. Đất rắn như đá, không thể làm được việc gì nữa. Các cuộc Họp được chuyển vào nhà kho lớn, lũ lợn chuyên tâm vào việc lập kế hoạch cho vụ tới. Chúng nhất trí rằng vì lũ lợn thông minh nhất nên sẽ chịu trách nhiệm về đường lối chung của trại, nhưng quyết định của chúng phải được thông qua với đa số tuyệt đối. Mọi việc sẽ vô cùng hoàn hảo nếu như Tuyết Tròn và Napoleon không thường xuyên chống đối nhau. Hai con này bất đồng nhau về mọi vấn đề, mỗi khi có dịp. Nếu con này bảo phải gieo nhiều lúa mạch hơn thì con kia nhất định sẽ nói phải gieo nhiều yến mạch hơn; nếu một con nói cánh đồng nào đó hợp với bắp cải thì con kia nhất định sẽ bảo vùng đó chỉ có thể trồng củ cải. Con nào cũng có một số ủng hộ viên cho nên các cuộc tranh luận thường diễn ra rất quyết liệt. Do biết ăn nói nên Tuyết Tròn thường giành được đa số trong các cuộc Họp, còn ở bên ngoài thì đa số lại ủng hộ Napoleon. Trung thành nhất với Napoleon là bầy cừu. Thời gian gần đây lũ cừu thường tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu" khi có lí do cũng như chẳng cần lí do gì và các cuộc Họp cũng thường bị gián đoạn là vì thế. Đặc biệt là cứ đến những đoạn quan trọng nhất trong các bài phát biểu của Tuyết Tròn là y như rằng lũ cừu lại gào lên "Bốn chân tốt, hai chân xấu". Tuyết Tròn đã nghiên cứu kĩ tạp chí "Trồng trọt và chăn nuôi" tìm được trong ngôi nhà chính, trong đầu nó có cả một mớ kế hoạch cải cách và hiện đại hóa công tác sản xuất. Nó kể về hệ thống thoát nước cho đồng ruộng, lò ủ chua, phân phốt phát, cho cả trại nghe, nó còn soạn ra một sơ đồ đi vệ sinh, sao cho từng con "đi" mỗi lần ở một nơi khác nhau cho đỡ tốn công vận chuyển sau này. Napoleon thì ngược lại, không soạn gì cả, nhưng lại rỉ tai những con khác rằng Tuyết Tròn chỉ nói nhảm và có vẻ như đang đợi thời cơ để ra tay. Nhưng cuộc tranh chấp dữ dội nhất giữa hai con là về việc xây dựng cối xay gió. 
Trên cánh đồng cỏ, không xa những dãy nhà của trại là mấy, có một cái gò nhỏ, cũng là chỗ cao nhất trong trại. Sau khi đã khảo sát, Tuyết Tròn tuyên bố rằng đây là khu vực tốt nhất để xây dựng một chiếc cối xay gió, chúng sẽ lắp lên đó một máy phát điện để cung cấp điện cho toàn trại. Các chuồng rồi sẽ có đèn điện, mùa đông thì sẽ có lò sưởi, chưa nói đến việc sẽ dùng điện để chạy máy cưa, máy thái cỏ, máy thái củ cải đỏ, máy vắt sữa nữa. Lũ súc vật chưa từng được nghe chuyện như thế bao giờ (trại này vốn thuộc loại lạc hậu, chỉ có các máy móc đơn giản nhất), chúng vô cùng kinh ngạc lắng nghe Tuyết Tròn thao thao bất tuyệt về những chiếc máy kì diệu sẽ thay chúng làm việc trong khi chúng có thể ung dung gặm cỏ ngoài đồng hoặc ngồi đọc sách và tranh luận để nâng cao dần trí óc. 
Chỉ vài tuần sau, Tuyết Tròn đã hoàn tất các tài liệu kĩ thuật về dự án cối xay gió. Các bản vẽ chi tiết phần cơ khí được soạn thảo dựa trên ba cuốn sách của ông Jones: "Một ngàn đồ vật hữu dụng trong gia đình", "Tự làm thợ xây" và "Người bắt đầu làm thợ điện cần biết". Tuyết Tròn dùng cái nhà kho, trước đây vốn là khu ấp trứng, làm văn phòng vì ở đó có một cái nền phẳng bằng gỗ rất thích hợp cho việc vẽ kĩ thuật. Tuyết Tròn ngồi trong đó hàng giờ liền. Nó lấy một hòn đá đè lên trang sách cần thiết, một chân kẹp viên phấn; nó nhảy qua nhảy lại, vừa nhảy vừa vẽ, đôi khi khoái quá lại rít lên khe khẽ. Dần dần, các bản vẽ bao gồm rất nhiều trục và bánh răng xoắn xuýt lấy nhau xếp kín gần nửa gian nhà kho, các con khác tuy chẳng hiểu gì nhưng vô cùng thán phục. Ngày nào lũ súc vật cũng đến xem các bản vẽ của Tuyết Tròn ít nhất một lần. Ngay cả lũ gà, vịt cũng tới, nhưng đứng xa xa dòm vào để không đạp phải các hình vẽ bằng phấn. Chỉ có Napoleon là không hề bận tâm. Nó phản đối ngay từ đầu. Mặc dù vậy, một hôm nó đã đến kiểm tra dự án mà không báo cho con nào biết trước. Nó đi xung quanh khu kho, rồi vào xem xét kĩ lưỡng các bản vẽ, hít chỗ này chỗ kia, rồi nhấc chân lên tè vào đấy một bãi, sau đó nó bình thản đi ra mà không thèm nói một lời nào. 
Vì việc xây dựng cối xay gió mà trại chia làm hai phái đối địch nhau. Tuyết Tròn không giấu giếm rằng việc xây cối xay gió sẽ đòi hỏi một sự hy sinh to lớn. Phải khai thác, vận chuyển đá đến công trường, rồi xây, sau đó mới lắp cánh quạt, động cơ và dây điện (làm sao kiếm được những thứ đó thì Tuyết Tròn không nói). Nhưng nó vẫn khẳng định rằng có thể hoàn tất công trình trong vòng một năm. Còn sau đó, nó tuyên bố, công việc sẽ bớt đi rất nhiều và chúng sẽ chỉ phải làm ba buổi một tuần mà thôi. Ngược lại, Napoleon cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là sản xuất lương thực, nếu chúng phí thì giờ vào việc xây dựng cối xay gió thì chúng sẽ bị chết đói. Lũ súc vật chia thành hai phe; một phe đưa ra khẩu hiệu: "Ủng hộ Tuyết Tròn và ba ngày làm việc một tuần"; phe kia đưa ra khẩu hiệu: "Ủng hộ Napoleon và no bụng". Chỉ có Benjamin là không tham gia phe phái nào. Nó không tin là rồi đây thức ăn sẽ dư thừa, cũng chẳng tin là cối xay gió sẽ giúp giảm công việc chân tay. Có cối xay hay không cối xay thì cũng thế thôi, chúng đã sống thế nào thì rồi cũng sẽ sống như vậy, nghĩa là còn khổ. 
Ngoài cối xay gió thì chúng còn tranh cãi về việc phòng vệ nữa. Tất cả đều hiểu rằng tuy con người bị thua trong Chiến dịch Chuồng bò nhưng nhất định họ sẽ đánh một trận nữa, trận này sẽ dữ dội hơn, để giành lại trang trại cho ông Jones. Người ta nhất định sẽ làm như thế vì tin đồn về trận đại bại của con người đã lan khắp vùng thôn quê và lũ súc vật trong các trang trại khác đã trở nên ra bướng bỉnh hơn bao giờ hết. Cũng như mọi khi, Tuyết Tròn và Napoleon không tìm được tiếng nói chung. Theo Napoleon thì việc cần làm trước hết là tìm mua và tập sử dụng vũ khí nóng. Theo Tuyết Tròn thì việc cấp bách hiện nay là cử những đàn bồ câu đến các trang trại khác để kêu gọi khởi nghĩa ở đó. Một con cho rằng nếu chúng không tự phòng vệ được thì chúng nhất định sẽ bị người ta chinh phục, con kia thì nói rằng nếu khởi nghĩa nổ ra khắp nơi thì không cần phòng vệ nữa. Lũ súc vật nghe Napoleon rồi nghe Tuyết Tròn, nhưng không quyết định được là con nào đúng, thực ra cứ con nào đang nói là con ấy đúng, chúng chẳng có chính kiến gì hết. 
Cuối cùng Tuyết Tròn đã hoàn tất toàn bộ bản vẽ đồ án của mình. Trong cuộc Họp vào hôm chủ nhật, vấn đề xây dựng cối xay gió được đưa ra biểu quyết. Tất cả lũ súc vật tập hợp đầy đủ trong nhà kho lớn, Tuyết Tròn phát biểu trước và mặc dù thỉnh thoảng lại bị bầy cừu chẹn họng, nó đã trình bày một cách đầy thuyết phục những lợi ích của cối xay gió. Sau đó đến lượt Napoleon. Nó tuyên bố một cách nhẹ nhàng rằng cối xay gió là chuyện nhảm nhí và khuyên mọi con chớ có ủng hộ dự án này; nó chỉ nói chừng ba mươi giây rồi bình thản ngồi xuống, có vẻ như nó cũng chẳng thèm quan tâm đến hiệu quả vừa tạo ra nơi thính giả. Tuyết Tròn đứng lên trên hai chân sau và lập tức ứng khẩu một bài diễn văn hùng hồn nhằm thuyết phục những con khác biểu quyết xây dựng cối xay gió, nó nói to đến nỗi át được cả bầy cừu. Trước đó trang trại vốn chia làm hai phe đều nhau, nhưng lần này Tuyết Tròn đã thuyết phục được đa số ủng hộ. Nó nói về tương lai của Trại Súc Vật, một tương lai vô cùng tươi sáng, khi lao động chân tay không còn đè nặng lên lưng chúng nữa. Trí tưởng tượng của nó còn đi xa hơn những máy thái rơm, máy thái củ cải. Điện, nó nói, có thể chạy máy gặt đập, máy cày, máy bừa, máy cán; ngoài ra còn cung cấp điện chiếu sáng, nước nóng, nước lạnh và lò sưởi cho tất cả các chuồng nữa. Có thể thấy kết quả biểu quyết ngay trước khi Tuyết Tròn kết thúc bài diễn văn. Nhưng đúng lúc đó thì Napoleon đứng lên, nó liếc xéo về phía Tuyết Tròn rồi rít lên lanh lảnh như tiếng còi, chưa con nào nghe thấy tiếng rít như thế bao giờ. 
Có tiếng chó sủa dữ dội ở bên ngoài, rồi một bày chín con chó cực to, cổ đeo vòng đồng lao vào nhà kho. Chúng xông thẳng vào Tuyết Tròn, may mà cu cậu tránh được cú táp của lũ chó. Tuyết Tròn vội chạy ra ngoài, còn bầy chó thì rượt theo sau. Lũ súc vật còn lại vô cùng ngạc nhiên và hoảng sợ, cùng kéo nhau ra cửa để xem cuộc rượt đuổi. Tuyết Tròn chạy băng qua đồng cỏ để ra đường cái lớn. Nó chạy thục mạng, còn bày chó cũng luôn bám sát ngay sau. Bất thình lình cu cậu bị trượt chân, cứ tưởng bầy chó sẽ nhai nó đến nơi. Nhưng cu cậu lại gượng dậy được, lần này nó còn chạy nhanh hơn và bầy chó vẫn bám sát. Tưởng chừng như một con chó đã đớp được đuôi Tuyết Tròn rồi, may mà lúc ấy cu cậu kịp vẫy sang hướng khác. Nó lại tăng tốc và lần này bỏ xa lũ chó được một đoạn, rồi nó chui qua được một lỗ thủng bên hàng rào. Không con nào còn nhìn thấy Tuyết Tròn nữa. 
Vô cùng hoảng sợ, lũ súc vật im lặng quay lại nhà kho. Lũ chó săn cũng trở về ngay sau đó. Lúc đầu con nào cũng tự hỏi: mấy con chó ấy ở đâu ra thế nhỉ? Nhưng sau đó thì điều ấy cũng chẳng phải là bí mật nữa: mấy con này đã bị Napoleon bắt từ lúc còn bé rồi mang đi nuôi riêng. Dù chưa phát triển hoàn toàn, nhưng trông chúng đã to và dữ không khác gì chó sói. Chúng đứng ngay cạnh Napoleon. Chúng cũng vẫy đuôi mừng Napoleon như những con khác thường mừng ông Jones vậy. 
Napoleon, được lũ chó hộ tống, bước lên cái bục mà trước đây Thủ Lĩnh từng đứng nói chuyện. Nó tuyên bố rằng từ nay các cuộc Họp vào ngày chủ nhật hàng tuần sẽ bị hủy bỏ. Nó nói rằng những cuộc Họp đó là vô bổ, chỉ mất thì giờ. Từ nay các vấn đề liên quan đến công việc của trang trại sẽ do một ủy ban toàn lợn và chủ tịch là Napoleon giải quyết. Đấy sẽ là các cuộc Họp kín, nghị quyết sẽ được thông báo cho toàn trại sau. Các con vật sẽ vẫn tiếp tục tập họp vào sáng chủ nhật để chào cờ, hát "Súc Sinh Anh quốc" và nhận công việc sẽ làm trong tuần sau nhưng không còn các cuộc thảo luận nữa. 
Mặc dù bị sốc vì vụ trục xuất Tuyết Tròn, quyết định hủy bỏ các cuộc thảo luận làm cả bọn thất vọng hoàn toàn. Một số con chắc chắn sẽ phản đối nếu chúng tìm được lí lẽ khả dĩ. Ngay Võ Sĩ cũng cảm thấy bất an. Nó dựng tai lên, rung rung bờm mấy lần, ý nghĩ cứ nhảy lung tung và dù rất cố gắng nó vẫn chẳng biết phải nói thế nào. Nhưng mấy con lợn thì dẻo miệng hơn. Bốn con lợn thịt ở hàng đầu gào lên phản đối, rồi cả bốn con cùng nhảy dựng lên đồng thanh nói. Nhưng những con chó đứng quanh Napoleon đã sủa vang và mấy con lợn đó đành phải ngậm miệng, im lặng về chỗ. Sau đó là lũ cừu với bài tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu" kéo dài khoảng mười lăm phút, chấm hết mọi cuộc bàn thảo. Chỉ Điểm được cử đi giải thích cho những con khác. 
"Thưa các đồng chí", Chỉ Điểm nói, "Tôi hy vọng rằng tất cả các đồng chí đều đánh giá cao sự hy sinh của đồng chí Napoleon khi đồng chí ấy đứng ra cáng đáng công việc lãnh đạo trại. Các đồng chí đừng nghĩ rằng lãnh đạo là việc dễ! Ngược lại, đấy là trách nhiệm cực kì nặng nề và khó khăn. Không có ai trong chúng ta tin tưởng một cách sâu sắc bằng đồng chí Napoleon rằng tất cả các con vật sinh ra đều bình đẳng. Đồng chí ấy sẽ rất sung sướng nếu các bạn có thể tự quyết định lấy số phận của mình. Nhưng ai có thể đảm bảo rằng đôi khi các đồng chí sẽ không có quyết định sai, khi đó trại của chúng ta sẽ ra sao? Ví dụ các đồng chí có thể đi theo tên Tuyết Tròn với cái cối xay gió hão huyền của nó, đi theo một tên mà hành tung không khác gì một tên tội phạm thì sao?" 
"Anh ta đã chiến đấu một cách dũng cảm trong Chiến dịch Chuồng bò", có con lên tiếng. 
"Dũng cảm không chưa đủ", Chỉ Điểm nói, "Lòng trung thành và sự phục tùng còn quan trọng hơn. Nói về Chiến dịch Chuồng bò, tôi tin rằng sẽ đến lúc chúng ta thấy vai trò của Tuyết Tròn đã bị thổi phồng một cách quá đáng. Kỉ luật, thưa các đồng chí, kỉ luật sắt! Đấy là khẩu hiệu của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Chỉ một bước đi sai lầm là kẻ thù sẽ tấn công ngay. Chắc chắn là các đồng chí không muốn lão Jones quay lại chứ?" 
Lí lẽ của nó quả là khó bác bỏ được. Chắc chắn là không có con nào muốn lão Jones quay về rồi, nếu những cuộc tranh cãi vào các ngày chủ nhật tạo cớ cho lão Jones trở về thì chúng sẽ không tranh cãi nữa. Chiến Sĩ đã suy nghĩ kĩ, nó thay mặt tất cả phát biểu: 
"Đồng chí Napoleon nói gì cũng đúng. Đồng chí Napoleon không bao giờ sai." 
Từ đó ngoài "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa", Chiến Sĩ còn có thêm một khẩu hiệu mới: "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng". 
Thời tiết đã ấm dần lên, bắt đầu một mùa cày mới. Khu kho, nơi Tuyết Tròn vẽ thiết kế cối xay gió đã bị đóng cửa và có lẽ các bản vẽ cũng bị xoá rồi. Cứ mười giờ sáng chủ nhật là lũ súc vật lại tụ tập trong nhà kho lớn để nhận nhiệm vụ sản xuất cho cả tuần sau. Sọ của Thủ Lĩnh, nay chỉ còn xương được đào lên và đặt trên một gốc cây, cạnh khẩu súng, dưới chân cột cờ. Sau khi dự lễ kéo cờ, lũ súc vật phải trịnh trọng bước đều ngang qua nơi đặt sọ Thủ Lĩnh rồi mới đi vào nhà kho. Nay chúng cũng không còn ngồi lẫn lộn với nhau như mọi khi nữa. Napoleon, Chỉ Điểm và Kế Tục, một con heo có biệt tài trong việc soạn bài hát và làm thơ ngồi trên cái bục gỗ, chín con chó làm thành nửa vòng tròn bao quanh, những con lợn khác ngồi ở phía sau. Những con vật còn lại ngồi trên nền nhà. Napoleon đọc bản phân công công việc cho tuần sau, rồi chúng hát một lần bài "Súc Sinh Anh quốc" và giải tán. 
Ngày chủ nhật thứ ba, kể từ khi trục xuất Tuyết Tròn, lũ súc vật bỗng nghe Napoleon tuyên bố rằng nhất định phải xây dựng cối xay gió. Nó không giải thích vì sao lại thay đổi quyết định, nhưng bảo rằng nhiệm vụ này đòi hỏi mọi con phải cố gắng, hi sinh rất nhiều, không lọai trừ khả năng là phải cắt bớt khẩu phần ăn hàng ngày nữa. Dự án đã được lập đến từng chi tiết. Một ủy ban toàn lợn đã nghiên cứu dự án này suốt ba tuần qua. Việc xây dựng cối xay gió và các công trình phụ trợ khác có thể kéo dài trong hai năm. 
Buổi chiều, Chỉ Điểm đến giải thích cho từng con rằng thực ra Napoleon không chống đối việc xây dựng cối xay gió. Ngược lại, ngay từ đầu nó đã ủng hộ dự án và những bản vẽ mà chúng thấy trong khu ấp trứng chính là do Tuyết Tròn đánh cắp của Napoleon. Cối xay gió là sáng kiến riêng của Napoleon. Thế thì tại sao - một số con hỏi - trước đây Napoleon lại kiên quyết chống? Chỉ Điểm tỏ ra rất ranh mãnh. Đấy - nó giải thích - đấy là sự khôn khéo của đồng chí Napoleon. Đồng chí ấy chỉ giả vờ chống để có thể tống khứ Tuyết Tròn, kẻ thù nguy hiểm có thể dẫn chúng vào con đường lầm lạc bất cứ lúc nào. Bây giờ, khi Tuyết Tròn không còn thì chúng có thể tiến hành mà không sợ nó gây rối nữa. Đấy gọi là chiến thuật, Chỉ Điểm nói. Nó nhắc đi nhắc lại: "Chiến thuật, các đồng chí, đấy chính là chiến thuật" rồi vừa mỉm cười vừa nhảy xung quanh, đuôi ngoáy tít. Lũ súc vật chẳng hiểu gì, nhưng Chỉ Điểm nói rất hùng hồn đồng thời ba con chó đi cùng với nó bỗng sủa ầm lên, nên chúng đành chấp nhận mà không hỏi gì thêm nữa. 
 Chương VI 
Suốt năm đó lũ súc vật phải làm lụng quần quật không khác gì nô lệ. Nhưng làm việc đối với chúng là một niềm vui, chúng không tiếc sức, chúng sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh vì chúng biết rằng chúng đang làm việc cho mình và cho con cháu mình chứ không phải cho một lũ người lười biếng, trộm cắp nữa. 
Suốt mùa xuân và mùa hè chúng đã làm việc sáu mươi tư tiếng một tuần, nhưng sang tháng tám thì Napoleon tuyên bố là sẽ làm cả chiều chủ nhật. Công việc này là hoàn toàn tự nguyện, nhưng con nào vắng mặt sẽ bị cắt một nửa khẩu phần. Mặc dù vậy, chúng vẫn không hoàn thành được kế hoạch đã đề ra. Năm nay thu hoạch kém hơn năm ngoái, chúng cũng không kịp trồng củ cải trên hai khu ruộng vì cày bừa quá chậm. Có thể thấy trước rằng mùa đông tới sẽ có nhiều khó khăn. 
Việc xây dựng cối xay gió cũng gặp không ít rắc rối. Ngay trong trang trại đã có một mỏ đá vôi tốt, cát cũng không thiếu, còn xi măng thì sẵn trong kho; mọi vật tư xây dựng đều có đủ. Nhưng có một vấn đề mà lũ súc vật không thể giải quyết ngay được, đấy là làm thế nào đập được đá thành những viên có kích thước như ý. Có vẻ như chỉ có một cách là dùng cuốc chim và xà beng; nhưng không con nào biết sử dụng những thứ ấy vì chúng không thể đứng trên hai chân sau được. Phải mất mấy tuần lễ mày mò chúng mới biết cách lợi dụng lực hút của trái đất. Những tảng đá lớn, không thể dùng được nằm dưới đáy mỏ đá vôi. Lũ súc vật lấy dây quấn xung quanh những hòn đá, sau đó cả bọn, nào bò, nào ngựa, nào cừu, bất cứ con nào có thể bám vào dây đều có mặt, khi khẩn cấp cả bọn lợn cũng nắm lấy dây và kéo từ từ theo bờ dốc, rồi chúng thả rơi hòn đá xuống đáy cho vỡ thành những mảnh nhỏ. Việc vận chuyển những viên đá vỡ không phải là khó. Ngựa vận chuyển bằng xe con, cừu thì mang từng viên một, ngay cả Muriel và Benjamin cũng tự thắng vào chiếc xe hai chỗ và tham gia chuyên chở. Đến cuối mùa hè thì chúng đã kiếm được đủ đá, công việc xây dựng bắt đầu, lũ lợn đóng vai giám sát và đốc công. 
Nhưng việc xây dựng tiến hành rất chậm, tốn rất nhiều công sức. Chúng thường mất cả ngày mới kéo được một hòn đá lên đến đỉnh, nhưng khi thả xuống thì nó lại không vỡ. Không có Chiến Sĩ thì chẳng có việc gì nên hồn, một mình nó làm bằng tất cả những con khác cộng lại. Nếu hòn đá nặng quá, cả lũ bị nó lôi xuống thì bao giờ Chiến Sĩ cũng gắng hết sức để kéo lên. Ai cũng phải thán phục khi nhìn thấy nó, chân bám chặt vào đất, hơi thở gấp gáp, hai bên sườn đẫm mồ hôi, gắng sức kéo những hòn đá lên từng bước một. Bà Mập thỉnh thoảng lại nhắc nó đừng có lao lực quá, nhưng nó không nghe. Có vẻ như đối với nó thì hai câu khẩu hiệu: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa" và "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng" chính là đáp án cho mọi vấn đề. Nó lại nhờ con gà trống gọi dậy trước bốn mươi lăm phút chứ không phải nửa tiếng như trước đây. Những lúc rảnh rỗi, phải nói là bây giờ chúng không có nhiều thời giờ rỗi nữa, nó đi một mình ra mỏ đá, xếp những hòn vỡ lại và kéo lên chỗ xây cối xay gió mà không cần con nào giúp. 
Dù có phải làm việc vất vả nhưng đời sống lũ súc vật trong mùa hè cũng không đến nỗi nào. Chúng không được ăn nhiều hơn thời còn ông Jones, nhưng cũng không ít hơn. Bù lại, chúng chỉ phải làm để tự nuôi mình, chúng không phải nuôi lũ người gồm những năm tên tham ăn nữa, chỉ riêng điều này đã đủ động viên chúng vượt qua mọi khó khăn chồng chất. Thêm nữa, cách làm của lũ súc vật nhiều khi lại hiệu quả và nhanh. Ví dụ việc làm cỏ được chúng thực hiện nhanh, gọn hơn người nhiều. Bây giờ không còn con nào ăn cắp nên cũng không cần chữa hàng rào và cổng giữa khu đồng cỏ và khu canh tác nữa. Nhưng từ mùa hè đó bắt đầu có sự thiếu hụt, nay thứ này, mai thứ khác. Chúng cần dầu đốt, đinh, dây thừng, bánh cho chó, sắt để làm móng ngựa, Trại Súc Vật không sản xuất được những thứ này. Sau đó là đến hạt giống, phân hóa học, các lọai công cụ như cuốc, xẻng, rồi còn thiết bị cho cối xay gió nữa. Không con nào biết cách mua những thứ đó. 
Một sáng chủ nhật, khi lũ súc vật tập trung nhận nhiệm vụ cho tuần tới, Napoleon bỗng tuyên bố rằng nó đã quyết định tiến hành một chính sách mới. Từ nay trở đi Trại Súc Vật sẽ buôn bán với các trại lân cận: dĩ nhiên là không phải vì lợi nhuận mà chỉ để mua một số vật dụng thật sự cần thiết thôi. Nhiệm vụ xây dựng cối xay gió là tối cần thiết đối với chúng ta, nó nói như thế. Vì vậy mà nó đã thương thảo về việc bán cỏ và một phần lúa mì vụ vừa rồi, sau này, nếu cần tiền nữa thì có thể phải bán trứng, nhu cầu về trứng ở Willingdon là rất cao. Các bạn gà, Napoleon nói, phải lấy làm tự hào vì đã có những đóng góp đặc biệt trong việc xây dựng cối xay gió. 
Một lần nữa lũ súc vật lại cảm thấy lo lắng. Không quan hệ với con người, không tham gia buôn bán, không sử dụng tiền - chả lẽ đấy không phải là những quyết định được thông qua trong cuộc Họp đầu tiên mừng chiến thắng sau khi đuổi được lão Jones ư? Tất cả mọi con vật đều nhớ là chúng đã từng thông qua những quyết định ấy, hay ít nhất chúng nghĩ rằng chúng nhớ là như thế. Bốn con lợn, những con đã đứng lên phản đối khi Napoleon tuyên bố hủy bỏ những cuộc Họp cuối tuần lại định lên tiếng, nhưng chúng phải vội vã ngậm miệng vì bầy chó đã sủa ầm ĩ lên rồi. Cũng như mọi khi, lũ cừu lại tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu!" và mọi sự đâu vẫn hoàn đấy. Cuối cùng, Napoleon giơ chân lên đề nghị trật tự và tuyên bố là nó đã giải quyết ổn thỏa mọi chuyện rồi. Không con nào phải tiếp xúc với loài người, việc đó thật chẳng hay ho gì. Nó sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về công việc nặng nề đó. Một luật sư hiện sống ở Willingdon tên là Whymper đã đồng ý làm trung gian giữa Trại Súc Vật và các trang trại lân cận, ông ta sẽ đến nhận nhiệm vụ vào các buổi sáng thứ hai hàng tuần. Giống như mọi khi, Napoleon kết thúc bài diễn văn bằng cách hô khẩu hiệu "Trại Súc Vật muôn năm" và sau khi hát bài "Súc Sinh Anh quốc", lũ súc vật giải tán. 
Sau đó Chỉ Điểm lại đi một vòng quanh trại để làm công tác tư tưởng. Nó cam đoan rằng quyết định không buôn bán và không sử dụng tiền chưa hề được đưa ra biểu quyết chứ đừng nói là thông qua. Đấy chỉ là chuyện bịa đặt, mà nếu theo dõi từ khởi kì thủy thì có thể do Tuyết Tròn bịa ra cũng nên. Nhưng một số con vẫn còn chưa tin, thế là Chỉ Điểm hỏi: "Đồng chí có chắc là không tưởng tượng ra như thế chứ? Đồng chí có tài liệu nào khẳng định chuyện đó không? Quyết định đó được ghi ở đâu ?". Chắc chắn là những quyết định đó không được ghi chép ở đâu cả, cho nên cuối cùng lũ súc vật tin là chúng đã lầm. 
Thứ hai nào ông Whymper cũng đến trang trại. Ông là một luật sư, dáng người nhỏ nhắn, để tóc mai dài, mới bắt đầu đi vào làm ăn, nhưng khá ranh mãnh, nhận ngay ra rằng nhất định Trại Súc Vật sẽ cần một người môi giới và tiền hoa hồng dĩ nhiên là phải "đậm". Lũ súc vật sợ Whymper và tìm cách tránh càng xa càng tốt. Dù sao thì việc Napoleon đứng trên bốn chân ra lệnh cho Whymper đứng trên hai chân cũng tạo ra trong lòng chúng niềm tự hào chính đáng và phần nào xoa dịu được phản ứng đối với chính sách mới. Quan hệ của chúng với giống người đã không hoàn toàn như trước đây nữa. Lòng thù hận của giống người đối với Trại Súc Vật không những không giảm mà còn tăng vì nó ngày càng thịnh vượng hơn. Ai cũng tin là trước sau gì thì cái trại này cũng phá sản, còn cối xay gió thì thất bại là cái chắc. Họ thường tụ tập trong các quán bia rồi vẽ sơ đồ để chứng minh rằng cối xay gió nhất định sẽ sập, mà nếu không sập thì cũng sẽ chẳng hoạt động được. Nhưng dù không thích, họ vẫn phải nể lũ súc vật vì chúng quản lí trang trại khá hiệu quả. Chứng cớ là họ đã bắt đầu gọi trại này là Trại Súc Vật và đã thôi giả đò là nó vẫn mang tên là Điền Trang. Họ cũng không còn ủng hộ ông Jones nữa, ông này đã mất hết hy vọng chiếm lại được trang trại và đã đi làm ăn ở nơi khác rồi. Tuy hiện nay mọi quan hệ giữa Trại Súc Vật với thế giới bên ngoài đều thông qua Whymper, nhưng người ta đồn rằng Napoleon sắp sửa kí kết hợp đồng thương mại hoặc là với Trại Cáo của Pilkington hoặc là với Trại Keo của Frederick, nhưng thiên hạ cũng nói rằng sẽ không có chuyện kí với cả hai trại cùng một lúc. 
Cũng khoảng thời gian đó lũ lợn đột ngột chuyển vào sống trong toà nhà chính. Lần này lũ súc vật cũng cho rằng ngay từ những ngày đầu tiên chúng đã thông qua quyết định là không con nào được dọn vào sống trong ngôi nhà chính. Chỉ Điểm lại thuyết phục được chúng rằng chúng đã lầm. Loài lợn là bộ óc của cả trại, nó nói, cho nên cần phải dành cho các đồng chí ấy những chỗ yên tĩnh để làm việc. Lãnh tụ (thời gian gần đây nó bắt đầu gọi Napoleon là lãnh tụ) phải sống ở một nơi xứng đáng chứ không thể cứ sống mãi trong chuồng heo được. Tuy vậy, một số con tỏ ra lo lắng khi nghe nói rằng lũ lợn không những ăn trong bếp và nghỉ trong phòng khách mà còn ngủ cả trên giường nữa. Chiến Sĩ vẫn nói "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng", nhưng Bà Mập thì cho rằng chắc chắn là có qui định cấm ngủ trên giường nên đã đi ra đầu hồi nhà kho để xem Bảy Điều Răn. Nhưng nó chỉ nhận được mặt chữ chứ không thể ghép vần được, nó đành đi tìm Muriel. 
"Muriel", Bà Mập bảo, "đọc cho tôi nghe Điều Răn Thứ Tư. Có phải là không bao giờ được ngủ trên giường không?" 
Muriel phải đánh vần mãi mới xong. 
"Điều Răn này viết: Không con vật nào được ngủ trên giường có trải dra", Muriel nói. 
Thật là kì, Bà Mập nhớ là Điều Răn Thứ Tư đâu có nói khăn trải giường, nhưng nếu đã ghi rõ trên tường như thế thì chắc là thế thôi. Đúng lúc đó thì Chỉ Điểm cùng với hai hay ba con chó vô tình đi ngang qua. 
"Thưa các đồng chí", nó nói, "tôi nghĩ rằng các đồng chí biết là loài lợn chúng tôi đã ngủ trên giường rồi? Tại sao lại không nhỉ? Chả lẽ các đồng chí lại cho rằng có qui định cấm ngủ trên giường à? Giường là gì, chỉ là chỗ để nằm ngủ mà thôi. Nói đúng ra thì một ổ rơm trong chuồng cũng là giường. Qui định là cấm ngủ trên khăn trải, vì đấy là sản phẩm của con người. Chúng tôi đã bỏ hết khăn trải giường đi rồi, bây giờ chúng tôi chỉ dùng chăn thôi. Giường phải nói là rất tiện! Nhưng cũng không phải là quá xa xỉ, tôi có thể nói với các đồng chí rằng đấy chính là thứ cần cho những người làm việc trí óc như chúng tôi. Chả lẽ các đồng chí lại không muốn cho chúng tôi được nghỉ ngơi hay sao? Chả lẽ các đồng chí lại muốn chúng tôi kiệt sức hay sao? Chắc chắn là không có ai trong các đồng chí muốn lão Jones quay lại chứ?" 
Bọn súc vật khẳng định với nó rằng chúng không nghĩ như vậy và từ đó cũng không con nào còn nhắc đến việc lũ lợn ngủ trên giường nữa. Mấy ngày sau có thông báo rằng từ nay trở đi loài lợn sẽ dậy muộn hơn những loài khác một tiếng, lần này thì không có con nào phàn nàn gì cả. 
Mùa thu tới, lũ súc vật tuy mệt nhưng vui. Năm qua là một năm vất vả, phải bán một phần cỏ và ngũ cốc nên dự trữ cho mùa đông không được dư giả lắm, nhưng cối xay gió đã đền bù mọi công khó của chúng. Cối xay gió đã xây dựng được gần một nửa rồi. Sau vụ thu hoạch thời tiết rất thuận lợi, lũ súc vật làm việc miệt mài chưa từng thấy, chúng sẵn sàng đi lại, khuân vác suốt ngày miễn là bức tường cứ ngày một cao thêm, dù chỉ một ít. Ban đêm Chiến Sĩ còn tranh thủ làm thêm một, hai tiếng dưới ánh trăng. Lúc rảnh rỗi lũ súc vật thường đi dạo xung quanh cái công trình xây dựng đó; chúng ngắm nhìn những bức tường đứng thẳng và chắc chắn, rồi tự hỏi chả lẽ chúng đã xây được cái công trình tráng lệ như thế này ư. Chỉ có Benjamin là vẫn như cũ, nó chẳng nói gì, ngoại trừ câu cửa miệng là lừa sống dai lắm. 
Tháng mười một bắt đầu có gió tây nam. Việc xây dựng bị ngưng trệ vì trời ẩm quá, không thể trộn vữa được. Một đêm gió mạnh đến nỗi mái nhà tốc ngói, tường cũng như muốn lung lay sắp đổ. Lũ gà thức giấc và kêu quang quác vì cả bọn cùng mơ thấy như có tiếng súng nổ ở đâu đó. Buổi sáng, khi lũ súc vật đi ra khỏi chuồng thì thấy cột cờ đã đổ từ bao giờ, còn cây du ở cuối vườn thì đã bị trốc gốc không khác gì người ta nhổ cây củ cải. Nhưng đấy chưa phải đã hết, trước mặt chúng còn một cảnh tượng khủng khiếp hơn nhiều. Cối xay gió đã bị đổ sập hoàn toàn. Tất cả cùng đồng thanh thét lên vì thất vọng. 
Chúng lao về phía công trường. Napoleon vốn vẫn cho rằng chạy là việc hạ đẳng cũng ba chân bốn cẳng chạy ngay đầu đoàn. Thế là xong, tất cả đã thành công toi, những viên đá mà chúng phải khó nhọc mới đập vỡ và vận chuyển tới được nay nằm ngổn ngang khắp nơi. Không nói nên lời, chúng đứng lặng, đau khổ ngắm nhìn đống đá đổ. Napoleon im lặng đi đi lại lại, thỉnh thoảng gí mũi xuống đất để ngửi. Đuôi nó duỗi thẳng, đập qua đập lại rất mạnh, chứng tỏ nó đang suy nghĩ rất lung. Nó bỗng dừng lại, có nghĩa là nó đã tìm được giải pháp. 
"Thưa các đồng chí", nó bình tĩnh nói, "các đồng chí có biết ai phải chịu trách nhiệm về việc này không? Kẻ nào đã phá hoại, kẻ nào đã phá sập cối xay gió của chúng ta đêm qua? Tuyết Tròn!", nó bỗng gào lên, "chính Tuyết Tròn chứ không ai. Tên phản bội đầy thù hận đó đã nhẫn tâm tìm cách phá chúng ta và trả thù về việc nó bị trục xuất một cách nhục nhã, nó đã lợi dụng đêm tối để mò vào và phá hủy toàn bộ thành quả lao động suốt một năm trời nay của chúng ta. Hôm nay, tại đây, tôi tuyên bố kết án tử hình Tuyết Tròn. Ai giết được nó sẽ được phong Súc Vật Anh Hùng hạng hai và được thưởng một nửa thùng táo. Ai bắt sống được nó sẽ được thưởng một thùng táo." 
Con nào cũng vô cùng căm tức khi biết tin Tuyết Tròn đã phạm tội ác tày trời như thế. Hờn căm bộc phát thành tiếng thét, con nào cũng nghĩ cách bắt sống Tuyết Tròn nếu nó còn lảng vảng đâu đây. Chúng còn phát hiện ra dấu chân lợn ở trên đám cỏ ngay gần khu đồi. Dấu chân kéo dài khoảng chục mét, có vẻ như hướng về chỗ có lỗ thủng trên hàng rào. Napoleon hít lấy hít để những dấu chân ấy và sau đó tuyên bố rằng đấy là chân Tuyết Tròn. Napoleon nói rằng có thể Tuyết Tròn đi từ hướng Trại Cáo tới. 
"Chậm nghĩa là chết", Napoleon tuyên bố sau khi xem dấu chân xong, "phải tiếp tục công việc, thưa các đồng chí! Chúng ta sẽ bắt đầu khôi phục cối xay gió ngay từ sáng hôm nay, chúng ta sẽ làm trong suốt mùa đông này, mặc cho gió mưa, giá rét. Chúng ta sẽ dạy cho tên phản bội khốn nạn đó một bài học là nó không thể ngăn cản được chúng ta. Xin các đồng chí nhớ cho: kế hoạch của chúng ta vẫn không thay đổi. Chúng ta nhất định sẽ hoàn thành việc xây dựng cối xay gió đúng thời hạn. Các đồng chí, tiến lên! Cối xay gió muôn năm! Trại Súc vật muôn năm!". 
Chương VII 
Mùa đông năm đó rất khắc nghiệt. Bão rồi đến mưa, sau đó là tuyết và băng giá, sang tháng hai mà băng chưa tan. Thế mà lũ súc vật vẫn miệt mài xây dựng lại cối xay gió, chúng biết rằng người ta đang theo dõi chúng và bọn người độc ác ấy sẽ có cớ để vui mừng nếu chúng không hoàn thành công trình đúng hạn. 
Để trêu tức chúng, người ta còn làm ra vẻ không tin là Tuyết Tròn đã phá cối xay gió, họ bảo rằng nó sập là do tường mỏng quá. Nhưng lũ súc vật thì tin chắc là không phải thế. Dù sao chúng cũng quyết định sẽ xây tường dày một mét chứ không phải bốn mươi phân như trước đây nữa, và như vậy thì cần phải khai thác nhiều đá hơn trước. Mỏ đá chìm dưới tuyết trong một thời gian dài nên không thể bắt đầu được. Sau đó thì trời tuy có lạnh nhưng khô ráo, nhưng công việc quả là khủng khiếp, lũ súc vật không còn hăng hái như xưa nữa. Chúng không những bị lạnh mà còn thường xuyên bị đói. Chỉ có Chiến Sĩ và Bà Mập là vẫn nhiệt tình. Chỉ Điểm động viên phong trào bằng những buổi nói chuyện, nó chứng minh một cách hùng hồn rằng lao động là hạnh phúc và vinh quang. Nhưng những buổi nói chuyện của Chỉ Điểm cũng không có tác dụng, chính sức khoẻ và câu "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa" của Chiến Sĩ là nguồn động viên rất lớn đối với những con khác. 
Lương thực bắt đầu cạn vào tháng giêng. Khẩu phần bằng ngũ cốc bị cắt bớt, thay vào đó là khoai tây. Khi đó lại phát hiện ra là đa số khoai tây đánh đống đã bị nhũn vì không được che đậy cẩn thận, số ăn được còn lại chẳng đáng là bao. Nhiều hôm chúng chỉ được ăn mỗi cỏ và củ cải. Nạn đói bắt đầu đe doạ. 
Tin này dứt khoát phải giữ kín, không được để cho người xung quanh biết. Phấn chấn vì vụ sập cối xay gió người ta càng tung nhiều tin thất thiệt về Trại Súc Vật hơn. Người ta đồn nào là lũ súc vật sắp sửa chết vì đói và bệnh đến nơi, nào là chúng đánh nhau suốt ngày, nào là chúng đang ăn thịt lẫn nhau, rồi giết cả những con non nữa. Napoleon hiểu rằng sẽ có nhiều phiền toái nếu người ngoài biết trại đang gặp khó khăn về lương thực nên nó quyết định dùng Whymper làm công cụ phản tuyên truyền. Trước đây lũ súc vật thường đứng xa xa mỗi khi Whymper ghé vào trại, nhưng bây giờ một số con được chọn, chủ yếu là cừu, được phép đến gần và làm như vô tình, nói rằng dạo này khẩu phần có tăng. Ngoài ra, Napoleon còn ra lệnh đổ cát cho gần đầy bồ bịch trong kho rồi lấy ngũ cốc và bột phủ lên trên. Mỗi khi có dịp là chúng lại dẫn Whymper đi ngang qua nhà kho để ông ta có thể nhìn thấy lương thực chứa trong đó. Whymper đã bị xỏ mũi và thường nói với mọi người là Trại Súc Vật vẫn đủ lương thực. 
Mặc dù vậy, đến cuối tháng giêng thì thấy rõ là phải tìm cách mua thêm ngũ cốc. Dạo này Napoleon ít khi đi ra ngoài, nó ngồi lì trong ngôi nhà chính, các cửa ra vào đều có những con chó dữ canh phòng nghiêm ngặt. Nếu nó đi ra ngoài thì bao giờ cũng có sáu con chó hộ tống xung quanh, bọn này lập tức nhe nanh gầm gừ, đe dọa khi thấy những con khác đến gần. Nó cũng không còn tham gia các buổi Họp ngày chủ nhật nữa mà giao cho một con lợn khác, thường là Chỉ Điểm, đọc bảng phân công công việc. 
Một lần, vào chủ nhật, Chỉ Điểm tuyên bố là lũ gà mái, bọn này vừa bắt đầu đẻ, phải giao nộp trứng. Thông qua Whymper, Napoleon đã kí hợp đồng cung cấp bốn trăm quả trứng mỗi tuần. Tiền bán trứng đủ mua lương thực cho đến mùa hè và khi đó mọi sự sẽ dễ dàng hơn. 
Lũ gà mái gào toáng lên. Trước đây chúng cũng đã được nhắc nhở là cần phải hy sinh, nhưng không ngờ mọi sự lại tồi tệ đến như vậy. Chúng đã chuẩn bị tổ cho vụ ấp xuân, chúng tuyên bố là bây giờ mà lấy trứng thì khác gì sát sinh. Kể từ ngày trục xuất ông Jones, đây là lần đầu tiên có một cuộc tụ tập giống như bạo loạn. Ba con gà mái tơ giống Minorca cầm đầu cuộc nổi dậy chống lại kế họach của Napoleon. Biện pháp của chúng là bay lên xà nhà và đẻ xuống cho trứng vỡ. Napoleon hành động nhanh chóng và quyết liệt. Nó hạ lệnh không cho bọn gà mái ăn nữa và còn tuyên bố là con nào cho bọn gà dù chỉ một hạt thóc sẽ bị tử hình ngay lập tức. Lũ chó được phân công theo dõi. Bọn gà mái cầm cự được năm ngày, cuối cùng đã phải đầu hàng và trở về đẻ vào tổ như cũ. Chín con gà mái chết. Chúng bị coi là chết vì bệnh cầu trùng và được chôn trong vườn. Whymper không hề biết chuyện này và đều đặn tuần nào cũng có một chiếc xe đến lấy trứng. 
Không thấy Tuyết Tròn đâu. Có tin đồn là nó trốn trong Trại Cáo hay Trại Keo gì đó. Quan hệ giữa Napoleon với các trại xung quanh đã được cải thiện phần nào. Lúc đó chúng bỗng phát hiện được một đống gỗ trong sân trại, số gỗ này bị đốn cách đây khoảng chục năm. Số gỗ tìm được thật đúng lúc, Whymper khuyên Napoleon đem bán, cả Pilkington và Frederick đều muốn mua. Napoleon lưỡng lự, không biết nên bán cho ai. Cứ hễ nó định bán cho Frederick thì có tin nói là Tuyết Tròn đang trốn trong Trại Cáo, mà khi nó ngả sang Pilkington thì lại có tin Tuyết Tròn đang trong Trại Keo. 
Đầu tháng giêng, toàn trại bỗng sôi động vì một tin bất ngờ như sét đánh giữa trời quang. Hoá ra là Tuyết Tròn vẫn thường bí mật thâm nhập trại vào ban đêm! Lũ súc vật lo lắng đến mất ngủ. Đồn rằng đêm nào Tuyết Tròn cũng mò vào phá hoại. Nó ăn trộm lương thực, hất đổ các xô sữa, đạp vỡ trứng, dẫm nát các đám mạ và nhai vỏ cây trong vườn. Khó khăn thất bại nào cũng bị qui là tại Tuyết Tròn. Nếu cửa sổ bị vỡ hay ống thoát nước bị tắc là y như rằng có con nói là tại Tuyết Tròn phá, ngay khi chìa khóa nhà kho bị mất thì cả trại cũng cho rằng Tuyết Tròn đã ném xuống giếng. Điều lạ là sau khi đã tìm thấy chìa khóa bên dưới túi bột thì cả trại vẫn tin là tại Tuyết Tròn. Lũ bò khẳng định rằng ban đêm Tuyết Tròn chui vào chuồng và vắt trộm sữa khi chúng ngủ. Đồn rằng lũ chuột, bọn này từng gây nhiều rắc rối vào mùa đông vừa rồi, cũng liên kết với Tuyết tròn. 
Napoleon hạ lệnh phải điều tra thật kĩ những hoạt động của Tuyết Tròn. Napoleon, được mấy con chó hộ tống, khảo sát một vòng tất cả các toà nhà trong trại, trong khi những con khác đi theo xa xa phía sau. Nó bảo nó có thể đánh hơi được Tuyết Tròn nên cứ đi vài bước lại dừng lại và ngửi đất để tìm dấu vết. Góc nào nó cũng ngửi, ngửi cả nhà kho, chuồng bò, chuồng gà, vườn rau và chỗ nào cũng có dấu vết Tuyết Tròn cả. Nó dí mũi xuống đất vài lần rồi hít vào thật sâu, sau đó tuyên bố bằng một giọng nghe đã rợn người: "Tuyết Tròn! Hắn đã mò đến đây! Ta đã nhận ra mùi của nó!", cứ nghe mỗi từ "Tuyết Tròn" là lũ chó lại nhe nanh và sủa phụ họa. 
Tất cả run lên vì sợ. Có cảm tưởng như tên Tuyết Tròn bí ẩn và đầy quyền năng đang ẩn náu đâu đây, rất gần và sẵn sàng trút tai họa xuống đầu chúng. Tối hôm đó, Chỉ Điểm gọi tất cả lại và với bộ mặt nghiêm trọng nó bảo rằng có một số tin khẩn cấp cần thông báo. 
"Thưa các đồng chí!", nó gào lên, "chúng tôi đã phát hiện ra một tội ác không thể tha thứ được. Tuyết Tròn đã bán mình cho Frederick của Trại Keo, lão này vẫn đang dự định tấn công để cướp trại của chúng ta! Một khi chiến tranh xảy ra thì Tuyết Tròn sẽ làm nhiệm vụ dẫn đường. Nhưng nó còn táng tận lương tâm hơn thế nhiều. Trước đây chúng ta từng nghĩ rằng Tuyết Tròn gây rối là do tính tự phụ và ham hố quyền lực. Nhưng thưa các đồng chí, chúng ta đã lầm. Các đồng chí có biết lí do thật sự nằm ở đâu không? Ngay từ đầu nó đã liên kết với lão Jones! Nó là gián điệp nằm vùng của lão Jones. Chứng cớ đã được thể hiện trong những tài liệu mà nó để lại và chúng ta mới tìm thấy gần đây. Thưa các đồng chí, tôi cho rằng điều đó lí giải nhiều việc. Chả lẽ chúng ta chưa nhận ra là nó đã cố gắng, may mà không thành, làm cho chúng ta thua và tan rã trong Chiến dịch Chuồng bò hay sao?" 
Tất cả đều ngớ ra. Tội ác này thật quá khủng khiếp, vượt xa việc phá hoại cối xay gió. Phải một lúc sau chúng mới nhận thức được hết tính chất nghiêm trọng của sự việc. Tất cả chúng vẫn nhớ, hay chúng tưởng là vẫn nhớ hình ảnh của Tuyết Tròn khi nó xông lên dẫn đầu cuộc tấn công trong Chiến dịch Chuồng bò, khi nó đoàn kết và cổ vũ chúng, khi nó không buông bỏ dù đã bị lão Jones bắn bị thương. Thật khó tưởng tượng làm sao chuyện đó lại xảy ra nếu như nó là gián điệp của lão Jones. Ngay cả Chiến Sĩ, vốn kiệm lời, cũng cảm thấy bối rối. Chiến Sĩ nằm xuống, co hai chân trước vào bụng, nhắm mắt lại, cố gắng tập trung tư tưởng và cuối cùng nói: 
"Tôi không tin, trong Chiến dịch Chuồng bò Tuyết Tròn đã chiến đấu dũng cảm. Chính mắt tôi nhìn thấy như thế. Chẳng phải chúng ta đã phong nó làm Súc vật Anh hùng hạng nhất ngay sau chiến dịch là gì?" 
"Thưa các đồng chí, đấy chính là sai lầm của chúng ta. Bây giờ chúng ta biết rằng, những việc này đều ghi rõ trong các tài liệu mật mà chúng ta mới tìm thấy, nó định dụ chúng ta vào bẫy cho bọn kia tiêu diệt." 
"Nhưng nó cũng bị thương", Chiến Sĩ nói, tất cả chúng ta đều nhìn thấy máu chảy khi nó đang chạy." 
"Đấy là do đã sắp đặt từ trước!", Chỉ Điểm gào lên, "phát súng của lão Jones chỉ sượt qua người nó thôi. Ước gì các đồng chí biết đọc để tôi có thể chỉ cho các đồng chí thấy tên Tuyết Tròn đã viết rõ bằng giấy trắng mực đen như thế nào. Chúng đã thoả thuận là vào lúc nguy kịch nhất thì Tuyết Tròn sẽ hạ lệnh rút lui, nhường trận địa cho địch quân. Và nó đã suýt thành công, tôi có thể nói rằng nó chắc chắn sẽ thành công nếu như không có nhà Lãnh đạo Anh hùng, Đồng chí Napoleon kính mến của chúng ta. Các bạn còn nhớ lúc lão Jones và gia nhân tiến vào sân chứ? Tuyết Tròn quay lưng bỏ chạy và nhiều con đã chạy theo hắn. Chả lẽ các bạn không nhớ rằng đúng lúc đó, khi mà hỗn loạn bắt đầu lan ra và có vẻ như vỡ mặt trận đến nơi, thì đồng chi Napoleon xông lên và hô "Giết!" rồi lao thẳng vào chân lão Jones ư? Thưa các đồng chí, chắc chắn các đồng chí nhớ tình tiết đó!", Chỉ Điểm vừa nói vừa nhảy từ bên này sang bên kia. 
Bây giờ, khi Chỉ Điểm mô tả sống động như thế thì lũ súc vật dường như đã nhớ ra. Dù sao thì chúng cũng nhớ rõ là Tuyết Tròn đã quay đầu chạy đúng vào lúc nguy ngập. Nhưng Chiến Sĩ thấy vẫn chưa ổn. 
"Tôi không tin là Tuyết Tròn đã phản bội ngay từ đầu", nó nói, "sau này lại là chuyện khác. Tôi tin rằng trong Chiến dịch Chuồng bò Tuyết Tròn vẫn là một đồng chí tốt." 
"Lãnh tụ của chúng ta, đồng chí Napoleon", Chỉ Điểm nói một cách chậm rãi và kiên quyết, "đã tuyên bố dứt khoát, tôi xin nhắc lại, thưa các đồng chí, tuyên bố dứt khoát rằng ngay từ đầu Tuyềt Tròn đã là gián điệp của lão Jones, từ trước khi chúng ta nghĩ đến Khởi nghĩa cơ." 
"Thế thì khác!", Chiến Sỹ bảo. "Đồng chí Napoleon đã nói thì nhất định đúng." 
"Đấy là một thái độ thực sự cầu thị, thưa các đồng chí!", Chỉ Điểm reo lên, nhưng mọi con đều thấy đôi mắt ti hí, đảo điên, hằn học của nó chiếu thẳng vào Chiến Sĩ. Nó đã định đi, nhưng còn nói thêm đầy đe dọa, "Tôi xin báo trước là các bạn phải cảnh giác. Có đầy đủ cơ sở để nghĩ rằng trong trại này vẫn còn tay sai của Tuyết Tròn đấy!" 
Bốn ngày sau, buổi chiều, Napoleon hạ lệnh tất cả phải có mặt ngoài sân. Khi tất cả đã đến đủ thì Napoleon xuất hiện, ngực đeo hai huy chương (nó mới tự phong cho mình danh hiệu Súc vật anh hùng bậc I và Súc vật anh hùng bậc II) với chín con chó to lớn, vừa chạy quanh vừa sủa to đến nỗi lũ súc vật sợ đến nổi gai ốc. Chúng ngồi yên lặng, thu mình lại, như chờ đợi một trận cuồng phong dữ dội. 
Napoleon nghiêm khắc nhìn đám đông, rồi rít lên lảnh lảnh như tiếng còi. Ngay lập tức lũ chó lao vào cắn tai bốn con lợn thịt, mấy con đó ngất đi vì đau và sợ, rồi kéo đến chân Napoleon. Máu chảy ra từ tai mấy con lợn, và lũ chó phát điên lên khi ngửi thấy mùi máu tươi. Chúng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy ba con chó lao vào Chiến Sĩ. Chiến Sĩ liền giơ chân lên tóm lấy một con và đè xuống đất. Con đó vội kêu ầm lên xin tha mạng, hai con kia cụp đuôi lại, bỏ chạy. Chiến Sĩ nhìn Napoleon có ý hỏi nên xéo chết hay nên thả con chó bị giữ. Napoleon thay đổi nét mặt và hạ lệnh cho Chiến Sĩ thả, thế là Chiến Sỹ nhấc chân lên, con chó thảm hại, mình mảy thâm tím, vừa lết đi vừa rên ư ử. 
Trật tự nhanh chóng được vãn hồi. Bốn con lợn nằm chờ số phận, người run bắn, tội lỗi hiện rõ trên từng nét mặt. Napoleon hạ lệnh cho chúng phải thú nhận tội lỗi. Đấy chính là bốn con lợn đứng lên phản đối khi Napoleon quyết định hủy bỏ những cuộc Họp vào ngày chủ nhật. Ngay lập tức chúng thú nhận đã từng bí mật tiếp xúc với Tuyết Tròn từ khi nó bị trục xuất khỏi trại, đã giúp nó phá cối xay gió và thỏa thuận cùng với nó bán đứng Trại Súc Vật cho Frederick. Chúng còn khai thêm rằng Tuyết Tròn đã nói với chúng rằng nó là gián điệp của lão Jones từ nhiều năm trước. Khi chúng vừa nói xong thì lũ chó lao lên cắn đứt cổ họng cả bốn con, sau đó Napoleon, bằng một giọng đe doạ, nghe đã nổi gai gà, hỏi có con nào thấy cần phải thú tội không. 
Ba con gà cầm đầu cuộc nổi loạn về trứng bước lên phía trước và tuyên bố rằng chúng mơ thấy Tuyết Tròn kích động chúng bất tuân mệnh lệnh của Napoleon. Chúng cũng bị hành quyết. Sau đó có một con ngỗng bước ra và thú nhận đã lấy sáu bông lúa trong vụ mùa vừa qua để đến đêm ăn. Rồi một con cừu cái thú nhận đã bị Tuyết Tròn xúi giục đái vào bể nước ăn, rồi hai con cừu nữa thú nhận đã hành hạ đến chết một con cừu đực già, con này đặc biệt trung thành với Napoleon, chúng đuổi nó chạy quanh đống lửa khi nó bị ho. Tất cả những con này đều bị tử hình ngay tại chỗ. Cứ thế, hành quyết đi liền ngay sau lời thú tội. Chẳng mấy chốc dưới chân Napoleon đã là một đống xác, còn không khí thì nồng nặc mùi máu tươi, một cảnh tượng chưa từng có từ ngày ông Jones bị trục xuất. 
Những con vật còn lại sau vụ hành quyết, tất nhiên không kể lũ chó và lũ lợn, tụ tập thành một đám và lặng lẽ bò ra khỏi sân. Trông chúng thật nhỏ nhoi và khốn nạn. Chúng không hiểu giữa sự phản bội của những con liên kết với Tuyết Tròn và sự trừng phạt dã man mà chúng vừa chứng kiến, cái nào gây sốc mạnh hơn. Ngày xưa chúng đã từng chứng kiến những cảnh thảm sát không kém phần man rợ, nhưng lần này sự việc rõ ràng khủng khiếp hơn vì đây là chúng giết lẫn nhau. Từ ngày lão Jones ra đi đến giờ chưa có con nào bị giết cả. Ngay cả chuột cũng chưa bị giết. Chúng đi lên khu đồi rồi cùng nằm sát vào nhau cho ấm bên cạnh cái cối xay gió đang xây dở: Bà Mập nằm cạnh Mona, Benjamin, rồi đến bầy bò, cừu, gà, ngỗng, vắng mỗi con mèo, nó đã lỉnh ngay trước khi Napoleon triệu tập. Chúng nằm yên lặng. Chỉ có Chiến Sĩ là vẫn đứng. Nó cứ đi đi lại lại, đuôi đập liên hồi vào hai bên sườn, thỉnh thoảng lại hí khe khẽ đầy lo âu. Cuối cùng nó nói: 
"Tôi chẳng hiểu gì cả. Không thể nào tin được là chuyện đó có thể xảy ra trong trại của chúng ta. Có thể là chính chúng ta cũng có lỗi. Chỉ có một lối thoát, đấy là làm việc nhiều hơn. Từ nay tôi sẽ dậy trước một tiếng đồng hồ." 
Rồi nó buồn bã bước về khu mỏ đá. Cu cậu nhặt đầy hai xe và kéo đến công trường xây dựng trước khi đi ngủ. 
Lũ súc vật túm tụm cạnh Bà Mập nhưng vẫn không có con nào lên tiếng. Từ trên đỉnh đồi chúng có thể nhìn thấy toàn cảnh khu vực. Chúng trông thấy gần như toàn bộ Trại Súc Vật - bãi chăn thả kéo dài đến tận con đường chính, đồng trồng cỏ, rừng cây, bể nước, cánh đồng trồng trọt với những cây lúa mì đang lên xanh tốt và mái ngói của những ngôi nhà trong trang trại với những vệt khói ngoằn ngoèo. Đấy là một buổi chiều mùa xuân, trời quang mây tạnh. Ánh chiều tà đổ vàng trên thảm cỏ và trên những bờ dậu phía xa xa. Chúng ngạc nhiên nhớ lại rằng trang trại này là của chúng, mỗi thước đất ở đây đều là tài sản của chúng, mỗi thước đất đều đáng quí xiết bao. Bà Mập nhìn ra xa, mắt đẫm lệ. Nếu có thể nói hết được những điều nó nghĩ thì chắc chắn nó sẽ nói rằng đấy không phải là điều chúng định làm khi chúng quyết định lật đổ ách thống trị của giống người. Trong cái đêm Thủ Lĩnh già kêu gọi chúng khởi nghĩa, chúng không thể nào tưởng tượng lại có cảnh khủng bố và giết hại hàng loạt như ngày hôm nay. Nếu lúc đó nó có nghĩ về tương lai thì đấy phải là một xã hội của những con vật không còn bị đói, không còn bị đòn roi, tất cà đều bình đẳng, tất cả đều làm việc theo năng lực, con khoẻ bảo vệ con yếu, như nó từng bảo vệ lũ vịt con mồ côi trong cái đêm Thủ Lĩnh già nói chuyện đó. Thế mà, nó không thể hiểu vì sao, giờ đây không con nào còn dám nói lên ý nghĩ thật của mình nữa, lũ chó săn hung dữ lùng sục khắp nơi và tất cả phải chứng kiến cảnh giết hại các đồng chí sau khi những con này thú nhận đã phạm những tội ác tày trời. Nhưng trong đầu nó không hề có một ý nghĩ bất tuân hay tạo phản nào. Dù sao chúng vẫn sướng hơn thời còn lão Jones và điều chính yếu là phải ngăn chặn con người quay trở lại. Dù thế nào thì nó cũng vẫn trung thành với sự nghiệp, tiếp tục lao động quên mình, hoàn thành mọi nhiệm vụ, tiếp tục đi theo con đường mà Napoleon đã chọn. Nhưng chả lẽ đấy chính là điều chúng hằng ao ước, là cái chúng đã khổ công mới tạo dựng được? Không, chúng xây cối xay gió với một mục đích hoàn toàn khác, cuộc chiến đấu sống còn với lão Jones cũng là để tạo dựng một xã hội khác hẳn cái mà chúng nhận được ngày hôm nay. Đấy là những ý nghĩ lướt qua đầu Bà Mập, nhưng nó không thể nói thành lời. 
Không thể tìm được lời để nói, Bà Mập đành hát bài " Súc Sinh Anh quốc", đấy cũng là một cách thể hiện những tình cảm đang cuộn dâng trong lòng. Các con khác lập tức hát theo. Chúng hát ba lần, tiếng hát du dương, chậm và buồn; chưa bao giờ chúng hát như thế. 
Khi chúng vừa hát xong lần thứ ba thì Chỉ Điểm, có hai con chó hộ tống, tiến lại. Cứ trông dáng chúng là biết ngay có tin quan trọng cần phải thông báo gấp. Nó tuyên bố rằng bài "Súc Sinh Anh quốc" đã bị hủy bỏ theo một nghị định đặc biệt của Đồng chí Napoleon. Từ nay trở đi cấm không con nào được hát bài đó nữa. 
Các con vật đều ngớ ra. 
"Tại sao?", Muriel hỏi. 
"Thưa các đồng chí, bài hát này đã lỗi thời rồi", Chỉ Điểm lạnh lùng nói, "Bài "Súc Sinh Anh quốc" là bài hát kêu gọi khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn. Vụ hành quyết chiều nay chính là trận cuối cùng đấy. Kẻ thù, cả bên trong lẫn bên ngoài đều đã bị đánh bại. Bài "Súc Sinh Anh quốc" nói lên ước mơ của chúng ta về một xã hội tốt đẹp hơn trong tương lai. Xã hội đó đã xây dựng xong. Bài hát này rõ ràng là không còn cần thiết nữa." 
Dù đã rất hoảng sợ, nhưng chắc chắn sẽ có con đứng lên phản đối nếu như lúc đó lũ cừu không tụng ngay như thường lệ: "Bốn chân tốt, hai chân xấu", chúng tụng liền mấy phút thành ra không con nào còn có ý kiến gì được nữa. 
Không con nào còn hát "Súc Sinh Anh quốc" nữa. Thay vào đó, Kế Tục, một thi sĩ mới nổi, đã viết một bài hát khác, bắt đầu như sau: 
Súc Vật Trại này, Súc Vật Trại này 
Kẻ thù đến sẽ tan thây.
Từ đó trở đi bao giờ chúng cũng hát bài này sau lễ kéo cờ vào các sáng chủ nhật hàng tuần. Nhưng lũ súc vật cho rằng cả nhạc điệu lẫn lời bài mới đều không hay bằng bài "Súc Sinh Anh quốc" trước đây. 
Chương VIII 
Vài ngày sau, khi nỗi sợ hãi do vụ thảm sát tạo ra đã lắng xuống thì có mấy con đã nhớ được, hay tưởng là nhớ được rằng Điều Răn Thứ Sáu nói: "Loài vật không được giết hại lẫn nhau". Dù không dám nói ra khi đứng gần lũ chó và lợn, nhưng cả bọn đều cho là những vụ giết chóc vừa qua không phù hợp với Điều Răn Thứ Sáu. Bà Mập yêu cầu Benjamin đọc cho nghe Điều Răn Thứ Sáu, nhưng cũng như mọi khi, Benjamin bảo rằng nó không dây vào những chuyện như vậy. Bà Mập đành đi tìm Muriel để nhờ đọc. Điều ấy được viết như sau: "Loài vật không được giết hại lẫn nhau nếu không có lí do". Hoá ra là chúng đã quên mấy từ cuối. Nhưng như vậy là Điều Răn này vẫn được tôn trọng, những tên phản bội liên kết với Tuyết Tròn đáng bị giết quá đi chứ. 
Năm nay chúng còn làm việc vất vả hơn năm trước rất nhiều. Ngoài những công việc thường nhật của trang trại, chúng còn phải xây dựng lại cối xay gió với những bức tường dày gấp đôi, mà lại phải hoàn thành đúng kế họach. Có những lúc chúng thấy phải làm nhiều hơn mà lại được ăn không khác gì thời còn ông Jones. Sáng chủ nhật nào Chỉ Điểm cũng cầm một mảnh giấy dài và đọc cho chúng nghe các số liệu chứng minh rằng sản lượng các loại lương thực, thực phẩm đều tăng, khi thì hai trăm, khi thì ba trăm, khi thì năm trăm phần trăm. Chúng chẳng thấy có lí do gì để nghi ngờ, nhất là vì chúng đã quên, chẳng còn nhớ gì quá khứ trước ngày Khởi Nghĩa nữa. Tuy thế, đôi khi chúng thấy thà số liệu ít đi mà thức ăn nhiều thêm thì vẫn hơn. 
Mọi mệnh lệnh bây giờ đều được Chỉ Điểm hay một con lợn khác đưa xuống. Napoleon chỉ xuất hiện nửa tháng một lần. Mỗi lần nó xuất hiện thì ngoài bầy chó hộ tống còn có một con gà trống màu đen đi trước, giống như lính thổi kèn trong đội kị binh, con gà này bao giờ cũng gáy "Ò ó o…" thật to trước khi Napoleon hắng giọng bắt đầu bài diễn văn. Có tin nói rằng ngay trong ngôi nhà chính Napoleon cũng có một phòng riêng, tách biệt hẳn với những con lợn khác. Nó ăn riêng, khi ăn bao giờ cũng có hai con chó đứng hầu, bát đĩa đều bằng sứ, trước đây, hồi còn ông Jones những thứ này vốn để trong tủ phòng khách và chỉ đem ra dùng trong những ngày lễ trọng. Có thêm một quyết định mới là từ nay sẽ bắn súng chào mừng ba lần, một lần vào ngày sinh của Napoleon và hai lần khác vào những ngày lễ lớn của trại. 
Bây giờ chúng không xưng hô với Napoleon đơn giản như trước nữa. Tên nó luôn đi kèm với những từ như "Lãnh tụ của chúng ta, Đồng chí Napoleon", lũ lợn còn cố gắng phát minh ra các tên mới như: Cha của các loài vật, Nỗi khiếp sợ của giống người, Người bảo vệ của loài cừu, Bạn của loài vịt v.v... Mỗi khi nói về trí tuệ, lòng nhân từ, tình yêu thương sâu như trời biển của Napoleon dành cho súc vật, đặc biệt là những con còn phải sống trong vòng nô lệ tối tăm của các trang trại khác là nước mắt Chỉ Điểm lại chảy ướt đẫm hai gò má. Mọi thành tích đều được qui về cho Napoleon. Có thể nghe thấy hai con gà mái tâm sự: "Dưới sự dẫn dắt của Đồng chí Napoleon, Lãnh tụ của chúng ta, tôi đã đẻ được năm quả trứng trong sáu ngày vừa rồi"; hay hai con bò vừa uống nước vừa nói: "Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của đồng chí Napoleon mà nước dạo này mới ngọt làm sao!". Tâm trạng chung của trại được thể hiện trong bài thơ mang tên: "Đồng chí Napoleon" do Kế Tục sáng tác: 
Đồng chí Napoleon! 
Người là cha của những đứa trẻ mồ côi, 
Là suối nguồn hạnh phúc muôn đời, 
Là vầng thái dương chiếu sáng bầu trời. 
Ánh mắt người ấm mãi lòng tôi. 
Đồng chí Napoleon! 
Người cho tôi bữa ăn lúc đói lòng. 
Người cho tôi nệm rơm ấm mùa đông. 
Người ngồi canh, 
Cho bầy con giấc ngủ yên lành. 
Con ơi! 
Hạnh phúc muôn đời, 
Là nhờ Đồng chí Napoleon. 
Tên cha tên mẹ tên chồng, 
Con có thể quên. 
Nhưng tên người, 
Vầng thái dương chiếu sáng đời đời 
Con phải nhớ mãi không thôi: 
Napoleon, Napoleon, người ơi!
Napoleon chấp nhận bài thơ và bảo viết lên bức tường nhà kho lớn, bên cạnh Bảy Điều Răn. Bên trên bài thơ là hình Napoleon nhìn nghiêng do Chỉ Điểm vẽ bằng sơn trắng. 
Trong khi đó, Napoleon, qua trung gian là Whymper, đang tiến hành những cuộc đàm phán rắc rối với Frederick và Pilkington. Vẫn chưa bán được đống gỗ. Frederick muốn mua lắm, nhưng lại trả giá quá thấp. Đồng thời lại có tin đồn rằng Frederick và lũ gia nhân đang âm mưu tấn công Trại Súc Vật để phá cối xay gió vì lão ghét cay ghét đắng ngôi nhà này. Nghe nói Tuyết Tròn vẫn đang trốn trong Trại Keo. Đến giữa mùa hè thì lũ súc vật lại được một phen hoảng loạn khi nghe đồn có ba con gà tự thú đã bị Tuyết Tròn xúi giục mưu sát Napoleon. Chúng bị hành quyết ngay lập tức và các biện pháp an ninh nghiêm ngặt hơn cho Napoleon đã được thực hiện. Từ nay trở đi, ban đêm sẽ có bốn con chó, mỗi con canh một góc giường, đồng thời để tránh bị đầu độc, một con chó tên là Pinkeye được phân công nếm tất cả thức ăn trước khi Napoleon dùng. 
Cũng khoảng thời gian đó có tin Napoleon đã quyết định bán gỗ cho Pilkington; hơn thế, nó còn dự định sẽ thiết lập việc trao đổi sản phẩm thường xuyên giữa Trại Súc Vật và Trại Cáo nữa. Quan hệ giữa Napoleon và Pilkington, dù chỉ mới qua trung gian là Whymper, đã trở nên khá thân tình. Pilkington, cũng như mọi người nói chung, chẳng bao giờ được lũ súc vật tin, nhưng dù sao thì chúng cũng thích hơn Frederick là người chúng vừa ghét vừa sợ. Càng đến cuối mùa hè, khi mà cối xay gió đã sắp xong, thì tin đồn về cuộc tấn công phản trắc càng tăng. Có người nói rằng Frederick dự định dùng đội quân gồm hai mươi người đầy đủ súng ống để tấn công và đã mua chuộc chính quyền cũng như cảnh sát để được tự do hành sự. Ngoài ra, tin tức về những việc làm thất đức của hắn đối với các con vật trong Trại Keo cũng được tiết lộ. Hắn đánh đến chết một con ngựa già, hắn bỏ đói bầy bò, hắn ném một con chó vào bếp lò, chiều nào hắn cũng kích động cho bọn gà trống đá nhau, mà không đá nhau suông, hắn còn buộc dao cạo râu vào cựa gà để tìm cảm giác mạnh nữa. Khi nghe nói các đồng chí của mình bị đối xử một cách man rợ như vậy thì máu con nào cũng sôi lên vì giận, đôi khi chúng thét lên đòi kéo nhau đi tấn công Trại Keo, đuổi cổ giống người đi, giành lại tự do cho lũ súc vật ở đó. Nhưng Chỉ Điểm khuyên chúng tránh hành động một cách nóng vội và hãy tin tưởng vào đường lối chiến lược của Đồng chí Napoleon. 
Lòng căm thù đối với Frederick tăng lên từng ngày. Một hôm, vào ngày chủ nhật, Napoleon xuất hiện trong nhà kho để giải thích cho lũ súc vật là nó chưa bao giờ nghĩ sẽ bán gỗ cho Frederick, nó bảo những loại như vậy không xứng đáng để nó giao tiếp. Những con bồ câu vẫn được phái đi kêu gọi súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa bị cấm không được lai vãng đến gần Trại Cáo, khẩu hiệu: "Đả đảo loài người!" được thay bằng: "Đả đảo Frederick!". Đến cuối mùa hè thì một tội ác nữa của Tuyết Tròn được phát hiện. Lần này là cánh đồng lúa mì mọc đầy cỏ dại - sau khi điều tra mới phát hiện ra rằng ban đêm Tuyết Tròn đã lẻn vào trại rồi trộn hạt cỏ vào thóc giống. Một con ngỗng đực đồng phạm trong vụ này đã thú nhận tội lỗi với Chỉ Điểm và sau đó nuốt ngay một quả cà độc dược tự sát. Lũ súc vật còn được thông báo rằng, không phải như nhiều con vẫn tin, Tuyết Tròn chưa bao giờ được phong danh hiệu Súc vật Anh hùng bậc I. Chuyện ấy là do chính Tuyết Tròn bịa ra ngay sau chiến dịch Chuồng bò. Nó không những không được khen thưởng mà con bị phê phán nặng nề vì đã tỏ ra hèn nhát khi lâm trận. Cũng như mọi khi, tin này làm một số con bối rối, nhưng Chỉ Điểm đã nhanh chóng thuyết phục được chúng rằng thực ra là do chúng mau quên mà thôi. 
Cối xay gió được xây dựng xong vào mùa thu, đúng vào lúc thu hoạch vụ mùa, chúng đã phải làm việc đến kiệt sức. Dù còn phải lắp thiết bị nữa, Whymper đang đàm phán để mua, nhưng cái chính là đã xây xong nhà xưởng rồi. Biết bao nhiêu khó khăn, chưa có kĩ thuật và kinh nghiệm, lại còn bị Tuyết Tròn phá hoại, thế mà chúng vẫn hoàn thành công tác xây dựng đúng ngày giờ đã định! Dù rất mệt mỏi, lũ súc vật vẫn cố đi nhiều vòng quanh cối xay gió, lòng đầy tự hào, lúc này trông nó còn đẹp hơn lần xây đầu tiên. Đấy là chưa nói tường lần này dày gấp đôi lần trước. Bây giờ muốn phá mà không có thuốc nổ không xong! Và khi chúng nghĩ đến khối lượng công việc đã làm, những khó khăn đã vượt qua, những đổi thay sẽ tới khi cách quạt cối xay gió bắt đầu quay, khi máy phát điện bắt đầu chạy; khi chúng nghĩ đến những chuyện đó thì bao nhiêu mệt mỏi đều tan biến, chúng cùng nhau chạy vòng quanh cối xay gió, vừa chạy vừa reo hò ầm ĩ. Chính Napoleon, được mấy con chó và con gà trống hộ tống, cũng tới xem, nó chúc mừng cả lũ nhân dịp hoàn thành công trình và tuyên bố sẽ đặt tên công trình là Nhà máy Napoleon. 
Hai ngày sau, lũ súc vật được mời tới dự một phiên họp đặc biệt trong nhà kho. Chúng không thể nào tin được khi nghe Napoleon nói đã bán gỗ cho Frederick. Ngày mai xe của Frederick sẽ tới chở. Hoá ra thời gian qua Napoleon giả vờ thân thiện với Pilkington nhưng lại bí mật đàm phán với Frederick. 
Mọi quan hệ với Trại Cáo đều bị cắt, một công hàm chứa đầy các từ ngữ có tính xúc phạm được gửi cho Pilkington. Đám bồ câu được lệnh tránh Trại Keo và thay khẩu hiệu "Đả đảo Frederick" thành "Đả đảo Pilkington". Đồng thời Napoleon cũng cam đoan với lũ súc vật rằng lời đồn về vụ tấn công Trại Súc Vật là hoàn toàn vô căn cứ, cũng như việc Frederick đối xử tàn tệ với gia súc đã bị thổi phồng quá đáng. Chắc là Tuyết Tròn và tay sai đã tung ra các tin này. Hoá ra là Tuyết Tròn không những không trốn trong Trại Keo mà còn chưa bao giờ đến đấy nữa, thực ra là nó đang sống, theo người ta nói, thì khá sung túc trong Trại Cáo: nó đã bán mình cho Pilkington từ lâu. 
Lũ lợn được dịp đưa Napoleon lên chín tầng mây. Giả vờ thân thiện với Pilkington, nó đã buộc Frederick phải trả thêm hai mươi bảng. Chỉ Điểm còn nói rằng Napoleon là một con heo siêu quần vì nó không bao giờ tin ai, không tin bất cứ con nào, không tin cả Frederick. Frederick muốn thanh toán bằng sec, nghĩa là bằng một tờ giấy có ghi rõ số tiền có thể nhận khi cần. Nhưng Napoleon tỏ ra khôn hơn hắn ta nhiều. Nó đòi thanh toán bằng tiền mặt, loại năm bảng, mà phải trả đủ tiền thì mới được mang gỗ đi. Frederick đã thanh toán hết, số tiền này đủ mua toàn bộ thiết bị cho cối xay gió. 
Gỗ được chuyển đi khá nhanh. Khi số gỗ trong sân đã được đưa đi hết thì lũ súc vật lại được mời tham gia một cuộc họp đặc biệt để cùng kiểm tra số tiền do Frederick giao. Napoleon, ngực đeo hai tấm huy chương, miệng cười rất tươi, nằm ngả người trên nệm rơm, bên cạnh là cái đĩa sứ chất đầy những tập tiền mới cứng. Lũ súc vật lần lượt đi ngang qua, tha hồ ngắm nghía. Chiến Sĩ còn đưa mũi hít, những tờ giấy mới khẽ rung lên và phát ra tiếng kêu loạt xoạt. 
Ba ngày sau thì xảy ra một vụ náo loạn. Hôm đó, Whymper, mặt trắng bệch như người sắp chết, phóng xe đạp như điên vào sân trại, vừa tới nơi đã quẳng xe xuống đất rồi vội vàng lao vào toà nhà chính. Gần như ngay lập tức người ta nghe thấy tiếng thét kinh hoàng phát ra từ phòng Napoleon. Tin tức truyền khắp trại nhanh như lửa chớp. Tiền do Frederick thanh toán là giả hết! Hắn đã ăn không số gỗ rồi! 
Napoleon lập tức hạ lệnh tập trung và tuyên bố kết án tử hình Frederick. Thằng ấy đáng bị thiêu sống - nó bảo như vậy. Đồng thời nó cũng nói phải chuẩn bị tinh thần để đối phó với những tình huống xấu nhất. Frederick và gia nhân của hắn có thể tấn công bất cứ lúc nào. Phải cử lính canh trên mọi ngả đường dẫn vào trại. Ngoài ra, nó còn cử bốn con bồ câu mang theo thông điệp hữu hảo sang Trại Cáo để mong bình thường hóa quan hệ. 
Ngay sáng hôm sau Frederick đã tổ chức tấn công. Lũ súc vật đang chuẩn bị ăn sáng thì con canh gác chạy vào báo rằng Frederick cùng gia nhân đã vượt qua cổng chính của trại. Không lưỡng lự, lũ súc vật lập tức xông lên, nhưng lần này chúng phải chiến đấu vất vả hơn chiến dịch Chuồng bò nhiều. Cả thảy có mười lăm người với khoảng nửa tá súng, ngay từ xa hơn một trăm mét họ đã nổ súng rồi. Tiếng súng vang lên đinh tai nhức óc, đạn ghém vãi như trấu, lũ súc vật không ngờ cuộc chiến lại dữ dội đến như thế nên mặc dù Napoleon và Chiến Sĩ ra sức động viện, chúng vẫn lùi dần. Một số con đã bị thương. Chúng chạy vào nấp trong các toà nhà rồi ghé mắt nhìn qua các lỗ thủng trên tường. Toàn bộ bãi chăn thả lớn, kể cả cối xay gió đã lọt vào tay địch quân. Ngay cả Napoleon cũng tỏ ra bối rối. Nó yên lặng đi đi lại lại, cái đuôi xoắn cứ đập hết bên này sang bên kia. Thỉnh thoảng nó lại nhìn về hướng Trại Cáo. Nếu Pilkington mang quân tiếp viện tới thì may ra mới có thể đánh đuổi được địch quân. Nhưng đúng lúc đó thì bốn con bồ câu được phái đi trước đó một ngày đã quay về. Một con ngậm miếng giấy trên ghi hai chữ "Đáng kiếp". 
Trong khi đó, Frederick và gia nhân đã tiến gần đến cối xay gió. Lũ súc vật chăm chú theo dõi, tiếng thì thầm lo lắng bắt đầu nổi lên. Có hai người mang búa và xà beng tới. Chắc là họ định phá cối xay gió. 
"Không xong đâu!", Napoleon gào lên, "Tường cối xay gió dày lắm, chúng không làm gì được đâu. Phải mất cả tuần là ít. Cứ bình tĩnh, các đồng chí!" 
Nhưng Benjamin vẫn không rời mắt khỏi mọi động tĩnh. Hai người đang dùng búa và xà beng đào một cái hố ngay dưới chân tường cối xay gió. Benjamin gật gù cái mõm dài ngoằng, có vẻ như nó còn cảm thấy thú vị nữa. 
"Tôi vẫn nghĩ như thế", nó bảo, "các vị có biết chúng đang làm gì không? Chúng sẽ cho thuốc nổ vào hố đấy." 
Lũ súc vật sợ hãi chờ đợi. Không con nào dám liều mạng xông ra. Rồi chúng thấy bọn người chạy tản ra tứ phía. Một tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên. Lũ bồ câu bay vọt lên, còn các con khác, trừ Napoleon thì vội nằm bẹp xuống, mặt dúi xuống đất. Khi ngẩng đầu lên thì chúng thấy một đám khói đen còn trùm lên khu vực cối xay gió. Khói tan dần. Cối xay gió đã bị đánh sập hoàn toàn! 
Cảnh tượng làm lũ súc vật lập tức tỉnh ngộ. Hành động tàn bạo, bất lương đó làm cho chúng vô cùng tức giận. Không cần mệnh lệnh, chúng đồng loạt lao lên, xông thẳng vào địch quân, miệng gầm lên những tiếng thét căm hận đòi trả thù. Đạn ghém vãi như mưa trên lưng cũng không làm chúng nao núng. Chúng sẵn sàng hi sinh tất cả. Frederick và gia nhân bắn liên hồi kì trận và khi lũ súc vật đến gần thì dùng gậy đánh, chân đá. Một con bò, ba con cừu, hai con ngỗng bị giết, hầu như con nào cũng bị thương. Napoleon, đứng đằng sau chỉ huy cũng bị đạn bắn vào đuôi. Nhưng một số gia nhân của Frederick cũng bị sứt đầu mẻ trán. Ba người bị Chiến Sĩ đạp vỡ đầu, một người bị bò húc thủng bụng, một người nữa bị chó cắn rách quần. Khi chín con chó thuộc đội cận vệ của Napoleon được lệnh bọc sườn và vừa sủa vừa lao vào tấn công thì lũ người hoảng loạn. Họ hiểu rằng sắp bị bao vây. Frederick hạ lệnh rút lui, thế là địch quân hốt hoảng bỏ chạy. Lũ súc vật đuổi theo đến tận sát biên giới và tiếp tục húc vào mông người khi họ chui qua lỗ hàng rào ngăn cách hai trại. 
Chúng đã thắng, nhưng chúng cũng đã kiệt sức vì mệt và bị thương. Chúng từ từ quay trở về trang trại. Cảnh hi sinh của đồng đội làm chúng cảm động đến trào nước mắt. Chúng đứng lặng bên cạnh đống xà bần của cối xay gió. Cối xay gió không còn, bao nhiêu công sức đã bị xoá sạch! Ngay cả móng cũng bị phá hỏng gần hết. Lần trước, khi xây lại, chúng còn có thể sử dụng những viên đá cũ. Bây giờ thì đá cũng không còn. Vụ nổ đã làm đá bắn vung vãi khắp nơi, xa đến cả trăm mét. 
Khi chúng về gần đến trang trại thì Chỉ Điểm, không con nào nhìn thấy nó khi lâm trận, bỗng ở đâu tiến lại, đuôi vẫy nhặng lên có vẻ rất hài lòng. Lũ súc vật nghe thấy tiếng súng. 
"Sao lại bắn súng thế nhỉ?", Chiến Sĩ hỏi 
"Để chào mừng chiến thắng", Chỉ Điểm gào lên. 
"Chiến thắng nào?", Chiến Sĩ lại nói. Các đầu gối của nó đều bị rách, móng sắt thì bị tuột, bàn chân cũng bị thương, hai chân sau còn dính hàng chục mảnh đạn. 
"Sao lại chiến thắng nào, thưa các đồng chí? Không phải là chúng ta vừa giải phóng đất đai, đất đai thiêng liêng của Trại Súc Vật của chúng ta đấy ư?" 
"Nhưng chúng đã đánh sập cối xay gió, hai năm xây dựng chứ có ít đâu!" 
"Thế thì đã sao? Chúng ta sẽ xây cái khác. Nếu muốn chúng ta có thể xây sáu cái một lúc. Có thể đồng chí chưa đánh giá hết chiến công vĩ đại vừa rồi của chúng ta. Kẻ thù đã chiếm được chính mảnh đất mà chúng ta đang đứng đây. Bây giờ, nhờ sự lãnh đạo của đồng chí Napoleon, chúng ta đã giành lại được từng tấc đất của chúng ta." 
"Chúng ta giành lại chính đất của mình", Chiến Sĩ nói. 
"Đấy chính là chiến thắng chứ còn gì nữa", Chỉ Điểm bảo. 
Cuối cùng chúng cũng lê được về đến sân trại. Những mảnh đạn còn nằm trong chân Chiến Sĩ nhức nhối không thể chịu nổi. Nó đã mường tượng được những nỗi cực nhọc, vất vả của quá trình xây dựng lại từ đầu cối xay gió và trong thâm tâm đã sẵn sàng lao vào công việc. Nhưng đây cũng là lần đầu tiên nó ý thức được rằng nó đã mười một tuổi rồi, sức vóc không còn được như mọi năm nữa. 
Nhưng khi nhìn thấy lá cờ xanh đang tung bay, nghe thấy loạt súng chào mừng, hôm đó bắn những bảy loạt và nhất là sau khi nghe Napoleon cám ơn vì đã dũng cảm chiến đấu thì chúng thực sự cảm thấy vừa giành được một chiến thắng vĩ đại. Những con hi sinh được chôn cất chu đáo. Đoàn đưa tang do chính Napoleon dẫn đầu, phía sau là một chiếc xe song mã được dùng làm xe tang do Chiến Sĩ và Bà Mập kéo. Chúng nghỉ việc hai ngày liền để mừng chiến thắng. Chúng tổ chức hát, đọc diễn văn chào mừng và bắn súng; mỗi con gia súc được phát một quả táo, mỗi con gia cầm được sáu mươi gram thóc, mỗi con chó được ba cái bánh xốp. Sau đó có thông báo rằng trận đánh này được gọi là chiến dịch Cối xay gió, Napoleon quyết định thiết lập một danh hiệu mới gọi là "Huân chương cờ xanh" và gắn cho chính mình. Trong niềm vui chung dạt dào đó, không con nào còn nghĩ đến vụ tiền giả vừa rồi nữa. 
Sau đó mấy ngày thì lũ lợn phát hiện được một thùng whisky trong tầng hầm của ngôi nhà chính. Chiều hôm đó những con khác bỗng nghe thấy tiếng hát vọng ra từ ngôi nhà chính và điều làm chúng ngạc nhiên hơn nữa là có cả những đoạn của bài "Súc Sinh Anh Quốc". Rồi vào khoảng chín giờ rưỡi, lúc đó trời vẫn còn sáng, chúng thấy Napoleon chui ra khỏi cửa sau, đầu đội chiếc mũ phớt cũ của ông Jones, nó chạy nước kiệu quanh sân một vòng rồi đi vào. Sáng hôm sau một không khí im lặng bao trùm cả toà nhà chính. Không thấy một con lợn nào hay bất cứ động tĩnh gì xung quanh toà nhà. Mãi đến khoảng chín giờ Chỉ Điểm mới xuất hiện, mắt cu cậu trông đờ dẫn, đuôi buông thõng, chân bước uể oải, rõ là đang mệt nặng. Nó gọi tất cả lại và nói có một tin quan trọng cần phải thông báo. Đồng chí Napoleon đang hấp hối! 
Tiếng gào khóc dậy lên. Chúng vội mang rơm đến trải xuống trước cửa ngôi nhà chính, không con nào dám bước mạnh. Nước mắt lưng tròng, chúng thì thầm hỏi nhau sẽ làm gì nếu như chẳng may lãnh tụ có mệnh hệ nào. Có tin đồn Tuyết Tròn đã đầu độc Napoleon. Mười một giờ Chỉ Điểm lại xuất hiện. Chỉ Điểm bảo rằng trước khi từ gĩa cõi đời, đồng chi Napoleon đã kí một nghị định, từ nay con nào uống rượu thì sẽ bị kết án tử hình. 
Đến chiều có tin Napoleon đã đỡ và sáng hôm sau thì Chỉ Điểm thông báo rằng lãnh tụ đang bình phục. Chiều hôm đó Napoleon đã ngồi dậy làm việc và sáng hôm sau thì có tin là nó đã hạ lệnh cho Whymper mua ở Willingdon mấy cuốn sách dạy cất rượu bia. Một tuần sau Napoleon ra lệnh cày đám đất trước đây định dành làm bãi cỏ cho những con về hưu. Lũ súc vật được nghe giải thích rằng miếng đất ấy cằn cỗi quá, phải trồng cấy một thời gian để lấy màu, nhưng sau này mới rõ là Napoleon định trồng lúa mạch ở đó. 
Cũng khoảng thời gian này đã xảy ra một sự kiện mà hầu như không con nào hiểu. Hôm ấy, đã gần nửa đêm, bỗng có tiếng động lớn vang lên ở ngoài sân, tất cả đều lao ra khỏi chuồng. Trăng hôm đó rất tỏ, cả bọn nhìn thấy gần đầu hồi nhà kho lớn, nơi có chép "Bảy Điều Răn", một cái thang gãy làm đôi. Gần đấy là Chỉ Điểm, lúc đó đã bất tỉnh nhân sự, cái đèn bão cùng một hộp sơn màu trắng lăn lóc bên cạnh. Mấy con chó lập tức đứng thành vòng tròn xung quanh Chỉ Điểm và dìu nó về nhà chính khi nó vừa gượng dậy được. Có vẻ như ngoài Benjamin ra thì không con nào hiểu đã xảy ra chuyện gì, nhưng nó chỉ lắc đầu, không nói câu nào. 
Mấy ngày sau, Muriel, trong khi đọc lại Bảy Điều Răn đã phát hiện ra chúng còn nhớ sai một điều nữa. Chúng tưởng rằng Điều răn thứ năm là "Không con vật nào được uống rượu", nhưng chúng đã quên mất ba từ. Thực ra Điều Răn đó như sau: "Không con vật nào được uống rượu đến say xỉn" 
Chương IX 
Cái móng bị thương của Chiến Sĩ chữa mãi vẫn không khỏi. Trong khi đó lũ súc vật tiến hành khôi phục cối xay gió ngay sau lễ mừng chiến thắng. Chiến Sĩ không nghỉ ngày nào, nó rất tự hào là đã không để cho những con khác thấy nó đang bị đau. Chỉ đến tối nó mới bảo với Bà Mập là bị vết thương hành hạ. Bà Mập phải nhai lá cây và đắp vào vết thương cho Chiến Sĩ. Nó cùng với Benjamin thuyết phục Chiến Sĩ hãy tự bảo trọng. 
"Phổi loài ngựa không được khoẻ đâu", Nó nói. 
Nhưng Chiến Sĩ không nghe. Nó bảo chỉ có một ước nguyện duy nhất là được trông thấy cối xay gió hoàn thành trước khi nghỉ hưu mà thôi. 
Ngay từ khi mới thiết lập luật lệ của Trại Súc Vật, đã có qui định tuổi nghỉ hưu của ngựa và lợn là mười hai, của bò là mười bốn, của chó là chín, của cừu là bảy, còn của gà là năm. Chúng cũng đã thống nhất là sẽ không để cho những con về hưu phải thiếu thốn bất cứ thứ gì. Thực ra thì cho đến nay cũng chưa có con nào nghỉ hưu cả, nhưng thời gian gần đây vấn đề này rất hay được đem ra bàn thảo. Bây giờ, khi miếng đất cạnh khu vườn được đem đi trồng lúa mạch rồi thì lại có tin là một góc bãi cỏ dài sẽ được rào riêng ra cho những con già cả. Cũng có tin nói rằng ngựa hưu sẽ được lĩnh hai cân ngũ cốc mỗi ngày, đấy là mùa hè, còn mùa đông thì được bảy cân cỏ khô, ngày lễ thì còn được phát thêm một củ cà rốt hay một quả táo nữa. Sang năm Chiến Sĩ sẽ tròn mười hai tuổi. 
Hiện nay đời sống của chúng phải nói là khá chật vật. Mùa đông năm nay lạnh không khác gì năm trước mà thực phẩm thì khan hiếm hơn. Khẩu phần, trừ của chó và lợn, đều bị cắt bớt. Tuyệt đối bình quân, Chỉ Điểm giải thích, là trái với nguyên tắc của Súc Sinh Kinh. Nó dễ dàng chứng minh cho những con khác thấy rằng thực ra là chúng có đủ lương thực, khan hiếm thực phẩm chỉ là giả tạo. Dĩ nhiên là lúc này cần phải có một sự điều chỉnh nhất định (Chỉ Điểm nói là "điều chỉnh" chứ không phải "cắt bớt") nhưng nếu so với thời còn lão Jones thì sự cải thiện là rõ ràng. Bằng một giọng đọc nhanh và the thé chói tai, nó đưa ra những con số rất cụ thể, chứng minh rằng chúng thu được nhiều yến mạch, nhiều cỏ khô, nhiều củ cải hơn thời còn lão Jones, công việc lại nhẹ nhàng hơn, nước uống có chất lượng cao hơn, chúng sống lâu hơn, tỉ lệ trẻ sơ sinh sống sót cao hơn, chúng có nhiều rơm làm nệm hơn, ít chấy rận hơn. Mọi con đều tin như thế. Thực ra mà nói thì chúng cũng đã quên gần hết những chuyện thời ông Jones rồi. Chúng chỉ biết rằng cuộc sống hiện nay rất khó khăn, vất vả, chúng thường bị đói, bị rét và hễ mở mắt ra là chúng phải làm. Trước đây chắc là còn khó khăn nữa. Chúng vui lòng tin như thế. Ngoài ra, quan trọng hơn nữa là trước đây chúng là nô lệ, bây giờ chúng được tự do, Chỉ Điểm luôn nhấn mạnh như vậy. 
Nhân khẩu ngày một tăng. Mùa thu vừa rồi có bốn chị lợn nằm ổ cùng một lúc, chúng sinh được những ba mươi mốt con cả thảy. Tất cả đều là lợn khoang, cả trại chỉ có một mình Napoleon là lợn giống nên có thể đoán ngay được chúng là con ai. Toàn trại được thông báo rằng hiện đang tiến hành mua gạch và gỗ, khi nào mua được thì sẽ xây lớp học. Còn hiện thời thì lũ lợn con sẽ được giao cho Napoleon dạy dỗ trong khu nhà bếp. Lũ lợn con được đưa ra vườn chơi nhưng bị cấm tiếp xúc với bọn thú con khác loài. Một điều luật mới cũng được đưa ra trong khoảng thời gian này, ấy là khi gặp nhau thì tất cả phải đứng sang bên, nhường đường cho lợn đi trước; đồng thời, giống lợn, không phân biệt chức vụ được đeo băng xanh ở đuôi vào các ngày chủ nhật. 
Năm nay là một năm khá thành công, nhưng tiền thì vẫn thiếu. Còn phải mua gạch, vôi và cát để xây trường học; lại còn phải tiết kiệm để mua máy móc cho cối xay gió nữa. Rồi phải mua dầu thắp, nến và đường cho riêng Napoleon (nó cấm những con lợn khác ăn đường vì sợ chúng sẽ bị tăng trọng) và bao nhiêu thứ khác như dụng cụ, đinh, dây thừng, than, dây thép, tấm lợp và bánh bích qui cho chó nữa. Phải bán một phần cỏ khô và khoai tây, hợp đồng bán trứng gà đã tăng lên đến sáu trăm quả mỗi tuần, thành thử số gà gần như không tăng, nếu không nói là giảm vì số trứng chúng để lại ấp quá ít. Tháng mười hai đã giảm khẩu phần một lần, tháng hai lại bị giảm một lần nữa và để tiết kiệm, từ nay ban đêm không được thắp đèn trong chuồng nữa. Nhưng lũ lợn có vẻ như vẫn sống khoẻ, chí ít con nào cũng lên cân. Một lần, vào buổi chiều tháng hai, trong khu sân trại bỗng có một mùi thơm nồng, lũ súc vật chưa từng ngửi thấy mùi này bao giờ. Hoá ra mùi ấy xuất phát từ cái nhà nằm ở sau bếp, thời còn lão Jones vẫn dùng để nấu bia, nhưng lâu nay bỏ không. Có con nào đó nói rằng đấy là mùi lúa mạch nấu. Lũ súc vật hít hà mãi cái mùi thơm nồng, cay cay đó và cố đoán xem tối nay chúng có được ăn "hèm" không. Nhưng tối hôm đó không có "hèm", đến chủ nhật chúng lại được thông báo rằng từ nay lúa mạch sẽ để dành riêng cho lũ lợn. Miếng đất cạnh khu vườn đã được gieo lúa mạch rồi. Sau đó lại có tin nói rằng từ nay mỗi con lợn sẽ được nửa lít bia một ngày, riêng Napoleon thì được uống hai lít, mà phải uống bằng cốc pha lê. 
Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng cuộc đời vẫn đáng sống hơn xưa rất nhiều. Chưa bao giờ chúng được hát, được nghe nói chuyện, được đi mít tinh, biểu tình nhiều như bây giờ. Napoleon ra lệnh mỗi tuần phải có một cuộc Diễu Hành mà nó gọi là Tự Phát, mục đích là để ngợi ca cuộc đấu tranh và những thành quả của Trại Súc Vật. Đúng giờ qui định tất cả sẽ rời bỏ ngay công việc, xếp thành đội ngũ, lần lượt là lũ lợn rồi đến ngựa, bò, cừu và cuối cùng là gà, vịt và đi đều bước xung quanh trang trại. Con gà trống màu đen của Napoleon luôn luôn đi đầu, còn hai bên đoàn diễu hành là lũ chó. Chiến Sĩ và Bà Mập mang lá cờ màu xanh giữa có hình sừng và móng và khẩu hiệu "Đồng chí Napoleon muôn năm". Các buổi mít tinh bao giờ cũng kết thúc với màn trình bày bài thơ ngợi ca Napoleon và báo cáo của Chỉ Điểm về những thành tích trong việc tăng gia sản xuất thời gian vừa qua; những dịp lễ lạt thường có bắn các loạt súng chào mừng nữa. Lũ cừu đặc biệt khoái đi diễu hành, nếu có con nào phàn nàn (nhất là khi vắng bọn chó và lợn) là diễu hành chỉ tổ rét và mất thời gian thì chúng lập tức tụng bài cầu nguyện muôn thuở: "Bốn chân tốt, hai chân xấu", mà chúng tụng to đến nỗi át được tất cả những lời phàn nàn, hậm hực. Nhưng nói chung là đa số thích những buổi lễ lạt kiểu ấy. Chúng thấy được an ủi phần nào vì những buổi tụ tập như vậy nhắc nhở chúng rằng chúng thực sự là chủ nhân của trang trại và mọi việc chúng làm đều là vì chúng mà thôi. Những bài hát, những cuộc diễu hành, số liệu của Chỉ Điểm, tiếng súng chào mừng, tiếng gáy của con gà trống và ngọn cờ tung bay trước gió đã giúp quên đi, dù chỉ trong phút chốc cái đói cồn cào đang hành hạ chúng. 
Tháng tư, Trại Súc Vật tự tuyên bố là Nước Cộng Hòa, cần phải bầu Tổng Thống. Chỉ có một ứng cử viên duy nhất. Napoleon trúng cử một trăm phần trăm. Ngay hôm đó lại có tin đã tìm thấy những tài liệu mới chứng tỏ Tuyết Tròn đã cộng tác với lão Jones ngay từ đầu. Hoá ra là Tuyết Tròn không chỉ sử dụng chiến thuật khôn khéo nhằm làm thất bại Chiến Dịch Chuồng Bò, như chúng đã thấy trước đây, mà còn đứng hẳn về phía lão Jones nữa. Chính Tuyết Tròn đã dẫn đầu đoàn người xâm nhập, miệng hô lớn: "Loài người muôn năm!". Còn những vết thương trên lưng nó, vẫn có mấy con còn sống trông thấy những vết thương ấy và nhớ rõ rằng đấy chính là vết răng của Napoleon. 
Sau nhiều năm vắng bóng, giữa mùa hè vừa rồi con Moses bỗng lại xuất hiện. Nó hầu như không thay đổi, vẫn chẳng chịu làm gì và suốt ngày kể chuyện hão huyền về Núi Xôi. Nó thường đậu trên cành cây, vẫy vẫy đôi cánh đen và nói hàng giờ liền, miễn là có con nào đó chịu nghe. 
"Ở trên kia, thưa các đồng chí", Nó vừa nói vừa lấy mỏ chỉ lên trời, "phía trên những đám mây màu đen kia là Núi Xôi, là nơi các loài vật khốn khổ chúng ta sẽ được yên nghỉ đời đời." 
Nó còn nói rằng nó đã từng bay tới đó một lần rồi, đã từng trông thấy những cánh đồng cỏ ba lá xanh tốt quanh năm, trông thấy những khu vườn mọc đầy bánh nhân hạt lanh cũng như đường cục. Thế mà có nhiều con tin. Chúng nghĩ rằng chúng đang bị đói, khổ, vất vả; thế thì việc có một thế giới an lành hơn ở đâu đó cũng là lẽ công bằng mà thôi. Nhưng điều chúng không thể hiểu được chính là thái độ của bọn lợn đối với Moses. Lũ lợn miệt thị rằng Núi Xôi chỉ là chuyện bịa, nhưng Moses không những không bị đuổi đi mà còn được cấp một vại bia mỗi ngày. 
Cuối cùng thì móng của Chiến Sĩ cũng khỏi, nó lao vào công việc hăng hơn lúc nào hết. Những con khác cũng phải làm không khác gì tù khổ sai. Ngoài công việc thường kì của trại và khôi phục cối xay gió thì còn việc xây trường cho lũ lợn con nữa. Trường học được khởi công vào tháng ba. Đôi khi tưởng chừng như không thể nào chịu nổi thời gian và cường độ lao động ấy với một cái dạ dày lép kẹp, nhưng Chiến Sĩ không hề ngã lòng. Không có một dấu hiệu gì, kể cả trong lời nói cũng như việc làm chứng tỏ sức lực của nó không còn được như xưa nữa. Tuy thế, tướng mạo của nó có thay đổi chút ít, da nó không còn được nhuận như trước, hông nó trông cũng nhỏ đi. Mọi con đều nói: "Có cỏ non là Chiến Sĩ sẽ bình phục ngay ấy mà", nhưng mùa xuân đã về, cỏ non đã lên xanh mà Chiến Sĩ chẳng hề mập thêm chút nào. Những khi trông nó gồng mình kéo đá lên khỏi bờ dốc, có cảm tưởng như sức nó đã kiệt, phải là một ý chí sắt đá lắm mới đứng vững được như thế. Nhìn vào đôi môi, người tinh có thể thấy rằng nó đang định nói: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa", nhưng không thể thốt lên lời. Bà Mập và Benjamin lại nhắc nó giữ gìn sức khoẻ, nhưng nó vẫn bỏ ngoài tai. Ngày sinh nhật lần thứ mười hai đang đến gần. Nó chỉ quan tâm đến một việc duy nhất sau đây: làm sao gom được thật nhiều đá trước khi nghỉ hưu, còn sau đó muốn ra sao thì ra. 
Một hôm, lúc ấy đã khá khuya, bỗng có tin Chiến Sĩ gặp nạn. Hoá ra là nó đi kéo xe đá một mình. Không phải là tin đồn nữa, sự thật là thế, mấy phút sau có hai con bồ câu bay về. 
"Chiến Sĩ bị ngã! Nó ngã nằm nghiêng, không dậy được nữa rồi!", hai con bồ câu thông báo. 
Gần một nửa số súc vật trong trang trại lao về phía gò đất. Chiến Sỹ nằm đó, giữa hai càng xe, cổ vươn ra, nhưng yếu quá, không thể nhấc đầu lên được. Lưng nó đẫm mồ hôi, hai mắt trông dại hẳn đi. Một dòng máu nhỏ đang rỉ ra khỏi miệng. Bà Mập quì xuống bên cạnh. 
"Chiến Sĩ!", nó hỏi, "Anh sao vậy?" 
"Không thở được nữa rồi", Chiến Sỹ thều thào nói, "Nhưng không sao. Tôi nghĩ các bạn sẽ dựng lại được cối xay gió. Có nhiều đá lắm rồi. Dù sao cũng chỉ một tháng nữa là tôi sẽ nghỉ hưu thôi. Nói thật, tôi mong được nghỉ hưu lắm. Benjamin cũng già rồi, nếu nó cũng được nghỉ hưu cùng lúc với tôi để cho có bạn thì tốt biết bao." 
"Đi báo cho Chỉ Điểm ngay", Bà Mập nói. 
Tất cả lập tức chạy về khu nhà chính để tìm Chỉ Điểm. Chỉ có Bà Mập và Benjamin ở lại. Benjamin yên lặng nằm xuống bên cạnh Chiến Sĩ và dùng đuôi đuổi ruồi cho nó. Khoảng mười lăm phút sau thì Chỉ Điểm tới, mặt lộ đầy vẻ thương cảm và sốt sắng. Nó nói rằng đồng chí Napoleon rất buồn khi biết tin tai nạn đã xảy ra với một trong những người lao động trung thành nhất của trang trại và đang sắp xếp để đưa Chiến Sĩ đến chữa tại bệnh viện ở Willingdon. Nhưng lũ súc vật lại cảm thấy có cái gì đó không yên tâm vì từ trước tới nay ngoài Mollie và Tuyết Tròn ra thì chưa có con nào đi khỏi trang trại, vả lại chúng cũng không thích giao một đồng chí bệnh hoạn vào tay con người. Nhưng Chỉ Điểm dễ dàng thuyết phục được chúng rằng các bác sĩ thú y ở Willingdon sẽ chữa cho Chiến Sĩ tốt hơn là cứ để nó nằm ở trại. Khoảng nửa tiếng sau thì Chiến Sĩ đứng dậy được, nó lết dần về chuồng. Bà Mập và Benjamin lấy rơm trải cho nó một cái ổ khá dày. 
Chiến Sĩ nằm trong chuồng hai ngày liền. Lũ lợn tìm được một chai thuốc màu hồng khá to ở trong tủ thuốc đặt tại phòng tắm và đem ra cho nó. Bà Mập bắt nó uống hai lần một ngày, ngay sau bữa ăn. Buổi tối Bà Mập vào chuồng của Chiến Sĩ để tâm sự, trong khi Benjamin thì đuổi ruồi cho nó. Chiến Sĩ nói rằng nó chẳng có gì phải phàn nàn. Nếu lần này hồi phục được thì nó có thể sống thêm khoảng ba năm nữa, nó mong được sống những ngày thanh thản còn lại trong góc cái bãi cỏ rộng dành cho những con về hưu. Nó sẽ dành trọn thời gian rảnh rỗi để học tập, nâng cao trình độ. Nó bảo nó sẽ dành toàn bộ quãng đời còn lại để học cho thuộc hai mươi hai chữ cái. 
Benjamin và Bà Mập chỉ có thể chăm sóc Chiến Sĩ sau giờ tan tầm, thế mà cái xe đến bắt nó lại xuất hiện vào lúc gần trưa. Mấy con lợn đang chỉ huy cả bọn gieo hạt cải ở ngoài đồng thì bỗng thấy Benjamin phi nước đại từ trang trại tới, miệng gào đến lạc cả giọng. Đây là lần đầu tiên chúng thấy Benjamin xúc động như vậy, cũng là lần đầu tiên chúng thấy nó phi nước đại. 
"Mau lên! Mau lên!", Nó gào lên, "Lại đây mau lên! Họ mang Chiến Sỹ đi rồi!" 
Cả bọn lập tức bỏ việc và cùng chạy về phía khu nhà chính, không đợi lũ lợn có cho phép hay không. Quả nhiên, trong sân có một cái xe song mã đóng kín cửa, bên sườn xe có ghi hàng chữ khá to, anh chàng đánh xe đội một cái mũ phớt trông rất láu cá. Chiến Sĩ không còn trong chuồng nữa. 
Lũ súc vật tập trung quanh chiếc xe. 
"Đi khoẻ nhá, Chiến Sĩ!", Chúng đồng thanh hô, "Tạm biệt!" 
"Ngu, ngu thế", Benjamin vừa gào thét, vừa chạy xung quanh, chân nện xuống đất ầm ầm, "Ngu, không nhìn thấy chữ gì à?" 
Cả bọn như tỉnh ngộ, yên lặng nhìn nhau. Con lừa Muriel bắt đầu đánh vần, nhưng Benjamin đã đẩy nó ra và đọc: 
"Lò mổ Alfred Simmond, Willingdon. Mua bán thịt, xương, da ngựa. Cung cấp cũi chó. Đã hiểu chưa? Chúng mang Chiến Sỹ đi làm thịt đấy!" 
Một tiếng thét kinh hoàng cùng phát ra từ mọi lồng ngực. Đúng lúc đó, anh chàng đánh xe ra roi và hai con ngựa kéo bắt đầu chạy nước kiệu. Cái xe từ từ đi ra khỏi sân. Cả lũ cùng chạy theo sau, vừa chạy vừa khóc như mưa như gió. Bà Mập lao lên. Cái xe cũng tăng tốc. Bà Mập cố phóng lên, nhưng sức nó không còn, làm sao theo nổi hai con kia. 
"Chiến Sĩ!", Nó gào lên, "Chiến Sĩ! Chiến Sĩ! Chiến Sĩ!" 
Không biết Chiến Sĩ có nghe thấy tiếng gọi từ bên ngoài hay không, nhưng cái mõm với một vệt màu trắng chạy dọc sống mũi của nó có lấp ló phía trong cái cửa sổ nhỏ ở đằng sau xe. 
"Chiến Sĩ!", Bà Mập gào đến lạc giọng, "Chạy đi! Chạy đi! Chạy mau lên! Chúng giết mày đấy!" 
Tất cả đồng thanh thét lên: 
"Chạy đi, Chiến Sĩ , Chạy đi!" 
Nhưng hai con ngựa đã tăng tốc, cái xe ngày một đi xa hơn. Không biết là Chiến Sĩ có nghe rõ Bà Mập nói gì hay không, nhưng không còn trông thấy mõm nó bên trong cửa sổ nữa, đồng thời người ta nghe thấy tiếng chân nó nện vào thành xe đều và vang không khác gì tiếng trống ngũ liên. Đấy là Chiến Sĩ đạp vào thành xe để tìm lối thoát. Trước đây thì chỉ vài cái đạp như thế cũng đủ làm cho chiếc xe này biến thành củi rồi. Nhưng lạy chúa tôi! Sức nó nay còn đâu và tiếng đạp cứ nhỏ dần, nhỏ dần rồi im hẳn. Không biết làm thế nào, lũ súc vật đành quay ra cầu cứu hai con ngựa kéo, xin chúng đừng chạy nữa. 
"Các đồng chí! Các đồng chí!", Chúng lại đồng thanh gào lên, "Các đồng chí có biết đang mang người anh em của mình đi đâu không?" 
Nhưng hai con vật ngu lâu, đầu óc tăm tối đó không hiểu, chúng chỉ khẽ vểnh tai lên và càng chạy nhanh thêm. Không còn thấy Chiến Sĩ thấp thoáng bên trong cái cửa sổ nhỏ nữa. Có con nghĩ đến việc chạy ra để đóng cánh cổng lớn lại, nhưng quá trễ mất rồi, chiếc xe đã ra đến đường lớn và đi xa dần. Từ đấy không ai còn trông thấy Chiến Sĩ nữa. 
Ba ngày sau có thông báo rằng Chiến Sĩ đã mất tại bệnh viện ở Willingdon, mặc dù đã được chăm sóc rất tận tình. Chính Chỉ Điểm thông báo như thế. Nó còn nói rằng nó đã ở cạnh Chiến Sĩ trong giờ phút lâm chung. 
"Thật vô cùng cảm động", Chỉ Điểm vừa nói vừa lau nước mắt, "Tôi ngồi bên Chiến Sĩ khi đồng chí ấy trút hơi thở cuối cùng. Trước khi chết đồng chí ấy đã yếu lắm, không nói được nữa, nhưng đồng chí ấy vẫn cố thì thầm nói rằng đồng chí ấy chỉ tiếc không được tham dự lễ khánh thành cối xay gió. "Tiến lên, các đồng chí - đồng chí ấy nói - Vì sự nghiệp của cuộc Khởi Nghĩa, hãy tiến lên! Trại Súc Vật muôn năm! Đồng chí Napoleon muôn năm! Đồng chí Napoleon bao giờ cũng đúng!" - Đấy chính là những lời nói cuối cùng của đồng chí ấy." 
Lúc đó thái độ của Chỉ Điểm đột nhiên thay đổi. Nó ngồi im một lúc, sau đó nhìn quanh khắp lượt rồi mới tiếp tục câu chuyện. 
Nó bảo rằng từ khi đưa Chiến Sỹ đi thì ở trại đã lan truyền những tin đồn thất thiệt. Một số con nhìn thấy chữ "Lò mổ" trên thành xe đã vội kết luận rằng Chiến Sĩ bị đưa đi làm thịt. Chỉ Điểm nói rằng nó không thể tin là các con vật trong trại lại ngu ngốc đến thế. Không thể tin, Chỉ Điểm vừa nói vừa vẫy đuôi và nhảy loạn xạ lên, là các con vật trong trại lại có thể nghĩ về lãnh tụ kính yêu, nghĩ về đồng chí Napoleon theo chiều hướng đó! Mọi việc đơn giản hơn rất nhiều. Số là ông bác sĩ thú y đã mua lại cái xe của lò mổ, nhưng ông ta chưa kịp xoá tên chủ cũ đi. Lí do chỉ có vậy thôi. 
Nghe nói thế, cả bọn đều cảm thấy yên lòng. Còn khi Chỉ Điểm tả rõ cảnh chăm sóc, cũng như những thuốc men đắt tiền mà Napoleon hạ lệnh mua để chạy chữa cho Chiến Sĩ trong những ngày cuối cùng vừa qua thì những nghi ngờ lâu nay được giải toả hẳn và nỗi buồn mất bạn vơi đi bội phần: dù sao thì Chiến Sĩ cũng được mồ yên mả đẹp rồi. 
Chính Napoleon tham dự cuộc họp vào sáng chủ nhật và đọc một bài diễn văn tưởng niệm Chiến Sĩ. Chúng ta không có điều kiện, nó nói, đưa thi hài của người đồng chí quá cố về trang trại, nhưng nó đã ra lệnh làm một vòng hoa thật lớn, hoa lấy ngay trong vườn trại và đưa đến Willingdon để đặt lên mộ Chiến Sĩ. Lũ lợn sẽ tổ chức bốn chín ngày  thật to cho Chiến Sĩ, nó hứa như vậy. Napoleon kết thúc bài diễn văn bằng cách nhắc lại hai khẩu hiệu của Chiến Sĩ: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa" và "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng". Napoleon còn bảo rằng tất cả các con vật trong trang trại nên học tập Chiến Sĩ, lấy khẩu hiệu của Chiến Sĩ làm khẩu hiệu hành động của chính mình. 
Đúng hôm tổ chức bốn chín ngày cho Chiến Sỹ thì có một cái xe chở một thùng gỗ lớn đến toà nhà chính. Tối hôm đó từ trong toà nhà vọng ra tiếng hát, tiếng tranh luận ồn ào và vào lúc mười một giờ thì người ta nghe thấy tiếng cốc thủy tinh vỡ loảng xoảng, rồi tất cả chìm vào màn đêm yên lặng. Toà nhà chính đóng cửa kín mít cho đến tận trưa hôm sau, trong khi đó lại có tin đồn rằng lũ lợn đã kiếm được tiền và mua hẳn một thùng whisky. 
Chương X 
Nhiều năm đã trôi qua. Xuân đi, đông lại, cuộc đời loài vật như bóng câu qua cửa sổ. Chỉ còn Benjamin, Bà Mập, con quạ Moses và một vài con lợn là còn nhớ được "ngày xưa", khi chưa Khởi Nghĩa. 
Muriel đã chết. Bluebell, Jessie và Pincher cũng không còn. Ông Jones cũng chết rồi, chết trong trại tế bần dành cho người nghiện. Không ai nhắc đến Tuyết Tròn nữa. Chỉ có vài con vật còn nhớ Chiến Sĩ. Bà Mập đã thành một con ngựa già béo phị, chân chậm, mắt mờ. Nó đã quá tuổi hưu hai năm, nhưng thực ra, đã có con nào được hưu trí đâu. Không còn ai nhắc đến chuyện ngăn một mảnh đất cho những con già cả nữa. Napoleon đã thành một con lợn đực to sụ, phải nặng tạ rưỡi là ít. Chỉ Điểm cũng béo lắm, mắt híp lại, gần như không trông thấy gì. Chỉ có Benjamin là vẫn như xưa, tuy râu có trắng ra và sau khi Chiến Sĩ mất thì càng tỏ ra lầm lì, ít nói hơn. 
Trại Súc Vật có thêm nhiều thành viên mới, tất nhiên là không nhiều như chúng nghĩ lúc đầu. Một số con được sinh ra ngay tại đây, đối với chúng, cuộc Khởi Nghĩa chỉ là một truyền thống mù mờ, được truyền khẩu cho nhau. Một số được mua từ nơi khác về, những con này chưa từng nghe ai nói chuyện đó trước khi đến đây. Ngoài Bà Mập, trại còn có thêm ba con ngựa nữa. Đấy là những con to, khỏe, chăm làm, tốt bụng nhưng ngu lắm. Không con nào thuộc quá chữ B. Chúng tin tưởng tuyệt đối vào Súc Sinh Kinh và những câu chuyện về cuộc Khởi Nghĩa, đặc biệt là những chuyện do Bà Mập, mà chúng coi như mẹ, kể lại; nhưng có vẻ như chúng cũng chẳng hiểu mô tê gì. 
Trang trại được tổ chức tốt và ngày một phồn vinh hơn; chúng còn mở rộng thêm bằng cách mua của Pilkington hai khu đất nữa. Cối xay gió đã hoàn thành, chúng mua được cả máy đập lúa, máy nâng hạ và còn xây được thêm nhiều toà nhà. Whymper cũng mua được cho mình một cỗ xe nhỏ. Chúng không lắp máy phát điện lên cối xay gió mà dùng nó để xay xát, nhờ thế chúng kiếm được khối tiền. Chúng lại đang xây một cối xay gió nữa, sẽ lắp máy phát điện ở đấy, chúng bảo thế. Nhưng những thứ xa xỉ như đèn điện, nước nóng, tuần làm việc ba ngày mà chúng từng mơ mộng thời còn Tuyết Tròn thì không được nhắc đến nữa. Napoleon từng tuyên bố rằng những tư tưởng đại loại như vậy là trái hoàn toàn với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Hạnh phúc chân chính, nó bảo, là lao động hăng say và sống đạm bạc, tiết kiệm. 
Trang trại giàu có thêm, nhưng ngoại trừ lũ lợn và chó ra, đời sống của các con khác thì vẫn như xưa. Cũng có thể một phần là do có nhiều lợn và chó quá. Bọn này cũng làm việc, dĩ nhiên là theo cách của mình. Chỉ Điểm giải thích không mệt mỏi rằng tổ chức và kiểm tra công tác của trại là những việc phải làm thường xuyên, liên tục. Mà những giống khác đâu có đảm đương được, việc này cần nhiều trí thông minh lắm. Thí dụ, Chỉ Điểm bảo rằng lũ lợn mất rất nhiều công sức vào việc soạn những cái gọi là "tài liệu", "dữ liệu", "báo cáo", "biên bản", "ghi nhớ". Đấy là những tờ giấy to, viết đầy chữ và sau khi viết xong thì đem vào lò đốt. Nhờ thế mà trang trại mới được phồn vinh như ngày nay đấy, Chỉ Điểm thường nói như vậy. Dù sao mặc lòng, những thứ ấy chẳng thể làm lũ chó, lợn ấy no được, mà chúng phàm ăn lắm. 
Cuộc sống của những con khác thì vẫn như xưa. Ngày chúng thường bị đói, đêm chúng ngủ trên ổ rơm, nước thì uống ngay ở dưới ao, làm việc ngoài đồng trống, mùa đông thì mất ngủ vì rét, mùa hè thì khổ vì ruồi. Thỉnh thoảng những con có tuổi cố nhớ lại xem nay đời sống của chúng có khá hơn ngay sau Khởi Nghĩa, khi chúng vừa đuổi lão Jones đi, hay không. Nhưng chúng không nhớ nổi. Không có gì cho chúng so sánh: trong đầu chúng chỉ có mỗi những số liệu của Chỉ Điểm, những con số luôn luôn chứng tỏ rằng mọi thứ đều được cải thiện, đều tốt thêm một bước mỗi ngày. Thôi thì đành vậy vả lại chúng cũng chẳng có nhiều thời gian để mà suy nghĩ lung tung. Chỉ có Benjamin già nua là khẳng định rằng nó nhớ hết, nhớ đến từng chi tiết mọi việc đã qua và biết rõ rằng chúng chưa bao giờ khổ hơn cũng chẳng bao giờ được sướng hơn, vẫn là đói, là bán mặt cho đất bán lưng cho trời, là bị loè bịp; qui luật cuộc đời vốn là như thế, nó thường bảo như vậy. 
Dù sao chúng vẫn cứ hi vọng. Hơn thế nữa, chúng còn luôn tự hào được là công dân của Trại Súc Vật. Trong nước này, mà là nước Anh hẳn hoi đấy nhé, đây là trang trại duy nhất của súc vật và do súc vật quản lí! Tất cả mọi con vật, từ những con nhỏ nhất cho đến những con mới được mua từ cách xa cả chục cây số về, đều tự hào như thế. Nhất là khi chúng nghe thấy tiếng súng nổ, khi trông thấy lá cờ xanh tung bay là tim chúng lại đập rộn rã, khi ấy, dù đang nói chuyện gì chúng cũng quay lại đề tài về những năm tháng hào hùng, về việc lật đổ lão Jones, về việc thiết lập Bảy Điều Răn và về những trận chiến đấu oanh liệt chống lũ người xâm lược. Chúng cũng không quên nhắc nhở nhau những kì vọng thuở ban đầu. Chúng tin rằng lời tiên tri của Thủ Lĩnh già về ngày thành lập Nước Cộng Hòa Súc Vật trên toàn lãnh thổ Anh quốc, ngày con người bị tống khứ khỏi sứ sở này nhất định sẽ tới. Ước mơ của chúng sẽ thành hiện thực, nhất định ngày đó sẽ tới, dù còn lâu, dù rằng tất cả những con đang sống hiện nay sẽ không được chứng kiến, nhưng ngày đó nhất định sẽ tới. Chúng cũng không quên bài "Súc Sinh Anh quốc", con nào cũng biết hát bài này, nhưng chúng chỉ dám hát thầm với nhau mà thôi. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, dù không phải tất cả ước mơ của chúng đều được thực hiện, nhưng trong thâm tâm chúng biết rằng chúng là những con vật đặc biệt. Dù chúng chưa được no, nhưng chúng không phải làm để nuôi bọn người tàn độc; dù chúng còn phải lao động vất vả, nhưng đấy là chúng làm cho chính mình. Không con nào đi hai chân, không còn quan hệ chủ tớ. Tất cả đều bình đẳng. 
Một hôm, đấy là đầu mùa hạ, Chỉ Điểm bỗng ra lệnh cho lũ cừu đi theo nó ra cánh đồng bỏ hoang bên ngoài trại, nơi có cả một rừng bạch dương non. Lũ cừu ở đó cả ngày, tha hồ nhai lá, dĩ nhiên là dưới sự chỉ đạo của Chỉ Điểm. Tối hôm đó Chỉ Điểm quay lại trang trại một mình, hôm đó thời tiết tốt nên nó bảo lũ cừu ngủ ngay ngoài đồng cho mát. Chúng ở lại đó suốt một tuần liền. Ngày nào Chỉ Điểm cũng ra với lũ cừu. Theo như nó nói thì nó đang dạy lũ cừu một bài hát mới, mà yên tĩnh thì học mới mau "vào". 
Một chiều, hôm ấy lũ cừu đã học xong và trở về rồi, trong khi cả bọn đang quay về sau một ngày lao động thì chúng bỗng nghe thấy tiếng ngựa kêu thất thanh từ phía trại vọng lại. Quá hỏang sợ, tất cả lập tức đứng như trời trồng. Đấy là tiếng kêu của Bà Mập. Nó lại kêu lên lần nữa, tất cả lập tức phóng thật nhanh vào sân trại để xem có chuyện gì. Và chúng nhìn thấy chính cái điều đã làm Bà Mập hoảng loạn. 
Đấy là một con lợn đang bước đi bằng hai chân sau. 
Vâng, chính là Chỉ Điểm đang đi. Có vẻ vụng về, dĩ nhiên rồi, một phần vì chưa quen, một phần vì quá nặng, nhưng nó vẫn giữ được thăng bằng và đi từ bên này sang tận bên kia sân. Một lúc sau thì từ cửa chính ngôi nhà cả đàn lợn bước ra, tất cả, không trừ con nào, đều đi bằng hai chân sau. Một số con bước đi một cách tự tin, một số con còn lảo đảo, giá có cái ba toong thì vững hơn, nhưng tất cả đều đi một vòng quanh sân mà không con nào bị ngã. Cuối cùng là tiếng chó sủa dữ dội, tiếng gà gáy vang rền và Napoleon bước ra, lưng thẳng tắp, dáng oai vệ, nó nhìn khắp lượt, xung quanh tíu tít bày cừu. 
Chân trước nó cầm một cái roi to. 
Xung quanh lặng ngắt như tờ. Ngạc nhiên pha lẫn hoảng sợ, lũ súc vật tụ vào một góc để nhìn đàn lợn nối nhau đi quanh sân. Thế giới đảo điên hết rồi sao? Phút hoảng loạn ban đầu rồi cũng qua và dù có sợ bầy chó, dù bao năm đã quen không dám phàn nàn, không dám phản đối, lần này chắc chắn chúng sẽ lên tiếng phản đối. Nhưng đúng lúc đó, như có hiệu lệnh, bọn cừu đồng thanh gào lên: 
"Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn!" 
Chúng tụng như thế năm phút liền, không ngưng nghỉ. Khi lũ cừu im thì đàn lợn đã vào hết trong nhà rồi, có phản đối cũng chẳng ai nghe. 
Benjamin cảm thấy như có con nào đang lấy mũi cọ vào vai mình. Nó quay đầu lại. Hoá ra là Bà Mập. Đôi mắt đã mờ của nó trông càng buồn hơn lúc nào hết. Nó khẽ ngoạm vào bờm của Benjamin và kéo ra phía đầu hồi của nhà kho lớn. Chúng đứng đó, yên lặng ngắm những dòng chữ màu trắng trên bức tường sơn hắc ín. 
"Tôi chẳng còn trông thấy gì cả - Cuối cùng Bà Mập lên tiếng - Ngay khi còn trẻ tôi cũng có đọc được chữ nào đâu. Nhưng tôi thấy hình như bức tường trông khác lắm. Bảy Điều Răn vẫn thế chứ, anh Benjamin?" 
Đây là lần đầu tiên Benjamin từ bỏ thói quen cố hữu của nó và khẽ đọc cho Bà Mập nghe. Trên bức tường chỉ còn ghi một Điều Răn duy nhất như sau: 
MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG, NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC. 
Sau đó thì ngay cả việc những con lợn đốc công mang theo roi ra đồng cũng không làm chúng ngạc nhiên nữa. Chúng cũng không ngạc nhiên khi thấy bọn lợn mua đài, rồi thảo luận kí hợp đồng đặt máy điện thoại cũng như đặt mua những tờ báo như John Bull , Tits-Bit  và Daily Mirror . Chúng cũng không ngạc nhiên khi trông thấy Napoleon mồm ngậm tẩu thuốc đi dạo trong vườn, cũng như khi thấy lũ lợn lấy quần áo của ông Jones ra diện nữa. Napoleon chọn cho mình chiếc áo khoác đen, quần ống túm, ủng da; trong khi con lợn cái mà nó thích nhất được bộ lụa tơ tằm mà bà Jones thường mặc khi đi nhà thờ, vào những ngày chủ nhật. 
Một tuần sau, buổi chiều, có rất nhiều xe cộ đi vào trại. Đấy là đại biểu các trang trại lân cận được mời đến thăm quan Trại Súc Vật. Quan khách rất ngạc nhiên khi được xem các cánh đồng, các công cụ sản xuất của trại, đặc biệt là cối xay gió. Lúc đó lũ súc vật đang nhổ cỏ trên cánh đồng trồng củ cải. Chúng làm việc chăm chỉ, ít khi ngẩng đầu lên. Chúng cũng không biết trong hai loại đó, quan khách và lợn, bọn nào đáng sợ hơn. 
Tối hôm đó có tiếng hát và tiếng cười rất to vẳng lại từ phía ngôi nhà chính. Lũ súc vật bỗng cảm thấy tò mò, muốn biết trong nhà đó đang nói chuyện gì vì đây là lần đầu tiên con người và con vật gặp nhau như những đối tác bình đẳng. Rồi không con nào bảo con nào, chúng cùng nằm xuống và im lặng bò đến gần toà nhà chính. 
Chúng hơi lưỡng lự khi bò đến cổng, nhưng Bà Mập đã tiến lên hàng đầu. Khi đến gần toà nhà thì chúng nhón gót đứng lên, những con đủ chiều cao có thể nhìn được qua cửa sổ. Bên trong, có sáu điền chủ và sáu con lợn xuất chúng nhất đang ngồi xung quanh một cái bàn dài. Napoleon ngồi ngay đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đã quen với việc ngồi ghế từ lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đã ngưng, chắc là để nâng cốc chúc mừng nhau. Một chiếc bình khá to được chuyền tay nhau và tất cả các li đều được rót đầy bia. Không ai để ý đến lũ súc vật đang tò mò nhìn qua cửa sổ. 
Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li bia, đứng dậy. Ông nói rằng sau đây ông sẽ đề nghị nâng li chúc mừng. Nhưng ông xin được nói vài lời trước đã. 
"Thật là vô cùng phấn khởi - ông nói - đối với ông, cũng như đối với tất cả những người đang có mặt ở đây hôm nay, vì giai đoạn nghi kị và hiểu lầm đã chấm dứt". Đã có thời kì, dĩ nhiên là ông cũng như những người có mặt ở đây hôm nay không hề muốn như thế, nhưng rõ ràng là đã có những thời kì mà những người xung quanh nhìn các chủ nhân đáng kính của Trại Súc Vật với một thái độ, không thể nói là thù địch, nhưng với một sự thiếu thiện cảm. Đáng tiếc là đã xảy ra một vài va chạm, đã lưu truyền một vài quan niệm sai lầm. Có ý kiến cho rằng một trang trại của lợn và do lợn quản lí là một điều bất bình thường và không nghi ngờ gì rằng trại này sẽ tạo ra những ảnh hưởng không hay cho những trang trại xung quanh. Nhiều điền chủ, phải nói là khá nhiều, không hề điều nghiên, đã vội kết luận rằng ở đây sẽ có nhiều hành vi quá trớn và thiếu kỉ cương. Họ lo lắng về ảnh hưởng của trang trại này không chỉ đối với súc vật mà còn đối với cả những người làm thuê cho họ nữa. Nhưng tất cả những mối ngờ vực đó đã chấm dứt. Hôm nay, ông và các đồng nghiệp đã được mời thăm quan trang trại, họ đã xem xét rất kĩ, họ đã tìm thấy gì? Không chỉ công nghệ hiện đại nhất mà cả kỉ cương, trật tự của trại đều xứng đáng cho các trang trại khắp nơi học tập. Ông tin không nói sai khi bảo rằng những loài súc vật hạ đẳng ở đây làm việc nhiều hơn nhưng lại nhận được khẩu phần ít hơn so với các trại khác trong khu vực. Tóm lại, ông và các đồng nghiệp đã trông thấy ở đây nhiều điều đáng phải áp dụng ngay. 
Ông nói xin chúc tình hữu nghị giữa Trại Súc Vật và các trại khác đã, đang và sẽ tồn tại mãi mãi. Quyền lợi của loài lợn và của loài người không hề và không được mâu thuẫn nhau. Cả hai đều có chung mục đích và có chung những khó khăn. Vấn đề sức lao động thì ở đâu chả giống nhau, có phải thế không? Đến đây thì rõ ràng là Pilkington định nói một câu khôi hài đã chuẩn bị sẵn từ lâu, nhưng buồn cười quá, không thể thốt thành lời. Sau một lúc cố gắng đè nén tình cảm, Pilkington nói một câu như sau: 
"Nếu các bạn phải xử lí những loài vật hạ đẳng, thì chúng tôi, chúng tôi cũng phải xử lí các giai cấp hạ đẳng." 
Đáp lại câu nói ý vị  đó là tiếng cười tưởng muốn vỡ nhà, Pilkington lại chúc mừng lũ lợn về việc ăn ít, làm nhiều và kỉ cương, nề nếp của trại. 
Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi người cùng đứng dậy, đổ đầy bia vào li. 
"Thưa các ngài!", Pilkington kết thúc bài diễn văn như vậy, "Thưa các ngài, xin các ngài cùng nâng cốc chúc Trại Súc Vật ngày càng thịnh vượng." 
Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm. Napoleon khoái bài diễn văn đến nỗi đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống. Khi tiếng vỗ tay đã dịu xuống, thì Napoleon, lúc đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó cũng xin được phát biểu vài câu. 
Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi ngay vào thực chất vấn đề. Napoleon bảo rằng nó cũng rất mừng là đã thanh toán hết mọi hiểu lầm. Trước đây từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế lực thù địch tuyên truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi những ý tưởng phá hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho chúng ý định kích động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu khống, bịa đặt từ đầu tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay cũng như trong quá khứ, là được sống trong hoà bình và có quan hệ làm ăn bình thường với những người láng giềng. Trại mà nó được vinh dự lãnh đạo, Napoleon nói thêm, là một loại hợp tác xã. Tất cả những thứ nằm dưới sự quản lí của nó là tài sản chung của cả loài lợn trong trại. 
Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ đã được giải toả và những thay đổi gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau hơn nữa. Cho đến nay các con vật trong trang trại có một thói quen không hay là gọi nhau bằng "Đồng chí". Thói quen này sẽ bị bãi bỏ. Còn một thói quen nữa, không biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành hàng ngũ trong sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng bị bãi bỏ và cái đầu heo đã được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đã có dịp trông thấy lá cờ xanh tung bay. Nếu quả họ đã trông thấy thì chắc chắn là họ phải nhận ra rằng biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đã bị xóa bỏ rồi. Từ nay trở đi lá cờ sẽ chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi. 
Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại chút xíu bài diễn văn vô cùng súc tích và đầy thiện ý của ngài Pilkington. Trong suốt bài diễn văn, ngài Pilkington đã gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài Pilkington dĩ nhiên không thể biết, vì hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon tuyên bố hủy bỏ tên Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang, cần phải gọi như thế vì từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế. 
"Thưa các ngài!", Napoleon kết luận, "Tôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc mừng, nhưng với một chút xíu sửa đổi. Xin các ngài rót đầy cốc đi đã. Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang ngày càng thịnh vượng!" 
Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn cốc. Nhưng những con vật đang đứng bên ngoài thì thấy như đang xảy ra một chuyện kì lạ. Tại sao mặt những con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục mờ của Bà Mập hết nhìn con này lại nhìn sang con khác. Con thì cằm có đến năm ngấn, con lại có bốn, con thì có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay đổi nhanh thế nhỉ? Tiếng vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở, những con đứng xem bên ngoài lục tục bò trở ra. 
Nhưng chúng vừa bò cách khoảng hai mươi mét thì tất cả cùng dừng lại. Có tiếng hò hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà. Chúng lập tức quay lại và tiếp tục nhìn qua cửa sổ. Cuộc tranh cãi đang hồi quyết liệt. Có tiếng hét, tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi kị. Nguyên nhân cuộc tranh cãi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con đầm pích cùng một lúc. 
Mười hai cái miệng tức giận cùng lên tiếng, có trời mới phân biệt được ai với ai. Bọn súc vật không còn để ý đến mặt mấy con lợn bên trong nữa. Chúng nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa. 
Tháng 11 năm 1943 - tháng 2 năm 1944. 
- Hết - 
Dịch lần đầu ngày 28 tháng 12 năm 2003, góp phần kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell.
Nguồn: http://www.online-literature.com/orwell/animalfarm/